TINH THẦN TRỢ THẾ MỚI VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI MỚI

 

Các Thế Giới Thứ Ba và Thứ Tư.

Hố ngăn cách giữa miền Bắc đã phát triển và miền Nam đang phát triển ngày càng mở rộng. Song song với sự dư dật của cải và các dịch vụ ở một số phần của thế giới, đặc biệt ở miền Bắc phát triển, là tình trạng lạc hậu không thể chấp nhận ở miền Nam, mà phần lớn nhân loại lại đang sống trong phần địa chính lạc hậu này. Khi chúng ta nhìn vào một phạm vi rộng lớn các lãnh vực khác nhau tại phần đất này: việc sản xuất và phân phối lương thực, chế độ vệ sinh, việc chăm sóc sức khoẻ và nhà ở, nguồn nước uống, điều kiện làm việc, đặc biệt đối với phụ nữ, mức tuổi thọ trung bình và các thông số xã hội và kinh tế, bức tranh toàn thể thật là ảm đạm, dù chúng ta chỉ xét riêng nó hay đối chiếu với những số liệu tương đương về những quốc gia phát triển cao trên thế giới. (16)

Ngay cả ở những nước đã phát triển, hàng triệu người của cái gọi là "thế giới thứ tư" bị gạt ra ngoài những phúc lợi xã hội bởi những lực lượng kinh tế và xã hội: đó là những người đàn ông, đàn bà và trẻ em sống trong cảnh nghèo khổ và khốn cùng, họ "không chỉ sống trong những điều kiện ngặt nghèo về thể lý và tâm lý, họ còn bị mất quyền công dân theo luật pháp, vì họ không được sự bảo vệ nào của luật pháp hay xã hội." Những ví dụ hiển nhiên nhất là những người thất nghiệp, những thanh niên không hy vọng kiếm được việc làm, những đứa trẻ đường phố bị khai thác và bỏ mặc cho số mệnh, những người già sống trong cảnh cô đơn và không được sự bảo vệ nào của xã hội, những người mới ra tù, những nạn nhân ma tuý, những người mắc bệnh AIDS, những người nhập cư nói chung và những người nhập cư bất hợp pháp nói riêng. . . tất cả đều là những con người bị kết án sống một cuộc sống cùng khổ, bị gạt ra ngoài lề xã hội, và có đời sống văn hóa bấp bênh. (17)

Liên đới và hợp tác.

Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô là một sứ điệp tự do và một sức mạnh giải phóng. Giải phóng chủ yếu và trên hết là giải phóng khỏi tình trạng nô lệ triệt để của tội lỗi. Điều này một cách lôgích kéo theo sự giải phóng khỏi nhiều hình thức nô lệ khác về văn hóa, kinh tế, chính trị, và xã hội, tất cả rốt cuộc đều phát sinh từ tội lỗi và là những cản trở khiến con người không thể sống xứng với nhân phẩm. (18) "Tình liên đới là một nhân đức Kitô giáo cao vời.Nó thể hiện sự chia sẻ những của cải thiêng liêng ngay cả trước những của cải vật chất."Nguyên tắc liên đới là một đòi hỏi trực tiếp của tình huynh đệ nhân bản và Kitô hữu.Liên đới được biểu hiện trên hết qua việc phân phối của cải và trả công cho công việc đã làm.

Các vấn đề kinh tế-xã hội chỉ có thể giải quyết nếu con người thể hiện mọi hình thức liên đới: liên đới giữa người giàu với người nghèo, nhưng cũng giữa người nghèo với nhau; liên đới giữa người lao động và chủ, nhưng cũng giữa những người lao động với nhau; liên đới giữa các quốc gia và các dân tộc. Tình liên đới quốc tế là một đòi hỏi đạo đức. Nói rộng ra, hoà bình trên thế giới tuỳ thuộc vào tình liên đới. (19)

Hợp tác và các người hợp tác: quyền lợi và nghĩa vụ.

Văn kiện của Tổng Tu Nghị LXIII nêu lên khá rõ những nghĩa vụ chính của các Tu huynh và Cộng tác viên Dòng thánh Gioan Thiên Chúa. (20) Sau đây là một số nghĩa vụ được nêu lên. Chúng ta phải:

- Sống nhân đạo nơi mình để giúp người khác sống nhân đạo: để là những chứng nhân cho sự thánh thiện theo tinh thần triệt để của Các Mối Phúc Thật theo gương thánh Gioan Thiên Chúa giữa người nghèo, là một người tôi tớ và một tiên tri.

- Thăng tiến mọi chiều kích của con người: chăm sóc người đau yếu, ân cần tiếp đón người bệnh mãn tính, quan tâm đặc biệt tới những người yếu đuối và nghèo khổ nhất, ở bên cạnh những người đang sống những giờ phút cuối cùng cuộc đời trầân thế của họ, biến việc chăm sóc và điều trị thành những hành vi rao giảng tin mừng.

- Truyền bá nền văn hóa trợ thế của chúng ta thay cho "nền văn hóa thù nghịch" hiện đang gia tăng sự thống trị không chỉ trên những mối quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia và chủng tộc, mà cả những mối quan hệ giữa những con người với nhau. Chúng ta phải chứng tỏ một khả năng mới cho sự chấp nhận và tiếp đón, tạo lập những cộng đồng đức tin cởi mở cho tất cả những ai có quan hệ với chúng ta: những bệnh nhân, thân nhân của họ, những Cộng tác viên và bạn hữu.

Mỗi trung tâm phải là một Hội Thánh nhỏ tại gia có khả năng tạo sự hiệp thông Kitô giáo trong đó mọi người cùng chia vui sẻ buồn với nhau. Ngày nay hơn bao giờ hết, các Tu huynh Dòng Trợ Thế thánh Gioan Thiên Chúa được kêu gọi trở nên chứng nhân của Thiên Chúa "Đấng Yêu Sự Sống" (Kn 11, 26) trong mọi quan hệ nhân bản của mình, hoà mình với dân tộc của mình và qua sự hiện diện của mình làm cho nơi mình sống trở thành một nơi tiếp đón và làm con người trở thành thực sự con người.

- Đề cao và phát huy những đức tính của các nhân viên và thiện nguyện viên cùng làm việc với Dòng và giúp họ dấn thân vào việc phục vụ và truyền bá Tin Mừng cho những người sống trong các trung tâm của chúng ta và trong các biến cố đặc biệt trong đời sống của Cộng đoàn.

- Đào tạo những chuyên gia chấp nhận triết lý và những giá trị của Dòng để họ có thể đảm nhiệm những chức năng quản lý và lãnh đạo trong các trung tâm của chúng ta.

- Đề cao và hành động theo các nguyên tắc về công bằng xã hội.

Các Cộng tác viên của chúng ta phải:

- Thực hiện các bổn phận chuyên môn của họ phù hợp với những nguyên tắc của tinh thần trợ thế, được diễn tả chủ yếu qua việc chăm sóc nhân đạo.

- Chứng tỏ ước muốn tôn trọng hay thực hiện tinh thần Tin Mừng.

Việc phục vụ tự nguyện: cho tự nguyện và xác định căn tính.

Người tình nguyện là người mà, ngoài các bổn phận do công việc và bậc sống của mình, dâng hiến một cách liên tục và vô vị lợi một phần thời gian của mình cho các hoạt động không phải vì lợi ích bản thân hay các đồng sự của mình (khác với trong các hiệp hội) nhưng vì lợi ích của người khác hay những lợi ích tập thể của xã hội, theo một kế hoạch tự nó không được coi là mục đích (khác với đức bác ái) nhưng nhằm khử trừ hay thay đổi những nguyên nhân gây ra sự nghèo khổ và sự ruồng bỏ trong xã hội. (21)

Triết lý của chúng ta hoàn toàn giống triết ý của mọi hình thức phục vụ tình nguyện khác. Chỉ có một khác biệt duy nhất là những điều cơ bản cho mọi người chúng ta thì trở nên chuyên biệt trong trường hợp này vì đây là một hoạt động Trợ thế và xã hội được thực hiện trong các trung tâm của Dòng, theo tinh thần thánh Gioan Thiên Chúa. Trong việc phục vụ tình nguyện của chúng ta, phải có:

Nguyên tắc tự nguyện: các người tình nguyện thuộc về cùng một tổ chức, và tự ý gia nhập tổ chức này, vì họ xin gia nhập;

Nguyên tắc cho một cách tự nguyện: sự cống hiến phát sinh từ một nhu cầu nội tâm, một sự dấn thân cá nhân mà không có bó buộc nào từ bên ngoài;

Nguyên tắc liên đới: phát sinh từ nhu cầu muốn hiện diện trong cảnh thiếu thốn của người khác, tỏ lòng thiện cảm với họ và chấp nhận những thiếu thốn của họ;

Nguyên tắc bổ sung: đề ra những mục tiêu mà xã hội không thể hoàn thành một mình, làm xã hội thêm phong phú và nhờ đó cổ võ công bằng xã hội;

Nguyên tắc toàn vẹn nhân cách: ý hướng hầu như luôn luôn là cho đi, nhưng nhiều khi chúng ta thấy có những người quan tâm hơn tới việc họ được lợi lộc gì trong đó;

Nguyên tắc chuẩn bị: đòi hỏi sự huấn luyện và chuẩn bị thích hợp để họ có  những hiểu biết thực tiễn cần thiết, chiều kích tông đồ và những giá trị của Dòng chúng ta, và khả năng tỏ ra thoải mái trong Dòng trong mọi hoàn cảnh;

Nguyên tắc hợp tác: hoạt động dựa trên cơ sở phối hợp, hình thành một tập thể không có cá nhân chủ nghĩa;

Nguyên tắc Tin Mừng: vì việc phục vụ tự nguyện của chúng ta không phân biệt giáo phái, nên nó dựa trên Tin Mừng theo cung cách mà thánh Gioan Thiên Chúa đã sống sự tận tuỵ đối với người nghèo, người bệnh tật và người đau khổ. Các nơi mà chúng ta thực hiện phục vụ tự nguyện là những trung tâm có các giáo phái khác nhau: việc phục vụ tự do và sự đồng hóa với đặc sủng của Dòng là hai yếu tố nền tảng của việc phục vụ tình nguyện của chúng ta. (22)

Rao Giảng Tin Mừng, Hội Nhập Văn Hóa và Sứ Mạng

Toàn cảnh.

Rao giảng Tin Mừng là ơn gọi của Hội Thánh, và làm nổi bật căn tính sâu xa nhất của Hội Thánh. Hội Thánh tồn tại là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là làm chứng tá, giảng dạy và loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu. Cốt lõi và tâm điểm của Tin Mừng này là ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo, là hồng ân của Thiên Chúa để giải phóng con người khỏi tất cả những gì áp bức, và trên hết là sự giải phóng khỏi tội lỗi. (23) Việc rao giảng Tin Mừng bắt nguồn từ sứ mạng truyền giáo mà chính Chúa Giêsu ủy thác cho chúng ta: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. . . Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,18-20; xem Mc 16,15-18; Lc 24,46-49; Ga 20,21-23).

Để hoàn thành sứ mạng này, Tin Mừng phải được đón nhận, nhập thể, "chuyển dịch" (mà không phản bội) thành những nền văn hóa khác nhau. (24) Không thể có rao giảng Tin Mừng mà không có hội nhập văn hóa. Sự phân cách giữa Tin Mừng và văn hóa chắc chắn là thảm kịch lớn nhất của thời đại chúng ta, cũng như nó đã từng là như thế trong những thời đại khác. (25) Hiện tượng tục hóa trong thực tế cũng có nghĩa là sự thiết lập một nền văn hóa vô tín ngưỡng như chúng ta đã nói ở trên, đặt nền trên ý tưởng rằng thế giới là tự tại, và mọi khẳng định về sự siêu việt đều là vô nghĩa về phương diện văn hóa và xã hội.

Trong một tình hình như thế, những ai muốn trở thành Kitô hữu mà không phải từ bỏ thời đại của mình, cũng như không phải cắt đứt với nền văn hóa mà mình đang sống, thì chỉ có cách là phải ra sức đưa Kitô giáo hội nhập vào những nền văn hóa mà thời đại mới đã tạo ra. Hội nhập văn hóa cho phép chúng ta đưa Tin Mừng vào trong mỗi nền văn hóa, nhờ đó chúng ta góp phần làm cho phong phú sự nhập thể lịch sử của Tin Mừng.

Có nghĩa là khi Tin Mừng được nhập thể một cách cụ thể, nó sẽ chịu đựng những sự biến đổi mãnh liệt so với những hình thức nhập thể của nó trước đó. Bằng cách này, hội nhập văn hóa giúp chúng ta có thể hiểu và biến đổi "nhờ sức mạnh của Tin Mừng, các tiêu chuẩn phán đoán của con người, việc thẩm định giá trị, các mối quan tâm, các dòng tư tưởng, các nguồn cảm hứng và các mẫu đời sống, khi chúng đi ngược lại Lời Chúa và kế hoạch cứu rỗi." (26)

Khi thực hiện đúng đắn, việc hội nhập văn hóa phải được thúc đẩy bởi hai nguyên tắc: bảo đảm các nền văn hóa khác nhau phải phù hợp với Tin Mừng, và bảo đảm sự hiệp thông với Hội Thánh Toàn Cầu. (27)

Rao giảng Tin Mừng, hội nhập văn hóa, và sứ mạng của Dòng.

Con người thời nay tin vào những chứng nhân hơn là những thày dạy, vào kinh nghiệm hơn là học thuyết, vào đời sống và sự kiện hơn là lý thuyết. (28) Trong thế giới này, Dòng chúng ta có một vị trí đặc biệt ưu tiên đối với việc rao giảng Tin Mừng và hội nhập đức tin, chính là vì Dòng đang hiện diện tại rất nhiều nền văn hóa, tại 46 quốc gia, và trên cả năm châu lục. Nền văn hóa kỹ thuật, tuy có thể là nền văn hóa đối chọi nhất với các giá trị Kitô giáo, nhưng lại rất nhậy cảm trước những chứng tá sống động của chúng ta trong việc dấn thân phục vụ con người.

Đặc sủng của Dòng đòi buộc chúng ta sự dấn thân trọn vẹn này, vì sứ mạng của chúng ta chính là sự thăng tiến của mọi người xét trên mọi quan điểm: chăm sóc người đau yếu, ân cần tiếp đón người bệnh mãn tính, quan tâm đặc biệt tới những người yếu đuối và nghèo khổ nhất, ở bên cạnh những người đang sống những giờ phút cuối cùng cuộc đời trần thế của họ.

Chỉ khi sống trung thành với đặc sủng, chúng ta mới có thể rao giảng Tin Mừng và hội nhập văn hóa cho thế giới kỹ thuật, là thế giới của nền văn hóa thù nghịch đang thách thức nền văn hóa của tinh thần trợ thế mới.

Câu hỏi chúng ta sẽ phải trả lời trong tương lai là làm thế nào chuyển các hành vi chăm sóc của chúng ta thành các hành vi rao giảng Tin Mừng đích thực, làm thế nào biến đổi những nơi chúng ta đang hoạt động để trở thành những nơi rao giảng Tin Mừng đầy ý nghĩa. Đối với chúng ta, thăng tiến nhân bản và rao giảng Tin Mừng phải thuộc về một thực thể duy nhất không phân chia, bởi vì "ở đâu không có đức bác ái, thì ở đó Chúa không hiện diện, dù rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi." (29)

CHÚ THÍCH CHƯƠNG 4

(1)     VATICANÔ II, Gaudium et Spes, (GS) §27.

(2) Khái niệm về phẩm giá con người và quyền con người liên kết mật thiết với nhau trong Tuyên Ngôn Thế Giới vềâ Nhân Quyền (1948); trong Công Ước Quốc Tế về các Quyền Kinh Tế, Xã Hội, và Văn Hóa (1966); trong Công Ước Quốc Tế về các Quyền Công Dân và Chính Trị (1966); và mới đây tại Hội Nghị về Quyền Con Người trong Y khoa sinh học (1997): mặc dù những Tuyên ngôn này không minh nhiên định nghĩa nhân phẩm là gì, hay nó dựa trên cơ sở nào, nhưng tất cả đều nhìn nhận rằng nhân phẩm thuộc về bản tính con người và cũng nhìn nhận rằng những quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở của tự do, công lý và hoà bình trên thế giới.

(3) TỔNG TU NGHỊ LXIII, Việc Rao Giảng Tin Mừng Mới và Tinh Thần Trợ Thế Mới Trước Thềm Thiên Niên Kỷ III, Bogotá, 1994, §5.6.1.

(4) Tổ chức Y tế Thế giới WHO gọi sự mất hay kém hoạt động của một cơ cấu giải phẫu học hay một chức năng thể lý hay tâm lý là một sự khiếm khuyết. Một khuyết tật là sự giảm thiểu hay mất khả năng thực hiện một hoạt động theo cách thức và với những kết quả bình thường. Sự suy yếu là một điều bất lợi mà một người mắc phải vì một sự khiếm khuyết hay vì một khuyết tật hạn chế hay cản trở người đó thực hiện những hoạt động lẽ ra là bình thường đối với người ấy khi xét về tuổi tác, phái tính, văn hóa và xã hội. (Alastair Anderson, Simplemente otro ser humano, Salud Mundial, tr. 34, Tháng 1, 1981: 6)

(5) GIOAN PHAOLÔ II, Evangelium Vitae (EV), §5.

(6) Như trên, §§64-65.

(7) PHAOLÔ VI, Octogesima Adveniens §21: GIOAN PHAOLÔ II, EV §§27 và 42.

(8)     Việc Rao Giảng Tin Mừng Mới và Tinh Thần Trợ Thế Mới, §5.6.3

(9) Hiệp Hội Y Học Thế Giới: Dự Thảo Tuyên Ngôn Cổ Võ việc Chăm Sóc Y Tế 10.75/94 Tháng 8, 1994.

(10) Như trên.

(11) Việc Rao Giảng Tin Mừng Mới và Tinh Thần Trợ Thế Mới, §3.6.3

(12) EV, §15. . .

(13) EV, §44.

(14) GIOAN PHAOLÔ II, Centesimus Annus §§40; 20; 32.

(15) MARCHESI PIERLUIGI, Humanisation 1981.

(16) GIOAN PHAOLÔ II, Sollicitudo Rei Socialis, §14.

(17) Thư của Hồng Y CARLO MARIA MARTINI, The Pastoral Biennium 1991-1993.

(18) HUẤN THỊ CỦA THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tự Do Kitô Giáo và Giải Phóng, Rôma 1986.

(19) CCC 1939-1942

(20) Việc Rao Giảng Tin Mừng Mới và Tinh Thần Trợ Thế Mới, §4.4.

(21) CARITAS. CM. Del Carmen Furés: El voluntariado en nuestra sociedad en Labour Hospitalaria 1985; 1984: 206.

(22) PILES F. PASCUAL, Origen y trayectoria del Voluntariado en la Orden Hospitalaria de San Juan de Dios; Congreso Nacional de Voluntarios de San Juan de Dios, 18-20 tháng 10, 1995.

(23) PHAOLÔ VI, Evangelii Nuntiandi (EN) §9, 14.

(24) Văn hóa là cách thức mà con người sống, suy nghĩ, cảm thấy, tự tổ chức bản thân mình, vui mừng và chia sẻ đời sống. Mọi nền văn hóa đều có một hệ thống giá trị nền tảng, hệ thống ý nghĩa, thế giới quan, được diễn tả ra bên ngoài bằng ngôn ngữ, hành vi, biểu tượng, nghi thức, và lối sống.

(25) Như trên §20: Gaudium et Spes, §43.

(26) EN, §19.

(27) Xem GIOAN PHAOLÔ II, Redemptoris Missio, §54.

(28) Nt., §42.

(29) Thánh GIOAN THIÊN CHÚA, Thư gửi Luis Bautista §15. Xem thêm Việc Rao Giảng Tin Mừng Mới và Tinh Thần Trợ Thế Mới, 4.3.

       

TRÍCH HIẾN CHƯƠNG TRỢ THẾ