Á Thánh Eustace Kugle, O.H
TINH THẦN TRỢ THẾ PHI THƯỜNG.
Tác giả Jose Luis Repetto và Felix Lizaso, O.H
Lời Giới Thiệu
Đây là cuốn phiên bản tíếng anh thứ hai “ Thánh Eustace Kugle – Tinh Thần Trợ Thế Phi Thường - được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Tây Ban nha, nói về một tu huynh Gioan Thiên Chúa do một chuyên viết tiểu sử các thánh đó là linh mục Jose Luis Repetto, chánh xứ Jeres de la Frontera, đồng thời là một nhà tư vấn lịch sử cho nhà xuất bản Công Giáo BAC. Cuốn tiểu sử này gồm 13 chương tóm tắt tiểu sử thánh nhân đồng thời thêm vào mục biên niên sử cuộc đời vị Thánh và tiến trình phong thánh cho ngài.
Thánh Eustce Kugler chào đời tại Đức, là người có dáng vẻ đặc biệt về tài ngoại giao và phán đoán chính chắn, ngài thể hiện mối tương quan cá nhân rất tốt trong suốt khoảng thời kỳ chiếm đóng kinh hoàng của Phát xít Đức do Hitler và cơ quan mật vụ Gestapo. Ngài biết cách duy trì mối quan hệ luôn tốt đẹp và nhất là ngài quyết định không thể bỏ qua những tiêu chuẩn, chuẩn mực méo mó và thất đức của chủ nghĩa phát xít và không bao giờ chấp nhận hoặc theo sự điều khiển của họ để chống lại Thiên Chúa Giáo.
Ngài đặt Sự tín thác và kết hợp với Thiên Chúa qua cầu nguyện liên lỉ, điều này được ngài thể hiện qua thái độ trong nếp sinh hoạt giao tiếp hàng ngày, tương tự như vậy, tinh thần trợ thế, tình huynh đệ và đặc sủng trợ thế luôn là nguồn động lực của ngài, chỉ cho ngài biết và chấp nhận mọi hồng ân luôn luôn đồng hành với ngài. Đặc biệt trong suốt khoảng thời gian kinh hoàng và cách đối xử tàn bạo do Gestapo đối xử với ngài.
Linh mục Ambrosio Esker, OP, phát ngôn viên của Tòa Thánh trong tiến trình phong thánh, đã khẳng định “vấn đề phong thánh cho ngài nằm ở thực tế của lịch sử chế độ Phát xít . . . sự tuyên truyền của chủ nghĩa Phát xit cố gắng xoay chuyển tình thế. Điều này sẽ dẫn đến phá bỏ hoàn toàn nền đạo đức kito giáo của từng cá nhân lôi kéo, trừ khử tận gốc rễ ảnh hưởng của Giáo Hội công giáo trên họ.
Không nghi ngờ gì nữa tinh thần thánh thiện cao vời, và thái độ tích cực, cùng với đời sống cầu nguyện liên lỉ của Eustace Kugler như một thần học gia viết “ Con người sống trong Thiên Chúa sẽ tỏ lộ ra đời sống hàng ngày bằng những đức tính anh hùng”. Điều này được Eustace Kugler thể hiện ra tinh thần trợ thế đã được công nhận “ngài phục vụ không biết mệt mỏi” “con người tràn đầy tinh thần trợ thế” và “nhân từ và ngoan cường”.
Felix Lizaso Berruete, OH
Thỉnh nguyện viên tiến trình phong thánh.
Chương I Chào Đời Và Thời Thơ Ấu
Eustace Kugler chào đời ngày 15 tháng 7 năm 1867 ở làng Neuhaus thuộc thành Phố Nittenau thuộc giáo xứ Ratisbon, thời đó người ta gọi là vương quốc Bavaria. Cha mẹ đặt tên thánh cho bé trong ngày rửa tội là Giuse
Song thân: cha, Michael Kugler và Mẹ, Ana Maria Schuster. Họ có với nhau 6 người con 4 trai và hai gái; Giuse là con út trong 6 anh chị em. Ông bà sở hữu nhà và một khu đất bên cạnh dùng là phương kế sinh nhai. Cha mẹ Giuse là người sùng đạo và nuôi dạy con cái theo tinh thần đạo đức kito giáo truyền thống , họ nỗ lực hết sức để nuôi dạy con cái họ ăn học đến nơi đến chốn. Tuy nhiên khi người cha qua đời ngày 31 tháng 3 năm 1874 chỉ có người con trai cả được tiếp tục đến trường học hết cấp hai còn những người con khác chỉ học hết tiểu học. Người mẹ góa tần tảo nuôi gia đình để con cái không thiếu thốn nhưng cuộc sống đạm bạc hơn trước.
Năm 6 tuổi Eustace Kugler đi bộ đến trường học hàng ngày trường học thị trấn cách nhà 4 km, cậu là một học sinh khá. Người Chị Catherine hơn cậu 6 tuổi có trách nhiệm trông coi cậu em út.
Có lẽ Giuse chừng 10 hay 12 tuổi, cậu được rước lễ vỡ lòng, có lẽ ở nhà thờ xứ Our Lady’s Nativity trước đây cậu nhận lãnh bí tích thanh tẩy. Ngày cậu chịu phép thêm sức cũng không có dữ liệu chắc chắn có lẽ cậu được lãnh nhận bí tích thêm sức cùng với 465 trẻ khác vào ngày 21 tháng 7 năm 1880 do giám mục Senestrey giáo phận Ratisbon.
Người mẹ đã truyền lại, ảnh hưởng cho cậu một niềm tin của người tín hữu trở thành cá tính của cậu. Cậu là một học sinh khá ở trường phổ thông đồng thời cậu cũng thấm nhuần những những bài học giáo lý công giáo trong nhà xứ.
Khi cậu bị nghỉ học, Giuse đi Munich để học việc, chúng ta sẽ đề cập vấn đề này sau. Ở Munich cậu tham gia vào lớp học ngày chủ nhật, môi trường này dành cho giới trẻ đã đi làm việc kế sinh nhai suốt cả tuần. Trong môi trường học tập này lớp học củng cố thêm vấn đề tôn giáo và nhân bản cho cậu đồng thời cũng là môi trường , sân chơi trong ngày nghỉ họ tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao cho các trẻ vị thành niên.
Khi anh trai cả Franciskus tốt nghiệp trung học, được nhận vào làm ở cơ quan bưu điện, rồi lập gia đình và định cư luôn ở Munich. Người anh thứ hai là Gioan tiếp quản tài sản của gia đình, hai người anh nữa đi theo nghề kinh doanh. Giờ đây Giuse rời làng quê nơi chôn nhau cắt rốn.
Chương II Học Việc Ở Munich
Mẹ cậu muốn cậu ở với người anh trai cả Franciskus ở Munich, và Giuse học việc thợ máy. Chị Catherine cũng làm việc ở cùng nơi cậu học việc , công việc là chị nuôi.
Munich là một thành phố đẹp, nhưng cậu trai trẻ Kugler lại có cảm nghiệm trái ngược giữa vẻ đẹp mỹ miều của thành phố và tình trạng nơi cậu học và làm việc. Các người học việc là nơi cho những người công nhân lớn hơn trêu chọc, chửi bới mắng nhiếc, đối xử với họ một cách tồi tệ. không còn kiểu trêu đùa, đùa cợt thô bạo nào họ không mang ra đối xử với những người học việc, và đặc biệt hay xảy đến cho những cậu trẻ coi có vẻ ngây thơ trong trắng mới từ nhà quê ra tỉnh. Một trong những cách đối xử tệ hại nhất là làm việc nhiều nhưng trả lương rất bèo với mức lương chỉ vừa đủ cho chi phí sinh hoạt cuộc sống. Như đã nói phía trên, người chị của Giuse , chị Catherine cũng làm việc là người nấu ăn nên Giuse không bị đói. Qua sự đùm bọc của người anh cả và bà chị nên Kugler định cư ở Munich.
Giuse không để cho cuộc sống đô thị làm cho cậu chao đảo, cậu luôn thực hiện đời sống tôn giáo và tránh xa những lời trêu chọc không đạo đức và bất cứ lời phỉ báng tôn giáo nào xuất phát từ những người thợ lớn tuổi hơn trong xưởng làm việc. Và điều tiên quyết cậu không bao giờ làm bạn với phường, nhóm, chống đối tôn giáo.
Cậu biết tin Mẹ bà Ana Maria bị bệnh nặng ở quê nhà, Neuhaus. Chị gái Magarete và người chồng Gioan Spizer mang bà về ở chung với họ ở làng gần bên, làng Reichebach để có thể chăm sóc tốt hơn cho bà. Một thời gian ngắn sau này chị Catherine trở thành điều dưỡng chăm sóc cho bà khi Magaret mắc bận chăm sóc con cái của cô. Thật là khốn khó cho Giuse khi mất đi một nguồn hỗ trợ từ chị Catherine.
Rồi một sự kiện rủi ro khác làm thay đổi đời sống của Giuse, vì quan điểm đời sống tôn giáo của Giuse làm cho một người thợ lớn tuổi hơn không thích cậu nên đối xử với cậu không ra gì. Khi hai người cùng đang làm việc trên một giàn giáo, người công nhân lớn tuổi nói lải nhải vào tai người thợ trẻ, người thợ trẻ cố lảng tránh đi chỗ khác nhưng chẳng may trượt chân rơi xuống đất cách mặt đất chừng 4 mét. Kết quả là cậu bị gẫy xương chân nghiêm trọng và mắt cá chân bị vẹo đi.
Giuse được đưa vào bệnh viện chữa trị phẫu thuật, cậu không đổ lỗi cho bất cứ ai gây nên sự cố đáng tiếc này. Xương chân bị gẫy lành một cách nhanh chóng, nhưng mắt cá nhân lành chậm hơn và cậu phải năm viện ngoài dự kiến. Anh trai Franciskus đến bệnh viện thăm em thường xuyên khi điều kiện công việc cho phép. Tuy nhiên, nằm một thời gian dài trong bệnh viện lại là một thời gian cô đơn đối với cậu trai trẻ. Nhiều tháng trôi qua, các bác sĩ cho biết một vài chỗ bị hoại tử và quyết định cắt bỏ từ mắt cá chân. Giuse sự cầu nguyện lâu giờ trong nhà nguyện bệnh viện trông cậy vào Thiên Chúa. Một điều dưỡng nói rằng họ luôn thấy cậu cầu nguyện ở đây.
Cuối cùng, bác sĩ quyết định không thiết đoạn chân của cậu và cho dù vết thương vẫn chưa lành, cậu được cho xuất viện. Vì không muốn làm phiền anh trai cả nên cậu quyết định trở về sống với mẹ ở Reichebach.
Chương III Cậu Trai Trẻ Nhiệt Tình.
Giuse trở về Reichebach sống cùng trong gia đình với mẹ và gia đình người chị Magaret và cậu giúp công việc nhà. Trong suốt mùa đông Giuse và một người bạn là Liesel mang cơm trưa cho cha của Liesel, họ những tiều phu được nhà nước thuê cắt cây. Cả hai phụ thu gom các cành cây cắt ra từ thân cây lớn. Giuse nhận thấy sự đi lại khó khăn của mình công việc này là công việc khó khăn không phù hợp với cậu. Công việc khó khăn này làm cho vết thương ở mắt cá chân của cậu không tiến triển tốt. Và viễn cảnh tương lai của cậu trai trẻ 17 tuổi này có vẻ ảm đạm, bỏ học việc trong thành phố, và không còn đủ sức khỏe để là một công nhân bình thường.
Giuse thường đến nhà nguyện để cầu nguyện và thưa với Chúa trợ giúp cậu. Liesel nói rằng có lần cô thấy cậu ta say sưa cầu nguyện nên cô lặng lẽ bỏ về.
Hai năm sau, ngày 12 tháng 5 , Giuse đau đớn chịu tang người mẹ qua đời ở Reinchbach. Người phụ nữ thánh thiện, sốt sắng qua đời nhưng bà biết rằng bà đã làm thấm đẫm những nguyên tắc của người kito giáo nơi những đứa con của bà, tuy nhiên bà cũng tỏ ra buồn vì người con út tàn tật tương lai không biết như thế nào. Sau cái tang đau thương của người mẹ, Giuse càng thêm lòng sùng đạo đặc biệt tôn kính Đức Trinh Nữ Maria.
Giuse ở lại Reichenbach, rồi người chị Catherine cũng lập gia đình cưới Giuse Reihenberger người thợ rèn trong làng . Trong kỳ mùa đông Giuse mang cơm cho người anh rể và mùa hè giúp anh ta trông coi gia súc ngoài đồng. Vết thương nơi chân của cậu không có dấu hiệu gì thuyên giảm. một vài năm sau bác sĩ khuyên nên phẫu thuật thiết đoạn mắt cá chân để tránh nặng thêm hơn.
Giuse đến phó thác chuyện này cho Chúa Giesu và dâng hết thảy thân xác mình cho ngài. Tuy nhiên, cậu cảm nhận vết thương ở chân khó có thể khắc phục được. Cậu tự nhủ “Thiên Chúa muốn cậu cậu như thế nào đây?” Người anh rể Giuse Reihenberger nhận thấy cái chân tật nguyền của cậu không thể giúp trông coi súc vật ngoài đồng được nên nói với cậu trở về nhà trông coi cửa hàng lò rèn cho anh . Công việc này Giuse thích hợp hơn vì cậu đã có chút ít kiến thức về nó nhờ cậu đi học việc ở Munich. Cuối cùng, Giuse cũng cảm thấy hài lòng hơn vì cậu có thể làm được việc gì đó hữu ích hơn.
Trải qua một vài năm Giuse được mọi người trong làng biết đến là một con người rất đạo đức, khá nghiêm nghị, một người thợ giỏi, và ít khi tham gia những buổi khiêu vũ hoặc những nơi giải trí cho giới trẻ, tính cách và thái độ này người ta đặt cho cậu một biệt danh là Klostersepp có nghĩa ‘Monastery Joe’ (# ông từ, người trông coi nhà thờ)
Miền Reichbach không có nhà thờ xứ, giáo dân thường tham dự nghi lễ ở nhà thờ làng bên cạnh. Tuy nhiên, Reichbach có một khu tu viện Benedictine bỏ hoang vào năm 1803 do bị kết án là thế tục hóa . Nhà nguyện của tu viện vẫn mở cửa và dân chúng làng Reichbach có thể đến đó cầu nguyện. Thỉnh thoảng cũng có linh mục đến đó dâng thánh lễ cho giáo dân vào buổi chiều, ngay cả ngày chủ nhật cũng không có thánh lễ thường xuyên. Giuse mời mọi người đến nhà nguyện đọc kinh lần chuỗi mân côi vào buổi trưa ngày chúa nhật. việc lần chuỗi mân côi đều đặn vào ngày chúa nhật cho dân làng Reichbach là do Giuse khởi xướng, đến đó mọi người đều biết cậu là một klosteesepp, Monastery Joe (# ông từ, người trông coi nhà thờ).
Chương IV Ơn Thiên Triệu.
Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa đến thành phố Bavaria vào thập niên đầu thế kỷ 19. Dần dần Hội Dòng thiết lập một chuỗi các bệnh viện: đa khoa và bệnh viện tâm thần và các trung tâm chăm sóc sức khỏe, nhận ra thiên hướng của các tu huynh Gioan Thiên Chúa phục vụ cho những người nghèo khó túng quẫn nhất.
Từ lúc sở hữu tu viện Benedictine ngày 18 tháng 8 năm 1890 bị bỏ hoang ở Reichbach
Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa có 6 nhà ở Bavaria. Tiếp quản tu viện cổ, Các tu huynh bắt đầu sửa chữa và chuyển đổi chức năng tu viện thành bệnh viện dành cho những người bệnh động kinh và những người bệnh nhân nam tâm thần tàn tật. sau khi cải tạo lại, bệnh viện này được khai trương ngày 12 tháng 4 năm 1891 các tu huynh đặt dưới sự bảo trợ Thánh Gioan Thiên Chúa. (tên bệnh viện)
Mối tương quan của Kugler với hội dòng Gioan Thiên Chúa bắt đầu khi người anh rể Giuse Reichenberger làm công nhân công trình của các tu huynh Gioan Thiên Chúa , anh ta chịu trách nhiệm về lãnh vực sắt thép, công việc thuộc cơ khí cho công trình tái thiết tu viện cổ Benedictine. Dĩ nhiên người anh rể luôn mang theo Giuse Kugler để giúp. Người anh rể là chuyên môn về lãnh vực sắt thép và chăm sóc gia súc, nhưng anh nhận thấy người em rể Giuse từng học việc cơ khí có thể giúp anh ta rất nhiều việc trong lãnh vực lắp đặt sắt thép cho công trình này. Cả hai người đều hãnh diện được làm việc khôi phục lại tòa tu viện cổ này, Giuse hoàn toàn có khả năng kỹ năng về lắp đặt hàn xì hệ thống ống nước. Các tu huynh rất hài lòng công việc của cậu thực hiện. Từ khi các tu huynh Gioan Thiên Chúa đến Reichenbach, trong đó có một linh mục tuyên úy ngài cử hành thánh lễ hàng ngày cho các giáo dân cùng tham dự. Giuse giúp linh mục và tỏ ra thích thú khi cùng tham gia với các tu sĩ trong ban thánh ca, hát trong thánh lễ.
Các tu huynh không lâu trao cho cậu những công việc không chỉ là người trợ giúp cho anh rể Reichenberger, các tu huynh đích thân đứng ra mướn Giuse và trả lương giúp cậu có thể tự trang trải chi phí, đóng góp cơm nước cho gia đình người chị.
Tuy nhiên, Giuse vẫn còn một rắc rối đó là vết thương nơi chân nó như lưỡi gươm của Damocles treo lơ lửng trên đầu làm cậu sợ hải đến lúc nào đó phải cắt bỏ mắt cá chân đi. Tu huynh Hermann Wasinger, phó bề trên cộng đoàn rất khâm phục tính cách của Giuse và với tư cách cá nhân tu huynh chữa trị vết thương ở chân khỏi.
Giuse bắt đầu nhận ra ơn gọi của người kito hữu được thể hiện qua tu huynh Wasinger , tu huynh là một tích hợp những nét đặc thù của tu sĩ Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa, và cậu rất cảm phục công cuộc của các tu sĩ và bắt đẩu cậu tự đặt ra câu chỏi cho chính mình “ tôi không thể làm được công việc này hay sao? Tôi cũng có thể tận hiến cuộc sống mình để thực hiện cùng những công việc như vậy được không?” Cậu cầu nguyện trước bàn thờ, tận hiến cho Đức Trinh Nữ Maria trong nhà thờ Reichenbach và khấn hứa với Đức Mẹ rằng nếu Mẹ chũa trị cho con lành vết thương con sẽ trở thành tu sĩ Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa và con dâng hiến trọn cuộc đời con để phục vụ người đau yếu bệnh tật nghèo khổ. Khấn với Đức mẹ lời hưá này cậu âm thầm chờ đợi Thiên Ý và luôn cầu nguyện Thiên chúa sẽ chập nhận và ban cho cậu được toại nguyện. Và vết thương đã được lành không để lại một di chứng nào, không còn làm trở ngại cho công việc trong nơi làm việc hoặc trong bệnh viện.
Giuse tham khảo ý kiến tu viện trưởng và cho biết không có điều gì làm trở ngại thực hiện lời hứa trở thành tu sĩ Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa.
Khi tu viện trưởng trình bày trường hợp của Giuse cho cộng đoàn không một tu sĩ nào phản đối nhận người thanh niên tận tâm chu đáo tốt lành này. Tuy thế vẫn còn vấn đề sức khỏe để có thể chấp nhận là ứng sinh vì cậu mới được chữa khỏi vết thương khá nặng ở chân có thể tái phát. Khi tham khảo ý kiến bề trên Giám Tỉnh ngài không chấp nhận.
Phúc đáp không thuận lợi này làm cậu nản lòng, là cú đánh chí mạng đối với Giuse, nhưng cậu không thất vọng – cậu lại cầu nguyện và hàng ngày kêu cầu Thiên Chúa ban chop cậu được ơn gọi là tu sĩ Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa. Tu huynh Wasinger ủng hộ mạnh mẽ cho yêu cầu của Giuse và nói cũng sẽ không còn cách nào chữa vết thương này nếu nó tái phát, các tu sĩ trong cộng đoàn bị thuyết phục về điểm này và yêu cầu Tu huynh giám tỉnh Cajetan Pflugl xem xét lại quyết định và chấp nhận cho Giuse gia nhập đệ tử trong cộng đoàn ở Reichenbach vào mùa thu năm 1892.
Chương V Đào Tạo Trong Môi Trường Trợ Thế.
Các anh và các chị rất vui khi biết Giuse được nhận vào đệ tử và điều này họ biết cậu hành phúc biết bao. Anh Jonathan có quan điểm khác anh ta nghĩ và hình dung một người tu sĩ đơn giản là người chỉ biết ăn uống và cầu nguyện, sau này ý nghĩ này đã thay đổi khi thấy đời sống của Giuse và các tu huynh Gioan Thiên Chúa.
Giuse bước vào đời sống tu trì ngày 11 tháng giêng năm 1893 và nhanh chóng thích nghi được với cuộc sống tu trì. Điều này có nghĩa dậy sớm, cầu nguyện cộng đoàn tiếp theo tham dự thánh lễ, một bữa điểm tâm đạm bạc và làm việc cho tới bữa trưa. Sau trưa làm việc lại, kinh chiều, ăn tối giải trí chung, đi nghỉ. Tu viện trưởng quyết định Giuse tiếp tục làm công việc như trước khi vào dòng vì thế sai Giuse làm hàng rào cho khu vườn, làm cổng lớn bằng sắt và các khung cửa sổ và hoàn thiện đường ống dẫn nước. Các tu huynh quan sát kỹ Giuse trong thời kỳ dự tu và có nhận xét rất tích cực về cậu khi báo cáo về Giám Tỉnh. Tu viện trưởng nói với Giám tỉnh rằng cậu Giuse rất đáng được chấp nhận vào tập viện, vì qua thời gian cậu tỏ ra giữ im lặng khiêm tốn và chăm chỉ mẫn cán.
Giuse được chấp nhận trở thành tu sĩ nhận tu phục thu nhận chính thức vào Hội Dòng Gioan Thiên chúa ở cương vị tận hiến, mặc tu phục tu sĩ Gioan Thiên Chúa ngày 3 tháng 7 năm 1893 và tên thánh bổ mạng mới là Eustace. Dù không còn mang tên thánh rửa tội là Giuse nữa nhưng tu huynh Eustace luôn có lòng kính thánh Giuse. Cùng năm đó (1893) Hội Dòng lập thêm một cộng đoàn mới ở Bad Worishofen, trung tâm chăm sóc sức khỏe mang tên Sabastianeum Spa. Công trình thành lập cộng đoàn mới này đầu năm 1894, Eustace được phân công thiết kế lắp đặt hệ thống đường ống nước cho công trình này.
Cho đến lúc này bề trên Giám Tỉnh mới đề nghị chính quyền cấp phép cho tu huynh Eustace và mười chín bạn trẻ khác vào tập viện. Ngài cũng nhận được một lá thư từ giáo quyền. Chỉ còn một điều cuối cùng nữa là bỏ phiếu chấp thuận cho nhập tập viện của các tu huynh thuộc cộng đoàn Worishofen. Cuộc họp hội đồng sở tại được tổ chức ngày 7 tháng 7 năm 1894 kết quả cuộc bỏ phiếu gồm 5 phiếu đen và 4 phiếu trắng. Khi Giám Tỉnh nhận được thông tin này ngài yêu cầu cho biết lý do phiếu không thuận đơn của huynh Eustace nhập tập viện và ngài nói có lẽ vì e sợ vết thương ở chân có thể bị tái phát vì thế không chấp nhận huynh là tu sĩ chăng. Vị Giám tỉnh có ý kiến khác ngài gửi một bản báo cáo về trụ sở tổng quyền ở Rome trình bày quan điểm của ngài về trường hợp này. Bể trên tổng quyền phúc đáp thư cho giám tỉnh chấp thuận cho huynh Eustace được nhập tập viện.
ngày 24 tháng 8 năm 1894 Eustace được gửi tới công đoàn Thánh Wolfgang của hội dòng ở Nuremberg gần sông Danube. Ở đây tu huynh bắt đầu sống cuộc sống ẩn dật đánh dấu giai đoạn về mặt tinh thần tu trì của tu huynh. Từ lúc này tu huynh đặt trọng tâm vào năm tập luôn luôn có một tinh thần nhiệt thành. Năm tập của tu huynh bắt đầu từ ngày 20 tháng 10 năm 1894. Cuộc Công Hội Tỉnh Dòng được tổ chức và đề cử tu huynh Gregory Schwab là giáo tập nhưng năm sau tu huynh Augustine Kock được bổ nhiệm là giáo tập thế tu huynh Gregory Schwab sau này là bề trên tổng quyền của Hội Dòng Trợ Thế Thánh gioan Thiên Chúa. Tu huynh Eustace luôn ghi nhớ những bài học do tu huynh giáo tập Kock giảng giải.
trong thời gian tập viện tu huynh Eustace được học hỏi về luật thánh Augustine, Hiến Pháp và Tổng quy của hội dòng, học hỏi các lời khấn nghèo khó, khiết tịnh, tuân phục và trợ thế. tu huynh Eustace luôn làm việc với một ý thức cao độ trong thời gian đào tạo, tu huynh tuân phục với mọi người trong tinh thần khiêm tốn. Khi mãn thời gian tập viện công đoàn bỏ phiếu chấp thuận cho tu huynh được tuyên khấn lần đầu và kết quả không có phiếu đen nào và lần tiên khấn của tu huynh được tổ chức vào ngày 21 tháng 10 năm 1895 có sự hiện diện của gia đình. Trong ngày đó tu huynh hứa sẽ là một tu sĩ đích thực, và tu huynh đã giữ lời hứa đó trong hồng ân của Thiên Chúa. Trong buổi tiệc liên hoan ngày tuyên khấn một đứa cháu gái nói với Eustace cô cũng sẽ đi tu, và cô đã trở thành nữ tu Reginulfa Reichenberger và phục vụ Chúa trong công việc truyền giáo ở Nam phi.
Chương VI Tuân phục trong Tinh Thần Trợ Thế
Cộng đoàn đầu tiên tu huynh phục vụ ở Reichenbach nơi đó tu huynh thực hiện ơn gọi là một công nhân làm trong xưởng cơ khí. Đúng lúc đó trong vùng đó xảy ra các bệnh truyền nhiễm. Tu huynh đã thể hiện bổn phận và trách nhiệm của một người tu sĩ hết lòng nhiệt thành và tận tụy. Hay ngay cả khi tu huynh giúp lễ, một số cháu trai và cháu gái đã nhận xét rẳng tu huynh giống như là vị thánh.
Ngày khấn trọng thể cũng đến, tu huynh Eustace tuyên khấn trọng thể ở nhà thờ Reichenbach, cũng là nơi đầu tiên tu huynh tiếp xúc với Hội Dòng và khấn hứa với đức mẹ sẽ trở thành một tu sĩ. Sau thời gian khấn tạm và với sự hài lòng của bề trên cao cấp và các tu huynh trong cộng đoàn trong Hội Dòng tu huynh đã tuyên khấn trọng thể tự hiến hoàn toàn cuộc đời mình cho Thiên Chúa ngày 30 tháng 10 năm 1898.
Ngày 24 tháng 5 năm 1899 tu huynh Eustace tuân phục thuyên chuyển tới cộng đoàn bệnh viện ở Gremdorf. Cộng đoàn này có 12 tu huynh đang trong tiến trình đào luyện, ngay khi đến tu huynh được bầu làm phụ tá bề trên trong công việc chân tay khuân vác và chu trách nhiệm trong công tác trông coi nhà nguyện, giám sát bữa ăn cho bệnh nhân. Cùng thời gian đó tu huynh ghi tên theo học lớp tá viên điều dưỡng và sau này nhận được nhận bằng chứng nhận kiểm định chất lượng. những người thời gian có dịp gặp gỡ tu huynh, họ nhận xét tu huynh thật khiêm tốn, đạo đức., có ý thức trách nhiệm và đối xử thân thiện với những ai đến bệnh viện. Tỉnh dòng Bavian tổ chức công hội tỉnh ở nhà Gremsdorf tháng 6 năm 1902, dù phiếu bầu thăm dò có tên của tu huynh ở chức vụ bề trên nhưng trong lần bầu phiếu chính thức không có tên tu huynh.
Huynh Eustace được thuyên chuyển tới cộng đoàn phục hồi nhân phẩm ở Kaisheim nơi đó các tu huynh chịu trách nhiệm về mảng bệnh xá và dược. Cộng đoàn nhỏ này gồm có 4 tu sĩ làm công tác chăm sóc cho tù nhân bị bệnh trong một khu có khoảng 60 - 80 gường bệnh . ở cộng đoàn này tu huynh thực hiện công tác điều dưỡng trong 3 năm , trong khoảng thời gian này tu huynh cảm thấy tinh thần thật bình an, Tu huynh cảm thấy thật hạnh phúc được ở công đoàn Kaisheim này và thích được ở luôn ở nơi này nhưng Thiên Chúa có kế hoạch của Ngài.
Tinh thần phục vụ của tu huynh Eustace trong 3 cộng đoàn, Tu huynh đích thực là người con của Thánh Gioan Thiên Chúa trước khi tu huynh được bầu làm bề trên và sau này ở vị trí giám tỉnh.
Chương 7. Tu Viện Trưởng, Tinh Thần Trợ Thế, Tình Huynh Đệ
Trong Công Hội Tỉnh tổ chức tháng 6 năm 1905, tu huynh Eustace được bầu làm bề trên cộng đoàn bệnh viện người khuyết tật tâm thần ở Straubing và ngài đến nhận nhiệm sở ngày 16 tháng 6. Nhà này có điều đáng quan tâm là đang có một khoản nợ rất lớn trong hợp đồng xây dựng . Bệnh viện luôn trong tình trạng quá tải và nhu cầu cần có một bệnh viện, cộng đoàn này rất lớn gồm 33 tu huynh; trong nhiệm kỳ của tu huynh Eustace cộng đoàn này phát triển lớn hơn cũng như con số bệnh nhân mắc các loại bệnh về rối loạn tâm thần. Thu nhập chính chỉ từ khoản đi xin hàng năm nhưng khoản tiền này chưa bao giờ đủ để thanh toán nợ nần và duy trì nuôi dưỡng bệnh nhân. Chính phủ cho phép quảng cáo trên mặt báo ở những nơi có thể xin, quyên góp tiền của, Eustace Kugler đã nỗ lực hết sức để quyên góp đủ tiền để chăm sóc mang lại phẩm giá cho những bệnh nhân nghèo khổ. Trên cương vị tu viện trưởng, đích thân ngài chăm sóc nuôi dưỡng họ và quan tâm nhiều đến những bệnh nhân nghèo, cũng làm như vậy khi ngài ở cương vị giám tỉnh. Tu huynh không thích đứng chỉ tay năm ngón nhưng đích thân nhúng tay vào công việc quan tâm săn sóc bệnh nhân. Tu huynh Eustace chưa bao giờ lảng tránh những công việc ghê tởm nhất ngay cả trong những trường hợp khó có thể tưởng tượng hoặc không thể nào kiềm chế được.
Vai trò là một tu viện trưởn, tu huynh Eustace hướng dẫn, làm gương cho cộng đoàn theo quy luật. Ngài cũng nói với các anh em tu sĩ, hô hào khuyến khích bệnh nhân công giáo lãnh nhận các bí tích, giữ trọn lề luật buộc và năng tham dự Bí Thánh Thể. Công hội tỉnh lần sau, Tu huynh Eustace được chỉ định làm bề trên cộng đoàn bệnh viện ở Gremsdorf ngày 14 tháng 5 năm 1914 ( năm 1899 tu huynh đã là phụ tá bề trên ở cộng đoàn này)sự chỉ định này cho thấy bề trên cao cấp rất tin tưởng vào tu huynh. Công việc của tu huynh lần này là cải tổ lại nề nếp nguyên tắc đời sống tu trì cho cộng đoàn này vì tình hình cộng đoàn này có vẻ hơi lỏng lẻo tính cách thực dụng đã len lỏi vào đời sống cộng đoàn chẳng hạn thiếu sót chểnh mảng đời sống cầu nguyện, đi uống rượu buổi chiều và nhiều điều khác nữa đến nỗi bề trên giám tỉnh Fleischmann bài sai tu huynh Eustace Kugler đến đó vì tu huynh có khả năng sửa chữa lại những khiếm khuyết đang tồn tại trong cộng đoàn này. Người ta nói rằng tu huynh đã mạnh tay trừng trị bất cứ ai làm điều sai trái cho đến tận cùng thực hiện tròn đầy theo hiến pháp của Hội Dòng quy định, các giờ giấc quy định được áp đạt trên các tu sĩ không thỏa hiệp cho dù tục lệ nhà đó trước đó như thế nào
Một thời gian ngắn trước khi bề trên mới đến nhiệm sở tình hình đất nước đang trong tình trạng rối ren vì chiến tranh thế giới lần thứ nhất mới bùng phát và các tu huynh trẻ phải thi hành nghĩa vụ quân sự, để lại một gánh nặng trên vai cho các tu huynh lớn tuổi trong việc điều hành quản lý bệnh viện . Thực phẩm và than đốt là mặt hàng khan hiếm và một trận dịch cúm kinh hoàng đang quét qua, số bệnh nhân tăng lên đột ngột tới 264 người và giá phòng thuê cũng tăng lên chóng mặt. Đầu năm 1918 con số tử vong vì bệnh cúm gia tăng và con số bệnh nhân cũng tăng lên tới 200. Khi chiến tranh chấm dứt có một cuộc cách mạng và nước Đức tuyên bố trở thành một nước cộng hòa. Có một số câu chuyện về một số chiến binh cách mạng hiện diện trong bệnh viện như thế nào, tuy nhiên tu huynh Kugler làm tất cả những gì có thể để giữ cho tình hình luôn bình an. Điều này có lẽ xảy ra và đã bị theo dõi ngay từ tháng 5 năm 1919. Chẳng có gì ngạc nhiên khi tu huynh Kugler được tái nhiệm tu viện trưởng trong cùng một nhà trong công hội tổ chức năm 1920.
Tu huynh Kugler bảo đảm hiệu quả về mặt kinh tế và quản trị tốt, tu huynh bỏ đi những cách thức không chắn chắn và chọn công việc mới để thực hiện.
Chấm dứt nhiệm kỳ vai trò tu viện trưởng, những gì tu huynh thực hiện và nhà này được coi là nhà chính của miền Neuburg, nẳm gần con sông Danube, Giám tỉnh cư trú tại nhà này và cả tập viện nũa. Tu huynh là cố vấn thứ 3 của giám tỉnh hỗ trợ trong việc quản trị tỉnh dòng.
Tu huynh Eustace tạo ra tiếng vang và gương sáng cho các tu sĩ, thực thi Hiến Pháp và sự chỉ thị của bề trên cao cấp qua thư từ, vì thế sự sinh động trong đời sống tu trì trong cộng đoàn cùng nhau hợp tác trong công việc hàng ngày. Một số người biết tu huyhh trong thời gian này thường nói ngài là một con người hòa hoãn, đạo đức thánh thiện khiêm tốn, chưa bao giờ ngài tỏ ra uy quyền của một vị bề trên cao cấp. Tu phục ngài mặc trên người là dấu chỉ của sự cải thiện và ngài luôn tỏ ra ân cần niểm nở nhã nhặn với mọi người. ngài phát chẩn ngay lối ra vào vì thời gian này có rất nhiều người đời sống gặp cảnh túng quẫn, cách giúp đỡ họ đơn sơ và lịch thiệp và được mọi người coi là người của Thiên Chúa bao gồm đầy đủ các tố chất ơn gội tu trì trong con người của ngài. Vào giờ giải trí ngài thường cùng vui chơi đánh bài với các tu huynh, vui đùa với họ. Qua cách này ngài tạo ra một bầu khí thân thiện đời sống cộng đoàn dựa trên sự tin tưởng trưởng thành của tất cả mọi người.
Tu huynh Eustace luôn giữ tinh thần cầu nguyện hy sinh hãm mình, dâng trọn tâm hồn ngài cho Thiên Chúa. Ngài thường viếng mình thánh Chúa và sống trong niềm tin sống động trong màu nhiệm bí tích luôn có sự hiện diện của Đức Kito trong thánh thể điều này an ủi ngài rất nhiều. Ngài siên năng giữ mối hiệp thông với Thiên Chúa. Ngài luôn cam kết thực thi công việc cho hội dòng một cách nhiệt thành. Ngài luôn phấn đấu, cố gắng đặt mình vào vị trí của người con của Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Chương VIII Chức Vụ Giám Tỉnh.
Có một chú thích để lại cho biết Eustace được bầu giữ chức vụ giám tỉnh 5 lần và qua đời vẫn đang trong chức vụ giám tỉnh, 5 lần giữ chức vụ giám tỉnh liên tục vì tu huynh đã thực hiện nhiệm vụ rất hiệu quả nhiệm kỳ cuối cùng kéo dài vì chiến tranh thế giới lần hai bùng nổ, ngài chết trong chức vụ này sau khi chiến tranh kết thúc
Lần giữ chức vụ giám tỉnh đầu tiên, trong cuộc bỏ phiếu tu huynh Faculdus Apold và tu huynh Eustace Kugler cùng số phiếu nhưng vì tu huynh Eustace có đời sống tu trì lâu hơn nên Eustace được chọn.Tu huynh không tìm kiếm mà cũng không từ chối chức vụ, nhưng chấp nhận gánh trách nhiệm vì thánh Ý Thiên Chúa và thể hiện tính chính trực và hy sinh cao độ.
Tu huynh Eustace đề ra lèo lái Tỉnh Dòng trong trật tự và nguyên tắc nhưng vẫn thấm đẫm tinh thần trợ thế của Cha Thánh Gioan Thiên Chúa trong các tu sĩ để các tu sĩ chăm sóc bệnh nhân và những người túng quẫn trong tinh thần siêu nhiên của đức ái. Tu huynh nghĩ đời sống tu sĩ cần phải có kỷ cương và ngài cương quyết và giữ ý nghĩ những giá trị đời sống tu trì trước hết là đơn giản phải mang tính pháp lý. Với vai trò là Giám Tỉnh, tu huynh thánh hiến Tỉnh Dòng cho Đức trinh Nữ Maria để Mẹ luôn nâng đỡ gìn gữ các tu sĩ.
Năm 1927,tu huynh mở một nhà trọ ban đêm cho những ở Munich dưới sự bảo trợ của hội đồng thành phố và trực tiếp điều hành công việc do các tu sĩ. Tuy nhiên hai thành quả lớn nhất là ngài lập hai bệnh viện ở Ratisbon, một dành cho nam và một dành cho nữ, cả hai bệnh viện đó đều là tài sản của Hội Dòng, nhưng bệnh viện dành cho phụ nữ do cá nữ tu Munich Sister of Mercy điều hành. Hai công cuộc này tạo cơ hội cho những bệnh nhân công giáo có dịp may được lãnh nhận các bí tích, vì trước đây chỉ có bệnh viện Protestant Hospital nhưng bệnh nhân không được đáp ứng những nhu cầu này, điều này thật khó khăn lo lắng cho bệnh nhân kito giáo.
Công trình bệnh viện dành cho nam giới bắt đầu hoạt động dưới sự điều hành của bác sĩ Bosslet ngày 28 tháng 11 năm 1927 ngôi nguyện đường xây nằng đá cho cả hai khu vực nam và nữ được đặt viên đá đầu tiên ngày 17 tháng 5 năm 1928. Ngôi nhà nguyện được dâng cho thánh giáo hoàng Pius V, ngài là người nâng Dòng Trợ Thế lên vị thế theo giáo luật. Công trình bệnh viện dành cho phụ nữ bắt đầu khởi công tháng 4 năm 1929. Bệnh viện dành cho nam giới khai trương ngày 19 tháng 6 năm 1929 và bệnh viện dành cho nữ giới khai trương tháng 12 cùng năm. Một nghĩa trang được thiết kế ngay phía sau nguyện đường. Dĩ nhiên, chi tiêu cho hai công trình bệnh viện lớn này là một gánh nợ nặng cho Tỉnh Dòng, nhưng tu huynh luôn đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa không ngừng thúc đẩy 2 dự án tiến về phía trước. Để bảo đảm chắc chắn hai bệnh viện là biểu tượng của công giáo tu huynh Eustace Kugler tuyển chọn tất cả các bác sĩ làm việc trong 2 hai bệnh viện này là người công giáo. Giám mục Buchberger giáo phận Ratisbon đến làm phép ngôi nhà nguyện, ngài yêu cầu cả hai bệnh viện phải là hai bệnh viện kiểu mẫu, sạch sẽ và mang tính chất bác ái từ thiện, ngài không còn điều gì phải lo lắng vì mọi thứ đã được tu huynh Eustace trù tính chính xác trong trí óc của tu huynh.
Mọi người đều công nhận tu huynh Kugler là con người đặt hết niềm tin tưởng vào Thiên Chúa khi xây dựng hai công trình này. Tuy nhiên, dù được phép của hội đồng giám định tổng quyền nhưng có một số anh em lớn tuổi phê phán chỉ trích, thậm chí ngay cả gia đình của tu huynh cũng biết tại sao hai công trình đó tốn kém như vậy. Eustace trả lời đây là điều Thiên Chúa muốn và với niềm tin tưởng này tu huynh vượt qua được tất cả những khó khăn này.
Kugler rất quan tâm đến công việc phong thánh cho tu huynh Gioan Granda, (nay đã được phong thánh). Năm 1928 Eustace Kugler có dấu hiệu bị loét bao tử nặng, bao tử thường xuyên xuất huyết. Ngài chịu căn bệnh đau đớn này cho tới lúc chết, mặc dù ngài đã tuân thủ theo chế độ ăn uống nghiêm nghặt, không bao giờ đòi hỏi có một chế độc ăn uống riêng đặc biệt khi đi kinh lý các nhà . tu huynh ăn ,uống bất kỳ món gì người ta dọn ra, và chịu đau đớn sau khi dùng bữa mà không nói gì để mọi người được an tâm. Ngài luôn ở trong tình trạng đau đớn nhưng không bao giờ tham khảo ý kiến của bác sĩ trừ khi trong trường hợp cấp bách.
Trong thời gian trong cương vị giám tỉnh , tu huynh làm một số cuộc kinh lý theo giáo luật các cộng đoàn. Ngài yêu cầu các tu huynh không được coi ngài như là một người khách, mà đơn giản như là một trong những anh em trong cộng đoàn. Ngài kiểm tra các sổ sách kế toán, đối thoại với các vị tu viện trưởng và tự tìm gặp tạo sự thân thiện đối thoại cởi mở với hết mọi tu sĩ, ngài đóng góp khai mở ý tưởng và giúp điều chỉnh đường hướng cho các tu sĩ ở mỗi cuối cuộc kinh lý. Tuy nhiên, khi có vấn đề gì nghiêm trọng tu huynh tỏ ra cương quyết cứng rắn. Đối với một số trường hợp ngài tỏ ra thật nghiêm khắc, điều này cho thấy tu huynh là một bề trên tốt hơn là một bề trên bao giờ cũng đúng.
Chương IX Tinh Thần Trợ Thế Trong Nỗi Khổ Đau Tột Cùng.
Năm 1930 là một thời kỳ gặp nhiều vấn đề khó khăn nhất cho Tỉnh Dòng cho Tu huynh Eustace Kugler vì Hitler và đảng Phát xit củng cố nâng cao quyền lực. Một vị tu viện trường nói với Eustace biến cố này báo trước cho một chủ nghĩa mới phát sinh cho nước Đức. Kết quả rất nhiều cộng tác viên bỏ nhiệm sở, bệnh viện, nền chính trị này cũng ảnh hưởng tới một số anh em tu sĩ họ bỏ đời sống tu trì trở về với đời sống trần thế, điều này là khởi đầu buồn thảm cho TỉNH Dòng, không chỉ vì họ nhận ra họ không có ơn gọi mà rõ ràng họ là những con người không trung thành với ơn gọi.
Các tu viện trưởng và Giám tỉnh phải rất cẩn trọng không thể hiện quan điểm quan trọng hóa sự thay đổi chính trị, nhưng đứng ở vị thế trung lập và tránh tất cả bất cứ cuộc bàn luận nào về chính trị mà nó sẽ làm cho các tu huynh phải trả giá. Các vị có trách nhiệm hội dòng khuyên tất cả các tu sĩ cũng nên thực hiện như thế và chỉ chú tâm vào đặc sủng tinh thần trợ thế và tất cả các tu sĩ nên rất cẩn trọng. Điều khuyên giải này cũng không ngăn cản được một vài vị tu viện trưởng viết thư gửi cho Giám tỉnh vạch ra những vấn đề các nhà của họ đang phải đối mặt, những bức thư này đã để trong thư viện cá nhân giám tỉnh, thậm chí cũng có lá thư rơi vào tay cơ quan mật vụ Gestapo gây nhiều rắc rối cho giám tỉnh. Chúng ta đề cập sau.
Trong cương vị giám tỉnh Eustace có nhiều cơ hội tiếp xúc với các cơ sở nơi khác của hội dòng vì ngài thường đi Rome để họp tổng công hội Dòng và trong một dịp đặc biệt tu huynh được bề trên tổng quyền Tu huynh Fustinus Calvo mời. năm 1927Tu huynh đi Rome, trung tâm của người Kito giáo và để viếng đền thánh Phero. Trong lần gặp gỡ này trong lần tổng công hội này tu huynh Calvo được bầu làm bề trên tổng quyền. Cũng trong dịp tổng công hội này tu huynh gặp gỡ tất cả các bề trên giám tỉnh khác của hội dòng và thảo luận nhiều vấn đề Hội dòng đang phải đối mặt.
Hai năm sau Bề Trên Tổng Quyền triệu tập Tổng Công Hội Bất Thường đặt ra vấn đề chuyển đổi bệnh viện cổ trên bán đảo Tiber là vị trí của ban quản trị tổng quyền. Giáo Hoàng Pius XI đã có cuộc gặp gỡ đặc biệt dành cho các vị Giám tỉnh và tu huynh Eustece có vinh dự trong cuộc tiếp kiến này. Sau này tu huynh trở lại Rome để khai mạc sửa chữa lại bệnh viện và tổng công hội đã bầu người cùng quẹ bavarian, tu huynh Narcius Durcschschein là bề trên tổng quyền. trong thời gian này hội đồng các đại biểu tham dự lễ phong thánh Gioan Dfombosco và kết thúc năm thánh
Trở về Bavaria tu huynh Eustace chờ cuộc kinh lý Bavaria của tu huynh tổng quyền và các tỉnh dòng thuộc dòng Salesian. Trong suốt kỳ kinh lý theo giáo luật tu huynh nhận được nhiều những lời khuyên có giá trị của tu huynh Tổng Quyền quan tâm đến công việc điều hành của các cộng đoàn địa phương. Lúc này hầu hết các tu huynh đều nhất trí đứng vững trong trong niềm tin và ơn gọi trợ thế của mình. Tuy nhiên cũng có một số đã bỏ đạo, một số khác xuất dòng vì áp lực chính trị và tương lai Hội Dòng có vẻ ảm đạm vì những tu huynh đã tự minh chấp nhận Thiên Ý khi gặp bão táp cũng không thể vững chãi và bỏ cuộc. Điều quan trọng họ nên nhớ là hãy sống trọn bổn phận đời sống thánh hiến của mộ tu sĩ trợ thế.
Kugler biết chắc chắn cơn bão đó sẽ ập đến và ngàu yêu cầu các tu sĩ hãy sửa soạn cho biến cố bão táp sẽ xảy đến. Khi người ta nói với ngài chủ nghỉa phát Xít đã có thế lực vững chắc và không thể tiêu diệt được, tu huynh Eustace trả lời “ những cây này sẽ không phát triển được ở trên thiên đàng” sự sùng bái cá nhân Hitler đã đi sâu vào dân chúng, trong một lần ông ta thăm vùng Ratisbon khi đi ngang qua bệnh viện dân chúng đứng chật kín bên các của sổ bệnh viện của Hội Dòng để mong nhìn thấy ông ta . người ta mời ngài đến tham gia, Tu huynh Kugler chỉ vào nhà nguyện và nói “ Cha thật sự của chúng ta ở trong đó”.
Được sự đồng ý của Bề Trên Tổng Quyền, tu huynh Eustace chuyển Trụ Sở Tình Dòng từ Newburg về Ratisbon, là một thành phố lớn, hội dòng có hai bệnh viện lớn ở đó. Tập viện chuyển về Straubing nămm 1919, và đó là lý do cho rằng có liên quan tới Kugler người ta cho rằng trong thời kỳ của Phat- xít năm 1934 số tập viên giảm sút. Tuy nhiên tu huynh có công cải tổ lại tập viện cho các ứng sinh trẻ cho Hội Dòng. Ngài cương quyết chống lại những mệnh lệnh của các nhà cầm quyền muốn trừ khử các bệnh nhân trong bệnh viện tâm thần và các cơ sở bệnh nhân tâm thần chậm phát triển, nhưng phát –xít đã thực hiện điều này dưới danh nghĩa “chiến dịch lành mạnh hóa chống lại những bệnh tật di truyền”. Nhà ở Algasing dành cho bệnh nhân trẻ em tàn tật bị tâm thần bị đóng cửa và dùng cơ sở làm một trường cao đẳng nơi đào tạo tư tưởng Đức quốc xã thế hệ trẻ Hitler và gọi đó là tinh thần dân tộc, không mấy ngạc nhiên trước thái độ các tu viện trưởng chống phát-xít và được viết qua những lá thư gửi cho giám tỉnh, không may nhữ lá thư đó rơi vào tay mật vụ Gestapo và kết quả Kugler chịu những hậu quả tàn khốc dưới tay mật vụ Gestapo.
Chương X Đức Quốc Xã “Sờ Gáy”
Kugler nhận thấy Dòng Trợ Thế cũng như các tu hội khác phải đối mặt với sự thù ghét chống đối của Đức quốc xã họ có ý tổng tấn công vào giáo hội công giáo
Một vài tháng sau khi Hitler lên nắm quyền, Giáo hội đã ký một thỏa ước với chính quyền cũ. Giáo hòang làm điều này để bảo đảm quyền lợi của Giáo hội và để có tự do tôn giáo thực hiện các nghi lễ thuộc niềm tin và điều hành các trường học và những cơ sở của Kito giáo. Nhưng chính quyền dùng chính văn bản ký kết này làm khó dễ gây căng thẳng cho bất cứ cơ sở tôn công giáo nào chống đối chế độ Đức Quốc Xã. Hitler đưa ra chủ thuyết và các thủ đoạn trong cuốn sách ‘Mein Kampf’ (my struggle) ‘cuộc chiến của tôi’ trong đó không khoan nhượng cho bất cứ sự chống đối nào với chủ nghĩa Đức Quốc xã ở Đức điều này không tránh khỏi va chạm cả hai tôn giáo Công Giáo và Tin Lành
Sau khi tham vấn với các Hồng Y và Giám Mục, Giáo Hoàng cho phát hành thông điệp “ Sự Lo lắng sâu sắc” mùa xuân năm 1937. Trong thông điệp này ngài trình bày tất cả những xung khắc của Chủ Thuyết Công Giáo và Chủ Nghĩa Phân Biệt Chủng Tộc. Hitler điên tiết ra lệnh khởi phát đàn áp Giáo Hội, ông ta nói hàng ngàn các linh mục và tu sĩ là những người đồng tính luyến ái. Có khoảng hơn 7,000 tu sĩ được nêu ra nhưng chỉ có khoảng 200 chính thức bị kết án tội phạm tình dục.
Chắc chắn Đức quốc xã sẽ chỉ thị cho cơ quan mật vụ Gestapo bắt giữ một số tu huynh và đương nhiên mục tiêu của cơ quan mật vụ là các tu huynh vị trí lãnh đạo
Vào thời điểm kết thúc Công Hội Tỉnh năm 1937, Cơ quan mật vụ Gestapo bắt đầu thâm nhập bệnh viện ở Ratisbon và yêu cầu Giám Tỉnh đến để họ thẩm vấn một thời gian rất dài, họ lục soát văn phòng của ngài và khám xét tất cả tài liệu hồ sơ, các văn bản cuộc họp ngài có tham dự để tìm ra một sai sót cụ thể nào đó của các tu sĩ, những lời chỉ trích chế độ Đức Quốc xã và các vấn đề khá có liên quan đến cảnh sát. Chúng niêm phong máy đánh chữ và toàn bộ tài liệu lưu trữ trong thư viện. Tu huynh Eustace bị Cơ quan mật vụ Gestapo mời thẫm vấn hơn 30 lần, chúng muốn ngài khai bất cứ tu sĩ nào ngài cho là thiếu đạo đức hay là kẻ thù của nhà nước. Dù vấn đề tuổi tác dã cao ngài vẫn giữ vững lập trường và bình tĩnh khi trả lời tất cả các câu hỏi trong cuộc thẩm tra, ngài luôn trả lời cách chung chung và chúng nhận thấy không làm gì được ngài để ngài tiết lộ bí mật của các tu sĩ thuộc quyền chịu trách nhiệm của ngài cho dù chúng đe dọa bỏ tù.
Có một lần, sau một cuộc thẩn vấn, Kugler yếu ớt lững thững đi vào nhà nguyện và bị ngất nằm dưới mặt đất. Bác sĩ khẳng định với cảnh sát rằng một người lớn tuổi như thế không thể nào chịu đựng được những cuộc thẩm vấn dài dữ dội như thế . Eustace vẫn đứng vững như một vị thánh trong tình huống này. Ngài không những không tố cáo kết án bất cứ một tu huynh nào nhưng vẫn một mực giữ im lặng trong suốt những cuộc thẩm vấn đối với vấn đề của cộng đoàn và sau này ngài chưa bao giờ nghe nói bất cứ một lời nàn nàn nào hoặc lời xỉ nhục lăng mạ nào với cảnh sát, không tỏ ra căm ghét hoặc có lời lẽ chì chiết đắng cay nào với họ, ngài vượt qua được những khó khăn các vần đề của các tu sĩ. Ngài chịu đau khổ trong im lặng một cách tuyệt vời, đến nỗi mọi người ngưỡng mộ ngài, và trong cuộc điều tra phong thánh các nhân chứng nhớ lại và nhất mực khẳng định nói về sự kiên nhẫn và sự dũng cảm của ngài khi ngài phải đối mặt với những cuộc thẩm vấn.
Có những điều làm ngài đau khổ khi biết một số anh em tu sĩ bị bắt và cơ quan mật vụ Gestapo hành hạ , đặc biệt khi ngài biết một số những lời kết án là sự thật, dù thế ngài vẫn không thể nào có thể tin được. Bất cứ khi nào Kugler nghe được điều này điều kia không bình thường đối với một anhem tu sĩ, ngài không tin vào điều đó, nhưng điều này chứng tỏ đức ái phi thường của ngài có gì đó hơi chất phác, đơn giản vì ngài không tin rằng một tu sĩ có hành động bất lương, lạm dụng bệnh nhân.
Ngài cũng từng cảnh cáo mạnh mẽ với một số tu sĩ bị buộc tội vể những chức năng nhiệm vụ của họ trong Dòng, ngài lo tìm luật sư cho họ, và nếu họ chứng minh vô tội, ngài nhận họ trở lại Hội Dòng và nói rằng đây chỉ là điều phải làm . Đây có thể nói là thời gian đau khổ nhất cho vị Giám Tỉnh, nhưng qua đó cũng chứng tỏ được tinh thần kiên nhẫn và tuân theo thánh ý Thiên Chúa.
Ngài tìm và múc lấy sức mạnh trong thời gian khó khăn này trong lời cầu nguyện, ngài là con người cầu nguyện giờ đây ngài dùng nó là pháo đài để ẩn náu. Mọi người có thể nói ngài không bao giờ không có cơ hội để cầu nguyện sốt sáng trước Thánh Thể. Người ta thường thấy ngài ở đó và cỗ tràng hạt trên tay. Ngài cầu nguyện lẩn chuỗi không ngừng cả trong lúc ngài thực hiện công việc hàng ngày.
Dù ở vị trí Giám Tỉnh, Tu huynh Eustace cố tìm thời gian để thực hiện công việc phục vụ bệnh nhân, thường ngài thực hiện công việc vào buổi tối và để tâm hết sức đến nhu cầu của bệnh nhân. Nhiều người rất ngạc nhiên về thái độ vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ họ. Ngài chưa bao giờ tỏ ra mình là một vị Giám Tỉnh nhưng luôn tỏ ra là một con người khiêm tốn.
Chương XI Chiến Tranh; Niềm Tin Tinh Thẩn Trợ Thế Và Cầu Nguyện.
Chiến tranh là điều tất yếu sẽ xảy ra vì tinh thần ý thức hệ của Quốc Gia Chủ Nghĩa Xã Hội, chủ nghĩa này tin tưởng vào chiến tranh và sức mạnh quyền lực như là phương tiện để tận dụng. Tâm lý này không thấy hòa bình như là một thế lực của công lý nhưng là dùng sức mạnh để thống trị. ĐỨc quốc xã muốn bá chủ thế giới và tất cả đều phải cúi rạp và đi theo sự vượt trội của người Đức.
Chiến tranh bùng nổ khi Nước Đức tấn công BaLan ngày 1 tháng 9 năm 1939. Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới Hội Dòng trợ thế, nhiều tu sĩ phải nhập ngũ và được điều ra trận tuyến, những người khác buộc phải cưỡng bức lao động theo luật, và các dòng tu bị cấm không được nhận thành viên mới kết quả là tập viện của hội dòng ở Strauing đóng cửa, một số tu huynh đã ngã xuống trong chiến trận, một số bị bắt nhốt trong tù và một số khác biến mất không một dấu tích nào để lại. tất cả những điều này làm Eustace Kugler và các anh em tu sĩ còn lại đau khổ.
Đau khổ hơn nữa là nhiều nhà của Hội Dòng bị chiếm đóng với lý do “ luật khẩn cấp” để làm nơi ở cho những công chức bị sa thải, hoặc với lý do những vùng nguy hiểm hoặc có thể bị dội bom. Dần dần các tu sĩ và bệnh nhân do các tu huynh chăm sóc được chuyển vào bệnh viện của nhà nước và các tu viện, các cơ sở của các tu sĩ bị tịch thu để làm chỗ ở cho trẻ em và người già Hồng Y Bertran phản đối kịch liệt về sự chiếm hữu tài sản của giáo hội nhưng lời phản ứng của ngài bị bỏ ngoài tai.
Khi những người lánh nạn và sơ tán đến ở các nhà của Hội Dòng các bệnh nhân tâm thần và khuyết tật bị tâm thần do các tu sĩ chăm sóc được chuyển đến các cơ sở của nhà nước. Chấm dứt cuộc chiến, khi các tu sĩ trở về tu viện của họ họ khám phá ra tu viện của họ đã bị lục lọi kiểm soát rất kỹ . Số phận của 1760 bệnh nhân bị Đức Quốc Xã mang đi thật tồi tệ, hầu hết trong số họ được mang vào trại tiêu diệt, chỉ còn một số ít còn lại trong các cơ sở của nhà nước được cứu sống. Đức quốc xã bắt đầu áp dụng chính sách thanh lọc chủng tộc và một nhân viên cơ quan SS nói với các tu sĩ trong vòng 20 năm nữa không cần họ để chăm sóc những người tâm thần và bị tàn tật đơn giản vì họ không tồn tại trên mặt đất này.
Tu huynh Eustacs Kugler, với một tinh thần lòng trắc ẩn và tinh yêu mãnh liệt phản đối mạnh mẽ nhưng một con én không làm nên mùa xuân để tránh cho những con người đáng thương đó khỏi bị tàn sát. Không một ai có thể bảo đảm cho số phần của những con người đau khổ đó. Khi chiến tranh chấm dứt những con người đau khổ đó không một người nào còn sống sót.
Khi cuộc chiến lan tới Bavaria và các tu viện của hội dòng không thoát khỏi những trâm bom kinh hoàng. Đầu tiên bệnh viện ở Munich bị bỏ bom ngày 17 tháng 8 năm 1943, sau đó là các tu viện ở Ratisbon, Straubing và các cơ sở khác. Dội bom tiếp tục gây nên tử vong và sự tàn phá cho tới chấm dứt cuộc chiến. Một số các tu sĩ bị tử vong khi bị máy bay ném bom tiêu hủy bệnh viện. Nhà tập viện ở Straubing bị tiêu tan hoàn toàn.
Một sự kiện xảy ra ở Ratisbon được cho là một phép lạ. Ngày 17 tháng 8 năm 1943, không lực của Hoa Kỳ xuất hiện trên bầu trời Ratisbon. Còi báo động hú vàng và mọi người vội vã tìm nơi trú ẩn. Vị giám tỉnh vào trong nhà nguyện quỳ gối cầu nguyện. Không ai có thể thuyết phục ngài đi tìm nơi ần náu vì trận càn quét của không lực. Mục tiêu càn quét của không lực là khu vực gần nhà máy Messerschmidt và nhà máy đó bị san bình địa người tử vong lên đến 1200 và hơn 500 người bị thương. Những trái bom rơi sát hai bệnh viện của Hội Dòng nhưng không gây thiệt hai bao nhiêu. Bệnh viện dành cho nam giới chuyển thành bệnh viện quân đội và một nhà nguyện của Tin Lành được dùng là nơi cho những người có niềm tin. Vị linh hướng bệnh viện cho rằng bệnh viện không bị phá hủy là do lời Cầu nguyện của Tu huynh Eustace Kugler. mọi người đều nói rằng bệnh viện còn tồn tại là một phép lạ
Khi tần số không lực bỏ bom ngày càng nhiều, vị linh hướng chuyển mình thánh Chúa tới nơi trú tránh bom đạn, nơi đó tu huynh Eustace quỳ cầu nguyện trước thánh thể để mở lòng mở trí những người khác nữa. Không một ai trong bệnh viện bị thương nặng người khác chỉ bị trầy trụa nhẹ vì trái bom rơi sát bệnh viện.
Khi chiến tranh sắp chấm dứt năm 1945 pháo binh nã pháo khi đó quân đội Mỹ bao vây thành phố và hoàn toàn làm chủ tình hình ngày 27 tháng 4 năm 1945. Giám tỉnh và cộng đồng gia tăng cầu nguyện lần chuỗi mân côi trong hầm trú ẩn trong khi đó xe tăng của quân đội Hoa Kỳ gầm rú ngay trên đầu.
Mọi người nghĩ sự hiện diện cùa quân dội Hoa Kỳ tai ương rắc rối của họ sẽ chấm dứt. nhưng tu huynh Kugler không đồng tình với họ. Quân đội Hoa Kỳ quân đoàn 101 Field Division chiếm đóng bệnh viện dành cho nam này 12 tháng 5 năm 1945 và biến thành trạm quân y thứ 250 dành cho thương binh Hoa kỳ, các tu sĩ bị tống cổ ra khỏi nhà và buộc phải tìm các tư gia cho những người bệnh dân sự . dân dần các tu sĩ cũng tìm được nơi ăn chốn ở tạm ổn cho các bệnh nhân. Kế tiếp quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng luôn bệnh viện dành cho phụ nữ và các tu huynh cũng phải đi tìm chỗ trú thân cho họ, nhưng Quân đội Hoa Kỳ cho phép các nữ tu ở lại trong tu viện của họ trong bệnh viện. Kugler cho ý kiến các chị nên rời khỏi bệnh viện nhưng họ không nghe.
Cá nhân Tu huynh Kugler cảm thấy quá mất mát cho các tu sĩ vì chiến tranh, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hội dòng 10 tu sĩ, 6 người ra chiến tuyến, 4 người chết vì bom 6 người mất tích và 48 người là tù nhân chiến tranh.
Tu huynh Eustace Kugler không bao giờ mất niềm tin khi phải đối mặt với tình hình thực tế này Ngài nói Thiên Chúa an bài mọi sự và đó là niểm hy vọng của ngài tới hơi thở cuối cùng.
Chương XII Tu Huynh Trợ Thế Lộ Trình Chết Thánh Thiện.
Tu huynh Eustace kugler sống được một năm sau kết thúc chiến tranh. Trong thời gian đó ngài cố gắng hồi phục lại các cộng đoàn để các công đoàn có thể hoạt động lại bình thường nhất có thể. Trong suốt cuộc chiến tranh tỉnh dòng không tổ chức một cuộc công hội tỉnh nào. Bề trên tổng quyền ở Rome nói ngài sẽ đến Bavaria sớm nhất có thể để tổ chức công hội tỉnh, nhưng ở Ý cũng có chiến tranh xảy ra khốc liệt như một vài quốc gia khác nơi hội dòng hiện diện.
Mùa thu năm 1945,tình hình sức khỏe của Kugler ngày càng yếu. Ngài thực hiện cuộc tĩnh tâm năm , nhưng lần này ngài không còn tỏ thể hiện ra được sự nhiệt tình như thời gian trước đây. Ngài đối diện với một viễn cảnh trước một cái chết một cách thanh thản. Cơn đau từ căn bệnh đau dạ dày càng ngày càng gia tăng và ngài thường bị ói và xuất huyết nhiều hơn. Thêm vào đó bác sĩ lại tìm thấy một khối u trong dạ dày. Ngày 21 tháng 10, kỷ niệm kim khánh khấn dòng của ngài. đọc lại lời tuyên khấn trước sự hiện diện của các anh em tu sĩ nhiều người tin rằng ngài là một vị thánh.
Ngài tiếp tục giữ cương vi Giám tỉnh, hy vọng công hội tỉnh sẽ giải thóat cho ngài khỏi chức vụ này, nhưng đến mùa xuân bề trên tổng quyền vẫn không đến. Ngày 30 tháng 5 ngày lễ Chúa Thăng Thiên, ngài đến nhà nguyện để tham dự thánh lễ, nhưng ngài ngã quỵ trước khi thánh lễ kết thúc và người ta mang ngài về phòng riêng. Tình hình sức khỏe của ngài trở nên xấu đi rất nhanh, vi tuyên úy đã thực hiện các bí tích thánh thể cho ngài. cuối cùng, tu sĩ Capuchin là linh mục giải tội ban bí tích xức dầu bệnh nhân cho ngài.
Ngài kiên trì nhẫn nại chịu đựng những cơn ói mửa và đau đớn cho đến khi qua đời một cách thanh thản bên cạnh các anh em tu sĩ của ngài lúc 4 giờ 40 chiều ngày 10 tháng 6 năm 1946.
Quân đội Hoa Kỳ cho phép an táng ngài trong nghiã trang bệnh viện. Tất cả các tu viện trưởng trong tỉnh dòng và nhiều linh mục và tu sĩ đã đến tham dự lễ an táng của ngài do linh mục Claros Bierler chủ tế. Luật sư Herr Zwick đọc bài điếu văn tán dương nói về công việc phục vụ năng nổ, nhiệt tình tuyệt vời của ngài cho thành phố Ratisbon ngài xây dựng bệnh viện dành cho nam và nữ như anh em sinh đôi.
Ngôi mộ của ngài đặt dưới chân thánh giá thật lớn hướng về nghĩa trang.
Chương XIII. Tu huynh Thánh Thiện.
Tiếng lành Tu huynh Eustace Kugler thánh thiện loan truyền khắp nơi sau khi ngài qua đời. Ngài thật sự là một con người của niềm tin sâu sắc và đời sống luôn cầu nguyện, và kết quả hoa trái nở rộ phát sinh bởi niềm tin được ngài hấp thụ trong Tin Mừng và trong giáo huấn của Giáo Hội. ngài là một con người chuyên cần, siêng năng cầu nguyện trước thánh thể, ngài là người con đáng yêu của Đức trinh nữ Maria, sùng kính Thánh Giuse và mặc lấy tinh thần cung cách của cha thánh Gioan Thiên Chúa. Ngài luôn trung thành với các lời khấn dòng và tận tâm hy sinh phục vụ cho bệnh nhân và người túng quẫn trong hình ảnh của Đức Kito.
Tu huynh Eustace Kugler chịu đựng những đau khổ triền miên trong cuộc sống, và ngài nhận thức được thánh giá là con đường đưa tới vinh quang. Ngài đã tận hiến trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa qua các công việc bổn phận nhiệm vụ và trách nhiệm của một bề trên cao cấp với sự liêm chính tuyệt hảo bằng cách kết hợp sự ngoan cường với đức ái trong tất cả công việc ngài thực hiện, những ai có dịp cùng làm việc với ngài sẽ cảm thấy rằng họ đang làm việc với một con người của Thiên Chúa. Ngài là một tu sĩ đặc biệt, mọi thứ ngài đảm nhận là ngài đang tiếp tục thực hiện tinh thần tông đổ trợ thế. Không ngạc nhiên gì nhiều người công nhận rằng họ được ơn này ơn kia là do lời cầu nguyện của ngài. hài cốt ngài được cải táng ngày 11 tháng 4 năm 1956 được đặt trong hầm mộ trong nhà nguyện, sau này được đặt trong nhà nguyện thánh Pius V, ngôi nhà nguyện ngài đã xây dựng. Ngày 1 tháng 3 năm 1963. Với thẩm quyền của giám mục giáo phận Ratisbon, qua trình phong thánh bắt đầu ngày 14 tháng 5 năm 1965 sau đó tất cả các tài liệu đã gửi về Rome. Tất cả sự nghiệp công trạng của ngài được trình bày trong các lá thư và các tài liệu và qua Hồng y thỉnh nguyên viên, và các giám mục và các bề trên cao cấp Hội Dòng và bản thỉnh nguyện đã được chấp thuận ngày 1 tháng 4 năm 1969.
Bảng Biên Niên Sử
Thánh Eustace Kugler
(1867 – 1946)
15 tháng 1 năm 1867
Chào đời tại Neuhaus, thuộc giáo xứ Nittenau.
Song thân: cha Michael Kugler và Mẹ: Ana Maria Schuster.
Anh em ruột: Franciskus (1852);
Margarita (1856 – 1920)
Michael (1859 – 1922)
Catherine (1861 – 1926)
Regina (1864 – 1865)
Giuse (1867 – 1946) thánh Eustace Kugler
31 tháng 3 năm 1872
Cha của Giuse qua đời, ông là thợ lò rèn
Khi đó Giuse lên 7 tuổi
1873 – 1880
Nhập học trường tiểu học ờ Nittenau
1880 -1882
Tham gia lớp học ngày chủ nhật trong giáo xứ Nittenau
21 tháng 7 năm 1880
Chịu phép thêm sức ở giáo xứ Nittenau do giám mục Sanestrey giáo phận Regenburg.
1882
15 tuồi tới Munich sống với anh trai Franciskus và học việc trong xưởng cơ khí.
Người chị Catherine làm việc cùng chỗ là người nấu ăn Munich trợ giúp cậu.
Người mẹ sức khỏe không tốt đến sống với người con gái Margaret ở Reichenback cô kết hôn với Giuse Spitzer (19-6-1882) con rể làm thợ rèn làm việc chính ở nông trang của họ và làm thêm nghề cắt cây.
Catherine rời Munich đến Reinchenback để săm sóc mẹ
17 tháng 12 năm 1883
Là cha đỡ đầu cho cháu trai con anh rể Giuse Spitzer chồng của chị gái Margaret.
Trong một lần nọ đi làm việc đã bị bạn thợ đẩy té xuống khỏi giàn giáo bị thương nặng gẫy chân và trật mắt cá chân, là nguyên nhân gây cho cậu bị tật suốt đời. cậu nằm viện một thời gian dài và cầu nguyện lâu trong nhà nguyện được mọ người quý mến.
1884
Cho xuất viện vì vết thương không thể chữa lành, không thể đi làm nên trở về Reichenbach và ở với mẹ trong nhà chị gái Margaret. Cậu giúp chăn bò cho anh rẻ ở nông trại và công việc tiều phu. Công việc không thể giữ được vệ sinh cho vết thương đe dọa phải cắt chân.
11 tháng 6 năm 1884.
Chi Margaret kết hôn với anh chàng thợ rèn Giuse Reichenberger anh có một của hàng lò rèn. Giuse và Mẹ sống với gia đình người con rể này công việc trông coi cửa hàng lò rèn có chiều tiến bộ và vì thế sức khỏe cũng tiến triển tốt hơn.
12 tháng 6 năm 1886.
Người mẹ qua đời ở Reichenbach
19 tuổi Giuse tận hiến cho Đức Mẹ
17 tháng 11 năm 1890
Các tu huynh Dòng Gioan Thiên Chúa sửa chữa lại tu viện cổ bỏ hoang ở Reichenbach và biến nó thành một bệnh viện dành cho bệnh nhân động kinh và tàn tật - tâm thần.
Các tu huynh Gioan thiên Chúa mướn người thợ rèn Reichenberger người anh rể mang theo Giuse để giúp công việc.
2 tháng 7 năm 1891
Một cơn bão mạnh làm hư hỏng nhà của các tu huynh ở Reichenbach. Tu huynh Eligius Neumeir, phó bề trên tu viện từ năm 1891 – 1983 giúp Giuse chữa lành vết thương ở chân mặc dù mang thương tật suốt đời. Giuse được các tu huynh Gioan Thiên Chúa mướn làm công việc chuyên môn về sắt thép.
Giờ chân đã lành cậu hứa với Đức Mẹ cậu sẽ trở thành tu sĩ Gioan Thiên Chúa. Cậu tự vấn “tại sao tôi không thể làm công việc như một tu sĩ làm?”
Cậu nộp đơn xin gia nhập Hội Dòng nhưng một số anh em tu sĩ từ chối vì thương tật chân.
Mùa thu năm 1892
Các tu huynh Gioan Thiên Chúa nói vói cậu có thể nhập dòng để thử thách
15 tháng 1
Cậu được chấp thuận vào cộng đoàn ở Reichenbach lấy tên thánh là Eustace
Trong cộng đoàn này vị phó bề trên tu huynh Hertman Wasinger hỗ trợ cậu rất nhiều.
9 tháng 8 năm 1893;
Eustace chuyên từ nhà ở Reichenbach sang nhà ở Worishofen ở đó Eustace nhận công tác thiết kế ống nước.
29 tháng tám năm 1983
Cha xứ, thị trưởng ở Nittenau chứng thực giấy rửa tội, tinh thần học hỏi và nhân cách tích cực nên được tán thành gia nhập Hội Dòng.
10 tháng 10 năm 1893
Chính quyền của Suabia và Neuburg chính thức cho phép theo yêu cầu cho cậu được nhập dòng.
11 tháng 7 1894
Các tu sĩ ở Worishofen từ chối không cho vào tập viện vì sợ vết thương chân tái phát
Giám tỉnh với sự chấp thuận của bề trên tổng quyền ở Rome cho phép cậu vào tập viện
27 tháng 8 năm 1894
Bề trên Giám tỉnh gửi cậu tới tập viện ở Neuburg.
20 tháng 10 năm 1984
Vào tập viện ở Neuburg và nhận áo dòng
Lá thư của giám tỉnh viết đức tính của Eustace là “khiêm nhường thinh lặng và cần mẫn”
21 tháng 10 1895.
Tuyên khấn lời khấn tạm thánh hiến trong Dòng
Thực hiện cuộc tĩnh tâm và viết ra những quyết tâm muốn thực hiện
Giữ những điều cam kết và luôn đổi mới trong tình tâm năm và tĩnh tâm tháng.
Những quan điểm này được diễn đạt trong cuộc sống tinh thần sống động, luôn đồng hành với tu huynh trong suốt 50 năm trong đời sống tu sĩ.
26 tháng 10 năm 1895
Thày được thuyên chuyển về cộng đoàn ở Reichenbach.
30 tháng 8 năm 1898
Công hội địa phương Reichenbach chấp nhận thày khấn trọng thể.
30 tháng 10 năm 1898
Thày tuyên khấn trọng thể ở Reichenbach
Hấu hết các thành viên trong gia đình đến dự lễ.
13 tháng 10 năm 1898
Tên tu huynh Eustace xuất hiện đầu tiên trong danh sách tu sĩ trong cộng đoàn.
24 tháng 5 năm 1899
Tu huynh thuyên chuyển sang công đoàn ở Grensdorf
22 tháng 6 năm 1899
Được bổ nhiệm là phó bề trên cộng đoàn Grensdoft, đây là vị trí chức trách đầu tiên .
30 tháng 7 năm 1902
Tu huynh chuyển về công đoàn ở Kaisheim
Tu huynh chăm sóc bệnh nhân tù nhân.
8 tháng 6 năm 1905
Công hội tỉnh tổ chức tại Neuburg bầu thày là tu viện trưởng nhà thứ hai ở Straubing, một cơ sở điều trị bệnh nhân tâm thần bị tàn tật.
16 tháng 6 năm 1905
Tu huynh nhận nhiệm sở tu viện trưởng cộng đoàn ở Straubing
10 tháng 5
Tu huynh tái chức vụ tu viện trưởng Straubing
31 tháng 5 1910
Tu huynh xin phép giáo quyền được phép quyên góp ở Lower Bavaria cho bệnh nhân nghèo của cơ sở.
10 tháng 12 năm 1910
Tuyên thệ chống lại chủ nghĩa hiện đại của giáo hoàng Pius X
8 tháng 6 năm 1911
Tái vị trí tu viện trưởng lần thứ 3 tại cộng đoàn Straubing
12 – 15 tháng 5 năm 1914.
Công hội tỉnh bầu tu huynh là tu viện trưởng của ở Gremsdo Hospital.
25 – 27 tháng 1 năm 1920.
Công Hội Tỉnh dòng được tổ chức tại Neuburg sau chiến tranh thế giới thứ I, tu huynh được bầu vào ban cố vấn tỉnh thứ 3 và là tu viện trưởng Germsdo hospital.
8 – 10 tháng 6 năm 1922
Công Hội Tỉnh bầu tu huynh là cố vấn tỉnh thứ hai và là tu viện trưởng của trụ sở Tỉnh dòng ở Neuburg. Có nghĩa là tu viện trưởng của nhà tỉnh dòng làm trụ sở.
19 tháng 6 năm 1925
Công Hội Tỉnh tổ chức tại Neuburg từ ngày 17 – 21 tháng 6, tu huynh được bầu chức vụ Giám Tỉnh tỉnh dòng Bavaria (ngài ở chức vụ tỉnh dòng 21 năm cho tới khi qua đời.)
Ngài lấy tước hiệu tỉnh dòng là Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
Tháng 2 năm 1926
Viết thư luân lưu nói về kinh truyền tin và hình thức sùng kính Đức Trinh Nữ Maria.
25 tháng 9 năm 1926.
Tu huynh viết thư cho các tu viện trưởng trong tỉnh về xây dựng một bệnh viện lớn ở Regenbug và xin kiến để cầm cố thế chấp bệnh viện.
22 tháng 3 năm 1927
Ngài ký hợp đồng với chính quyền thành Phố Munich để hội dòng điều hành nhà trú đêm cho những người vô gia cư.
12 tháng 5 năm 1927
Tỉnh dòng Bavaria nhận được sự ủng hộ của chính quyền xây dựng hai bệnh viện công giáo một dành cho nam và một dành cho nữ giới.
21 tháng 6 tới 30 tháng 10 năm 1927
Kinh lý tỉnh dòng theo giáo luật.
26 – 1 tới tháng 5 năm 1928
Tham dự Tổng công hội tại Rome Tu huynh Faustinus được bầu bề trên tổng quyền.
17 tháng 5 năm 1928
Tu huynh đặt viên đá đầu tiên xâ dựng hai bệnh viện ở Regensbug.
2 tháng 6 năm 1928
Tái chức vụ giám tỉnh lần 2 trong công hội tỉnh tổ chức ở Neuburg do bề trên tổng quyền Faustinus Calvo chủ tọa.
15 tháng 10 năm 1928
Tu huynh gửi thư luân lưu cho các tu sĩ sống sao cho xứng đáng với ơn gọi tu sĩ.
22 tháng 4 1919
Dâng kính trọng thể nguyện đường kính Thánh Giáo Hoàng Pius X ở Regenburg hospital. Có Tu huynh bề trên tồng quyền Faustinus Calvo và tu huynh tổng đại diện tu huynh Narcissus Durschein tham dự.
19 tháng 6 năm 1929
khánh thành Bệnh viện dành cho nam ở Regenburg .
30 tháng 8 năm 1929
Ngài viết thư cho vị đại diện tổng quyền thông báo bệnh loét da dày gây nhiều loa âu cho ngài. bị bệnh loét dạ dày cho tới khi qua đời.
6 tháng 12 năm 1929
Khai trương bệnh viện dành cho phụ nữ.
22 – 25 tháng 5 năm 1930
Tham dự tổng công hội bất thường ở Rome do bề trên tổng quyền Faustinus Calvo triệu tập.
24 tháng 5 năm 1930
Cùng với các đại biểu công hội tham kiến đức Giáo Hoàng Pius X
2 tháng 5 năm 1931
Tái nhiệm chức vụ giám tỉnh lần 3 do vị đại diện tổng quyền tu huynh Narcissus Durschchein chủ tọa
3 tháng 8 tới 14 tháng 11 năm 1932
Thực hiện cuộc kinh lý theo giáo luật tất cả các nhà trong tỉnh.
30 tháng 3 tới 10 tháng 4
Tham dự tổng công hội tại bán đảo Teberia, Rome.
1 tháng 4 năm 1934
Tham dự lễ phong thánh Gioan Bosco ở vương cung thánh đường Basillica,Vatican
2 tháng 4 năm 1934
Tham dự lễ bế mạc năm thánh.
3 tháng 4 năm 1934
Tham dự nghi thức mở rộng và cải tạo lại bệnh viện Isola Tiberina.
8 tháng 4 năm 1934
Tham gia Tổng Công Hội tu huynh tổng đại diện Narcissus Durschschein là bề trên tổng quyền.
4 tháng 6 năm 1934
Công hội tỉnh, được bầu là giám tỉnh nhiệm kỳ thứ 4 tổ chức tại Schweinspoint (?)
26 tháng 6
Tháp tùng bề trên tổng quyền đi kinh lý các nhà trong tỉnh dòng.
12 tháng 8
Gửi thư luân lưu cho các cộng đoàn quyết định Công Hội Tỉnh và động viên nhắc nhở tu sĩ tuân thủ luật Quy Luật và Hiến Pháp dòng.
15 tháng 10 năm 1934
Với sự đồng ý của bề trên tổng quyền, tu huynh Eustace chuyển Trụ Sở Tỉnh Dòng từ Neuburg sang Regenburg, tuy nhiên vẫn giữ tước hiệu cũ của tỉnh dòng ở Neuburg.
15 – 18 tháng 7 năm 1937
Tái chức vụ Giám Tỉnh nhiệm kỳ 5 trong công hội tỉnh tổ chức tại Ratisbon.
9 tháng 8 năm 1937
Ngài bị cơ quan mật vụ Gestapo thẩm vấn khủng bố một cách kinh hoàng. Và ngài bị ngất, được hai vị bác sĩ cứu chữa.
17 tháng 8 năm 1943
Ratisbon bị ném bom nhưng bệnh viện không bị thiệt hại nghiêm trọng.
Ý kiến chung chung người ta nói rằng bệnh viện không bị hư hại là do lời cầu nguyện của thánh Eustace Kugler.
12 tháng 5 năm 1945
Quân đội Hoa Kỳ giải phóng Regenburg và lấy bệnh viện của dòng dùng làm bệnh viện quân đội chữa thương bệnh binh của quân đồng minh. Các tu sĩ được phép ở lại và tiếp tục làm việc ở đây.
Tu huynh Eustace phản đối quân đội Hoa kỳ chiếm đóng bệnh viện nhưng không ăn thua gì.
10 tháng 7 năm 1945
Quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng luôn bệnh viện dành cho phụ nữ
Họ tịch thu mà không cần quan tâm gì đến ý kiến của các tu sĩ.
Mùa xuân năm 1945
Giờ đã già và ốm yếu ngài đi thăm các nhà trong tỉnh để củng cố, hỗ trợ các tu sĩ bị ảnh hưởng nặng vì cuộc chiến tranh.
21 tháng 10
Mừng kim khánh khấn dòng, ngài cầu nguyện được bình an. Tất cả các tu viện trưởng và nhiều tu sĩ tham dự lễ ngân khánh của ngài.
19 tháng 12 năm 1945
Quân đội Hoa Kỳ đuổi các tu huynh và nữ tu ra khỏi hai bệnh viện
Điều này tu huynh Eustace đã tiên lượng trước.
23 tháng 4 1946
Ngài yêu cầu tu viện trưởng ở Neuberg cho thuốc để giảm bớt cơn đau khá nặng.
16 tháng 5 năm 1946
Sức khỏe của ngài sa sút nhanh chóng nhưng ngài vẫn từ chối điều trị vì ngài biết không còn chữa trị được nữa và ngài muốn theo chế độ cu065c sống bình thường của cộng đoàn.
30 tháng 5 năm 1946
Ngài bị choáng trong khi tham dự thánh lễ Chúa Biến Hình và được mang về phòng riêng
Sức khỏe rất yếu, chỉ ngồi một chỗ và không thể di chuyển nếu không có sự trợ giúp
Ngài bị ói và lên cơn đau thường xuyên.
31 tháng 5 năm 1946
Ngài yêu cầu được chịu các phép bí tích và linh mục linh hướng bệnh viện đã ban cho ngài.
9 tháng 6 năm 1946
Ngày lễ Chúa nhật Chúa lên trời ngài lãnh nhận xức dầu bệnh nhân do linh mục giải tội của ngài từ năm 1932 linh mục. Eugene Harttl.
Ngài yêu cầu chép cho ngài một bản 7 ơn chúa thánh thần để ngài giữ bên mình.
10 tháng 7 năm 1946
Tu huynh Vincent Ferber tiếp tục săn sóc ngài.
Ngài cảm thấy đau đớn và thường xuyên bị ói nhưng ngài vẫn không ngường cầu nguyện lần chuỗi mân côi.
Vào khoảng 4 giờ chiều Linh mục Galus Lethmeier đọc sách và cầu nguyện cho ngài trong cơn hấp hối. các tu sĩ trong cộng đoàn tề tựu cùng cầu nguyện với linh mục Comun bên cạnh giường và ngài qua đời trong bình an thư thái.
13 tháng 6 năm 1946
Lễ an táng của ngài cử hành một cách trọng thể với sự kính trọng của lực lượng quân đội Hoa Kỳ đang chiếm đóng bệnh viện.
Nhà nguyện trang hoàng cờ tang màu đen, màu vàng đỏ cờ của Bavaria và màu vàng trắng màu cờ của giáo hội.
Xác ngài được chôn cất dưới cây thập tự lớn nghĩa trang của hội dòng bên cạnh bệnh viện.
Chương XV Tiến Trình Phong Thánh Tu Huynh Eustace Kugler.
1 tháng 3 năm 1963
Gám mục Rudolf Grabber giáo phận Regenburg đề nghị tiến trình phong chân phước theo thỉnh nguyện của hội dòng, và ngài mở tiến trình phong thánh tại giáo phận.
Một tòa án xem xét được chủ trì theo giáo luật và Giuse Erhardsberger được chỉ định làm thẩn phán ủy nhiệm.
phỏng vấn tất cả 78 nhân chứng
đồng thời bắt đầu xem xét những văn bản của ngài.
Tu huynh Casimir Metsger được chỉ định là phó thỉnh nguyện viên.
18 tháng 2 năm 1965
Trong suốt quá trình xem xét tiến trình phong thánh trong giáo phận không tổ chức nghi lễ sùng bái.
14 tháng 5 năm 1965
Tiến trình điều tra giáo phận chấm dứt, tất cả tài liệu được gửi về thánh bộ phong thánh ở Rome.
25 tháng 8 năm 1965
ủy ban phong thánh mở tiến trình phong thánh, về nhân đức thánh thiện của ngài.
15 tháng 1 năm 1966
Hồng Y Arcadio Larraona CMF, được chỉ định là người trình bày tiến trình phong thánh
1 tháng 4 năm 1969
Sắc lệnh công nhận các văn bản của ngài
1 tháng 6 năm 1981
Ử Ban Thánh bộ phong thánh đề nghị các nghiên cứu và những điều sửa soạn cho tiến trình phong thánh theo nguyên tắc cũ nay phải thực hiện theo luật giáo hội (ApostolicContitution) ‘Sancaitas Clarior’ (1969)
Yêu cầu được chấp nhận từ bây giờ trở đi các nghiên cứu và phải phù hợp với các nguyên tắc tiến trình phong thánh mới.
13 tháng 4 năm 1984
Ủy ban phong thánh chỉ định một người trình bày tiến trình phong thánh mới đó là linh mục Ambrose Eszer O.P.
Linh mục Eszer trình bày tiến trình phong thánh theo cách thức mới và thêm vào những tài liệu mới và trình bày cho ủy ban phong thánh.
10 tháng 4 năm 1992
Lý do hoàn cảnh sự thay đổi có nhiều khác nhau từ lúc thay đổi luật lệ nhưng tổ chức tiến trình phong thánh giáo phận ở Regensburg ( 1 tháng 3 năm 1963 tới 14 tháng 5 năm 1965) đã có sắc chỉ hợp pháp.
Tháng 5 năm 1992
Sau khi nghiên cứu xem xét ý kiến của các nhà thần học ‘ các công việc chuẩn bị cho tiến trình phong thánh ( 2 cuốn sách) được trao cho bộ nghi lễ phong thánh. Tuy nhiên chỉ có một tài liệu liên quan đến phép lạ cần thiết phải được trình bày theo như những gì đã thu thập nghiên cứu được.
8 tháng 6 năm 2004.
Những tài liệu chứng minh về phép lạ đã được sửa soạn (tháng 10 năm 2003) đã được lên chương trình cho tiến trình phong thánh, vì thế, các đề xuất về các nhân đức của tôi tớ chúa đã được trình bày trong ngày này cho các nhà thần học trong hội đồng tư vấn thần học. Kết quả mọi người đều đồng thuận.
11 tháng 1 năm 2005.
Theo kết quả thỉnh nguyện của sự thỉnh nguyện và Ủy ban phong thánh, giám mục Lorenzo Chiarinelli là người chính thức trình bày việc phong thánh.
1 tháng 2 năm 2005
Ủy ban thường trực Hồng Y và Giám mục xem xét các nhân đức của tôi tớ Chúa và mọi người đều có ý kiến đồng thuận.
Giám mục Lorenzo là người bảo vệ, bào chữa.
19 tháng 12 năm 2005
Giáo hoàng Benedict XVI ban hành sắc lệnh công nhận các hạnh tích anh hùng.
Sắc lệnh này đề ra những tước hiệu cao quý đáng kính.
QUÁ TRÌNH PHÉP LẠ.
Tháng 10 năm 2003.
Dân chúng đưa ra những tài liệu thỉnh cầu giám mục giáo phận Regensburg mở cuộc điều tra phong thánh cẩn trọng cho Tôi Tớ Thiên Chúa Eustace kugler một ưu ái ban cho chàng trai trẻ Karl Grossi lên bậc chân phước.
15 tháng 1 năm 2004
Tu huynh Leodegard Klinger OH, được chỉ định là phó thỉnh nguyện viên trong tiến trình phong thánh tổ chức giám sát cẩn thận trong giáo phận.
22 tháng 1 năm 2004
Tiến trình điều tra phong thánh giáo phận cho tôi tớ Eustace Kulerg được khai mở tại giáo phận Regensburg.
23 tháng 7 năm 2004
Thiến trình điều tra phong thánh giáo phận kết thúc ở Regensburg và tài liệu được gửi về ỦY Ban Phong Thánh , Rome.
29 tháng 7 năm 2004
Mở niêm phong tài liệu quá trình phong thánh trong giáo phận được tổ chức trong giáo phận Regensburg. Thỉnh nguyện viên trình bày lời thỉnh cầu trường hợp phong thánh này ngày 26 tháng 7 năm 2004.
13 tháng 5 năm 2005
Sắc lệnh phê chuẩn tiến trình điều tra phong thánh giáo phận Regensburg. Hìnhn thức này đòi hỏi chính thức cho công trình điều tra hợp pháp công bố vào ngày 2 tháng 9 năm 2004.
14 tháng 6 năm 2007
Hội đổng cố vấn y khoa khẳng định phép lạ được cho là của tôi tớ chúa của chàng trai trẻ Karl Grossi
30 tháng 10 năm 2007
Các nhà tư vấn thần học không mấy dễ chịu với sự khẳng định của ủy Ban y khoa cho rằng hoàn toàn chắc chắn đối với Karl Grossl từ một tai nạn rất nghiêm trọng theo lý thuyết đều công nhận điều này, dù vậy một số người cho rằng đó cũng là hành động của Thiên Chúa can thiệp vào cho người Tôi Tớ Thiên Chúa.
4 tháng 3 năm 2008
Hội đồng thường trực Hồng Y và Giám mục bàn thảo đánh giá về phép lạ. Cuộc họp kết thúc có một vài khía cạnh của tai nạn và sống sót của cậu thanh niên cần điều tra rõ thêm nữa để có thêm thông tin rõ ràng hơn trước khi có quyết định cuối cùng.
16 tháng 10 năm 2008.
Những điều trình bày của thỉnh nguyên viên cho hội đồng các Hồng Y và Giám mục yêu cầu đã thực hiện điều tra them về những khía cạnh nêu trên ‘tập hồ sơ đáng tin cậy và kỹ thuật liên quan tới việc trên, cùng với một bản báo cáo y-khoa hợp pháp do Bác sĩ Enroli trình bày.
2 tháng 12 năm 2008
Cuộc họp lần 2 hội đồng Hồng Y và Giám mục phán đoán quyết định về phép lạ với bài tường trình ‘đáng tin cậy’ do thỉnh nguyện viên trình bày.
Giám mục Lorenzo Chiarinelli trình bày báo báo.
Sự kiện này đón nhận được sự thờ ơ vàchi3 trông chờ vào sắc chỉ của Giáo hoàng.
17 tháng 1 năm 2009
Đức giáo Hoàng benedict XVI chính thức công bố sắc chỉ chấp thuận phép lạ, điều này mở ra lộ trình tới phong Chân Phước.
Khai Quật, Công Nhận và Chuyển Hài Cốt.
11 tháng 4 năm 1956
Vì danh thơm tiếng tốt thánh thiện nên hài cốt của ngài được khai quật mang chôn ở hầm mộ trong nhà nguyện bệnh viện
Ngài Canon Martin Deubzer chủ tọa với tư cách là vị đại diện của Giám mục.
4 tháng 3 năm 1982
Chuyển hài cốt từ hầm mộ trong nhà nguyện sang bên nhà nguyện được sửa soạn ‘ad hoc’ trong nhà nguyện thánhn Pius V.
Hấu hết các vị chức sắc. Enmeraldo Ritter, chức sắc theo luật giáo hội của giáo phận Regensburg đại diện cho giám mục Rudolf Garber chủ tọa cuộc chuyể hài cốt.
2009
Giám mục Gerhard Ludwig Muller giáo phận Regensburg viết tường trình cho Ủy ban phong thánh xác nhận sự kiện chuyển hài cốt.
18 tháng 2 năm 2009
Thỉnh nguyện viên kèm theo thư của giám mục giáo phận Regensburg nêu một vài điểm đặc biệt về nhận dạng hài cốt và những điều quan trọng khác về các vật thánh tích.
21tháng 2 năm 2009
Ủy ban phong thánh ủy thác qua văn thư Prot # 1070- 36-09 và hồi âm cho sự chỉ thị, và công nhận việc chuyển hài cốt tới nhà nguyện mới.
19 tháng 9 2009
Ngôi mộ chôn cất hài cốt trang trọng khai quật theo sự chỉ dẫn của Ủy Ban phong thánh.
Sự kiện này đích thân vị chủ tọa , Giám Mục giáo phận Regensburg, cùng với sự trợ lực của Giám Mục phụ tá, tòa án, thỉnh nguyện viên các kỹ thuật gia và các tu sĩ.
1 tháng 7 năm 2009
Nghi thức chứng nhận hài cốt: tiến trình thủ tục ký nhận về nơi đặt hài cốt trong một bình đựng hài cốt được niêm phong và là chứng cứ cho sự kiện chuyển hài cốt tới nhà nguyện khác.
Phong Chân Phước
6 tháng 2 năm 2009
Thỉnh nguyện viên nhân danh Giám Mục Regensburg và các tu huynh Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa trình cho đức thánh cha Benedict XVI đề xuất ngày 4 tháng 10 tổ chức lễ phong Chân phước.
13 tháng 2 năm 2009
Văn phòng Thư Ký tòa thánh Vatican thông báo văn thư (#103. 186) cho Hội Dòng Gioan Thiên Chúa rằng Đức Giáo Hoàng chuẩn thuận phong chân phước cho Tôi Tớ Thiên Chúa Eustace Kulerg có thể được tiến hành ngày 4 tháng 10 năm 2009 tại Regensburg.
Đồng thời cho biết vị đại diện Giáo Hoàng là giám mục Angel Amato SDB chu tất mọi công việc với Ủy ban Phong Thánh sự kiện phong thánh ngày 4 tháng 10 năm 2009.