Thứ Tư 29/12/2021 – Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh. – Cụ già Si-mê-on.

Thứ Tư 29/12/2021 – Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh. – Cụ già Si-mê-on.

"Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân".

 

LỜI CHÚA: Lc 2, 22-35

Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".

Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Suy Niệm 1: Ơn cứu độ cho muôn dân

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.

Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.

Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).

Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),

nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế

để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).

Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),

phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.

Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.

Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,

và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.

Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.

Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,

dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.

Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.

Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.

Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.

Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).

Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.

Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).

Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.

Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.

Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?

Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.

Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25),

và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).

Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).

Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,

nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.

Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.

Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,

còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.

Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.

Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.

Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).

Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,

là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).

Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,

cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.

Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.

Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.

Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,

chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.

Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa

ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Chúa hiện diện lặng lẽ

như tấm bánh nơi nhà Tạm,

nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,

những người sống không ra người.

Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,

nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người

gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.

Chúa hiện diện nơi Giáo Hội

gồm những con người yếu đuối, bất toàn,

và Chúa cũng ở rất sâu

trong lòng từng kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con thấy Chúa

đang tạo dựng cả vu trụ

và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người

vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra

Chúa đang hẹn gặp con

nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,

thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.

Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa

trên bước đường đời của con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Ánh sáng muôn dân

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cụ già Simeon nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện như ánh sáng soi đường. Đó chính là ánh sáng tình yêu và sự sống soi vào đêm tối bất hòa chết chóc của nhân loại. Không phải tình yêu nói suông nhưng tình yêu cụ thể bày tỏ bằng việc làm.

Tình yêu đối với Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn của Người. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse không buộc phải giữ luật Môse dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa. Nhưng các ngài đã khiêm nhường và vâng lời tuân giữ để tỏ lòng hiếu thảo với Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu đến không phải để bãi bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Người Do thái tuân thủ lề luật vì sợ hãi, nên giữ luật cặn kẽ với tinh thần nô lệ. Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách tuân giữ lề luật vì lòng yêu mến đối với Đức Chúa Cha, giữ trọn vẹn trong tinh thần tự do của người con hiếu thảo. Đó là tình yêu tuyệt hảo vì được minh chứng bằng hành động. Đó là cách giữ luật tuyệt hảo vì được thực thi với tình yêu.

Tình yêu đối với tha nhân được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn mới của: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúa Giêsu đến chiếu lên làn ánh sáng mới chan hòa yêu thương soi đường cho nhân loại. Từ nay sáng tối phân minh, thiện ác tách bạch. Ai ghen ghét vẫn còn bị giam cầm trong bóng tối sự chết. Ai yêu thương sẽ được hưởng ánh sáng ban sự sống. Ai ghen ghét sẽ bị bóng tối phủ lấp, không thấy đường đi và vĩnh viễn bị lầm lạc. Ai yêu thương sẽ được ánh sáng soi dẫn, sẽ “ở lại trong Chúa Giêsu, đi trên con đường của Chúa Giêsu”, “là con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống”.

Tình yêu chính là con đường sáng. Con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Chúa Giê-su chính là đường đi. Ta hãy đi theo Người. Đi trong tình yêu. Ta sẽ góp phần chiếu ánh sáng vào thế giới. Ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng ban hoà bình.

Lạy Chúa Giêsu Bé Thơ, con chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp đẽ của Chúa được dâng trong Đền Thờ. Xin cho con được noi gương Chúa có lòng hiếu thảo yêu mến Đức Chúa Cha, vui vẻ tự nguyện giữ trọn vẹn luật Chúa. Xin cho con biết yêu mến anh em thật lòng, để không còn một bóng tối nào che phủ tâm hồn con, để con hoàn toàn sống trong ánh sáng tình yêu của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Dâng Chúa vào Đền thờ

Một đêm khuya nọ, tại một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối và người mẹ goá phải đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa nghèo nàn của người đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ cho thằng bé đó không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục kiếp nông dân cùng khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế nhưng bị lương tâm nghề nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa bé. Sau này đứa bé đó đã trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất của nước Anh.

Người Mỹ thường nói: “Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Quả thực mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với cái nhìn đức tin thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của cụ già Simêon về Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh quang ấy được tỏ lộ xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.

Đó cũng là cái nhìn chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong Hài nhi bé nhỏ, chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn tăm tối của máng cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Xuyên qua cái bé nhỏ tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối của thất bại khổ đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của niềm tin. Chúng ta cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha nhân: nơi những con người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được mời gọi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây của cuộc sống độc điệu âm thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu; thất bại mất mát, khổ đau cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên Chúa luôn có thể ban tặng con người.

Nguyện xin Hài nhi Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria, người mà một lưỡi gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy trông, phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.

 

Suy Niệm 4: Hạnh phúc cho người được gặp Chúa

Ngày nay, những gia đình Công Giáo thường mang con mình đến nhà thờ xin cho bé được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để gia nhập Giáo Hội, tham dự vào đoàn dân những người tin Chúa.

Khi xưa, thời Đức Giêsu cũng vậy, khi được tám ngày, cha mẹ Ngài bồng Hài Nhi Giêsu đến đền thờ để dâng cho Thiên Chúa.

Đức Giêsu là Thiên Chúa tối cao. Tuy nhiên, trong ngày trọng đại này, chúng ta không thấy có những người sang giàu, quyền chức, nhưng chỉ có những người bé mọn hiện diện! Kinh Thánh cho hay, những người đón chào và diễm phúc được gặp Đức Giêsu trong ngày này không ai khác ngoài ông Simêon và bà Anna. Họ là những người bình thường, đơn sơ, nghèo khó. . . là những người nghèo của Giavê, nhưng tâm hồn thánh thoát, nên đã được gặp Chúa của bình an.

Mặt khác, chúng ta còn nhận thấy nơi Đức Maria và thánh Giuse một tấm gương khiêm tốn, trung thành với luật. Thật vậy, các ngài thừa biết được Hài Nhi Giêsu này là Con Thiên Chúa, và các ngài đang được đặc ân lớn lao là chăm sóc Đấng Cứu Độ trần gian. Như vậy, xét theo lẽ thường, các ngài có quyền từ trối việc giữ luật này, bởi vì Đức Giêsu chính là trọng tâm của luật. Nhưng không, các ngài đã khiêm tốn, tuân hành lề luật của Thiên Chúa cách yêu mến, không tìm đặc lợi cho mình chỉ vì có uy thế. . .

Ngày nay, nhiều người hay nhân danh chức quyền, công trạng hay giàu có để xin miễn chuẩn cho mình những việc bổn phận với Giáo Hội, xã hội. . . Tuy nhiên, khi làm như thế, chúng ta quên mất một điều là phần thưởng mai hậu của chúng ta đã bị đóng lại, vì hẳn nhiên chúng ta đã được nguồn lợi rồi! Tệ hơn nữa là khi chúng ta muốn được miễn chuẩn việc bổn phận mà không được đáp ứng, nhiều người đã có những lời lẽ tiêu cực, chỉ trích trong sự kiêu ngạo. . . và như thế, những sự quảng đại chia sẻ cách này hay cách khác trước đó của chúng ta đã đứng lên tố cáo và như bản án vạch trần hình thức vụ lợi, thực dụng của chúng ta thuần túy chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: trước tiên, nhìn vào Đức Mẹ và thánh Giuse, không tìm những đặc ân miễn chuẩn cho mình, nhưng các ngài đã thi hành, chu toàn bổn phận cách yêu mến. Thứ đến, noi gương ông Simêon và bà Anna, sống khiêm tốn, chân thành, đơn sơ để được Thiên Chúa mặc khải những điều kín nhiệm.

Cuối cùng, khi được diễm phúc gặp Chúa, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa như những người nghèo của Thiên Chúa trong đền thờ khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria và thánh Giuse trong việc yêu mến và tuân giữ luật Chúa. Xin cho đời sống của cụ già Simêon và Anna là nguồn gợi hứng cho chúng con trong việc thờ phượng Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Cụ già Simêon gặp Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Cụ già Si-mê-on khao khát được gặp Đấng Cứu Thế. Được ôm Chúa Giêsu vào lòng, cụ cảm thấy mãn nguyện và sẵn sàng ra đi về với Thiên Chúa. Hạnh phúc cao cả nhất của đời người là được gặp Chúa và đón nhận Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cụ già Si-mê-on đã đi gần trọn một cuộc đời, từng trải qua những vui buồn sướng khổ, từng tận hưởng hân hoan hạnh phúc. Nhưng cuộc sống đời này dù có hấp dẫn đến đâu cũng không làm cho cụ được thỏa mãn. Cụ vẫn cảm thấy thiếu, chỉ biết trông đợi Chúa là niềm an ủi duy nhất của đời cụ. Còn gì sung sướng hơn là được gặp Chúa, còn gì hạnh phúc hơn là được bồng ẵm Chúa trên tay. Bấy nhiêu dù chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, cũng đủ làm cho cụ mãn nguyện hơn cả một đời người đã đi qua. Cụ sẵn sàng ra đi trong bình an, không còn điều gì để luyến tiếc.

Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa cho con hạnh phúc hơn cụ Si-mê-on rất nhiều. Hằng ngày Chúa cho con được gặp Chúa trong niềm tin, được ôm Chúa vào lòng qua bí tích Thánh Thể, Chúa đồng hành với con mọi nơi mọi lúc. Xin Chúa giúp con cảm nhận hồng ân cao cả này. Cuộc đời này nhiều cám dỗ mời mọc, lắm thứ lôi cuốn hấp dẫn, nhưng lạy Chúa, đó chỉ là những niềm vui giả tạo, những hạnh phúc chóng qua. Tất cả chỉ để lại trong con một sự chán ngấy và càng khơi sâu niềm khát vọng trong con. Chỉ có Chúa mới là niềm hạnh phúc chân thật và lẽ sống của con. Xin Chúa đừng để con lạc đường.

Hôm nay con cầu xin cho những người lớn tuổi, xin Chúa cho các cụ được mãn nguyện trong niềm vui gặp Chúa, được sống tuổi già hạnh phúc và về với Chúa trong bình an. Amen.

Ghi nhớ: “Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân”.

 

Suy Niệm 6: Cụ già Simêon chúc tụng Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Đoạn Kinh Thánh này gồm 2 phần:

Phần thứ nhất nói về nghi lễ thanh tẩy và phần thứ hai là lời tiên tri của ông Simêon.

1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật: Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa. Câu chuyện cho thấy các Ngài tuân giữ lề luật rất chu đáo; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ các Ngài thuộc gia đình nghèo khó.

2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia, cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Lời tiên tri của Simêon gồm 2 phần:

a. Phần đầu nói về Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế. Lời tiên tri của cụ già Simêon khiến Đức Maria và Thánh Giuse ngỡ ngàng và kinh ngạc. Như thế, Mẹ Maria dần dần đi vào toàn thể mầu nhiệm cứu chuôc.

b. Phần thứ hai cụ già Simêon đặc biệt nói với Mẹ Maria, mẹ của Hài Nhi, vì số phận của mẹ và con liên kết mật thiết đặc biệt. Lời tiên tri cho Mẹ biết trước: Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế nhưng không được mọi người tin nhận. Do đó, Hài Nhi là dấu hiệu mâu thuẫn, là đá vấp ngã (Is 8,14). Con Mẹ sẽ phải khổ nhục do sự mâu thuẫn đó.

Suy gẫm

1. Tiến dâng Chúa Giêsu cho Chúa Cha

- Nghi lễ dâng con trai đầu lòng có mục đích nhắc lại rằng, mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ngôi Hai nhập thể muốn chứng tỏ mình là Con của Chúa Cha.

Mỗi Kitô hữu được thuộc về Thiên Chúa, trở thành con Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội. Là Kitô hữu, chúng ta phải ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hoá bản thân mỗi ngày.

- Việc dâng Đức Giêsu vào Đền thờ mang ý nghĩa: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, lần đầu tiên đi vào nhà của Ngài, thế nhưng, không một ai thuộc giới lãnh đạo Giêrusalem, không một ai trong hàng tư tế, luật sĩ ra đón chào. Ngược lại, kẻ chào đón Vua của mình chỉ là ông Simêon, bà Anna, những kẻ thuộc nhóm “những người nghèo của Giavê”. Ngày diễm phúc vĩ đại đến với thành thánh, thì chỉ có hai con người thấp kém, tầm thường, bị quên lãng trước mặt xã hội được ơn nhận biết diễm phúc đó.

Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ nghèo khó, khiêm nhường và thanh thoát mới dễ đón nhận ơn soi sáng của Chúa để thực thi ý Ngài và nhận ra diễm phúc của mình.

2. Nhìn vào Đức Mẹ và Thánh Giuse

Hai ông bà được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ luật: thanh tẩy và dâng Con vào Đền thờ.

Noi gương hai Đấng, chúng ta không nên tìm đặc ân, miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường, đơn sơ và tuân giữ mọi lề luật cua.

3. Nhìn vào ông Simêon

Sau khi đã nhận ra Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế, ông đã thốt lên bài ca chúc tụng:

- Tạ ơn Chúa đã cho ông trông thấy và bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay;

- Tạ ơn Chúa đã sai Vị Cứu Tinh làm đèn soi cho thiên hạ và làm vinh danh cho nòi giống;

Sau đó, ông Simêon chúc phúc cho Hài Nhi và báo trước những đau khổ mà Người và Mẹ Người sẽ phải chịu.

Ông Simêon mới được nhìn thấy và ẵm Chúa vào lòng mà ông đã cảm nghiệm được diễm phúc lớn lao như vậy; huống chi chúng ta được rước Chúa vào lòng khi hiệp lễ thì diễm phúc biết mấy! Nhưng chúng ta có biết cảm tạ Chúa sau khi rước Chúa vào lòng Không?

4. Cha Mẹ Hài Nhi ngạc nhiên, không phải vì những lời ông Simêon nói về Con Trẻ, nhưng vì thấy Thiên Chúa cũng cho những người xa lạ biết về Con Trẻ như vậy.

Khi thấy người khác, kể cả những người xa lạ được những ơn lành, được thành công trong đời sống, trong nghề nghiệp… chúng ta phải có tấm lòng rộng rãi để nhận ra ơn Chúa ban cho họ và hiệp thông với họ để tạ ơn Thiên Chúa.

5. Việc Đức Mẹ đem Hài Nhi vào đền thờ để làm nghi lễ thanh tẩy nhắc nhở chúng ta rằng, Mẹ là loài thụ tạo tinh ròng nhất trong nhân loại thế mà Mẹ đã vâng lời, tuân theo luật thanh tẩy của Môsê. Đó là mẫu gương cho chúng ta, những con người đầy tội lỗi, chúng chúng ta hãy nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và nài xin Chúa thanh tẩy chúng ta.

6. Cụ già Simêon đã trông mong cả một đời mới được nhìn thấy Đấng Cứu Thế. Đó cũng là mẫu gương cậy trông và trung tín. Ai trung thành cậy trông như ông Simêon không bao giờ uổng công. Ông Simêon đã ẵm bế Hài Nhi, ẵm bế “Ánh Sáng muôn dân”, ẵm bế “vinh quang Israen”, là nắm chắc ơn cứu rỗi của mình. Ông Simêon biết chắc như thế nên ông thưa: “Lạy Chúa giờ đây xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. ”

Ước gì vào giây phút cuối đời, mỗi người chúng ta cũng thưa được với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an” như một bảo chứng của lòng trung thành, trông cậy vào Chúa.

 

Suy Niệm 7: Dâng con trong Đền thờ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết: Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.

Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi  trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.

2. Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7), theo luật Maisen: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước: “Đức Chúa phán với Maisen: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”(Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ.

Từ nay cuộc đời Hài Nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền xử dụng trên Ngài  trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập Tự.

Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách  thánh hóa bản thân mỗi ngày.

3. Chúng ta nhận thấy: hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật: thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ.  Noi gương hai Đấng: người Kitô hữu  không nên tìm đặc ân gì để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.

Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bầy tỏ lòng trân trọng quà tặng quí báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.

4. Cụ già Simêon nói với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).

Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài Nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ  của người con trong vai trò cộng tác: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.

Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.

5. Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp.

Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa.  Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:

Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.

Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.

Con cầu xin được giầu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.

Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa, hóa ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này. Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.

 

Suy Niệm 8: Khao khát gặp Chúa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Qua câu chuyện trên đây chúng ta thấy muốn gặp Chúa thì người ta phải có điều kiện nào. Phải nói điều kiện đầu tiên là phải có lòng khao khát.

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu chuyện sau đây:

Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình:

- Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.

Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bày tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.

Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến dòng sông. Thầy trò cùng dầm xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.

Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:

- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?

Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:

- Thưa, con cần không khí để thở.

Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:

- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực, con cũng sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.

Cả cuộc đời cụ Simêon chỉ mong ước khao khát có một điều: Được gặp Chúa. Đây là một khát vọng rất lớn và hôm nay thì cụ đã được mãn nguyện. Chúng ta thấy cụ sung sướng đến mức độ như thế nào! Sung sướng đến mức độ không còn tha thiết gì với cuộc sống trên đời nữa. Lý do, bởi vì cụ đã được thấy Đấng Cứu Thế và biết rằng, thời đại Cứu Thế đã khai mở.

"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Israel dân Ngài. " (Lc 2,29-32)

2. “Ông Simêon nói với bà Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. ” (Lc 2,34)

Như vậy theo lời tiên tri của cụ già Simêon, thì Đức Giêsu sẽ là một dấu gây chia rẽ: kẻ thì theo, người thì chống đối; kẻ theo thì đứng lên, người chống thì té ngã. Cụ đã nói rất đúng. Ngay trong chính bản thân tôi, có khi tôi theo Chúa nhưng cũng có khi tôi không muốn theo Ngài. Lý do rất dễ hiểu bởi vì không phải lúc nào Chúa cũng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của tôi. Nhưng kinh nghiệm dạy cho tôi rằng: Khi biết đi theo Chúa tôi sẽ vững bước trên đường đời. Ngược lại, khi không cùng đi với Chúa, cuộc đời tôi sẽ bơ vơ và rất dễ vấp ngã.

Đây là một bằng chứng:

Roy Cam Parisella, bị bại liệt phải ngồi xe lăn. Hằng ngày cô vẫn phải đến Trung Tâm Vật Lý Trị Liệu vốn là một cơ sở tôn giáo để được chăm sóc. Lần nào cô cũng thấy có một số người thường dừng lại trước một tấm bảng đồng được gắn ở tường ngay trong phòng tiếp nhận bệnh nhân. Một buổi chiều kia, cô cũng dừng xe lăn, tò mò nhìn lên và thấy cả một bài cầu nguyện được khắc ở trên tấm bảng đó. Cô đọc một cách hết sức chậm rãi. Bỗng cô cảm thấy một niềm phấn khởi trào dâng lên từ tận đáy tâm hồn bấy lâu nay đã tuyệt vọng vì âu sầu tủi nhục của cô.

Đây là lời cầu nguyện ấy:

Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt trong cuộc đời,

thì Chúa lại làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời khiêm hạ,

Con cầu xin có sức khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao,

thì Chúa lại bắt con chịu tàn tật và chỉ làm được những việc tốt lành nho nhỏ.

Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng thoải mái,

thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin được có uy quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi con,

thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.

Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời,

thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn.

Nếu chỉ dừng lại ở đây thì quả cuộc đời là một bế tắc, nhưng Parisella đã biết nhìn xa hơn khi cô đọc thêm những lời cầu nguyện ở cuối bài. Những lời đó như thế này:

Nhưng những điều con đáng phải mơ ước

mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin;

thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người có phúc hơn hết trên đời này.

Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.

(PARADOXES OF PRAYERS)

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/thu-tu-29122021-ngay-thu-nam-trong-tuan-bat-nhat-giang-sinh-cu-gia-si-me-on-.html