“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Cha hiện diện nơi kín ẩn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.
Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:
cầu nguyện, bố thí, ăn chay.
Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.
Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.
Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,
từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.
Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,
tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.
Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,
thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.
Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.
Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.
Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,
và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.
Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.
Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,
để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.
Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.
Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa
và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.
Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.
Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,
nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.
Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,
nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình
và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.
Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.
Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.
Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.
Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.
Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.
Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,
chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
SUY NIỆM 2: HÃY XÉ LÒNG
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
SUY NIỆM 3: Một chương trình mùa chay
Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6,1)
Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!
Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?
Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.
Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.
Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.
Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.
Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.
SUY NIỆM 4: Hãy thay đổi cách hành động
(Lm Tạ duy Tuyền)
Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.
Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".
Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.
Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động" cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.
Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.
Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: GIỮ CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA? (Mt 6,1-6.16-18)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.
Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.
Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.
Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...
Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.
Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài” hay “con hề” trên sân khấu.
Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo" (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa ... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện" (x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 6: Hoán cải nội tâm
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 7: HOA VÀ RÁC
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.
Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:
Đời sống con người giống như hoa cỏ
Như bông hoa nở trên cách đồng
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi
Nơi nó mọc không còn mang vết tích.
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:
"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Con người là “hoa” và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
SUY NIỆM 8: SỨ ĐIỆP CỦA TRO - Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.
Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?
1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.
Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.
Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!
2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn
Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.
Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...
Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.
Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!
Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.
3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.
Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.
Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác“.
Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!
SUY NIỆM 9: Ý NGHĨA CỦA LỬA VÀ TRO - Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.
Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.
Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.
Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.
Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.
Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.
SUY NIỆM 10: CON LÀ THÂN TRO BỤI - Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2Cr 6,2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.
Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO
Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro” được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.
Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.
Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.
Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15).
II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO
1. Tro chỉ sự thống hối.
Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.
Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19,9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18,27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13,19; Mac 3,47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4,1; Mt 11,21).
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
2. Tro chỉ sự chóng qua.
Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.
Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:
Ôi! nhân sinh là thế ấy!
Như bóng đèn, như mây nổi,
Như gió thổi, như chiêm bao!
Trong bài “Cát bụi” nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…
Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường” như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.
Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.
3. Tro nhắc nhở về sự chết.
Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19. x. Gb 34,4; Gr 6,26; Is 58,5).
Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.
Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.
Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ngàn xưa, người thế ai không chết,
Chết, để lòng son rạng sử xanh.
Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.
Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.
Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên” (agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.
III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI
Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại” một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân” trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.
Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.
1. Hãy cầu nguyện.
Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22,42; Ga 11,41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.
Thế nào là cầu nguyện?
Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…
Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.
Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.
Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.
Truyện: Con chỉ nghe.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:
- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.
- Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?
- Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:
- Tôi nói, Chúa nghe.
- Chúa nói, tôi nghe.
- Không ai nói, cả hai cùng nghe.
- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.
Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:
Nước mắt nói lời của mắt,
Hương hoa nói lời của hoa,
Lặng im nói lời đôi ta!
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.
Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!
2. Hãy ăn chay
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?
Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói” (Mt 4,1-2).
Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34,28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19,8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.
Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.
Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3,7-8; Samuel 14,24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:
- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.
Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị” để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).
Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:
“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối” (Tục ngữ).
3. Hãy làm phúc bố thí.
Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4,7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.
Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.
Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Truyện: Cho đi tất cả.
Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:
- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.
Người hành khất đáp:
- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.
Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.
Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần
Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.
Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.
Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?
Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).
Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.
SUY NIỆM 11: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.
Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.
Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 12: LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ LỄ TRO
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
SUY NIỆM 13: MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ - ĐGM. Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.
Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
SUY NIỆM 14: BỤI TRO
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
SUY NIỆM 15: HOÁN CẢI
Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.
Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:
- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.
- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.
- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.
Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.
Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:
- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.
- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.
Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:
- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.
- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.
- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:
Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.
Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
SUY NIỆM 16: ĂN CHAY CÁCH NÀO MỚI ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA? - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
SUY NIỆM 17: HÃY XÉ LÒNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.
Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
SUY NIỆM 18: MẦU TÍM TRONG PHỤNG VỤ MÙA CHAY
(Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long)
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.
Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?
Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.
Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.
Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.
Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.
Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.
Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.
Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.
Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.
Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.
Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.
Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.
Suy Niệm 5: Tro bụi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phí hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “về” và kí tên cũng chỉ một chữ “cha”.
Tin Mừng của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới đầy tội lỗi này, với một chữ “về” và một chữ kí “cha”. Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha...
Suy niệm
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro… tro bụi. Bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi (x. Kn 15,10; Ed 28,18), sự mỏng giòn của con người, sự khiêm tốn (St 18,2), nỗi đau khổ (x. G 42,6; Gn 3,6; Gdt 4,11-15; Ed 27,30; Mt 11,21) và cả sự thống hối ăn năn (x. Gn 3,6; G 42,6).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “bụi tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590 - 604). Ngày “bụi tro” có nguồn gốc từ “Dies Cinerum” trong sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển sách Lễ Grêgôriô. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng giòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm. Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây phương vào thế kỷ X, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội tại Công đồng Bênêventô năm 1091.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19), hay thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đời sống theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với dấu thánh giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người tín hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Rm 6,3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết trên thập giá và phục sinh, con người sẽ tham dự vào vinh quang với Ngài. Cho nên, việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Giêsu Kitô khải hoàn.
Vì thế, xức tro trên trán là nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá… với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với dấu thập giá - trở nên dấu vinh quang…
Mang tâm tình sám hối trong Mùa Chay, người tín hữu làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh. Nhưng Chúa dạy hãy làm với sự khiêm nhường và làm cách kín đáo chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.
Ý lực sống: Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: “Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hãy nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale – Phục sinh: Một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh”
(Enzo Bianchi, Donner sens au temps, Bayard, 2004).
nguon:http://gplongxuyen.org/News