"Con là Đá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
* Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không hai trong Kitô giáo.
Nhưng hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô tại Rôma; có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó".
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hai con người
Từ xưa tới nay, Giáo Hội vẫn có thói quen liên kết hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô trong một triều thiên vinh quang. Kinh Tiền Tụng hôm nay đã diễn tả như sau: Thánh Phêrô là vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng Đức Kitô. Thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu Đức Kitô. Thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho những người Israel còn lại. Thánh Phaolô là thầy và là đấng dạy dỗ muôn dân được kêu gọi. Và kinh Tiền Tụng đã kết luận: Các ngài đã dùng những đường lối khác nhau mà quy tụ một gia đình cho Chúa. Với lời ca tụng trên đây, Giáo Hội không những đề cao sự hợp nhất giữa hai đường lối khác nhau mà còn ngợi khen sự hợp nhất giữa hai con người có nhiều khác biệt.
Thực vậy, thánh Phêrô vốn bản chất dân chài lưới, trực tính và nghiêng về thực tiễn. Còn thánh Phaolô là người trí thức, hay lý luận và thích đào sâu giáo lý. Thánh Phêrô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người đạo cũ, nên không muốn sửa đổi nhiều những gì vốn có kẻo phật lòng họ. Còn thánh Phaolô nhằm truyền bá đức tin cho các dân ngoại, nên muốn bỏ đi những lề luật của đạo cũ không còn thích hợp, kẻo nặng gánh cho những người dân ngoại xin tòng giáo. Thánh Phêrô là Giáo hoàng, nhưng không vì thế mà áp đặt ý kiến của mình. Thánh Phaolô là Giám mục, nhưng không vì thế mà không thẳng thắn trình bày quan điểm riêng của mình, để trao đổi và bàn luận. Thánh Phêrô là người đã có lần chối Chúa vì yếu đuối và đã ăn năn sám hối do cái nhìn xót thương của Chúa. Còn thánh Phaolô đã có lần bắt bớ đạo Chúa vì lầm lạc và đã trở lại nhờ sự giúp đỡ của một môn đệ Chúa.
Với nhiều khác biệt, hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã được liên kết lại để bổ túc cho nhau, làm cho nền móng của Giáo Hội được bền vững. Động lực liên kết các ngài lại với nhau chính là việc mở rộng Nước Chúa. Cái nhìn trên đây giúp chúng ta thêm tin tưởng hơn vào Chúa trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo Hội. Đúng thế, Giáo Hội là hình ảnh của sự quy tụ hiệp thông và liên kết. Giáo Hội là khí cụ kết hợp với Chúa và với nhân loại. Trong Giáo Hội có yếu tố Thiên Chúa và cũng có yếu tố nhân loại. Có người nhân đức và cũng có kẻ tội lỗi. Có phẩm trật và cũng có thành phần dân Thiên Chúa. Giáo Hội vừa trung thành với truyền thống vừa phải đổi mới cho thích hợp với lịch sử từng thời và từng nơi. Giáo Hội vừa củng cố đức tin cho người có đạo lại vừa truyền bá đức tin cho người ngoại đạo.
Biết liên kết những cái khác nhau trong Giáo Hội và trong nhân loại là một đặc điểm quan trọng của Kitô giáo. Bởi vậy trong giây phút này chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất, mặc dù có những khác biệt trong lòng Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải liên kết phải trở nên một hầu ước vọng của Chúa Giêsu sẽ là một sự thật: Xin cho mọi người được hợp nhất trong chúng ta để cho thế gian nhận biết rằng Cha đã sai con.
Suy Niệm 2: Một đức tin
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô, lễ này cũng là dịp giúp chúng ta chiêm ngắm gương sống đức tin của các Ngài. Các Ngài là hai con người khác nhau, nhưng đón nhận cùng một đức tin từ Thiên Chúa, nhưng các Ngài đã vượt qua và ra đi rao giảng đức tin của mình.
Đức tin được đón nhận
Chúng ta thấy Phêrô và phaolô hai người có hai hoàn cảnh, hai địavị, hai trình độ… hoàn toàn khác nhau nhưng các Ngài cùng đón nhận một đức tin duy nhất đến từ Thiên Chúa. Phêrô là người chài lưới, ông rất hăng say, nhiệt tình và có một tâm hồn nhạy cảm. Ông không ngần ngại, không suy nghĩ đắn đo gì, đã bỏ tất cả mọi sự theo Chúa khi Chúa gọi, điều này cho chúng ta thấy rất rõ Phêrô cảm nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí. Phêrô tin và theo Chúa với tất cả lòng nhiệt thành của mình và niềm tin đó được tuyên xưng cách mạng mẽ rõ ràng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này thật chính xác, vượt quá mọi hiểu biết và suy tư con người, đây là lời tuyên xưng về bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu này chính là chỉnh cao trong đời sống niềm tin của Phêrô. Có thể là đại diện cho nhóm mười hai, nhưng đây cũng là lời tuyên xưng cho chính Phêrô. Chúa Giêsu xác định lời tuyên xưng này do Chúa Cha mạc khải nên Phêrô mới biết được: “Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy Đấng ngự trên trời”.
Với Phaolô, ông là người biệt phái đã từng bách hại môn đệ Chúa, thái độ đó được biểu lộ khi ông đồng tình trong vụ ném đá Stêphanô. Đang khi ông hăng say phi ngựa trên đường Damas để bắt đạo, Phaolô được Chúa Kitô Phục sinh gọi và thanh luyện, một quầng sáng đã bao ttrùm ông, khiến ông bị mù lòa đôi mắt thân xác sau khi ngã ngựa, nhưng đồng thời quầng sáng ấy đã mở cho ông cặp mắt đức tin, ông đã thực sự tin tưởng vào một Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là chính Đấng mà Phaolô đang bắt bớ trở thành Đấng mà “không ai và không gì có thể tách ông ra khỏi lòng mến của Ngài”.
Rõ ràng Phêrô và Phaolô đã đón nhận đức tin trực tiếp từ Đức Giêsu Kitô, còn chúng ta đã đón nhận đức tin gián tiếp qua cha mẹ, Giáo hội …dù khởi đi từ nguồn nào điều đó không quan trọng cho bằng chính thái độ đón nhận của ta, đức tin đo có gắn liền với chích con người mình hay không? Một khi đón nhận cách chân thành, thì chắc chắn chúng ta cũng bị thử thách như Phêrô và Phaolô đã từng bị thử tháh.
Đức tin bị thử thách
Mặc dù Phêrô và phaolô tin Chúa rất mãnh liệt, nhưng đức tin các Ngài cũng không ngừng bị thử thách. Đức tin Phêrô còn phải là nên tảng nâng đỡ đức tin Giáo hội, nên đức tin đó bị thử thách rất nhiều. Phêrô đã từng tin vào Chúa, nhưng mới trước được Chúa khen tặng là đá tảng thì liền sau đó bị Chúa quở trách là Satan hãy lui ra, đã có lần thề hứa “dù phải chết với Thầy con không chối Thầy” mới hứa đó thì liền sau đó ba lần chối Chúa, mới phút trước ung dung bước đi trên ngọn sóng thì phút sau bị chìm vì nghi ngờ. Rỡ rằng là nhiều khi Phêrô nói mà chẳng hiểu mình nói gì, và chính cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu là một thử thách có tính quyết định đối với niềm tin của Phêrô. Cuộc đời theo Chúa của Phêrô đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở thành đá tảng vững chắc, trên đó Đức Giêsu Kit xây dựng Hội thánh Người. Phêrô chỉ có thể nâng đỡ Đức tin cho anh em sau khi trở lại từ kinh nghiệm yếu đuối sa ngã của mình.
Và Phaolô cũng bị thử thách “năm lần bị người Do thái đánh 40 roi bớt một, ba lần bị đắm tàu, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi”, ngoài ra ông còn gặp nhiều khó khăn nguy hiểm trong các cuộc hành trình phải chịu đói khát, rét lạnh… cho dù những nguy hiểm ấy ngày đêm cứ bám chặt vây bủa lấy ông thay vì chùng bước, nhưng niềm tin vào Đấng Kitô Phục sinh qua mạnh nên ông coi những việc xảy ra cho ông không quan trọng. Ong chỉ có một mối bận tâm ray rứt là lo cho tất cả Hội Thánh vì lòng yêu mến và nhiệt thành nhà Chúa “tình yêu Chúa Kitô thức bách tôi”. Ông coi sự sống của ông không phải là củ ông mà của đấng đã gọi chọn ông, đến độ ông thốt ra: “Tôi sống nhưng không phải là Tôi sống mà là Đức Kitô sống trong Tôi”.
Khi nhìn lại cuộc sống, chắc chắn ai cũng đã hoặc đang ít nhất một lần trải qua những đau khổ như: nghèo đói, bệnh tật, thất vọng… Trước những nghịch cảnh đó chúng ta có đứng vững hay bị chao đảo nghi ngờ đức tin? Nếu vẫn còn một niềm tin sắc con thì hãy làm chứng đức tin của mình cho người khác như mẫu gương của Phêrô và Phaolô.
Đức tin được rao giảng
Phêrô và phaolô là hai khuôn mặt lớn trong việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đời Phêrô sau khi gặp những thử thách thay vì nhút nhát là một dạ can trường, thay vì chao đảo là một lòng xác tín. Sau khi Thánh Thần hiện xuống ông là người đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế cho mọi người, đặc biệt là người Do tháij. Khi Chúa Giêsu đặt ông làm đá tảng Hội Thánh ông đã sống đúng với chức vị của mình, ông làm chứng và rao giảng hết sức hùng hồn về Đức Giêsu Kitô bị giết và đã sống lại từ cõi chết “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, chúng tôi xin làm chứng”.. Phêrô cũng cho thấy chính Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại, chỉ có nơi Ngài mới có được ơn cứu độ: “dưới gầm trời này có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ”. Quả thật ông là đá tảng vững vào trong mọi sóng gió, những điều ông rao giảng đã chứng minh bằng cái chết của ông tại Rôma.
Còn Phaolô, sau khi gắn bó với Chúa Kitô một cách mật thiết, ông đã lao mình về phía trước như một vận động viên, và dùng chính sự nhiệt thành của mình đi bất cứ nơi đâu vào bất cứ ngóc ngách nào, bất chấp mọi gian khổ tù đày do quyền bính trần thế gây ra, miễn là từ cánh đồng dân ngoại đem về cho Chúa các linh hồn. Phaolô cũng dùng chính khả năng tri thức của mình để trở nên lợi khí phổ biến Tin Mừng cho những vùng đất mới, coi việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận và niềm hạnh phúc của mình: “Vô Phúc cho tôi nêu tôi không rao giảng về Đức Kitô”, ông không hổ thẹn về Tin Mừng bở vì Tin Mừng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, đến với những người tin.
Ta thấy rõ Phêrô và Phaolô liên kết trong niềm tin, lòng mến Chúa Kitô và Giáo hội, Phaolô luôn hướng về Phêrô như nền tảng cho niềm tin và thế giá Tin Mừng mà ông rao giảng. Nền tảng Pherô cũng là định hước cuộc tiến bước trong đức tin và đảm bảo sự thống nhất dân Chúa trong lòng mến. Điều mà minh chứng hùng hồn nhất đức tin của Phêrô và Phaolô rao giảng đó là việc hai Ngài cùng hội tụ tại Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu đào của mình. Phêrô và Phaolô đã làm thành khuôn mẫu cho việc rao giảng niềm tin cho mọi người.
Còn chúng ta, khi đứng trước một thế giới dường như mất cảm thức về tội, quá nhiều người chưa biết và không tin Chúa, chúng ta có dám sống và giới thiệu một Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại như Phêrô và phaolô không? chúng ta hãy cố lên, can đảm minh chứng đức tin của mình vì chỉ có nơi Đức Giêsu Kitô con người mới được cứu độ.
Sự khác biệt giữa hai cuộc đời, hai quá khứ của Phêrô và phaolô, đã nối thành một, bởi một sởi chỉ vào “Đức tin vào Thiên Chúa”.
Chúng ta mỗi người tuy khác nhau, nhưng có cùng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy sống liên đới hiệp nhất với nhau, kiên vững trong đức tin, xẵng sàng minh chứng đức tin của mình qua đời sống cụ thể hằng ngày, điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi người biết siêng năng cầu nguyện, múc lấy nguồn sức mạnh nơi bí tích Thánh Thể, luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, để lời tuyên xưng của Phêrô trở thanh kinh nghiệm riêng cho mỗi người: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai?”.
Suy Niệm 3: Anh Là Tảng Đá
(‘Manna’)
Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình. Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ. Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào, về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng. Cả hai đều được Đức Giêsu gọi. Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Đamát. Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng. Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong một phút giây quá tự tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách nồng nhiệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
"Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông chưa hề chung sống, vì Ngài là "Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo, vì nói cho cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến Đấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40). Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28). "Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Đức Giêsu" (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết như Thầy. Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18). Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về thánh Phêrô và thánh Phaolô? Có nét nào nơi hai vị thánh làm bạn ưa thích?
Bạn nghĩ gì về Đức Thánh Cha? Bạn biết gì về những hoạt động của Ngài cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Suy Niệm 4: Hai cuộc đổi đời
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ. Các ngài là cột trụ của Hội Thánh. Các ngài là những viên đá tảng, đá quý để xây dựng toà nhà Hội thánh vững chắc và toả rạng cho khắp năm châu.
Các ngài là cột trụ của niềm tin cho toàn thể Hội thánh. Một niềm tin không gì có thể lay chuyển đến nỗi “ma quỷ cũng không thắng nổi”. Một đức tin can trường đến nỗi dầu có chịu nhiều thiệt thòi, dầu có phải trải qua những gian truân cùng khốn: tù đầy, đói rét hay phải bôn ba rầy đây mau đó, phải vượt qua biết bao phong ba bão tố, các ngài vẫn vui lòng chấp nhận vì được thông phần đau khổ với Thầy Giêsu.
Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ những văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý tưởng. Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.
Thực vậy, nhìn vào đời sống của hai trụ cột của Hội thánh, chúng ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa. Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano. Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con”.
Theo Thánh Kinh kể lại: Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô, Ngài biết hết! Phêrô chột dạ. Phêrô nhớ lại lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trũi nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Còn lời nào biện mình cho hành động hèn nhát của ông. Còn đâu lời khẳng khái: “mọi người có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Còn Phaolô thì sao? sau khi ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Ông đang thấy và thấy rất rõ. Đó là Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng về những điều đã nghe, đã thấy và đã biết.
Vâng, có thể nói, nhờ sự đổi mới cuộc đời của Phêrô và Phaolô mà cả thế giới được đổi mới. Văn hoá ky-tô giáo đã làm mới lại bộ mặt địa cầu. Có thể nói ở đâu đó còn có những người chưa tin vào Chúa nhưng họ đã được thấm nhuần văn hoá Kitô giáo. Ở đâu đó vẫn còn đó những người được đổi mới cuộc đời nhờ vào lời Chúa và sức mạnh của tin mừng. Ở đâu đó vẫn còn đó những tâm hồn thất vọng, lầm than họ đã bừng lên niềm hy vọng nhờ những giá trị tin mừng mà Kitô giáo mang lại cho họ.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang tin mừng đến khắp cùng trái đất. Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng toà nhà Hội thánh. Dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo nhu cầu của Ngài. Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng ta đang sống. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha, cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ. Xin Chúa ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho niềm tin của chúng ta. Amen.
Suy Niệm 5: Đứng dậy nhờ ơn Chúa
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace (Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị khuyết tật thực sự.
Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn, khiến bạn không thể tiến lên”.
Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con trai.
Chúng ta sẽ không biết được sự khó khăn diễn ra như thế nào nếu không tạo cho bản thân cơ hội để vượt qua nó. Đừng bao giờ từ bỏ khi bạn gặp thất bại hay khó khăn”.
Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị khuyết tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn. Tuy nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.
Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển hình cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình. Anh không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết dùng môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa. Anh không buông xuôi theo số phận nhưng biết tận dụng khả năng giới hạn của mình để có thể phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Anh đã rao giảng về Chúa ở quê hương anh. Anh đã rao giảng vượt qua biên giới để đến nhiều vùng đất xa xôi. Anh đã đến Việt Nam và đã tuyên xưng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào thiên đàng và đó là lẽ sống cuộc đời anh, là lý do anh sống và vươn lên.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng từng có những khuyết tật trong cuộc đời của các ngài. Phêrô yếu đuối, nhút nhát. Phaolô kiêu căng, thẳng thắn. Vì tấm lòng khuyết tật nên Phêrô từng chối Chúa ba lần. Còn Phaolô thì lao vào việc truy sát người tin vào Chúa Giêsu phục sinh để bách hại và giết chết. Thế nhưng, cả hai đã nhận ra sự khuyết tật của mình để phấn đấu, để vươn lên. Nhất là biết cậy vào ơn Chúa mà kiện toàn con người mình và phụng sự Thiên Chúa. Phêrô đã từng cảm nghiệm “Ơn Ta đủ cho ngươi và quyền năng Ta hiển trị trên sự yếu hèn của ngươi”. Phaolô thì trông cậy vào sức mạnh của Chúa mà ông đã đi đến cùng sự bách hại, gian truân, đói rét, tù đầy nhưng vẫn giữ vững đức tin. Cả hai đã nhờ ơn Chúa mà bù đắp những khuyết tật của mình để hoàn thiện con người mình theo như lòng Chúa mong ước.
Hôm nay mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, trước hết chúng ta cảm tạ Chúa đã cho chúng ta hai tấm gương biết sám hối và canh tân. Các Ngài không chết trong tội như Giuđa nhưng đã đứng lên để làm lại cuộc đời. Các Ngài đã ý thức sự yếu đuối bất toàn của mình để cần đến ân sủng của Chúa. Các ngài đã biết nương tựa vào ơn Chúa để thắng vượt những giới hạn của bản thân. Và trên hết chính là tấm gương rao giảng tin mừng không mệt mỏi, không chùn bước trước nghi nan. Cho dẫu dòng đời có những sóng gió nguy nan. Cho dẫu đường trần có lắm gian truân, các ngài vẫn kiên trung cho đến cùng lòng trung thành với Chúa. Các ngài luôn ý thức rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”, thế nên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Nước trời”.
Xin cho chúng ta luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình để nhận ra tình thương tha thứ của Chúa vẫn dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta biết nương tựa vào ân sủng của Chúa để kiện toàn mình mỗi ngày một tốt hơn. Và xin cho chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe lời Chúa và nói về Chúa cho tha nhân. Amen.
Suy Niệm 6: "ST" nghĩa là sự thánh thiện
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc". Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự "ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi". Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)".
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong hiện tại và suốt cuộc đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống trong ân hận và tủi nhục. Phêrô đã có lần bị Chúa quở là satan. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba lần chối mình không phải là môn đệ của Thầy Giêsu. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh kytô hữu. Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung của hai ông chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã và chuộc lại lỗi lầm bằng cuộc sống đổi mới con người theo như lòng Chúa mong ước.
Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: "Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vẫn hay sao?". Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya đã giúp lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: "trước khi gà gáy con đã chối Ta ba lần". Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Mới hôm qua ông còn tuyên bố rằng: "dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế mà, miệng gan hùm đã không còn khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn nhát chối Thầy đến ba lần. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà hôm ấy. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Con mắt thể xác ông bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn ông lại được sáng tỏ. Ông đã thấy Giêsu, người mà ông tưởng đã chết, thế mà, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Người đang nói với ông: "Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm giết". Bao lâu nay ông không tin có sự sống lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt những ai loan báo về sự sống lại của một tử tội Giêsu. Giờ đây, ông đã tin. Sự sống của Chúa Phục sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Và kể từ nay, ông đã trở thành một tông đồ ra đi đổi mới cả thế giới.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đôi khi cũng có những yếu đuối, có những bước đi bị vấp té bởi cạm bẫy của tham sân si. Vì thế, có ai đó đã từng nói rằng: "lầm lỗi là của con người", nhưng đứng lên làm lại cuộc đời đó là của "thánh nhân". Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn quá khứ như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho các ngài. Chúa không trách phạt các ngài mà còn tin tưởng trao phó sứ mạng mở mang nước Chúa đến tận cùng trái đất. Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã từng thốt lên: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng tin mừng". Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường quyền ức hiệp, ngài đã mạnh dạn nói rằng: "phải nghe lời Thiên Chúa hơn là lời của con người". Và hôm nay, Chúa vẫn không trách phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội, Ngài vẫn khoan dung tha thứ và hằng mời gọi chúng ta hãy làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa để hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về tình yêu Chúa cho anh em, cho bạn bè, cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ thân quen.
Ước gì cuộc đời các ngài soi sáng cho cuộc đời chúng ta để chúng ta không bao giờ thất vọng về lỗi lầm của mình, nhưng qua những yếu đuối bản thân, chúng ta càng nhận ra tình thương bao la của Chúa và cũng biết noi gương các ngài trở thành chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen.
Suy Niệm 7: Tranh cãi thế nào?
Có một cặp vợ chồng sống trong một căn hộ, họ thường tranh cãi nhau to tiếng và lâu dài hầu như mỗi đêm. Qua những bức tường không cách âm, một cặp vợ chồng khác ở căn hộ kế cận có thể nghe tiếng họ la hét. Vậy phải làm gì để ngừng sự quấy rầy này, để giúp cho cặp vợ chồng kia nói nhỏ nhẹ hơn?
Cặp vợ chồng bên cạnh quyết định một cuộc tranh cãi để cặp vợ chồng kia có một vài ý tưởng về sự ồn ào đáng sợ thế nào. Họ đứng sát tường rồi bắt đầu la hét nhau. Và hầu như tức thời cặp vợ chồng kia ngừng cãi nhau. Và không bao giờ họ la rầy nhau nữa.
Tất cả chúng ta có tranh cãi nhau, vì không có hai người trong chúng ta hoàn toàn giống nhau, không có hai người trong chúng ta nhìn cùng sự vật theo cùng một cách thức. Chúng ta có những khác biệt, và chúng ta bày tỏ những khác biệt này.
Có nhiều cách tranh cãi lành mạnh, nếu chúng ta thực sự trao dổi tư tưởng, quan điểm và lý luận, chúng ta có thể học được nhiều nhờ trao đổi tư tưởng với người khác.
Hôm nay chúng ta tôn vinh hai vị thủ lãnh của Giáo hội, thánh Phêrô và thánh Phaolô. Các Ngài là những vị thánh, tuy nhiên các Ngài cũng đã có một cuộc tranh cãi. Thánh Phêrô nghĩ rằng: người nào muốn nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa Kitô, thì trứơc hết phải trở nên người Do thái, họ phải chịu cắt bì và tuân theo nhiều qui tắc của lề luật Do thái. Thánh Phaolô thì nghĩ khác. Các Ngài đã tranh cãi công khai. Tại cộng đồng Giêrualem, các Ngài quyết định sự tranh cãi bằng cách nhắc đi nhắc lại những điều Chúa Kitô đã dạy các Ngài, nghĩa là Chúa Kitô đã thiết lập Giáo hội của Ngài không chỉ cho người Do thái mà cho cả người ngoài Do thái, dân ngoại.
Nếu bạn phải tranh cãi, th2 hãy theo khuôn vàng thứơc ngọc là: hãy làm cho người khác điều mà bạn muốn họ làm cho bạn. Hãy tranh cãi với người khác như bạn muốn họ tranh cãi với bạn. Hãy lắng nghe, thực sự lắng nghe. Hãy mở rộng cho những ý tưởng khác với ý tưởng của bạn. Hãy chấp nhận là người khác có thông tin và kinh nghiệm vượt hơn bạn.
Bạn đừng chửi bới, hay nguyền rủa, thiên vị, bất công hay lăng mạ. Bạn hãy giữ lời nói ôn hòa, đừng hăm dọa chút nào. Bạn hãy lắng nghe chính mình và người khác. Hãy nghe cuộc tranh cãi dữ dội như cặp vợ chồng thứ nhất trong câu chuyện đã làm.
Trước hết, bạn hãy cầu xin cho được hiểu biết và bình an. Hãy xin Chúa thực sự. Hãy cầu nguyện với ý nghĩa đăc biệt của lời kinh nguyện Thánh Thể II: “Xin cho chúng con khi thông Mình và Máu Chúa Kitô được hợp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần”.
Trong công đồng Vat. II, đã có những sự tranh cãi giữa 2500 giám mục. Một số trong những trao đổi này rất là nặng nề. Nhưng các Ngài đã giải quyết những khác biệt của mình theo đường lối giống Chúa Kitô.
Ngày nay, cũng có những tranh cãi trong gia đình của Thiên Chúa, nếu thánh Phêrô và Phaolô có những khác biệt, thì chúng ta cũng có thể thâý được những tranh cãi trong tổ chức phức tạp và mở rộng toàn cầu, đó là Giáo hội, chúng ta cũng có thể thấy những khác biệt trong chính giáo xứ chúng ta. Bạn hãy giải quyết chung trong tinh thần của Chúa Kitô, trong tinh thần khuôn vàng thước ngọc của Ngài.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con khỏi tranh cãi, nhưng nếu con phải tranh cãi, thỉ xin giúp con hành động theo tinh thần của Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 8: Phêrô và Phaolô
Hôm nay tôi xin có ít lời về Thánh Phêrô một vị thánh mà tôi hết lòng kính trọng.
Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba tông đồ được Chúa ưu ái một cách đặc biệt hơn những tông đồ khác. Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.
Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh
Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của Ông. Đó là việc ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: "Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến 'dzụ' ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt" Lý do, ông viết tiếp: "Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột" Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Tuy nhiên bên cạnh những cái không tố đó chúng ta lại thấy nơi Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tấm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.
Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại. PA ghi thật rõ, vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông 'kể công' với Chúa là tất cả mọi sự.
Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin chân thành
Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa. Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng đó đã đánh dấu một khúc quặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.
"Lạy thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.
Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là lòng khiêm nhường. Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức. Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Đọc trong Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể như thế này.
Lần thứ nhất đá là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ. Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước mặt Chúa và thưa vó Người: "Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một người tội lỗi" Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự hiện diên của Chúa.
Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời…….
Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ. (xem Ngài đã gọi họ)
Còn Phaolô
Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn hẳn Phêrô.
Ông là một con người có học thức - Là học trò của Giáo sư Kinh Thánh nổi tiếng Gamaliel.
Gia đình ông thuọc loại khác giả
Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
II. Bài học
1.Uy quyền của Chúa. - Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về người và s8ãn sàng chết vì người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại. Phêrô đạ tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phêrô trên con đường ra khỏi thành Roma. Quo vadis?
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện."
Suy Niệm 9: Thánh Phaolô Tông Đồ
Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn. Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á. Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình. Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 - 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.
Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontane.
Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội?
Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói “giáo thuyết của Phaolô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói “ Chúa Giêsu là đức Kitô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa. Từ lời gọi “Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể: “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do”
Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
Suy Niệm 10: Thánh Phaolô
Hôm nay tôi chỉ xin được nói ít lời về Phaolô một con người đối với tôi thật là vĩ đại và kỳ diêu.
Thú thực tôi rất sợ phải nói về những con người như thế này vì tôi cảm thấy mình quá thấp kém. Nhưng thái độ tránh né hoàn toàn thì tôi tưởng sẽ không phải là tốt nhất…nhất là đối với một người ở trong một cương vị như tôi. Tôi sẽ cố gắng để nói một chút về con ngưởi đặc biệt này.
Phaolô! Ông là ai vậy?
+ Thật khó mà có được một bài trình bày đầy đủ và vắn tắt về con người đặc biệt này. Vì ở nơi con ngưởi này có quá nhiều vấn đề và quá nhiều điều phải nói. Ở đây tôi chỉ xin được nói về một ít đểm nổi bật trong cuộc đời của Ông: trước - sau khi được Chúa gọi và cuộc đời truyền giáo của Ông.
1. Trước khi được Chúa kêu gọi.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
+ Ông là người say mê với niềm tin vào Giavê Thiên Chúa và Đạo của Người
+ Ông là một con người có học thức. Ông đã từng học Kinh Thánh với Gíáo sư Gamaliel, một vị giáo sư về Kinh Thánh nổi tiếng thời đó.
+ Ông hiểu biết nhiều về thần thoại và hệ thống triết học rất thịnh hành thời đó.
+ Chắc chắn ông đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, một con người theo Ông là một người có kiến thức và hiểu sâu biết rộng nhưng ông không thể nào có thế khoan nhượng đối với một số sự việc Chúa Giêsu đã làm như là dám vi phạm đến những luật lệ của Thiên Chúa và những tập tục của tiền nhân như: phạm đấn ngày hưu lễ, tự cho mình có quyền tha tội, làm loạn trong đền thờ và nhất là dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều ưu điểm hơn hẳn Phêrô
Gia đình ông thuọc loại khá giả
Đặc biệt ông là người có tước hiệu Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất bất ngờ và đột ngột làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
II. Bài học
1.Uy quyền của Chúa.
- Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế:
Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình.
Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sãn sàng chết vì Người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
Suy Niệm 11: Thánh Phêrô Tông Đồ
Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là “Đá” Simon và Anrê em ông là những dân chài chất phác ở biển Galilêa. Anrê theo làm môn đệ của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo:
- Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của Người.
Vài tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô:
- Ra khơi mà thả lưới đánh cá.
Sau một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói:
- “Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu trả lời:
- “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người”.
Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng 4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên dữ dội: Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an:
- “Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng sợ”.
Phêrô liền kêu ngay:
- “Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với thày”.
Người bảo:
- “Hãy đến đây”.
Và Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông kêu cứu:
- “Lạy Chúa xin cứu tôi “.
Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên. Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi không? Phêrô trung tín đáp lời:
- “Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang đến sự sống đời đời” (Ga 6,67-68)
Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ:
- “Còn các anh, các anh nói tôi là ai?”
Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình:
- “Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn:
- “ Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16,13-19)
Phêrô đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu người thủ lãnh của Giáo hội. Nhằm đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như mặt trời, áo Người với Môsê và Elia; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ:
- “Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,1-8).
Những săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn Phêrô. Một lần kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không theo Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa:
- “Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày” (Mt 19,27)
Đối với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông chưa hiểu được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)
Tuy nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung kiên theo Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình:
- “Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày”.
Dĩ nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm. Phêrô chưa biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa Giêsu báo trước cho ông biết rằng:
- “Quả thật, ta bảo ngươi: gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ chối Ta ba lần” (Ga 13,36-38)
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai một binh lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)
Sau cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết:
- “Chúa đó”.
Với một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển đến gặp thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông:
- Con có mến Thày không?
Phêrô trả lời:
- Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa.
Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông:
- “Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta”.
Và Người thêm:
- “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý, nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Ga 21,15-18)
Từ đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị chọn một tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.
Tại cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài nói với hắn:
- “Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh: nhân danh đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.
Người què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ này, thánh Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới 5000 người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh Phêrô trả lời:
- Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không?
Các tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt dưới chân các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của còn muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.
Thánh Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa công đồng Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không phải giữ luật cắt bì.
Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại. Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến vào, thánh tông đồ hỏi Chúa:
- Thày đi đâu dây?
- Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng đinh thập giá. Theo chứng của Ôrigênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn đầu xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma ngày nay.
Suy Niệm 12: Mến Chúa
Mẫu gương chúng ta tìm hiểu hôm nay về hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, đó là lòng mến Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời thánh Giacôbê tông đồ:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Và theo theo mẹ Têrêsa thành Calcutta:
- Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an.
Như vậy, đức ái vừa là dấu chỉ, vừa là kết quả của đức tin. Giữa đức tin và đức ái luôn có một sợi dây liên kết chặt chẽ. Càng có một đức tin bền vững, thì càng phải có những hành động yêu mến để chứng tỏ đức tin của mình.
Hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, chắc chắn đã có một niềm tin kiên vững, thì cũng phải có một tình mến sâu xa.
Trước hết là đối với thánh Phêrô. Sau lời kêu gọi đầu tiên của Chúa Giêsu bên bờ hồ Tibêriat, Phêrô đã từ bỏ tất cả mà đi theo Chúa. Khi Chúa loan báo mình phải lên Giêrusalem để chịu đau khổ và chịu chết treo trên thập giá, Phêrô đã không chấp nhận được sự thật phũ phàng ấy, nên đã kéo Chúa ra một góc mà can ngăn:
- Ước gì điều đó đừng xảy ra cho Thày.
Và rồi Phêrô đã bị Chúa quở trách nặng lời về một tình yêu chưa được soi sáng ấy.
Với một trái tim nóng bỏng, đôi lúc Phêrô đã đi tới chỗ quá khích. Tại phòng tiệc ly, Phêrô đã thề thốt cùng Chúa:
- Dù phải chết cùng thày, con cũng sẵn sàng…Dù mọi người có bỏ Thày, thì phần con sẽ không bao giờ.
Và rồi, Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi, đã chối Chúa ba lần. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải ghi nhận: sau đó là tâm tình sám hối của Phêrô. Phúc âm đã ghi lại:
- Phêrô đã ăn n ăn khóc lóc về tội lỗi của mình.
Sau ngày phục sinh, Chúa Giêsu đã đòi hỏi ở Phêrô, vị tông đồ đã phản bội, điều gì nếu không phải là một tình mến chân thành:
- Phêrô, con có yêu mến Thày hơn những người này không?
Và Phêrô đã ba lần xác quyết về tình yêu của mình bằng một câu trả lời đầy khiêm tốn:
- Lạy Thày, Thày biết con yêu mến Thày.
Thánh Augustinô đã diễn tả như sau:
- Gioan có thể đã yêu mến Chúa một cách tha thiết hơn, nhưng tình yêu của Phêrô lại là một tình yêu mãnh liệt. Lòng mến của Gioan nghiêng về tình cảm, còn lòng mến của Phêrô thì quảng đại và chân thành. Và như vậy, Gioan không có một tình mến đối với Chúa vừa dứt khoát, lại vừa sâu xa cho bằng tình mến của Phêrô.
Tiếp đến là đối với thánh Phaolô. Ngoài mười hai thánh tông đồ, chúng ta không thể tìm thấy một trái tim nào nhiệt thành cùng Chúa cho bằng trái tim của Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
Thực vậy, chính Phaolô đã kêu lên:
- Ai có thể chia lìa chúng ta ra khỏi tình mến của Đức Kitô. Bách hại ư? Đói khát ư? Đau khổ ư? Gươm giáo ư?
Rồi Phaolô còn viết thêm:
- Vì đức tin, chúng ta bị bắt bớ và bị dẫn tới lò sát sinh như một con chiên. Tuy nhiên, chúng ta chiến thắng tất cả nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta.
Nơi khác thánh nhân cũng bảo:
- Dù tôi nói được mọi ngôn ngữ của loài người và các thiên thần, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là như não bạt ầm vang. Dù tôi có ơn nói tiên tri và thấu hiểu mọi mầu nhiệm của khoa học, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Dù tôi có được một đức tin chuyển núi dời sông, dù tôi phân phát hết mọi của cải, nhưng nếu không có tình mến, thì tôi cũng chẳng là gì cả.
Cũng chính vì tình mến dành cho Chúa mà thánh nhân hăng say rao giảng Tin mừng và phục vụ các linh hồn, dù có phải chịu đựng đòn vọt, tù ngục và muôn vàn khó khăn và thử thách khác nữa.
Sau cùng, đối với thánh Phaolô, cái chết sẽ là một triều thiên vinh quang xứng đáng dành cho một cuộc đời bừng cháy lửa yêu mến.
Thánh Phêrô đã trung thành với Chúa cho đến khi bị đóng đanh vào thập giá trên đỉnh đồi Vatican dưới thời bạo vương Nêron. Còn thánh Phaolô cũng không thua kém thánh Phêtô về phương diện đức tin cũng như tình mến. Thực vậy, sau nhiều năm bị bị tù đày, thánh nhân vẫn không ngừng rao giảng Đức Kitô và sau cùng đã bị chém đầu trên đường Ostie, gần Rôma.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô đều là cha đẻ của chúng ta trong đức tin đồng thời đều là thày dạy của chúng ta trong tình mến.
Bởi đó, hãy bước theo hai đấng và xin hai đấng giúp đỡ chúng ta trên bước đường tiến về quê trời.
Suy Niệm 13: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
(‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Biến cố xảy ra gần thành Xêsarê thật quan trọng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm thêm một lần nữa nhân dịp Lễ Kính hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hôm nay. Đây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi, nhưng là hai lời tuyên xưng, đó là của Phêrô và của Chúa Giêsu.
Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống". Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một Người xuống thế để cứu rỗi nhân loại. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Đáp lại lời tuyên xưng này, có thể nói dựa vào lời tuyên xưng Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, đồng thời cũng là vinh hạnh của con người, của tất cả mọi người được qui tụ trong đại gia đình của Thiên Chúa, trong một cộng đoàn con cái Thiên Chúa: "Này Simon Phêrô, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyên xưng vinh quang của Phêrô. Phêrô được chọn làm đá tảng và sự lựa chọn đó bền vững muôn đời, cho dù Phêrô có thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không thay đổi chương trình, không hủy bỏ sự lựa chọn: "Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố ra đây không phải là để Phêrô khoe khoang vinh quang hay hưởng thụ quyền lực và danh vọng, mà là vinh quang của thập giá, của hy sinh chiến đấu, của sự từ bỏ mọi sự cho đến cả mạng sống mình, và chúng ta biết rõ con đường vinh quang thập giá mà Phêrô đã trải qua.
Phêrô vừa mới tuyên xưng một sự thật: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống", tiếp đó Chúa Giêsu tuyên bố một sự thật khác:"Trên đá tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Phêrô mới nhìn nhận mầu nhiệm Con Thiên Chúa nơi chính con người Giêsu thành Nazareth đang đứng trước mặt mình, thì Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử, không phải cho một người mà cho nhiều người được qui tụ lại làm con Thiên Chúa trong một cộng đoàn, một Giáo Hội của Người. Giáo Hội là một mầu nhiệm nhập thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên Chúa, đó là Giáo Hội mà chúng ta đang là phần tử và đó cũng chính là Giáo Hội mà Chúa Giêsu muốn thiết lập.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài trong Giáo Hội, để chúng ta được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ Chúa đều được diễn ra trong Giáo Hội của Ngài, và mọi Kitô hữu đều được qui tụ lại với nhau trong Chúa, trong một thân thể huyền nhiệm của Chúa. Đây là Giáo Hội của Thầy, trên tảng đá Phêrô, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được.
Giáo Hội yếu hèn vì gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội cũng rất thánh thiện, tràn đầy thánh sủng của Chúa và được gìn giữ đến tận cùng: "Con là Phêrô nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được". Lời công bố long trọng của Chúa Giêsu đã trấn an các Tông Đồ, đồng thời mạc khải tính cách thường hằng mãi mãi. Giáo Hội sẽ hiện diện mãi mãi trong lịch sử cho đến tận thế, dù cửa hỏa ngục, tức quyền lực của hỏa ngục tấn công vào Giáo Hội, nhưng hỏa ngục sẽ không thắng được. Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng, chúng ta hãy chiến đấu với chính sự dữ nằm trong bản thân để giúp Giáo Hội chiến thắng trên mọi sự dữ.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trên đường về cùng Chúa, xin tăng triển nơi con tình yêu thương và tin tưởng vào Giáo Hội, xin củng cố đức tin và củng cố sự hiệp nhất giữa chúng con trong Chúa và trong Giáo Hội của Chúa. Amen.
Suy Niệm 14: Giáo Hội
Mừng kính lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, hai cột trụ vững chắc, chống đỡ cho tòa nhà Giáo hội, chúng ta cùng nhau nhìn vào tình trạng hiện nay, để rồi từ đó rút ra những kết luận thực hành. Nhìn vào Giáo hội hiện nay, chúng ta phải ghi nhận ba sự kiện đáng buồn sau đây:
Sự kiện thứ nhất, đó là người ta giảm sút lòng tôn trọng và vâng phục quyền bính trong Giáo hội.
Thực vậy, nếu theo dõi báo chí, ngay cả những tờ báo công giáo, chúng ta thấy xuất hiện một khuynh hướng cấp tiến nguy hiểm. Khuynh hướng này nhằm đả phá phẩm trật trong Giáo hội, bôi nhọ Đức Thánh Cha và nhất là phê bình những quyết định của Giáo hội. Tôi xin đan cử một trường hợp gần đây nhất, để cho thấy sự sút giảm đã đến hồi trầm trọng. Ai cũng biết Giáo hội Ý là một Giáo hội được coi như toàn tòng công giáo và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị Giáo Hoàng được cảm tình của nhiều người. Khi ngài bị ám sát hụt tại công trường thánh Phêrô, ai cũng cảm thấy xót thương. Thế nhưng, hầu hết người dân Ý vẫn đi bỏ phiếu để chấp thuận luật phá thai, một vấn đề đã được ngài từng lên tiếng phản đối nhiều lần.
Đi xuống một lãnh vực nhỏ bé hơn, trong những câu chuyện thường ngày, tôi được nghe rất nhiều những lời chỉ trích, hạ nhục uy tín các linh mục. Tôi cũng được biết đến rất nhiều vụ kiện về cha này hay cha khác. Kéo nhau ra cha quản hạt hay lên Tòa giám mục mà thôi chưa đủ, họ còn mượn tay chính quyền để phân xử.
Sự kiện thứ hai, đó là người ta đòi hỏi Giáo hội hơn là đòi hỏi chính bản thân mình.
Thực vậy, người ta luôn đặt quyền lời của cá nhân hay gia đình lên trên quyền lợi của Giáo hội. Người ta đòi hỏi các cha, các thày, các dì phải thế nọ, phải thế kia, nhưng lại chẳng bao giờ tự hỏi lòng mình: Tôi đã làm được gì cho Giáo hội?
Rồi từ đó, người ta đi tới một thái độ cực đoan, muốn kiểm soát cả những vị bề trên của mình. Không thiếu gì những cặp mắt soi mói, luôn dò xét nhà thờ, nhà xứ, không phải để nâng đỡ, mà để bới móc. Và nếu chẳng may có một sự việc gì không được vừa ý là thổi phồng và bàn tán xôn xao.
Có nơi, ban hành giáo muốn kiểm soát cả sự chi tiêu của cha sở. Muốn làm bất cứ việc gì cũng phải trình qua ban hành giáo, bằng không thì sẽ có chuyện đôi co, chẳng lành. Hành động như thế là đi ngược lại với nguyên tắc quyền bính trong Giáo hội. Thực vậy, quyền bính trong Giáo hội phải từ trên đi xuống, chú không phải từ dưới đi lên.
Sau cùng, sự kiện thứ ba đó là người quá lo lắng cho bản thân, quá vun quén cho gia đình, mà quên đi lợi ích chung của giáo xứ, của giáo phận, cũng như của Giáo hội. Chẳng hạn việc bàu ban hành giáo. Mặc dù được nhắc đi nhắc lại chẳng biết bao nhiêu lần, thế mà số người ra ứng cử vào ban hành giáo chẳng được bao nhiêu. Hình như người ta ngại gánh vác những công việc chung. Ai cũng than là gia đình mình quá bận rộn và thiếu thốn. Tuy nhiên, xét cho cùng phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần chung và chúng ta ngại hy sinh cho giáo xứ? Đã thế, khi có người thiện chí, dám hy sinh ra gánh vác công việc chung, thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản, hay gièm pha thế này thế khác.. Chúng ta nói rằng mình yêu mến Giáo hội, thì hãy chứng minh lòng yêu mến ấy bằng những việc làm cụ thể. Đừng tưởng rằng mỗi năm mình đóng góp dăm ba chục ngàn hay một vài trăm ngàn là đã làm tròn phận sự, là đã yên lương tâm, để rồi có quyền đòi hỏi và hạch sách. Chúng ta thử nghĩ xem sự đóng góp ấy được là bao so với những chi phí cần thiết cho việc sinh hoạt cũng như cho việc duy trì và kiến thiết của giáo xứ.
Chẳng hạn việc học hỏi giáo lý. Mỗi năm mới có một kỳ hè. Đây là thời gian thuận tiện để mở những khóa giáo lý. Chính các Đức Giám mục cũng muốn như vậy. Không phải chỉ mình giáo xứ của chúng ta, mà hầu như tất cả các giáo xứ đều mở. Khi mở những khóa giáo lý như vậy, chúng tôi vừa hao tốn tiền bạc, vừa hao tốn thời giờ, lại vừa hao tốn công sức…Thế nhưng, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận để con em chúng ta được bồi dưỡng về đạo đức, được giáo dục về đức tin. Tuy nhiên, tôi thấy có những người đã phát biểu nghe nó chua chát làm sao: Con tôi không phải để đi chơi, nhưng phải tập cho nó biết làm ăn… Nghỉ giáo lý một ngày thì không sao, chứ nghỉ ăn một ngày thì chết…
Từ những sự việc trên, chúng ta đi vào ngày lễ hôm nay: hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã chết để tuyên xưng đức tin và đã trở thành nền móng cho Giáo hội công giáo.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có dám sống và dám chết cho Giáo hội hay không? Chúng ta có dám lên tiếng để bênh vực những quyền lợi chính đáng Giáo hội hay không? Mỗi người chúng ta phải là một viên gạch, góp phần vào việc xây dựng Giáo hội. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết, chúng ta hãy tôn trọng và vâng phục quyền bính trong Giáo hội. Nhiều khi, trong những lúc vui đùa bên mâm cơm hay bên tiệc rượu, chúng ta đã kể những mẩu chuyện tiếu lâm liên quan tới tôn giáo. Làm như vậy, chúng ta đã vô tình coi thường những chức vụ trong Giáo hội, để dẫn tới những thái độ bất kính.
Tiếp đến, chúng ta hãy dùng lời nói và việc làm để góp phần xây dựng cho giáo xứ của mình, cũng như cho những giáo xứ khác, trong một tầm nhìn rộng lớn hơn và tổng quát hơn.
Đừng bao giờ hỏi rằng: Giáo hội đã làm gì cho tôi? Nhưng hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi đã làm gì cho Giáo hội?
Suy Niệm 15: Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Khi đọc lại lịch sử của hai vị thánh Phêrô và Phaolô, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì hai con người này hai tính khí khác nhau, hai nền giáo dục khác nhau, nhưng đã bổ túc cho nhau khiến hai Đấng trở nên cột trụ vững chắc cho Giáo Hội của Chúa Kitô ở trần thế. Thánh Phêrô,vị tông đồ trưởng đã bộc trực thưa với Chúa Giêsu ba lần “Ngài yêu mến Chúa”, nhưng sau đó lại chối Chúa ba lần. Còn thánh Phaolô, một con người bắt bớ Giáo Hội của Chúa, đã bị Chúa làm cho tan nát trên đường đi Đamas.
HAI KHUÔN MẶT - MỘT NIỀM TIN
Tin mừng Matthêu thuật lại, các môn đệ sau khi theo Chúa một thời gian khá dài, có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu, người thì bảo là Êlia, người bảo là Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào đó, còn các môn đồ nghĩ sao? Chúa Giêsu muốn biết tấm lòng và sự hiểu biết của các tông đồ đối với Chúa Giêsu như thế nào và đây là điều Ngài muốn biết. Ông Simon Phêrô vẫn nhanh nhảu, nóng nảy, bộc trực đã thưa với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Chúa Giêsu đã rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô và đây là câu trả lời Chúa Giêsu muốn biết. Đức Giêsu nói với Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17). Đức tin của Phêrô đã giúp Ông thốt lên và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính nhờ đức tin, sự xác tín và sự tuyên xưng của Simon Phêrô, Chúa Giêsu đã đặt thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh (Mt 16,18). Còn Phaolô, sau khi bị Chúa đánh cho ngã ngựa trên đường Đamas đang khi thực hiện ý đồ triệt hạ các môn đệ và Giáo Hội của Chúa, Phaolô đã nghe tiếng Chúa nói: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai? Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ.” (Cv 9, 4-5). Sao-lô tức Sa-un đã được Khanania đặt tay chữa lành và làm cho Sa-un được sáng mắt do quyền năng của Chúa và Ông đã lại thấy được, Ông đứng dậy và lãnh nhận phép rửa (Cv 9,17-19). Từ hôm đó Ông đã mạnh dạn rao giảng về Chúa khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” (Cv 9,21). Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22).
Thánh Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó Ông và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa (Cv 9,28). Thánh Phêrô và thánh Phaolô mỗi người một cách suy nghĩ, mỗi người một tính khí nhưng dưới ánh sáng của Tin Mừng, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, hai Ngài đã trở thành hai cột trụ vững chắc cho Giáo Hội nhờ đức tin của các Ngài được Chúa củng cố.
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ NÊU GƯƠNG TÔNG ĐỒ CHO TA:
Dù thánh Phêrô đã chối Chúa tới ba lần, dù trước đó Ngài đã cương quyết theo Thầy tới cùng, nhưng khi nghe Chúa loan báo cuộc thương khó Ngài phải chịu để cứu độ nhân loại, Phêrô không thể hiểu được Thầy mình, Ông đã cản ngăn đường Chúa đi, Chúa đã khiển trách Phêrô rất nặng lời, cho ông là Satan, ma quỉ. Nhưng Phêrô đã nhận ra con người của Chúa sau ba lần chối Thầy. Phêrô cũng chỉ nhận ra tình yêu và lòng xót thương của Chúa sau những giọt nước mắt tang thương, ăn năn, sám hối. Còn Phaolô chỉ nhận ra Chúa khi Ông hăm hở, lấc cấc, hăng say truy lùng, bắt bớ các môn đệ của Chúa. Ông chỉ hiểu được lòng tha thứ và tình thương của Chúa khi Ông ngã ngựa và đôi mắt bị mù lòa trên đường Đamas. Hai thánh nhân đều ý thức việc quay trở lại với Chúa, đều cảm nghiệm tình thương xót hải hà của Chúa. Hai Ngài đã rất thực, sống hoàn toàn như mình nghĩ và cũng hồi sinh mau chóng khi hiểu được con người đầy xót thương của Chúa Giêsu. Nên, dù hai tính khí, hai nền giáo dục, hai khả năng, hai cách làm việc khác nhau, thánh Phêrô và thánh Phaolô đã bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo Hội của Chúa vững chắc ở trần gian này. Hai vị thánh tông đồ đã nêu gương sáng cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho từng người về lòng nhiệt thành, sự can đảm và sự say mê truyền giáo của các Ngài. Hai Ngài còn cho nhân loại thấy dù yếu hèn, dù tội lỗi, dù kém tài, Chúa vẫn luôn dùng tới nếu con người biết tin, cậy và quay trở về với Chúa. Mỗi một con người đều có chỗ đứng trong trái tim Chúa. Chúa thương yêu con người không chung chung, có lệ, nhưng Chúa gọi tên từng người một vì “Ta biết chiên và chiên biết Ta”. Chúa dùng mọi người, dùng mỗi người với tất cả những gì đang có, những khuyết điểm, những hạn hẹp của con người, Chúa xử dụng tất cả để làm phong phú, đa dạng và làm nổi bật quyền năng, uy dũng của Ngài. Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô là lễ kính mầu nhiệm Hội Thánh đặt nền tảng trên các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ các Ngài, Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các Ngài giảng dạy”.
Suy Niệm 16: Hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô_Lm Nguyễn Văn Độ
BÀI SUY NIỆM LỄ CHÍNH NGÀY
LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
(Mt 16,13-19)
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, ngày 29 tháng 6 hằng năm, cả Giáo hội vũ hoàn kính nhớ đặc biệt và mừng trọng thể cùng lúc lễ hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô, những cột trụ của Giáo hội phổ quát Chúa Kitô. Theo truyền thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính với lòng biết ơn hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô, và đồng thời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền.
Phêrô có tên gốc là Simon, người Galilê làm nghề chài lưới, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Phaolô có tên là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi gặp Đức Kitô.
Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Kitô, đã xứng đáng nghe lời này : « Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy » (Mt 16, 18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ « tảng đá », chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Phêrô, ngư phủ miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô, người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu tại thế, ông bách hại những người tin Chúa Kitô. Nhưng khi gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, ông trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin, là « dụng cụ ưu tuyển » để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc (x. Cv 9, 1-22).
Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi, Phêrô được gọi lúc ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai mờ. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới. Phaolô là chiếc bình được tuyển chọn, Phêrô giữ chìa khóa Nước Trời ; cho dù người này là ngư phủ, người kia là kẻ bách hại. Phaolô đã bị đánh cho mù, cuối cùng thấy rõ hơn ; Phêrô đã chối Chúa, sau tin vững vàng. Phaolô đã chọn tin vào Chúa Kitô sau khi phục sinh. Phêrô vị dân chài thay vì thả lưới bắt cá, nay trở thành kẻ lưới người ta.
Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh « Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy» (Mt 16, 17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.
Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, không ngừng rao giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây, ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng : « Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại được nghe biết đến ». (2Tm 4, 17-18)
Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Người yêu mến. « Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy » (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống, vì Người là « Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi » (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: « Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô » ( Rm 8, 35.39)
Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28) ; « Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu » (Gl 6, 1-7).
Cả hai hạnh phúc trong việc giữ gìn giáo lý tinh tuyền, nhưng cái phúc tử đạo còn hạnh phúc hơn. Nơi dương gian, vinh quang chỉ là ước muốn ; chốn thiên đàng mọi sự thật nhãn tiền. Tiếng các ngài đã vang đến tận cùng trái đất, và thông điệp loan đi tới chân trời góc bể. Khắp nơi vang tiếng ngợi khen các ngài ; các tín hữu nhẩm đi nhắc lại chiến thắng khải hoàn của các đấng.
Thật là hữu ích khi nhắc lại cho chúng ta vinh quang tử đạo của các hai đấng. Phaolô bị chặt đầu, Phêrô bị đóng đinh cắm đầu xuống đất. Hình thức tử đạo thật mầu nhiệm. Phêrô không dám chịu đóng đinh giống Thầy mình. Đó không phải là ông từ chối tử đạo, nhưng ông sợ nhận lấy cái chết giống Đấng Cứu Thế. Cả hai vị đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng: thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết; thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh Phaolô được an táng bên đường Ostiense.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo, dám yêu, dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài, chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận.
Lạy Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, cầu cho chúng con.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm 17: Hai Cột Trụ Của Giáo hội
HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
(Mt 16, 13-19)
Phêrô và Phaolô là hai trụ cột của Giáo hội mà phụng vụ không thể tách rời. Đây là hai khuôn mặt sáng ngời của Giáo hội, hai người Do Thái gắn bó với đạo cha ông, một người sống ở miền quê, người kia thành thị, cả hai đã được Đức Kitô chọn gọi.
Simon, mạnh mẽ với đức tin bình dân xứng đáng với tên gọi Phêrô. Saolô, người đã theo học với các bậc thầy nổi tiếng, trên đường đến Đamát, ông đã gặp Chúa Giêsu, Đấng tự tỏ mình cho ông như một nhân vật sống trong vinh quang của Thiên Chúa duy nhất và trong lòng những người tin vào Người mà ông đang bắt bớ (x. Cv 9,1-19), được đầy Thánh Thần ông được gọi là Phaolô (x. Cv 13,9).
Phêrô vất vả vượt qua biên giới Israel mở toang cánh cửa Giáo hội cho những người không phải là con cháu của Abraham bước vào. Trái lại, Phaolô là một nhà truyền giáo khắp nơi của Giáo hội và trên thế giới. Phêrô và Phaolô là những chứng tá sống động, mẫu mực về đời sống thiêng liêng. Hơn bao giờ hết, chúng ta có được cảm hứng từ đời sống của hai đấng, nếu chúng ta muốn, đến lượt chúng ta, có thể làm chứng trong chân lý về đức tin của chúng ta, đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh. Cùng đi với Giáo hội hướng tới chân lý và ánh sáng giữa sóng cả ba đào thế gian. Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Mt 11, 25). Chúng ta, những con người nhỏ bé, nghèo hèn phải đối mặt với một thế giới đầy khó khăn. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta tiến bước trong ân sủng với niềm tin và hy vọng.
Chúa Giêsu trả lời Phêrô : "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17). Phêrô sẽ không đòi cho mình sự độc quyền để trở nên Phêrô cho Giáo hội đang gặp rắc rối giống như ông lúc Chúa Giêsu chịu khổ nạn : "Anh em cũng vậy, anh em là những viên đá sống động mà xây dựng cộng đoàn dưới tác động của Chúa Thánh Thần" (1Pr 2, 5). Ngôi Đền Thờ thiêng liêng Cộng đoàn Kitô giáo được xây dựng trên Chúa Kitô là Đá Tảng của Thiên Chúa. Phêrô với tư cách cá nhân tuyên xưng : "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Những gì ông nói thực sự là căn tính của Chúa Giêsu trong tương quan giữa Chúa Giêsu với Cha Người, đây là đức tin của Giáo hội sau khi Chúa phục sinh. Đức tin này đã được các Tông Đồ trung thành gìn giữ cho đến tử vì Đạo.
Tiếp theo, chúng ta đề cập đến niềm tin của chúng ta vào lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng, và giáo huấn của Giáo hội. Chúng ta xin ơn khiêm nhường để phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa. Phêrô và Phaolô đã tỏ bày sự nóng bỏng của Tình Yêu, Đức Ái nơi lòng mình. Các ngài đã nói về Tình Yêu là Chúa Thánh Thần, và các ngài đã làm điều đó không chỉ bằng lời nói, nhưng trên tất cả bằng hành động. Phêrô và Phaolô đã thấy mình cùng rực cháy lửa tình yêu của Thiên Chúa. Và chính Tình Yêu này đã thúc đẩy họ hiến trọn thân mình cho Chúa Kitô và hiền thê của Người là Giáo hội.
Lời tuyên xưng của Phêrô sẽ là điểm qui chiếu cho các môn đệ, một điểm chuẩn cho tất cả mọi thời. Còn Phêrô sẽ là điểm qui chiếu cho những người tin, nhờ ông mà họ có thể khẳng định niềm tin của mình. Chúa Giêsu nói với Simon bằng một lời chúc phúc : " Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc", Người đã mạc khải cho Phêrô cái phúc mà ông vừa tuyên xưng, đón nhận lời tuyên xưng của Phêrô vào Người mà Thiên Chúa Cha đã mạc khải cho ông. Chính nhân đức này mà Phêrô được Chúa Giêsu coi như đá góc của Giáo hội. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận ra rằng đức tin đến từ những nơi khác: Đó là một sự trung thành mà Chúa Thánh Thần nói cho chúng ta. Chúa Giêsu trao cho Phêrô Mầu Nhiệm của Giáo hội Chúa, mầu nhiệm đó sẽ là cả hai cùng chịu đóng đinh với Người và được sống lại với Người. Qua mái trường tình yêu tuyệt vời của phụng vụ, một kho tàng được ban cho chúng ta mỗi ngày. Dân Thiên Chúa bước đi trong một thế giới khủng hoảng. Với Chúa Thánh Thần, dân Chúa có thể đánh bại quyền lực của bóng tối nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Đối với mỗi người Kitô hữu, sống là Đức Kitô, thánh Phaolô nói : "Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh." (Col 1, 24). Lòng chúng ta bừng cháy lửa tình yêu đối với Chúa Giêsu và Giáo hội của Người, bởi vì yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến Giáo hội của Chúa và dâng hiến hoàn toàn cho Giáo hội.
Đại lễ mừng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô hôm nay khơi dậy nơi chúng ta một niềm vui lớn lao, vì đặt chúng ta trước công trình thương xót của Thiên Chúa trong tâm hồn hai vị Thánh, hai người tội lỗi. Và Thiên Chúa cũng muốn làm cho chúng ta được tràn đầy ân sủng của Ngài như đã làm cho hai thánh Phêrô và Phaolô. Kính xin hai Thánh, giúp chúng ta đón nhận ơn thánh như hai vị với con tim rộng mở.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy Niệm 18: Hồng Ân Đức Tin
LÊ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ TÔNG ĐỒ
(Mt 16, 13-19)
Ngày 29 tháng 6 hàng năm là ngày dành riêng cho hai vị thánh tử đạo Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng ta long trọng cử hành Đại Lễ Kính Các Ngài là nền tảng của Hội Thánh sơ khai, và đức tin của người kitô hữu, vì “Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin”; “Phaolô, là người làm sáng tỏ đức tin” (Kinh Tiền Tụng).
Là Tông Đồ của Chúa Giêsu, và là nhân chứng tiên khởi, nên Hai Thánh đã sống những khoảnh khắc đầu tiên và chứng kiến sự lớn mạnh của Giáo hội, đồng thời đã đổ máu đào để chứng tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu. Chúng ta, những kitô hữu ở thế kỷ XXI, có thể là những chứng nhân đáng tin cậy về tình yêu của Thiên Chúa giữa thế gian giống như Hai Tông Đồ và nhiều người khác nữa.
Trong Huấn từ đầu tiên của Ðức Thánh Cha Phanxicô, ngỏ lời với các hồng y năm 2013, ngài nói “Chúng ta phải bước đi, xây dựng và tuyên xưng” Không Tuyên Xưng Ðức Kitô Chịu Ðóng Ðinh, thì Không Phải Môn Ðệ của Người. Chúng ta có thể đi như chúng ta muốn, chúng ta có thể xây dựng rất nhiều điều, nhưng nếu anh em không tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô, thì có điều gì sai? Chúng ta sẽ trở thành một cơ quan hỗ trợ cho tổ chức phi chính phủ (NGO), chứ không phải Hội Thánh, là Hiền Thê của Chúa.”
Vì thế câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai ?” Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính mình. Trong số người đương thời, có kẻ cho Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, Êlia, Giêrêmia, hay một tiên tri nào đó (x. Mt 16,13-19).
Đối với Phêrô, vị ngư phủ miền Galilê, Chúa Giêsu đòi hỏi một hành động về đức tin của chính mình và ông đã không ngần ngại tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ngay lập tức, Chúa Giêsu nói với ông : “Phêrô, con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” ( Mt 16,18) và trao cho ông chìa khóa nước Trời, đặt ông làm Thủ lãnh các Tông Đồ, cùng với quyền tối thượng.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa có nghĩa là Đấng được xức dầu làm Ngôn Sứ, Vương Đế và là Mục Tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đức Kitô chứa đựng ý tưởng toàn năng. Các môn đệ nhìn chung đều nghĩ rằng, Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel, Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa người Do thái lên thống trị. Vì thế, khi Phêrô thưa : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), là ông nghĩ tới một Đức Kitô vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù.
Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống ! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi trên đường Chúa đã chỉ cho. Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực của Đức Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa biến đổi đời ta.
Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đức Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh Đức Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đức Kitô đau khổ thay vì vinh quang. Vì thế, ngày hôm nay phải là ngày tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta được loan báo bởi hai cột trụ của Giáo hội là thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. Đức tin này đã thắng thế gian, vì đức tin ấy tin và tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Cho dù Phêrô hay những người kế vị đã được trợ giúp bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vẫn cần đến lời cầu nguyện của chúng ta, vì nhiệm vụ của các ngài thật cao cả tuyệt vời đối với đời sống của Giáo hội : Các ngài phải là nền tảng vững chắc cho tất cả các Kitô hữu ở mọi nơi mọi thời; Thế nên, chúng ta phải cầu nguyện hàng ngày cho Giáo hội, cho Đức Thánh Cha.
Những ngày lễ về hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô trong năm nhắm đến khía cạnh khác, nhưng hôm nay 29 tháng 6, chúng ta chiêm ngưỡng điều cho phép chúng ta gọi là “những người đầu tiên loan báo đức tin”: thông qua cuộc tử đạo của Hai Thánh, và lời tuyên xưng của Các Ngài. Lời tuyên xưng ấy không phải xác thịt hay khí huyết mặc khải cho Phêrô về Chúa Giêsu, nhưng là Chúa Cha Đấng ngự trên trời (x. Mt 16,17). Tương tự như vậy, việc phát hiện ra Chúa Giêsu là “một trong những người bị bắt bớ”, ngay cả đối với Saolô, thực sự mở ra ân sủng của Thiên Chúa. Trong cả hai trường hợp, nhu cầu tự do con người đòi hỏi hành động của đức tin dựa trên tác động của Chúa Thánh Thần.
Đức tin của các Tông Đồ là đức tin Giáo hội, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Kể từ khi Phêrô tuyên xưng tại Caesarea Philiphê, “mỗi ngày, toàn thể Giáo hội, chính thánh Phêrô nói: 'Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Saint Lêô Cả). Từ đó cho đến nay, tất cả các Kitô hữu ở mọi nơi mọi thời nam phụ cũng như lão ấu, thuộc các nền văn hóa khác nhau đều tuyên tuyên xưng cùng một đức tin như thế với sự khải hoàn.
Lạy thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng con cám ơn Hai Đấng vì hồng ân đức tin mà Các Ngài đã rao giảng và sống, đồng thời truyền lại cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nguon: http://gplongxuyen.org/News