Thứ Bảy 16/04/2022 – ĐÊM THÁNH VỌNG CHÚA PHỤC SINH. – Người đã sống lại thật.

Thứ Bảy 16/04/2022 – ĐÊM THÁNH VỌNG CHÚA PHỤC SINH. – Người đã sống lại thật.

"Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa".

 

Lời Chúa: Mt 28, 1-10

Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay".

Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

1. Chào chị em!-- Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thật lạ lùng khi vào thời Đức Giêsu,

thời người ta không coi lời chứng của phụ nữ là có giá trị pháp lý,

Mátthêu lại kể cho chúng ta chuyện hai phụ nữ làm chứng về Chúa phục sinh.

Nếu chuyện ấy không có thật,

chẳng ai bịa đặt ra một chuyện vô bổ như thế.

Hai bà Maria này đã chứng kiến cái chết của Thầy Giêsu (Mt 27, 56),

đã dự việc chôn cất Thầy và biết rõ vị trí ngôi mộ (27, 61).

Suốt ngày sabát, trong đau đớn và nhớ nhung,

hai bà như sống trong một cuộc canh thức dài.

Họ chỉ mong cho chóng sáng để ra viếng mộ.

Các bà là những người đến mộ đầu tiên,

nên được diễm phúc chứng kiến những điều kỳ diệu.

Đất rung chuyển dữ dội, một thiên thần chói ngời từ trời xuống,

lăn tảng đá che cửa mộ ra và ngồi lên trên.

Quyền năng uy nghi của Thiên Chúa đè bẹp sức mạnh của tử thần.

Tảng đá nặng nề chẳng cầm giữ được Đấng bị đóng đinh.

Các bà đi tìm Đấng đã chết nơi nấm mộ.

Nhưng Đấng ấy đâu có ở đây, vì Đấng ấy đã trỗi dậy rồi (v. 6).

Thiên thần mời các bà đến xem chỗ Người nằm để kiểm chứng.

Quả thực, chẳng còn thân xác Người ở đó, ngôi mộ trống trơn.

Nhưng sự trống trơn này lại thật là một tin mừng.

Vì nếu Người còn nằm đó thì ai dám nói Người đã sống lại.

Ngôi mộ trở nên trống là do bàn tay quyền năng của Thiên Chúa Cha.

Cha đã nâng con trỗi dậy và cho con được phục sinh.

Đấng bị đóng đinh đã chết và đã nằm xuống.

Đấng nằm xuống đã được nâng dậy và sẽ đi gặp môn đệ ở Galilê (c. 7).

Lòng vui như mở hội, các bà vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ.

Đang khi chạy về thì chính Đấng phục sinh hiện ra đón gặp họ.

Ngây ngất vì cuộc gặp gỡ quá đỗi bất ngờ,

các bà chỉ biết phủ phục dưới chân Người mà thờ lạy (c. 9).

Thầy Giêsu không dặn điều gì khác với vị thiên thần ngoài mộ.

Chỉ có điều Thầy vẫn gọi các môn đệ là anh em (c. 10),

dù họ đã bỏ rơi Thầy trong lúc Thầy cần đến họ nhất.

Rõ ràng Thầy Giêsu phục sinh muốn tha thứ và làm hòa với họ.

Các phụ nữ đã trở nên những chứng nhân đầu tiên của sự phục sinh.

Họ đã thấy ngôi mộ trống, hơn nữa, họ còn được gặp Đấng sống lại.

Nhờ họ mà có cuộc gặp gỡ giữa Thầy Giêsu và các môn đệ ở Galilê.

Giáo Hội hôm nay cần những người có kinh nghiệm gặp Chúa,

để loan báo Tin Mừng và giúp người khác gặp Chúa.

Lúc nào Giáo Hội cũng cần những Maria cháy bỏng một tình yêu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,

xin cho con biết sống

cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.

Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.

Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.

Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.

Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.

Vượt qua những thành kiến con có về người khác...

Chính vì Chúa đã phục sinh

nên con vui sướng và can đảm vượt qua,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh

gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,

tin tưởng và niềm vui.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của ,,,

 

2. Chúa đã sống lại--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Đấng Cứu độ đã chịu khổ hình thập giá và được mai táng trong mồ, để từ cõi chết sống lại và giải thoát loài người khỏi chết.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Kitô là Đấng cứu thế, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu hiện diện khi Chúa chết trên thập giá và được mai táng trong mồ, xin cho chúng con mỗi khi gặp thử thách gian truân, cũng biết chia sẻ những cực hình Chúa đã chịu.

Chúa như hạt lúa gieo vào lòng đất đã đem lại sự sống là hoa trái muôn đời, xin cho chúng con biết từ bỏ tội lỗi để chỉ còn sống cho Thiên Chúa mà thôi.

Chúa đã chịu mai táng trong mồ, xin dạy con biết sống âm thầm trong tình thương của Chúa.

Chúa là Ađam mới đã xuống tận âm phủ giải thoát những người công chính bị giam cầm, xin cho những ai bị chôn vùi trong tội lỗi, biết nghe tiếng Chúa và được cứu sống.

Chúa là Con Chúa Trời Hằng sống, đã cho chúng con được chết với Chúa qua Bí tích Thánh tẩy, xin cho chúng con được sống lại với Chúa, để tiến lên trong cuộc đời mới. Amen.

Ghi nhớ: “Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa”.

 

3. Đêm Vọng Phục Sinh-- TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Trong đêm Vọng Phục Sinh, việc công bố Lời Chúa là một phần căn bản của nghi thức Phụng vụ. Khởi đầu, chúng ta đọc bài trích Sách Sáng Thế, tường thuật việc Thiên Chúa tạo dựng muôn vất muôn loài. Và lời sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa là “Hãy có ánh sáng!” Nơi nào có ánh sáng, nơi đó phát sinh sự sống.

Lễ nghi đêm nay, khởi đầu trong bóng tối là hình ảnh của nhân loại đi trong bóng tối tội lỗi, bóng tối của sự chết. Nến Phục sinh được thắp lên, lan tỏa ra khắp mọi người, cả nhà thờ rực sáng. Đức Kitô phục sinh đem lại sự sống cho cả thế giới, cho cả lịch sử nhân loại. Ngọn lửa nến Phục sinh vừa sáng vừa nóng biểu hiện Đức Giêsu Kitô vừa là Chân lý vừa là Tình yêu, là Chân lý trong Yêu thương. Nhưng nến cháy sáng rồi thì bị tiêu hủy, sống-chết đi đôi với nhau. Chúa Giêsu qua cái chết thập giá, Ngài đã phục sinh và phục sinh tất cả những ai tin vào Ngài. Cây nến mà chúng ta cầm trong tay được thắp lên từ cây nến phục sinh cũng như Chúa Phục sinh đã thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta. Lát nữa đây, khi cử hành Phụng vụ làm phép rửa cho 37 anh chị em dự tòng đây, chúng ta cầu nguyện và cũng hãy cảm nghiệm sự sống của Chúa được chuyển qua anh chị em để trở nên con cái của Chúa. Khi chịu phép rửa, anh chị em hãy tin vào lời Chúa phán:” Hãy có ánh sáng”, và Chúa phân chia anh chị em ra khỏi bóng tối như Ngài đã làm vào lúc sáng tạo vũ trụ. Và trong Đức Kitô, chúng ta nhận ra cái gì đúng cái gì sai, cái gì rạng ngời cái gì tối tăm, cái gì phải làm cái gì phải tránh. Và ánh sáng cuộc đời chúng ta, nhờ đó, cũng lan tỏa ra chung quanh để người khác nhận ra Đức Kitô cũng là ánh sáng cho cuộc đời của họ.

Yếu tố quan trọng thứ hai trong nghi lễ nầy là nước. Trong Đêm Canh thức Phục sinh, đọc 9 bài Kinh thánh: 7 bài Cựu Ước và 2 bài Tân Ước. Vì lý do thời gian hay yếu tố nào khác, phải bớt các bài Đọc , thì cuối cùng cũng giữ lại tối thiểu 4 bài. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được bỏ bài Sách Xuất Hành, chương 14, là chương tường thuật dân Do Thái vượt qua Biển đỏ cách lạ lùng. Nói đến biển, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến sức mạnh của sóng thần đã tàn phá miền Bắc Nước Nhật vừa qua. Trong mạc khải, biển cũng được diễn tả như thế lực thù nghịch, nơi giam giữ ác thần, là nơi hoành hành của sự chết. (Chúa ra lệnh cho biển im tiếng !) Dân Do Thái đi vào Biển Đỏ là nơi chôn vùi binh lính của Pharaô Aicập đuổi theo. Người dự tòng, ngày nay thay vì được dìm vào hồ nước, thì được dội nước trên đầu, nói lên sự chết cho tội lỗi, như Chúa Giêsu bị đóng đinh thân xác vào thập giá và chôn cất trong mồ. Và như lời thánh Phaolô trong thư Do Thái: “(…) khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu Kitô, là chúng ta đã được dìm vài trong cái chết của Người …” Nhưng nước đồng thời cũng mang ý nghĩa của sự thanh tẩy, của sự sống mới, sự tăng trưởng và Chúa Giêsu cũng dùng để nói về Chúa Thánh Thần. Và thánh Phaolô nói tiếp: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được một đời sống mới”.

Qua bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tham dự vào sự Phục Sinh của Đức Kitô. Qua Đêm Canh thức nầy, Giáo hội mời gọi tất cả chúng ta hãy vui mừng, vì trong Đức Kitô, sự sống của chúng ta đã chiến thắng sự chết và sự cứu rỗi cho chúng ta mạnh hơn tội lỗi, vì thế, như Phụng vụ Lời Chúa vừa được cử hành, “Tôi loan báo cho anh chị em một tin rất vui mừng, đó là Alleluia, Chúa đã sống lại!”

 

4. Niềm hy vọng Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm lại sáng, lại sáng sỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lầy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khoẻ: các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còn đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người. Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta sẽ được cứu sống lại với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn. Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình.

Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chủa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn. Mỗi năm khi mừng lễ Phục sinh, chúng ta chiêm ngưỡng tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giần hờn, ghen tuông. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục sinh.

Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm vui và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn vẹn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.

 

5. Sứ điệp của Chúa Phục Sinh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Bài Phúc Âm đêm vọng Phục Sinh tường thuật lại sự kiện các phụ nữ đến thăm mộ Chúa từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Các bà chứng kiến cảnh tảng đá đậy cửa mộ bị lăn ra ngoài và thi hài Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Thấy vậy các bà rất phân vân, lo sợ. Tuy nhiên Thiên Thần trấn an các bà “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết ? Người không còn ở đây. Người đã sống lại...

Nhờ đó các bà tin nhận Chúa đã Phục Sinh. Các bà hân hoan trở về báo tin cho các tông đồ, dù rằng các ông vẫn còn nghi ngờ.

Trình thuật của bài Phúc Âm Phục Sinh tối nay muốn gởi đến chúng ta hai sứ điệp quan trọng sau.

Sứ điệp I: Chúa Phục Sinh mang đến niềm vui.

Trước nỗi lo sợ hoang mang của các bà phụ nữ, Thiên Thần Chúa đã trấn an các bà: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại”...

Biến cố Chúa Giêsu chịu chết, đã gây nên cho các bà phụ nữ cũng như hầu hết các tông đồ một nỗi hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay khi Phục Sinh, Chúa muốn trấn an họ bằng cách làm cho các bà phụ nữ nhớ lại Lời Người đã nói khi còn sống: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Nhất là qua sự kiện ngôi mộ trống và lời xác minh của các Thiên Thần, các bà đã tin nhận Chúa đã sống lại.

Như thế, sự kiện Chúa Phục Sinh mang đến cho các bà phụ nữ cũng như cho tất cả chúng ta một sứ điệp lớn lao, sứ điệp của niềm vui.

Vui bởi lẽ từ nay thập giá sẽ trở thành Thánh Giá vinh quang.

Vui bởi lẽ người đời chỉ có thể giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn.

Vui bởi vì từ nay các thế lực thống trị trần gian: Ma quỷ, thế gian, thần chết đã bị đánh bại nơi Đức Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Do đó ai tin nhận Người cũng sẽ có được niềm vui chiến thắng vinh quang ấy.

Sứ điệp II: Nhiệm vụ loan truyền Phúc Âm, tin mừng Chúa Phục Sinh

Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh, nhờ sự soi dẫn của các Thiên Thần và Lời Chúa đã nói, các bà như được thúc đẩy để thực thi sứ mạng loan truyền Phúc Âm. “Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác”.

Tin mừng Chúa Phục Sinh phải được loan báo cho mọi người, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan truyền Phúc Âm” (Ga 10,27).

Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên Thánh Giá và đã Phục Sinh để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta phải tin nhận và loan báo cho mọi người.

 

6. Vượt qua--Lm Giuse Đinh Tất Quý

I. Đêm nay là đêm Vượt qua.

Bài đọc thứ nhất Chúa tạo dựng lên trời đất: Vượt qua từ không sang có.

Bài thứ hai câu truyện của Abraham: Vượt qua từ con người ích kỷ, chỉ biết sống cho mình với ý riêng của mình để sống cho Thiên Chúa.

Bài thứ ba kể lại chuyện người Do thái vượt qua Biển đỏ: Trước khi vượt qua Biển đỏ họ sống một cuộc sống nô lệ. Khi vượt qua Biển đỏ họ bắt đầu bước vào cuộc sống sống tự do.

Bài Thánh thư Thánh Phaolô: Vượt qua tội lỗi bước vào đời sống ơn sủng.

Bài Phúc Âm: Chúa Giêsu vượt qua từ sự chết bước vào sự sống. Đây là cuộc vượt qua hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất.

Mọi cuộc vượt qua…như vượt qua từ không sang có, từ con người ích kỷ sang cuộc sống quảng đại hiến thân, từ nô lệ sang tự do, từ tội lỗi sang đời sống ân sủng, từ cái chết bước vào sự sống đều đòi hỏi một sự giã từ, giã từ một cái gì đó bất toàn để bước sang một sự hoàn hảo hơn. Việc giã từ như thế không phải lúc nào cũng suông sẻ, không phải lúc nào cũng dễ dàng nhưng rất nhiều khi nó đòi hỏi đến mức độ phải hy sinh, phải quên mình, có khi phải trả bằng cả một cuộc sống đầy máu. Chúng ta hãy nhìn cảnh Abraham đau xót như thế nào khi dẫn đứa con duy nhất của mình lên núi để tế lễ cho Thiên Chúa! Chúng ta hãy nhìn cảnh những người Do thái phải điêu đứng trả giá như thế nào trong suốt 40 năm trời ở sa mạc để rồi sau đó mới được vào đất hứa. Và chúng ta hãy nhìn xem Chúa Giêsu Chúa của chúng ta đã phải trả giá như thế nào để có được sự Phục Sinh vinh hiển hôm nay.

II. Vâng! Một con tằm phải trải qua đau đơn để tự chui ra khỏi cái kén và trở thành con bướm biết bay. Một hạt giống nằm sâu trong lòng đất nảy mầm phải tự vươn thẳng lên xuyên qua tầng đất dày để thành cây cứng cáp.

Con tằm nào được người ta cắt vỏ kén chui ra sẽ chỉ mãi bò quẩn quanh cái kén mà không bao giờ thành loài bướm biết bay được.

Hạt giống nằm trên mặt đất dễ dàng nảy mầm nhưng rồi sẽ bị bật gốc ngay khi gặp cơn giông tố.

Con người không thể chọn cho mình nơi sinh ra, nhưng có thể tự chọn cho mình một cách sống; rèn luyện cho mình khả năng chịu đựng để trở thành một con người có bản lĩnh với một ý chí mạnh mẽ đã được tôi luyện qua thử thách, khó khăn, bất hạnh và có khi cả thất bại. Thất bại, bất hạnh có thể là điều tuyệt vọng với người này nhưng có thể là may mắn với người khác - tùy vào cách họ đón nhận một cách dũng cảm để vượt qua hay tự thương thân trách phận mình mà gục ngã.

Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình có mỗi một thể võ duy nhất.

Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:

- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học thêm được một thể võ nào khác nữa sao?

Ông trả lời:

- Đây là thể võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.

Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.

Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đi tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn một chút nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.

Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm hơn. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:

- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.

Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.

Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra cái điều ám ảnh trong đầu mình bẩy lâu nay:

- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thể võ như thế?

- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con có thể phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.

Vâng! Đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Hãy tin vào chính mình, chúng ta có thể làm được tất cả!

Martha Washington: "Phần lớn hạnh phúc hay bất hạnh được quyết định bởi tính cách của chúng ta chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh."

Lạy Chúa Giêsu Chúa đã làm người và sống cuộc sống làm người của chúng con. Nhìn vào cuộc sống làm người của Chúa trên trần gian, chúng con thấy Chúa đã gặp quá nhiều bất hạnh, khó khăn, đau khổ và cả sự chết nữa nhưng Chúa đã vượt qua tất cả… vượt qua để bước vào vinh quang.

Xin Chúa giúp cho chúng con cũng biết sống như Chúa, biết cố gắng vượt qua những khó khăn thách đố… để sau này chúng con cũng được tham dự vào sự vinh quang với Chúa. Amen.

 

7. Người đã sống lại thật--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.

2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.

Bài đọc một sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã biến đổi tối tăm mù mịt, u ám mông quạnh, ra sáng láng chan hòa sức sống tươi mát, rực rỡ như buổi bình minh, thông thoáng như cảnh chiều dương, vạn vật sinh động, vui thỏa, nhuộm muôn mầu ngàn sắc. Đó là cảnh Phục sinh mà Thiên Chúa đã sáng tạo thuở ban đầu. Thiên Chúa đã cho con người sống vương giả trong cảnh trời đất huyền diệu đó như trong vườn thượng uyển của vua nước Trời.

3- Con người được sống vương giả, chính ra càng ngày càng trở nên xứng đáng với sứ mệnh cao cả của Thiên Chúa đã ban cho mình. Trái lại, con người: nhân dục vô nhai, dục vọng vô bờ, lòng tham không đáy, no bụng đói con mắt, thèm thuồng đủ thứ nên đã nếm phải nọc độc của rắn quỷ. Tham thực cực thân, ăn no tức bụng. Nọc độc đã cướp đi sự sống vương giả của con người. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu triều đại đế vương sụp đổ chỉ vì những ông hoàng bà chúa sống vương giả, được voi đòi tiên, ăn chơi trác táng, tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau. Đức Giêsu nhiều lần đã nói những dụ ngôn về các ông bá hộ như thế, chẳng bao lâu họ phải bỏ mạng: “Đồ ngốc đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi” (Lc. 12, 20). Tổ tiên loài người đã sống mất mạng vì lối sống phú hộ đó. Cain đã giết em, Evà đã kinh hoàng ôm lấy xác con vào lòng đầy đau xót chỉ vì bà đã ham mê nuốt trái cấm đầy quyến rũ ngon ngọt. “Chỉ vì một người đã sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì Thiên Chúa làm qua một Người là Đức Giêsu Kitô sự sống lại được ban dồi dào” (Rm. 5, 12, 17-19).

4- Đêm nay, Đức Giêsu đã phục sinh sự sống dồi dào cho con người, cho chúng ta. Đêm nay Đức Giêsu đã giải phóng con người chúng ta khỏi thần chết như Mosê đã giải phóng cho dân Israel khỏi nô lệ khốn cùng của Ai cập. Israel đã dứt bỏ mọi quyến luyến Ai cập, chỗi dậy theo lệnh Mosê, vâng lời Thiên Chúa vượt qua biển máu, nên Thiên Chúa đã ra tay chôn vùi quân địch đeo bám họ dưới đáy biển máu và đã dẫn đưa họ về sống trong miền đất tự do chảy sữa và mật (Bài đọc 3). Đêm nay, chúng ta cũng phải dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi, chỗi dậy theo lệnh Giáo hội, vâng lời Thiên Chúa vượt biển chết tội lỗi, thì sẽ được Đức Giêsu giải phóng ta khỏi tà thần, tiêu diệt quỷ dữ, dẫn đưa ta về miền đất phục sinh vinh quang muôn đời.

Lạy Chúa Giêsu, con đã chết và qua phép Rửa tội, Chúa đã cho con được chỗi dậy từ cõi chết. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm vì đức từ bi Người muôn thuở. Xin Chúa gìn giữ con, ấp ủ con trong nguồn Phục sinh muôn đời của Chúa (2Cr. 3, 1-4; Tv. 117).

 

8. Chúa đã sống lại thật rồi (Mc 16, 1-8)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 “Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong Đêm canh thức Phục sinh, đồng thời mời gọi con cái mình cùng mừng vui vì niềm vui ơn cứu độ. Chúa Kitô Vị Thủ Lãnh của chúng ta sau khi đã hiến mình chịu chết, Người đã sống lại khải hoàn và qua sự sống lại ấy, Người trao ban Sự Sống Mới cho chúng ta.

Đêm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngắm vinh quang chiến thắng rạng ngời của Chúa Giêsu trên đau khổ và sự chết, để tất cả những ai tìm kiếm và tin vào Chúa là Chân lý thì được đời sống đời đời. Chúa Giêsu sống lại, niềm hy vọng của chúng ta. Không ai phải thất vọng, như những bà dù đã an táng Chúa, vẫn “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu” (Mc 16,1) không một ai trong các bà tuyệt vọng hết.

Chúa Giêsu sống lại là một điều có thật không thể nghi ngờ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi một sự kiện hiển nhiên từ trời, một thân xác phục sinh, các phương tiện trên mặt đất không tài nào nắm bắt được. Nhưng  từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê là những chứng nhân không thể sai được, sau nhiều lần Chúa hiện ra, tất cả những ngờ vực bị loại trừ, lời thiên thần nói với các bà: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người” (Mc 16, 6).

Vâng, Người đã sống lại rồi, hãy tìm kiếm sự hiện diện của Chúa ở đây, ngay bây giờ, giữa dân Chúa, giữa những khổ đau của Người, và hãy đi theo Chúa. Trong lá thư ngày thứ Tư Lễ Tro, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng: “Ơn cứu độ quả là hồng ân, đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của tôi, cần có sự đồng ý của tôi, sự thật, có nghĩa là mong muốn sống như Chúa Giêsu, đi theo Người “.

Còn sự vui mừng nào lớn hơn niềm vui Chúa sống lại, sự kiện này mang lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng về những vấn nạn của những người vẫn hỏi chúng ta: chúng ta đang chờ đợi điền gì sau cái chết? Đâu là ý nghĩa của khổ đau? Chúng ta chắc chắn rằng sau khi chết một cuộc sống mới đang chờ đón chúng ta: “Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước” (Mc 16, 7). Thánh Phaolô khẳng định với niềm xác tín rằng: “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,8-9). Khi được hỏi về ngày sau hết, người Kitô hữu phải trả lời một cách hợp lý với niềm vui và hy vọng.

Tin Mừng lễ Vọng đêm nay nhấn mạnh rằng người thanh niên tức thiên thần ngồi bên phải mộ đã nói với các bà về ý nghĩa của khổ đau, Thập giá và vinh quang: Đấng đã sống lại chính là Đấng bị đóng đinh. Saint Leo cả nói: “… (nhờ thập giá của Chúa) những người tin kín múc được sức mạnh từ sự yếu đuối, vinh quang từ sự nhục nhã, sự sống từ cái chết “, những thập giá hàng ngày là một con đường Phục Sinh.

Phần chúng ta, “chạy ra khỏi mồ …” (Mc 16,8), trở về từ nỗi khổ đau, ngờ vực trong ta, chúng ta hãy mang đến cho những người xung quanh ta đang ở trong thung lũng đầy nước mắt niềm hy vọng và sự tự tin. Bóng tối của ngôi mộ bừng sáng lên lời hứa bất tử. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu hướng chúng ta dõi mắt về trời để có thế nhìn thấy Dân Vượt Qua. Chúng ta cũng cầu xin cho những ai sống trong buồn sầu của ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh” trở thành một dân sống trong niềm vui của lễ Vượt Qua.

Mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia, Allêluia, Allêluia.

 

9. Mừng vui lên (Mc 16, 1-8)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.

Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sáng chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê  rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”(Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).

Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân loại Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

 

10. Tin Mừng Chúa Phục Sinh (Lc 24, 1-12)-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sáng chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” (Lc 24,4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24,5). Thấy vậy, hai người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” (Lc 24,1), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ?” (Lc 24,2). Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24,7).

Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

 

11. Tung hô Chúa đã sống lại thật--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

“Đức Kitô đã chịu khổ hình, chịu mai táng để cứu độ ta, nào ta hãy đến bái thờ Người” (Giáo đầu kinh Sáng - Phụng vụ giờ kinh)

Ngay từ chiều hôm qua - thứ Sáu Tuần Thánh, một màu tím buồn bao phủ Giáo hội: Chúa Kitô chết trên thập giá để đền tội nhân loại. Từ giờ phút đó, đến hết chiếu tối hôm nay – Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo hội mặc niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu, vì thương yêu ta đã chết để chúng ta được sống. Như Tin Mừng thứ tư đã ghi lại: “Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do Thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó” (Ga 19,41-42), chúng ta được mời gọi đến bên mồ Chúa.

Ngày thứ Bảy Tuần Thánh Giáo hội không cử hành Thánh Lễ, thinh lặng, chiêm ngắm, và suy tư bên ngôi mộ Chúa Giêsu. Mộ của Chúa như mở ra để mời gọi chúng ta mai táng vào đó tất cả những tội lỗi, thương tích, lo lắng bận tâm đầy ồn ào náo động để cùng Chúa sống lại trong cuộc sống mới…

Câu chuyện

Lửa xuất hiện và có tác dụng ngay từ thuở ban đầu của nền văn minh nhân loại. Việc tìm ra lửa, là một khám phá vĩ đại: lửa thắp sáng và giúp con người chinh phục bóng tối, lửa đốt nóng tạo ra những nguồn năng lượng để phục vụ cho cuộc sống…, lửa luôn gắn bó trong suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người. Hơn thế nữa, chúng ta còn một ánh lửa thiêng cần tìm kiếm, đón nhận và đốt cháy mãi trong tâm hồn như là một sức sống mới…

Không gian thật tĩnh lặng, bóng tối bao phủ và chế ngự giữa đêm khuya. Bóng tối trong Thánh Kinh mang ý nghĩa sự xấu, thuộc quyền của Satan và những thế lực chống lại Thiên Chúa. Hơn nữa, bóng tối của ngày thứ bảy sau khi Chúa chịu khổ nạn thật ảm đạm như bóng đêm của sự chết...

Bỗng một ánh lửa nhỏ bùng lên và một tiếng hát cất cao vang vọng “Ánh sáng Chúa Kitô”, rồi một lời đáp được đồng thanh vang rền “Tạ ơn Chúa”. Từ cây nến Pascal – Phục sinh, nơi xuất phát “Ánh sáng Chúa Kitô”, ngọn lửa được thắp sáng cho cộng đoàn với cây nến nhỏ cầm trong tay, và tôi chợt cảm nghiệm lời tuyên tín “Người là Ánh sáng đích thật sáng soi cho mọi người” (Ga 1,9).

Bóng tối bị đẩy lui dần dần vì có ánh lửa rực sáng lan tỏa, tử thần phải chạy trốn dưới ánh lửa lung linh.

Suy Niệm

Trên tay cầm nến sáng, chúng ta nghe tiếng hát du dương “Mừng vui lên, toàn thể thế giới hãy vui lên, trong ánh sáng huy hoàng, của Vua muôn thuở”... - lời của bài ca Exultet - Tin Mừng Phục sinh: Mừng vui lên vì Chúa chúng ta - Đức Kitô đã phục sinh, Alleluia…, Ngài đã sống lại từ cõi chết mở đường cho chúng ta đi vào sự sống bất diệt như thánh Phaolô đã chia sẻ: “bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế” (Rm 6,4).

Tâm hồn hoan ca với nến sáng trong tay, chúng ta hát tung hô Chúa đã sống lại thật Alleluia. Tôi nhớ Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì đón nhận tin mừng Chúa đã phục sinh từ các thiên thần: “Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi”. (Lc 24,5-6) và chính các bà cũng đã thấy Chúa (x. Mt 28,9-10). Thấy Chúa, được tiếp xúc với Ngài, tâm hồn lạnh lẽo được sưởi ấm bằng ánh sáng của Đức Kitô phục sinh, Maria Mađalêna đang than thở khóc lóc bỗng bật lên tiếng cười reo vui và chị đã đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18). Chị đã thắp lên ánh sáng Phục sinh cho các ông đang bối rối hoang mang vì Thầy bị bắt, bị kết án tử thành niềm vui.

Ánh sáng Phục sinh đã đốt lên và phá tan sự tăm tối lạnh lẽo nơi ngôi mộ, đốt cháy sự buồn sầu của sự chết và thắp lên nơi tâm hồn các phụ nữ cùng các tông đồ niềm vui Phục sinh Alleluia.

Ánh sáng Phục sinh phá tan bóng đêm nghi ngờ nơi tâm hồn các tông đồ và làm phục sinh nơi các ông đức tin vững mạnh và lòng mến sắt son. Ánh lửa Phục sinh đã đốt cháy và tiêu hủy sự tuyệt vọng, đau khổ, mồ côi vì vắng bóng Thầy, mà thay vào đó là tâm hồn tràn đầy sức sống của Chúa Phục sinh, niềm hi vọng tràn đầy và hạnh phúc vô biên vì “Thầy đã Phục sinh và sống bên các ông”.

Cầm nến sáng Phục sinh trong tay, tâm hồn tôi và bạn hân hoan trong đêm hồng phúc, như lời tụng ca Exsultet vang lên trong đêm thánh. Chính ánh sáng linh thiêng này cũng thắp lên cho tôi cho bạn niềm hy vọng vào Tin Mừng: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Một tâm linh mạnh vì được rửa sạch bằng máu thánh trên đồi Canvê, một tinh thần mạnh mẽ vượt khó vì được lửa Phục sinh thắp lên và luôn bùng cháy.

Như Maria Mađalêna luôn hoan ca loan báo Chúa Phục sinh, đời tôi đời bạn sẽ như là lời hoan ca loan báo cho thế giới: “Đức Kitô đã sống lại” bằng cuộc sống tươi vui, lạc quan trong ánh lửa đức tin Phục sinh.

Ý lực sống: “Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền

Không u ám như cõi lòng ma quỷ.

Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị

Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp u linh” (Hàn Mặc Tử).

 

12. Đêm kinh ngạc và sợ hãi Lc 24, 1-12--Lm. Giuse Lê Danh Tường

Đêm nay là Đêm Kinh Ngạc và Sợ Hãi. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca thuật lại tâm trạng của các bà ra viếng mộ Chúa. Khi thấy các sự lạ, các bà đi từ cảm giác “ngơ ngác” đến “sợ hãi” (Lc 24,4-5). Khi trở về nhà, các bà kể lại tất cả những gì đã diễn ra cho các môn đệ nghe. Nhưng đối với các môn đệ, chuyện của các bà cũng chỉ là “chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11). Khi các ông ra thực địa ngôi mộ, các ông đã “ngạc nhiên”. Làm sao mà các ông các bà không kinh ngạc, không sợ hãi, không ngạc nhiên khi mà: Đức Giêsu đã chết và đã sống lại.

Người ta có thể kinh hoàng và sợ hãi trước những biến cố khủng khiếp đổ ập đến cho mình. Người ta có thể kinh hoàng và sợ hãi khi đứng trước một biến cố tưởng chừng như chẳng còn gì nhưng lại được lại tất cả.

Việc Đức Giêsu chịu đóng đanh và chết trên cây thập tự là một dấu chấm hết. Mọi lời giảng, mọi minh chứng của ngài chẳng còn giá trị gì, tất cả bị chôn vùi cùng với thân xác của ngài trong nấm mồ. Các môn đệ của Giêsu tan tác hết, các ông trở về với cuộc sống vốn có của mình. Việc các bà đem thuốc thơm ra xức xác thầy mình cho thấy trong não trạng của các bà: Giêsu đã chết.

Việc một người đã chết và rồi lại sống lại là điều không tưởng. Nó là điều phi lý và nực cười. Chính các bà là những người hoàn toàn không nghĩ đến khả thể ấy. Việc Đức Giêsu đã chết và sống lại là một điều phi lý, không thể hiểu được. Ấy thế nhưng đó lại là sự thật. Một sự thật hiển nhiên đến không thể chối cãi. Đứng trước sự thật ấy, các bà run rẩy và sợ hãi, một sự run rẩy và sợ hãi thánh thiện. Các bà đứng trước quyền năng bao la của Thiên Chúa, đứng trước tình yêu cao cả vô bờ của Thiên Chúa, đứng trước một cơn sóng thần của tình yêu đang bao trùm lên thế gian, phủ lấp mọi tội lỗi và gieo mầm hy vọng. Các bà run rẩy, sợ hãi.

Giêsu đã chết và đã sống lại. Điều ấy được các môn đệ của Giêsu lặp đi lặp lại trên môi miệng của mình. Các ông ra đi khắp nơi để loan truyền cho thiên hạ rằng: Giêsu đã chết và đã sống lại. Cho dù gặp bao khó khăn vì bị chống đối, bị phủ nhận, cho dù người ta kề gươm vào cổ cấm các ông không được nói về điều ấy. Nhưng sự thật là thế, nên dù phải chết các ông vẫn thốt lên: Giêsu đã chết và đã sống lại.

Nếu như đêm lễ Giáng Sinh được chào đón bằng ánh sáng rực rỡ cộng với lời ca vui mừng cả tuần trước, thì đêm đại lễ Phục Sinh hôm nay khác hẳn. Đêm nay đã được chuẩn bị bằng một thời gian dài của mùa chay sống trong tâm tình ăn năn sám hối. Tuần thánh là thời gian chúng ta suy niệm về cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu. Ngày thứ sáu vừa qua chúng ta chìm trong tâm tình của cuộc thương khó với lòng chay tịnh. Bước vào Thánh lễ đêm nay, chúng thinh lặng trong u tối. Tất cả như được gột bỏ dần và dẫn chúng ta đến cảm nghiệm sự trống rỗng và vô vọng của con người.

Chính trong u tối, một đốm lửa đã bùng lên. Một ngọn nến bừng cháy, ngọn nến Giêsu. Ánh sáng đã bùng lên ấy không phải là ánh sáng từ bên ngoài chiếu dọi vào thế gian. Nhưng là ánh sáng bùng lên từ trong thế gian. Ngọn lửa ấy giờ đây bùng lên trong trái tim của mỗi người: ngọn lửa Giêsu, ngọn lửa Phục Sinh, ngọn lửa tình yêu và hy vọng. Cho dù thế nào, ngọn lửa Giêsu vẫn rực cháy trong tâm hồn mỗi chúng ta, soi chiếu vào mọi nơi tăm tối của cuộc đời chúng ta, sưởi ấm cõi lòng lạnh giá của chúng ta.

Càng thấy mình tội lỗi, chúng ta càng cảm thấy bàng hoàng sợ hãy trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Đêm nay cả Giáo hội hô lên: Ôi tội hồng phúc! Cái tội mà nguyên tổ loài người đã vấp phạm, đã từ chối Thiên Chúa, đã không còn chấp nhận có Thiên Chúa ở trên đầu mình nữa khi quyết định ăn trái cấm để mong được bằng Thiên Chúa. Người ta tưởng rằng với cái tội tày trời ấy, với việc bị trục xuất khỏi vườn địa đàng ấy, con người không còn cách chi quay trở lại. Nhưng chính Thiên Chúa đã biến hoàn cảnh bi đát ấy thành dịp để Ngài bày tỏ tình yêu của Ngài với con người. Chính trong đổ nát ấy, Thiên Chúa đã đến đồng cam cộng khổ với chúng ta, vực chúng ta dậy, đưa chúng ta trở lại sống trong tình nghĩa với Ngài. Chúng ta kinh ngạc trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Quả thật, ấy là tội hồng phúc. Nhờ nó mà ta cảm được nỗi lòng của Trời với ta.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Trước nhan Thiên Chúa hằng sống, chúng ta chỉ còn biết mượn lời Thánh vịnh mà ca lên:

“Việc Chúa làm cho ta, ôi thật vĩ đại

Ta thấy mình chứa chan niềm vui”.

 

13. Đức Kitô Giêsu là ánh sáng, chân lý và tình yêu--Jos. Vinc. Ngọc Biển

Những ai đã từng đi rừng vào ban đêm, hẳn sẽ hiểu được sự cần thiết của ánh sáng. Cách đây khoảng mấy chục năm, việc có và sử dụng đèn pin là rất hiếm, nên những người đi rừng vào ban đêm thường hay đốt đuốc để soi đường. Một phần phá đi bóng tối bao phủ, phần khác xua đuổi những loài dã thú dữ... Rồi trong những dịp lễ hội dân gian, người ta thường hay nhóm lên đống lửa và tụ họp trung quanh nó để vui ca nhảy múa... ta gọi đó là lửa trại.

Đêm nay, đêm của những người Công Giáo trên thế giới quây quần bên ánh lửa đặc biệt của ngọn nến Phục Sinh. Ánh lửa đó tượng trưng cho chính Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chiến thắng tử thần và đã sống lại. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng lên để xua đi bóng tối của những phiên tòa ẩn khuất xử Đức Giêsu trong đêm và cũng phá tan bóng đen u ám của cái chết trên đồi Canvê chiều Thứ Sáu Tuần Thánh.

1. Đức Kitô Giêsu là Ánh Sáng, là Chân Lý và Tình Yêu

Trước khi cử hành phụng vụ đêm nay, mọi ánh đèn đều được tắt, để khởi đi từ bóng tối. Đây là hình ảnh của tội lỗi, sự dữ, gian dối và chết chóc. Nhưng ngay sau đó, nến Phục Sinh được thắp lên, được truyền lan đến mọi người, và vị chủ tế cất tiếng giới thiệu: “Ánh Sáng Chúa Kitô”, mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Nghi thức này cho thấy: Đức Kitô phục sinh đã phá tan bóng tối, đêm đen, tội lỗi và sự chết. Từ nay Ngài là Chúa của kẻ sống và sẽ phục sinh tất cả những ai đã cùng Ngài bước qua đau khổ thì sẽ được đến vinh quang. Từ nay, Ngài sẽ thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta sống tự do trong cương vị là con cái Chúa.

Vì thế, kể từ đây, chúng ta thuộc về Đức Kitô Phục Sinh - Đấng là Sự Sống, là Ánh Sáng chiếu soi mọi người. Khi đã thuộc về Đức Kitô như thế, mỗi người cũng nhớ lại vai trò trở nên ánh sáng soi cho muôn người ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.

Ánh Sáng của nến Phục Sinh được thắp lên, còn gợi cho chúng ta cảm nghiệm được sự sáng và sức nóng, đây chính là biểu trưng của chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu. Chân lý và tình yêu là hai đặc tính luôn ở bên mỗi chúng ta và nó thôi thúc mỗi người hãy bước theo chân lý và sống trong tình yêu. Bước theo chân lý và sống trong tình yêu chính là làm chứng với Đức Kitô Giêsu và cùng bước vào quỹ đạo của tình yêu để yêu cho đến cùng như Ngài.

Như thế, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, nếu một khi đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, tức là ta cùng chết với Ngài, ắt ta cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh.

2. Thiên Chúa tỏ bày tình yêu trong Ánh Sáng cứu độ

Các bài đọc sẽ giúp cho chúng ta lần lượt khám phá thêm ý nghĩa của đêm nay:

Phụng vụ Lời Chúa được khởi đầu với bài trích sách Sáng Thế, qua bài đọc này, gợi lại cho chúng ta những hình ảnh rất giàu tính biểu cảm, đó là: cảnh tối tăm bao trùm hết mọi nơi, tình trạng hỗn mang vô trật tự. Tuy nhiên, khi Đức Chúa phân rẽ ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối, thì tình trạng hỗn mang đó không còn nữa và kể từ đó mọi vật cũng như mọi loài sống theo trật tự đúng với bản chất của chúng. Qua bài đọc này, dưới ánh sáng đức tin, chúng ta xác tín hơn về niềm tin của mình vào một Thiên Chúa là Chủ Tể trời đất. Mọi sự hiện hữu trên trần gian này thuộc về Người, và do ý muốn của Người mà có.

Tiếp theo, hình ảnh của Ápraham hiện lên như một mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Ông đã đặt trọn niềm tín thác của mình ở nơi Đức Chúa, nên ông sẵn sàng hiến dâng cho Người những gì là quý giá nhất của mình, đó chính là Isaác, đứa con trai duy nhất để trọn niềm hiếu trung với Người.

Sang bài đọc Xuất Hành, tác giả gợi lại cho chúng ta về một vị Thiên Chúa luôn yêu thương con cái của mình. Thật vậy, Người đã cứu thoát họ ra khỏi Aicập và đưa họ về miền Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật. Cuộc xuất hành của dân Do thái cho chúng ta một hình ảnh tiên trưng vừa cá nhân vừa tập thể. Cá nhân thì ám chỉ cuộc vượt qua của Đức Giêsu; tập thể là cuộc vượt qua của tất cả chúng ta.

Hình ảnh dân Israel được trình bày cách tiệm tiến: cuộc đời và dân tộc Israel đi từ thân phận nô lệ do tội lỗi, đến nơi được tự do trong tâm tình con cái Chúa; đi từ sự thất vọng đến hy vọng tràn trề; từ sự chết đến sự sống. Thiên anh hùng ca giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập là bằng chứng hùng hồn việc Thiên Chúa đang hướng dẫn lịch sử nhân loại tới hồng ân cứu độ. Mặc cho dân thất trung, bội ước, Thiên Chúa vẫn yêu thương và không hề lay chuyển.

Khi xưa, dân Israel đã khước từ nguồn mạch khôn ngoan, thì đến thời Tân Ước, Thiên Chúa đã trao ban chính Đấng Khôn Ngoan của mình đến ở trực tiếp. Đấng ấy chính là Đức Kitô Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại để cứu chuộc nhân loại.

3. Sống mầu nhiệm Ánh Sáng

Đêm nay, đêm Vọng Phục Sinh, ngọn lửa Phục Sinh được chiếu sáng nhắc cho chúng ta thấy rằng: Đức Giêsu là Ánh Sáng, Ánh Sáng đã đến thế gian để cùng chân lý đẩy lui sự dữ, hận thù và chia rẽ... để trao tặng cho nhân loại một Ánh Sáng của tình yêu, niềm tin, phó thác, và như thế, người Kitô hữu một khi đã được Rửa tội, chúng ta được mặc lấy Đức Kitô để thuộc về Ngài.

Như vậy, đêm nay, chúng ta thắp lên và hướng về ngọn nến Phục Sinh như một sự suy phục, hẳn chúng ta cũng không thể không nghĩ đến vai trò chứng nhân của mình là phải trở nên ánh sáng cho mình và soi sáng cho tha nhân.

Cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Israel, và cũng là dành cho chúng ta, đêm nay, một lần nữa, mỗi người tuyên tín lại niềm tin của mình ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để một lần nữa hâm nóng lại sự xác tín của mình vào Đức Kitô Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến để chiếu giãi chân lý và tình yêu của Người cho nhân loại. Đấng ấy đã đi đến tận cùng của tình yêu là vâng lời trọn vẹn và hiến dâng mạng sống của mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại. Đấng ấy đã sống lại để dẫn đưa những người tin vào sự sống mới, sự sống tràn đầy hạnh phúc và bình an.

Nếu Ápraham đã vâng lời, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa nên đã hiến tế con trai duy nhất của mình cho Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, Đấng là con duy nhất của Thiên Chúa Cha cũng đã tự hiến chính mình để thể hiện tình yêu trọn vẹn vào Thiên Chúa và vì yêu nhân loại, khi đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy sống sự hiến tế ấy trong tư cách là con cái Thiên Chúa và trong tư cách là người mang trong mình hình ảnh của Đức Kitô Giêsu, để yêu Chúa và yêu tha nhân hết lòng.

Nếu xưa kia, Đức Chúa đã dẫn dân ra khỏi ách nô lệ bên Aicập, để đưa dân đến bến bờ tự do thực sự, thì Đêm nay, Đức Kitô Giêsu cũng làm một cuộc Xuất Hành mới, cuộc Xuất Hành này đi từ sự chết đến sự sống, cái chết không còn quyền chi đối với Ngài nữa, từ nay Ngài là Chúa các chúa, Vua các vua, là Chúa của kẻ sống. Như vậy, Ngài đã giải thoát con người chúng ta khỏi sự dữ, sự tội.

Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng can đảm để làm một cuộc xuất hành mới, đi từ tối tăm của tội lỗi; từ sự bất hạnh do tội lỗi gây ra; từ những điều bất chính; những ràng buộc do tội gây nên, để trở thành con người mới, con người tự do trong tư cách là người thuộc về Đức Kitô Giêsu.

Bên cạnh đó, đêm hôm nay cũng là đêm của Ánh Sáng được chiếu giãi cho muôn dân. Thật vậy, sự chờ đợi của anh chị em Dự Tòng trong những tháng ngày qua, giờ đây họ đã được chính thức lãnh nhận Phép Rửa để trở nên người Kitô hữu trong Giáo Hội Chúa Kitô. Họ khoác lên mình chiếc áo trắng, tượng trưng cho sự sống mới trong Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.

Chúng ta cùng cầu nguyện và đồng hành với những anh chị em này, để họ luôn giữ được ngọn nến sáng của đức tin, luôn sẵn sàng làm chứng cho chân lý và luôn sống trong tình yêu với Thiên Chúa và tha nhân.

Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thuộc trọn về Chúa để trở nên một con người mới trong ân sủng và tình yêu. Amen.

 

14. Đêm thánh, đêm hy vọng-- Mc 16, 1-8--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

St 1,1-2,2; St 22,1-8; Xh 14,15-15,1a; Is 54,5-14; Br 3,9 – 15.32;4,4; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mc 16, 1-8)

Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).

Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.

Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta.

Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm.

Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.

Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.

Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).

Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.

Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi  đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.

Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.

Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.

Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: “Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).

Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.

Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.

Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là:

Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta.

Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.

Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:

Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.

Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.

Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.

Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.

 

15. Niềm hy vọng Phục Sinh--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lấy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khỏe; các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còm đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.

Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục Sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta được Phục Sinh với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa sau khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.

Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chúa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn.

Mỗi năm khi mừng lễ Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡn tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giận hờn, ghen tương. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục Sinh.

Chúa đã chết cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.

 

16. Niềm Hy Vọng Phục Sinh--ÐTC Gioan Phaolô II

(Ðêm Vọng Phục Sinh năm 2002)

1. "Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng"; và có ánh sáng" (St 1,3).

Một sự bùng nổ của ánh sáng, mà Lời Chúa mang đến từ hư vô, xé toạc màn đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng.

Thánh Tông Ðồ Gioan viết: "Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm" (1Ga 1,5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: "Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm" (Khôn ngoan 1,14).

Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).

2. Một đêm khác nữa thiết lập biến cố nền tảng trong lịch sử Israel: đó là cuộc Xuất Hành kỳ diệu từ Ai Cập, câu chuyện được đọc mỗi năm trong đêm Vọng Phục Sinh long trọng.

"Chúa khiến gió đông thổi lên thật mạnh càn quét mặt biển suốt đêm, làm cho biển cạn hết. Nước rẽ đôi như vậy đã giúp con dân Israel đi thẳng vào lòng biển như đi trên đất khô, với nước dựng như bờ tường hai bên tả hữu họ" (Xuất hành 14,21-22). Dân Chúa được sinh ra trong "phép rửa tội này" nơi Biển Ðỏ, khi họ chứng kiến cánh tay quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng cứu họ khỏi nô lệ để dẫn đưa họ đến miền đất hứa của tự do, công lý và hòa bình.

Ðây là đêm thứ hai, đêm của Xuất Hành.

Lời tiên tri của Sách Xuất Hành ngày hôm nay, cũng được thực hiện cho chúng ta, những người là Dân Israel theo Thần Khí, hậu duệ của Abraham do bởi đức tin (x. Rm 4,16). Trong cuộc Vượt Qua của Ngài, như Môisen mới, Ðức Kitô đã cho chúng ta vượt qua sự nô lệ của tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ vào quyền năng của Thánh Thần của Ngài. Phép Rửa của Ngài đã trở nên phép rửa của chúng ta.

3. Cả anh chị em cũng sẽ nhận được phép Rửa này, phép Rửa đưa chúng ta vào trong cuộc sống mới, những tân tòng thân mến từ nhiều quốc gia: từ Albania, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Ba Lan, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Hai người trong số anh chị em, một bà mẹ Nhật Bản và một bà mẹ Trung Quốc, mỗi người mang theo với mình một cháu bé, như thế, trong cùng một nghi thức này, cả mẹ lẫn con đều cùng được rửa tội.

"Trong đêm cực thánh này", khi Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết, anh chị em cũng sẽ cảm nhận một cuộc "xuất hành" thiêng liêng: hãy bỏ lại phía sau cuộc đời trước đây của anh chị em và tiến vào "miền đất của sự sống". Ðây là đêm thứ ba, đêm của sự Phục Sinh.  4. "Ðêm diễm phúc của tất cả các đêm, được Thiên Chúa chọn để thấy Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết!" Chúng ta hát lên những lời này trong lời Công Bố Phục Sinh vào đầu buổi Canh Thức long trọng, Mẹ của mọi đêm Canh Thức.

Sau đêm thảm kịch của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi "quyền lực của tối tăm" (Lc 22,53) dường như thắng thế trên Ðấng là "ánh sáng thế gian" (Ga 8,12), sau cái yên lặng bao trùm của Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong đó Ðức Kitô, sau khi hoàn tất công việc của Ngài trên trần gian, nghỉ ngơi trong mầu nhiệm của Chúa Cha và mang sứ điệp của sự sống vào trong cõi âm, cuối cùng chiêm ngắm đêm trước "ngày thứ ba", mà theo Thánh Kinh, Ðấng Mêsia sẽ trỗi dậy, như chính Ngài thường báo trước cho các môn đệ của Ngài.

"Ðêm thật hồng phúc, khi thiên đàng giao duyên cùng thế gian và con người được hòa giải với Thiên Chúa!" (Công Bố Phục Sinh).

5. Ðây là đêm của các đêm, đêm của đức tin và hy vọng. Trong khi tất cả đang chìm trong bóng đêm, Thiên Chúa - Ánh Sáng - vẫn chiêm ngắm. Cùng với Ngài, những người hy vọng và tín thác nơi Ngài cũng chiêm ngắm.

Lạy Ðức Mẹ, đây thật là đêm của Mẹ! Khi những ánh sánf cuối cùng của ngày Sabát tắt dần, và hoa quả của lòng Mẹ nằm trong lòng đất, trái tim của Mẹ cũng chiêm ngắm! Ðức tin của Mẹ và hy vọng của Mẹ nhìn tới trước. Ðàng sau tảng đá nặng nề, đức tin và hy vọng của Mẹ đã thấy trước ngôi mộ trống không; đàng sau màn đêm dày đặc, đức tin và hy vọng của Mẹ đã le lói buổi ban mai của sự Phục Sinh.

Lạy Mẹ, xin cho chúng con cũng chiêm ngắm trong sự yên lặng của đêm nay, tin tưởng và hy vọng vào Lời Thiên Chúa. Như thế chúng con sẽ gặp, trong sự viên mãn của ánh sáng và cuộc sống, Ðức Kitô, hoa quả đầu mùa của sự sống lại, đấng hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho đến muôn đời. Allêluia!

+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng

(Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Ðặng Minh An)

 

17. Phá tung nấm mồ--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi

Ở thế kỷ thứ I và II trước Công nguyên, người Do thái và nhiều chư dân thường đục núi đá để chôn người chết, rồi lăn tảng đá lớn tròn đóng chặt cửa mồ như di tích mồ dòng họ Hêrôđê ở Giêrusalem còn tới nay. Mộ cất xác Đức Giêsu đã được ông Giuse Arimathia đục sẵn vào núi đá như thế. Nhưng chôn xác Người chưa được ba ngày đá lấp cửa mồ đã bị bật tung ra “Đức Giêsu đã sống lại”, đất rung động, mộ bật sáng, lính canh chết ngất, rồi chạy trốn mất. Thiên thần đến báo tin cho các bà đến thăm mồ từ sáng sớm: “Đừng sợ, Đức Giêsu chịu đóng đanh không còn ở đây” (Mt. 28, 1-8. 11). Các bà vẫn kinh hoàng chạy về báo cho Phêrô và Gioan. Hai ông chạy đến mộ chỉ thấy mộ trống, nhưng các khăn liệm được gấp lại cẩn thận để riêng ra một nơi. Bà Maria Mađalenna hỏi: “Ai đã lấy xác Chúa rồi?”.

Ai dám lấy? lấy xác chết làm gì? Lính canh đâu? Nếu ai có quyền lực mạnh hơn lính, chắc đã cứu Người trước khi chết. Chết rồi ai còn lấy xác làm chi? để chịu án chết nữa sao? vì theo luật thời đó ai lấy trộm xác chết sẽ bị tử hình. Chỉ có quyền lực của Đức Giêsu đã phá tung nấm mồ để sống lại, không còn xác chết nữa. Người đã tự nộp mình chịu chết và nhiều lần trước khi chết, Người đã loan báo: Người sẽ chịu chết ở đâu, chết cách nào và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Không ai dám nói như thế bao giờ. Ngay chính lúc quan quân đến bắt Người, Người đã nói: “Này Ta, chúng liền té ngã” (Ga. 18,6). Nếu Người muốn thoát chết thì thật dễ dàng, nhưng Người không muốn trốn cái chết. Người muốn xuống mồ để phá tung nấm mồ cho Người, cho các tổ phụ, các tiên tri và cho các người lành, cho họ được sống lại với Người trong vinh quang. Họ đã được sống lại với Người ngay lúc Người tắt thở và đi vào thành loan báo tin Người sống lại (Mt. 27, 53).

Từ khi có loài người đến tận thế, không ai có quyền lực vô song đó. Người ta chứng kiến bao nhiêu đại đế, anh hùng hào kiệt dũng mãnh có quyền lực vô địch tài trí siêu phàm, đều phải bó tay trong nấm mồ đen tối. Quyền lực tài trí nổi danh muôn thuở như các vua Pharaon nước Ai cập cũng đành chịu chôn dưới những đống đá kim tự tháp. Đây là những nấm mồ vĩ đại nhất thế giới được xây bởi 2.500.000 khối đá nặng từ 2,5 tấn đến 15 tấn, được xếp rất tài tình khít khao, không chỗ nào có thể đút lọt tờ giấy. Tháp cao 146 mét, mỗi cạnh rộng 230 mét, trải qua gần 5.000 năm vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt.

Đủ thấy rõ, con người có thể xây được nấm mồ chứ không bao giờ xây được sự sống vĩnh cửu. Chỉ có Đức Giêsu xây được sự sống lại và cho ta sống đời đời mà thôi, như Người nhiều lần đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin ta dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga. 11,15). “Đức Giêsu sống lại thì không bao giờ chết nữa, sự chết không còn quyền chi đối với Người nữa... Nay Người sống là Người sống cho Thiên Chúa” (Rm. 9,10).

Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe bà Maria tường thuật về Đức Giêsu phục sinh và bền tâm vững chí tin vào lời chứng của thánh Phêrô về những việc xẩy ra trong toàn cõi Giuđê mà Đức Giêsu đã sống, đã thi ân giáng phúc, đã chữa lành mọi kẻ bị quỷ ám, đã chịu chết và sống lại (Bài đọc 1). Xin cho con được chỗi dậy từ chốn tội lỗi, từ cõi chết để cùng được sống lại với Người. Amen (Cl. 3,1).

 

18. Chúa đã sống lại

Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.

Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Ðứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.

Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.

Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Ðức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Ðức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.

Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

19. Chết mà chưa chết--Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm

Thức đêm mới thấy đêm dài. Đêm nay sao dài đến thế! Cái bóng đen cứ mãi dày đặc trong không gian. Không chỉ trong không gian, mà còn dày đặc trong cả cõi lòng Maria Macđala. Cả đêm ngối chong đèn chờ sáng. Nỗi nhớ Thầy day dứt trong tim, không cho bà nhắm mắt, chỉ mong sao cho trời mau sáng, để chạy ù đến mộ Thầy nằm. Thầy chết! Một tai họa khủng khiếp nhất trên đời. Không! Một người hiền lành nhân ái như Thầy, quyền phép như Thầy, nhất định không thể chết. Nỗi nhớ Thầy quay quắt khôn nguôi.

Trời vừa hé sáng, không cầm lòng được nữa, Maria đã vội vã bước ra khỏi nhà; tiến thẳng tới nấm mộ của Thầy Giêsu. Đến là đến cho thỏa nỗi nhớ Thầy mà thôi, chứ cũng không hi vọng gì, vì tảng đá to đùng nằm chình ình chắn cửa, làm sao mà mở ra. Maria dừng lại. Lạ lùng chưa kìa! Hòn đá đã được lấy ra. Ngôi mộ đã được ùa đầy ánh sáng. Maria sợ. Đúng là phụ nữ. Maria không dám bước vào. Vội vã quay ra; ba chân bốn cẳng chạy về gặp Phêrô và Gioan.

Rồi cả ba cùng chạy đến mồ. Ngôi mộ trống trơn. Chúa không còn ở đó. Chỉ còn những thứ dính liền với sự chết được để lại. Đó là những băng vải, khăn che đầu. Tất cả đã được xếp lại ngọn gàng. Sự chết không thống trị được Chúa. Gã thần chết cứ ngỡ tưởng rằng: Hắn là người thắng cuộc. Hắn chưa một lần thất bại trong thời gian hành tẩu của mình. Nhưng hôm nay, hắn đã phải xoe tròn đôi mắt ngạc nhiên. Chúa đã tự mình sống lại.

Chúa sống lại. Đó là một sự thật. Một sự thật làm chứng về bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Một sự thật, là cho khuôn mặt của gã thần chết bẽ bàng. Cái chết không còn là nỗi kinh hoàng khủng khiếp nữa, vớiChúa Giêsu đã đành, mà còn ngay cả đối với những ai tin vào Ngài nữa. như có lần Ngài đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. ai tin Ta sẽ không phải chết”.

Sự sống lại của Chúa hôm nay, mở ra cho chúng ta một sự bình tâm thanh thản. Sự chết không còn là dấu chấm lạnh lùng cho cuộc đời; mà nếu tin vào Chúa Giêsu, nó chỉ là vuông cửa nhỏ, giúp ta đi vào cõi sống. Nhưng là sự thật quan trọng không bao giờ quên được. Chỉ một mình Chúa Giêsu, là đấng duy nhất thắng được thần chết. và cũng vì thế, chỉ có ai tin và bước theo Ngài, mới không bị cái chết đe dọa, và mới tìm thấy cả sự sống vĩnh hằng cho mình.

Gợi ý

1. Trong nấm mồ hồn bạn, Chúa đang chết hay đã sống lại?

2. Bạn có quá sợ hãi, khi nghĩ về cái chết không?

(Tập San Tĩnh Tâm GP Long Xuyên 04/2011)

 

20. Lễ Vượt Qua hôm nay

“Tại sao lại tìm người sống nơi kẻ chết? Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi”. Đó là những lời mà các bà Maria Mađalêna, bà Gioanna và bà Maria –mẹ của Giacôbê đã được nghe từ ngôi mộ được khoét sâu trong núi đá. Chính trong ngôi mộ này, xác Chúa Giêsu đã được mai táng sau khi Ngài chết trên Thập giá. Hôm đó là buổi chiều ngày thứ sáu, bởi vì tại Giêrusalem Lễ Vượt qua bắt đầu vào lúc hoàng hôn.

Nhưng hôm sau ngày Sabát, vào lúc rạng đông, ngôi mộ chôn xác Chúa Giêsu bỗng trở nên trống rỗng và tảng đá lấp cửa mộ đã bị đẩy ra ngoài. Các bà đã nghe tiếng thiên sứ loan báo: “Đức Giêsu đã sống lại rồi, Ngài không còn ở đây nữa. Tại sao lại tìm người sống ở nơi kẻ chết?”.

Thưa anh chị em,

Lễ Vượt Qua được người Do Thái mừng vào đêm thứ bảy, kỷ niệm cuộc Vượt Qua của Thiên Chúa để giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập và đưa họ lên đường tiến về Đất Hứa. Trong đêm Vượt Qua này, Thiên Chúa lại một lần nữa vượt qua trên con đường Khổ Nạn của Đức Kitô, vượt qua cái chết trên Thập giá tại đồi Golgotha, để giải phóng Đức Kitô từ cõi chết đến cõi sống, vào lúc rạng đông ngày thứ nhất trong tuần.

Trong Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, Thiên Chúa đã thực hiện công cuộc giải phóng cho toàn thể nhân loại. Trong Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế giới này đã được hoàn trả lại cho Thiên Chúa để được canh tân đổi mới theo kế hoạch của Thiên Chúa và đạt được sự viên mãn theo ý định của Thiên Chúa từ ban đầu.

Ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục vượt qua để biến đổi thế giới chúng ta đang sống, một thế giới với những cố gắng và những thất bại xen lẫn với những thành công trong quá khứ và trong hiện tại.

Thiên Chúa vượt qua để giải phóng con người khỏi sợ hãi đang đè nặng lên không biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta. Họ đang phải đương đầu với những bấp bênh của thế giới.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào sự chết vẫn còn giương ra nanh vuốt hãi hùng của nó.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào khổ đau đã in những dấu vết của nó trên thân xác và tâm hồn con người.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào con người chưa có được những điều kiện để sống xứng với phẩm giá của con người, vì không nhà không cửa, vì cuộc sống đau khổ, vì lưu vong, vì ốm đau, bệnh tật…

Thiên Chúa vượt qua nơi nào lòng ích kỷ đang bóp nghẹt đời sống hôn nhân gia đình, khiến cho bao nhiêu trẻ em vô tội không được quyền sống.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào có gia đình đổ vỡ, nơi nào trẻ em bị khai thác trong thể xác cũng như trong tinh thần.

Thiên Chúa vượt qua nơi nào đang xảy ra những cuộc đổi chác bất lương, những buôn bán ma tuý, những tệ nạn xã hội nhằm đầu độc giới trẻ.

Thiên Chúa cũng vượt qua nơi nào đang diễn ra những cuộc chiến đẫm máu như tại Liên bang Nam Tư ở Kosovo Bắc Ailen, Algiêri… Hoà bình mà con người hằng mong ước vẫn chưa được nhìn thấy, nơi nào con người –dù là anh em với nhau- đang chém giết lẫn nhau, đưa đến cảnh huỷ hoại và hận thù.

Đó chính là ý nghĩa mà Lễ Vượt Qua muốn loan báo cho thế giới ngày nay, một thế giới dường như đang tiến đến chỗ tự huỷ, đang lần bước vào cõi chết mà không hay biết. Giáo Hội đứng bên mộ Chúa Giêsu, như những người phụ nữ là những người đầu tiên có mặt tại đó, tiếp tục loan truyền Mầu nhiệm Vượt Qua đổi mới mọi sự. “Hãy nhìn xem tảng đá lấp cửa mộ được đẩy ra ngoài và ngôi mộ trống rỗng. Tại sao lại tìm người sống nơi kẻ chết. Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi!”.

Anh chị em thân mến,

Trong đêm nay, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta cuộc Vượt Qua lịch sử này và mời gọi chúng ta đi theo Chúa Kitô để thực hiện cuộc vượt qua của chính mỗi người. Qua Bí tích Thánh Thể, mỗi người chúng ta đã thực hiện một cuộc vượt qua mới với Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta đã cùng với Chúa Kitô chết cho tội lỗi chúng ta, đã cùng được mai táng với Ngài và cùng với Ngài được sống lại làm con cái của Thiên Chúa. Thật vậy, qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại vinh quang của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã nói: “Khi chúng ta được dìm vào nước Thánh Tẩy để nên một với Đức Kitô là chúng ta được dìm vào cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã chỗi dậy từ cõi chết do quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới như vậy” (Rm 6,3-5).

Tuy nhiên, Bí tích Thánh Tẩy mới chỉ là cuộc Vượt Qua khởi đầu của đời sống Kitô hữu. Bao lâu còn sống ở trần gian, bấy lâu chúng ta còn phải liên tục vượt qua cảnh nô lệ của tội lỗi, vượt qua sự ác dưới mọi hình thức, cho đến khi hoàn thành cuộc vượt qua quyết định cuối cùng để tiến vào Đất Hứa Quê Trời, Phục Sinh vinh quang với Chúa Kitô.

Giờ đây, để sống lại ý nghĩa của Mầu nhiệm Vượt Qua của mỗi người, chúng ta sẽ lặp lại lời hứa của Bí tích Thánh Tẩy và cầu xin Chúa chúc phúc cho nước này. Chính trong nước của Bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và nhận chúng ta làm con cái của Ngài, cũng chính khi được dìm trong nước này, chúng ta đã chết cho con người cũ để được sống một cuộc sống mới. Đó chính là Lễ Vượt Qua của chúng ta hôm nay.

 nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/thu-bay-16042022-dem-thanh-vong-chua-phuc-sinh-nguoi-da-song-lai-that.html