"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Lời Chúa: Ga 12, 20-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha".
Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
1. Yêu thương là cho đi
Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có những hy sinh gian khổ của nó.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng:
Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết.
Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại.
Mẹ thấy vậy bèn ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai? Không chút do dự người đàn bà trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn.
Từ những câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy, yêu thương chính là cho đi, chính là chia sẻ. Không phải những gì mình dư thừa, nhưng cả những gì cần thiết cho đời sống của mình. Sức mạnh của tình yêu chính là khả năng chấp nhận những hy sinh gian khổ cho người khác được hạnh phúc. Trong chiều hướng này, chúng ta nhận thấy tình yêu Thiên Chúa thực lớn lao biết bao, bởi chưng, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người chịu đựng mọi vất vả túng thiếu và sau cùng chịu chết một cách ô nhục trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu: Ta đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
2. Giờ của Chúa
Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.
3. Giờ Chúa đến.
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.
4. Giờ Con Người được tôn vinh
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
5. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.
6. Hạt lúa mì mục nát – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
***
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
***
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen.
7. Trao ban là nhận lãnh
(Suy Niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giêsu dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận lãnh.
Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giêsu dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.
Từ đó, Chúa Giêsu dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho) thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.
Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:
Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.
Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!
Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Cuộc đời của Đức Giêsu là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giêsu như sau: Vì chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Ki-tô là Chúa". (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Đón nhận bài học của Chúa Giêsu
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không gian...
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.
8. Hạt lúa gieo vào lòng đất
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.
"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!
9. Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CMC)
Trong cuộc sống có nhiều điều quan trọng mà ta không thể trông thấy như gió, tư tưởng, lòng can đảm, tình yêu và ơn thánh Chúa. Tuy nhiên, ta có thể biết chúng hiện hữu qua hiệu quả hay tác dụng của chúng. Thí dụ khi thấy cây ngả nghiêng - ta biết có gió.
Trong Tin Mừng hôm nay, một số người Hy-lạp (Dân ngoại) muốn gặp Chúa Giêsu. Tại sao họ muốn gặp Chúa? Họ là mối lo cho người Do-thái hơn cả quân Rôma. Đối với họ, cách sống của người Do-thái thật là bất thường. Tuy nhiên, họ lại muốn gặp Chúa. Phải có một điều gì làm cho họ muốn gặp Chúa? Có lẽ họ đã nghe các tông đồ và dân chúng nói nhiều về Chúa. Cũng có thể họ muốn gặp Chúa là vì họ đã chứng kiến sự biến đổi nơi cuộc sống của các tông đồ và những người đã theo Chúa Giêsu.
Như những người Dân ngoại xưa, nhiều người ngày nay cũng muốn gặp Chúa Giêsu; một Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc sống của những người đã theo Ngài, một Chúa Giêsu làm cho người ta muốn dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, một Chúa Giêsu thấu hiểu tâm hồn và biết con người phải chiến đấu khó khăn thế nào để thi hành một việc tốt, và một Chúa Giêsu luôn sẵn sàng thí mạng sống vì phần rỗi nhân loại.
Những sự việc này sẽ không bao giờ trở thành sự thật nếu chúng ta không thấy những hậu quả hay tác dụng của sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống của những người theo Chúa Kitô. Ta đọc hoặc nghe về những vị thánh, những người có cuộc sống đã chiếu giãi sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa như Phanxicô, Têrêxa, Mẹ Têrêxa Calcutta... Ta cũng biết những người có cuộc sống thánh thiện như Tu sĩ Văn, Cha Minh Đăng, Cha Bửu Diệp... Hoặc chúng ta biết những người thân yêu, bạn bè đang đau khổ không kém Ông Gióp trong Cựu Ước, nhưng họ vẫn vững niềm tin cậy trông nơi Chúa cho dù đôi lúc họ cũng muốn buông xuôi.
Việt Nam ta có câu, "Có qua có lại, mới toại lòng nhau." Đúng thế! Không chỉ có chúng ta muốn gặp Chúa Kitô, nhưng còn rất nhiều người khác cũng muốn gặp Chúa Giêsu. Do đó, ta không thể chỉ ngồi để hưởng gương lành hoặc ân sủng nhờ niềm tin của người khác. Ta cần trở nên dấu chỉ cho tha nhân nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống. Ta có thể bắt đầu bằng việc đồng hành và giúp những người chưa nhận biết Chúa qua cử chỉ bác ái yêu thương và nâng đỡ; trung thành trong đời sống cầu nguyện; giúp đỡ tha nhân không vì để được khen, nhưng là vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa; đồng hành và cảm thông với những người đau khổ không phải bằng lời nói nhưng bằng sự hiện diện.
Như những người Hy-lạp trong Tin Mừng, ngày nay cũng có rất nhiều người muốn gặp Chúa Giêsu. Nhưng, ngày nay Chúa không hiện diện cụ thể để cho họ gặp Ngài diện đối diện như thời xưa. Cách duy nhất để họ nhận ra Chúa là qua chính những hậu quả và tác dụng của lời Chúa nơi hành động của chúng ta là những môn đệ của Ngài. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể canh tân đức tin nơi mỗi người và giúp ta biết chia sẻ đức tin đó cho mọi người qua lời nói và đời sống trào tràn tình yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy tìm Chúa Giêsu nơi tha nhân và để tha nhân nhận gặp Chúa nơi chúng ta.
10. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời." (Ga 12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng: "mạng sống hơn đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: "ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.
Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành "biển sống Galilê" và không bao giờ là "biển chết".
11. Hành trình tự hủy
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng.” Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp: “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ: “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.
Nguồn: http://gplongxuyen.org