"Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta".
LỜI CHÚA: Lc 1, 67-79
Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
"Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
"Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Suy Niệm 1: Lời Ca Ngợi Thiên Chúa Của Zacharia
Trong bài trích sách Samuel quyển thứ II, chúng ta thấy: "Khi ấy vua David ngự trong đền và khi Thiên Chúa cho ông được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh thì David nói với tiên tri Nathan rằng: Ông thấy không, ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư? Và xảy ra đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với David tôi tớ của Ta rằng, có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi đền để ở chăng? Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đàn chiên để trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi mọi nơi ngươi đi, Ta sẽ làm cho ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Nhà của ngươi và triều đại của người sẽ vững bền đến muôn đời".
Sau khi đem David ra khỏi nghề chăn chiên để lên làm vua Israel, dẹp yên mọi quân thù thì ý Thiên Chúa muốn David làm một ngôi Ðền Thờ để thờ phượng Thiên Chúa. Vua David cũng muốn thế và ông đã thực hiện. Con người không thể cầu nguyện ở những nơi đông đúc giữa ngã tư đường phố, nơi chợ búa ồn ào được, nhưng cầu nguyện ở nơi yên tĩnh để tâm sự nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ khi thấy dân Do Thái biến nơi tôn nghiêm thành nơi buôn bán đổi chác tiền bạc: "Các ngươi đã biến nhà Ta thành nơi trộm cắp. Nhà Ta là nhà cầu nguyện".
Thiên Chúa hằng vẫn ở với chúng ta trong Nhà Tạm, Ngài luôn kêu mời mỗi người chúng ta đến với Ngài, đến để tìm nguồn an ủi trong cuộc sống, đến để tim nguồn nghị lực và sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại ngăn lối về nhà Cha. Nhưng mấy ai đã tìm đến với Ngài hay chỉ có ngọn đèn dầu màu đỏ leo lét hẩm hiu vô tri làm bạn với Chúa hằng ngày mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Zacharia được đầy tràn Chúa Thánh Thần, ông nói tiên tri về Chúa Kitô là Ðấng cứu rỗi sẽ đến. Không phải ai cũng có thể nói tiên tri được, chỉ những người thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa, Chúa mới cho họ quyền nói tiên tri, làm phép lạ, nói được các thứ tiếng loài người như trong ngày lễ ngũ tuần các tông đồ chỉ giảng bằng tiếng của mình mà những người nghe đều hiểu theo tiếng bản xứ của họ.
Nhưng Thiên Chúa yêu thích hơn nếu chúng ta có tâm tình mến Chúa thực sự: "Nếu tôi được ơn nói tiên tri mà tôi không có đức mến Chúa thì cũng chẳng có ích gì. Nếu làm được nhiều phép lạ mà tôi không có lòng mến Chúa thì cũng ích gì cho tôi". Ðức tin và đức cậy sẽ mất khi con người nhắm mắt, chỉ còn lòng mến Chúa là tồn tại mãi trong Nước Trời. Cho nên Thập Giới của đạo Công Giáo chỉ tóm gọn trong đức "Mến Chúa - Yêu Người", vì thế mà đạo Công Giáo còn được gọi là đạo của "Yêu Thương".
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: "Nhà Ta là nhà cầu nguyện", xin Chúa cho chúng con luôn nhớ điều đó để chúng con luôn tìm đến với Chúa trong những lúc âu lo chán nản, đau khổ và thất vọng để chính lúc đó chúng con biết cầu nguyện cách thật sốt sắng và chỉ biết bám chặt, tin tưởng trọn vẹn vào Ngài.
Lạy Chúa, luật của Chúa thật ngắn gọn và đơn sơ, đó là "Mến Chúa và Yêu Người" nhưng không dễ áp dụng, xin Chúa cho chúng con nhìn thấy Chúa qua mọi người chung quanh để chúng con dễ yêu mến họ hơn.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày cuối của Mùa Vọng, xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn và thể xác, bên trong lẫn bên ngoài để chúng con hiệp ý với Giáo Hội hân hoan mừng đón Chúa Giáng Sinh, vì Ngài đến để đem ơn cứu rỗi và sự bình an cho mọi người. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 2: Nhìn cuối mùa vọng
Bấy giờ người cha của em, tức ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.
Từ dòng dõi trung thần Đa-vít,
Người đã cho xuất hiện
Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta”. (Lc. 1, 67-69)
Một mùa vọng nữa chấm dứt, mỗi người chúng ta đã thêm được gì? Chúng ta có thể chân thành hát lên bài ca của ông Gia-ca-ri-a, có thể cùng với ông và với mọi người chờ đợi Đấng Cứu thế đến với chúng ta được chưa? Con tim của bạn hướng về đêm Noel thế nào? Có phải là một thửa đất đã được chuẩn bị tốt, phì nhiêu, sẵn sàng không? Bạn đã đổi mới nhờ lời Chúa chưa? Đã tái ký kết giao ước với Chúa chưa? Ông Gia-ca-ri-a đã tóm tắt kinh nghiệm của ông về Thiên Chúa và Đức Kitô như thế này:
“Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót,
Cho vầng đông chốn cao vời viếng thăm ta,
Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm,
Và trong bóng tối tử thần,
Dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.
Lòng thương xót Chúa vẫn tiếp tục công trình cứu độ cho đến chúng ta. Bạn có lẽ đã biến đổi chút ít rồi nhờ Thiên Chúa đầy lòng yêu dấu, đầy lòng thương xót, đầy lòng quảng đại tha thứ. Hôm nay nhìn lại những việc Chúa làm cho chúng ta để cảm tạ Ngài là rất tốt, rất hữu ích. Công trình lòng thương xót của Chúa vẫn tiếp tục tuôn chảy với sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng xác phàm nhân loại. Với sự gần sát của Thiên Chúa, công trình Ngài đang hoàn thành cho chúng ta.
Ngày mai, chưa cứu độ hết, chưa giải thoát hết, nhưng chúng ta hy vọng một sức mạnh dẫn đưa chúng ta tới sự sống lại.
Ngày mai, vẫn chưa bày tỏ đầy đủ về Đức Kitô. Nhưng bây giờ chúng ta biết chắc rằng con người mới của Đức Kitô chính là con người mới của chúng ta và của mọi người.
Ngày mai, chúng ta cử hành đại lễ mừng hoàng tử hòa bình đến, chúng ta mừng đại lễ với hy vọng hòa bình sẽ chan hòa trên trái đất. Ngày mai, chúng ta được chung sống hòa bình với mọi người chung quanh, với tất cả những ai chúc mừng nhau nhân dịp Noel hân hoan này.
C.G.
Suy Niệm 3: THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM (Lc 1, 67-69)
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe được thốt lên từ chính miệng ông Giacaria trong ngày lễ cắt bì cho Gioan Tẩy Giả. Lời kinh này được gợi hứng từ trong thời Cựu Ước, và người ta nhận thấy nó bắt nguồn từ Thánh Vịnh vua Đavít và nơi các tiên tri.
Kinh tạ ơn này được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất nói lên lời cầu nguyện trực tiếp của ông với Thiên Chúa là Đấng Cứu độ Israel và cụ thể là gia đình ông qua việc cho Gioan xuất hiện.
Phần thứ hai là những lời tiên tri về trẻ nhỏ Gioan.
Khi cất cao lời kinh tạ ơn như vậy, Giacaria là hiện thân đại diện cho cả dân tộc Israel để ca khen, tán tụng hồng ân, lòng từ bi và thương xót của Thiên Chúa. Ông thấu hiểu nỗi chờ mong của dân tộc mình trong việc mong đợi Đấng Cứu Thế, nay niềm tin đó đã đem lại cho ông và cả dân tộc ông niền hy vọng khi Thiên Chúa đã cho Gioan xuất hiện để đi trước dọn đường.
Sự xuất hiện của Gioan đã xóa đi nỗi niềm chờ mong, và dân không còn phải đi trong tối tăm của đêm dài nữa. Niềm hy vọng này đem lại cho dân một sự đảm bảo vì Thiên Chúa đã chọn Gioan đi trước dọn đường cho Đấng Tối Cao đến để cứu độ dân Ngài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa vì Người hằng yêu thương chăm sóc chúng ta như xưa Người đã từng chăm sóc dân Israel trong thời Cựu Ước. Chỉ có điều, chúng ta có đủ niềm tin vào Chúa hay không mà thôi!
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, chúng con cảm tạ Cha đã gìn giữ, yêu thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin ban cho chúng con sống sứng đáng là con Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Thiên Chúa viếng thăm
Suy niệm:
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày,
lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.
Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel
vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).
Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng
được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).
Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).
Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.
Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.
Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).
Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,
Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).
Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết
và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).
Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),
là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).
Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,
vì là cuộc viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.
Ngài không chỉ thăm như người khách ghé qua.
Ngài đã thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).
Khi Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,
đám đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).
Nhưng trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.
Ngôi Lời đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).
Mãi mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự chết,
và cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).
Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,
vì đã từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).
Đó là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.
Tiếc thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.
Hôm nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,
và nhiều người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.
Ơn cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,
là những điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.
Bóng tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.
Hãy tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:
một trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;
một ông thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng đinh thập tự.
Hãy thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.
Cầu nguyện :
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.
Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.
Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.
Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.
Ngài không có cấp bằng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền…..khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại cò dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai ?”
Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.
Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!
Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sỹ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.
Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc Lamã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.
Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đới thường rời cuộc đời trần thế bằng nắm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!
Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.
Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.
Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG
(Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6); Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14)
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.
Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.
Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.
1. Ánh sáng tách lìa bóng tối
Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.
Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.
Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.
Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.
Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!
Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.
Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24).
Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết.
Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra.
Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.
2. Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian
Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.
Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).
Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.
Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse - Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).
Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).
3. Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng
Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.
Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.
Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.
Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).
Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….
Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
1. GLCN/37- GIÁNG SINH
Gần lễ Giáng sinh ta thường nghe nói : “Chúng ta không còn những lễ Giáng sinh ngày xưa nữa, không còn bầu không khí của ngày ấy nữa”. Thậm chí một số người còn nói : Lễ Giáng sinh càng qua mau càng tốt. Đối với tôi chẳng làm gì có lễ Giáng sinh… Và như thế cũng chẳng sao cả. Vậy những lễ Giáng sinh của chúng ta về sau này đã bị thay đổi nhiều ; chúng đã già đi nhiều, đã hao mòn, tàn héo đi.
Dĩ nhiên những lễ Giáng sinh ấy là lễ Giáng sinh những năm xưa, nhưng nếu chúng ta đã thay đổi như thế thì không phải do Thiên Chúa ; vì các ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không hề thay đổi, không già đi, không bạc màu. Trái lại, lòng chúng ta có thể già cỗi, tàn phai, hao mòn và chán chường. Và nếu những ngày lễ Giáng sinh đã thay đổi đến như thế, chắc hẳn là vì lòng chúng ta đã thay đổi. Những ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không thay đổi, ta phải xác tín như vậy. Chúng không thay đổi vì Thiên Chúa không thay đổi, vì tình yêu của Ngài muôn thuở và luôn luôn hiện đại, vì lòng âu yếm của Ngài đối với nhân loại không hề thay đổi. Mỗi lễ Giáng sinh, khi Thiên Chúa đến sống với chúng ta, ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta Con Một Ngài, đều mang đến Tin Mừng, niềm vui và sự bình an đã được ban cho nhân loại ngày lễ Giáng sinh đầu tiên tại Belem. Cùng một sứ điệp – cùng một sức mạnh và tính năng động – được lặp lại từ lễ Giáng sinh này đến lễ Giáng sinh khác.
Sứ điệp ấy chính là Thiên Chúa đến ở với loài người để cho loài người được ở với Ngài ; chính Thiên Chúa đi vào trong thế giới của chúng ta để chúng ta đi vào thế giới của Ngài , chính Con Một của Thiên Chúa đến hiệp thông với cuộc sống chúng ta để cho sự sống chúng ta được hiệp thông với sự sống của Ngài và sự sống của Thiên Chúa, thân phụ Ngài. Sứ điệp ấy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, mang lấy nhân tính của chúng ta để chúng ta mang lấy thiên tính của Ngài. Đó là sứ điệp bao giờ cũng mới mẻ, cũng đẹp đẽ, cũng phấn khởi, cũng tuyệt vời, từ năm này qua năm khác.
Sứ điệp Giáng sinh không già cỗi, không hao mòn, ta hãy xác tín như vậy ! Hãy xác tín rằng lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không tàn phai ! Vậy nếu lễ Giáng sinh của ta bây giờ không còn như trước kia nưã có lẽ bởi vì chúng ta không còn muốn… hoặc không dám nghe sứ điệp chân chính của Giáng sinh… Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ kéo dài đến tận thế. Nếu những lễ Giáng sinh của chúng ta không còn như trước kia nữa, cũng có lẽ bởi chúng ta không có hoặc không còn can đảm đón nhận Đấng ban ý nghĩa cho lễ Giáng sinh : Hài nhi mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa và Con Đức Maria. Đón nhận một trẻ nhỏ không phải bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Một trẻ thơ, nó quấy rầy. Nó bắt thay đổi những thói quen, bỏ một số thói quen và có những thói quen mới.
Tôi nghĩ rằng nơi đây chúng ta đụng đến lý do sâu xa của sự nhàm chán và già nua nơi những lễ Giáng sinh của chúng ta. Quả thật làm sao sống niềm vui Giáng sinh khi mình gắn bó với tiền bạc, trong lúc Giáng sinh là mầu nhiệm khó nghèo ? Làm sao đón nhận lòng nhân từ và trìu mến của Giáng sinh khi nuôi dưỡng thù hận trong lòng, khi từ chối yêu thương, tha thứ, khi chỉ chia sẻ cách dè sẻn những gì mình sở hữu?... Trong lúc Giáng sinh loan báo tình thương, lòng nhân hậu và mang món quà lớn nhất : Con Thiên Chúa được ban cho loài người !
Làm sao có được niềm hân hoan của Giáng sinh… khi người ta vẫn khép kín nơi mình, nơi những tiện nghi, danh tiếng của mình, mà không quan tâm đến bao người đàn ông, đàn bà, những trẻ em đang đau khổ, khóc than, đói khát ? Tóm lại, làm sao chúng ta có thể sống một lễ Giáng sinh an bình và vui vẻ sâu xa mà lại không chấp nhận sự quấy rầy của Hài nhi yêu cầu được sinh ra nơi chúng ta, và cứ thờ ơ lãnh đạm trước sứ điệp của Ngài ?
Phẩm chất của lòng chúng ta sẽ tạo nên phẩm chất lễ Giáng sinh của chúng ta : Có lẽ chúng ta hay quên điều này. Vậy thì chỉ có một lời chúc cho nhau thôi : Xin cho lòng chúng ta ấm lại một chút, xin cho lòng chúng ta thành thật hướng về Thiên Chúa và về Đấng mà Ngài sai đến với chúng ta… Xin cho lòng chúng ta biết xúc động một chút trước tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta… lúc đó chúng ta sẽ sống một cách khác lễ Giáng sinh năm nay. Và những lễ Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện… những Giáng sinh mang bình an và niềm vui sẽ lại trở thành của chúng ta bởi vì chúng ta cho phép Con Thiên Chúa nhập thể nơi chúng ta.
2. ASTM/24- HÓA THÀNH
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thực thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào về âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh. Đã có vô số những bài ca bất hủ về Giáng sinh và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về Giáng sinh nữa.
Kỳ thực, Lễ Giáng sinh cũng là một bản nhạc bất hủ của Thiên Chúa dành cho con người. Nếu âm nhạc là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc. Thánh Gioan tông đồ đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống hòa hợp trong mầu nhiệm ấy và đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau : “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”.
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể nghĩa là Ngài đã trở thành một người như chúng ta. Ngài đã nói ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Ngài, lời Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá trên khắp thế giới từ hơn 2000 năm. Lời ấy đã được dịch ra trên 5000 thứ ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và thức ăn cho tất cả nhân loại. Thế nhưng, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng trong hang đá Belem và nhất là thinh lặng trong suốt 30 năm tại Nagiarét.
Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế ? Thưa là bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng. Hơn nữa, Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài nữa.
Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở nên thiết thân với mọi người và mỗi một người được sinh ra. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : sự sống của con người là một thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng, mỗi một người sinh trong thế gian này dù có xấu xa, thấp hèn mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm, sự hiện hữu của Ngài là một sự hiện hữu giới hạn, giới hạn trong không gian, giới hạn trong cách sống, trong thời đại. Chúa Giêsu đã không hề làm một người chồng, Chúa Giêsu đã không hề làm một người cha trong gia đình, thế nhưng cuộc sống nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tái diễn trong dòng lịch sử của nhân loại. Và lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành hằng năm không chỉ đến mỗi năm có một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Lời Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta tiếp tục nhận ra ý nghĩa của cuộc đời này, cho dù chúng ta phải trải qua không biết bao nhiêu đắng cay chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quí của Thiên Chúa trong mỗi người anh em, và có lễ Giáng sinh khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Như vậy, bài thánh ca mừng Chúa Giáng sinh không chỉ được hát lên mỗi năm có một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong tâm tư suy nghĩ, hành động và trong cư xử của chúng ta, để mỗi người chúng ta bằng lời nói hay bằng chứng tích thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
3. PV/63- QUAN HỆ
Mỗi năm, khi đến lúc gửi đi những tấm thiệp Giáng Sinh, chúng ta lại lấy ra cuốn sổ ghi địa chỉ. Trong đó, chúng ta có thể tình cờ bắt gặp một cái tên, và thốt ra “Trời ơi ! Mình không hề nghe tin gì về anh ta cả bao nhiêu năm nay”. Chúng ta không thể nhớ được mình đã gửi tấm thiệp nào cho người đó vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái hay không. Thế là chúng ta đang phải có một quyết định : Liệu chúng ta sẽ gửi hoặc không gửi một tấm thiệp cho anh ta ?
Trong cuộc sống, hầu hết chúng ta đều có một người bạn nào đó như thế, một người mà có lẽ chúng ta chỉ có quan hệ mỗi năm một lần mà thôi. Có thể chúng ta đã từng rất thân thiết với người đó trong một thời gian. Nhưng hiện nay, vì lý do này hoặc lý do khác, có một khoảng cách giữa chúng ta và người đó. Chúng ta đã bị mất liên lạc. Và bây giờ, đến lúc đáng tiếc là chúng ta chỉ liên lạc với nhau qua một tấm thiệp Giáng Sinh. Điều này cho thấy rằng mối quan hệ không được chăm sóc, thì sẽ bị ảnh hưởng không tốt, giống như một khu vườn bị bỏ bê, vì mối quan hệ như vậy hầu như không được nuôi dưỡng. Trên thực tế, điều này không thực sự ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta cũng có thể bị mất quan hệ với Thiên Chúa. Điều này không hẳn là chúng ta không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa, mà chỉ là chúng ta không còn giữ quan hệ với Người nữa. Khi còn nhỏ, có thể chúng ta đã từng rất gần gũi với Thiên Chúa, nhưng theo thời gian, chúng ta mất đi mối quan hệ này. Khi người ta tự cho phép mình mất quan hệ với Thiên Chúa, thì xảy ra một sự mất mát to lớn, hậu quả là một sự trống rỗng mênh mông. Không thể hiểu được và không thể nào chịu đựng nổi một cuộc sống, mà không có Thiên Chúa.
“Khi đến ngày chúng ta không còn tin tưởng nơi một thần tượng của cá nhân mình, thì chúng ta không bị chết đâu ; nhưng khi đến ngày mà cuộc sống của chúng ta không còn được soi sáng bởi ánh hào quang đều đều, được đổi mới mỗi ngày, của một điều tuyệt vời, mà nguồn gốc của điều tuyệt vời đó vượt ra ngoài tất cả mọi lý lẽ”.
Ngày kia, một đứa trẻ lên 6 tuổi, cha mẹ cháu không có lòng tin, xin người giáo viên của cháu dẫn cháu đến viếng một nhà thờ gần đó. Trong suốt cuộc thăm viếng đó, cháu nói với người giáo viên : “Bà của con nói rằng đây là ngôi nhà của Thiên Chúa. Bà nói rằng Thiên Chúa là tình yêu. Bà nói rằng khi bà cầu nguyện với Chúa, có nghĩa là bà nói chuyện với Chúa. Con chưa bao giờ cầu nguyện. Nhưng con thích được nói chuyện với Chúa. Con muốn được nghe Chúa nói. Trong lớp, có một bạn tin vào Chúa. Bạn ấy là người Công giáo. Nhưng bố mẹ con đều là những người không tin vào Thiên Chúa, vì thế, con cũng vậy. Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc”.
“Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc” – đây là câu nói của một đứa trẻ lên 6 tuổi. Quả thật con người rất cô đơn, khi không được biết Chúa. Nếu chúng ta trải qua nỗi cô đơn này, thì chúng ta không nên hốt hoảng. Có thể đây là một cơ hội và là một ân sủng. Trái tim của chúng ta luôn luôn khát khao một điều gì đó nhiều hơn nữa, hoặc nói đúng hơn, chúng ta khát khao một Đấng khác. Nơi mỗi tâm hồn con người, đều có một chỗ trống, chờ đợi một vị khách. Vị khách đó chính là Thiên Chúa.
Người ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn trong ngày lễ Giáng Sinh, so với bất cứ thời gian nào khác, bởi vì trong lúc này, chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Đây là một quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không cô độc trong vũ trụ. Nếu chúng ta cảm thấy mình bị mất quan hệ với Thiên Chúa, thì ngày lễ này đem đến cho chúng ta một cơ hội, để tự mình lấy lại quan hệ với Người, trong niềm tin tưởng rằng chúng ta sẽ không đón nhận bất cứ điều gì khác, ngoại trừ tình yêu. Nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng mình được sự hiện diện thần thánh tác động vào.
Quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, đem đến sự an bình nội tâm. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai con gái yêu quí của Thiên Chúa, là những người được thừa kế vương quốc nước trời.
Lễ Giáng Sinh cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội để tự liên lạc với người khác, đặc biệt là với gia đình của chúng ta, nếu chúng ta bị mất quan hệ với họ. Điều đó cũng mang lại cho chúng ta sự an bình và niềm vui.
Các mục đồng trở lại với đàn gia súc của họ, “vừa đi vừa ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe”. Không có gì thay đổi cả, tuy nhiên, tất cả mọi sự đều đã thay đổi. Bây giờ, tâm hồn của họ tràn ngập sự kinh ngạc. Họ đã có được một tầm nhìn mới, một niềm hy vọng mới, một sự hiểu biết mới, về tình yêu của Thiên Chúa đối với họ, và về sự hiện diện của Người. Cuộc sống của họ được sáng rực ý nghĩa. Thế giới cũ đã trở nên một thế giới mới, trong đó tất cả mọi sự đều long lanh đều kỳ diệu. Sự phát hiện về Thiên Chúa đem lại kết quả là một thế giới đầy niềm vui.
4. PV/66- NOEL - BÌNH AN
Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích : “Anh em hãy lắng nghe đi !”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.
Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do thái chỉ sự bình an – shalom – chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.
Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hòa. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá sâu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.
Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khác. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự bình an, và Người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta ; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.
Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin Người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt quá tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.
5. PV/69- NOEL- VƯƠNG QUỐC
Thông thường trong cuộc sống, ngày mà chúng ta mong đợi nhất, lại hay bị chuyển thành ngày thất vọng nhất. Điều này cũng có thể xảy ra đối với cả ngày lễ Giáng Sinh nữa.
Đôi khi, chúng ta có thể có những ước mong không thực tế về ngày lễ Giáng Sinh. Dường như thể chúng ta mong đợi một điều gì đó kỳ lạ xảy ra, một điều gì đó sẽ mãi mãi thay đổi cuộc sống nhàm chán của chúng ta. Nhờ vào sự xây dựng kéo dài mãi mãi, khi gần đến ngày trọng đại, niềm hy vọng của chúng ta bay lên cao vút. Tuy nhiên, bản chất của những niềm hy vọng này thường bị thị trường ức chế – một sự tràn ngập những đồ ăn thức uống, tràn ngập những chương trình Tivi để chúng ta giải trí.
Nhưng khi bắt đầu đến lễ Giáng Sinh, thì điều đầu tiên mà chúng ta ghi nhận được là gì ? Ngày đó chỉ giống như bất cứ một ngày nào khác. Không ai nhìn thấy các thiên thần, không ai nghe được những giọng hát từ trên trời vang vọng xuống. Tất cả mọi sự đều diễn tiến y như bình thường. Và khi mặt trời của ngày này lặn xuống, thì nhiều người lại cảm thấy trống rỗng và trầm cảm, và họ nói một cách cay đắng “Lễ Giáng Sinh chỉ dành cho trẻ con mà thôi”.
Nhưng ngày này có thể khác hẳn. Mặc dù không hề có dấu hiệu nào trên bầu trời, nhưng ít nhất đối với những người biết cách nhìn, thì vẫn có những dấu hiệu về ngày này. Trong ngày lễ Giáng Sinh, trên thế giới, có nhiều ánh sáng hơn, ấm áp hơn, hy vọng hơn. Người ta trở nên thân thiện với nhau hơn trong ngày lễ này. Không ai đi qua mặt nhau, mà không chào nhau. Trong ngày này, chúng ta cảm thấy mình là một thành phần của gia đình nhân loại, hoặc ít nhất, chúng ta mong muốn được trở nên một phần của gia đình đó. Nếu phải đi một mình đơn độc trong buổi sáng hôm nay, thì dường như đó là một điều kỳ lạ, thậm chí còn sai trái nữa.
Thật vậy, trong ngày lễ Giáng Sinh, Nước Thiên Chúa trở nên rõ rệt. Trong ngày này, nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm thấy mình được sự hiện diện thần thánh đụng chạm vào. Hugh Leonard một nhà viết kịch người Ailen, đã nói “Có lẽ tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết được nơi Người sinh sống. Người ở chung quanh tôi trong suốt cả năm, nhưng trong ngày lễ Giáng Sinh, Người tiến tới và thọc sâu vào cạnh sườn của tôi”. Đó không chỉ là một cảm giác.
Trong ngày lễ Giáng Sinh, chúng ta có được một cảm giác về sự gần gũi, ấm áp, và về lòng từ ái của Thiên Chúa. Chúng ta cảm nhận được rằng mình không cô độc, rằng cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa, rằng có một ai đó đang săn sóc và hướng dẫn đường lối cho chúng ta. Đó là ý nghĩa cốt lõi của ngày lễ Giáng Sinh. Chúng ta không nên e ngại trong việc sưởi mình nhờ hơi ấm này, giống như chúng ta vẫn vui mừng tắm mình trong ánh nắng ấm áp vào một ngày lạnh lẽo.
Chúng ta cũng có được một cảm giác về sự thành tâm thiện chí của bản thân mình và của những người khác. Chúng ta cảm nhận được rằng cuộc sống thật tươi đẹp và có một ý nghĩa. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Thiên Chúa. Chúng ta có một nhân phẩm thần thánh và một vận mệnh vinh quang. Một sự bình an nội tâm xuất phát từ mối quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu.
Nếu ngày lễ Giáng Sinh để lại cho chúng ta sự thất vọng, thì có nghĩa là chúng ta đã gắn bó niềm hy vọng của mình vào những điều sai trái. Kẻ nào gắn bó niềm hy vọng của mình vào những thứ do dân buôn bán đưa ra, thì sẽ luôn luôn bị thất vọng, không phải vì họ hứa hẹn quá ít, mà là vì họ hứa hẹn quá nhiều, mà hứa hẹn về những điều sai trái. Tâm hồn chúng ta khát khao nếm được “niềm vui” mà các thiên sứ đã loan báo cho các mục đồng. Đó là niềm hy vọng của ngày lễ Giáng Sinh.
Chúng ta phải cầu xin điều gì đây ? Chỉ cần một điều duy nhất : hãy cởi mở tâm hồn mình ra để đón nhận niềm hy vọng này. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho chúng ta ; Người là Đức Kitô, là Đức Chúa.
6. PV/72- NOEL- ÁNH SÁNG
Chúng ta cử hành lễ Giáng Sinh vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế gian chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Phụng vụ lễ Giáng Sinh đầy rẫy những câu ám chỉ về ánh sáng. Đức Giêsu đến làm trọn lời tiên báo của ngôn sứ Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Mẹ Têrêxa đã kể lại một ngày kia, tại Melbourne, Uc, mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, tại một căn phòng ở trong tình trạng bê bối khủng khiếp. Căn phòng này không hề có ánh sáng, và hiếm khi ông ta vén bức rèm ra. Dường như ông không hề có một người bạn nào trên thế giới này.
Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt “Bà cứ để mọi sự như cũ đi. Tôi quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Trong khi dọn dẹp, mẹ nói chuyện với ông ta. Dưới một đống rác, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy là nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Làm thế nào mà không bao giờ ông thắp sáng nó lên vậy ?”.
Người đàn ông này đáp “Tại sao tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó lên ư ? Có ai đến thăm tôi đâu” !
Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Hai trong số các nữ tu của mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm viếng ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi có thể tự xoay xở được rồi. Nhưng xin nói giùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi, rằng ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Bạn có thể nói rằng ngọn đèn đã giải thoát ông ta. Nhưng tất nhiên không phải là bản thân ngọn đèn, nhưng là lòng tử tế và nhân ái mà ngọn đèn này tượng trưng, trước hết, nơi mẹ Têrêxa, sau đó, là nơi các nữ tu của mẹ.
Chúng ta sống trong một thế giới bị tối tăm do chiến tranh, bạo lực và đủ mọi loại đau khổ. Và tất cả chúng ta đều đã từng trải qua cảnh tối tăm trong cuộc sống cá nhân và cuộc sống gia đình của chúng ta – buồn phiền, thất vọng, yếu đuối, đau đớn, lỗi lầm, tội ác, cô đơn v,v…
May mắn thay, ánh sáng mà Đức Kitô đã thắp lên trong thế giới của chúng ta vẫn còn tiếp tục cháy sáng. Không phải là ánh sáng của Người đã được thắp lên tại Bêlem một lần, và rồi tắt ngúm đi. Anh sáng đó vẫn chiếu tỏa ra giữa cảnh tàn phá, đổ vỡ và biến động. Anh sáng đó chiếu tỏa ra tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người.
Lịch sử có đầy rẫy những câu chuyện về bao con người mang lại cảnh tối tăm cho thế giới. Không giống như Đức Giêsu. Từ hơn 2000 năm nay, giáo lý của Đức Giêsu đã để lại một ảnh hưởng trên mọi người, theo một cách thức không giống như bất cứ người nào khác. Nhưng tự thân lòng từ ái rạng rời của Người biểu hiện ra, qua tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người với dân chúng. Vô số người đã đến với Người trong tâm trạng tối tăm, và khi ra đi, họ được tắm mình trong ánh sáng.
Lòng từ ái rạng ngời của Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục soi chiếu trên thế giới. Nơi Đức Giêsu và nơi Tin Mừng của Người, chắc chắn chúng ta có được một suối nguồn ánh sáng, mà từ 2000 năm nay, đã chiếu tỏa trên nhân loại. Anh sáng soi chiếu cho các mục đồng đi đến Bêlem trong đêm Giáng Sinh đầu tiên, vẫn soi chiếu trên chúng ta trong đêm Giáng Sinh này.
Anh sáng của Đức Giêsu không đến để phán xét chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta. Anh sáng đó đến để chỉ ra cho chúng ta cách thế sống như thế nào, và hướng dẫn chúng ta hướng về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có thể trở nên nguồn sáng cho thế giới tối tăm. Nhưng trừ phi ngọn đèn của bản thân chúng ta còn đang chiếu sáng, nếu không, chúng ta sẽ không có khả năng soi sáng được cho bất cứ ai. Được sống trong ánh sáng là một niềm vui lớn. Nhưng có một niềm vui thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là được trở nên một nguồn sáng cho người khác.
Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng tuyệt diệu nơi Con của Người. Chúng ta phải cố gắng sống đúng tư cách là con cái của ánh sáng. Người ta nhận thấy những hiệu quả của ánh sáng qua tấm lòng tốt, lối sống đúng đắn và theo lẽ phải.
Xin cho trong lòng từ ái của Người, Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui, mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa chung quanh họ, trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó. Và xin cho chúng ta nghe được những tiếng nói êm dịu vang vọng trong tâm hồn chúng ta “Bất cứ ai đi theo Ta, sẽ không bao giờ phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ luôn luôn có được ánh sáng ban sự sống”.
7. PV/75- NOEL- ÂN SỦNG
Bối cảnh : một thành phố tồi tàn trong một thế giới thứ ba. Mặc dù có ánh sáng mặt trời, bóng tối vẫn bao trùm lên những dãy lán trại lụp xụp. Nhưng lễ Giáng Sinh đang đến, mọi sự sẽ khác hẳn đi, ít nhất là trong một chốc lát.
Tuy nhiên, vào ngày trước lễ Giáng Sinh, có một sự kiện xảy ra càng đào sâu thêm cảnh tối tăm của những túp lều tồi tàn. Một người cha của ba đứa con nhỏ đã phạm tội giết người. Không ai biết được đầy đủ câu chuyện phía sau hành động của anh ta. Nhưng anh ta để cho người khác nhìn thấy sự tối tăm đã xâm nhập vào tâm hồn anh. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, anh ta nói với bạn bè rằng anh rất khổ tâm, vì không có món quà tặng nào cho con cái của anh trong ngày lễ Giáng Sinh.
Tặng quà là một phần quan trọng trong việc cử hành lễ Giáng Sinh. Charles Dickens kết luận : “Lễ Giáng Sinh là thời điểm trong tấm lịch dài của cả năm trong đó người ta cởi mở ra với nhau cánh cửa tâm hồn vốn đã khép kín”.
Có thể nói rằng Giáng Sinh là mùa của việc trao tặng quà, mặc dù quà tặng của chúng ta có thể tầm thường và chỉ theo thủ tục. Một món quà tự nó là một cách thế, để nói lên với người được tặng quà rằng chúng ta quí mến họ. Món quà tặng ít liên quan đến lẽ phải, mà liên quan đến tình yêu.
Việc Thiên Chúa ban ân sủng mang chúng ta trở lại với bản thân ngày lễ. Ngày lễ Giáng Sinh được tạo ra bởi một ân sủng. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con duy nhất của Người, hầu cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người đều không bị hư đi, nhưng có được sự sống đời đời”.
Trong khi trao tặng quà cho nhau, chúng ta hãy đảm bảo rằng chúng ta cũng trao tặng cho nhau chính bản thân mình nữa. Lễ Giáng Sinh không chỉ là dịp để trao tặng quà, nhưng ngày lễ này nói nhiều hơn về sự hiện diện – nghĩa là trao tặng chính bản thân mình. Và phẩm chất sự hiện diện của chúng ta là tất cả mọi sự.
Có sự hiện diện mang tính cách xa vắng, nhạt nhẽo, lãnh đạm – giống như mặt trời vào một ngày mùa đông, đã mọc lên và lặn đi, mà thậm chí không hề làm tan giá cho mặt đất. Và có sự hiện diện gần gũi, ấm áp, quả quyết – giống như mặt trời vào một ngày mùa hè, mang lại sự sống cho tất cả mọi loài.
Việc trao tặng quà quan trọng, nhưng việc tiếp nhận quà cũng quan trọng tương tự như vậy. Lễ Giáng Sinh cũng là một thời gian để tiếp nhận – tiếp nhận những món quà mà người khác trao tặng, và đặc biệt là những món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta. Thiên Chúa không trao tặng cho chúng ta món quà là một đồ vật, mà là một con người. Đức Giêsu chính là một quà tặng đối với những người nghèo khổ và thấp kém, để đảm bảo với họ rằng tình yêu mến không bỏ qua họ.
Khi trao tặng quà, chúng ta gói món quà đó trong một lớp bọc có trang trí, mặc dù chúng ta biết rằng giấy gói không gia tăng gì thêm cho món quà, và sẽ bị xé ra và quẳng vào sọt rác. Khi Thiên Chúa làm cho chúng ta một món quà là chính Con của Người, thì món quà đó của Người không hề đến trong một lớp bọc được trang trí. Nhưng Người đã đến trong thân phận con người yếu đuối, mỏng giòn và hay chết. Chính nơi điểm này, mà chúng ta càng nhận thấy được mức độ sâu xa nơi tình yêu của Người.
Mặc dù Đức Kitô đã đến giữa chúng ta với đôi bàn tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang lại cho chúng ta những món quà vô giá và kéo dài muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Vậy chúng ta cần có loại khuynh hướng gì, để có thể đón nhận những ân sủng của Thiên Chúa ? Chúng ta cần ý thức về sự nghèo nàn của bản thân chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Sau đó, điều mà chúng ta phải làm, là cởi mở tâm hồn chúng ta ra, để đón nhận ân sủng Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, sẽ luôn luôn có được điều gì đó, để chia sẻ với những người khác.
“Có một quà tặng không thể nào đánh giá được đã trao tặng từ 2000 năm trước.
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không ban tặng như vậy, thì Người vẫn là một kẻ xa lạ ở nơi xa xôi, và không phải là một hài nhi nằm trong máng cỏ”.
8. PV/78- NOEL - HÀNH TRÌNH
Tháng 7 năm 1969, Neil Amstrong cùng với hai phi hành gia đồng đội, đã bắt đầu đi vào một cuộc hành trình lâu dài nhất, chưa từng được con người thực hiện. Mục tiêu của họ là một nơi ở cách xa hàng triệu dặm. Cả thế giới hướng đôi mắt về phía họ, trong khi bay tới một hành tinh trong không gian ở gần chúng ta nhất – mặt trăng. Họ đã đáp xuống tại một nơi trên mặt trăng, được biết đến như là Biển của Yên Tĩnh. Họ khám phá ra rằng nơi đây không có sự sống và cằn cỗi, và đã mang về một nắm đất và bụi. Tuy nhiên, Amstrong mô tả sứ mạng của họ là “một bước nhảy vọt đối với nhân loại”.
Lúc đó, đây là một tin vĩ đại. Bây giờ, dường như cuộc hành trình này mang tính cách khá mơ hồ. Hầu như chúng ta đã quên lãng điều đã từng xảy ra. Người ta đang hỏi nhau không hiểu cuộc hành trình đó đã đạt được gì, bất cứ điều gì ? Và những con người mà danh tính của họ đã từng ở trên môi miệng của tất cả mọi người, thì nay hiếm khi được nhắc nhở đến.
Hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành mầu nhiệm Nhập thể – việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đi vào thế giới của chúng ta. Người đã được một người trinh nữ thấp kém sinh ra, vào một thời điểm mà nền thông tin còn chậm chạp, và tại một đất nước nhỏ bé, không hề có biển yên tĩnh, mà chỉ có bối cảnh là những cuộc xung đột triền miên. Chỉ có một nhúm người biết về việc Người đã đến mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nói về mầu nhiệm này và cử hành ngày lễ này. Sự nhập thể là giây phút vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Kết quả là mọi việc không bao giờ còn giống như trước nữa. Qua bao thời đại, các nghệ sĩ, nhà thơ, tác giả đã nhận ra tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể.
Trong biến cố nhập Thể, chúng ta nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mặc dù Đức Kitô đến giữa chúng ta trong đôi tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang đến cho chúng ta những ân sủng vô giá và tồn tại muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta rằng chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Có một người giáo viên rất muốn đưa ra những lời giảng dạy, hướng dẫn, phê bình và sửa sai. Ngay sau khi kết hôn, ông liền dạy cho vợ ông biết cách rửa bát đĩa, bởi vì ông cho rằng nàng làm việc này không đúng cách. Và với cách thức chỉ dạy của ông, nàng phải rửa lại từng cái đĩa, mà nàng đã rửa xong rồi, dưới sự giám sát của ông. Thay vì cho nàng nhìn thấy ví dụ cụ thể, bằng cách tự tay rửa bát, thì ông lại chỉ đưa ra những lời khuyên bảo và hướng dẫn. Đức Giêsu đã không làm như vậy.
Với tư cách Con Thiên Chúa, Đức Giêsu được chia sẻ cùng một bản chất thần thánh, giống như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng trong sự Nhập Thể, Người đã tự mang lấy trên thân mình Người chính thân phận của chúng ta, đó là một thân phận yếu đuối, mỏng giòn, lệ thuộc vào tội lỗi và sự chết. Bởi vì cuộc đấu tranh và chiến thắng ở ngay trong bản chất của chúng ta, nên chúng ta cũng có thể được ích lợi từ bản chất đó. Và Đức Giêsu không hề đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, mà Người lại không tự mình thực hiện.
Từ đó, bạn có được mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là mẫu thức của sự cứu độ. Thiên Chúa đã đi vào thế giới của chúng ta, cùng với những điều kiện sống của chúng ta. Người muốn cảm nhận được nỗi đau khổ của kiếp người, và chỉ ra cho chúng ta tính cách vĩ đại của con người. Bây giờ, chúng ta có được một Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu chúng ta, mỗi khi chúng ta nói với Người về nỗi đau đớn của chúng ta. Nhưng Người cũng là một Thiên Chúa, Đấng sẽ không cho phép chúng ta được đắm mình trong nỗi đau khổ đó. Người sẽ không thỏa lòng, cho đến khi Người đòi hỏi được điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên trái đất này, để chia sẻ thân phận của chúng ta, sao cho chúng ta có thể được chia sẻ trong sự thần thánh của Người. “Hai ông bà lấy tã bọc con trẻ, và đặt hài nhi trong một máng cỏ”. Đức Giêsu đã lớn lên chính từ nguồn gốc thấp kém này, để chỉ ra cho chúng ta thấy sự vĩ đại của nhân loại chúng ta.
Niềm vui của ngày này tràn đầy trong tâm hồn chúng ta và trên toàn thế giới. Đức Giêsu hướng dẫn chúng ta trên một cuộc hành trình còn táo bạo hơn của cuộc hành trình của các phi hành gia – cuộc hành trình đi đến vương quốc của sự sống đời đời.
9. Ánh Sáng
Vào chiều Chúa Nhật ngày 1 tháng Sáu, năm 1975, Darrel Dore đang ở trên một giàn khoan dầu tại vịnh Mexico. Bất chợt, cái giàn lắc lư và ngả nghiêng qua một bên. Sau đó, nó đổ nhào xuống biển.
Trong khi xảy ra tai nạn đó thì Darrel đã bị kẹt trong một cái phòng ở trên giàn khoan dầu. Khi cái giàn chìm sâu xuống đáy biển thì ánh sáng trong phòng mà Darrel đang ở cũng dần dần tắt lịm, rồi nước dần dần trào vô ngập căn phòng.
Vùng vẫy trong bóng tối, Darrel bắt chợt bắt gặp một cái bong bóng lớn ở một góc phòng. Anh liền nhanh chân chạy đến và bỏ đầu anh vào cái bong bóng đó.
Sau đó, một ý tưởng rùng rợn "tôi sẽ bị chôn sống" đã xâm chiếm anh. Anh bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Khi anh làm như thế, một sự kỳ diệu đã xảy ra. Anh phát biểu cảm tưởng đó như sau: "Tôi cảm thấy như mình đang nói chuyện với một ai đó. Chúa Giêsu đã ở với tôi. Tôi nhìn thấy ánh hào quang hoặc hình bóng của Ngài. Tôi cảm nghiệm được sự an ủi của Ngài đang hiện diện bên tôi. Ngài thật là sống động. Ngài đã ở đó."
Trong vòng hai mươi hai tiếng đồng hồ sau đó, sự hiện diện của Thiên Chúa tiếp tục an ủi Darrel. Tuy nhiên, sau đó, khí oxygen trong cái bong bóng bắt đầu hết. Darrel không thể thoát chết, chỉ là chờ thời gian.
Sau đó, một điều kỳ diệu thứ hai đã xảy ra. Darrel nhìn thấy một ánh sao sáng lung linh trong khối nước đen như mực. Ánh sáng đó có thật không, hay đó chỉ là ảo tưởng sau hai mươi hai tiếng đồng hồ của Darrel? Darrel nhắm mắt lại và mở ra. Ánh sáng từ cái ngôi sao đó hình như là càng sáng rõ hơn. Darrel lại tiếp tục nhắm mắt và mở ra.
Anh không phải đang gặp ảo tưởng, ánh sáng đó là ánh sáng thật. Ánh sáng đó phát ra từ cái mũ của người lặn nước. Đoàn cấp cứu đã lặn xuống và tìm thấy anh. Hai mươi hai tiếng đồng hồ hoảng sợ đã chấm dứt. Anh đã được cứu thoát!
Câu truyện có thật này là một minh họa diệu kỳ để diễn tả ý nghĩa ngày Lễ Giáng Sinh.
Tội lỗi đã làm lắc lư thế giới, và làm cho nó nghiêng ngả, rồi làm cho nó sụp đổ vào sự chết. Bóng tối đã tràn ngập tất cả, và loài người đã bị mắc kẹt trong thất vọng. Con người đang sống trong cảnh sụp đổ không thể tránh được.
Sau đó, trong cảnh trời u tối, một điều huyền diệu đã xảy ra. Một ánh sao lấp lánh trong khung trời tối. Thiên thần Chúa bỗng hiện đến bên họ và vinh quang Chúa rạng ngời bao quanh họ, làm họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng thiên thần nói với họ: "Đừng sợ! Này ta đêm tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành Đavít" (Lc 2:9-11).
Và như thế cơn ác mộng đêm tối đã chấm dứt. Sự cứu giúp đã đến. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã xuống từ trời đến để cứu độ loài người, như là người nhái lặn biển đến cứu Darrel.
Nếu chúng ta có chọn một dấu hiệu gì để tượng trưng cho ý nghĩa của Giáng Sinh, thì chúng ta có thể chọn hình ảnh ánh sáng. Chúng ta chọn ánh sáng vì hai lý do sau:
Thứ nhất, Chúa Giêsu chính Ngài đã chọn ánh sáng để diễn tả tại sao Ngài đến trong thế gian. Ngài nói: "Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tăm tối, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống" (Ga 8:12).
Trước khi Chúa Giêsu đến trong Giáng Sinh, con người đã đi lạc và lảo đảo trong bóng tối. Qua Giáng Sinh, Chúa Giêsu đã biến đổi tất cả những điều đó. Ngài cứu giúp chúng ta từ trong bóng tối và chỉ cho chúng ta con đường đến với Chúa Cha.
Lý do thứ hai, ánh sáng là một biểu tượng hoàn hảo của Mùa Giáng Sinh, bởi vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: "Các ngươi là ánh sáng thế gian... Ánh sáng của các ngươi phải chói lọi trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc lành các ngươi làm mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời" (Mt 5:14, 16).
Nói một cách khác, cũng như Chúa Giêsu là ánh sáng cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải là ánh sáng cho kẻ khác. Chúng ta phải cho người khác biết con đường đi ra khỏi bóng tối, như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Đó là ý nghĩa của Mùa Giáng Sinh. Chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của ánh sáng dập tan bóng tối. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật, Chúa Giêsu đã đến như là một ánh sáng trong đêm tăm tối để cứu độ chúng ta và chỉ cho chúng con con đường đến với Chúa Cha. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật mà Chúa Giêsu đã gọi chúng ta trở nên ánh sáng trong thế gian, như Ngài đã từng là ánh sáng.
10. Nhập Thể, một Tin Mừng trọng đại
Suy Niệm của Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
“Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi.” Lời loan báo Tin mừng của sứ thần cho các mục đồng tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm, cũng là lời mà Giáo Hội muốn gởi đến từng người chúng ta hôm nay. Thật vậy, sau bao ngày chờ đợi và chuẩn bị, đêm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây để mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ của Kitô giáo, nhưng còn là ngày lễ hội của tất cả mọi người trên thế giới. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, lịch sử con người đã bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn của niềm vui và hân hoan khôn tả. Chúng ta vui mừng vì Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Chúng ta vui mừng vì với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, lời hứa cứu độ từ nguyên thuỷ nay đã trở thành hiện thực. Chúng ta còn vui mừng, vì từ nay, chúng ta đã có Con Thiên Chúa cùng đồng hành trong cuộc sống. Chúng ta không còn cô đơn, vất vả một mình trong kiếp sống con người.
1. Tin mừng được giải thoát Tin mừng này đối với dân Do Thái, trước hết, đó là tin mừng của ngày được giải thoát khỏi ách nô lệ. Để thấy hết được niềm vui này của dân Chúa, chúng ta cần chú ý đến tâm trạng hoàn cảnh của họ lúc bấy giờ. Lúc đó, dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày, kiếp sống của người nô lệ. Có lẽ, giờ này ngồi đây, chúng ta không cảm nghiệm được hết nỗi buồn khổ, tủi nhục của kẻ bị lưu đày. Để hiểu rõ tâm trạng này của họ, có lẽ chúng ta cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ. Đó là tâm trạng của những người bị đày biệt xứ, không biết lúc nào mới được về lại nơi quê cha đất tổ. Cảm nghiệm nỗi buồn mất nước này, tác giả Thánh vịnh đã phải thốt lên: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: “Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42 (41), 4), “Bờ sông Babilon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên… Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người?” (Tv 137 (136), 1-3a. 4). Chính giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới thấy hết được niềm hy vọng và vui mừng của dân khi nghe lời loan báo của vị ngôn sứ : “Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. .. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Madian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa”. Không vui sao được khi họ sắp được trở về quê hương, được giải thoát khỏi ách nô lệ, đựơc trở lại thành một con người tự do. Niềm vui này thật to lớn, không thể nói hết được. Không chỉ loan báo ngày giải thoát, ngôn sứ còn hé mở cho thấy khuôn mặt của Đấng thực hiện lời hứa giải thoát này: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai,…Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít”. Đây thực sự là một vị vua uy quyền nhưng cũng đầy tình nhân ái: “Thiên hạ sẽ gọi Nguời là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận”. Lời hứa này đã được thực hiện. Dân Chúa đã được hồi hương vào năm -587. Thế nhưng, thực tế, họ cũng chưa hoàn toàn được tự do. Vì thế, dân Chúa vẫn luôn thao thức trông chờ ngày của Đấng Messia đến để thực hiện trọn vẹn lời hứa này. Và với việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, niềm vui này đã trở nên hiện thực như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh bởi người nữ,… ngõ hầu chúng ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
2. Tin mừng được cứu độ Như thế, với việc Giáng Sinh của Ngôi Lời, niềm vui được giải thoát giờ đây được trở nên trọn vẹn, thánh sử Luca thuật lại: “Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ và đặt nằm trong máng cỏ”. Chính Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ đơn sơ đó sẽ là Đấng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, như lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Tin mừng giải thoát này cũng được thánh Phaolô chia sẻ với môn đệ Titô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người.... Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người”. Đức Giêsu sẽ “luyện sạch chúng ta”, nghĩa là khi Đức Giêsu đến, Ngài không chỉ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thân xác, mà quan trọng hơn, Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì như lời Ngài đã nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Dân Do thái và chúng ta hôm nay, tuy không còn bị lưu đày về thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa được bình an. Chúng ta vẫn còn bị những dục vọng, cám dỗ của tội lỗi chi phối. Chắc từng người chúng ta cũng từng có cảm nghiệm của sự bình an và nhẹ nhõm trong tâm hồn sau khi làm hoà với anh chị em hay sau khi lãnh bí tích Hoà giải. Chính sự giải thoát này mới thực là niềm vui lớn nhất, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã cất tiếng ca mừng về điều đó: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”. Sự sáng mà ngôn sứ đã loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Giáng Sinh của Đức Kitô: “Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật của mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ”. Ánh sáng của Ngài xóa tan bóng tối của tội lỗi, của sự chết. Với ánh sáng của Thiên Chúa, các mục đồng, những người bị coi là hèn hạ nhất trở thành những chứng nhân đầu tiên cho sự kiện có một không hai trong lịch sử. Sự kiện Con Thiên Chúa làm người.
3. Nhiệm vụ loan báo Tin mừng Hôm nay, nhận được Tin mừng của Chúa, từng người chúng ta có bổn phận phải rao truyền Tin mừng đó cho mọi người như lời mời gọi của tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ngày qua ngày hãy loan truyền ơn cứu độ của Người, hãy loan truyền vinh hiển Người giữa mọi nước, và những việc lạ lùng Người giữa các dân”. Chúng ta không thể loan truyền Tin mừng Giáng Sinh bằng những lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ tốn kém, hay những bữa tiệc linh đình, vì Chúa chúng ta chỉ chọn một máng cỏ hôi tanh của súc vật để làm nôi khi Ngài sinh ra. Có lẽ cách loan truyền Tin mừng Chúa Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta biết sống yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt là các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ. Chúng ta hãy cho các em một cơ hội sống. Giờ đây, noi gương Đấng đã tự hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống. Sau thánh lễ này, khi trở về nhà, chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ, để bất cứ ai tiếp xúc với chúng ta đều nhận ra được tình yêu của Chúa đang đến với họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hưởng được niềm vui trọn vẹn của ngày lễ Giáng Sinh hôm nay. Amen.
11. Ai thực sự mừng Lễ Chúa Giáng Sinh
Suy Niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến. Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ. Chúng ta nghĩ đến Palextina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palextin lại chìm trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Và một khi bức tường ngăn cách được dựng lên, sự xích mích vốn không thể làm hòa từ bấy lâu nay, lại càng đào sâu thêm chia rẻ, giết chóc và thù hận. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất Giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái ra khỏi nhà để vui đêm hội Giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá trị mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa? Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người. Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an. Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa. Xin kính chúc mọi người một đêm an bình, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
12. Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người - JKN
Chủ đề: Đức Giêsu đã trở nên người như chúng ta: cùng chịu đau khổ như chúng ta. Như vậy đau khổ ắt phải có giá trị tích cực của nó. Câu hỏi gợi ý : 1. Đức Giêsu có gặp nhiều nghịch cảnh như chúng ta không? Giữa Ngài và ta, ai nhiều nghịch cảnh hơn ai? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều này? 2. Có cha mẹ nào yêu thương con mà lại bắt con phải chịu đau khổ một cách vô ích hoặc không cần thiết không? Nếu các ngài cứ bắt ép con mình phải chịu đau khổ, thì người con phải hiểu đau khổ ấy thế nào? có cần thiết hay không? 3. Vì yêu con người, Thiên Chúa muốn chia sẻ đau khổ với con người. Nếu ta yêu tha nhân, ta sẽ phải làm gì khi thấy họ phải đau khổ?
CHIA SẺ 1. Đức Giêsu cũng gặp bao nghịch cảnh như chúng ta Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy thân phận con người y hệt như chúng ta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ không có tội lỗi mà thôi. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài cũng gặp biết bao nghịch cảnh như chúng ta, thậm chí ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và khi vừa mới sinh ra. Gần tới ngày Ngài chào đời thì cha mẹ Ngài phải lên đường đến một nơi cách nhà mình trên 120 cây số vì lệnh kiểm tra dân số của chính quyền. Tại nơi xa lạ này, gia đình Ngài đã không kiếm được một chỗ trọ để Ngài chào đời một cách xứng với phẩm giá một con người. Vì thế, hai ông bà đã phải chấp nhận cảnh sống bụi đời là tìm một chuồng chiên bò nào đó ở ngoài đồng để sinh con và tạm trú qua ngày. Và Đức Giêsu đã sinh ra trong một chuồng chiên bò. Ôi, thật là nhục nhã! Nghịch cảnh đâu đã hết, nó còn theo Ngài suốt cuộc đời: nào là phải trốn sang Ai Cập, rồi trở về Nadarét, nào là cảnh nghèo khổ, nào là tình trạng bị giới lãnh đạo tôn giáo ghen ghét và bách hại, bị dân chúng và cả môn đệ mình phản bội, bị đánh đòn, bị xỉ vả nhục nhã, bị chết thảm thương, v.v… Xét về hoàn cảnh, chúng ta may mắn hơn Ngài rất nhiều. Ngài vốn là Thiên Chúa, giầu sang quyền quí vô cùng, thế mà phải chịu như vậy. Chúng ta là ai mà lại mong muốn được ưu đãi hơn Ngài? Suy nghĩ điều ấy sẽ phát sinh một niềm an ủi rất lớn cho chúng ta. 2. Đau khổ và nghèo khó có giá trị của nó Thân phận con người là một thân phận đau khổ và nghèo khó như một hậu quả tất yếu của tội nguyên tổ. Nếu đau khổ hoàn toàn không có ích lợi gì cho chúng ta, chắc chắn vì yêu thương chúng ta vô hạn, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng vô biên để giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mọi đau khổ. Nhưng nếu Thiên Chúa vẫn để chúng ta phải đau khổ, và chính Ngài cũng sẵn sàng đau khổ cùng với chúng ta, tất nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi rất lớn cho chúng ta. Nếu không như thế, thì phải kết luận rằng: một là Ngài là người tàn ác, không yêu thương gì chúng ta, hai là Ngài không toàn năng, nghĩa là không đủ khả năng để giải phóng chúng ta khỏi đau khổ. Nếu Ngài yêu thương ta vô cùng lại toàn năng, mà lại để chúng ta đau khổ, ắt nhiên đau khổ ấy phải rất cần thiết và rất ích lợi cho chúng ta. Một minh họa tuy què quặt nhưng giúp ta dễ hiểu điều ấy: Cha mẹ yêu thương con không bao giờ muốn con phải khổ, dù chỉ là khổ một chút xíu. Nhưng nếu cha mẹ bắt con cái mình phải uống một thứ thuốc rất đắng, hay phải chịu roi vọt rất đau đớn, và chính cha mẹ cũng phải vất vả vô cùng mới kiếm được thứ thuốc đắng ấy, hay phải quặn ruột nhìn con khóc thét dưới lằn roi, tất nhiên thuốc đắng hay roi vọt ấy phải là cần thiết hoặc ích lợi cho đứa con. Thật vậy, thà bắt con khổ vì uống thuốc, đau vì roi vọt, còn hơn để con phải bệnh hoạn tật nguyền suốt đời, hay trở nên người hư hỏng hoặc vô giá trị sau này. 3. Đau khổ rất cần thiết và ích lợi để nên thánh, để hạnh phúc Kinh nghiệm cho ta thấy đau khổ nhiều khi rất cần thiết để đạt được những ích lợi lớn hoặc để tránh những tổn thất nặng nề, chẳng hạn như: «quân trường thấm mồ hôi, chiến trường ít đổ máu», «gieo trong nước mắt thì gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6). Kinh điển Phật giáo cũng nói: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất ca» (Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Theo Phật giáo, phiền não đau khổ là hạt giống Như Lai, sinh ra trí tuệ giải thoát. Ta thấy: trên đời, những người có bản lãnh đều là những người phải kinh qua rất nhiều đau khổ, đều được đào luyện trong đau khổ. Đau khổ dạy cho chúng ta - thậm chí cả Đức Giêsu - nhiều bài học quí giá: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Ngay cả đối với Đức Giêsu, thì đau khổ cũng rất cần thiết để Ngài trở nên vị lãnh đạo hoàn hảo: «Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ để trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10). Muốn sử dụng ai, Thiên Chúa thường dùng đau khổ để sửa dạy, để thánh hóa, để huấn luyện người ấy nên hoàn hảo: «Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt» (Dt 12,6). Gương của các thánh chứng minh điều ấy. Như vậy, đau khổ có giá trị của nó, và chịu đựng đau khổ không phải là một chuyện vô ích. Nếu đau khổ và nghèo khó cần thiết và ích lợi cho chúng ta, mà Thiên Chúa lại không bắt chúng ta đau khổ và nghèo khó, thì chắc chắn Ngài chưa phải là người yêu thương chúng ta đích thực: vì «yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi». Hoặc Ngài chỉ yêu chúng ta một cách thuần túy tình cảm và điều ấy sẽ làm chúng ta hư hỏng: «con hư tại mẹ, cháu hư tại bà». 4. Thiên Chúa cùng chịu đau khổ và nghèo khó với con người Dù đau khổ và nghèo túng là cần thiết cho chúng ta chứ không phải cho Thiên Chúa, nhưng nếu Ngài để chúng ta phải quằn quại trong đau khổ một mình, còn Ngài chẳng biết một chút gì về đau khổ, thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn trong đau khổ, và chúng ta khó có thể tin được rằng Ngài yêu thương chúng ta. Nhưng nếu Ngài đã cùng muốn chịu đau khổ với chúng ta, và còn muốn chịu đau khổ hơn cả chúng ta nữa, thì điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã yêu thương chúng ta đích thực. Qua cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân xuống thế làm người để cùng chịu đau khổ và nghèo nàn với chúng ta. Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người, đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (xem lPr 2,24b). Điều ấy làm chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vô bờ bến, đồng thời cũng nhận ra giá trị của đau khổ và sự nghèo khó. 5. Hãy bắt chước Ngài chia sẻ đau khổ với những người chung quanh ta, nhất là những người nghèo túng, bị áp bức bất công Nếu tình yêu đích thực đã thúc đẩy Thiên Chúa phải chia sẻ thân phận đau khổ và nghèo nàn của chúng ta, thì ta có thể rút ra một kết luận cho việc thể hiện tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Nếu chúng ta nói mình yêu ai, mà khi người ấy gặp đau khổ, chúng ta không hề cảm thấy phải làm điều gì để giảm bớt đau khổ cho người ấy, hoặc không tìm cách cùng chia sẻ đau khổ với người ấy, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối, tình yêu ấy chỉ là tình yêu ngoài môi miệng. Hễ yêu ai, thì khi thấy người ấy đau khổ, ta không thể khoanh tay đứng nhìn mà không làm gì. Nếu không làm giảm được đau khổ với người ấy, thì cũng có thể làm một việc gì để tỏ ra thông cảm. Chúng ta nghèo, Thiên Chúa cũng đã trở nên nghèo cùng với chúng ta. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng mình yêu thương người nghèo, khi chúng ta vẫn vui vẻ sống trên nhung lụa, và không hề quan tâm làm một điều gì cho người nghèo bớt nghèo. Làm sao ta có thể nói rằng mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta? Cầu nguyện Lạy Cha, Cha đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng con: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng con. Qua sự nhập thể ấy, xin cho con nhận ra tình thương vô biên của Cha và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con. Con tin rằng Cha yêu thương con vô cùng và khôn ngoan vô biên, không bao giờ để con phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Con biết rằng hễ Cha để đau khổ xảy đến với con, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho con, dù con không hiểu được ích lợi thế nào. Xin cho con biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh con. Amen.
HƠI ẤM TÌNH NGƯỜI
Lm. Jos. DĐH
Đại gia, giả nông dân, đó là câu thành ngữ chỉ người giầu sang phú quý, nhưng vì họ chủ trương sống như người nghèo hèn, nhằm xa tránh kẻ làm phiền. Trong khi đó, tiền nhân chúng ta thường khích lệ con cháu hãy tự tin sống như câu ca dao: nghèo tình nghèo nghĩa thì lo, nghèo tiền nghèo của chẳng lo làm gì. Thực ra, giầu nghèo không phải vì số phận, sống giả nhân giả nghĩa, đâu phải tự hoàn cảnh đưa đẩy, nhưng vì ý chí, tự do chưa được sử dụng đúng, đẹp. Vào một đêm đông giá lạnh năm xưa, có đôi vợ chồng không tìm được nơi trú ngụ, liệu có phải vì ông bà quá nghèo, hay chỉ đơn giản là vì “cháy phòng” ? hoặc tình người bị hiểu sai ?
Mùa đông giá lạnh, ta có quyền mơ ước được sưởi ấm, tình yêu giữa vợ chồng con cái bị “đóng băng”, lẽ nào ta không tìm cách tháo gỡ, vun cao đắp đầy hạnh phúc. Tiết trời mùa lạnh năm xưa, lệnh hoàng đế kiểm tra dân số, người người khắp nơi trở về quê hương xứ sở làm thủ tục. Chấp hành luật lệ lại là điều lo lắng với Giuse và Maria, vì “bụng mang dạ chửa”, vì trời đã về chiều, hai ông bà cần phải có nơi trú ngụ ! Theo lối suy nghĩ của nhân loại, tại sao Thiên Chúa quyền năng không can thiệp cho gia đình Giuse Maria một chỗ trọ đàng hoàng ấm cúng ? Nhưng hiểu theo nghĩa siêu nhiên, Con Thiên Chúa đến trần gian chỉ khao khát “hơi ấm” của tình người.
Ngay từ khi chập chững bước, với bước đi đầu đời, cũng từ khi biết nghe, biết nói, ta đã hiểu, và rất thích những lời ngọt ngào yêu thương, những việc làm trung thực đầy nghĩa tình. Cha mẹ Hài Nhi Giêsu hẳn không thụ động phó mặc ơn Chúa “mở cửa lòng người”, đúng hơn các ngài hiểu Con Thiên Chúa muốn được cảm thông thân phận nghèo khổ cùng cực nhất nơi hang bò lừa. Nếu nghe nhìn và phân định cách tích cực, hoàn cảnh nghèo khó túng thiếu của xã hội đang được “ấm áp tình người” rất nhiều. Chương trình Lục-Lạc-Vàng thu hút nhiều tổ chức doanh nhân đến với những nông dân nghèo, có cơ hội thoát khổ. Chương trình cặp lá yêu thương, hướng nhiều cá nhân tập thể giúp các em học sinh nghèo hiếu học, sớm có điều kiện học tập, đến trường.
Lịch sử Kitô giáo hằng tuyên xưng Thiên Chúa quyền năng, Ngài làm được mọi sự, người Kitô hữu dư biết ai cũng cần đến tình yêu thương, cùng giúp nhau sống đạo làm người và đạo làm con Chúa. Tiếng loa của Thiên Thần đến bên các mục đồng trước, giúp những người nghèo hôm đó được nghe nhìn, cảm nhận niềm vui, nhưng không phải vui vì quà vật chất. Các mục đồng hạnh phúc cùng cha mẹ Hài Nhi bên máng cỏ, giá lạnh của đêm đông tan biến vì Con Thiên Chúa đã có được “hơi ấm tình người”.
Đêm tối đầy rủi ro sợ hãi, đêm tối đức tin cũng đầy thách thức, khó khăn, đêm tối đó không phân biệt giáo sĩ tu sĩ hay giáo dân, vì thế mà chúng ta cần có tâm hồn thao thức, cần có một sự chuẩn bị để Ngôi Lời xua tan bóng tối sự chết. Đêm tối hôm nay, Hài Nhi Giêsu và cha mẹ Ngài sẽ thinh lặng, mời gọi tất cả hãy hành động để hơi ấm tình người tỏa rộng khắp nơi. Đêm đông hôm xưa và hôm nay, Hài Nhi Giêsu vẫn là niềm vui, là bình an, là quà tặng, được ban cho nhân loại, được chia sẻ cho người nghèo, người giầu, người tội lỗi…
Tục ngữ có câu: giầu hai con mắt, khó đôi bàn tay, quả thật, chúng ta sẽ không phải là người nghèo về vật chất ; nếu như các Thiên Thần loan báo tin vui cho các mục đồng, hẳn âm vang “Chúa Giáng Trần” sẽ còn tỏa lan khắp nhân loại. Để biết mình đang cần thứ hơi ấm nào, chúng ta cần có giây phút lắng đọng tâm hồn. Để biết mình đang giầu nghèo về tinh thần ra sao, nhất định ta phải hòa mình vào số các mục đồng mà cùng nghe, cùng nhanh chóng tới hang đá gặp Hài Nhi. Hơi ấm của tình người, hơi ấm của tình Chúa, sẽ còn thiết thực đến từng tâm hồn, khi người tín hữu chúng ta cùng hòa với tiếng hát Thiên Thần: “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Amen.
ĐỨC VUA TÌNH YÊU, HOÀNG TỦ THÁI BÌNH ĐÃ ĐẾN
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chuyến công du của đức Thánh Cha Fancis tại ba nước Châu Phi cuối tháng 11 đến đầu tháng 12 vừa qua là một chuyến đi nhiều khó khăn nguy hiểm. Nguy hiểm vì đây là chuyến đi của Giáo hoàng đến một vùng đang có chiến tranh, khủng bố. Trước đó hơn một tháng đã có hàng loạt vụ khủng bố giết chóc xảy ra tại các quốc gia này, quân IS còn lên tiếng đe doạ khủng bố chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng.
Vượt qua mọi de doạ, Đức Thánh Cha vẫn đến với ba quốc gia Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi đau khổ nghèo đói này. Ngài đến như vị sứ giả hoà bình, như người đem niềm vui và tình yêu thương để khơi dậy hy vọng và hoà bình cho các quốc gia này. Trong bài diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha, bà Tổng Thống lâm thời nước Cộng Hoà Trung Phi đã thưa với Đức Giáo Hoàng : Trọng kính Đức Thánh Cha ! Trong bối cảnh chính trị hiện nay, với những đe dọa an ninh có thật cũng như phóng đại, đã ảnh hưởng đến việc chuẩn bị cho chuyến đi của Ngài. Sự dấy lên các hành động cực đoan và khủng bố trong những ngày vừa qua đã có thể làm cho Ngài nản lòng vì không muốn gặp bất trắc khi đến đây. Nhưng Ngài vẫn đi. Bài học can đảm và quyết tâm là tấm gương mà chúng tôi phải học. Ngài luôn thực hiện tình đoàn kết với các nạn nhân của cuộc xung đột ở Trung Phi. Ngài luôn nâng đỡ tinh thần người dân Trung Phi, thuộc tất cả mọi tôn giáo để họ cùng nhau tái kiến trúc lại sự nhất quán cho quốc gia. Hôm nay, thêm một lần nữa, Ngài khẳng định cho người dân Trung Phi và dưới mắt thế giới, Ngài ở bên cạnh họ trong tình huynh đệ và bằng hữu giữa con người với nhau. Nhất là thêm một lần nữa, Ngài chứng tỏ Ngài là Giáo Hoàng của người nghèo, của những người bị bầm dập và tất cả những ai sống trong cơn tuyệt vọng.
Trọng kính Đức Thánh Cha ! Nhân danh tầng lớp lãnh đạo của đất nước này và cũng nhân danh tất cả những người đã góp phần cách này cách khác đã đưa đất nước xuống hỏa ngục, tôi xin xưng tất cả sự dữ đã phạm của đất nước này trong quá trình lịch sử, và tự đáy lòng tôi, tôi xin được tha thứ.
Chúng tôi tuyệt đối cần sự tha thứ này nhân chuyến đi của Ngài vì chúng tôi đã phạm những điều ghê tởm nhân danh tôn giáo bởi những người tự cho mình là tín hữu. Vậy, làm sao tự cho mình là tín hữu mà đi phá hủy nơi thờ phượng, giết người anh em, hãm hiếp người khác, phá hoại tài sản người khác, gây bạo lực dưới mọi hình thức ? Chúng tôi tuyệt đối cần sự tha thứ vì lòng chúng tôi đã chai cứng bởi sức mạnh của sự dữ. Tình yêu chân thành đối với tha nhân đã không còn ở trong tâm hồn chúng tôi, tâm hồn chúng tôi từ nay cắm sâu trong sự bất khoan dung, đánh mất các giá trị và sống trong tình trạng hỗn độn do bối cảnh gây ra.
Chúng tôi cần sự tha thứ để đi trở lại trên con đường thiêng liêng mới, sống động hơn, tiếp đón hơn, cụ thể hơn vì con đường này được xây dựng trên tình yêu đích thực, một tình yêu góp phần vào việc thực hiện và khẳng định lòng nhân ái của chúng tôi.
Đêm nay, chúng ta mừng kỷ niệm việc Thiên Chúa băng qua các tầng trời để bước đến với con người. Ngài vượt qua mọi nguy hiểm, bất trắc để gặp gỡ con người là những kẻ Ngài yêu thương. Ngài còn ở lại với con người để cùng chia sẻ, cảm thông và để giải thoát con người. Tiên tri Isaia đã cho thấy một tương lai tươi sáng, một cuộc sống hy vọng được mở ra cho con người : Đoàn dân đang lầm lũi trong tăm tối sẽ nhìn thấy ánh sáng, Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm hoan hỷ vui mừng, cái ách đã bị bẻ gẫy, những chiếc giày lính đã bị ném vào lửa. Thiên Chúa đến là để xây dựng chứ không phá huỷ, Ngài đem cho nhân loại hạnh phúc và lòng xót thương thay cho thù hận. Ngài là Vị Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thưở, Ông Vua thái bình.
Vị Thiên Chúa mà Isaia nói tới chính là Hài Nhi Giêsu. Ngài được hạ sinh trong một khung cảnh hết sức đơn sơ, thanh bình, nghèo nàn nhưng ấm áp. Thánh Luca cho thấy Giuse và Maria là những con người đầu tiên đón nhận Đấng Giàu Lòng Thương Xót. Hai ông bà nghèo nàn đơn sơ, không tìm được chỗ trọ cho tươm tất, mà phải sống cảnh vô gia cư ngay trên quê hương xứ sở của mình. Giuse và Maria không chút hồ nghi, đã đón nhận Hài Nhi Con Thiên Chúa được sinh ra trong hoàn cảnh ấy, được đặt nằm trong máng ăn của súc vật.
Tương phản với sự nghèo khó, tối tăm của chuồng bò, thì ngay trong đêm ấy, ánh sáng hy vọng đã bừng lên, các mục đồng là nhưng thành phần thấp kém nhất trong xã hội lại là những người đón nhận được tin vui giáng sinh của Thiên Chúa. Sứ thần đã nói với các mục đồng : Đừng sợ ! Đây tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho anh em trong thành của Đavit. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Với lời loan báo này, sứ thần muốn nói đến thời kỳ Thiên Chúa đã đến ở với con người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã tuôn trào trên những con người thấp hèn. Một dấu hiệu để nhận biết Ngài, đó là một trẻ thơ bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ.
Các đạo binh thiên quốc và các thiên thần cất tiếng hát : Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Thiên Chúa đã đem bình an cho nhân loại, thế nhưng thế giới vẫn con nhiều chiến tranh bạo loạn. Hơn lúc nào hết, con người ngày nay vẫn đang mong đợi bình an, nhưng dường như nhiều người vẫn chưa thực lòng bắt tay xây dựng sự bình an cho thế giới. Thay vì góp phần xây dựng hoà bình, nhiều người, nhiều quốc gia đã cố tình gây ra chiến tranh giết chóc, tài trợ, nuôi dưỡng cho khủng bố để tìm kiếm lợi nhuận và quyền lực chính trị cho mình.
Để có thể đón nhận tình thương và bình an của Thiên Chúa, mỗi người phải thành tâm và thành thật nhìn lại quá khứ, nhận ra tình trạng tồi tệ mình đã gây ra cho bản thân và cho anh em, thành tâm xin ơn tha thứ để thay tẩy tâm hồn. Bà Tổng Thống của Công Hoà Trung Phi đã dám sám hối một cách công khai trước mặt mọi người và thế giới về quá khứ, về chiến tranh giết chóc mà giới lãnh đạo Trung Phi đã gây ra. Bà dám nhìn nhận tình trạng tâm hồn bị chai cứng, bị khép kín trước tình yêu của nhiều người đã dẫn đến những hành động tội ác cho người khác. Bà đã nhân danh hàng ngũ lãnh đạo nhìn nhận trách nhiệm về sự suy thoái đạo đức họ đã gây ra trong xã hội.
Một khi tâm hồn đánh mất tình yêu, trở nên hẹp hòi, chai cứng, trái tim trở nên vô cảm, dửng dưng, thì cuộc sống của con người không khác gì cuộc sống của một con thú và lúc đó, người ta sẽ cư xử với nhau theo bản năng. Vì thế, mừng lễ Chúa Giáng Sinh là dịp để mỗi người làm mới và làm mềm lại trái tim của mình. Chúng ta được mời gọi biến tâm hồn mình trở thành một hang đá đơn sơ, không cầu kỳ, để đón Chúa Giêsu Hài nhi sinh vào trong tâm hồn. Ngài là Hoàng Tử tình yêu, là Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài sẽ biến đổi để chúng ta cũng trở thành sứ giả tình yêu và lòng thương xót đến với anh chị em chung quanh.
Trong tông thư Lòng Thương Xót Chúa, Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy sống và thực thi lòng thương xót của Chúa cho anh em. Để đem đến hoà bình cho thế giới, cần xây dựng sự công bằng dựa trên lòng thương xót, tức là tìm kiếm sự công bằng trong tình yêu thương chứ không phải bằng sự trả đũa, trả thù. Chỉ khi mỗi người biết cư xử với nhau dựa trên lòng thương xót, chúng ta mới có thể đem đến cho thế giới sự bình an và hạnh phúc. Cần bắt đầu ngay từ trong xóm, trong môi trường làm việc của mình, giải quyết những bất đồng bằng đối thoại trong tình yêu thương thay vì chửi bới thô tục, bạo lực. Hãy giữ cho mình có một lương tâm trong sáng, ngay thẳng trong mọi công việc, đừng để cho bất cứ một thứ quyền lợi nào bẻ cong lương tâm của chúng ta.
Thiên Chúa đã làm người để nâng con người lên địa vị làm con Thiên Chúa. Tuy nhiên trong thực tế, sự xúc phạm phẩm giá con người đang diễn ra ngay trong các gia đình, khi vợ chồng không biết tôn trọng nhau, không nhìn nhận nhau là xương thịt của mình. Họ đối xử với nhau bằng bạo lực thể xác lẫn tinh thần. Sự coi thường phẩm giá con người đang diễn ra qua các hình thức bạo lực, bạo lực nơi nhà trường, buôn người, nô lệ tình dục, khai thác lao động. Trầm trọng hơn hết là tình trạng nạo phá thai gia tăng. Tại Việt Nam, có hàng triệu ca nạo phá thai mỗi năm. Trong đó, có khoảng 20% ở độ tuổi vị thành niên. Chúng ta đang là nước đứng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu khu vực Đông Nam Á về tình trạng nạo phá thai. Cũng theo thống kê của Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, ở nước ta, mỗi năm có 1,2 – 1,6 triệu trẻ em được sinh ra, thì cũng tương ứng với đó là con số bào thai bị phá bỏ.
Đó là tội ác, tội giết người, là hình thức xúc phạm phẩm giá con người trầm trọng nhất. Cùng với mọi người thành tâm thiện chí, chúng ta có trách nhiệm phải đẩy lùi sự xúc phạm phẩm giá này và loại trừ khỏi xã hội chúng ta các hình thức của sự ác. Hãy bắt đầu bằng việc tôn trọng bản thân, tôn trọng mình là hình ảnh của Thiên Chúa và cũng biết tôn trọng mạng sống, sức khỏe và thân xác người khác như thế, vì thân xác con người đã được con Thiên Chúa mang lấy và mạng sống con người đã đượcThiên Chúa cứu chuộc.
Xin cho niềm vui Giáng sinh thúc đẩy chúng ta thành những con người đem bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho thế giới hôm nay để Thiên Chúa được vinh danh và con người được ơn cứu độ. Amen.
ĐÊM SAO SÁNG
Trầm Thiên Thu
Lạy Chúa Hài Đồng, con tín thác vào Ngài – Divine Child Jesus, I trust in You – Divin Enfant Jésus, j’ai confiance en Toi – Divino Niño Jesús, en ti confío. Phàm ngữ không đủ để diễn đạt niềm tin kính Thiên Chúa toàn năng, nhất là vào Mùa Giáng Sinh này.
Đêm Giáng Sinh là Đêm Thánh, đêm lịch sử, đêm ánh sáng, đêm muôn ánh sao, đêm giao hòa tình người, đêm nối kết đất trời, đêm khởi đầu niềm hy vọng mới, nhân loại vui mừng được thoát khỏi vùng-bóng-tối để bước vào Miền-Ánh-Sáng, vì chính Con Thiên Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1:14), Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Is 7:14 và Mt 1:23).
Đó là niềm hạnh phúc quá lớn đối với nhân loại. Và từ từ giây phút Ngôi Hai giáng trần, chúng ta không còn bị réo là “Đồ Bị Ruồng Bỏ”, là “Phận Bạc Duyên Đơn”, mà được gọi trìu mến là “Ái Khanh” và được ca tụng là “Duyên Thắm Chỉ Hồng” (Is 62:4). Ôi, thật là trên cả tuyệt vời!
Belem (hoặc Bêlem, Việt ngữ) là nơi Hài Nhi Giêsu sinh ra, một nơi có thật, thế giới phải công nhận chứ không là nơi bịa đặt. Bethlehem (tiếng Ả Rập: بيت لحم, Bayt Laḥm, nghĩa đen là “Nhà Thịt Cừu Non”; tiếng Hy Lạp là Βηθλεέμ (Bethleém); tiếng Hebrew là בית לחם (Beit Lehem), có nghĩa là “Nhà Bánh Mì”; tiếng Bồ Đào Nha là Belém.
Belem là một thành phố của Palestine, thuộc miền trung Bờ Tây, cách TP Giêrusalem khoảng 10 km (6,2 dặm) về phía Nam. Belem có khoảng 30.000 cư dân và là thủ phủ của Nha Thủ Hiến Belem (Bethlehem Governorate), thuộc chính quyền quốc gia Palestine (Palestinian National Authority), đồng thời là Trung tâm Văn hóa và Du lịch của đất nước Palestine. Theo địa lý, Belem ở độ cao 775 m (2.542,7 bộ/ft) so với mực nước biển, và Belem ở độ cao 30 m (98,4 bộ/ft) so với TP Giêrusalem (và các thành phố lân cận).
Câu chuyện Chúa Giáng Sinh là câu chuyện muôn thuở, vẫn luôn mới lạ dù sự kiện này đã xảy ra hơn hai ngàn năm qua. Sự kiện này được mọi người chú ý, kể cả người vô thần. Mọi điều đã được ứng nghiệm theo Kinh Thánh tới từng chi tiết, các điều tiên báo đã có hàng ngàn năm trước. Không một nhân vật nào được người ta chú ý đặc biệt như Thiên Chúa của chúng ta. Đó là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất và đích thực. Thật vậy, cả thế giới đều mừng sinh nhật của Hài Nhi Giêsu, dù có thể có những người không chủ ý hoặc chỉ “ăn theo” thì cũng là cách vui mừng. Không có ai trên thế gian này được chú ý như Đấng Emmanuel của chúng ta. Chứng cớ hùng hồn, không thể chối cãi!
Ngôn sứ Isaia xác định: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9:2-4). Sự thiện đã chiến thắng sự dữ. Công lý đã lên ngôi, hòa bình được tái lập, mọi gông xiềng đều bị gãy nát dưới quyền lực của sự thật. Chân lý đó chính là Thiên Chúa, Đấng Tam Vị Nhất Thể.
Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, giáng sinh tại hang đá ở Belem năm xưa, như một em bé bình thường, nhưng Trẻ Thơ đó lại chính là “Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thuở, và Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5). Và không chỉ như vậy, ngôn sứ Isaia cho biết thêm: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6). Bất cứ điều gì Thiên Chúa nói ra đều được Ngài thực hiện đúng đến từng chi tiết – từng dấu chấm, từng dấu phẩy (x. Mt 5:18).
Người ta thường nói: “Không thể trì hoãn sự sung sướng”. Đúng vậy, đêm Chúa giáng sinh là đêm ân tình, thế giới tràn ngập niềm vui, cả nội tại và ngoại tại, người không có niềm tin vào Thiên Chúa cũng không thể không vui mừng. Với tâm tình phấn khởi đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Khi niềm vui đầy ắp, người ta muốn thể hiện ra bên ngoài, muốn mọi người cùng chia sẻ niềm vui đó. Nhưng có lẽ chưa trọn vẹn, người ta còn muốn cả muôn loài cùng hòa vui, và người ta không thể trì hoãn niềm hạnh phúc quá lớn, thế nên người ta phải lên tiếng mời gọi: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Thiên Chúa là ĐẤNG CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5), là ĐẤNG KHÔNG THIÊN VỊ (Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9), luôn THẬT THÀ nhưng cũng rất THẲNG THẮN. Những ai mưu mô thâm độc thì sẽ lo sợ, những ai thấp cổ bé miệng và bị áp bức thì sẽ vỡ òa với niềm vui sướng tột cùng.
Lời sứ thần loan báo Tin Mừng cho các mục đồng ngày xưa cũng là lời nói với mỗi chúng ta trong đêm nay: “Anh em ĐỪNG SỢ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Hãy vùng lên và cùng nhau chống lại bất công, đó là đứng về phe sự thật, phe công lý, phe của Thiên Chúa. Có những người viện cớ cho rằng “không muốn đụng chạm”, nhưng thật ra chỉ là nhát đảm – mình không muốn “đụng” đến ai và cũng chẳng muốn ai “chạm” đến mình. Việt ngữ có từ “đụng chạm” thật thú vị. Bảo vệ sự thật của Thiên Chúa mà sợ ư?
Tất cả là hồng ân. Thật vậy, đêm nay vô cùng linh thiêng, vì “ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tt 2:11). Thánh Phaolô giải thích: “Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu, là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2:12-13).
Ngày đó đã đến, đêm nay chúng ta hân hoan kỷ niệm Ngày Hồng Phúc đó. Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Niềm vui này nối tiếp nỗi mừng khác. Vui mừng tích tụ. Nhưng không phải để chúng ta cười vui cho khoái chí, mãn nguyện, mà là để “hăng say làm việc thiện”. Đó mới là vấn đề quan trọng!
Trình thuật Lc 2:1-14 cho biết về hoàn cảnh giáng sinh của Chúa Giêsu vào thời hoàng đế Au-gút-tô. Lúc đó, ai nấy đều phải về nguyên quán để khai nhân khẩu. Vì thế, Chú Giuse cũng phải đưa Cô Maria về quê theo luật pháp hiện hành. Đường sá xa xôi, hiểm trở, phương tiện di chuyển thời đó là con lừa. Chu choa, mèn ơi, cực thật! Khi hai người tới Belem thì Cô Maria tới kỳ mãn nguyệt khai hoa. Đêm khuya, hai ông bà không tìm được chỗ trọ nên phải trú tại hang đá ngoài cánh đồng vắng vẻ.
Có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật, họ được sứ thần báo tin về “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”, không chút nghi ngờ và họ đã tới kính viếng Hài Nhi Giêsu. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Ôi, mầu nhiệm biết bao! Đặc biệt là có một ngôi sao sáng rực chiếu vào nơi Hài Nhi Giêsu vừa hạ sinh: “Đêm thánh vô cùng, Giây phút tưng bừng, Đất với trời, Xe chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ, Canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa, Ơn châu báu không bờ bến, Biết tìm kiếm của chi đền!” (Still Nacht của Franz Gruber – Đêm Thánh Vô Cùng, lời Việt của Hùng Lân). [*]
Đêm nay, có thể trên bầu trời Việt Nam bên ngoài kia không có (nhiều) ánh sao lấp lánh, nhưng trong bầu trời tâm hồn của chúng ta vẫn có rất nhiều ánh sao lung linh, chiếu tỏa ân sủng của Chúa Hài Đồng – nhất là ở những tâm hồn ngay lành. Mỗi chúng ta có trách nhiệm phải chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng Giáng Sinh tới tha nhân – nhất là đối với những người nghèo khổ, những người hèn mọn, những người bị gọng kìm bất công kẹp chặt,… Hang đá vật chất chỉ cho vui mắt, hang-đá-tâm-hồn mới là nơi Chúa Hài Đồng muốn nằm ngủ đêm nay và mãi mãi…
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con tỏa lan Ánh Sáng Sự Thật của Chúa Hài Đồng. Xin giúp con biết sống tinh thần Giáng Sinh mọi ngày: nghèo khó, đơn sơ, giản dị, chấp nhận, can đảm, yêu thương,… Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Emmanuel và Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của mình như là “dân tộc bước đi trong u tối”, chốn lưu đày đối với họ chính là “miền thâm u của sự chết”, những khổ nhục họ phải chịu là “cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai …” Tuy nhiên, cái đêm âm u cũng như miền thâm u sự chết, những cái ách và cái gông nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia gỡ bỏ khi loan báo về một trời mới, đất mới và họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan”, miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung… Bởi vì “một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới” (Is 62,11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình” (Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ…, thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên: “Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì: “Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: Hát đi, hát thử đi xem, Xion nhạc thánh điệu quen một bài!” (x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Nỗi đau khổ của dân Israel đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi.
Vì thế, Đên nay là: Đêm Hồng Ân; Đêm tình thương cứu thế; Đêm chan hòa Ánh Sáng; Đêm giao hòa giữa Trời và đất; Đêm khơi nguồn Bình An; Đêm mà Thiên Chúa và con người gặp nhau; Đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, “… anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7).
Đứng trước hồng ân cao trọng này, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96, 1-3).
Khi mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như vậy, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” (x.Ga 3,16; Is 9,5). Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2, 10-11).
Mặt khác, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn và trong trái tim của chúng ta. Bởi vì giá trị đích thực của niềm vui giáng sinh là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi người!
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian qua việc giảng dạy và nơi những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”; “Bánh hằng sống”;“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho những ai đón nhận được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Đức Giêsu, và để cho Ngài sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, mỗi người hãy trở nên quà tặng cho tha nhân qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông phát xuất từ niềm tin và lòng thương xót…
Đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, khi chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
Nguồn: http://gplongxuyen.org