"Tên lính đâm thủng cạnh sườn Người, và máu cùng nước chảy ra".
Lời Chúa: Ga 19, 31-37
Bởi lẽ là Ngày Chuẩn Bị, và để tránh cho các tử thi không còn treo trên thập giá trong ngày sabbat, vì ngày sabbat là một ngày trọng đại, những người Do-thái xin Philatô cho hạ các tử thi xuống, sau khi đánh giập ống chân. Bấy giờ những người lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu.
Khi đến gần Chúa Giêsu, chúng thấy Người đã chết, nên không đánh giập ống chân Người; nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức máu cùng nước chảy ra. Và kẻ đã xem thấy, thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cả chư vị cũng tin.
Những điều đó đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: "Không một cái xương nào của Người bị đánh giập". Và lại có lời Kinh Thánh khác rằng: "Chúng sẽ nhìn vào Đấng chúng đã đâm thâu qua".
SUY NIỆM 1: MỪNG RỠ VÁC LÊN VAI
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Dụ ngôn về con chiên bị lạc mất được đọc trong lễ Thánh Tâm.
Đức Giêsu nói dụ ngôn đơn sơ này
vì thấy những người Pharisêu và các kinh sư khó chịu
khi Ngài đón tiếp các tội nhân và hồn nhiên ăn uống với họ.
Ngài không xa lánh họ vì họ dám đến gần Người để nghe (Lc 15, 1-2).
Từ nơi Đức Giêsu toát ra một sự hấp dẫn những ai bị xã hội loại trừ.
Họ biết mình được Ngài yêu thương đón nhận.
Họ biết mình có chỗ trong trái tim nhân hậu của Ngài.
Dụ ngôn con chiên bị mất là dụ ngôn về một trái tim.
Trái tim nhói đau của người có đàn chiên một trăm con, và mất một.
Anh không coi nhẹ sự mất mát này, vì anh quý từng con chiên.
Con chiên bị lạc mất làm anh nặng lòng, không yên,
dù một con trong đàn chiên trăm con có thể chẳng là gì cả.
Trái tim nhói đau cũng là trái tim tìm kiếm.
Để tìm kiếm, anh phải để lại chín mươi chín con kia trong hoang địa.
Có thể anh phải gửi đàn chiên mình cho người bạn chăn nuôi.
Lòng của anh bây giờ tập trung hoàn toàn vào con chiên lạc mất,
đến độ có vẻ như anh bỏ rơi những con còn lại.
Ta chẳng rõ anh đi tìm ở những nơi nào và bao lâu.
Hẳn anh đã đến mọi nơi mà con chiên này có thể ẩn nấp.
Điều chắc chắn là anh đã muốn tìm nó cho kỳ được (c. 4).
Anh không muốn bỏ dở nửa chừng cuộc tìm kiếm vất vả này.
Trái tim âu lo tìm kiếm cũng là trái tim nhảy mừng khi tìm thấy.
Thấy bóng dáng con chiên lạc từ một hố sâu,
hay nghe tiếng kêu quen thuộc của nó từ bụi rậm,
điều đó làm anh quên hết mọi nhọc nhằn.
Niềm vui rộn lên trong lòng anh.
Cách anh biểu hiện niềm vui là vác con chiên tìm thấy trên vai,
và để nó ngang đầu mình, mặt mình.
Có thể anh không muốn dắt nó đi vì anh sợ nó mệt,
thay vì anh không muốn mất nó một lần nữa.
Trái tim nhảy mừng cũng là trái tim muốn chia sẻ niềm vui.
Khi về nhà, anh đã mời bạn bè, hàng xóm lại và nói với họ:
“Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên bị mất” (c. 6).
Niềm vui lớn quá nên không thể giữ riêng trong lòng mình được.
Niềm vui đòi nói ra, đòi chia sẻ để được nhân lên.
Trái tim của Đức Giêsu là trái tim của người chăn chiên,
buồn khi mất chiên, vất vả đi tìm và nhảy mừng khi tìm thấy.
Khi ngồi ăn với những tội nhân trên đường hoán cải,
Đức Giêsu nếm trải niềm vui tột độ của người tìm được chiên.
Tiếc thay những người Pharisêu không muốn chung vui với Ngài.
Họ không hiểu được niềm vui của cả thiên đàng khi một tội nhân hoán cải.
Đơn giản vì Thiên Chúa quý từng người và không muốn mất một ai.
Chỉ mong mỗi linh mục có trái tim của Giêsu, người mục tử nhân hậu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
SUY NIỆM 2: Thánh Tâm Chúa Giêsu
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.
Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:
- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.
Máu Chúa đem lại ơn tha thứ, như giòng nước tinh tuyền gột sạch tâm hồn chúng ta, đem lại sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau.
Nếu như tâm hồn chúng ta đang thất vọng chán nản vì tội lụy, nếu như tâm hồn chúng ta đang mang những vết thương cuộc đời, thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa, để Người chăm sóc và băng bó, để Ngài chuyền máu mà cứu chữa. Bởi vì chỉ trong Người chúng ta mới biết được sống thực là gì.
Tiếp đến, chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chảy sang tâm hồn chúng ta và để trái tim chúng ta có chung một nhịp đập với trái tim Chúa.
Thực vậy, dù là ai chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được chia sẻ với trái tim Chúa, chúng ta vẫn được nghe nhịp đập của trái tim Chúa thổn thức như Gioan thuở trước. Nhân loại ngày nay đang cố gắng thay tim và ghép tim. Chúng ta cũng hãy đến với Chúa để Ngài đổi cho chúng ta một trái tim mới.
Đúng thế, có khi con tim chúng ta đã già nua và bệnh hoạn, trong khi tuổi đời vẫn còn trẻ. Có khi con tim của chúng ta đã bị chia năm xẻ bảy, trong đó Thiên Chúa chưa chắc đã có lấy được một phần nhỏ nhoi. Có khi con tim của chúng ta đã mệt mỏi và trở nên băng giá, không còn hăng hái nhiệt thành như thuở chúng ta mới biết Chúa và yêu Chúa. Có khi con tim của chúng ta đã ngoại tình, đã lang chạ, nghĩa là không còn trung thành với Chúa, trái lại đã xé rào để chạy theo những thần tượng giả dối như tiền tài, lạc thú và danh vọng.
Hãy hồi tâm, xét mình và kiểm điểm lại đời sống để xem tình trạng con tim mình như thế nào. Bởi vì không ai muốn mang lấy một trái tim bệnh hoạn, không ai muốn chấp nhận một trái tim bị chia xẻ.
Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng hay ghen, cho nên Ngài càng không thể chấp nhận bệnh hoạn, chia sẻ và chai đá. Ngài chỉ bằng lòng cư ngụ trong một trái tim trong sạch, và hoàn toàn trống không.
Tất cả những danh vọng, của cải và lạc thú phải được qua một bên để dành chỗ ưu tiên số một cho Chúa. Hãy dâng lên Chúa trái tim nhỏ bé của chúng ta, cùng với một tình yêu trọn vẹn, không chia năm xẻ bảy, để cuộc đời chúng ta được thuộc hẳn về Chúa.
SUY NIỆM 3: Thánh Tâm
Thế kỷ 16, Giáo Hội bị xâu xé bởi nhiều lạc giáo mệnh danh cải cách Giáo Hội. Luther chống lại tình thương tha thứ của Chúa đối với tội nhân. Chủ trương Thiên Chúa đã tiền định ai được lên thiên đàng, ai bị xuống hỏa ngục trước rồi, không còn phép tha tội nữa. Calvin chối phép Thánh Thể. Jensenis hạn chế rước lễ vì sợ Chúa phạt khi xúc phạm đến Chúa.
Giữa thời đại khủng hoảng về tình yêu Thiên Chúa, ngày 27 tháng 12 năm 1673 lễ thánh Gioan, người môn đệ dựa đầu vào Thánh Tâm Chúa trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Magarita giữa hào quang sáng láng như mặt trời, Chúa Giêsu đã phán: “Đây là Thánh Tâm Cha đã yêu thương loài người vô cùng … Con phải truyền bá việc tôn sùng Thánh Tâm Cha để làm phương thế kín múc kho tàng châu báu cho loài người”. Chúa cho thánh nữ thấy Thánh Tâm chứa đựng mọi ơn thánh hóa và ơn cứu độ cần thiết để kéo các linh hồn ra khỏi vực thẳm chết đời đời.
Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần kêu gọi thực hiện tôn sùng Thánh Tâm và đặc biệt năm 1675 Chúa đã dạy thánh nữ vận động lập lễ kính Thánh Tâm Chúa vào thứ sáu sau lễ Mình Máu Chúa. Tháng 7 năm 1685 lễ Thánh Tâm được mừng lần đầu tiên tại nhà dòng Đức Mẹ thăm viếng ở Paray le Monial. Đến năm 1765 Đức Thánh Cha Clêmentê 13 lập lễ và kinh nguyện Thánh Tâm mừng tại Rôma và các nơi.
Lễ Thánh Tâm nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa: “Thánh Tâm đã thương yêu loài người quá bội”.
Bài đọc I, tiên tri Ôsê đã mô tả tình yêu Thiên Chúa thương dân Người như tình yêu cha mẹ đối với con thơ, bồng bế, áp má, đút ăn, tập đi, săn sóc êm ái không ngơi: “Tim Ta thổn thức, ruột gan bồi hồi ở giữa các ngươi”.
Thánh Gioan còn mô tả tình yêu Thiên Chúa qua sự hy sinh chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Thân xác chịu trăm ngàn đòn, bị đóng đinh chết treo lên, thế mà vẫn còn để cho tên lính lấy giáo thọc sâu vào Thánh Tâm, đổ hết máu và nước ra cho chúng nhìn thấu Thánh Tâm Chúa thương yêu chúng dường nào.
Không phải vô tình mà thánh Gioan nhấn mạnh đến cái nhìn vào Thánh Tâm Chúa. Chính Thánh Tâm đã mở ra cho Gioan nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa, cho những người lành và còn đặc biệt cho chúng ta, cho quân dữ, cho kẻ thù và cho kẻ tội lỗi: “Họ sẽ nhìn vào Đấng họ đã đâm thâu qua” (Ga. 19, 37).
Thực sự, chính quân dữ đã được ơn nhìn vào Thánh Tâm, nên đã đấm ngực ăn năn và tuyên xưng: “Thật người này là Con Thiên Chúa”.
Chính Phaolô khi đi lùng bắt các Kitô hữu, đã được nhìn vào Thánh Tâm Chúa mà được ơn trở lại, nên khi viết thư cho giáo đoàn Êphêsô, Phaolô đã quỳ gối xuống trước mặt Chúa Cha trên trời dưới đất, cầu khẩn cho anh em được hợp cùng các thánh mà nhận biết chiều rộng, dài, cao, sâu của tình yêu của Chúa Kitô vượt quá trí loài người. Như thế, anh em mới được sung mãn trong nguồn ơn vô biên của Thiên Chúa.
Tình yêu Chúa đã thắng kẻ thù. Chỉ có tình yêu đó mới chiến thắng thế gian.
Đại đế Napolêôn là anh hùng vô địch, bách chiến bách thắng khắp các nước Âu châu. Chỉ trong một tháng, ông kéo 500.000 quân tràn qua Đông Âu, chiếm thủ đô nước Nga dễ dàng. Nhưng đoàn quân chiến thắng trở thành quân cướp của, giết người và đâm chém giết lộn nhau. Trong cảnh chém giết hỗn loạn, Napolêôn mới hiểu sức mạnh binh hùng dũng tướng mà thiếu tình yêu, thì khốn nạn đến chừng nào! Nên ông đã tuyên bố: “Chỉ có tình yêu mới chiến thắng”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu đang bốc lửa yêu mến loài người chúng con quá bội, xin cho trái tim mỗi người chúng con được cháy lửa yêu mến Chúa nồng nàn, cho chúng con thương yêu nhau, hy sinh phục vụ nhau, tha thứ cho nhau, mới mong làm cho cuộc sống nơi trần gian trở nên êm ái, nhẹ nhàng.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 4: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu
Mùa thu năm 1978, người ta trưng bầy tấm khăn liệm Chúa để tôn kính công khai. Có thật là khăn liệm xác Chúa không ? Không quan trọng ! Điều tôi biết là những tấm ảnh mà tôi được trông thấy, đặc biệt in hình xác Người chết nằm trong khăn liệm, hình người này ! “Đó là Người !” đẹp nhất trong con cái loài người ! cũng là Người đẹp nhất của thời đại đó !
Tại sao không phải là Người ? Tại sao Đức Ki-tô không phải là người có thể xác đẹp vô cùng để phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa !
Vẻ đẹp khêu gợi.
Người ta không thể lãnh đạm trước vẻ đẹp cường tráng này, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, không có chút gì là là thứ đẹp quyến rũ sắc dục . không phải là thứ vẻ đẹp đáng nghi ngờ. Người đẹp tinh toàn. Tại sao ? vì Người hiền hậu, khiêm nhường trong lòng. Vì Người là hình ảnh của Chúa Cha !
Con Người này in lại trên tấm khăn liệm, chiếu tỏa sức mạnh này, tuyên dương sức hiền từ này, nói lên niềm trông cậy này vào Đức Ki-tô đang mời gọi chúng ta.
Mời hết mọi người , trẻ già nam nữ.
Những trẻ em, những trẻ nhỏ, cảm thấy an tâm đến với Đức Giê-su, Người không kinh ngạc, về những thói trẻ con của chúng. Thiên Chúa nói : “Không gì đẹp hơn một em bé ngủ say trong lời cầu nguyện của nó !”. (Péguy).
Các bà các cô thuộc đủ mọi tuổi yêu mến Người. Người kính trọng các bà các cô. Nếu chúng ta kể đến các tông đồ. Chúng ta cũng phải kể đến các bà trong Tin Mừng. Người ta biết rõ không chỉ có mấy bà trong số các môn đệ của Người đâu.
Các ông, các anh yêu mến Người, Người lôi cuốn, không để cảm phục những chiến công của Người, hay vì ham muốn những kết quả của Người. Họ chỉ vì yêu mến Người mà thôi ! Họ không dám nghĩ bắt chước Người, nên giống Người. Nhưng chỉ mong tháp tùng Người, đi theo Người, khám phá trong đời sống mình con tim đã kêu gọi họ ! không để sao y con tim Người, nhưng là để chúng ta trở nên những con tim Kitô khác.
SUY NIỆM 5: TÌNH YÊU SẮT SON
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học Việt Nam qua mọi thời kỳ. Đặc biệt kho tàng văn học dân gian luôn dẫn chúng ta đến một tình yêu thanh khiết, bất tử vượt mọi thời gian.
Thanh khiết như câu thơ:
“Thuyền ai lơ lửng bên sông
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?”
Bất tử chung tình như lời thơ:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Lòng chung thuỷ của con người Việt Nam thật sắt son chung tình:
“Chừng nào cho sóng bỏ ghành
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em”.
Chắc chắn con sóng không bao giờ bỏ gành. Cù lao thì luôn ở giữa biển hay gắn liền với biển. Tình yêu cao đẹp cũng phải sắt son thủy chung như thế! Tình yêu cao đẹp sẽ luôn ở cùng nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Bất chấp gian khổ vẫn chia ngọt sẻ bùi với nhau.
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Chúng ta cũng được hưởng một tình yêu cao đẹp như thế! Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu trung tín sắt son cho dẫu phải hy sinh cả tính mạng mình vẫn dâng hiến cho người mình yêu.
Đó là tình yêu của Đức Ky-tô yêu thương nhân loại. Tình yêu Ngài thật thanh khiết, cho đi mà không cần đền trả lại. Tình yêu Ngài thật vị tha đến nỗi vẫn yêu con người ngay khi còn là tội nhân. Tình yêu Ngài trung tín sắt son, cho dẫu con người có phản bội thì Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Vì yêu mà Ngài còn hiến trao mạng sống mình đền bù tội lỗi nhân gian.
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Tâm Chúa, là dịp để chúng ta tạ ơn tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Vì yêu mà Ngài đã dốc cạn giọt máu đào để cứu chuộc chúng ta. Ngài còn yêu là yêu cho đến cùng qua mỗi thánh lễ lại tái hiện tình yêu bất diệt mà Ngài dành cho chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt mọi thời gian để đến với con người qua muôn thế hệ. Và hôm nay Ngài vẫn đong đầy tình Ngài cho chúng ta qua muôn ơn lành hồn xác. Nhất là qua các bí tích nguồn ân sủng của Chúa luôn ban sức mạnh, chữa lành và thánh hóa chúng ta.
Tạ ơn tình Ngài cũng mời gọi chúng ta họa lại tình yêu ấy nơi chính bản thân chúng ta. Một tình yêu xóa bỏ mọi ngăn cách của văn hóa, của nghi kỵ, của hiểu lầm để sống hòa thuận yêu thương nhau. Một tình yêu dâng hiến điể quên mình phục vụ tha nhân trong khiêm cung âm thầm. Xin Chúa giúp chúng ta trở nên giống như Chúa luôn yêu thương và phục vụ anh em. Amen. [Mục Lục]
SUY NIỆM 6: TRÁI TIM THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT TỘI NHÂN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu với lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa là Đấng có Trái Tim đầy lòng thương xót đối với tội nhân. Chính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu khi còn trên Thánh Giá đã bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta (Ga 19, 31-37). Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thánh hóa các linh mục. Chúng ta hãy xin với Chúa Ba Ngôi, cho Giáo hội có thêm nhiều ơn gọi thánh thiện. Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong cảnh cơ hàn. (Ca nhập lễ)
« Người ấy mừng rỡ, và vác chiên lên vai »
Đây là một hành động tuyệt đẹp phát xuất từ trái tim của người chăn chiên (mừng rỡ) khi tìm thấy chiên lạc và (vác chiên lên vai). Đoạn văn ngắn ngủi này (Lc 15, 3-7) không ngừng gây xúc động cho con người, và gợi lên nhiều ý nghĩa mới mỗi lần cho người đọc cũng như người nghe. Nó có sức nói về Thiên Chúa, đúng hơn, cho chúng ta biết khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha Đấng giầu lòng thương xót, và hơn thế nữa, Trái Tim của Thiên Chúa nhân hiền, vì yêu thương đã tạo dựng nên chúng ta và cho chúng ta có trái tim, Người cũng đau khổ khi chúng ta lầm lạc và ăn mừng khi chúng ta trở về : « Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc! » (Lc 15, 6). Dựa vào lời Chúa Giêsu, ta thấy tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa hơn : « Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải» (Lc 15, 7).
Quả thật, trái tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương! Tình thương ấy thể hiện qua sự sẵn sàng tha thứ, nhẫn nại đợi chờ tội nhân trở về, không khinh rể kẻ có tội, nhưng sẵn sàng hạ mình, cất công đi tìm kiếm, vui mừng khi tìm thấy, tha thứ và đưa chiên về đàn. Thiên Chúa đi tìm kiếm tội nhân không phải vì Thiên Chúa cần gì nơi họ, nhưng chỉ vì Thiên Chúa muốn ban phát một tình yêu vô điều kiện và chia sẻ hạnh phúc cho người Chúa yêu thương. Thiên Chúa muốn ôm ấp tội nhân vào lòng, để ngực áp ngực sao cho họ cảm nhận được nhịp đập yêu thương của Trái Tim Chúa. Một Trái Tim không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, kể cả từ chối lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Trong Trái Tim Chúa Giêsu chứa đựng nòng cốt của Kitô giáo.
Mỗi lần chiêm ngắm tượng, ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật hơn cả ngoài Trái Tim bị đâm thâu, là ngọn lửa bốc cháy, để « Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. » (Rm 5, 8). Còn có đôi bàn tay với những vết đanh. Chúng ta đặt mình trước Thánh Tâm Chúa và tự hỏi : Bàn tay con, lạy Chúa, đã làm những gì không phải, khiến bàn tay Chúa bị đanh đóng, và bàn chân con, đã bước đi những bước chẳng lành, để Chúa bị đóng đanh cả chân lẫn tay vào Thập giá? Câu trả lời, vì tội lỗi chúng ta, vì Chúa yêu thương loài người ta quá bội.
Biểu tượng tình yêu ấy đi xa hơn cái chết chính là cạnh sườn của Chúa bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Về điểm này, chứng nhân tận mắt là thánh Tông đồ Gioan đã quả quyết: « Một trong những người lính lấy đòng đâm vào cạnh sườn Người, và tức thì máu cùng nước chảy ra » (x. Ga 19,34). Lưỡi giáo của tên lính đã mở cạnh sườn Chúa, để từ vết thương máu cùng nước chảy ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi. Sau cùng, Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, bị chôn vùi để chúng ta được phục sinh.
Còn tình yêu nào ngọt ngào êm dịu hơn, đã được trao cho Hiền Thê ; đó chính là sự mở rộng vòng tay ôm chặt của tình yêu Chúa…Tình yêu tên trộm lành đã nhận được khi xưng thú tội lỗi ; Phêrô đã nhận được khi liếc mắt nhìn Chúa và khóc lóc van xin sau khi chối Chúa, đúng là từ ánh mắt đến trái tim. Có nhiều kẻ đóng đinh Chúa đã trở lại với Chúa sau khi Chúa Phục sinh, họ đã giao ước với Chúa bằng tình yêu. Khi Chúa ôm hôn những người tội lỗi và thu thuế, Chúa đã trở thành bạn hữu của họ và khách họ mời dự tiệc…
Vậy, Chúa đã làm gì để đưa họ về với Chúa, nếu không phải là Trái tim Chúa lôi kéo ? Trái tim Chúa Giêsu là Trái tim dịu hiền do Thần Linh ban tặng! Phúc cho những ai giữ kín trong lòng, họ được ấp ủ bởi Chúa, trong Trái tim Chúa, họ sẽ được Chúa vác trên vai, tránh khỏi những rắc rối ở đời này. Phúc cho những ai hy vọng vào sự ấm áp và chở che dưới cánh tay Chúa.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày cầu cho ơn thánh hóa các linh mục. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu” (số 1589).
Giáo Hội đang cần những linh mục thánh thiện; cần những thừa tác viên giúp các tín hữu cảm nghiệm lòng từ bi thương xót của Chúa và những chứng nhân đầy xác tín về tình yêu này. Xin Chúa làm cho con tim của mỗi linh mục được nồng cháy tình bác ái mục tử, có khả năng đồng hóa cái tôi của mình với cái tôi của Chúa Giêsu Linh Mục, để có thể noi gương Chúa trong sự tự hiến hoàn hảo nhất, xứng đáng là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa. Amen.
SUY NIỆM 7: NGƯỜI CHA MIỆT MÀI TÌM CON
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Năm ngoái, trên facebook, nhiều người chia sẻ hình ảnh người cha chạy xe máy, sau xe gắn tấm biển có hình và dòng chữ “Tìm con bị bắt cóc”. Sau nhiều tháng rong ruổi tìm kiếm, thông tin về đứa con vẫn bặt vô âm tín. Người cha gầy và phờ phạc đi rất nhiều so với trước đây. Anh là Lương Thế Huynh (42 tuổi) tìm con trai út 3 tuổi tên là Lương Thế Vương bị mất tích sáng 21/6/2015, tại xã Tà Nùng, Tp. Đà Lạt. Lúc xảy ra vụ việc, anh Huynh đang lúi húi sau vườn, nghe tiếng con trai kêu la nhưng nghĩ con chơi đùa với mấy con chó nên không để ý. Sau khi xong việc, anh lên nhà thì không thấy cháu Vương đâu nữa. Đến nay đã hơn một năm, với chiếc xe gắn máy cũ, anh đi khắp nơi với hy vọng tìm ra dấu vết đứa con nhỏ của mình. Cho đến nay, hy vọng tìm thấy đứa con chỉ còn rất mong manh, nhưng người cha này vẫn cứ rong ruổi khắp nơi, vào các hang cùng ngõ hẻm để tìm lại đứa con mình.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Tin Mừng Thánh Luca đã giới thiệu cho chúng ta hình ảnh một Thiên Chúa là Cha, vì yêu thương, Ngài đã lặn lội để tìm kiếm con người, bất chấp những gian nan khổ cực. Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho các biệt phái và kinh sư hôm nay nói về tình thương của Thiên Chúa dành cho các tội nhân. Khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc, trò chuyện, đồng bàn với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi, các luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu, họ chỉ trích Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã kể cho họ dụ ngôn để nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa : Ai trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho bằng được con chiên bị mất ? Chúa Giêsu muốn nói rằng : Ai trong các ông cũng sẽ hành xử như thế, huống nữa là Thiên Chúa. Việc đi tìm con chiên bị lạc là điều tất nhiên. Hiểu ngược lại, ai không hành động như thế, chắc chắn kẻ ấy là người vô cảm với chiên của mình.
Các luật sĩ và biệt phái đã để mình trở nên vô cảm trước đời sống của anh em. Họ là những người có trách nhiệm trong việc hướng dẫn người khác sống theo giới răn, lề luật của Thiên Chúa, như người mục tử chăm sóc, dẫn dắt đoàn chiên. Tuy nhiên, các luật sĩ và biệt phái chỉ lo chăm chút cho chiếc áo và những hình thức bên ngoài, họ đã để cho dân Chúa đi lạc đường, họ không cảm thấy áy náy và không cảm thấy bị thúc ép phải đi tìm đưa anh em mình trở về.
Chúa Giêsu cho thấy, việc Ngài tìm đến với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi không chỉ là trách nhiệm mà là sự thúc đẩy bởi một trái tim xót thương. Dụ ngôn cho thấy, trong mắt Thiên Chúa, mỗi người đều có giá trị và có một vị trí riêng. Vì thế, dù chỉ một con chiên đi lạc thôi, Thiên Chúa cũng không thể làm ngơ, Ngài dám liều mình để lại chín mươi chín con khác trong hoang địa để đi tìm con chiên bị lạc. Như người mục tử, Thiên Chúa cất bước đi tìm con chiên bị lạc. Vì khi bị lạc như thế, nó vô cùng hoảng sợ và gặp nhiều nguy hiểm. Nó sẽ bị sa chân trật bước, có thể bị rơi xuống vực sâu hoặc kẹt trong vách đá, cũng có thể bị thú dữ bao vây cắn xé. Hình dung được nỗi sợ hãi và tâm trạng của con chiên đi lạc, mục tử Giêsu đã không quản ngại nắng gió vất vả, cũng không ngại đường xá cheo leo trắc trở để đi tìm con chiên như tìm chính đứa con bị thất lạc.
Lý do con chiên đi lạc, có thể vì nó la cà mải mê với những thú vui ven đường nên bị rớt lại khỏi đàn. Nhưng nhiều khi nó đi lạc là vì những con chiên khác trong đàn đã hắt hủi nó, loại trừ nó, coi nó như đồ thừa trong đàn. Vì thế, nó cứ lẽo đẽo theo đàn mà không được sự khích lệ của các con chiên khác, khiến nó ngày càng xa đàn rồi bị lạc đàn. Hiểu được tâm trạng con chiên đi lạc, trái tim của người mục tử Giêsu đã hết sức cảm thông với nó. Khi tìm được con chiên, Ngài không trách nó, cũng không hỏi nó tại sao. Ngài chỉ thấy điều nó cần lúc này là cái ôm nồng ấm cảm thông. Vì thế khi tìm được con chiên, người mục tử đã ôm nó vào lòng, vác nó trên vai và đưa nó trở về với đàn. Trái tim và tâm hồn của mục tử Giêsu đối với con người tội lỗi của chúng ta là như thế.
Lòng thương xót từ trái tim Chúa luôn tuôn trào sự cảm thông, tha thứ. Ngài chấp nhận bước trên gai góc, vượt qua dốc đá cheo leo, băng qua vực đèo nguy hiểm để tìm gặp chúng ta là con, là chiên của Chúa. Chúa Giêsu không hề đưa ra bất cứ điều kiện nào, cũng không đặt một tiêu chuẩn nào. Ngài yêu chúng ta hoàn toàn bằng sự thúc đẩy của trái tim, mà trái tim thì luôn có những lý lẽ riêng của nó, không thể hiểu hết được. Ngài chỉ mong đợi nơi chúng ta một điều, là hãy ngoan ngoãn để cho Ngài ôm vào lòng, để cho Ngài vác trên vai đem chúng ta trở về.
Chúa Giêsu còn diễn tả sự vui mừng của Ngài và của cả Triều thần Thiên quốc khi đón nhận một người tội lỗi hối cải. Người mục tử khi tìm được con chiên bị lạc, ông vui mừng về báo tin cho mọi người và mời mọi người đến dự tiệc : Xin hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Chúa Giêsu kết luận : Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. Trong trái tim của Thiên Chúa, không ai bị bỏ rơi, không ai bị loại ra ngoài, dù chỉ là một người, thì người ấy vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được yêu thương và tôn trọng.
Thư Roma trình bày tình yêu của Thiên Chúa ở mức độ cao hơn, sâu hơn nữa. Thánh Phaolô diễn tả : Ngay khi chúng ta chưa tin Chúa, thì Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu chết để cứu chuộc chúng ta. Dù khi chúng ta chưa biết, chưa tin, chưa yêu Ngài, thì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Nay, Ngài đã cho Con của Ngài chết thay cho chúng ta. Đến con ruột của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, đã trao tặng cho chúng ta, thì không có lẽ gì mà Ngài lại không yêu thương ta, là những kẻ được Ngài cứu chuộc, đem vào lòng và nhận làm con của Ngài.
Mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa tình yêu, tôn thờ một trái tim vĩ đại của một người cha, một tâm hồn chạnh thương của một mục tử, một trái tim bao dung và đầy tràn lòng thương xót của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên ngoan ngoãn và sẵn sàng để cho mục tử Giêsu ôm ta vào lòng và vác ta trên vai. Chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương bao dung của Thiên Chúa để không bao giờ cố tìm cách trốn tránh ánh mắt yêu thương của Chúa, nhưng sẵn sàng mở tâm hồn và thành tâm để cho Chúa yêu thương, tha thứ và chữa lành vết thương trong tâm hồn ta.
Được Chúa xót thương tìm kiếm và tha thứ, được Chúa thông cảm và yêu thương, chúng cần phải mang trái tim của Chúa, biết chạnh thương với anh chị em chung quanh. Đừng bao giờ cố tình hay quá vô tình hắt hủi, xua đuổi, hoặc vì quá khắt khe, nghi kị, thiếu cảm thông khiến cho anh em mình phải xa đàn đến độ lạc đàn bỏ Chúa, bỏ Giáo hội. Hãy dùng ngôn ngữ và hành động do sự thúc đẩy của trái tim yêu thương để đối xử với nhau trong gia đình, với xóm giềng. Đừng để trái tim của mình trở lên lạnh lùng vô cảm hoặc khô cứng trước những nỗi đau của anh chị em.
Hôm nay cũng là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục. Ảnh hưởng của vật chất, khoa học công nghệ, đã biến một số linh mục trở nên như những người máy, vô hồn, vô cảm. Nếp sống tiêu cực của xã hội cũng đang ảnh hưởng trên các linh mục, khiến cho một số linh mục không còn là hình ảnh rõ nét của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúng ta cầu nguyện thật nhiều cho các linh mục luôn biết để cho Chúa Giêsu huấn luyện, uốn nắn để các ngài trở nên giống Chúa Giêsu mục tử hơn. Xin cho các linh mục có được trái tim, đôi mắt và tâm hồn chạnh thương của Chúa, để các Ngài không mệt mỏi yêu thương, phục vụ và tìm kiếm dân Chúa. Amen.
SUY NIỆM 8: NGUỒN THƯƠNG XÓT
Trầm Thiên Thu
Trong thời gian từ 1968-1969 , Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý). Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài đã xác định: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (Marguerite Marie Alacoque, 1647-1690), một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial (Pháp quốc), Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675 – có thể là ngày 16 tháng Sáu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được lòng biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Chúa Giêsu đã yêu cầu Thánh nữ vận động thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Thương Xót, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước – như đã được mặc khải cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (còn gọi là Thánh Faustina Thánh Thể, OLM, 1905-1938).
Ai cũng có tim nhưng không ai thấy tim. Mặc dù tim không nhìn thấy nhưng khả dĩ cảm nhận, và tim là một cơ phận rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là còn sống. Tim hoạt động âm thầm nhưng nuôi sống cả cơ thể. Mặc dù não là trung tâm điều khiển – ví như bộ tổng tham mưu, nhưng vẫn phải nhờ tim bơm máu. Người ta có thể chết lâm sàng chứ chưa chết thật bởi vì tim còn hoạt động, dù nhịp đập rất yếu. Những người bị chứng bại não, sống đời thực vật, không biết phân biệt điều gì, nhưng họ vẫn sống nhờ tim vẫn hoạt động. Chừng nào tim ngừng đập thì sự sống mới chấm dứt!
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.
Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài, không chỉ ghé thăm mà ở lại đó mãi mãi: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Ước gì mỗi chúng ta biết tìm về nghỉ ngơi nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu – Cao Nguyên Yêu Thương và Đại Dương Thương Xót!
Ơn cha mẹ mà chúng ta đáp đền cả đời còn chưa cân xứng huống chi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Nhưng thật là diễm phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32). Ngài đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất (Lc 19:10), chỉ cần chúng ta tin vào tình yêu cao cả của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng. Chỉ có chúng ta rời bỏ Chúa chứ Chúa không bao giờ rời xa chúng ta!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi ngôn sứ Êdêkien để mặc khải Thánh Ước: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được” (Ed 34:11-13). Đó là lời hứa chắc chắn, vì Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong mọi lời nói và mọi việc làm. Thật tuyệt vời!
Hồng ân nối tiếp hồng ân, Ngài lại tiếp tục thề hứa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34:14-16). Thật hạnh phúc khi được nương bóng cánh của vị mục tử như vậy! Nhưng lại thật bất hạnh nếu chúng ta cố chấp, như Chúa đã cảnh báo: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu (Mt 23:37; Lc 13:34).
Nếu thực sự có niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta khả dĩ tự nhủ và xác định với mọi người điều này: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1), và có thể tự hào nói: “Chúa là gia nghiệp đời tôi” (Tv 16:5). Đó cũng là một cách tuyên xưng Lòng Chúa Thương Xót.
Nói về đức tin, Thánh Phaolô giải thích rạch ròi: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy (Rm 5:2-4). Quả thật, đây là một chuỗi hệ lụy vô cùng kỳ diệu!
Còn nữa, và cũng để cho chúng ta an tâm, thánh nhân tiếp tục giải thích “dài hơi” thêm một chút: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Rm 5:5-9).
Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, hết lòng yêu thương muôn loài, đặc biệt là những kẻ xấu xa nhất, thậm chí Ngài còn chết vì họ – tức là chúng ta. Theo thế gian, cách yêu như vậy bị coi là mù quáng, ngu xuẩn, điên rồ,… Chắc hẳn chỉ có người điên mới hành động như thế. Vậy mà Chúa Giêsu đã yêu như thế. Nếu Ngài không “yêu điên rồ” như vậy thì chúng ta làm sao có được ngày nay?
Quả nhiên là vậy, “nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Ngài, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5:10). Mà không phải chỉ có thế, Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5:11).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 15:3-7) khá ngắn gọn, chỉ có 128 từ (theo bản dịch Việt ngữ, bản của VietCatholic). Đoạn Tin Mừng này là một trong các dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót.
Một hôm, nhóm Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Những người Pharisêu và các kinh sư là ai? Đó là những nhà thông luật, giữ luật nghiêm túc hơn người, giỏi giang hơn người, đạo đức hơn người, nói năng lưu loát hơn người, sang trọng hơn người, địa vị hơn người, quyền lực hơn người,… thậm chí có thể có ngoại hình “dễ nhìn” hơn người và giàu có hơn người, nhưng cũng hợm hĩnh, ỷ lại, hống hách và kiêu ngạo hơn người. Ngày nay người ta gọi dạng đó là “chảnh”. Nói chung, cái gì ở họ cũng hơn người ráo trọi!
Nhóm Pharisêu và các kinh sư kia cũng chẳng ai xa lạ, tức là chính chúng ta ngày nay, chứ chẳng ai trồng khoai đất này đâu!
Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Vậy, tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Người ta luôn thấy những “cái lạ” ở Chúa Giêsu, và người ta cảm thấy khó chịu. Vâng, Ngài lại gây “sốc” vì nói điều “nghịch nhĩ” quá! Ngài “điên” thật rồi! Có 99 con chiên béo tốt mà dám bỏ để cố gắng đi tìm duy nhất con chiên yếu đuối, bệnh hoạn, xấu xí,… Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi! Nhưng cũng chính nhờ cách “yêu điên” ấy của Chúa Giêsu mà chúng ta mới được phục hồi cương vị làm con và đồng hưởng thừa kế gia sản Nước Trời đấy!
Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997, MC – Missionaries of Charity, Thừa Sai Bác Ái, sẽ được tuyên hiển thánh ngày 4-9-2016) xác định “chuỗi hệ lụy” rất kỳ diệu: “Kết quả của IM LẶNG là CẦU NGUYỆN, kết quả của CẦU NGUYỆN là ĐỨC TIN, kết quả của ĐỨC TIN là TÌNH YÊU, kết quả của TÌNH YÊU là PHỤC VỤ, kết quả của PHỤC VỤ là BÌNH AN”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, con thành tâm xin lỗi Ngài vì con đã thường xuyên quên Ngài, thế nhưng Ngài vẫn không ngừng thương xót con, mặc dù con chẳng là gì và hoàn toàn bất xứng. Xin giúp con nhận biết Chúa và nhận biết chính con, nhờ đó con có thể yêu mến Ngài trọn vẹn. Xin ân thương và tha thứ những thiếu sót của con, lạy Đấng giàu lòng thương xót, và xin dạy con biết cách “yêu điên” của Ngài. Xin Nước và Máu Thánh Ngài tẩy rửa cuộc đời con, và xin cho con cũng được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài, hôm nay và mãi mãi. Ngài là Đấng hằng sống, hiển trị cùng Chúa Cha và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.
SUY NIỆM 9: SUY NIỆM LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU
Lm. Anthony Trung Thành
Đầu tháng 6 năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp, dân chúng tỉnh Maseilles bàn bạc với nhau để dâng cho nhà vua một lễ vật cho có ý nghĩa. Và hôm ấy, khi vua đến, dân chúng đều tụ tập đông đủ. Họ đề cử một cô thiếu nữ dâng lên nhà vua một quả tim bằng vàng. Bên trong quả tim có ngành bông huệ kết bằng kim cương rất quí, là biểu tượng của các vua nước Pháp, và có khắc mấy hằng chữ: “Đây là bằng chứng toàn dân tỉnh Marseilles yêu mến vua Louis, và họ luôn đặt vua trong trái tim họ”. Nhận lễ vật và đọc thấy dòng chữ trên, vua Louis hết sức cảm động. Nhà vua cũng đặt tay lên trái tim và nói: “Đây là bằng chứng vua Louis yêu thương Quốc dân Pháp, và luôn đặt họ trong trái tim vua”.
Câu chuyện trên rất ăn hợp với quan niệm người xưa rằng:
Trái tim biểu hiện tình yêu
Tình yêu phát xuất theo chiều trái tim
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng tình yêu. Tôi không biết nguồn gốc có từ bao giờ? Vì sao người ta lại lấy trái tim làm biểu hiện tình yêu? Có lẽ trái tim là trung tâm của cơ thể con người. Trái tim có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn bộ cơ thể. Trái tim không còn bơm máu, cơ thể sẽ khó thở. Trái tim ngừng đập, con người coi như đã chết. Vì vậy, trái tim có một tầm quan trọng đối với cơ thể con người. Từ đó, người ta thường dùng từ ngữ “Trái tim” để diễn tả tình yêu.
Có lẽ cũng vì lý do đó mà khi tỏ mình ta cho Thánh Margarita Maria Alacốc, Chúa Giêsu đã cho Thánh nữ được xem thấy Trái tim của Ngài. Và để diễn tả tình yêu, Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ rằng: “Đây là Trái tim đã thương yêu loài người vô cùng. Không tiếc gì với họ”.
Thật vậy, Trái tim Chúa Giêsu đã thương yêu chúng ta vô cùng. Đó là Trái tim nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, tha thứ và hy sinh tất cả không tiếc gì với chúng ta.
Trái tim nhân hậu. Ngài quan tâm hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Ngài quan tâm đám đông vì họ bơ vơ không có gì ăn nên đã hoá bánh ra nhiều nuôi họ(x. Mc 8,1-10). Ngài “chạnh lòng thương” trước đám tang người con trai duy nhất của bà goá thành Naim nên đã làm cho chàng sống lại(x. Lc 7,11-17). Ngài đã thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Maria khóc thương Lazarô nên Ngài đã cho Lazarô sống lại (x Ga 11,1-45). Ngài đã chữa lành nhiều bệnh tật, xua trừ ma quỷ: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế”(x. Cv 10,38).
Trái tim khiêm nhường. Chính Ngài đã tuyên bố : “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Khi các tông đồ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Chúa Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và dạy cho các ông bài học khiêm nhường: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”(x. Lc 9,47-48). Nơi khác, trong một bữa tiệc, Chúa Giêsu thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, Ngài đã lên tiếng dạy họ rằng “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11). Sự khiêm nhường được thể hiện rõ ràng nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong giờ tiệc ly (x. Ga 13,1-20).
Trái tim biết cảm thông và tha thứ. Ngài cảm thông sâu sắc với những người tội lỗi. Ngài đã đến cùng ăn cùng uống với họ để có thể cảm hoá họ trở về nẻo chính đường ngay.
Với Maria Mađalêna. Cuộc sống quá khứ đầy tội lỗi. Con một gia đình phú quý sang trọng. Sau khi Cha mẹ qua đời, cô được hưởng một gia tài kếch xù. Với gia tài lớn lao này, cô đã sống sa đoạ, truỵ lạc đến nỗi trở nên nô lệ cho ma quỷ. Mađalêna đã được Chúa cảm thông. Chúa chữa cô khỏi bảy quỷ. Chúa tha thứ tội lỗi cho cô. Sau khi sống lại, Chúa còn hiện ra với cô để trao sứ mệnh loan báo tin mừng phục sinh.
Với người phụ nữ ngoại tình. Chị bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Luật Môisê qui định tội này là tội chết. May mắn thay, chị gặp được Đức Giêsu. Ngài đã cứu chị một bàn thua trông thấy. Ngài tha thứ cho chị. Ngài không kết án: “Ta không kết án chị đâu” (Ga 8,11). Ngài muốn cho chị có cơ hội làm lại cuộc đời “chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với ông Giakêu, Mathêu là những người thu thuế. Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi người thu thuế là người phản đạo và phản quốc. Họ thuộc hạng tội lỗi ngang hàng với gái điếm, người ngoại và người Samari. Bốn hạng người này bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông và cách ly, không ai được phép quan hệ với họ. Thế mà, Chúa Giêsu đã kêu gọi Mathêu, chọn ông làm tông đồ. Mặc cho nhiều người chỉ trích “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào”, Chúa Giêsu vẫn chủ động mời ông Giakêu xuống khỏi cây sung và đến viếng thăm nhà ông. Qua cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã tạo ra một sự biến chuyển lớn lao trong cuộc đời của Giakêu. Ông hoán cải và thay đồi toàn diện đời sống. Bằng chứng là ông đã đứng lên thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,.8).
Với Phêrô, vị tông đồ trưởng. Chúa gọi ông. Chúa ưu ái ông. Thế mà, Phêrô chối Chúa ba lần. Phêrô khóc vì hối hận. Chúa tha cho Phêrô. Chúa còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21, 15-16), tức là làm đầu Hội Thánh, vị giáo hoàng tiên khởi.
Với người trộm lành. Ông đã từng đi đàng tội lỗi lâu năm. Vì những trọng tội mà xã hội Do thái phải trừng phạt ông bằng cực hình đóng đinh. Nhưng ông đã nhận biết tội lỗi mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với ông: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 42,43). Chúa đã tha thứ tội lỗi cho ông và cho ông vào thiên đàng ngay hôm đó.
Trái tim hy sinh. Chúng ta thấy rõ điều này nơi dụ ngôn người đàn bà bị mất đồng bạc và dụ ngôn con chiên đi lạc. Hình ảnh người đàn bà thắp đèn, quét nhà để tìm đồng tiền bị đánh mất, hình ảnh người chăn chiên trèo đồi lội suối đi tìm con chiên lạc nói lên sự hy sinh của Thiên Chúa đi tìm tội nhân. Dù chỉ một đồng bạc bị mất, dù chỉ một con chiên đi lạc thì Thiên Chúa vẫn cố tìm cho bằng được, Ngài không muốn một ai bị hư mất. Đó là bằng chứng nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể nơi Trái tim Chúa Giêsu. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu bằng việc hy sinh tính mạng của mình làm của lễ đền thay tội lỗi chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu vẫn tiếp tục được lan toả mỗi ngày trong Giáo hội nơi các Bí tích, đặc biệt là nơi Bí tích Giải tội và Thánh Thể. Vì yêu thương Chúa đã ẩn mình trong hình bánh rượu làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Vì yêu thương Chúa đã lập nên bí tích Giao hoà để tha tội cho chúng ta. Mỗi lần tội nhân đến với bí tích giao hoà với lòng thống hối ăn năn tội sẽ được tha thứ.
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa vẫn được tiếp tục nơi các thành phần của Hội Thánh. Gương của Thánh Maximilianô Kolbe, chết thay cho người tử tù. Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho anh Agca. Gương hy sinh của Giám Mục Oscar Romero, vừa được Giáo hội phong chân phước ngày 23 tháng 05 vừa qua. Ngài đã lên tiếng tố cáo tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên. Ngài can đảm tìm mọi cách để đứng về những người vô gia cư, đói rách và bị hành hung. Thế rồi, Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/03/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nẩy lửa của mình. Cái chết của Ngài là cái chết vì tình yêu. Đó là một tình yêu hy sinh.
Trong chuyến viếng thăm Sarajevo, ở Bosnia, Đức Phanxicô nghiêng mình trước các chứng nhân bị bách hại vì đức tin. Đức Phanxicô đã không giấu được sự xúc động sâu xa của mình khi nghe các chứng nhân trình bày. Cha Zvonimir Matijević nói với Đức Giáo Hoàng rằng ngài bị bắt, bị tra tấn đến gần chết. Những trận đòn chí tử năm xưa giờ đây đã tiến triển sang nhiều hình thức bại liệt, như một thánh giá ngài sẽ mang hết cuộc đời. Tuy nhiên, ngài nói ngài cảm thấy hạnh phúc được là một linh mục của Giáo Hội Công Giáo và hết lòng tha thứ cho những ai làm hại ngài – với hy vọng họ sẽ hoán cải sang một con đường của lòng nhân hậu. Đây đúng là một tình yêu tha thứ.
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta biến quả tim mình thành quả tim yêu thương, nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, hy sinh và tha thứ. Nhờ đó, tình yêu Thánh Tâm Chúa không chỉ được tiếp tục nơi một số người mà lan toả ra nơi mọi người. Để thế giới này không còn chỗ của ghen ghét oán thù nữa mà tràn ngập tình yêu thương như lời của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.
“Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa!
Xin đừng để con khép kín tâm lòng mình bao giờ!
Xin cho con trái tim quảng đại như Chúa,
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con lướt thắng mọi oán hờn nhỏ nhen,
và mọi thù hằn ti tiện!
Xin cho con luôn luôn bình an tươi sáng,
không một biến cố nào làm con bất ổn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con!
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng bối rối khi bị chỉ trích chê bai.
Xin cho con trái tim đủ lớn để có thể yêu cả người thù địch.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm hết tất cả mọi người trong tình yêu Chúa. Amen!
(Rabbouni, Lời Kinh đẹp nhất Thiên Niên Kỷ, trang 94)
SUY NIỆM 10: TÌNH YÊU LỆ THUỘC
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, thánh sử Lu-ca ghi nhận ba câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đã kể: đi tìm chiên lạc, tìm kiếm đồng bạc bị mất, và chờ đón người con đi hoang trở về. Tôi trộm gọi ba dụ ngôn trên như thế (không theo lối gọi truyền thống) vì bị ấn tượng sâu sắc bởi lòng thương xót rất con người của Thiên Chúa, theo cách diễn tả của chính Đức Giê-su.
Thường thì khi nói tới lòng thương xót, ta vẫn ít nhiều có cảm nghĩ: đó là một thái độ nhân nhượng quan tâm của một kẻ bề trên, một hành vi thi ân ban phát ân huệ cho người bất hạnh, xấu số. Thế nhưng đọc kỹ ba câu chuyện dụ ngôn trên ta mới nhận ra cả ba đều có chung một nét: lòng thương xót có vẻ như đặt Thiên Chúa dưới cả con người tội lỗi: Thiên Chúa xót thương không những cần tới, mà còn gần như lệ thuộc vào các người tội lỗi nữa là đàng khác.
Từ trong đời thường ta cũng có thể suy ra: cuộc sống người chăn cừu ít nhiều lệ thuộc vào đàn vật của mình. Do đó hành động lên đường lặn lội đi tìm con chiên lạc của ông cũng dễ hiểu thôi: vì nhu cầu cuộc sống của chính ông. Ông cần tới con chiên đó, nói cách khác, đời sống của ông phần nào lệ thuộc vào con chiên đi lạc kia. Nếu đã dám nói như thế, ta cũng dám đi tới kết luận là: người chăn chiên đi tìm chiên lạc, không phải chỉ vì ‘thương’ nó, mà còn là vì nhu cầu sống của chính ông. Dụ ngôn về người đàn bà tìm kiếm đồng bạc bị mất càng cho thấy rõ hơn điều này: bà cần tiền chứ không thương đồng tiền… Tôi vẫn cảm thấy e dè khi dám có trong đầu tư tưởng rằng: chính Thiên Chúa cần tới con người tội lỗi trước cả khi người tội lỗi cần đến Người. Suy nghĩ thông thường vẫn là: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì con người tội lỗi phải chạy tới lòng thương xót đó. Rất ít ai dám nghĩ rằng: Chúa xót thương lại chủ động đi tìm kẻ tội lỗi trước để đưa họ về; thế nhưng đó lại chính là điều Tân Ước nhiều lần minh xác: ‘Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước’ (1 Ga 4:19). Tôi thấy sợ phải xác quyết điều này vì hình như nó quá xúc phạm tới sự cao cả, sung mãn của Thiên Chúa! Thần học kinh điển đã từng dạy tôi rằng: tình yêu của Thiên Chúa là hoàn toàn vô vị lợi (gratuitous) hiểu theo nghĩa Người ban phát mà không đòi hỏi bất cứ một điều kiện tiên quyết nào. Thế nhưng rõ ràng còn hơn cả thế nữa! Đức Giê-su cho thấy: tình yêu đó không đòi hỏi gì nơi con người nhưng lại đòi hỏi chính Thiên Chúa: người bệnh cần thầy thuốc là lẽ đương nhiên, nhưng chính thầy thuốc cũng cần tới bệnh nhân, vì nếu không có con bệnh, ông không thể là thầy thuốc. Trong tình yêu kể cả tình yêu nhân ái, lệ thuộc vào nhau là một yếu tính thực sự!
Hiểu như thế tôi mới thấy: các chi tiết dầu nhỏ nhất trong dụ ngôn đi tìm chiên lạc lại mang một ý nghĩa vô cùng to lớn: người mục tử tạm ‘bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang, để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Tìm được rồi người ấy mừng rỡ…’ Tìm cho bằng được và mừng rỡ khi tìm thấy, đó là thái độ tiêu biểu đối với những gì thiết thân hay thiết nghĩa! Đức Giê-su long trọng khảng định một điều không ai hiểu nổi: “tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Phải, nếu thiên đàng, theo lối suy nghĩ tự nhiên, là phần thưởng dành riêng cho những người công chính và thánh thiện, nơi mà Thiên Chúa cao sang vinh hiển ân thưởng những người dầy công nghiệp, thì thiên quốc chắc hẳn phải hoan hỷ đón mừng chủ yếu các bậc thánh hiền, đạo sĩ. Hạng tội nhân sám hối may mắn lắm, thì cũng chỉ được dành cho một xó xỉnh nào đó là cùng. Nhưng huyền nhiệm thay! Nước Trời của Đức Giê-su lại là chốn Thiên Chúa nhân ái và thương xót ngự trị. Vì thế vinh quang Nước Trời sẽ gia tăng mỗi khi lòng thương xót được dịp tỏa sáng trên các tội nhân là hợp lý. Nói cách khác: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì vương quốc của Người lại cần tới, lại lệ thuộc vào số các tội nhân sám hối gia nhập để nhờ đó lòng thương xót càng được tỏ lộ. Và còn triệt để hơn nữa khi ta dám kết luận: sự thánh thiện trọn lành của Ki-tô hữu (hiểu theo nghĩa tu thân tích đức) sẽ không đóng góp gì nhiều cho vinh quang Thiên Chúa nếu như nó không phát xuất từ lòng khiêm nhường chân thành ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Người. Nói cách khác, sẽ không có sự thánh thiện Ki-tô hữu đích thực nếu thiếu khiêm cung đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa nhân ái trao ban trong Đức Ki-tô Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi đi vào tương quan tình yêu quá thần linh mà cũng quá nhân loại này; thần linh: vì nét độc đáo (vượt quá mọi trí hiểu) mà chỉ có Đức Giê-su mới phác họa lên được, nhân loại: vì nó quá gần gũi với thân phận thấp hèn của con người. Thiên Chúa tình yêu mà lại lệ thuộc vào sự thấp hèn của kiếp sống con người sao? Phải! chính vì thế và điều duy nhất mà cuộc trao đổi tình yêu này đòi hỏi không gì khác hơn là lòng khiêm nhường sâu thẳm, khiêm tốn nhìn nhận thân phận thấp hèn của mình. Phải chăng chính Đức Giê-su đã mời gọi ta khai trác triệt để điều này, khi muốn ta hãy học cùng Người một bài học duy nhất: “Hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29)! Do đó, Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi khai thác triệt để các lỗi tội mình phạm, để biến nó thành vinh quang của lòng Chúa thương xót vô bờ bến.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin cho con được cảm nghiệm thứ tình yêu lệ thuộc mà Chúa đã mô tả. Xin cho con được cùng toàn thể thiên quốc vui mừng vì một tội nhân sám hối. Trước mắt, xin cho con biết vui mừng mỗi khi ban phát tình yêu tha thứ của Chúa, nhất là trong bí tích Giải Tội. Về phần mình, trước những lỗi phạm và yếu đuối riêng tư, xin cho con xác tín rằng: hơn bất cứ ai khác, Chúa đang khát khao được dịp thi thố lòng xót thương và thứ tha. Xin cho con được cảm nghiệm như Phao-lô, niềm tự hào chân chính về những yếu đuối, sa ngã của mình. A-men.
SUY NIỆM 11: “TÌM CHO KỲ ĐƯỢC CON CHIÊN BỊ MẤT”
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại một dụ ngôn thật nhỏ bé do chính Người kể lại, dụ ngôn «Con chiên bị mất». Dụ ngôn thật «nhỏ bé» nhưng có năng lực diễn tả và đánh động lòng chúng ta, điều thật «lớn lao», đó là Thánh Tâm Chúa, là LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, là tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giê-su Ki-tô, là tình yêu đến cùng mang lấy hình hài Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Đức Giê-su và những người tội lỗi
Vào thời của Đức Giê-su, có những người bị coi là tội nhân một cách công khai : vì họ có một thứ nghề nghiệp bị mọi người coi là xấu, chẳng hạn nghề thu thuế như ông Gia-kêu, hoặc vì họ có đời sống luân lí không tốt, chẳng hạn người phụ nữ bị mọi người coi là «người tội lỗi trong thành» (Lc 7, 37) hay vì họ không giữ những nghi thức hay qui định đạo đức, chẳng hạn các nghi thức thanh tẩy, ăn chay, ngày sa-bát…. Họ bị mọi người khinh chê, nhất là các người Pha-ri-sêu và luật sĩ.
Ngày nay, người ta không còn tùy tiện dán nhãn tội nhân vào người này người kia nữa, nhưng sự khinh chê vẫn còn nguyên, trong cung cách ứng xử giữa người với người. Thật vậy, chúng ta vẫn còn khinh chê nhau, vì sự yếu kém, nhỏ bé, giới hạn, thiếu khả năng, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình xã hội, ngoại hình… Thân phận làm người tự nó đã nặng nề, nhưng thay vì gánh vác cho nhau hay làm cho nhẹ đi, chúng ta lại luôn tìm cách chồng chất thêm cho nhau hay tự làm cho thân phận của mình nặng thêm. Thánh Phao-lô trong thư Roma chấn vấn chúng ta: «Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa… Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em?» (Rm 14, 8.10).
Chúng ta hãy trở lại với bối cảnh của của dụ ngôn «Con chiên bị mất» (c. 1-2), nhìn ngắm cách Đức Giê-su đón tiếp những người tội lỗi, những người yếu kém, những người nhỏ bé: họ đến để lắng nghe Ngài; và Ngài không chỉ đón tiếp họ, nhưng còn dùng bữa với họ. Đón tiếp và dùng bữa với ai, đó chính là làm bạn, thậm chí trở nên một với người đó. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh Đức Giê-su ở giữa những người tội lỗi, bởi vì hình ảnh này rất đánh động và an ủi đối với chúng ta.
Trong Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục ban lời của Ngài cho chúng ta, vốn là những người tội lỗi, yếu kém và nhỏ bé, và còn hơn cả việc dùng bữa với chúng ta, Ngài tự biến thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống hôm nay và sự sống muôn đời.
Kinh nghiệm được đón tiếp bởi Đức Giê-su, khi mà chúng ta vẫn còn là tội nhân, yếu kém và nhỏ bé, chính là động lực để chúng ta cũng có thể đón tiếp người khác, như họ là. Kinh nghiệm này cũng làm cho có thể ra khỏi chính mình để đi vào niềm vui lớn lao của Thiên Chúa và các Thiên Thần của Ngài trên trời.
«Con chiên bị mất»
Để thay đổi hình ảnh lệch lạc của chúng ta về thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân, và để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là còn ngài kết bạn với họ, Đức Giê-su kể «một hơi» ba dụ ngôn: dụ ngôn con chiên, dụ ngôn đồng bạc và dụ ngôn người cha có hai người con (Lc 15, 4-32). Và trên Thập Giá, Ngài còn đi xa hơn, khi để cho mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu chết giữa các tội nhân.
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu tiên, nhưng chúng ta nên hiểu cả ba dụ ngôn cùng nhau, vì các dụ ngôn soi sáng cho nhau và nêu bật khía cạnh đặc biệt của mỗi dụ ngôn. Thật vậy, ba dụ ngôn có một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý : 100 con chiên trong đó có một con bị mất ; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư mất. Như thế, xét về con số, sự mất mát càng lúc càng lớn : một trên một trăm, một trên mười và một trên hai ; hơn nữa, xét về điều bị mất, ban đầu là con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người con thì vô giá.
Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất mát càng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng ; trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.
Chính vì thế, logo của Năm Thánh Lòng Thương xót vừa đến từ dụ ngôn «Con chiên bị mất» qua hình ảnh vác trên vai, vừa đến từ dụ ngôn «Người con hoang đàng», qua hình ảnh con người được mang vác, thay vì con chiên, vừa diễn tả Đức Ki-tô, qua bàn tay in dấu đinh, vừa diễn tả căn tính thần linh của Đức Ki-tô «Ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót), qua lời mời gọi “THƯƠNG XÓT NHƯ CHÚA CHA”
Tuy nhiên, cả ba dụ ngôn có một sứ điệp khác đánh động chúng ta không kém : đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta, như thể, chúng ta là duy nhất, là quí nhất là yêu nhất, trong con mắt của Chúa. Và dụ ngôn đầu tiên làm bật lên sự điệp này một cách rạng ngời nhất: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. (c. 4)
Dụ ngôn đến từ đời thường, nhưng một khi thốt ra từ miệng Đức Giê-su, lại chứa đựng nhiều điều bất thường (tương tự như các dụ ngôn khác):
(1) Bỏ chín mươi chín con lại nơi đồng hoang; (2) Vác con chiên lạc trên vai, khi tìm thấy ; (3) và niềm vui quá lớn và lan tỏa, so với con chiên nhỏ bé được tìm lại, như thể đó là con chiên duy nhất, và như thể chín mươi chín con kia không hiện hữu ! Ba điểm bất thường diễn tả cho chúng ta một cách tuyệt vời về tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Tâm Chúa Giê-su muốn diễn tả:
– Thiên Chúa quan tâm đến từng người chúng ta, như thể mỗi người chúng ta là duy nhất. Đó chính là đặc điểm của tình yêu, nghĩa là tương quan giữa một ngôi vị với một ngôi vị. Và chỉ khi, có một con chiên đi lạc, đặc điểm này mới được tỏ lộ ra. Vì thế, kinh nghiệm «đi lạc» sẽ là cơ hội giúp chúng ta nhận ra đặc điểm này của tình yêu Thiên Chúa!
– Người mục tử không trách móc, la mắng xử phạt, giống như người cha chạy ra ôm người con trở về «hôn lấy hôn để» (x. Lc 15, 20). Bởi vì sự hiện diện của người con «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy (c. 24), là tất cả và là dư đủ để lất át tất cả, bù đắp tất cả và làm cho hi vọng1. Đó là bởi vì, tình yêu luôn đi đôi với bao dung tha thứ. Đặt vào trong bối cảnh của dụ ngôn, người tội lỗi được tượng trưng bởi hình ảnh con chiên đi lạc. Điều này thật an ủi cho chúng ta, vì dưới mắt Chúa, chúng ta là những con chiên đi lạc, phải đi tìm về cho kì được, và Thiên chúa đi tìm mỗi người chúng ta nơi Đức Giê-su. Chúng ta hãy nhìn mình như là Chúa nhìn; và chúng ta hãy là con chiên đi lạc mong được tìm thấy và được mang về. Thay vì tự biến mình thành con dê nổi loạn, con sói phá hoại.
– Tình yêu bao dung tha thứ mang lại niềm vui, và niềm vui lan tỏa sang nhiều người, sang tất cả mọi người, trên trời cũng như dưới đất.
* * *
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành đích thân cho từng người chúng ta như là « Đối Tượng Duy Nhất » trong Đức Ki-tô, để chúng ta có thể yêu mến Người như là « Đối Tượng Duy Nhất » của lòng trí chúng ta. Và thực vậy, dù chúng ta là ai, ở trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là:«Người môn đệ Đức Giê-su thương mến», vì chúng ta xác tín cùng với thánh Phao-lô rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Rm 8, 38-39)
Thánh Tâm Chúa Giê-su
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su có nguồn gốc nơi biến cố cạnh sườn của Đức Giê-su bị đâm thâu và từ đó, tuôn trao ra nước và máu (x. Ga 19, 34). Nhìn ngắm biến cố sau cùng này của cuộc Thương Khó, các Giáo Phụ nhận ra nơi đó sự khai sinh ra các bí tích của Hội thánh, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể:
Lạy Chúa Ki-tô, … xin Máu thánh Chúa làm cho con say mến… Xin nước bởi cạnh sườn Chúa rửa con cho sạch… Xin cất dấu con trong các vết thương của Chúa. (Kinh Anima Christi)
Không có lòng sùng kính nào có tính cách bắt buộc, ngay cả khi được Giáo Hội khuyến khích. Chúng được đề nghị thực hành trong mức độ chúng giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến và phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta. Tuy nhiên, phải nói rằng, những hình vẽ “Trái Tim rất thánh”, có từ thế kỷ XVII, xem ra không còn phù hợp với cảm thức của chúng ta ngày này. Nhưng, chúng ta được mời gọi vượt qua hình vẽ nghệ thuật, để nhận ra rằng hình ảnh trái tim ngày nay vẫn còn mang nhiều ý nghĩa. Trong thân thể của chúng ta, trái tim đưa máu đi, ngang qua các động mạch, tưới gội khắp chi thể, để làm cho thân thể sống động. Trong đời sống tinh thần, trái tim được coi là trung tâm của nhân cách, nghĩa là nơi của những cảm xúc và những năng động hướng chúng ta đến với người khác; trái tim làm trào vọt ra trên môi miệng chúng ta những lời nồng thắm và yêu thương, bởi vì “tim có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12, 34). Chính vì thế mà, hình ảnh trái tim có mặt khắp nơi trong Kinh Thánh, mặc khải những gì trào vọt ra từ trái tim của Thiên Chúa và những gì trào vọt ra từ trái tim con người. Đó là hình ảnh trái tim rung cảm, hơn là trái tim lưu chuyển máu huyết.
Như thế, dấu chỉ tấm bánh và hình ảnh trái tim diễn tả cùng một thực tại, đó là Tình Yêu đi xuống đến cùng tận, nghĩa là LÒNG THƯƠNG XÓT, để làm cho thế giới đứng vững trong Đức Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa và để mang lại cho thế giới năng động trở về với Đấng Tạo Dựng.
Nguồn: http://gplongxuyen.org