Suy niệm 01/04/2018 – Chúa Nhật Phục Sinh năm B. – Chúa phục sinh.

Chúa Nhật 01/04/2018 – Chúa Nhật Phục Sinh năm B. – Chúa phục sinh.

"Người phải sống lại từ cõi chết".

 

Lời Chúa: Ga 20, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu".

Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.

Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

 

SUY NIỆM 

1. Tẩy sạch mùi cọp

Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” số ra tháng sáu năm 1991, có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp”. Câu truyện đại khái như thế này:

Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, vừa là người dạy thú của một đoàn xiếc. Người chồng, mặc dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ. Tuy nhiên, anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính nhờ cái mùi ấy mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và mới ngoan ngoãn vâng lời cô. Cho đến một hôm, họ giận nhau. Tình trạng này kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Chị chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với anh và cũng rất xa lạ đối với chị, đó là chị đã tẩy sạch mùi cọp bằng nước hoa thơm phức. Họ đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đêm hôm sau, người vợ ấy đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị đã thuần hóa. Số là nó đã không nhận ra chị, bởi vì cái mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và thế là chỉ trong khoảng khắc, chị đã bị tan xác dưới những móng vuốt của con cọp mà chị đã hết lòng yêu thương.

Từ câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì yêu thương chồng, chị đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đã hy sinh chính mạng sống của mình. Tình yêu đích thực không phải chỉ là chết đi một ít, nhưng là chết đi trọn vẹn, để làm phát sinh sự sống mới. Đó cũng chính là ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong mùa Phục sinh.

Thực vậy, Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, nghĩa là hiến chính mạng sống mình vì chúng ta như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu. Và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài chính là một sức sống mới bừng lên từ tình yêu tha thiết ấy,

Chúng ta cũng thế, trong đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta lặp lại lời hứa của ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Với bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được mai táng với Đức Kitô, đề rồi được phục sinh trong sự sống mới của Ngài. Mai táng vơi Đức Kitô, có nghĩa là chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta, là khước từ cái mùi của dục vọng sai trái, là từ bỏ tất cả những gì lôi kéo chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và Thánh Phaolô cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy mai táng con người cũ, đề mặc lấy con người mới của Đức Kitô.

Xin Đức Kitô Phục Sinh luôn chiếu tỏa ánh sáng của Ngài vào trong tâm hồn u tối của mỗi người, để chúng ta hiểu được những đòi hỏi đích thực của đức tin, vì theo Chúa đó là bước đi trên con đường thập giá, bước đi trên con đường chiến đầu và hy sinh, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục Sinh với Ngài.

 

2. Phục Sinh

Làm thế nào để mỗi người chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại, đó chính là mục đích của phụng vụ hôm nay và của mùa Phục Sinh.

Thực vậy, nếu không ý thức được tầm mức quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Đức Kitô phục sinh. Và nếu không kết hiệp với Ngài thì chúng ta cũng chẳng có đời sống mới. Cuộc đời của chúng ta sẽ hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo, chính thánh Phaolô đã viết: Nếu Đức Kitô không sống lại, thì đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta quả là những kẻ dại dột nhất. Nói cách khác, vì đạo của chúng ta xây dựng trên nền tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải xác tín, phải chắc chắn về niềm tin ấy, thì mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo phụng vụ của Giáo Hội để thêm ý thức về niềm tin ấy.

Trước hết phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại. Qua đó chúng ta thấy việc Chúa sống lại là một biến cố rõ ràng, nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người tin Chúa. Mặc dù Ngài đã khẳng định một cách công khai và không úp mở rằng Ngài sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên thập giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Thế nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu mà thôi. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối cùng nói rằng: Ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.

Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói nhưng không tin. Nói đúng hơn là họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, là họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn trở về làng cũ và chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Hay họ đã rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Đức Kitô chịu chết. Người Do Thái có thể sắp đến bắt họ.

Kẻ thù của Chúa thì cẩn thận hơn. Họ đã nghe Chúa nói đến việc Ngài sẽ sống lại. Họ nhớ vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh.

Nhưng Chúa đã làm một việc kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin. Ngài làm một việc thật ngoạn mục, để ai tin thì được thấm thía tình Ngài yêu thương họ, còn ai không tin thì phải bàng hoàng khiếp sợ.

Việc Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện do mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc nào, để nhớ lại lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo cho câu chuyện. Cả Phêrô lẫn Gioan đều nhận được tin Thầy sống lại và được Madalêna cho hay xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người đi chậm kẻ chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ: Các khăn liệm còn đó nhưng Chúa Giêsu thì ở đâu? Phải đợi đến khi nhận được nhiều bằng chứng khác thêm vào bằng chứng mồ rỗng và nhất là khi được Chúa hiện ra trò chuyện, ăn uống và dạy dỗ thêm, thì các ông mới thật sự tin rằng Chúa đã sống lại.

Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào lời Chúa báo trước, mà còn vào các sự kiện, các bằng chứng rõ ràng của nhiều người khác nhau. Đức tin ấy sáng suốt và vững vàng đến nỗi tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng cho việc Chúa đã sống lại. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã sống như thế nào và đã làm được những gì, để niềm tin Chúa sống lại nơi chúng ta được chiếu toả cho những người chung quanh.

 

3. Niềm tin.

Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?

Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.

Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.

Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.

Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.

Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.

 

4. Đức Kitô đã sống lại thật - ViKiNi

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

1. “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa” (1Cor. 15, 14-15).

Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì ? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao ? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.

Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta vẫn thắc mắc: Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi ? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.

2. Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói: Đức Giêsu Nagiareth …. đã chỗi dậy rồi …”.

Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra: Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.

Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.

Thánh Gioan kể dài hơn: Chúa hiện ra ba lần: trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ: một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô “Con có yêu mến Thầy không ?”.

Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị: Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy những băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ: Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.

3. Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau:

Thứ nhất: Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời: “Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển: “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Phil. 3, 21). “Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết” (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể: Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.

Thứ hai: Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan: tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết mọi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.

Thứ ba: Như Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết còn biết không ?”. Người đáp: “Nếu Ta nói: Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn” (Khổng Tử gia ngữ: Trí tự VIII.)

Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bằng xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.

Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.

Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.

Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia.

 

5. Ơn Phục Sinh

Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.

Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.

Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.

Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.

Và như thế, không cần phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.

 

6. Đấng Phục Sinh

Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?

Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.

Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.

Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: "Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.

 

7. Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)

(Suy niệm của Thiên Phúc, trong “Như Thầy Đã Yêu” năm B).

Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:

Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng.

Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.

***

Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ cho chúng ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.

Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà Salome là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).

Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để loan báo Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.

Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.

Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.

Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở về là có đôi mới.

Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.

Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.

***

Lạy Chúa,

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng:

Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang Phục Sinh với Chúa.

Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.

Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.

Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục Sinh của Chúa. Amen.

 

8. Đức Kitô sống lại

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.

Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.

Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.

Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.

Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.

Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.

Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.

Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.

Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.

Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.

 

9. Ánh sáng Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)

Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô!

Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?

Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc... Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên "cơn"! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Ánh sáng này đánh thức ta bừng dậy.

Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!

Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: "Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng" (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: "Thầy là ánh sáng trần gian" (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!

Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tâm hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.

Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.

Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: "Thầy là ánh sáng trần gian".

Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngài chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.

Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người.

 

10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?

2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?

3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?

4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

 

11. Đón nhận ơn Phục Sinh

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nên tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.

Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong một câu ngắn gọn: "Ông đã thấy và ông đã tin". Nhờ đâu các ngài đã thấy?

Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.

Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.

Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại: Các ngài đã "cúi xuống nhìn vào ngôi mộ". Khi cúi xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.

Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào "Ông thấy những băng vải còn ở đó". Khi đã bước vào trong mộ, Ông "thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi".

Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.

Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.

Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.

Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.

Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?

2) Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: "Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn", bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?

3) Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?

 

12. Vui lên, toàn trái đất

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Đêm Vọng Phục Sinh (Mc 16, 1-8)

Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.

Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần… Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”. (Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).

Vâng, Chúa Kitô đã đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô... Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

 

13. Tin Mừng Phục Sinh – Lm. Vinh Sơn SCJ

(Lc 24,1-12; Ga 20,1-9)

Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.

Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.

Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.

Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:

- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.

- Chuông các thánh đường im tiếng.

- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…

- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)

Trung tâm niềm tin Kitô giáo biểu lộ là Đức Kitô tự nguyện chết để cứu độ nhân loại, Ngài đã phục sinhnhư Thánh Augustino ghi nhận rằng:“Lòng tin của Kitô hữu là sự Phục sinh của Chúa Kitô”. Bởi vì sẽ không hiểu được những gì đã qua đi, và tương lai sẽ mịt mờ, nếu Niềm tin đó không được vững chắc như Thánh Phaolô tuyên tin: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em nữa cũng trống rỗng... và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15,14.17).Trống rỗng tức không thể nào có tương lai, và quá khứ và hiện tại thế gian vẫn còn rên siết trong tội lỗi.

Thật thế, Đức KitôPhục sinh dẫn nhân loại vào cuộc sống mai sau- bất diệt, nhưThánh Phaolôdạy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,4-5).

Đức Kitô Phục sinh Halléluia …

Cả bốn Tin Mừng và sách Tông Vụ Tông Đồ đều trình bày biến cố Đức Giêsu phục sinh hiện ra (x. Mt 28,9-20; Mc 16,1-19; Lc 24,13-53; Ga 20,11-23; Cv 1,6-11). Phêrô loan báo Đức Kitô sống lại trước toàn dân Israel (x. Cv 3,14-26) cũng như trước Thượng Hội Đồng Do thái (x. Cv 4,10). Phaolô cũng đã tuyên xưng cùng một niềm tin cho dân Do thái (x. Cv 13,33; 17,3) và trước Thượng Hội Đồng Do thái (x. Cv 23,6). Philiphê truyền bá Tin Mừng Phục sinh cho viên thái giám Êtiôpia (x. Cv 8,35), Phaolô loan bao Đức Kitô Phục Sinh cho dân ngoại (x. Cv 17,31). Chính các Tông đồ đã lấy máu đào và cái chết của mình để tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô sống lại.

Không chỉ có những người theo Chúa tuyên xưng, cả người ngoài như Sử gia Flavius Josephus (37 – 100) chứng thực. Ông là một công dân La Mã gốc Do Thái cùng thời với các Tông Đồ, trong tác phẩm Antiquitates Judaicae (Cổ sử Do Thái), viết khoảng năm 93, có đoạn gọi là “Testimonium Flavianum” nói về sự chết và phục sinh của Giêsu: “Khi Pilate, theo cáo buộc của những người lãnh đạo chúng ta, kết án [Giêsu] đóng đinh trên thập tự giá, những kẻ yêu thương người ấy không chịu từ bỏ người, vì người hiện ra cùng họ trong ngày thứ ba, sống lại, như các tiên tri đã báo trước, cùng với nhiều điều kỳ lạ liên quan đến người…”

Trải qua 2000 năm, bất cứ ở đâu và trong các thời, Giáo hội cũng như mọi người con Kitô hữu luôn tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô sống lại và loan truyền cho thế giới. Chính các anh hùng tử đạo cũng đã đổ máu đào để chứng thực niềm tin vào Chúa Sống lại là bất diệt, các vị Thánh nhân bác ái sống niềm tin Chúa phục sinh bằng phục vụ anh chị em bằng sức sống phi thường giữa thế gian.

Bởi vì tin vào Chúa sống lại, người Kitô Hữu mang sức sống với nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh (Cl 3,1). Chính thân xác phục sinh của Ngài đã trở nên “con đường mới và sống động” (Dt 10,19-25) cho chúng ta. Người Kitô hữu cảm nghiệm trong thân xác phải chết của mình bằng niềm tin của Phaolô: “Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng” (1 Cr 15,54). Thật thế, chính trong niềm tin này chúng ta sẽ được như Đức Kitô “Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,44).

Cuộc sống mới của chúng ta, cuộc sống mang niềm tin Chúa sống lại được “chỗi dậy” (Cv 10,40), “lại đứng dậy” (x.1Tx1,10; Rm 10,91; Cr 15,20), “được tôn vinh” (Cv 3,13), “được nâng lên” (Cv 2,33. 5,31; 1Tm 3,16)…

Ơn Phục Sinh trong cuộc sống mới với sự “chỗi dậy” “lại đứng dậy” giúp chúng ta tẩy trừ mọi tội lỗi,đẩy lui sức mạnh của sự chết ra khỏi con người bất toàn của chúng ta, chữa lành mọi vết thương tâm hồn. Những điều mà Thánh Gioan đã nói ngôn sứ trước cho những người sống niềm tin phục sinh: “Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất" (Kh 21,4)

Trói Tử thần vào chân cây thập giá

Diệt tử thần khi Ngài tung huyệt đá

Là Chúa ôi! khi rạng rỡ Phục sinh

Chúng con đây tất cả được biến hình…

(Xuân Ly Băng, Phục sinh)

Thật thế biến hình trong Đức Kitô Phục sinh thân phận hạt lúa: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống … chết đi, mới sai hoa kết trái” (Ga 12,24 ).

Khi chết là khi có sống vĩnh cửu… (Thánh Phanxicô Asisi).

Nguồn:http://gplongxuyen.org