Trong Sứ điệp cho Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ 57 (1/1/2024), với tựa đề “Trí tuệ nhân tạo và hòa bình”, Đức Phanxicô cho thấy « trí tuệ nhân tạo sắp ngày càng trở nên quan trọng hơn. Những thách thức mà nó đặt ra không chỉ là kỹ thuật mà còn cả nhân chủng học, giáo dục, xã hội và chính trị », do đó ngài mời gọi suy nghĩ về tác động của trí tuệ nhân tạo đối với hòa bình toàn cầu và kêu gọi cộng đồng quốc tế thông qua một hiệp ước ràng buộc để thiết lập các quy tắc quốc tế nhằm điều chỉnh sự phát triển và sử dụng nó.
Sứ điệp cho thấy trí tuệ nhân tạo « mang lại những cơ hội phấn khởi cũng như những rủi ro nghiêm trọng » « cho sự sống còn của nhân loại và nguy hiểm cho ngôi nhà chung ». Vì thế, « không thể tiên thiên cho rằng sự phát triển của nó sẽ đóng góp có lợi cho tương lai của nhân loại và hòa bình giữa các dân tộc ». Từ đó, « xem xét các vấn đề đạo đức đang nổi lên », Đức Thánh Cha kêu gọi « đào tạo thích hợp về trách nhiệm phát triển nó », « chúng ta có nhiệm vụ mở rộng tầm nhìn của mình và định hướng nghiên cứu khoa học-kỹ thuật hướng tới hòa bình và công ích, để phục vụ sự phát triển toàn diện của con người và cộng đồng ». «Các cơ quan cần được tăng cường hoặc, nếu cần thiết, được thành lập để xem xét các vấn đề đạo đức đang nổi lên và bảo vệ quyền của những người sử dụng hoặc bị ảnh hưởng bởi các hình thức trí tuệ nhân tạo.»
Điều quan trọng là « phẩm giá nội tại của mỗi nhân vị và tình huynh đệ gắn kết chúng ta với tư cách là những thành viên của một gia đình nhân loại duy nhất phải là nền tảng cho sự phát triển của các công nghệ mới và đóng vai trò là tiêu chí không thể chối cãi để đánh giá chúng trước khi sử dụng ».
Ngài tuyên bố mạnh mẽ : « Các thuật toán không được phép xác định cách chúng ta hiểu về nhân quyền, gạt bỏ các giá trị thiết yếu của lòng trắc ẩn, lòng thương xót và sự tha thứ hoặc loại bỏ khả năng một cá nhân sẽ thay đổi và bỏ lại quá khứ. » Bởi vì, « thế giới không thực sự cần những công nghệ mới để góp phần vào sự phát triển bất công của thị trường và buôn bán vũ khí, bằng cách thúc đẩy sự điên rồ của chiến tranh. Khi làm như vậy, không chỉ trí tuệ, mà cả trái tim con người, cũng có nguy cơ ngày càng trở nên “nhân tạo”. »
Và Đức Thánh Cha « hy vọng rằng suy tư này sẽ khuyến khích việc bảo đảm rằng sự tiến bộ trong việc phát triển các hình thức trí tuệ nhân tạo cuối cùng sẽ phục vụ cho sự nghiệp tình huynh đệ nhân loại và hòa bình. »
Dưới đây là toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha :
Trí tuệ nhân tạo và hòa bình
Vào đầu năm mới này, thời gian ân sủng mà Chúa ban cho mỗi người chúng ta, tôi muốn ngỏ lời với Dân Thiên Chúa, với các quốc gia, các nguyên thủ quốc gia và chính phủ, các đại diện của các tôn giáo khác nhau và của xã hội dân sự, cũng như tất cả mọi người nam nữ trong thời đại chúng ta, để gửi đến họ những lời chúc hòa bình tốt đẹp nhất.
Tiến bộ khoa học và công nghệ như là con đường dẫn tới hòa bình
Thánh Kinh làm chứng rằng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần của Người cho con người để họ có được “sự khôn ngoan, trí tuệ và sự hiểu biết mọi công việc” (Xh 35, 31). Trí tuệ là sự biểu hiện phẩm giá mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta, Đấng đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh và giống như Người (x. St 1, 26) và cho phép chúng ta đáp lại tình yêu của Người bằng sự tự do và hiểu biết. Khoa học và công nghệ biểu lộ một cách cụ thể phẩm chất quan hệ cơ bản này của trí tuệ con người: chúng là những sản phẩm phi thường từ tiềm năng sáng tạo của nó.
Trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, Công đồng Vatican II đã tái khẳng định chân lý này bằng cách tuyên bố rằng “qua lao động và sự khéo léo của mình, con người đã luôn tìm cách phát triển cuộc sống của chính mình”. [1] Khi con người, “với sự trợ giúp của công nghệ”, cố gắng biến trái đất thành “một nơi ở xứng đáng cho toàn thể gia đình nhân loại”, [2] họ đang hành động theo kế hoạch của Thiên Chúa và cộng tác với ý muốn của Người để hoàn thành công trình sáng tạo của Người và truyền bá hòa bình giữa các dân tộc. Cũng thế, sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, trong chừng mực góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người tốt hơn, vào việc gia tăng sự tự do và tình hiệp thông huynh đệ, sẽ dẫn tới việc cải thiện con người và biến đổi thế giới.
Chúng ta vui mừng một cách chính đáng và biết ơn vì những tiến bộ phi thường của khoa học và công nghệ, qua đó vô số bệnh tật gây sầu não cho cuộc sống con người và gây ra nhiều đau khổ đã được sửa chữa. Đồng thời, tiến bộ kỹ thuật và khoa học, bằng cách cho phép thực hiện quyền kiểm soát chưa từng có đối với thực tại, đặt vào tay con người rất nhiều khả năng, mà một số trong đó có thể gây nguy cơ cho sự sống còn của nhân loại và nguy hiểm cho ngôi nhà chung. [3]
Những tiến bộ đáng chú ý của công nghệ thông tin mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số, mang lại những cơ hội phấn khởi cũng như những rủi ro nghiêm trọng, với những hệ lụy nghiêm trọng đối với việc theo đuổi công lý và hòa hợp giữa các dân tộc. Đây là lý do vì sao cần phải tự đặt ra một số câu hỏi khẩn cấp. Đâu sẽ là những hậu quả trung và dài hạn của công nghệ kỹ thuật số mới? Đâu là tác động của chúng đối với cuộc sống của các cá nhân và xã hội, đối với sự ổn định quốc tế và hòa bình?
Tương lai của trí tuệ nhân tạo: giữa hứa hẹn và nguy cơ
Tiến bộ về tin học và sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số trong những thập niên qua đã bắt đầu gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ xã hội và trong sự năng động của nó. Các công cụ kỹ thuật số mới đang thay đổi bộ mặt của truyền thông, của hành chính công, giáo dục, tiêu dùng, tương tác cá nhân và vô số khía cạnh khác của cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra, các công nghệ sử dụng vô số thuật toán có thể trích xuất, từ các dấu vết kỹ thuật số còn sót lại trên Internet, các dữ liệu vốn cho phép kiểm soát thói quen trí tuệ và quan hệ của con người, thường là họ không hề biết, với mục đích thương mại hoặc chính trị, hạn chế việc thực thi có ý thức quyền tự do lựa chọn của họ. Thật vậy, trên một không gian như web, có đặc điểm là quá tải thông tin, chúng có thể cấu trúc luồng dữ liệu theo các tiêu chí lựa chọn mà không phải lúc nào người dùng cũng cảm nhận được.
Chúng ta phải nhớ rằng nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ không phải là xa rời thực tại hay “trung lập”, [4] nhưng chúng chịu ảnh hưởng của văn hóa. Là những hoạt động hoàn toàn của con người, những hướng đi mà chúng thực hiện phản ánh những lựa chọn được điều kiện hóa bởi các giá trị của con người, xã hội và văn hóa cụ thể cho từng thời đại. Cũng thế đối với các kết quả thu được: chính vì chúng là kết quả của những cách tiếp cận cụ thể của con người với thế giới xung quanh, nên chúng luôn có chiều kích đạo đức, được liên kết chặt chẽ với các quyết định của những người thiết kế thí nghiệm và định hướng sản xuất hướng tới các mục tiêu cụ thể.
Cũng tương tự đối với các hình thức trí tuệ nhân tạo. Cho đến nay, không có định nghĩa nguyên nghĩa về nó trong thế giới khoa học và công nghệ. Bản thân thuật ngữ này, hiện được sử dụng trong cách nói thông thường, bao gồm nhiều khoa học, lý thuyết và kỹ thuật nhằm đảm bảo rằng các máy móc, trong hoạt động của chúng, tái tạo hoặc bắt chước các năng lực nhận thức của con người. Nói về “các hình thức trí tuệ” ở số nhiều đặc biệt sẽ cho phép chúng ta nhấn mạnh hố chia cắt không thể vượt qua đang tồn tại giữa các hệ thống này với con người, dù chúng có thể đáng kinh ngạc và mạnh mẽ đến mức nào: cuối cùng chúng là “phân mảnh”, theo nghĩa là chúng chỉ có thể bắt chước hoặc tái tạo một số chức năng của trí tuệ con người. Việc sử dụng ở số nhiều nhấn mạnh rằng những thiết bị rất khác nhau này phải luôn được coi là “các hệ thống kỹ thuật xã hội”. Thật vậy, tác động của chúng, bất kể công nghệ nền tảng là gì, không chỉ phụ thuộc vào thiết kế của chúng mà còn phụ thuộc vào mục tiêu và lợi ích của những người sở hữu chúng và những người phát triển chúng, cũng như các hoàn cảnh trong đó chúng được sử dụng.
Do đó, trí tuệ nhân tạo phải được hiểu như một thiên hà của những thực tại khác nhau và chúng ta không thể tiên thiên cho rằng sự phát triển của nó sẽ đóng góp có lợi cho tương lai của nhân loại và hòa bình giữa các dân tộc. Kết quả tích cực như vậy sẽ chỉ có thể đạt được nếu chúng ta chứng tỏ mình có khả năng hành động có trách nhiệm và tôn trọng các giá trị cơ bản của con người như “hòa nhập, minh bạch, an ninh, công bằng, bảo mật và đáng tin cậy”. [5]
Cũng không đủ nếu cho rằng những người thiết kế thuật toán và công nghệ kỹ thuật số cam kết hành động có đạo đức và có trách nhiệm. Các cơ quan cần được tăng cường hoặc, nếu cần thiết, được thành lập để xem xét các vấn đề đạo đức đang nổi lên và bảo vệ quyền của những người sử dụng hoặc bị ảnh hưởng bởi các hình thức trí tuệ nhân tạo. [6]
Do đó, việc mở rộng to lớn của công nghệ phải đi kèm với việc đào tạo thích hợp về trách nhiệm phát triển nó. Sự tự do và chung sống hòa bình bị đe dọa khi con người không cưỡng nổi sự cám dỗ ích kỷ, tư lợi, tham lam và ham muốn quyền lực. Do đó, chúng ta có nhiệm vụ mở rộng tầm nhìn của mình và định hướng nghiên cứu khoa học-kỹ thuật hướng tới hòa bình và công ích, để phục vụ sự phát triển toàn diện của con người và cộng đồng. [7]
Phẩm giá nội tại của mỗi nhân vị và tình huynh đệ gắn kết chúng ta với tư cách là những thành viên của một gia đình nhân loại duy nhất phải là nền tảng cho sự phát triển của các công nghệ mới và đóng vai trò là tiêu chí không thể chối cãi để đánh giá chúng trước khi sử dụng, để tiến bộ kỹ thuật số được thực hiện trong sự tôn trọng công lý và góp phần vào sự nghiệp hoà bình. Những sự phát triển công nghệ không dẫn đến sự cải thiện chất lượng cuộc sống của toàn thể nhân loại, mà ngược lại còn làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng và xung đột, sẽ không bao giờ có thể được coi là tiến bộ thực sự. [số 8]
Trí tuệ nhân tạo sắp ngày càng trở nên quan trọng hơn. Những thách thức mà nó đặt ra không chỉ là kỹ thuật mà còn cả nhân chủng học, giáo dục, xã hội và chính trị. Chẳng hạn, nó hứa hẹn tiết kiệm lao động, sản xuất hiệu quả hơn, vận chuyển dễ dàng hơn và thị trường năng động hơn cũng như một cuộc cách mạng trong quy trình thu thập, tổ chức và xác minh dữ liệu. Chúng ta phải nhận thức được những biến đổi nhanh chóng đang diễn ra và quản lý chúng theo cách bảo vệ các quyền cơ bản của con người, bằng cách tôn trọng các thể chế và luật pháp vốn thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện. Trí tuệ nhân tạo phải phục vụ tiềm năng tốt nhất của con người và những khát vọng cao nhất của chúng ta, chứ không phải cạnh tranh với chúng.
Công nghệ của tương lai: máy móc có khả năng tự học
Dưới nhiều hình thức khác nhau, trí tuệ nhân tạo, dựa trên các kỹ thuật máy học (machine learning), mặc dù nó vẫn còn ở giai đoạn ban đầu, đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong cơ cấu của các xã hội, gây ảnh hưởng sâu sắc đến các nền văn hóa, các hành vi xã hội và việc xây dựng hòa bình.
Những sự phát triển như máy học hoặc học sâu (deep learning) khơi lên những vấn đề vượt ra ngoài các lĩnh vực công nghệ và kỹ nghệ và liên quan đến sự hiểu biết gắn liền với ý nghĩa của cuộc sống con người, với các quá trình cơ bản của kiến thức và với khả năng tâm trí tiếp cận sự thật.
Chẳng hạn, khả năng của một số thiết bị tạo ra các văn bản mạch lạc về mặt cú pháp và ngữ nghĩa không phải là sự đảm bảo về độ tin cậy. Người ta nói rằng chúng có thể “gây ảo giác”, nghĩa là tạo ra những khẳng định thoạt nhìn có vẻ có thể chấp nhận được, nhưng thực tế lại vô căn cứ hoặc phản bội các thành kiến. Điều này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng khi trí tuệ nhân tạo được sử dụng trong các chiến dịch đưa thông tin sai lệch nhằm lan truyền tin giả và dẫn đến sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với các phương tiện truyền thông. Tính bảo mật, quyền sở hữu dữ liệu và sở hữu trí tuệ là những lĩnh vực khác trong đó các công nghệ này cho thấy những rủi ro nghiêm trọng, bên cạnh những hậu quả tiêu cực khác liên quan đến việc lạm dụng chúng, chẳng hạn như phân biệt đối xử, can thiệp vào quá trình bầu cử, thành lập một xã hội giám sát và kiểm soát con người, loại trừ kỹ thuật số và sự trầm trọng của chủ nghĩa cá nhân ngày càng xa rời tập thể. Tất cả những yếu tố này có nguy cơ nuôi dưỡng các cuộc xung đột và cản trở hòa bình.
Ý thức về sự giới hạn trong mô hình kỹ trị
Thế giới của chúng ta quá rộng lớn, quá đa dạng và quá phức tạp để có thể biết và phân loại đầy đủ. Tâm trí con người sẽ không bao giờ có thể tát cạn sự phong phú của nó, ngay cả khi có sự trợ giúp của những thuật toán tiên tiến nhất. Quả thế, những thuật toán này không đưa ra những dự đoán đảm bảo về tương lai, nhưng chỉ là những thống kê phỏng chừng. Không phải mọi thứ đều có thể đoán trước được, không phải mọi thứ đều có thể tính toán được. Chung quy lại, “thực tại lớn hơn hơn ý tưởng” [9] và, cho dù khả năng tính toán của chúng ta có phi thường đến đâu, sẽ luôn có một số dư không thể tiếp cận được vốn sẽ thoát khỏi mọi nỗ lực định lượng.
Vả lại, lượng lớn dữ liệu được trí tuệ nhân tạo phân tích tự nó không đảm bảo tính khách quan. Khi các thuật toán ngoại suy thông tin, chúng luôn có nguy cơ bóp méo thông tin, tạo ra những bất công và thành kiến trong môi trường chúng xuất thân. Chúng càng trở nên nhanh hơn và phức tạp hơn, thì càng khó hiểu hơn tại sao chúng lại tạo ra một kết quả nào đó.
Các máy móc thông minh có thể thực hiện các nhiệm vụ được giao với hiệu quả ngày càng cao, nhưng mục đích và ý nghĩa của các hoạt động của chúng sẽ tiếp tục được xác định hoặc cho phép bởi những con người có vũ trụ các giá trị của riêng họ. Rủi ro là các tiêu chí làm nền cho một số lựa chọn đang trở nên kém rõ ràng hơn, trách nhiệm đưa ra quyết định bị che giấu và người sản xuất có thể trốn tránh nghĩa vụ hành động vì lợi ích của cộng đồng. Một cách nào đó, điều này được thúc đẩy bởi hệ thống kỹ trị, vốn kết hợp kinh tế với công nghệ và ưu tiên tiêu chí hiệu quả, có xu hướng bỏ qua mọi thứ không liên quan đến lợi ích trước mắt của nó. [10]
Điều đó khiến chúng ta suy nghĩ về một khía cạnh rất thường bị bỏ qua trong não trạng hiện nay, mang tính kỹ trị và tìm kiếm hiệu quả, nhưng lại mang tính quyết định đối với sự phát triển cá nhân và xã hội: “ý thức về giới hạn”. Thật vậy, con người, theo định nghĩa là hay chết, khi nghĩ đến việc vượt qua mọi giới hạn nhờ kỹ thuật, trong nỗi ám ảnh muốn kiểm soát mọi thứ, có nguy cơ mất kiểm soát chính mình; trong việc tìm kiếm tự do tuyệt đối, có nguy cơ rơi vào vòng xoáy của chế độ độc tài công nghệ. Đối với con người, nhìn nhận và chấp nhận những giới hạn thụ tạo của mình là điều kiện thiết yếu để đạt được, hay đúng hơn là đón nhận, sự viên mãn như một món quà. Ngược lại, trong bối cảnh ý thức hệ của một mô hình kỹ trị, được đánh dấu bằng giả định về khả năng tự cung tự cấp của Prométhé, những bất bình đẳng có thể gia tăng một cách không cân xứng, kiến thức và của cải tích lũy trong tay một số người, với những rủi ro nghiêm trọng cho các xã hội dân chủ và sự chung sống hòa bình. [11]
Các chủ đề thời sự về mặt đạo đức
Trong tương lai, độ tin cậy của người nộp đơn xin vay ngân hàng, khả năng của một cá nhân với một công việc, khả năng tái phạm của người bị kết án hoặc quyền được tị nạn chính trị hoặc trợ giúp xã hội có thể được xác định bằng hệ thống trí tuệ nhân tạo. Sự thiếu vắng các cấp độ trung gian khác nhau, mà các hệ thống này biểu lộ, đặc biệt khiến người ta gặp phải các hình thức thành kiến và phân biệt đối xử: các lỗi hệ thống có thể dễ dàng nhân lên, không chỉ tạo ra những bất công trong từng trường hợp riêng lẻ mà còn, thông qua hiệu ứng domino, tạo ra các hình thức bất bình đẳng xã hội thực sự .
Vả lại, các hình thức trí tuệ nhân tạo đôi khi tỏ ra có khả năng tác động đến các quyết định của cá nhân thông qua các lựa chọn được định trước liên quan đến các biện pháp kích thích và ngăn chặn, hoặc thông qua các hệ thống điều chỉnh các lựa chọn cá nhân dựa trên việc tổ chức các thông tin. Những hình thức thao túng hoặc kiểm soát xã hội này đòi hỏi sự quan tâm và giám sát cẩn thận và bao hàm một trách nhiệm pháp lý rõ ràng về phía người sản xuất, về phía những người sử dụng chúng và cơ quan chính phủ.
Việc nại đến các qúa trình tự động phân loại cá nhân, chẳng hạn như thông qua việc sử dụng rộng rãi hoạt động giám sát hoặc áp dụng hệ thống tín nhiệm xã hội, cũng có thể có tác động sâu sắc đến cơ cấu xã hội, thiết lập thứ hạng không phù hợp giữa các công dân. Những qúa trình phân loại nhân tạo này cũng có thể dẫn đến xung đột quyền lực, vì chúng không chỉ liên quan đến người nhận ảo mà còn liên quan đến những người bằng xương bằng thịt. Sự tôn trọng cơ bản đối với phẩm giá con người đòi hỏi từ chối việc nhận dạng tính duy nhất của con người bằng một bộ dữ liệu. Các thuật toán không được phép xác định cách chúng ta hiểu về nhân quyền, gạt bỏ các giá trị thiết yếu của lòng trắc ẩn, lòng thương xót và sự tha thứ hoặc loại bỏ khả năng một cá nhân sẽ thay đổi và bỏ lại quá khứ.
Trong bối cảnh này, chúng ta không thể không xem xét tác động của các công nghệ mới trong lĩnh vực lao động: những công việc từng dành riêng cho lao động của con người đang nhanh chóng được thu hút bởi các ứng dụng công nghiệp của ‘trí tuệ nhân tạo’. Ở đây một lần nữa, nguy cơ về lợi ích không cân xứng dành cho một số người gây thiệt hại cho sự bần cùng hóa của rất nhiều người là rất đáng kể. Tôn trọng phẩm giá của người lao động và tầm quan trọng của việc làm đối với phúc lợi kinh tế của con người, gia đình và xã hội, đảm bảo việc làm và trả lương công bằng phải là ưu tiên tuyệt đối đối với Cộng đồng quốc tế, khi những hình thức công nghệ này ngày càng thâm nhập sâu hơn vào những nơi làm việc.
Chúng ta có biến lưỡi gươm thành lưỡi cày không?
Nhìn vào thế giới xung quanh chúng ta, ngày nay chúng ta không thể thoát khỏi những vấn đề đạo đức nghiêm trọng liên quan đến lĩnh vực vũ trang. Khả năng tiến hành các hoạt động quân sự thông qua các hệ thống điều khiển từ xa đã dẫn đến nhận thức thấp hơn về sự tàn phá mà những hệ thống gây ra và về trách nhiệm sử dụng chúng, góp phần vào một cách tiếp cận thậm chí còn lạnh lùng và tách rời hơn đối với thảm kịch to lớn của chiến tranh. Nghiên cứu về các công nghệ mới nổi trong lĩnh vực “các hệ thống vũ khí tự động gây chết người”, bao gồm cả việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong chiến tranh, là một vấn đề được quan tâm nghiêm túc về mặt đạo đức. Các hệ thống vũ khí tự động không bao giờ có thể là chủ thể chịu trách nhiệm về mặt luân lý: khả năng độc nhất của con người trong phán đoán luân lý và ra quyết định đạo đức còn hơn là một bộ thuật toán phức tạp và khả năng này không thể bị giảm xuống thành việc lập trình một cỗ máy, mặc dù “thông minh”, nhưng luôn luôn là một cái máy. Đây là lý do tại sao bắt buộc phải đảm bảo sự giám sát đầy đủ, có ý nghĩa và nhất quán của con người đối với các hệ thống vũ khí.
Chúng ta cũng không thể phớt lờ khả năng các loại vũ khí phức tạp rơi vào tay kẻ xấu, chẳng hạn như tạo điều kiện cho các cuộc tấn công khủng bố hoặc các hành động can thiệp nhằm gây bất ổn cho các thể chế chính phủ hợp pháp. Tóm lại, thế giới không thực sự cần những công nghệ mới để góp phần vào sự phát triển bất công của thị trường và buôn bán vũ khí, bằng cách thúc đẩy sự điên rồ của chiến tranh. Khi làm như vậy, không chỉ trí tuệ, mà cả trái tim con người, cũng có nguy cơ ngày càng trở nên “nhân tạo”. Những ứng dụng kỹ thuật tiên tiến nhất không được sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết xung đột bằng bạo lực, nhưng để mở đường cho hòa bình.
Từ một quan điểm tích cực hơn, nếu trí tuệ nhân tạo được sử dụng để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người, nó có thể mang lại những đổi mới quan trọng trong nông nghiệp, giáo dục và văn hóa, cải thiện mức sống của các quốc gia và của toàn thể các dân tộc, sự phát triển của tình huynh đệ nhân loại và xã hội. tình bạn. Cuối cùng, cách chúng ta sử dụng nó để bao gồm những người rốt hết, tức là những anh chị em yếu đuối nhất và thiếu thốn nhất, là thước đo cho thấy nhân tính của chúng ta.
Một cái nhìn nhân bản và mong muốn về một tương lai tốt đẹp hơn cho thế giới của chúng ta dẫn đến nhu cầu đối thoại liên ngành nhằm phát triển đạo đức của các thuật toán – algor-etica (đạo đức thuật toán) – nơi các giá trị định hướng cho các công nghệ mới. [12] Các vấn đề đạo đức cần được xem xét ngay từ đầu nghiên cứu, cũng như trong các giai đoạn thử nghiệm, thiết kế, sản xuất, phân phối và thương mại. Đây là một cách tiếp cận về đạo đức thiết kế, trong đó các tổ chức giáo dục và các nhà hoạch định chính sách đóng vai trò quan trọng.
Những thách thức đối với giáo dục
Sự phát triển của công nghệ nhằm tôn trọng và phục vụ phẩm giá con người đều có những ngụ ý rõ ràng đối với các tổ chức giáo dục và thế giới văn hóa. Bằng cách nhân lên các khả năng giao tiếp, công nghệ kỹ thuật số đã cho phép chúng ta gặp nhau một cách mới mẻ. Tuy nhiên, một suy tư liên tục vẫn cần thiết về loại mối quan hệ mà chúng ta đang hướng tới. Những người trẻ lớn lên trong những môi trường văn hóa thấm nhuần công nghệ và điều này chỉ có thể đặt vấn đề về phương pháp giảng dạy và đào tạo.
Giáo dục sử dụng các hình thức trí tuệ nhân tạo trước hết nhằm mục đích thúc đẩy tư duy phản biện. Người dùng ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là giới trẻ, cần phát triển khả năng phân định trong việc sử dụng dữ liệu và nội dung được thu thập trên web hoặc do hệ thống trí tuệ nhân tạo sản xuất. Các trường học, trường đại học và các hiệp hội học thuật được kêu gọi giúp đỡ sinh viên và các chuyên gia hiểu được các khía cạnh xã hội và đạo đức của việc phát triển và sử dụng công nghệ.
Việc đào tạo cách sử dụng các công cụ truyền thông mới không chỉ cần tính đến thông tin sai lệch, các tin giả mà còn phải tính đến sự gia tăng đáng lo ngại về “ những nỗi sợ hãi xa xưa […] vốn đã biết che giấu và củng cố chúng đằng sau các công nghệ mới”. [13] Thật không may, một lần nữa, chúng ta phải chống lại “cám dỗ tạo ra một nền văn hóa tường thành, dựng lên những bức tường ngăn cản sự gặp gỡ với các nền văn hóa khác, với những người khác” [14] và phát triển một cuộc chung sống hòa bình và huynh đệ.
Những thách thức đối với sự phát triển của luật pháp quốc tế
Với phạm vi toàn cầu của trí tuệ nhân tạo, rõ ràng là bên cạnh trách nhiệm của các quốc gia có chủ quyền trong việc quản lý việc sử dụng nội bộ của trí tuệ nhân tạo, các Tổ chức quốc tế có thể đóng vai trò quyết định trong việc ký kết các hiệp định đa phương cũng như phối hợp áp dụng và thực hiện các hiệp định đó. [15] Về vấn đề này, tôi kêu gọi Cộng đồng các quốc gia làm việc cùng nhau để thông qua một hiệp ước quốc tế mang tính ràng buộc nhằm quản lý việc phát triển và sử dụng trí tuệ nhân tạo dưới nhiều hình thức của nó. Tất nhiên, mục đích của quy định không chỉ là ngăn chặn các thực hành xấu mà còn khuyến khích các thực hành tốt bằng cách khuyến khích các cách tiếp cận mới và sáng tạo cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến cá nhân và tập thể. [16]
Rút cục, trong quá trình tìm kiếm các mô hình quy chế vốn có thể cung cấp hướng dẫn đạo đức cho các nhà phát triển công nghệ kỹ thuật số, điều cần thiết là phải xác định các giá trị con người phải là cơ sở cho cam kết của xã hội trong việc xây dựng, áp dụng và thực hiện các khuôn khổ pháp lý cần thiết. Công việc soạn thảo các hướng dẫn đạo đức để sản xuất các dạng trí tuệ nhân tạo không thể bỏ qua việc xem xét các vấn đề sâu sắc hơn liên quan đến ý nghĩa của sự tồn tại của con người, việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người, việc theo đuổi công lý và hòa bình. Quá trình phân định đạo đức và pháp lý này có thể chứng tỏ là một cơ hội quý giá để cùng suy nghĩ về vai trò của công nghệ trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng của chúng ta, cũng như về cách sử dụng nó có thể góp phần tạo ra một thế giới công bằng hơn và nhân văn hơn. Do đó, trong các cuộc tranh luận về quy định trí tuệ nhân tạo, cần phải tính đến tiếng nói của tất cả các bên liên quan, bao gồm cả người nghèo, những người bị gạt ra bên lề và những người khác thường bị bỏ qua trong quá trình ra quyết định toàn cầu.
*****
Tôi hy vọng rằng suy tư này sẽ khuyến khích việc bảo đảm rằng sự tiến bộ trong việc phát triển các hình thức trí tuệ nhân tạo cuối cùng sẽ phục vụ cho sự nghiệp tình huynh đệ nhân loại và hòa bình. Đây không phải là trách nhiệm của một số ít người mà là của toàn thể gia đình nhân loại. Thực vậy, hòa bình là kết quả của những mối quan hệ nhìn nhận và đón tiếp người khác trong phẩm giá bất khả tước bỏ của họ, cũng như của sự hợp tác và dấn thân trong việc tìm kiếm sự phát triển toàn diện cho tất cả mọi người và mọi dân tộc.
Lời cầu nguyện của tôi vào đầu năm mới là sự phát triển nhanh chóng của các hình thức trí tuệ nhân tạo sẽ không làm gia tăng quá nhiều bất bình đẳng và bất công hiện có trên thế giới, nhưng sẽ giúp chấm dứt chiến tranh và xung đột, đồng thời giảm bớt nhiều hình thức đau khổ đang gây u sầu cho gia đình nhân loại. Cầu mong các tín hữu Kitô, các tín hữu thuộc các tôn giáo khác nhau và những người nam và người nữ thiện chí sẽ hợp tác hài hòa để nắm bắt các cơ hội và đối mặt với những thách thức do cuộc cách mạng kỹ thuật số đặt ra, đồng thời mang lại cho các thế hệ tương lai một thế giới đoàn kết, công bằng và hòa bình hơn.
Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2023
PHANXICÔ
—————————————————–
[1] Số 33.
[2] Ibid., số 57.
[3] Xem Thông điệp Laudato si’ (24 /5/ 2015), số 104.
[4] Ibid., số 114.
[5] Tiếp kiến các tham dự viên cuộc hội ngộ “Minerva Dialogues” (27/3/2023).
[6] Cf. ibid.
[7] Xem Thông điệp gửi Chủ tịch điều hành “Diễn đàn Kinh tế Thế giới” ở Davos-Klosters (12/1/2018).
[8] Xem thông điệp Laudato si’, số 194 ; Bài phát biểu với các tham dự viên Hội thảo “Công ích trong kỷ nguyên kỹ thuật số” (27/09/2019).
[9] Tông huấn Evangelii gaudium (24 /11/2013), số 233.
[10] Xem Thông điệp Laudato si’, số 54.
[11] Xem Diễn văn cho các tham dự viên Đại hội toàn thể của Học viện Giáo hoàng về Sự sống (ngày 28 tháng 2 năm 2020).
[12] Cf. ibid.
[13] Thông điệp Fratelli tutti (3/10/ 2020), số 27.
[14] Ibid.
[15] Cf. ibid., số 170-175.
[16] Xem Thông điệp Laudato si’, số 177.
————————————————————
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn: vatican.va)
Trích đăng lại từ : Nguồn:https://xuanbichvietnam.net/