“Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. "

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM B

 

BÀI ÐỌC I: Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b

“Chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi”.

Trích sách ông Giosuê.

Trong những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này: “Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Dân trả lời rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào”.

Ðó là lời Chúa.

ÐÁP CA: Tv 33, 2-3. 16-17. 18-19. 20-21. 22-23

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Ðáp.

2) Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. – Ðáp.

3) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ; Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. – Ðáp.

4) Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Thiên Chúa luôn luôn giải thoát. Người giữ gìn họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. – Ðáp.

5) Sự độc dữ sẽ sát hại đứa ác nhân; kẻ ghét người hiền sẽ phải đích thân đền tội. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. – Ðáp.

BÀI ÐỌC II: Ep 5, 21-32

“Mầu nhiệm này thật lớn lao: trong Ðức Kitô và trong Hội Thánh”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Nhưng như Hội Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy. Hỡi những người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền. Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người. Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình: và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh.

Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 10, 27

Alleluia, Alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 6, 61-70

“Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: “Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin”. Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: “Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”.

Ðó là lời Chúa.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

BÁNH BAN SỰ SỐNG(*) Chú giải của Noel Quession

Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời… Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.

Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống”. Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:

Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.

Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố “Mười Hai”.

Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là “môn đệ”. Nhưng các “môn đệ” này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại.

Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về “bánh” của Người, “Bánh đích thực”. Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để “nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người”. Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: “ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn… ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi”.

Thực ra chính “đức tin” là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.

Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.

Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. “Đức tin” khó khăn biết bao! Vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận” để “tin vào một người khác” đó là “tin mà không thấy”, như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.

Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”.

Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ “Scandahzô” Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn “biết” gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, “nhưng” là một dấn thân trong cuộc sống”. Đức tin là một “thực hành có hiệu quả”. Đức tin là một sự “thúc hối” phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin” thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một “công thức” nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói “Người Kitô hữu là người đi dự lễ”, thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một “quyết định”. Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:

 “Ăn bánh hằng sống”.

“Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích”.

Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?

Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một “mầu nhiệm” khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. “Thần Khí” trở thành xác phàm.

Đây thực là một mầu nhiệm “thần linh” (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng “hữu thể thần linh của Người”. Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: “Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?”.

Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”.

Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?

Vậy thì “sự sống” của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.

Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì

Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.

Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.

Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng… tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra “ngang qua xác thể” nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.

Người nói: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”.

Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.

Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn” và chỉ dùng một “chén”. Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn “hình” này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.

Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”.

Dường như Chúa nói’: “Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những “môn đệ ra đi” và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn… chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: “Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ”. Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng “không ai có thể thay thế được”. Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó “bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố” (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

NỖI BUỒN CỦA CHÚA GIÊSU (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI có thể được tóm gọn ở nơi diễn ngữ này: “Tấn thảm kịch của sự chọn lựa”. Có những chọn lựa mang tính quyết định đối với cá nhân hay dân tộc.

Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b

Bài Đọc I nhắc lại việc ông Gio-suê đưa ra cho dân Ít-ra-en ngay khi họ định cư ở miền đất ngoại giáo một sự chọn lựa dứt khoát: phụng thờ ngẫu tượng hay phụng thờ Đức Chúa, Đấng đã bảo vệ họ và dẫn đưa họ đến tận miền đất mà Ngài đã hứa ban cho tổ tiên của họ.

Ep 5: 21-32

Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, Thánh Phao-lô sánh ví tình yêu chung thủy giữa chồng và vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo với sự kết hiệp bất khả phân ly của Đức Giê-su với Hội Thánh của Người.

Ga 6: 54a, 60-69

Tin Mừng trình bày một chọn lựa khác: tin vào Đức Giê-su và vào lời hứa ban thịt và máu của Người, hay từ chối tin vào Người và không chấp nhận mầu nhiệm này. Đây là thời điểm chọn lựa giữa lòng trung tín và thái độ khước từ.

BÀI ĐỌC I (Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b)

Sách Gio-suê được đặt liền ngay sau bộ Ngũ Thư; sách này thuật lại việc dân Thiên Chúa định cư ở đất Ca-na-an (thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên), những diễn biến của cuộc chinh phục, đoạn việc phân chia lãnh thổ giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en.

Một sự chọn lựa dứt khoát:

Ông Gio-suê, kế nghiệp ông Mô-sê, lãnh đạo dân Do thái. Ông là vị anh hùng chính của sách mang tên ông. Vào cuối đời, noi gương ông Mô-sê, ông Gio-suê muốn căn dặn dân Do thái lần cuối, vì thế, ông quyết định triệu tập toàn thể các chi tộc Ít-ra-en ở Si-khem.

Địa danh, mà ông chọn, ở trung tâm Đất Hứa. Xét về phương diện địa lý, địa danh này rất thuận tiện (sau này miền nầy được gọi là Sa-ma-ri). Ngoài ra, miền nầy chất chứa biết bao kỷ niệm tôn giáo rất có ý nghĩa: Si-khem là nơi tổ phụ Áp-ra-ham trú ngụ đầu tiên khi đặt chân lên đất Ca-na-an và là nơi vị tổ phụ dựng bàn thờ đầu tiên kính Chúa (St 12: 6-8). Đó cũng là nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã tậu một thuở đất và đã chôn dưới gốc cây những tượng thần linh ngoại giáo mà thân nhân của ông còn đem theo với mình, đây là dấu chỉ của việc từ bỏ phụng thờ các thần linh của họ (St 33: 18-20). Hành động này báo hiệu cách đặc biệt việc thờ phượng chỉ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cũng một cách như vậy, ông Gio-suê đòi hỏi dân Ít-ra-en phải dứt khoát từ bỏ thờ lạy các thần linh và cam đoan phụng thờ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của họ.

Tấn thảm kịch của sự chọn lựa:

Đoạn văn hôm nay trích từ bài diễn từ của ông Gio-suê được đặt vào trong khung cảnh phụng vụ: ông Gio-suê và tất cả các lãnh tụ dân Ít-ra-en “ra trình diện trước nhan Thiên Chúa”. Đây là biểu thức quen thuộc chỉ ra rằng có một đền thánh ở Si-khem (chắc chắn Hòm Giao Ước được đặt ở nơi thánh địa này).

Ông Gio-suê đưa ra cho toàn dân Ít-ra-en một chọn lựa triệt để: phụng thờ các vị thần linh của dân ngoại hay chỉ một mình Đức Chúa. Sự quyến rủ của việc phụng thờ các thần linh có thể xuất xứ từ đa thần giáo của tổ tiên họ, hay từ dân bản địa mà họ cùng chung sống trên đất Ca-na-an. Dân Ít-ra-en phải chọn lựa một trong hai. Ông Gio-suê đòi hỏi họ long trọng tái cam kết. Lập luận cốt yếu mà ông đưa ra dựa trên sự trung tín của Đức Chúa, chính Ngài đã giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đã dẫn đưa họ đến tận Đất Hứa này, bất chấp mọi trở ngại đã giữ trọn lời hứa của Ngài với cha ông họ. Dân Ít-ra-en phải đáp trả sự trung tín của Thiên Chúa bằng cách tái cam kết phụng thờ chỉ một mình Ngài “vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

Giao ước ở Si-khem:

Trên bình diện lịch sử, một cuộc triệu tập như vậy cho thấy là cần thiết để tái tổ chức toàn thể dân Chúa chọn thành một dân duy nhất, bởi lẽ dân Do thái vào Đất Hứa, đất mà các tổ phụ đã sống, và gặp lại những hậu duệ đã không cùng họ rời quê hương sang Ai-cập. Việc sáp nhập những hậu duệ nầy vào các chi tộc của cuộc Xuất Hành quả là cần thiết. Cuối cùng, cũng cần phải hiệp nhất các chi tộc trước khi họ phân tán khắp xứ sở Ca-na-an. Để được như vậy, chỉ có chung một niềm tin mới có thể gắn kết những yếu tố rời rạc của dân Thiên Chúa.

Nhưng về phương diện lịch sử, Giao Ước Si-khem chắc chắn là bản sao chép phụng vụ mà dân Ít-ra-en cử hành hằng năm để long trọng lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước. Sách Đệ Nhị Luật xem ra làm chứng điều nầy, một bài thuyết giáo về Giao Ước theo sát sơ đồ của bài diễn từ ông Gio-suê; hay nói chính xác hơn, ông Mô-sê căn dặn dân Ít-ra-en hằng năm phải tưởng nhớ lời cam kết của mình đối với Đức Chúa. Một ngàn năm sau, việc tưởng niệm như vậy cấu thành yếu tố cốt yếu của “lễ Ngũ Tuần”. Hằng năm, vào ngày đại lễ đó, người ta lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước Xi-nai (thật lạ thường, bài diễn từ của ông Gio-suê ở Si-khem không được nhắc đến).

Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng vào năm 931 trước Công Nguyên sự thống nhất của dân Chúa chọn bị thách đố: mười chi tộc tự tách mình ra khỏi vương triều Đa-vít để thiết lập vương quốc Ít-ra-en, mà kinh đô là Sa-ma-ri; trong khi hai chi tộc còn lại vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, được gọi vương quốc Giu-đa, mà kinh đô là Giê-ru-sa-lem. Sự phân ly đau đớn này là phản đề cuộc triệu tập vĩ đại ở Si-khem.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 21-32)

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Ê-phê-xô, đây là phần luân lý và khuyến dụ.

Sau khi đã nói về đời sống mới của người Ki tô hữu qua phép Rửa, thánh nhân đưa ra vài lời căn dặn liên quan đến đời sống gia đình: thánh nhân tuần tự gợi lên những mối liên hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, chủ và tớ. Đoạn trích hôm nay đề cập đến mối liên hệ giữa chồng và vợ.

Chúng ta cần phải nhận ra hai khía cạnh khác nhau trong bản văn nầy: khía cạnh lỗi thời, việc khai triễn của những phong tục tập quán đã khiến cho những lời đề nghị của thánh nhân không còn thích hợp nữa; và khía cạnh bất khả đổi thay, luôn luôn có giá trị và luôn luôn mang tính thời sự: sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội của Người được sánh ví với sự hiệp nhất bất khả phân ly của chồng với vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo.

Khía cạnh lỗi thời:

Bản văn của thánh Phao-lô không còn đáp ứng tâm thức hiện nay của chúng ta. Quả thật, trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa và xã hội của thánh nhân, lời khuyên “vợ phải tùng phục chồng” cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp với “quyền bình đẳng nam nữ” trong thế giới hiện nay. Mặc dầu viết từ Rô-ma, thánh nhân vẫn quan niệm bổn phận của người vợ theo truyền thống Do thái. Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, về phương diện pháp lý, bổn phận người vợ phải phục tùng chồng trước đây ở Đông Phương rất phổ biến, ngay cả ở Việt Nam: “xuất giá tòng phu”, đã bị hủy bỏ từ lâu rồi. Do đó, chúng ta cũng phải khảo sát hậu cảnh tôn giáo của lời đề nghị nầy: Giáo Hội tùng phục Đức Ki-tô, chấp nhận Tin Mừng của Người và tuân giữ các huấn lệnh của Người như thế nào thì người vợ phải phục tùng chồng như vậy.

Còn đối với lời khuyên: “người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân thể mình” không phải là xúc phạm đến người bạn đời của mình sao? Phải nói thực, linh đạo hôn nhân, sau một lịch sử lâu dài, đã vượt qua những quan niệm như vậy. Tình nghĩa vợ chồng sống theo tinh thần Ki-tô giáo là lời mời gọi thường hằng ra khỏi cái tôi của mình, quên đi bản thân mình mà yêu người bạn đời của mình như chính người ấy. Không phải thánh Phao-lô đã tiên cảm điều đó khi nói rằng người chồng phải bắt chước Đức Ki-tô, Người đã “yêu thương và hiến thân mình vì Hội Thánh” đó sao?

Vì thế, trước tiên phải vượt qua những quan niệm nầy mà cố gắng thấu hiểu tư tưởng của thánh nhân, chủ yếu thuộc loại suy.

Truyền thống Kinh Thánh:

Thánh Phao-lô áp dụng cho Đức Ki-tô và Hội Thánh của Ngươi ngôn từ của các ngôn sứ, các ngài đã diễn tả tình yêu của Đức Chúa dành cho dân Ít-ra-en bằng những từ ngữ hôn nhân. Khởi đi từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ngôn sứ Hô-sê đã trình bày hình ảnh hôn ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài bằng những ngôn từ thật thống thiết; từ đó, hình ảnh nầy trở thành kinh điển. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy nhất là tại các ngôn sứ: Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, I-sai-a đệ nhị. Hình ảnh này xuất hiện một lần nữa và được thiêng liêng hóa trong sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Chính trong truyền thống Kinh Thánh nầy mà viễn cảnh của thánh Phao-lô được định vị.

Việc so sánh tình nghĩa vợ chồng phàm nhân với tình nghĩa của Đức Chúa với Dân Người thật là tuyệt vời, dù rằng không phải mọi yếu tố đều xứng hợp. Quả thật, sự so sánh vẫn kiếm khuyết ở nơi mức độ đồng hóa Đức Ki-tô với người chồng được tô điểm bằng sự hoàn thiện, cao cả, uy quyền, và Dân Người với người vợ xem ra hoàn toàn phụ thuộc, có nhiều khuyết điểm, cần được tinh tuyền và thánh thiện “để ra mắt Người”.

Cũng vậy, trong Cựu Ước, Đức Chúa là vị hôn phu rất mực thủy chung, không bao giờ quên những lời thề non hẹn biển của mình; trong khi dân Do thái là vị hôn thê thường bội thề, bất trung với Thiên Chúa của mình, vi phạm các huấn lệnh của Ngài, chạy theo các ngẫu tượng.

Vì so sánh như vậy, người chồng phải yêu thương vợ mình “như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”. Lời mời gọi chan chứa tình nghĩa chồng vợ nầy tạo nên một dấu nhấn mới gây xôn xao ở giữa lòng xã hội ở đó chỉ người chồng mới có quyền rẩy vợ và ở đó chỉ người phụ nữ ngoại tình bị trừng phạt (dù rằng tội đồng lõa cũng bị trừng trị: Lv 20: 10; Đnl 22: 22, tuy nhiên chúng ta ghi nhận rằng việc người chồng ngoại tình hiếm khi bị kết án).

Hội Thánh là Hiền Thê và Thân Thể của Đức Kitô:

Đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô nầy khai triển một trực giác đã xuất hiện kể từ thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 11: 2), đó là cách diễn tả đạo lý rõ ràng nhất của thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Thân Thể Đức Ki tô”.

Đức Ki-tô đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh “bằng nước và lời hằng sống”, theo nguyên ngữ của bản văn Hy lạp “bằng việc tắm rửa kèm theo lời”. Thánh Phao-lô sử dụng từ “tắm rửa” vì phép Thánh Tẩy được thực hiện bởi việc nhận chìm vào bể nước, nhưng cũng ám chỉ đến nghi thức tắm rửa của vị hôn thê theo tập tục Do thái cũng như Hy lạp. Còn việc kể ra “kèm theo lời” rõ ràng là biểu thức phép Thánh Tẩy. Dù xác định thoáng qua nhưng thật quý báu biết bao.

Có thể cũng có một sự quy chiếu đến phép Thánh Thể, khi thánh nhân gợi lên “người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, không ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi dưỡng và săn sóc thân xác mình”; đó là điều Đức Giê-su làm đối với Hội Thánh của Người khi nuôi dưỡng Hội Thánh bằng Mình và Máu của Người.

Chiều kích cao cả của hôn nhân:

Sự kết hiệp của Đức Giê-su với Hội Thánh là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa đôi vợ chồng trần thế, đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa, vì “cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”, như cách diễn tả của sách Sáng Thế mà thánh nhân nhắc lại. Như vậy, sự hiệp nhất chồng vợ được tháp nhập vào trong một thực tại thánh, thực tại nầy siêu thăng đời sống hôn nhân. Mầu nhiệm hôn nhân thật là cao cả vì là hình ảnh hôn ước giữa Đức Giê-su và Hội Thánh.

TIN MỪNG (Ga 6: 54a, 60-69)

Đây là một trong những trang Tin Mừng thống thiết nhất. Đức Giê-su đã hoàn tất diễn từ Bánh Hằng Sống; Người đã loan báo ân ban thịt và máu của Người bằng những từ ngữ hiện thực nhất. Như vậy, Đức Giê-su đặt để các môn đệ của Người trước một sự lựa chọn: tin vào những lời công bố không thể nào tin được này hay từ chối mà ra đi vì “lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.

Nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Đức Giê-su nữa:

Chúa Giê-su vừa mới công bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”. Các môn đệ, tức một nhóm đông hơn nhiều nhóm Mười Hai, đã hiểu những lời của Đức Giê-su theo nghĩa thuần túy duy vật: “lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.

Đức Giê-su thử làm cho họ hiểu rằng để có thể hiểu những lời của Người, có một cách giải thích khác với cách giải thích của họ, không quá duy vật và “xác thể”, nhưng một cách “thần thiêng”: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”. Từ “chướng” theo nghĩa đầu tiên, có nghĩa sự ngăn trở mà người ta vấp phải, như vấp phải hòn đá trên đường. “Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Người muốn hướng tâm trí của họ về tương lai và ở bên kia cuộc tử nạn của Người, khi Người trở về nơi Người đã đến. Lúc đó ý nghĩa của những lời Người nói mới được sáng tỏ: “thịt” và “máu” mà Người ban tặng chính là Thân Thể của Đấng Phục Sinh, là nguồn sống thần linh trao ban vô tận cho loài người, như vậy loài người đón nhận sự sống Người ban mới có sự sống trường sinh trong chính mình.

“Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời của Đức Giê-su “là thần khí và là sự sống”, tức là “Thần Khí làm cho sống”, vì chỉ có Thần Khí mới làm cho người tín hữu thấu hiểu được những lời Đức Giê-su đã nói, những phép lạ Người đã làm (3: 6) và những thực tại thần thiêng Người đã biểu lộ qua bản thân Người (Ga 15: 26a). Trái lại, “xác thịt”, tức phàm nhân, chỉ đóng khung trong ánh sáng của riêng mình, không thể hiểu ân ban mà Đức Giê-su hứa. Như vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu hậu phục sinh trung thành với bàn tiệc Thánh Thể dễ hiểu hơn các môn đệ chán chường nầy.

Nỗi buồn của Đức Giê-su:

“Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người”. Sự phản bội của ông Giu-đa được kết nối với những môn đệ không tin này: “vì lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Điều nầy hé mở cho thấy rằng ông Giu-đa đã vấp ngã trên mầu nhiệm Thánh Thể khởi đi từ nghi ngờ giáo huấn của Thầy về Bánh Hằng Sống.

“Từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”. Trước việc các môn đệ rút lui không theo Người nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội, Đức Giê-su buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa , anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”. Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại đời sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Thánh nhân đặt “tin” trước, rồi mới đến “nhận biết”. Chỉ trong ánh sáng của đức tin, người ta mới có thể nhận biết những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của phàm nhân.

Mặc khải Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải nầy vẫn sẽ là “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại. 

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-Năm B

THẦY CÓ NHỮNG LỜN BAN SỰ SỐNG ĐỜI- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi hết sức quyết liệt

Ở Capharnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau “người Do thái” là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt “nhiều môn đệ” của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: “Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi?”.

Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói với họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”.

Lần này thì quá lắm rồi! Tác giả Tin Mừng viết tiếp: “Từ lúc đó rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa”.

– Chính lúc đó, lúc mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang “nhóm mười hai” (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi hoặc ở lại và theo Ngài cho tới Lễ Vượt Qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc 9,7-8): “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao? “

Và lời tuyên xưng đức tin của Simon Phêrô:

Simon-Phêrô nhân danh “nhóm mười hai” (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”

+ Thánh Phêrô bắt đầu: “Chúng con biết đi với ai?”. Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ “đi” là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự “rất nhiều môn đệ” bỏ rơi Thầy.

Rõ ràng, ngược lại với đám đông môn đệ đó, “nhóm mười hai” đã dấn thân theo Thầy.

+ Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu: “Thầy có…Thầy là”. X. Léon-Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của “Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa mạc khải: Lời Ngài là “sự sống đời đời”. Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể nhận được. Chắc chắn, theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. (“Lecture de Evangile selon Jean”, tập 2, Seuil, tr. 1 88)

Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, nghĩa là Đấng mang trong chính mình một cái gì thánh thiện của chính Thiên Chúa.

X Léon-dufour đặt câu hỏi: “Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là một tên gọi hãn hữu, khó giải thích. Phêrô không dừng lại một tên nào mà Đức Giêsu đà sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh trường sinh, Đấng Thiên sai, Con Người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng Cứu Thế trong đạo Do thái… Điều đặc biệt ở đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách của riêng ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu “Đấng Thánh của Ngài”, theo bản dịch Bảy mươi? (xem Tông đồ công vụ 2,27). Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (5, 19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến” (10,6; 17,19). Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa” cao vượt hơn danh hiệu “Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa” mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16, 16″ (Sách đã dẫn, tr. 189)

– Trong cơn khủng hoảng Giáo hội hiện phải đương đầu, các Kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài: câu hỏi về căn tính con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo Hội. Dựa trên đức tin của Simon-Phêrô và nhóm Mười Hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà thế giới đang mong đợi không?

BÀI ĐỌC THÊM

Đức tin: một cuộc mạo hiểm (H.Vulliez, “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDE3, tr.141-142)

“Cuộc khủng hoảng rất trầm trọng. Nó lan tới cả những người thân cận với Đức Giêsu. Đây là một khủng hoảng về niềm tin đưa đến mọi đổ vỡ. “Diễn từ bánh trường sinh”, một trong những đỉnh cao của sứ điệp, mang dáng dấp một thất bại thảm não. Đủ rồi! không hiểu biết, thất vọng, bối rối vọng lên từ những tiếng xầm xì… Trước đám người lạc hướng hoặc thù nghịch này, sao Đức Giêsu không bớt giọng một chút? Ngài có thể nắm họ trong tay nếu làm họ cảm động. Nhưng không thế! Không có một nhượng bộ nào! Không có một dễ dãi nào để người ta dễ tin vào chân lý hơn.

Đức Giêsu thậm chí đã sẵn sàng để nhìn cảnh các tông đồ bỏ đi Đối với Ngài, trung tín với Chúa Cha, với Lời, nguồn mạch của tất cả hiện hữu, là trên hết. Chính Ngài là Ngôi Lời trở thành xác thể; là Lời Thiên Chúa hiện thân trong xác phàm. Rõ ràng chính đó mới là điều không thể chấp nhận được.

“Còn anh em, anh em có muốn bỏ đi không?” Bỏ đi, không ở lại là một tình huống rất có thể xảy ra, ngay cả đối với những người bạn thân nhất. Ngài còn đưa ra câu hỏi lấp lửng như thế chất vấn thính giả của mình: “Thế thì khi anh em thấy Con người lên nơi ở trước kia thì sao?”

Nicôđêmô đã không còn chỗ bám víu để rồi cuối cùng hiểu được ông phải “sinh lại” cách nào. Ông đã tin. Chỉ có Đức tin mới soi sáng cho chúng ta hiểu xa hơn những gì từ ngữ nói lên, những gì chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu, những gì chúng ta tưởng tượng, kể cả những gì chúng ta tin rằng mình đã tin. Xa hơn? ‘Người ta ngừng bước… hãy đi xa hơn. Người ta ngừng bước khi không còn lắng tai nghe… hãy vượt xa hơn. Người ta bám lấy những ý kiến riêng, kể cả những thành kiến riêng. Người ta từ chối không chịu nhúc nhích, không chịu để mình bị thúc ép.

Tin, chính là nhận ra ánh sáng le lói bên kia những từ ngữ, bên kia những nghi lễ. Tin cũng còn là ‘cảm’ Lời và được nuôi dưỡng bằng Lời.

Tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến và bước theo Ngài (J. Guillet. trong “Đức Giêsu trong niềm tin của những môn đệ đầu tiên”, Desclée de Brouwer. 1995, tr.82-84).

“Giữa sự tuyên xưng đức tin tại Capharnaum và tại Cêsarê có những điểm giống nhau lạ lùng, tuy nhiên giống về hoàn cảnh và nội dung hơn là ngôn từ (…) Đó là lúc khủng hoảng, là giây phút chọn lựa (…)

Chịu ảnh hưởng của Maccô nên ngay khi bắt đầu câu chuyện, các tác giả Tin Mừng nhất lãm đã cho thấy một câu hỏi nổi cộm về nhân vật Giêsu. Đứng trước uy thế phát xuất từ lời Người nói, sức mạnh từ các phép lạ Người làm, và nhất là lời Người khẳng định mình là Bánh Hằng Sống, mọi người thắc mắc hỏi nhau: Đức Giêsu là ai? Câu hỏi này có liên quan trực tiếp đến số phận của dân Do thái và số phận của chính Đức Giêsu, bởi vì sự chúc phúc mà Abraham lãnh nhận đã gắn liền số phận của Israel với số phận của tất cả mọi dân tộc. Đó là vấn đề phần rỗi của cả nhân loại. Trung tâm của vấn đề trọng đại và lớn rộng này là nhân vật Giêsu và sự đón tiếp Người. Đây cũng là vấn đề đức tin: dưới ánh sáng của Thiên Chúa, các tác giả Tin Mừng nhất lãm trình bày làm thế nào Phêrô là người đầu tiên đã biết trả lời cho Đức Giêsu và nhờ đó dẫn Giáo Hội vào con đường cứu rỗi.

Nơi Gioan. với cách trình bày khác, câu trả lời của Phêrô chứa đựng cùng một nội dung và phát xuất từ cùng một niềm tin: Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Thầy từ Thiên Chúa mà đến, Thầy thuộc về một thế giới mà loài thụ tạo không thể tiếp được thế giới của mọi ước vọng, thế giới của Thiên Chúa Cực Thánh. Tất cả mọi hình thức đức tin đều giống nhau về điểm này. Nhưng theo cách riêng của mình, Tin Mừng Gioan đã đem đến cho lời tuyên xưng đức tin này một tầm mức hết sức quan trọng. Lời tuyên xưng đó được đặt vào một bối cảnh hết sức rộng lớn. Bối cảnh đó là số phận dân Israel và lịch sử của họ. Suốt chương VI, rất nhiều chi tiết cho thấy những diễn tiến từ lúc Đức Giêsu sang bờ bên kia biển hồ Galilê (6, 1) cho đến lúc Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu khen ông đều diễn ra song hành với những biến cố lớn của sách Xuất hành diễn tả sự ra đời của dân tộc Israel.

Những điểm tương cận đó mang một ý định rõ rệt. Đàng sau những trùng hợp này, Gioan lưu ý đến mối liên hệ sâu xa giữa biến cố Xuất Hành, giải phóng dân riêng, vượt biển Đỏ, băng qua sa mạc, và kinh nghiệm mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Người trải qua. Theo Môsê ngày xưa và theo Đức Giêsu hôm nay tự căn bản, tiến trình cũng là một. Giữa những đồng bào thù nghịch và trong một tương lai đen tối, vấn đề là nhận ra, nơi con Người mà bề ngoài như bất lực kia, sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng Người, cũng như nhận ra sự đảm bảo một tương lai hạnh phúc. Vấn đề cũng là bước theo Người, và sống niềm tin như Abraham xưa kia và Đức Giêsu Kitô ngày nay.

Trở thành môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. (Thư Hội Đồng Giám Mục gởi cho người công giáo Nước Pháp, Cerf, tr. 19-21)

“Vào cuối thế kỷ XX này, người công giáo Pháp ý thức rằng mình đang phải đối đầu với một tình thế nghiêm trọng. Triệu chứng của tình thế này thì nhiều và đôi khi đáng ngại. Dĩ nhiên, không được quá thổi phồng cơn khủng hoảng hiện nay: báo cáo của Hội đồng Giám mục về “trình bày đức tin cho thế giới hôm nay” cho thấy ngay giữa những khó khăn, nhiều tín hữu đã đương đầu với thử thách đức tin. Họ là những người đã tìm thấy nơi Giáo hội những lý do để tin, để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, và để dấn thân lãnh nhận trách nhiệm trong đời sống xã hội.

Nhưng không phải vì thế mà chúng ta bưng bít những dấu hiệu đáng lo, đó là số người đi lễ nhà thờ giảm sút, ký ức Kitô giáo phần nào mất đi, và sự phục hồi khó khăn. Ngày nay, trong xã hội chúng ta, chính chỗ đứng và tương lai của đức tin bị đặt thành vấn đề.

Chính trong bối cảnh xã hội này, từ Tin Mừng, chúng ta có thể chọn lựa những gì phù hợp để giúp thế giới phát triển, nhưng cũng không quên Tin Mừng có thể phản bác lại trật tự của thế giới và xã hội khi trật tự này trở nên vô nhân.

Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng thời buổi hiện tại không bất lợi cho việc loan báo tin Mừng hơn những thời kỳ trước đây. Trái lại, tình thế nghiêm trọng hiện nay càng thúc đẩy chúng ta trở về nguồn của đức tin cũng như thúc đẩy chúng ta trở nên những môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô một cách cương quyết hơn và dứt khoát hơn”.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỨC TIN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

-Giai thoại này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần học của Gioan?

-Câu 62 ám chỉ cái gì bí mật?

-Nếu “xác thịt không ích gì”, thì xác thịt của Con Người mà ta phải ăn để được sự sống vĩnh cửu có ích gì không? Phải chăng có mâu thuẫn?

Diễn từ về Bánh sự sống là nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng sứ vụ tại Galilê.

Các Tin Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).

Gioan đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt, của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ về “Giờ”nhưng chương ở giữa 7-12. chỉ đề cập đến những giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50). Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người, đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái, đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu chẳng cần phải nghe những gì người Do thái và các môn đồ giả nói mới biết (x. 5,6) họ không đồng ý với Người. Phải chăng việc ám chỉ đến cái chết của Người và đến ý nghĩa cứu chuộc của cái chết ấy làm cho họ vấp phạm?

Đúng! Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại, đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu. Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc “từ trời xuống” cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan. Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người (1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy: giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.

Một vài nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác bằng cách xem mấy chữ “Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước” như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille, Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải thích này ít xác đáng vì hai lý do:

– Động từ amabainein “lên” không bao giờ tương đương với động từ hupsôthênai “giương cao” trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)

– Việc gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.

Ý kiến này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó khăn.

“Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì” (c 63)

Phải chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon, một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.

Người ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: “Xác thịt không ích gì” có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu rỗi nào nếu không có “thần khí tác sinh”; điều này giả thiết sự sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c 54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a Người bảo: “Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống”. Câu này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra. hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.

Thật ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn không bàn tới sự đối nghịch giữa “Thịt Ta -Thần Khí”, nhưng tới sự đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí – xác thịt là ngày nay ta đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại còn phi lý hơn.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Nhiều môn đồ nói …”

Tiếng Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều’ hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng rõ là số “môn đồ” ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu, ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là “quỷ sứ” (6,70).

“Lời chi mà sống sượng thế”

Không phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.

“Vì chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai”

Không chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.

“Từ đó”

Thành ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.

“Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời”

Nói cho đúng, phải dịch câu này như sau: “Ngài có nhiều lời ban sự sống đời đời” (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào chữa được.

KẾT LUẬN

Các lập trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ là hai đại lễ của dân “được tập họp” của Thiên Chúa (Ga 7-10).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

-Phần kết luận của diễn từ về bánh sự sống dẫn đưa chúng ta tới cao điểm của cơn khủng hoảng từ đó phát sinh cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã hỏi một số lời bắt người ta phải chọn lựa: hoặc tin vào Người, hoặc từ chối không tin.

-Sở dĩ một số môn đồ kêu ca khó chịu và từ chối tin, là vì họ có một cách thức hiểu lời Chúa Giêsu. Hoặc họ từ chối, hoặc đối với một vài kẻ, chưa đến giờ tin, tất cả là vì họ không hiểu lời Chúa Giêsu trong Thần khí. Họ chẳng chịu vượt qua sự hiểu biết vật chất và xác thịt về những lời của Người. Tại sao vậy? Vì tâm hồn họ không ở trong tình trạng đón tiếp. Tâm trí họ đóng kín trước điều mới mẻ. Họ giam mình trong thế giới vật chất mà họ coi là dễ chấp nhận hơn. Điều Chúa Giêsu nói không thể nào có được xét theo con người, thành thử họ loại bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm trong câu hỏi: Điều gì không thể được đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, chỉ muốn phê phán điều có thể và không có thể; họ chẳng có ý định đi tìm quan điểm mà từ đó một số tâm hồn đơn sơ tự nhiên thấy được lối vào trong cái vô biên của thực tại, thực tại Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước một trường hợp điển hình của sự tự mãn ngoan cố và hẹp hòi của trí tuệ con người chỉ muốn phủ nhận cái bên kia những chân trời của nó. Các sứ đồ dã có được phản xạ cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thần khí trợ giúp, họ đã vượt thắng được sự khó hiểu bằng cách trung thành với Chúa Giêsu chỉ Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

-“Nhưng trong các ngươi, có những kẻ không tin”. Hãy tự vấn xem câu này có liên can đến chúng ta, là những tín hữu của thế kỷ XX không? Việc đọc và nghe lời Chúa Giêsu làm chúng ta đặt lại vấn đề. Chúng ta có cho những lời ấy là quan trọng, có thực sự muốn lao công vì “lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời” (6,27), có muốn tiếp nhận lương thực ấy bằng cách ăn uống Thịt Máu của con Người và thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Người không? Nếu không, chúng ta hãy thành thật thú nhận: “Lời chi mà sống sượng thế ”. Ai nghe được (c 60) và hãy rút ra những hậu quả. Chúng ta đừng hy vọng đánh tráo: “Bởi chưng ngay từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Người. Và Người nói: Vì thế Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta trừ phi là đã được Cha ban cho”. Lúc chúng ta quyết định, thì Chúa Giêsu nhắc lại rằng rốt cuộc đức tin của chúng ta không thể căn cứ vào những nhận xét, những suy diễn hoặc những cảnh tượng chủ quan, những căn cứ vào mặc khải mà Thiên Chúa ban cho chúng ta về nhân cách đích thực của Chúa Giêsu và về tương quan giữa ta với Người.

-Thánh Thể là bí tích và là chiến thắng của sự bé nhỏ Tin Mừng: trong Thánh Thể chúng ta là con và lại được trở thành con cái Thiên Chúa. Vì để tin rằng Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình bánh, thì phải có một tâm hồn của trẻ nhỏ, cởi mở đón nhận những điều diệu kỳ của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại câu nói rất mạnh của thánh Tôma: “Chúng ta luôn luôn như là đứa bé trong lòng mẹ trên trần gian này”. Chúng ta đang ở vào thời gian con nhộng. Trong thế giới bên kia, con bướm sẽ ra khỏi bóng tối của nó và sẽ triển nở trong ánh sáng chan hòa.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

CHỌN LỰA ĐI THEO CHÚA- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b) : Ông Giôsuê bảo dân do thái phải chọn hoặc thờ Chúa hay thờ các thần khác.

– Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69) : Sau khi nhiều người bỏ Đức Giêsu, Phêrô thay mặt Nhóm 12 tuyên bố trung thành đi theo Đức Giêsu.

DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan : đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế : theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.

Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng : “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống”

GỢI Ý SÁM HỐI

– Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian.

– Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao.

– Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.

LỜI CHÚA

Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b)

Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Đất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Đất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát : Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.

Đáp ca (Tv 33)

Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Đất Hứa.

Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69)

Kết quả của bài giảng về Thánh Thể :

– Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ : “Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”.

– Đức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”

Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ)

Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng : (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô ; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.

GỢI Ý GIẢNG

* 1. Sống là chọn lựa

Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu : “Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống”. Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằn co : khi ấy người ta đi theo Đức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Đức Giêsu đột ngột chuyển hướng : Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân : họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Đức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình “Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?” Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không ; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc ; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

Đời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn : Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.

Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế :

. Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình : ta phải chọn hoặc là lòng thâm hay là đức công bình.

. Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.

. Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.

Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.

Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau : “Bỏ Ngài con biết theo ai ?

. Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió

“Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi”.

. Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.

“Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu ?”

. Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.

“Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.

. Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.

“Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh”.

Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như m con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.

Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.

Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.

* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai ?

Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau :

Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.

Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).

Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Đức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại : “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại : “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.

Tận hiến cho Đức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Đức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm : mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.

Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng ? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công ? Có thể nói “để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình”. Để theo Đức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói : “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ?”. (Ga.6,68)

Đứng trước lời tuyên bố của Đức Giêsu xem ra có vẻ “chói tai” thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Đức Giêsu.

Đứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa : “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga.6,69).

Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình : “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn ?” (Ga.6,52).

Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm :

*

Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin… Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 3. Đức tin “nghĩa địa”

Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ “gin”, còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin “nghĩa địa”.

Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.

Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình ; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.

Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin “nghĩa địa” cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Đức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi : “Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống” (Viết theo Flor McCarthy)

* 3. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng ?

 Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Đặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi ! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng ! Cảnh sát được lệnh toà “bắt” hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu “Cha”, kêu “Mẹ”, nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình !

 Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.

 Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Đức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa “và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và “không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (c.3). Và “Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (c.14).

 Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : “Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (cc.32-33).

 Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận !

 Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Đức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Đức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Đức Giêsu. Điều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan : “Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1,10-12).

 Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Đức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Đức Giêsu tuyên bố với người Do Thái : “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi ; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”, các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Đức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.

Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả ! (Mc 9,34).

Đức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình

 Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người !

 Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Đức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông : ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).

 Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Đức Giêsu tại Caphácnaum. Đức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Đức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ : “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (c.35). Đó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).

 Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Đức Giêsu tuyên bố “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (c.51). Thịt nói đây là “sarx” trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Đức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Đức Giêsu lại còn nói : “Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (cc.53-56)

Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Đức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng : “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” (c.60). Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến : “Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (cc.62-63). Đáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.

Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Đức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Đức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là : “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” Ông Simon Phêrô liền đáp : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Đức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, “vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, sau khi Đức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng :

Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người.

Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người.

Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Đấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh ; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

TRONG THÁNH LỄ

– Trước lúc rước lễ : Đức Giêsu đã dạy “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”. Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.

GIẢI TÁN

Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-  Năm B

QUYẾT BƯỚC THEO CHÚA– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

DẪN NHẬP

Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử toạ Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được ?  Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự :”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe đuợc”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.

Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những người thân tín nhất,  xem họ có thái độ thế nào ?  Rất may, ông Phêrô đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng:”Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.

Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa : họ không tin nhận phép Thánh Thể vì họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : Gs 24,1-18.

Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuêâ tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường : tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ sở mà họ vừa chiếm cứ ?

Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài ; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.

+ Bài đọc 2 : Ep 5,21-32.

Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.

Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô về đạo vợ chồng có 2 điểm :

a) Vợ phải phục tùng chồng như Hội thánh tùng phục Đức Kitô.

b) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô thương yêu Hội thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.

Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu  và có thể chấp nhận được khi qui chiếu về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.

+. Bài Tin mừng : Ga 6,60-69.

Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của Đức Giêsu :”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.

Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn : tin hay không tin, theo hay rời bỏ ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại  điều gì trong lời khẳng định của Ngài.

Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ :”Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao”(Ga 6,67) ? Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời :”Lạy Thấy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6,68).

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Bỏ Ngài con biết theo ai ?

Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.

CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.

Dân Do thái chọn Thiên Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết : vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông  nói với họ:”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuêâ â:”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không ? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.

Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.

Thái độ của dân Do thái.

Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng  như sau :

– Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài:”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông ? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).

– Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài :”Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).

– Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca :”Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết ! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói : Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42) ?

– Khi Ngài phán:”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên:”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được”(Ga 6,52).

Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).

Thái độ của các môn đệ.

Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu :”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60) ? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài:”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.

Thái độ của Nhóm Mười Hai.

Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu:”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?  Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ:”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên  Chúa “ (Ga 6 , 70).

Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ , Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.

LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.

Nói về sự lựa chọn.

Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra  và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.

Truyện : thần Hercule.

Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói:

– Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.

Người thứ hai nói :

– Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.

Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.

Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều . Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy :

Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,

Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là ?

– Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,

Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.

Chúng ta chọn Đức Giêsu.

Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng : Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là : Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.

Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên :”Không ai có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).

Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói:”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói:”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).

Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !

Vị thần đó là ai ? Đó là Đức Giêsu Kitô.

Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là  một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.       

Chúng ta tin theo Đức Giêsu.

Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal:”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.

Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.

Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.

Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa.  Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm:”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.

TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.

Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không ? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.

Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất : chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.

Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ :

Một nhà hai chủ không hoà,

Hai vua một nuớc ắt là không yên.

Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại  là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 :”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,…ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo…, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.

Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly ùvì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát ? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng :”Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết  trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả : chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.

Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy ? Có kỳ lạ không ? Có vô lý không ? Có điên khùng không ? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu:”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39) ?

Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi : Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau :

“Bỏ Ngài con biết theo ai”

– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.

– Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.

– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.

– Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu ?

– Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.

– Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.

Bước đi không Ngài, đời con  buồn tênh.

Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)

Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như  một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng :”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !

Truyện : vua Charles V.

Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói :

– Con chọn cái nào ?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi :

– Sao con lại chọn thanh kiếm ?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp :

– Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

Chúng ta đã quen với khẩu hiệu :”Per crucem ad lucem” : qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ øthanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên

Xả thân nếu muốn theo Thầy,

Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo. (Mt 16,24)

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN-  ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.

Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.

Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.

Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.

Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.

Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.

Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.

Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.

Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?

2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?

3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

SỐNG LÀ LỰA CHỌN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Trong suốt 5 tuần lễ qua, từ Chúa Nhật 17 cho đến Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã lần lượt nghe trong Tin mừng thánh Gioan chương 6, nói về diễn từ “Bánh hằng sống”. Chúa Giêsu xưng mình: “Thịt ta thật là của ăn; máu ta thật là của uống” (Ga 6,55).

Khi nói đến ăn thịt và máu, khiến người Do Thái cảm thấy khó chịu và chướng tai. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu mời họ ăn thịt người. Đối với Người Do Thái, máu là sự sống, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, không ai được phép uống máu, ai đụng chạm đến máu là bị ô uế theo luật Môisê.

Và người Do Thái chỉ được phép ăn thịt một số con vật có vẩy mà thôi. Vì thế, khi nghe Đức Giêsu khẳng định “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi, để cho thế gian được sống”, làm cho người Do Thái không thể nào tin một người lại lấy thịt máu mình làm của ăn cho người khác được. Cho nên họ lẩm bẩm: “Lời này chói tai quá! Ai mà nghe được? “(Ga 6,60). Và vì không thể chấp nhận được, nên có nhiều người rút lui.

Đứng trước tình huấn đó, Đức Giêsu đặt vấn đề với nhóm mười hai: “Cả chúng con nữa, chúng con cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Với câu hỏi này, Chúa muốn các môn đệ của mình phải có một chọn lựa dứt khoát. Và sự chọn lựa căn bản này, là một điều hết sức quan trọng trong đời sống đức tin của người môn đệ Đức Kitô.

 Nếu chúng ta có một chọn lựa đứng về phía Chúa, thì cho dù cuộc sống đời này có vất vả, nhưng tâm hồn sẽ bình an và hạnh phúc ở đời sau. Nhưng nếu chúng ta chọn theo ý riêng mình, nghĩa là không phù hợp với thánh ý Chúa, thì e rằng sẽ đưa đến hậu quả khôn lường.

Chẳng hạn như: Bà Evà đã nghi ngờ tình thương Chúa, nghe theo lời ma quỉ xúi giục, giơ tay hái trái cấm, hậu quả đánh mất ơn làm con Chúa, làm cho cửa thiên đàng đóng lại, lại còn gây ảnh hưởng đến con cháu ngàn đời.

Trong khi đó, Mẹ Maria muốn giữ mình đồng trinh, để thuộc trọn về Chúa, nhưng khi Chúa ngỏ lời cưu mang và sinh Con, thì Mẹ Maria liền bỏ ý riêng, thưa lời xin vâng cộng tác vào chương trình cứu độ, đưa nhân loại đến sự sống, cửa thiên đàng được mở ra.

Sau khi tiến vào Đất Hứa, vì ảnh hưởng các hình thức thờ tự của dân ngoại, dân Do thái đã không có chọn lựa dứt khoát đứng về phía Thiên Chúa, từ đó cuộc sống của họ ngày càng bất trung với lời giao ước của Thiên Chúa.

Trong bối cảnh ấy, thủ lãnh Giôsuê đã triệu tập toàn dân lại. Tại đây, ông nhắc lại cho dân chúng tất cả những gì Thiên Chúa đã yêu thương đồng hành với họ trong suốt hành trình 40 năm qua, và mời gọi họ chọn lựa dứt khoát: “Một là tôn thờ Thiên Chúa, hai là tôn thờ các thần tượng khác…” (Gs 24, 15), chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay.

Nhân cơ hội này, Giôsuê cũng nói cho dân chúng biết về sự chọn lựa của ông và gia đình ông: “Phần tôi và gia đình tôi sẽ tôn thờ Thiên Chúa” (Gs 24, 15). Dân Do thái, sau khi bình tâm nhớ lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ, họ đã đồng thanh trả lời với Giôsuê: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại khác” (Gs 24, 16). Họ đã quyết tâm đứng về phía Thiên Chúa. Chọn Chúa làm gia nghiệp, làm lẽ sống, là Thiên Chúa độc nhất họ tôn thờ.

 Đây cũng là chọn lựa của các tông đồ mà thánh Phêrô đại diện cho nhóm 12 thưa lên cùng Chúa: “Thưa Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,69).

Và một khi đã chọn lựa, thì phải trung thành sống với sự chọn lựa ấy. Như lời thánh Phaolô trong bài đọc II, đã khuyên các đôi vợ chồng: một khi đã chọn nhau làm bạn đời, thì suốt đời phải trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là thuỷ chung, tùng phục nhau, và hoà thuận thương yêu nhau.

Anh chị em thân mến,

Ngày lãnh bí tích Rửa tội, và mỗi năm trong dịp lễ vọng Phục Sinh, Hội thánh nhắc nhở con cái mình việc chọn lựa căn bản đó, là lặp lại lời tuyên xưng đức tin, và tuyên bố từ bỏ ma quỷ và các việc làm của nó.

Thế nhưng, việc chọn lựa của chúng ta không phải chỉ thể hiện một lần là xong, mà cần phải lặp đi lặp lại trong từng giây phút của cuộc sống.

Lắng nghe lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta xác tín hơn về chọn lựa theo Chúa của mình. Chớ gì, trước mỗi công việc, mỗi lời nói, chúng ta luôn suy nghĩ việc làm này, lời nói này có phù hợp với thánh ý Chúa không. Hành động này Chúa có hài lòng không?.

Ước gì lời tuyên xưng của thánh Phêrô năm xưa, cũng là lời tuyên xưng đức tin của chúng ta trong giây phút này. Vì thế kính mời anh chị em đứng lên cùng tuyên xưng đức tin. Amen.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

BỎ THẦY CON SẼ THEO AI– Lm. Trần Bình Trọng

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.

Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?

Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.

Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)? Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.

Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.

Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.

Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai…, đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?

Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60) trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).

Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.

Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh Thể:

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.

Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể

để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.

Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con

khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa

Và xin cho con giữ vững lời Chúa.

Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai

mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

LÒNG TRUNG THÀNH-  Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.

Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.

Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.

Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.

Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!

Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

LÒNG TRUNG THÀNH- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể : Anh … nhận em … làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.      

Lòng trung thành dường như là điều cần thiết cho cuộc sống chung. Trong mọi tương quan, trong mọi bậc sống đều cần lòng trung thành, sự chung thủy với nhau. Bạn bè chơi với nhau cần trung thành để không phản bội nhau. Vợ chồng cần trung thành để không có lỗi với nhau. Thầy trò cần lòng trung thành để gắn bó mật thiết với nhau. . . Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.      

Nhưng xem ra xã hội chạy theo lợi nhuận đã khiến con người khó giữ lời hứa trung thành. Vì lợi nhuận có người đã thay đổi công ty mỗi năm vài lần, cho dù đó là những ông chủ đã từng cưu mang họ lúc khó khăn. Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế ! Rất khó kiếm được bạn tri kỷ như thế hệ cha anh. Họ chơi với nhau  nhưng dễ dàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì công danh của họ. Ngày hôm nay càng khó kiếm những đứa học trò về thăm thầy cô sau khi công thành danh toại, đôi khi còn phản thầy, phản bạn và vu khống nhau . . .

Điều báo động là lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân hôm nay cũng đang bị phá hủy một cách đáng báo động. Ở những thành phố lớn như Sài Gòn người ta tính cứ 3 đôi kết hôn thì 1 đôi không trung thành với nhau trọn đời. Và theo thống kê tại nơi thử máu AND để xác định cha con ruột với nhau thì cứ 10 trường hợp thì có 3 trường hợp nuôi con hàng xóm. . .

Quả thực, lòng trung thành nói thì dễ nhưng giữ lại chẳng dễ chút nào. Ngay trong tôn giáo có mấy người thực sự giữ lòng trung thành với Thiên Chúa? Ở Việt Nam vào thập niên 1980-1990 của thế kỷ trước rất nhiều người đã ghi vào lý lịch bản thân là không tôn giáo để tìm kiếm công danh cho dễ. Ở đâu đó ta vẫn thấy người Công Giáo nhưng không trung thành giữ luật Chúa, họ vẫn tham ô, lừa gạt, sống thiếu yêu thương . .  .

Lời Chúa hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ môi miệng của Simon Phêrô : “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời “. Nhưng Phê-rô thực sự đã không giữ lời hứa. Ông đã ngã đi ngã lại tới 3 lần và cuối cùng bỏ chạy biệt tăm trên đường thập giá mà Chúa phải đi một mình! 

Cuộc đời mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống Simon Phêrô xưa. Nói yêu Chúa thì dễ nhưng khi phải làm chứng thì lại chạy xa. Đi lễ thì đông nhưng giữ trọn luật Chúa còn mấy ai? Ngày nay không còn có những cuộc bách hại đạo tàn khốc nhưng cuộc cạnh tranh cơm áo gạo tiền đã khiến bao người đánh mất lòng trung thành với Thiên Chúa. Và lòng trung thành với nhau của vợ chồng, của bạn bè , của đối tác làm ăn càng khó giữ vì lợi nhuận mà người ta dễ dàng phản bội nhau.

Chúa Giê-su hôm nay nói với các môn đệ và cũng là chúng ta muốn trung thành với Chúa và với nhau không thể dựa vào bản thân mà hãy dựa vào chính Chúa. Chính ơn ban của Chúa Cha mới giúp chúng ta sống trung thành với lời hứa. Thế nên, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy với ơn Chúa. Hãy gia tăng cầu nguyện, hãy phó thác vào Chúa để Ngài nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta và hoàn thiện chúng ta nên tốt hơn. 

Xin ơn Chúa giúp chúng ta giữ lòng trung thành với Chúa và với nhau. Nhất là luôn nhận ra Chúa mới là nguồn sống trường sinh để biết chọn Chúa hơn là của cải trần gian mau qua. Amen

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-  Năm B

LỜI HẰNG SỐNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.

Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.

Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.

Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.

Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.

Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).

Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: “Anh giơ tay ra! ” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi! ” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).

Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).

Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

LỘI NGƯỢC DÒNG- Lm  Phêrô Hồng Phúc

“Đối với loài người thì không có thể,nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể”.

Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.

Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng, người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.

Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.

Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có tinh thần nghèo khó.

Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, chúng con được gì”. Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta thấy một hoa trái thật là lớn lao: “Thầy nói thật với các con: không ai đã bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel”(Mt 19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui, hạnh phúc… Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi, trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.

Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng, chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất, họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!

Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,

những bước đi tự nhiên của chúng con.

Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện

theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.

Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,

Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.

Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,

dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,

sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.

Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất

để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.

Chúa gọi chúng con đi ngược dòng

chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.

Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

MẦU NHIỆM GIÊSU- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ

Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu

“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.

Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.

Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.

Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải

Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.

Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?

Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.

Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô

“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?

Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.

Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?

Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

THÁCH ĐỐ LỚN NHẤT – Lm Giuse Đỗ Vân Lực

Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Đức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.

Nguồn sống

Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Đức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!

Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Đến với Đức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Đức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.

Đức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Đức Giêsu. Nói khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Đây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Đức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)

Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.

Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Đã đến lúc họ phải dứt khoát. Oâng Giôsuê “đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Đất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.

Những sự kiện trái ngược

Các môn đệ Đức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Đức Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi…” (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Đức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?

Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Đức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Đức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Đức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Để chuẩn bị cho ngày Đại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Đại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Đức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.

Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Đại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TRAO BAN SỰ SỐNG THẦN LINH- Lm Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, tại hội đường Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su nói với những người hiện diện: “Thật, tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy… ”

Mọi người trong hội đường cảm thấy bị “sốc” trước những lời này của Chúa Giê-su. Ngay cả các môn đệ thân tín của Chúa Giê-su cũng nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” Và thế là kẻ trước người sau lần lượt bỏ đi không muốn theo Ngài nữa!

Chúa Giê-su rất đau lòng trước tình cảnh đó, Ngài nói với Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”

Hôm nay, ngay cả những người có đạo khi nghe những lời này cũng cảm thấy “ghê”.  Tại sao Chúa lại nói những lời gây khó chịu cho bao người như thế?

Phải hiểu thế nào cho đúng lời Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay.

Trước hết ta cần phân biệt thân xác của Chúa Giê-su trước và sau khi phục sinh khác biệt rất xa.

Trước phục sinh, thân xác Ngài hoàn toàn giống như thân xác chúng ta: cần ăn khi đói, cần uống khi khát, thân xác đó có thể bị thương tích vì roi đòn, bị đâm thủng bởi ngọn giáo của người lính Rô-ma và thân xác đó đã thực sự bị giết chết…

Tuy nhiên, sau khi phục sinh, thân xác Chúa Giê-su biến đổi hoàn toàn nên không còn giống như thân xác chúng ta: Dù các môn đệ họp nhau trong phòng cửa đóng then cài cẩn thận, Chúa Giê-su phục sinh vẫn hiện đến giữa họ không cần qua cửa; thân xác phục sinh của Chúa Giê-su không lệ thuộc không gian; thân xác đó không thể bị thương tích và không bao giờ chết nữa…

Nói tóm lại, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su mang một thân xác thần linh, thiêng liêng, vô hình vô tướng.

Vì thế, khi Chúa Giê-su nói  “Thịt Ta là Của ăn, máu Ta thật là Của uống …” là Chúa Giê-su nói về thân xác phục sinh của Ngài, nói về Thịt Máu thiêng liêng của Ngài, chứ không phải là nói về thân xác chưa sống lại, vì thân xác trước phục sinh của Chúa Giê-su có thể chỉ cao chừng 1,8m, nặng chừng 80 kg thì có đâu mà cắt chia ra cho nhiều người ăn được.

Chúa Giê-su xác nhận Mình và Máu mà Ngài hứa ban chính là thân xác sau phục sinh, như lời Ngài nói : “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.”

Như thế khi chúng ta ăn uống Mình Máu Chúa Giê-su là chúng ta ăn uống Mình Máu của Chúa Giê-su phục sinh. Đây không phải là thứ thịt máu của con người trần gian, mà là thịt máu của Thiên Chúa, rất thiêng liêng, vô cùng cao cả.

Tại sao Chúa Giê-su mời chúng ta ăn uống Thịt Máu đã phục sinh vinh hiển của Ngài ?

Bởi vì,

Sự sống của thân mình không thể chuyển qua nuôi sống bàn tay khi bàn tay đó bị cắt lìa khỏi cơ thể, không còn nên một với thân thể.

Tương tự như thế, Sự Sống của Chúa Giê-su không thể thông truyền cho chúng ta nếu chúng ta không được tháp nhập nên một với Ngài.

Vì thế, Chúa Giê-su mời ta ăn uống Thịt Máu Ngài, để nhờ đó ta trở nên một với Ngài, cùng chung máu thịt với Ngài… Và một khi được nên một với Chúa Giê-su mật thiết như thế, thì những gì của Chúa Giê-su cũng là của chúng ta; Sự Sống của Chúa Giê-su cũng là sự sống của chúng ta. Bấy giờ chúng ta được sống đời đời mãi mãi với Chúa Giê-su.

Lạy Chúa Giê-su,

Người mắc bệnh ung thư vào thời kỳ cuối chỉ cầu mong sao sống thêm được chừng 5 hoặc 7 năm nữa là phúc lắm rồi và người bệnh sẵn sàng bỏ ra tiền tỷ để mưu cầu sống thêm được một thời gian ngắn trên dương gian.

Thế mà hôm nay, Chúa mời chúng con đón nhận Mình máu thánh Chúa để được sống muôn đời với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng với Mẹ Maria và các thánh trên thiên quốc thì còn gì quý bằng!

Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

CHỌN LỰA, MỘT HÀNH VI KHÔNG DỄ- Lm. GiusevNguyễn Văn Nghĩa

Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.

Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một “con người”, theo một “ai đó”, một “Đấng nào đó”. Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XXI TN B đặc biệt lưu ý chúng ta đến hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.

Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24,15). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.

Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: ” Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: “Ông cứ về đi, con ông sống” và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hói đã đuợc cứu sống (x. Ga 4,46-54). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x. Ga 6,1-15).

Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các “kẻ thù” lân bang (Gs 24,19-20).

Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người (x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).

Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x. Gs 24,23)… Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự “liều lĩnh” nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều “cái giá” phải trả khi chọn lựa.

Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là “vác thập giá”. “Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo trước: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).

“Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi” (thánh Augustinô). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TỰ DO LỰA CHỌN (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”(Ga 6,67)

Bài Tin Mừng hôm nay được coi như đoạn kết cho một câu truyện tương đối dài trong TM của Gioan. Câu truyện bắt đầu bằng một phép lạ rất đặc biệt được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đó là phép lạ bánh hóa nhiều. Sau phép lạ Chúa giảng một bài giảng rất đặc biệt với đề tài cũng rất đặc biệt. Đó là bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng này đã gây ra một sự phân hoá chưa từng thấy trong thái độ của những người nghe Chúa lúc đó. Ngoài thái độ của những kẻ đã có sẵn một ác ý và luôn thù nghịch với Chúa, chúng ta còn có thể thấy ba thái độ rất khác nhau về vấn đề này.

Trước hết là thái độ của đa số quần chúng.

– Được Chúa cho ăn bánh no nê, họ cảm thấy vui. Hơn nữa họ còn muốn tôn Chúa lên làm vua để cai trị họ, với hy vọng họ sẽ có được một tương lai sáng sủa và oai hùng hơn.

– Chính vì quá mong mỏi một tương lai có tính cách trần thế như vậy cho nên khi thấy Chúa không đáp ứng được những mong ước của mình, dân chúng đã bắt đầu lạnh nhạt với Chúa. Khi Chúa nói với họ về một thứ bánh mà Chúa gọi là bánh hằng sống thì họ tỏ ra lãnh đạm lạ thường. Thái độ đó dần dần đã làm cho họ trở thành những người  sẵn sàng đối đầu với Chúa sau này,

Thái độ thứ hai là thái độ của một số các môn đệ.

– Lý ra thì họ phải là những người hiểu Chúa, tha thiết với Chúa nhiều hơn. Cho dù những lời Chúa giảng có khó chấp nhận thì họ cũng phải luôn gắn bó với Chúa. Thế nhưng thật không may cho Chúa, Chúa mới chỉ đề cập đến một vấn đề hơi khó hiểu một chút thế mà họ đã bỏ Chúa, bỏ một cách không một chút nuối tiếc. Charles Erdman bảo họ bỏ Chúa vì họ thất vọng. Họ thất vọng vì Chúa không trở thành một nhà lãnh đạo chính trị như lòng họ vẫn thầm mong.

– Trước sự ra đi của họ, xem ra Chúa hơi đau xót một chút nhưng Chúa vẫn giử nguyên thái độ và không chịu lùi bước.

Thái độ cuối cùng là thái độ của nhóm 12.

– Sau khi một số các môn đệ bỏ đi, Chúa hướng mắt của Người về nhóm 12.

– Phêrô đại diện cho tất cả nhóm nói lên một lời mà cho dù không phải là Chúa chúng ta cũng dư biết là Chúa rất vui lòng.

– Thái độ của Phêrô làm Chúa cảm động. Phêrô đã dứt khoát chọn Chúa….Một chọn lựa không có gì làm cho ông thay đổi.

Vấn đề của ta: Tại sao cùng đứng trước một Chúa Giêsu mà lại có nhiều thái độ khác nhau như thế? Tại vì những lời Chúa nói và vấn đề Chúa đặt ra khó tin quá.

+ Dân chúng không hiểu được vì họ không muốn hiểu.

+ Một số môn đệ không những đã không muốn hiểu mà còn cho đó là những lời quá chói tai nghe không được nên họ bỏ đi.

+ Chỉ còn lại một nhóm nhỏ tuy không hiểu nhưng vẫn tin và vẫn chấp nhận. Họ chấp nhận bởi vì họ cảm thấy không thể bỏ Chúa. Lòng tin của họ rất chân thành. Niềm tin của nhóm 12 chẳng khác gì niềm tin của Giosuê thuở xưa trong thời Cựu ước. Tại Sikem nơi mà trước đây Abraham đã dựng bàn thờ đầu tiên để dâng đất Canaan này cho Thiên Chúa (Kn 12,6), nơi mà Giacob và con cái của ông đã để lại rất nhiều kỷ niệm (Kn 33;35), nơi mà trước đây ông đã chọn để tuyên bố luật pháp. Chính tại nơi đây một lần nữa Giosuê biểu lộ lòng trung thành của ông và gia đình ông. Ông nói với những người Do thái như thế này: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần khác mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

Vâng đó là một chọn lựa thật đẹp, đẹp trong thái độ của ông và gia đình ông, và còn đẹp cả ở trong ý nghĩa nửa: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

Giosuê quả xứng đáng là một nhà lãnh đạo. Lòng tin và lòng trung thành của ông đã trào qua và thấm vào lòng của toàn dân. Dân chúng cũng cảm thấy họ không thể chọn con đường nào khác. Họ đã đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác ! Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. ĐỨC CHÚA đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”

Đó là những gì đã xẩy ra từ ngàn xưa, cách chúng ta cả gần 3000 năm.

Thế còn bây giờ thì sao?

Vào năm 1924 ở nước Anh, có một người tên là Eric Liddell. Eric Liddell là vận động viên xuất sắc trong môn chạy 100 mét. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đem về cho quê hương chiếc huy chương vàng tại đại hội Olympic được tổ chức tại Paris nước Pháp năm đó. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng bực tức khi nghe tin anh từ chối không tham dự đại hội đó. Lý do là vì đại hội đó tổ chức nhằm ngày Chúa nhựt. Anh không thể bỏ lễ Chúa nhựt để đi tìm một huy chương vàng. Mọi người đều gây sức ép trên anh. Cả hoàng tử xứ Walles cũng cố gắng thuyết phục anh đi dự đại hội đó. Thế nhưng anh nhất định không chịu đổi ý, báo chí Anh quốc cho anh là tên phản bội.

Vài năm sau, anh còn làm cho mọi người sửng sốt hơn nữa, khi anh đến Trung Hoa làm trong vai trò của một nhà truyền giáo.

Thế rồi thế chiến thứ hai xảy ra. Khi Nhật nhả̉y vào cuộc chiến, anh bị bắt và bị giam trong một trại tập trung. Tại đây anh vẫn tiếp tục việc mục vụ bên cạnh các tù nhân. Vài năm sau, anh đã anh dũng chết tại trại tập trung nầy. Năm 1980, có người đã dựng lên cuốn phim về cuộc đời hy sinh vì Chúa của anh. Cuốn phim tựa đề là “Chuyến xe chở lửa”. Cuốn phim đã phá kỷ lục về lợi nhuận mà còn đoạt giải thưởng Hàn Lâm năm 1982.

Cuộc đời của Eric Liddell đã làm sáng tỏ thái độ dứt khoát mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay.

Một khi đã quyết định theo Chúa Giêsu, Eric cứ nhắm thẳng phía trước mà tiến bước, không bao giờ ngó lại phía sau dù phải đối diện với áp lực khủng khiếp của dân chúng, dù bị gọi là tên phản bội.

Bí quyết nào giúp anh can đảm, trung thành bền đỗ đến thế?

Anh luôn thức dậy sớm mỗi ngày, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện. Đó là bí quyết của anh. Và chắc chắn đó cũng là bí quyết cho chúng ta, nếu chúng ta muốn làm môn đệ Chúa bền vững. Và “ai bền đỗ dến cùng sẽ được cứu thoát” (Theo “Sunday  homilies”).

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

LỜI CHÚA LÀ LỜI HẰNG SỐNG-  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Từ xưa đến nay, sống trường thọ luôn là mơ ước của toàn nhân loại. Không hiếm các bậc đế vương trong lịch sử hao công tốn của đi tìm kiếm. Hiện nay, dù cho khoa học có rất nhiều tiến bộ, đời sống con người ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ được nâng cao, nhưng cái đích cuộc sống bất tử có lẽ còn rất xa con người hay bất cứ ai muốn đạt được điều kỳ diệu ấy. Bất tử, đồng nghĩa với không phải chết, hay sống đời đời.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta một bí quyết, chọn Chúa thì sẽ được sống tự do, sống vui và sống sống hạnh phục (x. Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b), theo Chúa, kết hợp với Chúa thì sẽ được sống đời đời, lời thánh Phêrô khẳng định, “chỉ có Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68).

Chọn Chúa để được sống

Sinh ra sống ở trên đời, con người được đặt trước những lựa chọn. Chọn cho mình một lý tưởng, một hướng đi là điều rất quan trọng nhất, chọn đúng thì hạnh phúc, chọn sai sẽ có điều ngược lại. Ai trong chúng ta cũng phải đối diện với sự chọn lựa ấy, dân Do thái thời được Giôsuê đặt trước những chọn lựa : ” Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ…”. Dân đáp lại : “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa, mà phụng thờ các thần khác. Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông của chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ…” (Gs 24, 15-17). Dân đã chọn Chúa để được sống trong tự do làm con cái Chúa là Chúa sự sống.

Chọn Giêsu Bánh Hằng Sống

Đoạn Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta về Capharnaum, nơi có rất nhiều người theo Chúa Giêsu vì họ đã thấy phép lạ Chúa làm, đặc biệt sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Về phương diện xã hội, chính tại nơi đây Chúa Giêsu có nguy cơ “chết vì thành công”, như Tin Mừng mô tả, họ muốn tôn Người lên làm vua (x. Ga 6, 15). Đây là thời điểm quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Kitô. Chính thời điểm này, Người bắt đầu mạc khải rõ nét về về Bánh Hằng Sống là chính Người với những lời xác quyết về sự sống siêu nhiên qua điệp của Người.

Khát vọng của con người là được sống trường sinh. Ngay từ thủa ban đầu, Adam va Evà đã hái và ăn trái cấm, vì tin rằng trái này sẽ làm cho mình sống mãi, không phải chết. Bất tử trên đời này là một điều thú vị và ai cũng khao khát, nhưng xem ra không tìm thấy ở trần gian này.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ăn và uống chính thịt và máu Người để được sống đời đời. Điều này có nghĩa là chúng ta được mời gọi “ăn” và “uống” không phải một sự vật, nhưng là “ăn thịt và uống máu con người có tên Giêsu” một ngôi vị sống động. Người tha thiết mời gọi chúng ta đến với Người, tin vào Người, ở lại trong Người như thánh Phaolô : “Không còn là tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi” (), nghĩa là ai đón rược Chúa vào trong cuộc đời, được Chúa trở thành xương thịt, thành sự sống cho người ấy. Chẳng những thịt máu Chúa nuôi sống mà Lời Chúa cũng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời cho những kẻ nghe Người. Thế nhưng không phải ai cũng có thể lĩnh hội được.

Lời từ miệng Chúa phán ra với đám đông dân chúng khiến Chúa gặp rắc rối với họ, đến nhóm môn đệ Chúa cũng còn nói : “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60).

Một ai đó nói rằng, trong lịch sử Giáo hội, những người vĩ đại giống như những những cây cột không thể phá hủy khi đổ xuống : “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa” (Ga 6,66). Chúng ta có thể gục ngã, “bỏ qua”, ra đi, chỉ trích, hay tiếp thu những Lời Chúa Giêsu nói trên vào trong tâm trí chúng ta. Với sự khiêm nhường và tin tưởng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa chúng con muốn trung thành với Chúa hôm nay, mai ngày và mãi mãi. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rằng thật vô ích khi tranh luận về lời giảng dạy của Thiên Chúa hay Giáo hội nên chúng ta nói với nhau rằng “Tôi không hiểu” ; “Lạy Thầy, chúng ta sẽ đi theo ai?” (Ga 6,68). Chúng ta nên xin một ơn phân định siêu nhiên hơn. Chỉ trong Thiên Chúa và Giáo hội chúng ta sẽ tìm thấy Lời ban sự sống đời đời : “Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).

Lời Đức Kitô mang lại sự sống đời đời

Giống như Phêrô, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu nói với chúng ta bằng ngôn ngữ siêu nhiên, một ngôn ngữ mà chúng ta phải đồng ý và đồng hóa để hiểu ý nghĩa, nếu không chúng ta chỉ nghe thấy những tiếng ồn không mạch lạc và khó chịu. Giống như Phêrô, trong đời sống Kitô hữu chúng ta có những khoảnh khắc, chúng ta phải tự làm mới và bày tỏ chính mình với Chúa Giêsu để thưa với Chúa rằng chúng con ở với Chúa và chúng con muốn tiếp tục theo Chúa. Phêrô yêu mến Chúa Giêsu, và đó là lý do tại sao ông ở lại với Chúa, những người khác yêu Chúa chỉ vì cơm bánh, trẻ em theo Chúa vì “kẹo”, số người khác vì lý do chính trị đã bỏ rơi Chúa. Bí mật của lòng trung thành là tình yêu và sự tin tưởng.

Chúng ta hãy xin Đức Maria là Đức Nữ trung tín thật thà giúp chúng ta từ bây giờ trung thành với Chúa và với Giáo hội.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI-  Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Khởi đi từ tình mục tử ấp ủ đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt (x. (Mc 6, 30-34), Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương”, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 1-15). Từ của ăn vật chất, Chúa gợi lên nơi họ khát vọng sống trường sinh, muốn được họ phải đi tìm Chúa, tin vào Chúa, ăn chính thịt và uống máu Chúa là bánh hằng sống từ Trời xuống (x. Ga 6, 16-60).

Với diễn từ của Chúa Giêsu về bánh hằng sống tại Hội đường Do thái ở Capharnaum, nhiều người bỏ Chúa, còn các môn đệ không chấp nhận điều ấy, họ nói : “Lời này chói tai quá! Ai nghe  được!” (Ga 6, 60) Tại sao họ lại có thái độ khước từ Chúa đến như vậy? Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao ?

Có người khước từ

Vấn đề ở đây là “ăn thịt và uống máu” (Ga 6,54) một con người có tên là Giêsu, đồng hương với họ để được sống đời đời. Chúa Giêsu cố tình nói như thế, đây là một vấn đề rất cam go, một khúc quanh trong cuộc đời công khai của Chúa. Dân chúng và cả các môn đệ trước đây rất phấn khởi đi theo Chúa, thấy Chúa làm phép lạ; cả việc hóa bánh ra nhiều cũng là một mạc khải về Ðấng Messia, khiến họ muốn tung hô và tôn Chúa Giêsu làm vua Israel, nhưng chắc chắn ý Chúa Giêsu không như vậy. Với diễn từ dài, Chúa làm dịu bớt sự phấn khởi trong dân và tạo nên sự bất đồng nơi nhiều người. Chúa giải thích hình ảnh bánh ấy chính là Chúa và khẳng định Người đã được Chúa Cha sai đến để hiến mạng sống, ai muốn theo Người, thì phải kết hiệp mật thiết với Người, và tham gia vào hy tế tình thương của Người.

Khi nghe những lời ấy, dân chúng hiểu rằng ông Giêsu này không phải là Đấng Messia như họ tưởng. Người không tìm kiếm sự đồng thuận để chinh phục thành Giêrusalem; trái lại, Người muốn vào Thành để chia sẻ số phận của các vị ngôn sứ : hiến mạng sống trở nên tấm bánh vì Thiên Chúa và cho loài người. Những tấm bánh đó, được bẻ ra cho hàng ngàn người, không muốn khơi lên một hành trình đắc thắng, nhưng tiên báo hy tế trên Thập Giá, trong đó Chúa Giêsu trở thành Bánh được bẻ ra nuôi nhiều người, trở thành mình và máu được dâng hiến để đền tội cho thế gian được sống. Chúa muốn đám đông dân chúng tỉnh ngộ, nhất là khơi lên nơi các môn đệ một quyết định. Và thực tế là : “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa ” (Ga 6,  66)

Có người quyết tâm theo Chúa

Nếu có môn đệ nói : “Lời này chói tai quá! Ai nghe  được!” (Ga 6, 60) trước sự hiến thân trọn vẹn của Chúa, là vì họ không muốn từ bỏ bản thân, để cho mình tham dự và biến đổi đến độ sống nhờ Chúa khi đón nhận hồng ân nay.

“Lời này chói tai quá! Ai nghe  được!” (Ga 6, 60), khó nghe vì người ta lẫn lộn tự do với không bị ràng buộc, coi Thiên Chúa như một giới hạn tự do, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Chính ảo tưởng này tạo ra lo âu sợ hãi và dẫn tới sự tiếc nuối quá khứ. Người Do thái trong sa mạc đã nói : “Ước gì chúng tôi được chết vì tay Chúa ở đất Ai Cập…” (Xh 16, 3); còn Êlia thì thưa : “Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con” (1V 19, 4).

Tại thung lũng Sikhem, nơi tổ phụ Abraham và Xara trú ngụ. Giôsua kêu mời dân ra đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và làm một quyết định dứt khoát : “Nếu các người không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn … tôn thờ ai hơn : hoặc là các thần cha ông đã tôn thờ…hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở, về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Dân trả lời “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần Ngoại, Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (x. Jos 24, 15-17).

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đòi hỏi thính giả của Chúa Giêsu làm một quyết định tương tự sau khi nghe giảng về Bánh hằng Sống là máu thịt Chúa. Nhưng vì lời chướng tai của mình, họ đã bỏ đi, chỉ còn lại Phêrô và nhóm Mười hai. Phêrô mạnh dạn thưa : “Lạy Thầy chúng con biết sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).

Hôm nay, chúng ta thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa, trong sự khiêm nhường thẳm sâu, tin tưởng vào Chúa là Lời cuối cùng và chung kết của Thiên Chúa nhập thể, đến gặp gỡ chúng con. Chúa là Lời vĩnh cửu, trở thành manna đích thực, là bánh sự sống (x. Ga 6,32-35), chúng con muốn trung thành với Chúa bây giờ và mãi mãi, cũng như Phêrô : “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).

Chúa có lời ban sự sống

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy : Những ai ăn Đức Kitô trong Thánh Thể không cần phải chờ đến đời sau mới đón nhận được sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này, như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn liên quan đến toàn thể con người. Trong Thánh Thể, chúng ta cũng nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày tận thế : “Ai ăn thịt và uống máu tôi,  thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Sự bảo đảm này về sự sống lại mai sau bắt nguồn từ sự kiện thân xác của Con Người, được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển sau khi sống lại. Với Thánh Thể, chúng ta như thể biết được “bí mật” của sự sống lại. Vì thế, Thánh Inhatiô thành Antiokia đã định nghĩa cách xác đáng Bánh Thánh như là “linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”.

Chiều hướng cánh chung được gợi lên trong Thánh Thể…Khi cử hành hy tế của Con chiên, chúng ta được liên kết với “phụng  vụ” trên trời và trở nên thành phần của một đoàn người đông đảo lớn tiếng tung hô : “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,10). Thánh Thể quả thật là một thoáng hiện của thiên đàng trên trái đất. Thánh Thể là một tia sáng huy hoàng của Giêrusalem thiên quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch sử chúng ta và soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. (Trích Thông Điệp  Ecclesia De Eucharistia số 18-19)

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

THẦY CÓ LỜI BAN SỰ SỐNG-  Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Người đời vẫn nói cuộc đời bị giằng co giữa nhiều chọn lựa, người ta thường bị cám dỗ bỏ cuộc sống hiện tại để tìm cuộc sống khác mà người ta nghĩ sẽ tốt đẹp hơn. Hơn nữa, yêu cũng là một chọn lựa. Khi người ta yêu nhau, người ta chọn lựa người bạn đời của mình và cố gắng để chung thủy trong tình yêu. Chọn lựa cũng là một quyết định và một hy sinh, bởi vì sau khi chọn lựa, người ta không còn có thể thay đổi được nữa và phải quyết tâm để làm cho hoàn thiện hơn điều mình đã chọn lựa. Trong bài đọc sách Giosuê, ông Giôsuê đã qui tụ dân chúng và mời gọi mọi người quyết định chọn lựa, chọn thờ phương Thiên Chúa hay chọn thờ các thần xứ Mêsôpôtamia xưa kia hay những thần của người amôrê nơi họ đang sống gần, còn phần Giôsuê, ông nói cho mọi người biết quyết định của mình và gia đình mình là thờ Thiên Chúa. Dân chúng đã đồng thanh trả lời không có chuyện họ bỏ Chúa để đi theo các thần dân ngoại vì chính Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi Ai cập và làm những việc trọng đại cho họ, đã cùng đồng hành với họ trên suốt những chặng đường gian khổ mà họ đã đi qua. Điều có thể ghi nhận là dân Israel đã khôn ngoan sáng suốt để chọn lựa Thiên Chúa và biết nhớ lại những việc tốt lành mà Thiên Chúa đã làm cho họ. Họ đã không tỏ ra vô ơn, tham lợi mà vội bỏ Chúa để chạy theo những thần của dân ngoại.

Trong tường thuật Tin mừng Gioan chương 6, sau khi Chúa Giêsu tuyên bố người là Bánh hằng sống từ trời xuống và ai ăn thịt và uống máu người sẽ được sống đời đời. Nhiều người do thái đã bỏ người mà đi. Không những thế, tình hình càng lúc càng xấu hơn. Chính các môn đệ cũng xầm xì với nhau : “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Chúa Giêsu giải thích cho họ rõ hơn và báo trước việc người sẽ phục sinh. Việc người sẽ phục sinh và đi vào cõi sống bất tận của Thiên Chúa sẽ là bằng chứng của việc người là bánh hằng sống từ trời xuống và hơn nữa, chính Thánh Thần là nguyên lý của sự sống thần linh mà Lời của người lại đầy tràn Thánh Thần, và vì thế nên việc người tuyên bố người là Bánh hằng sống là lời chân thật: “Vậy nếu các con thấy con người lên nơi ở trước thì sao? Chính Thần trí mới làm cho sống chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời ta nói với các con là Thần trí và là sự sống”. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ bằng cách hướng đến sự phục sinh mà người sẽ khai mào bằng cái chết thập giá của người. Người chính là Con Thiên Chúa, đầy tràn sự sống và tham dự vào sự sống của Cha, và Lời của người đầy tràn Thánh Thần ban sự sống. Giờ đây khi người tuyên bố người là Bánh hằng sống, người hướng tới sự chết và sống lại của người. Người chắc chắn lời người là chân thật, tức là mạc khải về Thánh Thể, vì người chắc chắn người sẽ chiến thắng sự chết và đi vào vinh quang thiên quốc mà người vốn hiển trị cùng cha bằng cái chết tự hiến của người trên thập giá. Người sẽ trở về với sự sống muôn đời của Cha qua cái chết thập giá để trở nên Mình và Máu thánh nuôi dưỡng mọi người.

Phúc âm Gioan ghi nhận tình hình trở nên rất xấu vì từ lúc đó nhiều người trong số các môn đệ  bỏ  đi. Chúa Giêsu đã hỏi nhóm mười hai: “Cả các con nữa, các con có muốn bỏ đi không?” Thánh Phêrô đã thay mặt cho nhóm trả lời, nói lên một câu rất quyết liệt sẽ không bao giờ bỏ thầy, vì bỏ thầy các môn đệ sẽ không biết đi theo ai và chỉ có thầy có lời ban sự sống đời đời. Không những thế, thánh Phêrô còn nói lên lời tuyên xưng thay cho nhóm mười hai: “Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này diễn tả quyết tâm và chọn lựa chắc chắn của các môn đệ. Các ngài đã chọn theo thầy Giêsu và các ngài đã hiểu giá trị của việc chọn lựa của mình cũng như hiểu rõ mầu nhiệm của thầy, mặc dù các ngài chưa hiểu rõ mạc khải về Bánh hằng sống, nhưng các ngài đã xác định lập trường của mình không bao giờ bỏ thầy để theo ai khác, vì chỉ có thầy có lời ban sự sống, và chỉ có thầy thực là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Lòng tin chân thành và ý thức chọn lựa chắc chắn của các ngài làm các ngài gắn bó sâu xa với thầy Giêsu, và xác tín vào chọn lựa của mình vì chỉ có thầy Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và có lời ban sự sống. Vì thế chọn lựa theo thầy Giêsu là một chọn lựa quyết định, không thể nửa vời mà là một dấn thân quyết định của cả cuộc đời vì liên hệ tới sự sống đời đời hay sự hư mất đời đời. Chọn lựa theo người cũng là chọn lựa chính người, cùng với giáo huấn của người, con đường thập giá tự hiến người đã đi và lôi kéo chúng ta đi trên con đường này. Chọn lựa người cũng là chọn lựa những đòi hỏi của người: “Các con có muốn bỏ thầy không?”. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tin vào chính người là bánh hằng sống từ trời xuống.  Việc chọn lựa này không chỉ là lời nói mà thôi, nhưng còn phải thể hiện trong đời sống gắn bó với những gì mà thầy ban tặng và con đường tự hiến mà thầy Giêsu khai mở cho các môn đệ. Chọn lựa thầy Giêsu cũng là từ bỏ những cách suy nghĩ cũ của mình về Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hành động nơi chính mình bằng cách đón nhận và thực hành lời giáo huấn của thầy Giêsu. Thánh Thần vốn luôn hiện diện với Chúa Giêsu và trong lời của người. Chính Thánh Thần là nguồn sự sống thần linh sẽ biến đổi người môn đệ tin theo thầy Giêsu có đủ sức mạnh để theo thầy Giêsu. Không có Thánh Thần, người tín hữu không có đủ sức mạnh và sự khôn ngoan sáng suốt để theo thầy, họ sẽ dễ dàng trở về với cách sống trước đây của mình. Thánh Phaolô vận dụng hình ảnh đời sống vợ chồng để nói về sự gắn bó và kết hợp giữa Đức Giêsu và Hội Thánh, cũng là sự kết hợp giữa Đức Giêsu với mọi người. Đức Giêsu đã yêu thương và hiến thân mình cho Hội Thánh, tức là cho mỗi người để mỗi người được nên thánh thiện và không tỳ vết. Cuộc đời người tín hữu là một chọn lựa quan trọng để theo Chúa Giêsu. Chọn lựa này liên hệ tới sự sống đời đời. Chỉ có gắn bó với Chúa Giêsu và những đòi hỏi của lời người mới thực sự dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TRUNG THÀNH THEO CHÚA-  Trích Logos B

Tại một đất nước vô thần kia, đạo Công Giáo bị cấm đoán gắt gao. Các kitô hữu phải dâng lễ, hội họp hay học giáo lý một cách lén lút. Ngày nọ, trong một ngôi nhà thờ đóng kín cửa, các tín hữu đang tụ họp để học giáo lý. Chợt một người lính xuất hiện, giơ súng nhắm vào mọi người và quát lên : “Bây giờ vẫn còn kịp thời gian cho những ai biết từ bỏ cái gọi là “đức tin” nhảm nhí để về nhà và được sống !”. Cả nhà thờ im phăng phắc, một sự sợ hãi bao trùm lấy mọi người. Thế rồi, trước họng súng đen ngòm, một số người đứng dậy ra khỏi nhà thờ, nhưng đa số vẫn can đảm ngồi lại và chờ đợi.

Khi số người rút lui đã đi xa, người lính hạ súng xuống và nói nhỏ : “Quý vị đừng sợ ! Tôi cũng là người Công Giáo như quý vị. Chúng ta phải làm thế để biết chắc rằng tất cả chúng ta đây đều là những người trung thành với Đức Kitô và sẵn sàng chết cho niềm tin của mình. Nào, chúng ta hãy tiếp tục !”.

Câu truyện trên cho chúng ta thấy hai loại người theo Chúa : có những người đi theo Chúa rất hăng hái, nhưng khi gặp thử thách gian nan liền từ bỏ Đấng mình đang đi theo. Trái lại, có những người theo Chúa một cách trung thành dù phải gặp khó khăn gian nguy đến mấy, vì họ quyết tâm chọn Chúa như lý tưởng đời mình.

Trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, chúng ta gặp hai loại người ấy : đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu để nghe lời Ngài. Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Họ tiếp tục theo Chúa một cách phấn khởi hăng say. Nhưng đến khi Chúa Giêsu hướng lòng họ đến lương thực thiêng liêng là “Bánh Hằng Sống” từ trời xuống, nhất là khi Ngài xác định “bánh” chính là “thịt” Ngài, thì họ cảm thấy lời Chúa thật chói tai. Trong số đó có nhiều môn đệ đã rút lui, không đi theo Chúa nữa. Họ đã từ bỏ Chúa khi gặp thử thách của niềm tin.

Nhưng bên cạnh những môn đệ ấy vẫn còn nhóm Mười Hai trung thành theo Chúa, như lời xác tín của thánh Phêrô : “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Vì Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Quả thật, theo Chúa là cuộc hành trình đức tin đầy thử thách và luôn là sự chọn lựa căn bản thật cam go.

Theo Chúa, cuộc hành trình đức tin đầy thử thách

Cuộc hành trình của dân Do Thái trong hoang địa kéo dài 40 năm tượng trưng cho cuộc hành trình đức tin của dân Chúa. Đó là một cuộc hành trình đầy thử thách. Mặc dù được Thiên Chúa che chở, bảo vệ và dưỡng nuôi trên đường về Đất Hứa, nhưng nhiều lần họ đã bất trung : từ bỏ Thiên Chúa để tôn thờ các ngẫu thần. Họ đã đánh mất niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Đó là kinh nghiệm đau xót về cuộc khủng hoảng niềm tin mà dân Chúa đã trải qua trong hoang địa. Với giao ước tại núi Sinai, họ đã cam kết chọn lựa Thiên Chúa như gia nghiệp đời họ. Nhưng họ có trung thành với giao ước đó mãi không ?

Trong bài đọc I, trích sách Giosuê, ông Giosuê đã triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem để yêu cầu toàn dân xác định lại niềm tin và sự trung thành, sau khi đã chinh phục được Đất Hứa. Thật là cảm động, không phải chỉ có gia đình ông Giosuê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát : “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ các thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi”. Quả thật, con đường theo Chúa luôn là một cuộc mạo hiểm đầy thử thách của đức tin. Chỉ có những ai can đảm trung thành đi theo Chúa tới cùng mới xứng danh là người môn đệ chân chính.

Các môn đệ cũng đã trải qua cuộc thử luyện đức tin đầy gian truân đó. Các ông đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Có lẽ các ông cũng đã từng nếm mùi cơ cực, đói khát và “không có chỗ gối đầu” như Thầy Giêsu. Họ đã vượt qua được những thử thách này. Thế nhưng, họ lại thua cuộc trước thử thách của niềm tin, họ không thể chấp nhận chân lý đức tin thật “chói tai” được Chúa Giêsu truyền dạy : “Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”. Họ không chấp nhận những điều nghịch lý của niềm tin, nên đã từ bỏ con đường theo Chúa. Họ đã không đi trọn con đường đức tin đầy “gai góc” như thế.

Theo Chúa, một sự chọn lựa đầy can đảm

Thế nhưng, bên cạnh những môn đệ yếu lòng tin vẫn còn nhóm Mười Hai trung thành theo Chúa và chấp nhận mọi thách đố của đức tin. Đi theo Chúa với con người yếu đuối mỏng giòn, các tông đồ cũng đã nhiều lần vấp ngã trên đường đi : bị Chúa Giêsu khiển trách là “yếu lòng tin”, không hiểu hay hiểu sai lời Chúa, thậm chí “chối Chúa” và chạy trốn trước sự bách hại… Tuy nhiên, sau những lần vấp ngã, các ngài lại đứng lên và tiếp tục bước đi theo Chúa.

Hơn lúc nào hết, các tông đồ cũng cảm thấy phấn khởi vui mừng trước phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi hơn 5000 người ăn. Thế nhưng, cũng giống như một số môn đệ khác, có lẽ các ngài cũng cảm thấy phần nào nao núng và lung lạc trước giáo lý “chói tai” về “Thịt Máu” Chúa. Nhưng các tông đồ đã can đảm dấn thân vào cuộc phiêu lưu của niềm tin : theo Chúa là chấp nhận tất cả, dù có gặp những điều “phi lý” nhất ! Vì thế, thánh Phêrô đã đại diện anh em nói lên niềm xác tín thật mạnh mẽ : “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Vì Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Lời xác tín ấy nói lên sự chọn lựa dứt khoát đầy can đảm của các tông đồ.

Chúng ta cũng là những môn đệ được mời gọi đi theo Chúa. Có lẽ đó cũng là một cuộc hành trình đức tin đầy gian khó. Trên cuộc hành trình đó, chúng ta cũng phải chọn lựa dứt khoát : Thiên Chúa hay thế gian. Sự chọn lựa nào cũng đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ. Nếu chọn Chúa, chúng ta phải từ bỏ mọi thần tượng thế tục. Chọn lựa Chúa, chúng ta phải từ bỏ chính mình và vác thập giá theo Chúa mỗi ngày. Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần xác định niềm tin từng ngày để chúng ta trung thành đi theo Chúa. Ngày nào ta còn trung thành với Chúa, ngày đó ta còn là môn đệ của Chúa. Sự trung thành chính là thước đo của lòng tin.

Từ lòng trung thành với Chúa, dẫn đưa chúng ta đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Cuộc sống gia đình hôm nay cũng đang gặp nhiều thử thách chông gai, thậm chí gặp cả những khủng hoảng và đổ vỡ. Tất cả chỉ vì người ta đánh mất sự trung tín và lòng thủy chung với nhau. Trong bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã mời gọi các bậc vợ chồng hãy chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành với nhau trong tình yêu hôn nhân và gia đình.

Có một người chồng kia quá đau khổ và tuyệt vọng khi phát hiện người vợ thiếu lòng chung thủy. Anh định bơi thật xa ra biển và buông xuôi hai tay cho dòng nước cuốn trôi vào lòng biển cả, để rũ sạch nợ đời.

Nhưng khi tới bờ biển, anh bỗng nhìn thấy có cái gì lấp lánh trên mặt cát, dưới những cơn sóng dập vùi. Anh lượm nó lên và nhận ra đó là cái vỏ sò thật mỏng manh. Anh tự hỏi : “Giữa sóng gió dập dồn như thế, tại sao cái vỏ sò vẫn nguyên vẹn mà không vỡ vụn ?”. Anh suy nghĩ và hiểu ra : cái vỏ sò ở giữa sóng gió xô lấp, quay cuồng mà vẫn bình yên vì nó nằm tĩnh lặng ở đáy nước. Trong phong ba bão tố của gia đình, người ta cũng sẽ không bị tiêu diệt, khi tìm thấy chỗ ẩn nấp trong sự tĩnh lặng của tâm hồn. Anh tìm được bình an và trở về nhà, tha thứ cho vợ và hai vợ chồng lại sống hạnh phúc bên nhau.

Chúa luôn là sự bình an và là sức mạnh nâng đỡ những ai đang khủng hoảng niềm tin. Xin cho chúng ta biết trung thành đi theo Chúa để giữa phong ba bão táp cuộc đời, chúng ta luôn tìm được bến bờ của sự bình an. Chúng ta cũng hãy xin cho được mãi mãi trung thành với Chúa. Chúng ta chỉ có thể trung thành với nhau nếu biết trung thành với Chúa.

Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973