"Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống".
Lời Chúa: Ga 6, 51-59
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
SUY NIỆM
1. Lương thực
Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ goá chồng, mang theo một đứa con thơ còn đang bú sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột bườm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đệnh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên tàu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết đói và bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chêt đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho dòng sữa.
Câu chuyện trên là hình ảnh tuyệt hảo diễn tả tình thương của Chúa Giêsu khi lập bí tích Thánh Thể. Ngài là Tấm Bánh được ban cho loài người: Bánh là một thứ lương thực có thể ăn được và cho người ăn được sống. Bánh không sống cho mình, mà luôn sống vì người khác và cho người khác. Chúa Giêsu tự xưng mình là Bánh, nghĩa là Ngài tự huỷ chính mình, hy sinh bản thân mình để cho loài người được sống.
Rước Mình máu Chúa là đón nhận chính sự sống của Chúa Giêsu: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Chính khi rước lễ, là chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu, sống trong Chúa Giêsu và sống cho Chúa Giêsu, như cành nho chỉ sống được là nhờ hút nhựa sống từ thân cây nho.
Để việc rước lễ mang lại lợi ích thiêng liêng, thì không phải chỉ cần có sự chuẩn bị trước, mà còn phải gặp gỡ thân tình với Chúa sau khi đón rước Ngài. Cần tránh thái độ lên rước lễ do thói quen, do sự thúc bách của hoàn cảnh, nên thiếu sự chuẩn bị trước và thiếu đối thoại đối thoại kết hiệp với Chúa sau khi rước lễ. Ngày nay nhiều người rước lễ, nhưng phần đông rước lễ cách khô khan: Bỏ giây phút Thinh Lặng Thánh sau khi rước lễ, vội vàng ra ngoài lấy xe để còn lo chuyện làm ăn hay vui vẻ ăn nhậu với bè bạn. Vì thế mà việc rước lễ trở thành nhàm chán, một lễ nghi hình thức bên ngoài: rước lễ chỉ là việc đi lên đón nhận và ăn một tấm Bánh Thánh, thay vì để được gặp Chúa Giêsu Thánh Thể. Thật ít có vị khách quý nào lại bị chủ nhà tiếp đón cách lạnh nhạt như Ngài! Vì thế, dù siêng năng rước lễ, nhưng người tín hữu vẫn không gặp được Chúa, không nhận được sức sống thần linh của Ngài, để được ơn biến đổi nên con người mới. Vì vậy, sau nhiều năm theo đạo, chúng ta cảm thấy mình vẫn chỉ là mình với những thói hư và tội lỗi như cũ!
2. Rước lễ
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi và cô quạnh. Cô sinh viên đã kể lại như thế này: Sau khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, đọc lại bài Phúc Âm ngày Chúa nhật cho cụ nghe, rồi bàn bạc trao đổi với cụ về một vài điểm mà đoạn Phúc Âm ấy đã gợi lên. Tiếp đến là giây phút cụ trông đợi cả tuần lễ. Tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha. Rồi tôi giờ Mình Thánh lên và nói với cụ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời tới dự tiệc Con Thiên Chúa. Và cụ đáp lại: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ. Sau một vài phút thinh lặng, tôi giúp cụ cầu nguyện: Lạy Chúa, ước gì Mình Thánh Chúa mà cụ vừa lãnh nhận, mang lại cho cụ sức khoẻ phần hồn cũng như phần xác. Xin Chúa giải thoát cụ khỏi mọi khổ đau và bệnh tật, xin hãy dùng sức mạnh của Chúa mà nâng đỡ, chở che để cụ cũng sẽ được phục sinh trong cuộc sống mới vào ngày sau hết. Sau đó, hai người ngồi nói chuyện một lúc rồi tôi tạm biệt và hứa sẽ cầu nguyện cho nhau và hẹn gặp lại vào Chúa nhật tuần tới.
Câu chuyện đơn sơ trên cho chúng ta thấy loại đức tin mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có như lời Ngài đã nói qua đoạn Phúc Âm sáng hôm nay: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì kẻ ấy sống trong Ta và Ta sống trong kẻ ấy. Cụ già và cô sinh viên đều chứng tỏ đức tin của họ vào lời nói ấy của Chúa, bằng cách trao ban cũng như nhận lãnh Mình Thánh Chúa Giêsu, bằng cách cùng cầu nguyện chung với nhau.
Và như thế, việc rước lễ phải là một cảm nghiệm của đức tin, được thực hiện kèm theo lời cầu nguyện. Lúc rước lễ là như một viên kim cương. Còn thời gian trước và sau rước lễ là như một sợi dây vàng. Tự bản tính, viên kim cương vốn đã xinh đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng đẹp đẽ hơn nếu được gắn vào giữa sợi dây vàng và trở thành trung tâm điểm. Cũng thế, tự bản tính việc rước lễ là một cảm nghiệm tuyệt đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp nếu được kèm theo những tâm tình cầu nguyện. Vậy chúng ta đã cầu nguyện thế nào trước và sau khi rước lễ? Tâm hồn chúng ta nghĩ gì khi tiến lên bàn thánh Chúa. Chúng ta có tâm sự với Chúa như với người bạn thân hay không? Chúng ta có biết cảm tạ Ngài, xin Ngài tha thứ và hướng dẫn chúng ta trên vạn nẻo đường đời?
Điểm thứ hai câu chuyện trên cho thấy đó là thứ tình thương Chúa muốn chúng ta phải có với tư cách là những Kitô hữu. Thực vậy, tình thương giữa cụ già và cô sinh viên là loại tình thương mà mỗi người chúng ta cần phải cố gắng vun trồng cho nhau. Và bí tích Thánh Thể chính là một phương tiện giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với nhau hơn như lời thánh Phaolô đã viết: Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vậy việc rước lễ có làm cho đời sống chúng ta dồi dào tình thương mến, nhất là đối với những người khổ đau và bất hạnh hay không? Nói cách khác, việc rước lễ có lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và đến gần nhau hay không?
3. Mình Máu Thánh Chúa.
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ, thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ bí tích Thánh Thể chúng ta nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
4. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
5. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất.
Nhưng thưa ông bà anh chị em, nếu giờ đây Chúa hiện ra và phán với mỗi người rằng: "Ta sẽ ban cho các con món quà quý báu nhất", thì chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Xin vài tấn gạo? Có nhiều điều khác giá trị hơn gạo. Xin tiền? Vài tỉ bạc cho mỗi gia đình? Còn nhiều điều khác quý hơn tỉ bạc. Xin một tấn vàng ròng? Còn có điều quý hơn vàng bạc, hơn bảo ngọc trân châu. Đó là sự sống! Ông bà chúng ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống vàng". Được sống là một may mắn vô cùng, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Nhà văn Jack London nói: "Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Đúng vậy. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng còn được sống thì cũng còn may.
Nhưng sự sống cũng có nhiều đẳng cấp khác nhau.
Sự sống của cây cỏ vốn thấp kém, hầu như vô tri vô giác. Cây cối không biết khóc, không biết cười, không biết đau đớn cũng như mừng vui, lại phải chôn chân một chỗ cho đến lúc lụi tàn.
Sự sống của các loài côn trùng như giun, như sâu bọ, như kiến... tuy cao hơn loài thảo mộc một chút nhưng còn ở đẳng cấp thấp.
Sự sống của cá nước, chim trời, của loài cầm thú cao hơn sự sống của cỏ cây, của côn trùng, nhưng vẫn chưa phải là mức sống cao.
Sự sống của con người cao vượt hơn cả: hơn sự sống của hoa lá cỏ cây, hơn sự sống của côn trùng, hơn sự sống của chim trời cá nước, hơn sự sống của các loài muông thú, nhưng dù vậy vẫn còn thua sự sống của các thiên thần và còn thua xa sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là sự sống cao quý vô song.
Sự sống con người cao quý thật, nhưng tiếc thay, sự sống ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho tổn thương, làm cho khiếm khuyết và giới hạn. Khiếm khuyết vì bệnh tật, vì già yếu, và giới hạn bởi cái chết.
Thế nên Thiên Chúa nhân lành tiên liệu ban thêm cho loài người sự sống khác, vô cùng phong phú, vô cùng cao quý, và không bao giờ cùng tận, đó là sự sống của chính Ngài. Thiên Chúa lấy chính sự sống của Mình làm quà tặng cho loài người khốn hèn tội lỗi! Có ai hiểu nổi không?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta điều đó.
Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
Phẩm chất của sự sống Chúa ban là vĩnh cửu, không thể lụi tàn.
Và sự sống nầy chính là sự sống của Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng Sự Sống mà Ngài đã nhận được từ nơi Chúa Cha, thì Ngài thông ban lại cho chúng ta. Sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha, thông truyền cho Chúa Con và Thánh Thần, giờ đây lại được Chúa Giêsu khơi dòng để chảy tràn vào mỗi người chúng ta, nếu chúng ta ăn Ngài, tức là đón nhận Ngài, rước lấy Ngài trong bí tích thánh thể.
"Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Thật tuyệt vời không thể tưởng tượng được. Thiên Chúa thông ban sự sống cao quý của chính Ngài cho chúng ta qua Chúa Giêsu.
Món quà vô cùng quý báu, vượt xa tất cả mọi món quà đã được Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho chúng ta. Chúng ta hãy mau mau nhận lãnh món quà quý báu nầy với tất cả tấm lòng cảm tạ tri ân, đồng thời hãy cầu xin Chúa cho sự sống thần linh ấy thực sự trổ sinh hoa trái dồi dào trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
6. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày 24/6/2009, tại phòng trọ ở thành phố Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến Tuyên và một bạn cùng phòng bị bỏng. Với tình trạng bỏng nặng tới 65%, các bác sỹ đã dự đoán cô gái này khó có thể qua khỏi, đặc biệt là ở thời điểm sau 10 ngày nằm viện, Tuyên được chẩn đoán là bị nhiễm trùng máu khá nặng.
Thương con, người cha là Lê Thanh Tuấn đã năn nỉ các bác sỹ lóc da đùi của mình để cấy ghép vào phần da bị mất do bỏng của con, dù chuyện này rất có thể sẽ đem đến biến chứng nguy hiểm cho người bị huyết áp cao như ông. Nếu những chuyên gia phẫu thuật của bệnh viện Chợ Rẫy không từ chối, thì có lẽ ông Tuấn đã sẵn sàng để họ lấy cả phần da từ bụng, ngực... trên người mình để đắp sang con.
Sự hy sinh của người cha đã được phần nào đền đáp khi sức khỏe của 'bé Út' dần khá hơn. Cô nữ sinh đã tỉnh táo hơn và có thể trò chuyện được đôi lời. Còn ông Tuấn, sau nhiều ngày rất khó khăn trong từng bước đi vì toàn bộ lớp da hai bên đùi đã bị lấy hết, cũng đã dần ổn định và có thể cử động được.
Đến phòng bệnh tại khoa Bỏng của Bệnh viện Chợ Rẫy vào những ngày này, gần như ở thời điểm nào trong ngày, người ta cũng sẽ nhìn thấy cảnh một cô gái băng bó trắng toàn thân nằm trên giường. Bên cạnh cô là người cha bó quanh đùi bằng những sợi băng y tế bị nhuộm đỏ. Ông luôn ngồi đó, động viên chăm sóc cho cô con gái vẫn mang trong mình mong muốn được thi đại học, khối C.
Vâng, nếu chúng ta được tận mắt nhìn thấy những hình ảnh đó, có lẽ chúng ta cũng để cho dòng nước mắt của tình người dạt dào tuôn trào nơi chúng ta. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của người cha lóc thịt cho con. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình để cấy trồng lại sự sống cho con.
Đó cũng là tình yêu mà Đức Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng "Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống". Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: "Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống". Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống "biết để sống" đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. "Biết để sống" dẫn đến đa nghi nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng "chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Amen.
7. Tình yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi nói về thân phận phụ nữ tần tảo “một nắng hai sương”, người ta thường nhớ đến câu thơ bất hủ của Tú Xương đã nói về vợ mình như sau:
“Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Và những ai thích ca cổ cải lương, sẽ nhớ mãi câu chuyện huyền thoại thật cảm động về Thoại Khanh – Châu Tuấn. Chuyện kể về một người vợ chung thủy, một nàng dâu hiếu thảo. Nàng lấy chồng nhưng không phải để được sống sung sướng hạnh phúc. Nàng lấy chồng không phải để có chỗ nương tựa như bao người phụ nữ khác. Nàng lấy chồng để được “nâng khăn sửa túi” cho chồng, và nhất là thay chồng để gánh lấy “giang sơn nhà chồng”. Nàng cặm cụi dệt cửi thêu thùa để lo cho chồng ăn học. Và rồi tai hoạ đã đổ ập xuống trên cuộc đời nàng, khi chồng đang mãi ứng thí trên kinh thành, thiên tai lũ lụt đã tàn phá quê nhà đến nỗi nhiều gia đình phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Đói khổ bần cùng. Nàng cùng mẹ chồng sống lây lất qua ngày. Lương thực thiếu thốn. Mẹ chồng già yếu, lại thêm mù loà. Nàng đã hằng ngày róc thịt mình cho mẹ ăn. Nàng đã chấp nhận róc từng thớ thịt của mình để nuôi mẹ già sống cho tới ngày chồng trở về để “vinh quy bái tổ”.
Xem tuồng cải lương về Thoại Khanh – Châu Tuấn, nhiều người đã rơi nước mắt. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của nàng dâu lấy thịt nuôi mẹ chồng. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình cho mẹ già được sống trong an vui hạnh phúc.
Chuyện kể về Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay không phải là huyền thoại, mà là sự thật. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Người mẹ chồng đã từng sống nhờ từng thớ thịt nàng dâu nhưng rồi cũng từ giã cõi trần. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được lớn lên trong tình yêu. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự đổi trác qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Ngay lúc này tại vùng trung đông luôn có biết bao sự xung đột bom đạn và hoả tiễn giết chết hàng vạn người. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng. Ngay lúc này có hàng ngàn thai nhi bị trục xuất ra khỏi lòng mẹ và có hàng triệu người chết vì đói khổ và thiên tai lũ lụt.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường, chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình, nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi, nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Con người sẽ hạnh phúc và lạc quan hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin đừng bao giờ biến mình thành ác qủy luôn đe doạ sự sống tha nhân và trở thành mối lo của xã hội. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
8. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu nói “thịt Ngài là thật của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: “các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em…. Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không?
2. Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
9. Đức Kitô hiện diện.
Thân xác cần phải ăn uống thì mới sống được. Một chút thực phẩm dự trữ cũng đủ để người bị lạc trong rừng sống thêm đôi ba ngày. Một chút nước trong sa mạc cũng giúp kéo dài thêm sự sống.
Con người, như chúng ta đã biết, không chỉ là thân xác mà còn là tinh thần. Và tinh thần cũng cần phải được nuôi dưỡng để tồn tại và phát triển. Người ta đã nói đến những món ăn tinh thần như sách báo, nghệ thuật… Chúa Giêsu còn muốn cung ứng cho chúng ta một món ăn tinh thần cao quí và tuyệt hảo hơn nhiều, đó là chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài muốn trở nên lương thực nuôi sống nhân loại.
Thế nhưng, làm sao Ngài lại có thể cho chúng ta ăn thịt Ngài và uống máu Ngài? Tôi xin thưa Ngài đã dùng quyền năng mà biến đổi tấm bánh và chén rượu trở thành thịt và máu thánh Ngài, để khi ăn tấm bánh và uống chén rượu, chúng ta được kết hiệp với chính con người của Ngài. Như thế, khi rước lễ, chúng ta không lãnh nhận một Đức Kitô đã chết và nay chỉ còn là một cái xác không hồn. Trái lại, chúng ta đón nhận một Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại, hiện đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Gioan đã diễn tả:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Mà ở trong Chúa, chắc hẳn cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Cũng vì xác tín như vậy, mà Giáo Hội luôn tỏ lòng kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, vị linh mục nâng cao mình và máu thánh Chúa, để chúng ta thờ lạy.
Ngoài ra, Giáo Hội còn tổ chức những cuộc rước kiệu, chầu phép lành, các đại hội Thánh Thể trên toàn thế giới. Đức Kitô đến với chúng ta qua bí tích Thánh Thể và Ngài cũng còn đến với chúng ta dưới nhiều hình thức khác nữa.
Khi tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài giữa lòng Giáo Hội:
- Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Giáo Hội là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Thân mình này được nuôi dưỡng bởi mình và máu thánh Ngài. Như thế, chúng ta cần ý thức về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Giáo Hội.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn hiện diện khi chúng ta lắng nghe lời Ngài. Chính ngài nói với chúng ta, khi chúng ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội. Nơi Thánh lễ, chúng ta thấy bàn tiệc mình máu thánh Chúa và bàn tiệc lời Chúa. Đó không phải là haibàn tiệc tách biệt, vì trong Thánh lễ, cả lời Chúa lẫn mình Chúa được dọn ra trên một bàn ăn, để giáo dân được hướng dẫn và bổ sức.
Chúa Giêsu không phải chỉ ở ngoài chúng ta, nhưng Ngài còn ở trong chúng ta. Ngài ở trong trái tim, Ngài ở trong cõi lòng chúng ta. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta quên đi sự hiện của Ngài nơi chính bản thân mình. Chúng ta quên rằng bản thân mình cũng là một nhà tạm, một đền thờ cho Chúa ngự trị. Không phải chỉ khi lên rước lễ, Ngài mới bắt đầu hiện diện trong chúng ta và lúc đó chúng ta mới có thể gặp gỡ Ngài. Thật ra Chúa luôn ở với chúng ta, và lúc nào ta cũng có thể trở về với lòng mình để gặp gỡ Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu còn hiện diện ở bên ngoài nhà thờ, nhất là nơi những người bất hạnh, đau khổ, đói khát, ốm yếu, trần trụi… Họ cũng là những bí tích của Đức Kitô. Ẩn dưới tấm bánh là mình thánh Chúa. Còn ẩn dưới những kẻ sống bên lề xã hội là Đức Kitô thiếu thốn đang xin trợ giúp. Cần phải có cặp mắt đức tin để khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi những thực tại của đời thường. Ngài không quen đến với sự hào nhoáng và vinh quan hiển hách. Ngài đến với chúng ta với thận phận của một con người yếu đuối.
Hãy khiêm nhường để tìm thấy sự hiện diện khiêm tốn của Chúa, nhờ đó biến đời mình trở thành một cuộc gặp gỡ liên tục với Ngài.
10. Thịt Ta là của ăn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
11. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi - Manna
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống"
Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút.
Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên "ăn bánh thánh".
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ:
"Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa,
uống chén rượu đó là uống máu Chúa".
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại:
"Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy."
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài,
mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị:
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.
"Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới dạng một con người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên,
cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.
12. Tôi là Bánh.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể.
Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá - ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ.
Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57).
Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên.
Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa... Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu tự định nghĩa mình là Cửa (10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46), là Con Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Tấm Bánh (6,48). Những định nghĩa rất gợi hình và đều hướng về con người. Bạn thích định nghĩa nào hơn cả? Tại sao?
Bạn nghĩ gì về việc bạn rước Chúa? Có cái gì không ổn, cần sửa đổi không? Có khi nào bạn thấy mình gặp được Chúa sau khi rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
13. Suy niệm của An Phong
“Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”
Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta; Đức Kitô phân biệt rõ Thịt và Máu để loan báo hy tế thập giá và phép Thánh Thể. Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta.
"Đức Giêsu một cách mặc nhiên, trong diễn từ về Bánh Sự Sống là chính mình Ngài, đã đề cập đến cuộc hiến tế Núi Sọ. Ngài hiến thân chịu chết để làm lương thần nuôi dưỡng chúng ta".
Tự nguồn gốc, Thánh Thể là một hy tế. Đức Kitô qua cái chết và sự phục sinh, hiện diện trong Thánh Thể để nuôi sống chúng ta. Hy tế đó có giá trị chuộc tội, chữa ta khỏi tội lỗi và thông ban sự sống. Hãy hiến dâng thân mình với hy tế trên bàn thờ, nghĩa là kết hiệp đời mình với thập giá.
"Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Cha toàn năng". Tiếp nhận Chúa Thánh Thể, phải noi gương Ngài và ý thức mọi điều phải qui về Thiên Chúa. "Kẻ ăn Ta sẽ sống nhờ Ta, cũng như Ta sống nhờ Cha" (Ga 6,57).
Mỗi lần rước lễ bạn có vững tin mình đang ở giai đoạn đầu của đời sống vĩnh cửu trên thiên quốc chăng? Tuy trạng thái khác nhau, vì ở trần gian còn bị giới hạn bởi vật chất hữu hình. Nhưng căn bản vẫn giống nhau, là có sự sống Thiên Chúa. "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời đời" (Ga 6,54).
Hiệu quả việc rước lễ, là sự kết hiệp thân mật tương hỗ với Đức Kitô. Chúng ta đón nhận được sự sống sung mãn và có Đức Kitô như người bạn thân tình đồng hành với ta trong đời. "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6,36).
Người xác tín Chúa ngự trong Bánh Thánh nơi nhà tạm của giáo đường, thì:
- Siêng năng đến gặp Chúa
- Tâm sự đôi lời với Chúa khi đi ngang qua nhà thờ
- Và khi có thể tham dự các giờ chầu Thánh Thể với cộng đoàn Giáo xứ.
Những việc đó một phần nào đánh giá được niềm tin của bạn. Tuy nhiên, bạn cần xét lại khi thực hành như vậy, mình đã xác tín sự hiện diện của Ngài đến mức nào?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã biến đổi bánh và rượu
trở nên Mình Máu Thánh Chúa;
Xin Chúa cũng biến đổi cuộc sống chúng con
trở nên lễ tế hiến dâng trong tình yêu
và trong thái độ vâng phục chương trình của Chúa Cha.
14. Tôi là Bánh Hằng Sống – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói: “Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con”. Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi: “Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì?”. Gióng dõng dạc nói: “Về bảo Vua đúc một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một áo giáp sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân”. Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã đem gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, cầm gươm, hét lớn tiếng: “Ta là tướng nhà trời”. Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc, Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ kỷ niệm ở làng quê. Câu truyện có vẻ thần thoại, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Thứ nhất, gặp nguy khốn, thấy mình bất lực, phải lo tìm hiền tài cứu nước, chớ đừng kiêu ngạo cậy mình tự ái kẻo nguy khốn. Đức Giêsu thấy con người nguy khốn phải chết đời đời, nên đã bảo Ta phải tìm bánh hằng sống, đừng cậy dựa vào thức ăn hư nát.
Thứ hai, đừng khinh chê những kẻ bé nhỏ yếu đuối, nhiều khi đó là thứ bé bé hạt tiêu. Dân Do thái khinh chê Đức Giêsu là con bác thợ mộc, đâu có ngờ rằng chính Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế họ hằng trông mong.
Thứ ba, sức con người dù là vua, quan, quân tướng, cơm gạo chẳng đáng là gì, nếu không nhờ trời cứu giúp thì sẽ bị diệt vong.
Đức Giêsu báo động cho dân chúng biết cơm bánh trần gian đâu có cứu được họ khỏi chết, nếu không nhờ bánh từ trời. Bánh hằng sống thì họ sẽ bị diệt vong đời đời.
Thứ bốn, nhân dân muốn được cứu khỏi tay quân giặc tàn bạo, thì phải biết tham gia vào công việc cứu mình, cứu quốc bằng góp gạo, góp sức đúc ngựa sắt, áo, mũ, gươm sắt để tỏ lòng thành khẩn cầu cứu. Thực ra, tướng nhà trời đâu cần những thứ đó.
Đức Giêsu cũng đòi người ta phải ra công làm những việc Thiên Chúa dạy dỗ, để chứng tỏ lòng mình thành tâm tin thờ Ngài. Chứ những việc làm của con người đâu có thêm gì cho Thiên Chúa, mà chỉ mang lại sự sống đời đời cho con người.
Nếu sứ giả cũng như nhà vua cùng bà mẹ và dân làng, khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công, góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà trời đến cứu dân, cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe theo lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống. Đúng như câu tục ngữ: Hãy giúp mình thì trời sẽ giúp anh (Aides-toi, le ciel t’aidera).
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê lời Đức Giêsu. Họ quá quen ăn thịt chiên, cừu, gà, vịt, mỗi khi nghe nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời”. Họ lấy làm chướng tai, phản đối và bỏ đi. Cố chấp, dầu Đức Giêsu đã giải thích rõ lời của Người là lời hằng sống, Thịt của Người là bánh trường sinh từ trời xuống, để cho thế gian được sống, họ vẫn không tin. Họ không nhận ra lòng yêu thương vô cùng của Người đã cứu chữa bao nhiêu kẻ tàn tật phong cùi, và mới cứu họ khỏi đói khát, đã cho họ ăn bánh lạ no nê. Bây giờ Người cho họ biết: Người sẽ hy sinh lấy Thịt Máu Mình nuôi sống họ muôn đời. Họ lại càng thấy chướng tai.
Cảnh tượng đó thật đau lòng. Cảnh tượng đau lòng này cũng đang diễn ra nơi chúng ta. Chúng ta nghe lời Chúa thì ít, học lời Chúa càng ít hơn, còn tin lời Chúa, suy niệm lời Chúa và sống lời Chúa thì không biết được mấy ai? Nhưng chúng ta nghe nói hành, nói xấu thì tham gia thêm thắt rất hăng hái. Nghe chuyện bù cú thì rất thích chí, cười khềnh khệch. Nghe nói dóc, tán tỉnh rất mùi mẫm, nghe chuyện tào lao phim ảnh như chuyện Ngộ Không, Trư bát Giới thì nhớ rất kỹ và kể lại thao thao bất tuyệt.
Chúa hết lòng dạy dỗ và đã phải kêu gọi: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” thì chẳng ai nghe. Nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống rơi trên vệ đường đá sỏi, bụi gai, chẳng gặp được đất tốt.
Chúa bảo: “Ai ăn Thịt Ta thì được sống đời đời”, thế mà chỉ được một số, còn rất nhiều người bỏ đi uống cà phê, hút thuốc, say rượu, dung dưỡng xác thịt hơn là lãnh của ăn hằng sống bổ dưỡng cho linh hồn. Biết bao nhiêu người được mời dự tiệc con chiên nước Trời, nhưng họ đã tìm hết cách từ chối: “Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời mời của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt” (Mt. 22, 5-7 Lc. 14, 18-20).
Lạy Chúa, ai đã thương lấy thịt mình nuôi con. Ai đã thương cứu con khỏi cảnh hư đốn. Ai đã thương cho con được sống muôn đời. Ai đã thương cho con được sống vinh phúc với Ngài. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mà thôi. Amen.
15. Mầu nhiệm Đức Tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một giáo lý viên muốn chơi khăm ông cha phó mới ra lò: “Thưa cha, Hội Thánh dạy rằng phải kiêng thịt mỗi ngày thứ sáu. Vì thế, hôm nay ngày thứ sáu, con không dám rước Chúa vì rước Chúa là ăn thịt, uống máu Chúa Giêsu. Mà ăn thịt là lỗi luật Hội Thánh dạy.” Chắc hẳn ông cha phó dù mới ra lò cũng có đủ cách, đủ kiểu để thoát cạm bẩy của mấy tay giáo lý viên ngỗ nghịch ấy. Tuy nhiên, qua câu chuyện vui này, chúng ta có lẽ dễ thông cảm với người Do Thái xưa thấy khó chịu khi nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Tin mừng tường thuật rằng họ đã tranh luận sôi nổi với nhau rằng: “làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6,52).
Kho tàng các chuyện dân gian về tình mẫu tử hay tình hiếu thảo vẫn có đó nhiều mẫu gương các bà mẹ cho con “uống máu”mình hay những người con hiếu thảo cắt thịt để nuôi mẹ già. Dù vậy, khi nghe đến các từ ăn thịt và uống máu người, thì chúng ta vẫn thấy gai gai, rờn rợn chút nào đó. Thế nhưng, có thể nói rằng tất cả mọi người đều đã từng ăn uống thịt máu người để được sống. Cứ vào mỗi dịp chuẩn bị cho các em xưng tội rước lễ lần đầu, tôi thường nói lên sự thật này đó là con người chúng ta thoặt sinh ra hầu hết đều nhờ chính thịt máu của mẹ qua dòng sữa để sống và lớn lên. Đã từng một thời, nhiều bà mẹ không ý thức tầm quan trọng của dòng sữa mình trong việc nuôi con thưở con mới lọt lòng và khi con còn thơ bé. Nhờ khoa học tiến bộ và cũng nhờ các phương tiện thông tin đại chúng, ngày nay người ta biết khôn ngoan hơn khi nhìn nhận: sữa mẹ là sữa tốt nhất cho trẻ sơ sinh và các trẻ nhỏ” Qua hình ảnh dòng sữa mẹ, xin được chia sẻ đôi điều về chính Thịt Máu Chúa Kitô là quà tặng nhưng không, là phương dược kháng bệnh tuyệt vời và là nguồn ban sự sống đời đời.
Thánh Thể: Quà tặng nhưng không. Nói rằng nhưng không thì có thể là thừa, vì đã nói là quà tặng thì không đòi hỏi phải trả tiền hay công sức. Tuy nhiên, không nói thì cũng có thể thiếu vì trong thực tế đằng sau nhiều quà tặng vẫn có đó hậu ý “bánh ít trao đi, bánh nhì trả lại” hay chuyện trả nợ đời của những bữa tiệc cưới hỏi, đám đình. Dòng sữa mẹ trao ban cho con thơ thì như là tuyệt đối nhưng không, nghĩa là tất cả chỉ vì con và cho con, ngay cả khi con chưa cất tiếng khóc vì khát sữa. Thiên Chúa được nhân cách hóa bằng Đức Khôn ngoan đã bảo “ Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa…” (Cn 9,5). Ngôn sứ Isaia cũng đã từng khẳng định: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon…”(Is 25,6) và ngài đã nói thay Thiên Chúa rằng: “Đến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mà mua mà dùng; đến mua rượu, mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1). Thánh Thể là quà tặng miễn phí, nhưng không. “Anh em đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không” (Mt 10,8).
Thánh Thể: Phương dược kháng khuẩn, phòng bệnh tuyệt vời. Khôn ngoan hơn người xưa, các bà trẻ ngày nay ý thức tầm quan trọng của những “giọt sữa trong” của mình khi đứa con vừa chào đời, là một linh dược giúp đứa trẻ kháng bệnh tật cách tuyệt vời. Chúa Kitô minh nhiên phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28). Mẹ Hội Thánh còn dạy chúng ta: “ Việc rước lễ giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Chúng ta rước lấy Mình Chúa Kitô, ‘đã phó nộp vì chúng ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế, bí tích Thánh Thể không thể kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, nếu không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi” (GLCG chung số 1393).
Thánh Thể: Nguồn ban sự sống thần thiêng, nhờ được kết hiệp nên một với Chúa Kitô. Qua dòng sữa, đứa trẻ ngày càng khắng khít với người sinh ra nó. Nhờ dòng sữa, cái tình giữa người mẹ và đứa con thêm đậm đà. Chúa Kitô đã từng khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hiệp với Tôi, và Tôi luôn kết hiệp với người ấy”. Đời sống trong Chúa Kitô có nền tảng nơi bí tích Thánh Thể: Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) (GLCG chung số 1391).
Không ai tự nhận là người khờ dại. Chúng ta đều muốn là những người khôn ngoan, nhưng có thể là “khôn ngoan của con cái thế gian”. Người khôn ngoan kiểu này thì tìm mọi cách thế để có được những thiện hảo đời này kể cả những cách thế phi nghĩa (x.Mt 16,1-8). Không chối cãi rằng vẫn có đó những bậc hiền triết và khôn ngoan đáng trân trọng. Tuy nhiên khôn ngoan theo kiểu này vẫn chưa đủ bảo đảm cho sự sống đời đời vì người ta có thể ỷ lại vào luận lý nhân loại để khước từ Đấng là bánh hằng sống từ trời xuống (x.Mt 11,25-56; Lc 10,21). Ngoài sự khôn ngoan chính đáng thì cần phải có lòng tin. Dù luận suy thế nào đi nữa thì Bánh hằng sống là nguồn ban sự sống đời đời, là phương dược xóa tội và giúp chống lại chước cám dỗ, là quà tặng nhưng không, mãi luôn là mầu nhiệm của đức tin.
Nói đến đức tin thì chúng ta nhìn nhận đó là hồng ân Chúa ban và cũng là sự dấn thân đáp trả của chúng ta. Sự đáp trả này đòi hỏi nhiều sự từ bỏ. Một trong những sự từ bỏ phải có, đó là chấp nhận sự hạn chế của lý trí trước các thực tại siêu nhiên, vì đối tượng của đức tin không minh nhiên rõ ràng theo sự luận lý của trí khôn nhân loại. Vì Chúa Kitô là Đấng có lời quyền năng trên bệnh tật, trên sự chết, trên cả thiên nhiên và Người là Đấng từ bi, nhân hậu, đầy lòng xót thương, nên chúng ta tin nhận những gì Người mạc khải.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin củng cố đức tin cho chúng con (x. Mc 9,24).
16. Tấm Bánh – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Theo tạp chí Times, gần đây có nhiều vụ tự tử trong giới doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông có đủ điều kiện để sống hạnh phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã nhảy lầu tự vẫn vì công ty mẹ là Yematri bị phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan chức trong Bộ tài chánh và hai viên chức khác thuộc công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời mình khi bị kết án có dính líu đến tham nhũng.
Theo thống kê của cục cảnh sát Nhật Bản năm 1996 có đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp hai lần số người chết vì tai nạn giao thông. Trong đó 3025 người tự tử vì thất bại về kinh tế. Các nhà tâm lý giải thích cho những người mất việc rằng: "Thất nghiệp là chuyện bình thường trong cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có một cái gì khác hơn việc làm".
***
Trong cuộc hành trình tìm về quê trời, người tín hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác hơn là công việc, tiền của, danh vọng và chức quyền.
Chúng ta luôn được nhắc nhở: "Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian" (x.Ga.15,19). Đừng gắn bó với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm những giá trị trường tồn. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh được trao ban cho nhân loại: "Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga.6,51).
Tấm Bánh ấy không chỉ là bí tích Thánh Thể mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa. Hiến chế về Phụng vụ quả quyết: "Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội" (Pv.7). Đức Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người chính là Tấm Bánh Lời Chúa: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý Mạc khải số 21 viết: "Giáo hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban Sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu".
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, trước khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Mọi tín hữu đều biết ích lợi vô song của Bí tích Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc rước lễ, chưa kể là thiếu chuẩn bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi tín hữu đều biết Lời Chúa là cần thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ có nói: "Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu tôi thấy những người Kitô hữu thực thi Tám mối phúc thật".
****
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn tỏa sáng lối đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là lương thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn biết thực thi lời Chúa; không chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài; không chỉ tuyên xưng, mà còn biết thực hành đức tin. Amen.
17. Bí Tích Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các ngươi (Cn 9, 5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.Thực ra, giáo lý về Bí Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6. 58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.
18. Bàn tiệc Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đói khát nhiều thứ, và chỉ có Chúa mới thỏa mãn được tất cả cho chúng ta. Thánh lễ chính là một bữa tiệc. Trong Thánh lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa, chúng ta được ăn Mình Thánh Chúa.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng tham dự Bàn tiệc Chúa.
II. Gợi ý sám hối
* Chúng ta chưa thực sự tin rằng Mình Thánh Chúa là lương thực rất cần thiết cho cuộc sống chúng ta.
* Chúng ta chưa thiết tha học hỏi sự khôn ngoan trong Lời Chúa.
* Chúng ta không siêng năng dự tiệc Thánh Lễ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 9,1-6)
Cựu Ước rất quý chuộng sự Khôn ngoan, đến nỗi đã nhân cách hóa sự Khôn ngoan như một mệnh phụ hào phóng dọn một bữa tiệc thịnh soạn và kêu mời mọi người đến dự, tức là đế học hỏi sự khôn ngoan của mình.
Hình tượng về sự Khôn ngoan này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu.
2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này quảng diễn tiếp bài đọc I về sự khôn ngoan: khôn ngoan thật là biết kính sợ Chúa.
3. Tin Mừng (Ga 6,51-58)
Tiếp tục bài giảng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể: Ngài nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời".
Ở cuối đoạn tuần trước, Đức Giêsu đã nói rõ: "Bánh ta sẽ ban chính là thịt ta đây" (câu 51).
Câu đó đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Đức Giêsu), có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Đức Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào? Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Đức Giêsu dùng những động từ rất mạnh và cụ thể. Động từ "ăn" nguyên gốc là Trôgô nghĩa là "nhai", lấy răng mà nhai một thức ăn nào đó. Và động từ trôgô này được lặp đi lặp lại nhiều lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt khoát "Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống".
Như thế là Đức Giêsu nói tới bí tích Thánh thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
Hiệu quả của việc rước lễ: "Ai ăn thịt Ta và uống máu ta thì có sự sống đời đời... thì ở trong ta và ta ở trong kẻ ấy".
4. Bài đọc II (Êp 5,15-20)
Đoạn thư này cũng trùng hợp với hai bài đọc Cựu Ước và Tin Mừng vì cũng đề cập đến sự khôn ngoan. Thánh Phaolô khuyên tín hữu đừng sống như kẻ khờ dại, mà hãy sống như người khôn ngoan. Theo ngài, khôn ngoan là
- biết tận dụng thời buổi hiện tại
- biết tìm hiểu đâu là thánh ý Chúa
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tấm Bánh (Ga 6,51-58)
Theo tạp chí Times, gần đây có nhiều vụ tự tử trong giới doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông có đủ điều kiện để sống hạnh phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã nhảy lầu tự vẫn vì công ty mẹ là Yematri bị phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan chức trong Bộ tài chánh và hai viên chức khác thuộc công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời mình khi bị kết án có dính líu đến tham nhũng.
Theo thống kê của cục cảnh sát Nhật Bản năm 1996 có đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp hai lần số người chết vì tai nạn giao thông. Trong đó 3025 người tự tử vì thất bại về kinh tế. Các nhà tâm lý giải thích cho những người mất việc rằng: "Thất nghiệp là chuyện bình thường trong cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có một cái gì khác hơn việc làm".
***
Trong cuộc hành trình tìm về quê trời, người tín hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác hơn là công việc, tiền của, danh vọng và chức quyền.
Chúng ta luôn được nhắc nhở: "Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian" (x.Ga.15,19). Đừng gắn bó với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm những giá trị trường tồn. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh được trao ban cho nhân loại: "Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga.6,51).
Tấm Bánh ấy không chỉ là bí tích Thánh Thể mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa. Hiến chế về Phụng vụ quả quyết: "Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội" (Pv.7). Đức Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người chính là Tấm Bánh Lời Chúa: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý Mạc khải số 21 viết: "Giáo hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban Sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu".
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, trước khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Mọi tín hữu đều biết ích lợi vô song của Bí tích Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc rước lễ, chưa kể là thiếu chuẩn bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi tín hữu đều biết Lời Chúa là cần thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ có nói: "Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu tôi thấy những người Kitô hữu thực thi Tám mối phúc thật".
****
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn tỏa sáng lối đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là lương thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn biết thực thi lời Chúa; không chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài; không chỉ tuyên xưng, mà còn biết thực hành đức tin. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2. Chỗ trong bàn tiệc
Một thương gia giàu có kia sống chung với con trai và con dâu mình. Người con trai rất thương người nghèo, hay làm việc thiện nguyện trong những tổ chức giúp đỡ người nghèo, và cũng thường bố thí cho người nghèo. Ít lâu sau vợ chồng người con trai sinh được đứa con đầu lòng. Ông thương gia rất mừng và định tổ chức một bữa tiệc mừng rất lớn.
Người con hỏi người cha: "Cha định sắp xếp chỗ ngồi cho khách thế nào? Có phải là để những người giàu ngồi những bàn trên còn những người nghèo ngồi những bàn gần cửa không?" Người Cha xác nhận đúng như thế. Người con mới xin: "Vì đây là bữa tiệc mừng đứa con của con, nên xin Cha hãy chìu ý con mà đảo ngược lại, nghĩa là hãy đề những người nghèo ngồi bàn trên và những người giàu ngồi bàn dưới". Người Cha đáp: "Con ơi, khó mà thay đổi thế giới được. Này nhé con hãy suy nghĩ thử xem: Những người nghèo đến dự tiệc là để ăn, còn những người giàu đến đây không phải để ăn mà để được vinh dự. Vậy nếu ta xếp những người nghèo ở bàn trên thì họ phải cố gắng giữ tư thế cho đàng hoàng, không dám ăn uống tự nhiên, cho nên dù có ăn họ cũng ăn không ngon. Thà để họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ thoải mái hơn và muốn ăn uống thế nào và bao nhiêu tuỳ thích. Còn những người giàu đến đây thực ra không cần ăn, vì họ đã ăn uống đầy đủ ở nhà rồi. Xếp họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ buồn; cho nên xếp họ ngồi bàn trên thì hợp ý họ hơn".
Nghe người cha giải thích như vậy, người con thấy hợp lý và không nài nỉ nữa.
Câu chuyện trên không có ý dạy ta coi trọng người giàu và coi nhẹ người nghèo, nhưng muốn giúp ta so sánh với Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc. Nhưng bàn tiệc này khác với những bàn tiệc của loài người ở chỗ là mọi người đều được mời, bất kể họ giàu hay nghèo. Những chỗ ngồi trong bàn tiệc Thánh Thể cũng bình đẳng như nhau, không ai cao mà cũng không ai thấp. Tất cả chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể đều là những người nghèo về mặt thiêng liêng, cho nên đến đây tất cả chúng ta đều được ăn uống no nê. Chẳng những thế tất cả chúng ta còn được vinh dự vì được tham dự bàn tiệc của Thiên Chúa. Và hơn nữa những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia xẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Chuyện minh họa
Mẹ Têrêxa Calcutta có một quy luật là khi một thiếu nữ nào đến xin nhập Dòng thì ngay ngày hôm sau sẽ được gửi tới Nhà Lâm Chung (nơi chăm sóc những người sắp chết).
Một hôm, có một thiếu nữ đến xin nhập Dòng. Theo thông lệ, Mẹ Têrêxa gửi chị này đến Nhà Lâm Chung. Mẹ căn dặn: "Con đã thấy các linh mục chạm đến Mình Thánh Chúa một cách cung kính và trìu mến thế nào. Bây giờ con hãy đến Nhà Lâm Chung và cũng hãy làm như thế, bởi vì Đức Giêsu trong Mình Thánh Chúa cũng là một với Đức Giêsu đang ở trong những người khốn khổ ấy".
Ba giờ sau, thiếu nữ trở về với một nụ cười rạng rỡ trên mặt. Cô trình với Mẹ Têrêxa: "Thưa Mẹ, con đã được chạm đến Mình Thánh Chúa suốt 3 giờ đồng hồ". "Sao? Con đã làm gì?" Mẹ Têrêxa hỏi. Cô đáp: "Khi con đến đấy thì người ta cũng vừa mang đến một ông bị rơi vào một cái cống và phải nằm trong đó một thời gian. Mình mẩy ông rất dơ bẩn và rất nhiều thương tích. Con đã rửa cho ông và lau các vết thương của ông. Đang lúc con làm thế, con biết là con đang chạm chính Mình Thánh Đức Kitô".
* 4. Lương thực thần linh
"Có thực mới vực được đạo." Câu nói đó chắc chắn không áp dụng với người giáo dân tên là Têrêxa Niu Man, là người đã trải qua 36 năm trời không ăn uống gì mà vẫn sống và giữ đạo sốt sắng. Têrêxa sinh ngày 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình Công Giáo ngoan đạo miền Bắc Baveria của nước Đức. Người dân trong làng Cổ Môn Trường gồm gần 1,000 người, hầu hết sống bằng nghề nông. Gia đình của Têrêxa rất nghèo như phần đông các gia đình trong làng. Học xong tiểu học, Têrêxa 14 tuổi và em là Maria 13 tuổi, đi làm thuê cho những điền chủ ở các làng lân cận để có tiền giúp đỡ cha mẹ. Công việc nặng nhọc nhưng Têrêxa không ngại vì bản tính vốn ưa thích việc đồng ruộng và chăm sóc súc vật. Giống như mấy em gái của nàng, Têrêxa cũng có những chàng trai để ý ngắm nghía, nhưng nàng đã có mơ ước riêng. Từ nhỏ nàng đã mơ ước là một nữ tu truyền giáo ở Phi Châu và đã nhiều lần liên lạc với các tu sĩ truyền giáo Dòng Biển Đức. Nhưng Thiên Chúa đã an bài một hướng truyền giáo khác cho Têrêxa.
Ngày 13 tháng 11, 1925, Têrêxa bị đau ruột dư dữ dội, cơn sốt cao khủng khiếp. Bác sĩ chăm sóc cho nàng đề nghị một cuộc giải phẫu tức khắc tại một bệnh viện gần đó. Mẹ nàng khóc hết nước mắt. Cha sở Ngô Biên (Nobert) có mặt. Têrêxa xin cha Biên đặt thánh tích của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên chỗ đau và chính nàng cầu xin: "Lạy thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể chữa con lành bệnh, Ngài đã chữa lành con nhiều lần rồi. Con không xin Ngài vì con nhưng vì mẹ con."
Đáp lại thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã cho nàng lập tức khỏi bệnh. Cùng với mẹ nàng đến nhà thờ tạ ơn Chúa trước sự ngỡ ngàng của mọi người có mặt. Nhưng trước đó thánh nhân đã nói cho Têrêxa Niu Man biết rằng: Sự tuân phục và vui tươi chấp nhận đau khổ của con làm ta rất hài lòng. Để mọi người nhận thức đây là một biến cố phi thường, con sẽ không cần phải trải qua cuộc giải phẫu và hãy mau mau tạ ơn Chúa. Con sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa, nhưng đừng sợ điều gì, cả những đau khổ trong nội tâm. Chỉ có cách này con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, nhưng hãy luôn sống trong sạch, đơn sơ như hiện nay.
Quả thật, không đầy bốn tháng sau, Têrêxa cảm thấy mệt mỏi phải nằm giường cả hơn tháng trời cho tới lễ Phục Sinh. Đêm thứ năm ngày 4 tháng 3 khi nằm nghỉ trên giường, nàng chợt thấy trong một thị kiến, Đức Giêsu đang quì cầu nguyện ở vườn cây dầu và thấy các môn đệ đang ngủ. Nàng cảm thấy dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô biên đối với Đấng Cứu Chuộc. Cùng lúc Đức Giêsu nhìn chằm chặp vào nàng. Nàng cảm thấy đau đớn tột độ ở gần nơi trái tim đến nỗi có thể chết được. Khi tỉnh lại, Têrêxa thấy ở cạnh sườn bên trái của nàng một vết thương, máu rỉ ra cho đến ngày hôm sau. Nàng băng vết thương lại để mọi người không thấy và nói với em gái ở chung phòng với nàng là nàng bị phỏng.
Một tuần lễ sau cũng vào giờ đó Têrêxa lại thấy Đức Giêsu trong vườn cây dầu, và sau đó cảnh Ngài bị đánh bằng roi. Tuần lễ sau nữa, nàng chứng kiến cảnh Chúa đội mão gai. Mỗi lần như thế, vết thương cạnh sườn nàng chảy máu chan hoà đến ngày hôm sau. Ngày thứ sáu 26 tháng 3, Têrêxa thấy Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi tỉnh lại nàng thấy một vết thương hiện lên nơi bàn tay trái của nàng, không cách chi che giấu được. Khi mẹ nàng hỏi tại sao bị thương như thế, Têrêxa trả lời rằng vết thương ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong đêm thứ năm tuần thánh, tức ngày 1 tháng 4, lần đầu tiên Têrêxa được mục kích trọn đường thánh giá từ vườn cây dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của Chúa trên thập giá.
Sau đó những vết thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của nàng. Cha sở Ngô Biên được mời đến. Cha vội đến nói với một linh mục khác và cha đã ghi như sau trong nhật ký của cha: " Têrêxa nằm đó như một vị tử đạo, cặp mắt nàng đầy máu và hai giọt máu chảy xuống má nàng. Gương mặt nàng nhợt nhạt như một người chết. Đến 3 giờ chiều, giờ chết của Đấng Cứu Chuộc, nàng phải chịu những cơn đau khủng khiếp đến chết đi được. Sau đó, nàng trở nên yên lặng hoàn toàn. Cha sở bị đánh động mạnh trước biến cố. Các dấu thánh ấy đồng thời khiến cha mẹ và cả gia đình của Têrêxa sầu khổ tột độ.
Ngày 4 tháng 4 là Chúa Nhật Phục Sinh, Têrêxa được thấy Đấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Nàng cảm thấy khoẻ khoắn trong người để có thể ra khỏi giường.
Ban đầu gia đình Têrêxa nghi ngờ về những dấu lạ này nên cố gắng chữa trị cho Têrêxa. Nhưng càng chạy chữa, xức thuốc và băng bó, những vết thương ấy càng lở loét và gây thêm đau nhức. Têrêxa lấy làm lạ về hiện tượng đó nên thỉnh ý thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu và được Ngài cho biết là không nên chữa trị những vết thương đó. Chúng không làm độc và chỉ mở ra mỗi thứ sáu.
Tháng 11 cùng năm đó, giữa hai ngày 18 và 19, tức thứ năm và thứ sáu, trong khi Têrêxa nhận được thị kiến về Đức Giêsu chịu đội mão gai, người ta thấy xuất hiện 3 vết máu trên chiếc khăn màu trắng nàng đội trên đầu. Khi cất khăn đi người ta thấy đầu nàng ướt sũng máu và rất đau đớn. Tuần kế tiếp có 8 vết máu trên đầu nàng. Những vết ấy sẽ ở mãi trên đầu nàng.
Từ lễ Giáng Sinh 1926, Têrêxa kinh nghiệm một sự thay đổi đột ngột là ngưng hẳn việc ăn uống. Hằng ngày sau khi rước lễ nàng chỉ dùng vài giọt nước để giúp nàng nuốt trôi Mình Thánh Chúa. Nhưng cha sở Ngô Biên chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, nàng không cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở đi, trong 36 năm liền, Têrêxa sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là thức ăn duy nhất của nàng. Cha Ngô Biên, người đã cho Têrêxa rước lễ mỗi ngày cho đến khi nàng chết, đã ghi trong nhật ký của ngài rằng Têrêxa thường nói với mọi người là nàng sống nhờ vào Đấng Cứu Chuộc. Và cha còn thêm rằng nơi Têrêxa thực đã ứng nghiệm lời tuyên bố của Đức Giêsu khi nói: "Thịt Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là của uống."
Câu chuyện vừa kể minh họa lời Đức Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56). Câu chuyện cho thấy Chúa ở lại một cách lạ lùng: (1) Chúa ở lại và tỏ lộ quyền năng của Người nơi một giáo dân chỉ cần chịu lễ mà thôi# không cần ăn uống gì khác trong suốt thời gian 36 năm, mà vẫn mạnh khỏe! (2) Chúa còn ở lại và cho người ấy dự phần vào cuộc thương khó của Chúa cả nơi thân xác lẫn nơi nội tâm người đó. (3) Mục tiêu nhắm tới là: "Con đừng sợ đau khổ, kể cả đau khổ nội tâm. Chỉ có cách đó, con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn, phải luôn sống trong sạch và đơn sơ như hiện nay" - mục tiêu ấy được tiết lộ qua trung gian thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong một thị kiến.
Nhân vật trong câu chuyện có thực, vì ta biết rõ lý lịch. Sự kiện mà người đó chịu lễ và không ăn uống gì khác suốt 36 năm, cũng như sự kiện về năm dấu thánh nơi thân xác người đó với những đau đớn người đó phải chịu các ngày thứ sáu, những hiện tượng đó đã được kiểm chứng đầy đủ do các bác sĩ có thẩm quyền của Toà Thánh và của giáo phận Ratisbon của Đức Quốc. Đồng thời, vụ án phong chân phước cho bà Têrêxa Niu Man đang được xúc tiến.
Chẳng ai buộc người Kitô phải tin vào ơn mạc khải riêng bao giờ. Nhưng mọi Kitô hữu đều phải bén nhạy đối với những việc Chúa làm nơi thọ tạo. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ Trời xuống, bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt và máu Tôi. Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời". Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các giáo sĩ, tu sĩ các giáo dân trong Hội thánh / biết sốt sắng tham dự thánh lễ và siêng năng Rửa tội / để luôn sống hiệp thông với Đức Giêsu và với nhau.
3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các dân tộc / được ơn khôn ngoan sáng suốt để chọn đường lối tốt đẹp nhất mà phục vụ cho đồng bào mình.
2. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chưa biết Đức Giêsu Kitô / được sớm nhận ra Người chính là Đường, là sự Thật và là Sự Sống của mọi người.
4. Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / ngày càng hiểu biết hơn tầm quan trọng của bí tích thánh thể trong cuộc sống hằng ngày của mỗi Kitô hữu.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, xin cho mỗi người chúng con hiểu biết rằng, chỉ nhờ sức sống của Chúa ban cho trong bí tích Thánh Thể, chúng con mới có thể sống yêu thương và phục vụ tốt cho gia đình và xã hội. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: "Đây là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời"
VII. Giải tán
Chúng ta tạ ơn Chúa đã cho chúng ta tham dự Thánh lễ này, vì nhờ đó chúng ta được nghe những Lời khôn ngoan của Chúa và được rước lấy Mình Thánh Ngài. Ước gì Lời Chúa và Mình Chúa giúp chúng ta sống thật tốt suốt tuần này.
19. Thứ bánh không thể thiếu
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Mãi mãi là chia sẻ
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, thánh Gioan kết thúc phần suy niệm diễn từ bánh trường sinh. Sẽ thật là uổng công khi muốn tách rời điều Đức Giêsu muốn nói và điều tác giả muốn hiểu - một suy tư ở cuối một kinh nghiệm dài về đời sống Hội Thánh. Toàn bộ diễn từ, đặc biệt phần kết luận, trình bày những suy tư của thánh Gioan về mặc khải Đức Giêsu nói về chính Người qua Lời giảng và thập giá. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống và ở mãi với con người. Thịt Máu Người là quà tặng cho nhân loại được sống, là lương thực đưa đến vĩnh cửu và là bảo đảm cho sự phục sinh.
Kết luận của diễn từ cũng chỉ là nhấn mạnh đến thực tại tính của bí tích Thánh Thể. Điều này đã được hàm ẩn ở phần trên, còn ở đây được nói đến trực tiếp: những điều Đức Giêsu nói trong diễn từ rất gần với trình thuật Tiệc Ly. Chính vì thế, tác giả Tin Mừng thứ tư không thuật lại chuyện Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly; tác giả chỉ đưa ra những suy niệm rất phong phú sau trình thuật hoá bánh ra nhiều.
Quả thế, trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa, việc chia sẻ thực sự của ăn vật chất vẫn là điều thường được nhắc đến để rồi bí tích Thánh Thể do Đức Giêsu thành lập chính là cao điểm. Bí tích Thánh Thể loan báo sự hoàn tất của điều chỉ mới phác thảo trong của ăn vật chất. Do đó, bí tích Thánh Thể buộc con người phải suy nghĩ về cách thức phân phối của ăn trong thế giới hiện nay.
Biết bao lần con người đã làm cho dấu chỉ này mất đi nền tảng thực sự của mình. Người tín hữu vẫn mong muốn thế giới đến lãnh nhận bánh này, nhưng lại xao lãng thi hành điều Thiên Chúa muốn và chính Đức Giêsu đã mở đầu. Đó là trao tặng của ăn đích thực cho tất cả mọi người.
Trách nhiệm này không chỉ liên hệ đến gia đình hay những nhóm nhỏ, nhưng trở thành một vấn đề có tầm mức quốc tế, liên hệ đến cả lãnh vực kinh tế, chính trị. Điều này làm cho con người sợ! Con người cảm thấy dễ dàng khi phải chấp nhận một số ít của cải hơn là phải chia sẻ những gì mình đang có, những lợi lộc mình kiếm được, những kỹ thuật tiên tiến hay kiến thức của mình. Họ sợ rằng những người được họ trao tặng những thứ đó mai này sẽ trở thành những đối thủ của họ trên thị trường cạnh tranh, tức là về công việc làm và về bánh ăn!
Nếu những ý tưởng đó thực sự là suy nghĩ của nhiều người thì tại sao họ lại ngạc nhiên khi thánh lễ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu đối với nhiều Ki-tô hữu, và lại càng chẳng có ý nghĩa gì đối với những người không tin?
Chia sẻ! Một đòi hỏi cần thiết trong mọi thời đại, vì đó chính là trao tặng "thịt làm của ăn". Điều này chỉ có một mình Đức Giêsu thực hiện đến cùng.
Cuộc trao đổi kỳ diệu
Trao tặng cuộc sống: thành ngữ này làm người ta nghĩ ngay đến hành động anh hùng của người băng mình cứu người bị nạn, hay của người chiến binh liều mạng vì lợi ích của đồng đội. Thành ngữ này cũng làm người ta nghĩ đến các bậc cha mẹ, những nhà giáo dục, có thể cả những nhà chính trị thực sự hy sinh vì lợi ích chung.
Trao tặng cuộc sống, đó là hy sinh cuộc sống riêng mình vì các con, vì người thân cận, vì người đồng hương. Tất cả thời giờ để phục vụ người khác đều có ý nghĩa là cuộc sống được sử dụng, được tiêu dùng.
Thế nhưng, có thực tại nào của nhân loại diễn tả đầy đủ nhất về sự trao tặng này hơn là bữa ăn. Khi bữa ăn chia sẻ diễn ra trong một cộng đoàn yêu thương nhau, thì nó không chỉ là cung cấp của ăn vật chất, bởi vì người dọn bữa ăn cũng như người tham dự đã trao tặng một phần thời gian dành để kiếm sống. Trong bữa ăn như thế, người ta trao tặng phần thời gian đã qua cũng như khoảng thời gian hiện tại để cho người khác được sống và sống vui tươi.
Đó là một thực tại tinh thần mà người ta ít quan tâm. Thật là dễ dàng biết bao khi chỉ nhìn sự vật theo dáng vẻ bên ngoài, và đánh giá bữa ăn theo chất lượng của thức ăn để rồi không nhận ra rằng chỉ một mẩu bánh nhỏ thôi, nhưng do chính người đang đói trao tặng với lòng yêu thương thì có giá trị hơn hẳn bữa tiệc huy hoàng nhất.
Ai hiểu được thực tại này cũng sẽ hiểu được thực tại vô cùng sâu xa do Đức Giêsu loan báo: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống... Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời." Đấng đưa ra lời mời này chính là nguồn mạch tình yêu. Dòng sống Người muốn đưa nhân loại vào khi trao tặng chính Người cho họ, đó là Thiên Chúa.
Ai tin tưởng và mở ra trước lời mời của Đức Giêsu, ai tin tưởng và lãnh nhận tấm bánh do Thiên Chúa ban, thì sự sống đích thực sẽ phát triển nơi người ấy, bởi vì qua tấm bánh, họ lãnh nhận chính con người và sự sống của Đức Giêsu. Như vậy, khi lãnh nhận thịt và máu Đức Giêsu, người tín hữu bước vào mối tương quan thân mật hoàn toàn mới. Họ tham dự vào mối hiệp thông thần linh và vĩnh cửu giữa Cha và Con, đồng thời lãnh nhận bảo chứng sẽ được phục sinh vào ngày cuối cùng.
Một mẩu bánh, đó là tất cả những gì Đức Giêsu để lại cho con người kèm theo một lời mời. Ai ăn tấm bánh đó thì được đồng hoá với Đức Giêsu, trở nên thiêng liêng và được mời gọi trao tặng không giới hạn. Liệu con người còn có thể hy vọng có một chứng tá tình yêu nào lớn lao hơn là cuộc trao đổi kỳ diệu này?
Hiệu quả tinh thần
Từ những lời của Đức Giêsu, ta có thể nhận ra ba hiệu quả của bí tích Thánh Thể.
* Sự sống đời đời và sự sống lại
Thánh Thể làm cho ta được hiệp thông với Đức Giêsu Phục Sinh, đang ngự bên hữu Chúa Cha. Thân xác sống động ấy trở thành một hạt giống của sự sống vĩnh cửu được gieo vào trong chúng ta. Nhờ đó, ngay tại trần gian này, chúng ta đã bắt đầu tham dự vào hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
* Đức Ki-tô ở lại trong người Ki-tô hữu
Thánh Gioan thường nhắc đi nhắc lại từ ngữ ở lại. Ơn gọi của tất cả chúng ta là được "ở lại với Thiên Chúa, trong Thiên Chúa". Ngược lại, Thiên Chúa vẫn luôn mong muốn ở lại với nhân loại. Lịch sử cứu độ không có gì khác hơn câu chuyện Thiên Chúa đến ở với con người và làm cho con người được ở với Thiên Chúa.
* Sống nhờ Chúa Cha
Qua cách dùng từ ngữ của thánh Gioan, chúng ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và vì Chúa Cha. Thật ra, Đức Giêsu không ngừng bày tỏ điều này trong suốt cuộc đời của Người. Bất cứ hành động hay lời nói nào của Người cũng đều phát xuất từ Chúa Cha và vì tình yêu mến đối với Chúa Cha. Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta đi vào mối tương giao ấy qua việc đón nhận chính thân thể của Người.
"Chúng con ăn thân xác chí thánh của Chúa,
thân xác đã chịu đóng đinh vì chúng con.
Chúng con uống máu thánh của Chúa
đã đổ ra để giải thoát chúng con.
Ước mong thân xác của Chúa,
nên ơn cứu độ cho chúng con!
Ước chi máu thánh của Chúa,
trở thành ơn tha thứ mọi tội lỗi chúng con."
(theo Phụng Vụ Pháp)
20. Thân Thể
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cơ thể con người được Thiên Chúa tạo dựng và phần nào cũng có chức năng riêng của nó, phần nào cũng quan trọng, phần nào cũng cần thiết. Ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán, xã hội chia thân thể con người ra nhiều phần khác nhau. Bởi có chia thành từng phần nên việc thích phần cơ thể này nhiều hơn phần cơ thể kia là điều không thể tránh. Người ta nói đến khuôn mặt dễ thương, sóng mũi cao đẹp, đôi mắt tinh anh, miệng cười dí dỏm. Bởi thích hơn nên chăm sóc phần đó nhiều hơn và lơ là chăm sóc phần khác. Từ tư tưởng chăm sóc thiên vị kia dẫn đến việc ca ngợi phần cơ thể này và dùng phần không ưa kia tặng người mình không ưa kèm theo lời thậm tệ, chửi rủa, hạ nhục kẻ khác. Chửi rủa thường gắn liền với một phần nào đó của thân thể và phần đó thường được che kín, bởi giận nên bới tung phần che kín xả cơn bực dọc, khó chịu. Những câu nói đó dù nói riêng tư hay nói nơi công cộng đều khó nghe cả nhưng dường như hầu hết mọi người ít nhiều dùng những câu nói đó mà chúng ta gọi là chửi thề. Chửi thề là cách diễn tả cảm xúc của con người và diễn tả cảm xúc buồn vui, tức giận là điều cần thiết và người bình thường nào cũng cần đến. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào cách diễn tả tình cảm của ta để người khác biết về cá tính và tư cách của người đó. Tư cách con người biểu lộ rõ ràng nhất khi người đó nóng giận, bực dọc bởi chính lúc đó là lúc sống thực với mình nhất. Sống thực bởi không kiềm chế được sự bực dọc.
Đức Kitô cũng dùng chính thân thể của Ngài để diễn tả không phải tình cảm suông mà Ngài dùng toàn thể con người Ngài để nói lên tình yêu tuyệt vời dành cho những ai Ngài yêu mến. Ngài hứa ban thịt và máu Ngài làm của ăn cho mọi người. Cách diễn tả mạnh bạo, mãnh liệt đến độ khi nghe đến người ta giật nảy mình, không tin vào điều tai vừa nghe.
Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Gn 6, 53-56.
Có rất nhiều trường hợp Đức Kitô biểu lộ rõ ràng tâm tình của Ngài nhưng chưa lần nào Ngài biểu lộ cách rõ ràng, tỏ tường như lần Ngài dùng chính thịt và máu mình làm của nuôi tâm hồn con người. Đây không phải là diễn tả tình cảm riêng tư mà chính là ngôn ngữ diễn tả hành động vì yêu thương nên dâng hiến. Cho đi thịt và máu là cho đi tất cả thể xác lẫn tâm hồn, không giữ lại bất cứ chút nào mà là cho toàn vẹn. Ngôn ngữ nghe có vẻ chói tai cho những ai không tin vào Đức Kitô hay cho những ai đức tin yếu kém. Đức Kitô dùng ngôn ngữ hiến cho trọn vẹn để diễn tả tình yêu thiết tha, chân thành hết mực cho người mình yêu. Ngôn ngữ hy sinh trọn vẹn không thuần về tâm tình mà tiến xa hơn tâm tình đến hy sinh, hiến tặng vô điều kiện để nói lên mối tình tuyệt vời, không còn cấp bậc tình yêu nào cao hơn là chết vô điều kiện cho người mình yêu.
Khi hiến tặng toàn thể con người cho nhân loại Đức Kitô mời gọi chúng ta liên kết với Ngài qua việc bẻ bánh, qua việc đón nhận tình yêu Chúa vào trong tâm hồn một cách sốt sắng, mến yêu đáp lại tình Chúa yêu thương. Việc đón nhận Đức Kitô vào trong tâm hồn là liên kết sống trong Chúa. Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa. Thánh Phaolô diễn tả tình yêu liên kết là một bảo vệ, che chở tuyệt vời: khi Chúa ở cùng tôi, tôi còn sợ ai vì Thánh Thần Chúa giải thoát tôi (Rm. 8,31)
Liên kết với Đức Kitô, tội lỗi và sự chết không còn làm chủ được ta nữa vì có Chúa ở cùng. Đấng chiến thắng sự chết. Sự sống trường sinh Chúa ban không bao giờ tàn lụi bởi sự sống đó đến từ Thiên Chúa hằng sống. Vì thế chúng ta cầu xin mỗi lần đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa chúng ta cảm nhận được sự sống Phục Sinh của Ngài trong ta.
21. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Sách Xuất Hành chương thứ ba kể chuyện Môisen nhìn thấy bụi cây bốc cháy nhưng bụi cây không tàn héo, vẫn xanh tươi. Thấy sự lạ Môisen tò mò dò bước tới xem. Gần đến nơi nghe tiếng phán, bỏ dép ra vì nơi ngươi đang đến là nơi thánh. Môisen hỏi thưa Ngài, Ngài là ai. Có tiếng đáp. Ta là Đấng Tự Hữu, Thiên Chúa của tổ tiên các ngươi, là Thiên Chúa hằng có đời đời.
Tin để hiểu
Gặp gỡ Thiên Chúa, Môisen không hiểu ý nghĩa thâm sâu của câu nói dù đã nghe rõ từng chữ trong câu. Qua cuộc đối thoại đó Môisen học biết đức tin không phải để hiểu mà để tin. Môisen tin mà không hiểu. Qua niềm tin chân thành, Thiên Chúa dùng Môisen như khí cụ, thủ lãnh giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Pharaôn.
Tin thì quan trọng và có ích hơn hiểu. Tin là bước đầu giúp tìm hiểu, học hỏi nhận biết thêm về Thiên Chúa. Hiểu rồi mới tin là điều không thể xảy ra vì điều kiện tiên quyết, căn bản là đức tin.
Đức Tin vô cùng quan trọng. Tin là bước nền tảng, căn bản dẫn đến hiểu biết qua cầu nguyện, thành tâm học hỏi. Thiếu bước nền tảng này không thể bước đúng bước kế tiếp. Bước đầu tiên đã sai. Bước thứ hai tiếp tục sai. Càng bước càng sai.
Sức mạnh niềm tin
Tin vào Thiên Chúa đã không thiệt thòi gì còn được hưởng ân huệ Chúa ban. Ơn được làm con cái Chúa, ơn được gọi Chúa là Cha. Ơn trợ giúp khi gặp nguy khó. Ơn là anh chị em trong đại gia đình Chúa. Ơn trở thành phần tử của thân thể Đức Kitô, Ngài là đầu, chúng ta là chi thể. Những ơn này không lộ rõ ra bề ngoài nhưng mang lại hạnh phúc thật cho tâm hồn. Lúc bình thường, thuận buồm xuôi gió, sức mạnh đức tin tiềm ẩn, bàng bạc trong cuộc sống, vô ý không nhận biết. Khi gian nan, lúc khốn khó, sức mạnh đức tin xuất hiện, giúp mang an bình nội tâm. Trong gian truân đức tin mạnh tựa núi đá, thành trì vững chắc bảo vệ, giúp vượt qua phong ba, bão tố. Vì thế kẻ có đức tin thất bại chẳng nản lòng. Buồn khổ, lo lắng, vẫn một lòng phó thác. Khi tù đày vẫn cảm thấy Chúa gần bên.
Ân huệ ngàn trùng
Gần ngàn năm sau Đức Kitô xuống thế làm rõ nghĩa câu tổ phụ Môisen thắc mắc và suy gẫm trong lòng. Đức Kitô mặc khải Đấng Tự Hữu không phải là ai khác mà chính là Cha Ngài. Mặc khải này cho biết:
Đức Kitô đến từ Chúa Cha, Đấng Tự Hữu.
Đức Kitô là Đấng hằng sống.
Đức Kitô là Đấng ban bánh hằng sống.
Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời vì được phúc trường sinh. Sức riêng ta không kiếm được bánh trường sinh. Nhờ tin, ăn bánh mà được kết hợp với Đấng hằng sống. Bánh đó chính là tình yêu Chúa ban cho nhân loại. Để diễn tả tình Chúa bao la Đức Kitô dùng Thịt và Máu Người làm của ăn trường sinh.
‘Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời’ c.58
Khôn ngoan tự trời
Bánh Hằng Sống là Bánh Từ Trời ban xuống vì thế không thể dùng khôn ngoan trần thế nhận Bánh Từ Trời. Muốn nhận được cần lòng tin và khiêm nhường. Những gì thuộc về trời chỉ có thể giải thích bởi khôn ngoan nước trời. Khôn ngoan trần thế không thấy sự khác biệt giữa bánh trần thế và Bánh Bởi Trời. Chỉ những ai khiêm nhu nhận ơn Chúa, với lòng tin mới nhận ra Bánh Trường Sinh đến từ trời.
Muốn nhận khôn ngoan nước trời, phải sống khiêm nhường. Bước đầu của khiêm nhường là chấp nhận con người giới hạn cả tài, trí lẫn đức. Để vượt qua giới hạn, cần siêng năng luyện tập các nhân đức. Chính việc thao luyện giúp trưởng thành về mọi mặt. Cách thao luyện đòi hỏi thành tâm, khiêm nhường. Tuổi đời và trưởng thành nhân đức không đi song hành. Càng siêng luyện tập càng sớm trưởng thành. Thiếu luyện tập nhân đức bị còi, đẹt, thu hẹp thể hiện qua tính tình bủn xỉn, nhỏ mọn, dễ giận, mau cáu, nhanh tự ái và ưa thù vặt.
Tài trí và đức, cần thao luyện chung với nhau mới mong có cuộc sống quân bình. Có tài trí mà thiếu đức dễ gây hoạ cho đời. Họa nhỏ thành đại hoạ do lãnh đạo quân phiệt, độc tài, vô đạo và vô thần. Giầu đức độ mà thiếu tài trí dễ bị kẻ khéo ăn nói, giỏi nịnh nọt, lợi dụng, làm xiêu lòng, rơi vào cạm bẫy kẻ tà tâm.
Liên kết
Nhờ ơn khôn ngoan mà nhận biết Bánh Trường Sinh không những đã nuôi sống, ban sức sống mà còn nối kết với Đấng hằng Sống. Chính sự nối kết này là nguồn sinh lực ban sức sống trường sinh cho những tâm hồn liên kết với Ngài. Hình ảnh cây nho liền cành dẫn đưa ta đến hình ảnh tình yêu sống động Đức Kitô thực hiện cho dân Ngài.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy c.57.
Đây chính là hình ảnh của hôn ước nước trời. Ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô là liên kết với Ngài được tham dự tiệc cưới nước trời.
22. Tôi Là Bánh Hằng Sống – Lm. GB. Văn Hào
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm bài diễn từ về “Bánh” trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm” (Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn: “ Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu Thánh Thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: “Ai tin vào con của Người, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu “luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “Ut unum sint” (Xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. “Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lập lại: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn “ Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
Nguồn: http://gplongxuyen.org