"Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình".
Lời Chúa: Mt 16, 21-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".
Thầy bảo thật các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – AA 2020
Lời Chúa: Gr. 20, 7-9; Rm. 12, 1-2; Mt. 16, 21-27
1. Nếu được cả thế giới.
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Đức Giêsu đã gặp nhiều cám dỗ trong đời.
Cám dỗ bởi ma quỷ trong sa mạc.
Cám dỗ bởi đám đông đòi xem phép lạ từ trời.
Cám dỗ bởi nhiều người thách xuống khỏi thập giá.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ
bởi chính Phêrô, người mà Ngài đã đặt làm nền tảng cho Hội Thánh.
Cơn cám dỗ này nguy hiểm biết bao, vì đến từ tình thương của một người môn đệ.
Phêrô không thể nào chấp nhận được
chuyện Đấng Mêsia phải chịu khổ đau và chịu chết.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ này.
Ngài nói với ông như nói với Xatan trước đây:
"Xatan, lui lại đàng sau Thầy!"
Phêrô đã đi trước Thầy.
Ông quên mất vị trí đi sau của người môn đệ.
Ông không ngờ mình trở nên viên đá làm Thầy suýt vấp.
Lối nghĩ của Phêrô rất tự nhiên, rất "người",
nhưng đó không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa.
Dần dần ông mới chấp nhận số phận bi đát của Thầy
và dám mất tất cả vì Thầy.
Sống ở đời ai cũng tranh phần được, và sợ mất.
Vấn đề là phải xác định xem
đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn,
đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất.
Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu,
vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời:
mất công, mất của, mất thì giờ, mất uy tín,
mất tương lai và mất cả mạng nữa.
Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả.
Mọi sự họ mất vì Thầy Giêsu, họ đều được lại.
Mất tạm thời để giữ được mãi mãi.
Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống,
đến nỗi dám chấp nhận cái chết.
Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình
hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
Lắm người tưởng mình được, hoá ra lại mất
Lắm người vui lòng mất, hoá ra lại được.
Chúng ta cần suy nghĩ sâu về cái được, cái mất,
để không phải hối hận sau này.
Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả.
Đó là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ, hy sinh,
dám vượt lên trên lối sống thực dụng, ích kỷ.
Không cần đợi sau cái chết, ta mới thấy mình được.
Bình an, niềm vui, triển nở trong tự do và yêu thương
là những cái được ta có ngay từ đời này.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời thường được ví như một cái chợ: chợ đời. Ai cũng phải tranh đua, vật lộn, thậm chí dùng cả những thủ đoạn, lọc lừa để thắng được người khác. Bạn nghĩ một Kitô hữu đạo đức có cơ may thành công giữa chợ đời không?
Chấp nhận sống đúng Lời Chúa là chấp nhận vác thập gía. Có khi nào bạn đã vác thập giá vì sống Lời Chúa không? Có thập giá nào hiện nay bạn còn sợ vác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúa đẵ chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
2. Thập giá - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Rôma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối người Hy Lạp, Thập giá trở thành hoa văn xinh đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai Cập thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây Ban Nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ơn phúc. Các nước tiểu Á và Đông Á vẽ Thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.
Nhìn chung nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ Thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ Thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau, nhưng khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là khổ giá, một đàng thương đau để được sự sống trường sinh nên được gọi là Thánh giá
Thánh giá này tiên tri Giêrênia như muốn từ chối vì nó nặng quá, sức ông đã kiệt quệ, không thể vác nổi, sức loài người quá yếu. Nhưng Thiên Chúa đã chiêu mộ ông, thiêu đốt ông bằng ngọn lửa cháy bừng trong lòng ông, âm ỉ trong xương cốt ông, làm ông vùng dậy la to, kêu lớn: “Bạo lực và tàn phá” cho những kẻ suốt ngày nhạo cười, phỉ báng ông. Họ muốn sống vinh quang, họ phải dẹp cái thói hung tàn, đàn áp đi, chớ liên minh với ngoại bang gây chiến, giết hại lẫn nhau: đó là thứ thập ác. Giêrênia đã vác Thánh giá để cứu dân thoát khỏi thập ác, nhưng dân vẫn lao đầu vào thập ác: chúng đã đốt con chúng làm lễ tế thần Baal (Cr. 19, 5) và hùa nhau: “Tố cáo ông, báo thù ông” (Ger. 20, 10).
Thánh giá này, Giêrênia vác không nổi thì Đức Giêsu đã đến vác trọn vẹn. Người long trọng tiên báo cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Phêrô nghe kinh khủng quá, kéo Thầy ra nói nhỏ, sao Thầy dại thế? “Xin Thiên Chúa thương cứu Thầy khỏi sự khốn đó”.
Thành thực muốn cứu Thầy, lại bị Thầy sửa lưng thẳng mặt: “Satan, xéo đi cho khuất, ngươi cản lối Ta, tư tưởng của ngươi không phải của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 23).
Đúng thế, Phêrô đã bị tính ích kỷ loài người, tính vụ lợi muốn được cả thế gian của satan làm hoen ố tinh thần hy sinh vác thánh giá theo Thầy. Muốn thoát khỏi vác thánh giá thì lại lao đầu vòng tròng thập ác của satan, của sự xấu, của tiêu diệt: “Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống”. Vì chỉ có Thầy “bị người ta giết chết, nhưng ba ngày Thầy sẽ sống lại”, chỉ có “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” “là sự sống lại và là sự sống muôn đời”. Chỉ có “Thầy sẽ ngự đến trong ánh sáng vinh quang”.
Phêrô đã quên niềm tin chân chính mà ông vừa mạnh mẽ tuyên xưng. Con người chóng quên quá! Con người yếu đuối quá! Con người phũ phàng quá! Chúa ơi!
Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Người vác khổ giá hay sao? Giêrênia đã từ chối, nhưng đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, Phêrô đã từ chối và đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, nhiều lần con đã từ chối vác khổ giá, xin cho con biết trở lại vác khổ giá theo Chúa, để khổ giá của con trở thành thánh giá cứu con và nhiều người.
3. Mất và được
Ông Vincio, người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán. Hôm đó ngày 23.12.1993 đang trên đường đi thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp. Ông xuống xe loay hoay thay bánh “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi gần ráp xong bánh xe, thì người đàn ông này kiếu từ phải đi. Ráp xong bánh xe, ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của mình bị mất cắp một số đồ mắc tiền do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy. Ông buồn thở dài, nhưng ông thấy một vé số rơi xuống đường có lẽ của tên ăn trộm. Ông lượm bỏ vào túi. Dịp xổ số đầu năm 1994, ông mang vé số đó ra dò thì may quá vé số trúng 50 triệu lire tiền Ý tức khoảng 60.000 đôla, ai mà chẳng thích. Nhưng lương tâm ông Vincio áy náy vì vé số này không phải của ông. Lòng ông dường như đeo một tấn đá nặng nề. Ông bỏ tiền đăng quảng cáo để tìm ra chủ nhân của tấm vé số đó. Nhiều người tham tới nhận là của mình. Nhưng chỉ vài câu hỏi, ông biết là kẻ tham lam. Ba tuần sau, tên trộm đồ sửa xe điện thoại tới nhận và tả lại mọi chi tiết. Ông Vincio mang 50 triệu lire tới trả cho chủ nhân. Tên trộm quá cảm động, xin lỗi ông Vincio và nói vì anh ta đang thất nghiệp lại nuôi 2 đứa con thơ nên buộc lòng phải lấy đồ sửa xe bán lấy tiền. Tên trộm hỏi tại sao ông Vincio không giữ lấy 50 triệu lire mà xài vì có ai biết gì đâu. Ông Vincio trả lời, lương tâm ông không cho phép. Ra về, ông Vincio cảm thấy nhẹ nhõm tâm hồn hơn bao giờ hết. Mất đồ sửa xe, nhưng được tiền nhiều, được tiền đó nhưng lại mất bình an tâm hồn. Cái vòng mất - được đó cứ luẩn quẩn xoay tròn. Cuối cùng ông Vincio chấp nhận mất số tiền để được bình an tâm hồn.
Phúc Âm hôm nay cũng nói tới cái Mất và cái Được. “Nếu ai dám mất mạng sống mình ở đời này vì Thầy thì sẽ được nó ở đời sau”. Mất mạng sống tức từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa - được đời sau tức được nước thiên đàng, được Thiên Chúa, được hạnh phúc muôn đời. Như vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy mình mất những cái gì tạm thời để được những cái gì vĩnh cửu - mất những thú vui chóng qua để được hạnh phúc trường tồn, mất thân xác mục nát để được linh hồn bất tử, mất tội lỗi và hình phạt để được ân điển và phần thưởng, mất sự cắn rứt lương tâm để được bình an tâm hồn. Cái mất này so với cái được thì mất quá nhỏ nhoi, còn cái được thì bao la vô tận. Cái mất này là “tấm vé” vào Nước Trời. Nước Trời là thực tại không thể mua bằng quyền lực, tiền bạc, sống lâu, danh vọng, tài giỏi... Nước Trời chỉ có thể mua bằng việc dám mất mạng sống, dám từ bỏ mình.
Từ bỏ mình là khi chúng ta giữ 10 điều răn Chúa, là khi chúng ta yêu thương và tha thứ kẻ thù, là khi chúng ta chấp nhận cái nóng lạnh của thời tiết, là khi chúng ta chấp nhận những bệnh tật Chúa gởi đến, là khi chúng ta chu toàn bổn phận của cha mẹ hay con cái trong nhà, là khi chúng ta phục vụ những công tác của giáo xứ, là khi chúng ta dám bỏ giờ để thăm viếng bệnh nhân... Nói chung là khi chúng ta chấp nhận phải hy sinh hơn, phải vất vả hơn, phải thiệt thòi hơn.
Thiên Chúa không hứa hạnh phúc mau qua, Thiên Chúa không chiều chuộng để chúng ta hư đi. Nhưng Thiên Chúa nói thẳng và nói thật “Ai dám mất mạng sống thì người đó được lại”. Mỗi người chỉ sống một đời, đời đó lại rất cá biệt không ai thay thế được, cho nên chúng ta đừng dại mang đời mình ra chơi trò may rủi. Vì được lời cả thế gian mà sau này mất thiên đàng thì chúng ta còn gì mà chuộc lại. Cái chắc ăn nhất là dám chọn cái “mất” tạm thời để nhận cái “được” thiên thu.
4. Vác thập giá đời mình - Huệ Minh
Kính thưa Cộng đoàn,
Người Công giáo của chúng ta, có thể có một lý do nào đó, chúng ta đi vào chùa và ngược lại, chúng ta thấy có những người không phải là Kitô giáo vẫn đi đến nhà thờ.
Và nếu như một người Công giáo đi vào chùa, mà để ý một tí xíu! Ở trong những cái ngôi chùa mà theo phái Bắc Tông đó, thì trong chùa đó chúng ta thấy có thờ hai cái vị thần là: Thần thiện và Ác thần, thì dân gian vẫn gọi là ông Thiện, ông Ác. Thiện thần là cái vị thần mà khuyến khích người ta làm điều thiện, ủng hộ chống lại cái sự tham lam và rồi Ác thần là vị thần Ác bắt phạt những người có ác tâm phá hoại Phật pháp, những người tu hành.
Trong thực tế thì kinh điển Phật giáo chỉ nhắc đến phần hộ pháp mà thôi! Và có thể nói, đây là hình thức giáo dục con người. Khuyên răn con người nên ăn ngay ở lành, không có dã tâm làm hại người khác, khiến cho ai đau khổ. Những người làm việc lành, thì vị thần Thiện ủng hộ, còn những người làm việc ác thì sẽ bị trừng phạt. Và đó là một cái quan điểm nhắc nhở mọi người sống có cái thiện tâm. Và chúng ta thấy rằng, nó rất là gần gũi với cuộc đời của mỗi người chúng ta. Trong chúng ta lúc nào nó cũng có hai cái xu hướng đối lập nhau: “thiện và ác”, “dữ và lành”!
Ngày hôm nay, trang Tin mừng rất là phong phú. Nhưng mà, con chỉ muốn dừng lại, và gợi lại, cùng với Cộng đoàn chúng ta, suy nghĩ về khuôn mặt của một người rất đặc biệt, và rất quen thuộc với chúng ta đó là: thánh Phêrô.
Không biết trả lại Lời Chúa lại cho các cha, hay là mang về nhà để mà suy niệm. Tuần trước không biết ai nhớ là mình đi lễ, rồi nghe đoạn Tin mừng gì? Không biết Cộng đoàn có ai nhớ không?
Thôi thì xin phép nhắc luôn: Tuần vừa rồi thì chúng ta vừa thấy được cái hình ảnh rất đẹp của thánh Phêrô.
Các môn đệ nói thầy là ngôn sứ, thầy là ông Êlia, thầy là ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng chỉ một mình Phêrô trả lời với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Thế nhưng mà ngày hôm nay, chúng ta thấy bi đát lắm! Khi mà Phêrô, vì thương thầy quá nên đã cản thầy không có cho thầy đi lên Giêrusalem để mà chịu chết. Khi mà Phêrô kéo riêng thầy ra thầy thì Chúa Giêsu lại quở mắng:
- Satan, lùi lại đằng sau thầy! Anh cản lối thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.
Tội nghiệp Phêrô, lúc thì được đưa lên đến đỉnh cao:
- Này anh Phêrô anh có phúc vì được Thiên Chúa mạc khải.
Còn bây giờ bi đát quá! Ở trong 9 tầng sâu của địa ngục, tướng quỷ là Sa tan.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu trách móc Phêrô và chúng ta thấy quả là một con người mâu thuẫn. Vừa được lên thiên đàng rồi xuống hỏa ngục.
Và hình ảnh đó cho chúng ta thấy nơi bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đó! Hình ảnh của Giêrêmia, Giêrêmia giằng co, rồi nhiều lúc cảm thấy mệt mỏi, nhiều lúc cảm thấy buồn chán. Bạo tàn, bạo tàn vì Lời Đức Chúa mà con đây chịu sỉ nhục. Có nhiều lúc con tự nhủ: - Thôi con không nghĩ đến Người, chẳng nhân danh Người mà nói nữa! Nản! theo CHÚA mà quá vất vả!
Giêrêmia cảm thấy muốn buông xuôi. Rồi Lời Ngài cứ như ngọn lửa bùng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt một tâm tình giằng co và rồi Giêrêmia thắng được sự cám dỗ buông xuôi, để rồi Giêrêmia đi theo CHÚA cho đến cùng. Tâm can ông như bừng, như lửa ông trở về với Chúa.
Thật sự ra, chúng ta thấy không quá khó hiểu, bởi vì cái hành trình theo Chúa. Bước theo Đức Kitô là một cái hành trình mà luôn luôn đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn. Đặt ra cho chúng ta sự quyết định theo Chúa, vác thập giá đời mình, như CHÚA nói, hay là bỏ tất cả mọi sự , không còn lòng trí đi theo Chúa nữa. Và chính điều này: bỏ Chúa hay theo Chúa, vác Thập Giá hay bỏ thập giá! Đòi hỏi chúng ta trở về với chiều sâu nội tâm trong lòng mình. Để chúng ta khám phá cái con người thật của mình. Để chúng ta cân chỉnh cái con người thật của chúng ta.
Mỗi một con người chúng ta, đều có thiên thần và có ác quỷ. Nhưng rồi để chúng ta làm gì đó, sống như thế nào đó, tập luyện như thế nào đó, để ngày mỗi ngày: khuôn mặt của chúng ta sáng hơn, khuôn mặt của chúng ta giống như thiên thần hơn, giống như Thiên CHÚA hơn. Và để làm được điều đó, chúng ta phải làm gì?
Chúng ta thấy các loài động vật xung quanh chúng ta, đặc biệt là con khỉ. Nó rất khôn, nó rất lanh và nó có thể bắt chước được tất cả những hành vi của con người. Gần nhà thờ con ở, có một con chó mà người ta nói rằng: đốm lưỡi một tí là đã khôn lắm rồi mà hai con chó này nó đốm luôn cả hai cái lưỡi. Nó khôn lắm! nó nhìn và nó xin, lúc nào mà cho nó ăn thì thôi, rất nhạy bén. Nhưng nó không bao giờ, nó nhìn thấy được nó và nhất là nó không thấy được tâm hồn của nó.
Còn con người của chúng ta, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta một cách rất đặc biệt. Chúng ta có thể nhìn thấy đối phương. Chúng ta có thể nhìn thấy đối diện. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy chính trong lòng của chúng ta. Nếu ồn ào quá! Nếu náo nhiệt quá!
Và nếu như chỉ sống bề ngoài, chúng ta rất dễ nghe theo những lời của người đời:
- Ối giời ơi, hôm nay nhìn trông bác đẹp quá! Hôm nay nhìn bác xinh quá! Hôm nay nhìn chị có cái nhẫn hột xoàn đẹp quá! Cuộc đời Bác thành công quá! Bác vinh quang quá! Bác tài quá!
Nhưng tất cả các điều đó, nó chỉ ở bên ngoài. Và những điều đó đã lấp đầy con mắt chúng ta để chúng ta không khám phá ra con người thật của mình.
Và nhìn thấy những cô gái. Chúng ta thấy là đàn bà con gái thì, chúng ta biết rồi, phái đẹp mà! Có cô gái nào không soi gương không?
Có chứ, có soi chứ. Mà giả như thấy một cái vết nào đó trên gương mặt của mình, dám để cái vết đó để mà đi nhà thờ không?
Không có đâu. Có lẽ, trể lễ một chút xíu, nhưng mà lấy cái bản chà, chà cái mặt mình lên một tí, và trét lên một tí phấn cho nó đẹp mới đi nhà thờ chứ!
Đặc biệt, còn đi ăn tiệc, tội nghiệp quá nhiều khi mấy cô mất mấy tiếng đồng hồ trang điểm chỉ đi ăn tiệc hai tiếng đồng hồ.
Và chính cái thái độ nhìn mình để soi mình trong gương và cân chỉnh cái khuôn mặt của mình, đó là: Nếu mà theo tiếng nhà đạo của mình gọi là “Linh Thao” (Exercise Spiritual). Con thì không giỏi ngoại ngữ lắm nhưng mà nhưng tạm thời cái từ đó gọi là tập luyện, tập luyện tâm hồn của mình.
Ngày hôm nay, chúng ta thấy có nhiều phong trào: đi tập thể dục, đi tập điền kinh, đi đánh cầu lông, đi đánh tennis, để làm gì? Để cho cơ thể nó đẹp. Điều đó cũng đúng thôi! Bởi vì ngày hôm nay ăn nhiều quá mà cơ thể ít vận động! Nên người ta tập luyện. Tập luyện để cho cơ thể người ta đẹp. Người ta khỏe. Người ta sống với nhau. Nhưng mà nhiều lúc người ta chú trọng cái bề ngoài, cái thể lực, cái thể xác, mà người ta quên đi cái tập luyện để sống, để luyện cái tâm hồn đó là để sống Linh thao.
Linh thao là gì? Linh Thao là cái thời gian tập luyện, để cho mình nhìn lại chính mình, để mình cân chỉnh cuộc đời của chính mình.
Có một số người đạo đức quá! Kỳ này, thưa cha: con sẽ cố gắng, con bỏ luôn cái tật xấu đó!
Nghe thấy cũng hay lắm! Nhưng mà thật ra khó lắm! không đơn giản đâu! Bởi vì, mình dứt điểm cái con người của mình, đoạn tuyệt với cái tội của mình không phải dễ.
Chỉ cần xin: một tháng, hai tháng, ba tháng, mình bỏ đi cái tật xấu đó! Ví dụ như là: trong tháng này mình quyết tâm đi làm đúng giờ! tháng tới mình quyết tâm đi lễ vô nhà thờ. Tháng tới nữa, mình sẽ quyết tâm mình tập trung nghe Lời Chúa hơn, thì may ra còn được. Chứ còn bảo là mình quyết tâm: ngày nào cũng đi nhà thờ, ngày nào cũng đi Chặng Đàng Thánh Giá. Khó quá! Và chính trong cái nội tâm mà mình cân chỉnh đời mình,
Trong cái “Linh thao” đó, chúng ta khám phá ra được, Lời Chúa ngày hôm nay: Mời gọi chúng ta từ bỏ chính mình để vác thập giá mình mà theo.
Mà nghĩ tới đây, thì thấy Chúa Giêsu thất bại. Làm ăn coi như thất bại. Làm giám đốc thất bại. Khi người ta tuyển nhân viên đi vô công ty của mình, thì người ta hứa hẹn. Khi người ta lên làm tổng thống người ta hứa hẹn sẽ mang lại thái bình, thịnh vượng, thịnh trị cho đất nước. Khi mà lãnh đạo cho anh chị em, cái này cái kia!
Mà đi theo Chúa Giêsu được cái gì?
“Ai đi theo tôi, phải vác Thập Giá đời mình mà theo” Nản quá, xin lỗi! Lỡ đi theo đạo rồi, lỡ đi tu, lỡ làm cha rồi! nên phải vác Thập Giá theo Chúa thôi! Mà nhìn vậy chứ: Lời mời gọi đó, là chịu chết treo trên thập giá, Xin lỗi! cũng đáng đời, cũng đúng thôi! Cô đơn một mình trên thập giá cũng đúng thôi!
Bởi vì, chẳng ai trên cuộc đời này thích vác thập giá cả! Ai cũng muốn đi trên con đường tơ lụa! Thế nhưng, nhờ cái lối sống, cái cách sống phản tỉnh của mình, mà nhờ vào cái đời sống tập luyện thiêng liêng.
Không ai là thánh cả, không dễ!
Đời sống thiêng liêng, đời sống tâm hồn của mỗi người chúng ta cũng phải tập luyện giống như chúng ta tập thể thao. Con người chúng ta khỏe, để tâm hồn chúng ta khỏe, để chúng ta có một đức tin vững chắt! Chúng ta cũng phải tập luyện. Để cho ngày mỗi ngày đời mình mỗi ngày vác thập giá!
Vác thập giá theo chân Chúa không phải là vác một cây thánh giá gỗ 5, 3 chục ký. Nhưng mà, vác thánh giá theo Chúa đó là chấp nhận từ bỏ những tính hư nết xấu nho nhỏ của mình ngày mỗi ngày, và có khi đến chết vẫn chưa bỏ được tính xấu đâu!
Ngày mỗi ngày, chúng ta cùng vác thập giá theo chân Chúa bằng cách chúng ta từ bỏ những cái yếu điểm của mình: Những cái lời ăn tiếng nói làm phiền lòng người khác. Những cái làm tổn thương người khác.
Ngày mỗi ngày, mình tập một chút và hy vọng đến ngày mình gần chết, mình được thanh thoát để diện đối diện, mình ra gặp Chúa.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta. Để ngày mỗi ngày, mỗi đêm, khi đêm về chúng ta nhìn lại chính mình.
Chúng ta soi mình, không phải là soi trong cái gương, để chúng ta nhìn khuôn mặt mình đẹp. Nhưng chúng ta soi tận đáy lòng mình, để chúng ta nhìn, chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta bớt đi tất cả cái tham, sân, si của đời mình để chúng ta vui vẻ và hăng hái lên đường, vác thập giá đời mình theo Chúa, cho đến cùng. Amen.
5. Con đường thập giá.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta tiếp xúc với một khuôn mặt Phêrô, hoàn toàn khác hẳn với khuôn mặt Phêrô trong Chúa nhật tuần trước.
Như chúng ta đã biết: Phêrô vừa được Thiên Chúa mạc khải để ông nhận biết Đức Kitô là vị cứu tinh. Ông vừa được Chúa Giêsu ca ngợi, đặt làm nền tảng của Giáo Hội. Thế nhưng chỉ sau đó ít phút, Phêrô lại là người đầu tiên vấp ngã khi Chúa Giêsu loan báo cách thức Hoặc hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó.
Đây là lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ về cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Ngài. Tại đây, Ngài sẽ phải đau khổ, bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Một viễn tượng không có gì sáng sủa. Thấy vậy, Phêrô bèn lên tiếng can ngăn. Lời can ngăn ấy có thể đã xuất phát từ niềm tin của ông vào tình thương của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ông đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy về sự quan phòng của Chúa Cha đối với từng cánh chim, từng bông hoa. Thiên Chúa là một người cha chỉ muốn những điều tốt cho con cái. Một người cha thế gian còn không nỡ cho con mình cục đá, khi nó xin cái bánh, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể để cho người con yêu dấu của Ngài gặp phải sự khốn khó. Và như thế, điều Chúa Giêsu vừa mới loan báo, làm sao có thể xảy ra được.
Mặt khác, Phêrô cũng đã từng được chứng kiến quyền năng của Thầy mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm phép lạ cho kẻ đau yếu được khỏi bệnh, cho kẻ chết được sống lại, dẹp yên được cả phong ba bão táp, thì làm sao Ngài lại để cho mình gặp phải sự khốn khó?
Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời, vì ông đã đơn giản hoá vấn đề, và do đó đã vô tình làm công việc của Satan. Thực vậy, khi Satan đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ, nó đã rỉ tai: Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống vì các thiên thần Chúa sẽ nâng đỡ để chân Người khỏi vấp phải đá. Thiên Chúa và quyền năng của Đức Kitô ở đây bỗng trở nên một thứ phương tiện cho người ta sử dụng để thực hiện những ý đồ phù phiến của mình.
Sự thực thì đây không phải là một cơn cám dỗ đặt ra cho một mình Chúa Giêsu mà hơn thế nữa, rất nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã gặp phải. Rất nhiều lần chúng ta đã nêu lên câu hỏi: Tại sao Chúa không cho tôi trúng số để tôi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, để tôi có thời giờ làm những công việc đạo đức, hay để tôi có tiền dâng cúng, làm phúc bố thí. Tại sao Chúa không cho Giáo Hội gặp được những điều kiện thuận lợi, để làm cho Nước Chúa được mở rộng và danh Chúa được cả sáng.
Thế nhưng, chúng ta quên rằng sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng của người tôi tớ đau khổ. Con đường Ngài đã chọn để cứu độ trần gian là con đường thập giá. Lẩn tránh những xác tín này là phản bội lại sứ mệnh của mình, và đó chính là cơn cám dỗ lớn nhất đối với Giáo Hội và đối với bản thân chúng ta. Bởi vì, thay vì thực thi thánh ý Chúa trong việc phục vụ người khác, thì chúng ta lại muốn xin Chúa phục vụ cho những quyền lợi riêng tư của chúng ta.
6. Ý người và ý Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Dường như không ai không gặp sự dữ trên đời; và cũng chẳng ai muốn mình bị sự khó. Một số người tưởng lầm Thiên Chúa muốn con người phải sự khó và đau khổ. Thật sự, Thiên Chúa luôn muốn con người hạnh phúc; những đau khổ con người gặp phải hoặc bị, là do con người mà ra.
1. Điều dữ con người làm cho nhau
Đức Yêsu tỏ cho các tông đồ biết về tương lai của Ngài: Ngài sẽ lên Yêrusalem, sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Nghe vậy Phêrô lên tiếng với Đức Yêsu: Thiên Chúa không muốn Thầy như vậy đâu, không bao giờ điều dữ đó xảy ra cho Thầy đâu. Một điều chắc chắn: Thiên Chúa yêu Đức Yêsu vô cùng, nhưng Đức Yêsu vẫn gặp bao điều ác và Ngài đã bị chết nhục nhã trên thập giá.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài không muốn ai phải chịu sự dữ, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con người tự do; và nhiều người bị lòng ham muốn danh lợi chức quyền chi phối, nên thường làm khổ và gây hại cho nhau. Đức Yêsu chết vì người ta muốn giết Ngài, cho rằng Ngài lộng ngôn xúc phạm Thiên Chúa. Để giết Đức Yêsu, người ta đã tố cáo Ngài muốn nổi loạn chống đế quốc Roma đang cai trị, bằng việc xưng mình là vua. Nhiều khi người ta làm khổ nhau và thậm chí giết nhau, nhân danh điều tốt và công ích. Điều dữ con người làm cho nhau, vẫn thường xảy ra dù rằng Thiên Chúa không muốn.
Thiên Chúa không muốn điều dữ cho con người, nhưng vì con người tự do và cơ cấu thể xác, nên con người và Đức Yêsu vẫn bị khổ và bị giết. Chính con người làm khổ nhau, chứ Thiên Chúa không làm khổ con người. Ngay cả hoả ngục, nơi bất hạnh vĩnh cửu, cũng do con người tạo nên cho mình. Chính khi con người sống trong thù ghét oán hận, con người bất hạnh và đau khổ.
2. Ý của Thiên Chúa
Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc. Ngài tạo dựng con người để chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài cho con người. Ngài tìm mọi cách giúp con người sống bình an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau mà ngay cả ở đời này. Cả khi con người phạm tội, Ngài vẫn giúp con người hối hận trở lại để Ngài tha thứ.
Khi ai đó bị kẻ khác hành hạ và đàn áp bất công, thì Thiên Chúa vẫn giúp người đó bình an trong hoàn cảnh của mình, bằng việc nhận ra ý nghĩa và chấp nhận cảnh túng cực đó. Ngài cho họ biết rằng, cuộc đời này sẽ qua đi, và đời sau họ sẽ được đền bù những gì đời này họ bị mất. Một số người hiểu lầm giáo lý này, cho rằng đây là giáo lý làm con người yên tâm sống trong nô lệ và cam chịu người khác bóc lột. Thật ra Thiên Chúa không muốn con người bị bóc lột bởi bất cứ ai, Ngài không muốn con người làm khổ nhau. Nếu ai đó thấy cần phải nổi dậy chống cường quyền để thoát bất công, thì người đó cứ làm như họ thấy phải làm. Thiên Chúa vẫn nói với con người qua lý trí và lương tri mỗi người. Mỗi người phải sống theo lương tâm mình. Đức Yêsu là gương mẫu cho con người: Ngài nói điều phải nói cho dù nguy hiểm đến tính mạng, cho dù vì đó người ta ghét và giết Ngài.
Thiên Chúa ở với con người, muốn con người hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa muốn cả những người bị áp bức mà không thể thoát khỏi hoàn cảnh đó, cũng được hạnh phúc. Thiên Chúa muốn những người bị áp bức mà nổi lên chống lại cường quyền cũng được hạnh phúc trong việc phản kháng của họ. Với những người đang áp bức người khác, thì Ngài cho họ thấy: họ được gì nếu họ được tất cả ở đời này mà mất đời sau, phải khổ đời sau. Yêu thương và tôn trọng con người, mới làm con người hạnh phúc ở đời này, và cả ở đời sau.
3. Tôn thờ Thiên Chúa qua cuộc sống
Đức Yêsu vẫn làm điều Ngài phải làm, cho dù Ngài sẽ bị giết chết. Yoan Tiền Hô cũng đã làm điều phải làm, phản đối việc Hêrôđê lấy vợ người anh, cho dù vì đó Ngài bị ghét và bị giết. Yoan Tiền Hô vẫn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Cả tiên tri Yêrêmia cũng như vậy. Ngài được gọi làm tiên tri, để nói với dân những điều Thiên Chúa muốn, để họ bỏ đường tội lỗi và trở về với Thiên Chúa. Khi nói những gì Thiên Chúa truyền, là tiên tri phải loan báo những tai hoạ mà những người thời đó không muốn nó xảy tới. Và như vậy, tiên tri bị người ta ghét và hãm hại. Có nhiều lần Yêrêmia không muốn nói điều Thiên Chúa truyền, nhưng trong lòng tiên tri như lửa thiêu, và không thể nào cầm lòng được. “Lạy Chúa, Ngài đã dụ dỗ tôi, và tôi đã để mình bị dụ. Suốt ngày, khi nói, là tôi phải nói những lời về chém giết và điêu tàn.” Có lần tiên tri đã không làm theo Lời Thiên Chúa, nhưng rồi tiên tri lại được ơn trở lại, và lại làm theo điều Thiên Chúa muốn. Đức Yêsu cũng được ơn để sẵn sàng làm theo những gì Thiên Chúa muốn, cho dù bị người ta ghét và tìm cách giết Ngài.
Với những người chọn Thiên Chúa trên hết, sống lâu hay chết yểu không quan trọng. Điều chính yếu là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Khi làm như vậy, cả cuộc đời họ trở thành của lễ tôn thờ Thiên Chúa. Họ tôn thờ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của họ. Tôn trọng người khác, và làm theo điều mình được soi sáng, là thái độ sống của người đặt Thiên Chúa trên hết.
Hạnh phúc mỗi người nhận được trên đời này, phần nào qua chính hành vi sống của họ. Trong một xã hội dễ dàng về vật chất, con cái vừa là một vinh dự, vừa là mối bận tâm và lo lắng của nhiều người. Nếu cha mẹ chỉ lo kiếm tiền và không dành thời gian để sống với và giáo dục con cái, thì người cha người mẹ đó sẽ bất hạnh khi con cái họ hư hỏng. Nếu bậc cha mẹ vì sợ trách nhiệm không dám sinh con, thì họ cũng không có được niềm vui của một gia đình có con cái, không cảm được sự đầm ấm tươi trẻ và hạnh phúc khi có con có cháu. Con người phần nào cũng được lãnh những gì tốt đẹp mình dâng hiến và xây dựng ngay trong cuộc sống này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sự dữ nhất mà bạn đã phải chịu, là gì? Xin bạn chia sẻ nếu được.
2. Sự dữ là do con người làm cho nhau, hoặc do con người mà ra. Câu này đúng hay sai? Tại sao? Nó có đúng với những tai ương thiên nhiên không?
3. Cuộc đời của bạn và cuộc đời của Đức Yêsu, cuộc đời nào bạn thích hơn? Bạn có dám chọn cuộc đời của Đức Yêsu không? Tại sao?
7. Đầu tư cho cuộc sống mai sau – Lm Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi nầy.
Cái tôi như một quả bong bóng mà cá nhân mỗi người cố thổi cho phồng lên tối đa.
Cái tôi như một trung tâm điểm mà tất cả mọi năng lực của bản thân đều quy về đó.
24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác...
168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.
8,766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.
Châm ngôn của người ta là: Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.
Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.
Người ta chăm lo vun quén cho thân xác thật sung mãn như những đứa bé thi nhau thổi ra những chiếc bong bóng xà phòng trông thật long lanh và hấp dẫn... nhưng rồi... bụp, bụp, bụp..., bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, đua nhau nổ tan tành chẳng còn chi.
Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực... đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:
"Trăm năm còn có gì đâu?
"Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!"
Tiếc thay, ngay nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!
Thế là đúng như lời Chúa Giêsu dạy: "quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất"; và cho dù người ta có thu tóm "được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
* * *
Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là "một nấm cỏ khâu" hay đơn giản hơn, là "một lọ tro tàn" thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai dại dột đến nỗi đầu tư kiểu đó không??
Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị một giải pháp tốt. Người dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư theo hướng tâm linh, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.
"Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?"
Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân quyết dồn mọi nỗ lực để phụng sự thân xác, muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.
May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: "Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
Anh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phanxicô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
"Từ bỏ chính mình" tức là đừng lấy thân xác làm mục tiêu cho mọi phấn đấu, mọi nỗ lực của ta; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
"Vác thập giá mình" là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác- sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau thương - để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.
Chúa Giêsu đã đầu tư đời Người theo hướng đó và Người đã đạt tới vinh hiển khải hoàn. Hôm nay, Người muốn chúng ta đầu tư theo hướng Người đã đầu tư, bước đi theo con đường Người đã bước, để chúng ta được chung hưởng vinh hiển như Người.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa. Amen.
8. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm A nêu bật một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người, vì thế người Kitô hữu phải có một lập trường dứt khoát là không chạy theo xu hướng thời đại, không tìm cách rập khuôn theo thói đời.
Gr 20: 7-9
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a vẫn nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, cho dù sứ điệp ấy ngược lại với bản tính của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông.
Rm 12: 1-2
Thánh Phao-lô cảnh giác các tín hữu Rô-ma sống giữa môi trường dân ngoại: “Anh em đừng có rập theo đời nầy, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn Thiên Chúa”.
Mt 16: 21-27
Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô không thể nào chấp nhận ý định của Thiên Chúa theo đó Đấng Mê-si-a phải trải qua đau khổ và sự chết. Nhưng Đức Giê-su khẳng định với thánh nhân: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)
Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất.
1. Bối cảnh lịch sử:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị thiêu hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai quan tâm đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe. Ông trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam. Đó thật sự là một bi kịch diễn ra trong lòng của vị ngôn sứ.
2. Bi kịch nội tâm:
Đoạn văn hôm nay trích từ “lời trần tình” hay lời tự sự của vị ngôn sứ ngỏ với Thiên Chúa. Đây là một trong những đoạn văn thống thiết nhất. Đoạn trích nầy nói lên tất cả tấm bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: lãnh nhận sứ vụ mà không thể thoái thác, phân biệt ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với ý muốn của phàm nhân, nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a phân trần với Thiên Chúa về ơn gọi bất khả kháng của mình:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ để họ nhạo báng con” (20: 7).
Vốn bản tính hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với con người của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông. Vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị các giới lãnh đạo cả đời lẫn đạo cũng như dân chúng sỉ nhục và chế giễu suốt ngày:
“Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (20: 8)
Đó thật sự là một sự thử thách nặng nề mà ông phải gánh chịu vì sứ mạng của mình. Đôi lần ông muốn thoái thác sứ mạng ấy:
“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (20: 9a)
Ông đã phải ra sức cố kiềm nén lại, nhưng vô ích, không sao cưỡng kháng được:
“Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được” (20: 9b)
Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc thần linh của nó, và đồng thời quyền năng của nó ngự trị tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về với Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.
BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)
Với chương 12, khởi sự phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu, Do thái hay dân ngoại). Trong phần nầy, thánh Phao-lô vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế thánh nhân khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích dẫn hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên cô động của thánh nhân: “phụng thờ đích thật” và “đổi mới tâm thần”.
1. Phụng thờ đích thật:
Trong lời khuyên thứ nhất: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, thánh Phao-lô đối lập “của lễ sống động”, tức là cả một đời sống được dâng hiến cho Thiên Chúa, với “của lễ chết”, tức là những tế vật được hiến dâng thành hy lễ trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một đời phụng vụ, đó mới thật sự là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính bản thân mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết của thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lo ám chỉ đến cái chết gần kề của mình khi viết: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Thiên Chúa, thì tôi vui mừng và chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2: 17).
Dâng hiến chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Tỉnh từ Hy lạp “logikon”, được dịch “xứng hợp”, thuộc về từ ngữ tôn giáo Do thái hay Hy lạp, được dùng để đánh dấu một sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người. Tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người là cách thức phụng thờ Thiên Chúa xứng hợp nhất.
2. Đổi mới tâm thần:
Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới tâm thần: “Anh em đừng có rập theo đời này, những hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”. Việc đổi mới tâm thần đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: đừng rập khuôn theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người mình.
Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến: vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Kitô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma. Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)
Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Sau khi đã nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Chúa Giê-su loan báo cho chỉ một mình các môn đệ thân tín của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài luôn liên kết viễn cảnh Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.
Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây: “Người phải…”, không phải là cái tất yếu của một định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa).
1. Phản ứng của Thánh Phê-rô:
Chúng ta hiểu phản ứng của thánh Phê-rô. Thánh nhân quan niệm về Đấng Ki-tô (Mê-si-a) vinh quang và toàn thắng. Trong tư tưởng của thánh nhân, những viễn cảnh về một vị vua Ki-tô trần thế bách chiến bách thắng chắc chắn vẫn còn hiện diện.
Rất tế nhị, thánh Phê-rô kéo Thầy mình ra khỏi các bạn đồng môn và nói riêng với Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Chắc chắn thánh nhân lầm khi muốn lôi kéo cả Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của thánh nhân không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng gói trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chắc chắn chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ và phải chết.
2. Phản ứng của Đức Giê-su:
Tuy nhiên, thánh Phê-rô gặp phải một phản ứng quyết liệt của Chúa Giê-su. Trước đây, Chúa Giê-su đã phản kháng triệt để cơn cám dỗ của Xa-tan trong hoang địa khi nó ra sức thuyết phục Ngài thực hiện sứ mạng của một Đấng Ki-tô đầy quyền năng chứ không một Người Tôi Trung chịu đau khổ: “Xa-tan, hãy xéo đi”, giờ đây Ngài cũng đáp lại thánh Phê-rô cũng tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”. Từ “Xa-tan” theo tiếng Híp-ri có nghĩa “kẻ cản lối”, tự nguồn gốc là một danh từ chung.
Với diễn ngữ: “lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi vị tông đồ, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống trong tư thế của người môn đệ chứ không tìm cách cản lối Thầy. Ngài muốn thánh Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, cuộc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân trọn vẹn vào trong cùng một vận mệnh với Ngài. Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Ngài cũng nói với họ một cách như thế: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
2. Theo Đức Giê-su:
Sau nầy, mỗi lần gợi lên cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết số phận của các môn đệ vào với vận mệnh Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.
Khi sử dụng hình ảnh “thập giá”, không phải Đức Giê-su không gợi lên ở nơi các môn đệ của Ngài tất cả ý nghĩa của từ nầy sao? Trước đây, thánh Mát-thêu đã gợi lên hình ảnh thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Hình phạt đóng đinh vào thập giá được chính quyền Rô-ma hành hình tập thể đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem rồi. Thánh Lu-ca, trong một bản văn đối chiếu, đã thêm diễn ngữ chỉ thời gian: “hằng ngày” vào diễn ngữ “vác thập giá” đem lại cho lời công bố của Đức Giê-su nghĩa bóng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23), nghĩa là chấp nhận mọi gian nan khốn khó xảy ra hằng ngày trong cuộc đời.
3. Bài học của mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh:
Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang sâu đậm như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ý nghĩa của lời công bố này và ghi khắc lời công bố này vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Theo bối cảnh của những lần báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không bao giờ là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống, bởi vì cuộc Tử Nạn và Phục Sinh là kế hoạch Chúa Cha hoạch định cho Con của Ngài để cứu độ muôn người, như chính Đức Giê-su công bố: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là đảm bảo cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Nước Trời.
4. Đối lập giữa sự sống trần thế với sự sống Nước Trời:
Lời công bố của Đức Giê-su: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” để lại sự phân vân cho người đọc, bởi vì nó diễn tả điều quá thường tình. Tin Mừng không quen với những kiểu nói tầm thường như vậy. Có vấn đề về ngôn ngữ ở đây. Chữ “mạng sống” được dịch từ tiếng Hy lạp: “psyché” có nghĩa “linh hồn”, như cách dịch truyền thống: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất linh hồn, thì có lợi gì?”. Bản dịch hiện nay chọn từ “mạng sống” thay cho “linh hồn” bởi vì chữ “linh hồn” gợi lên nhị nguyên thuyết Hy-lạp, xa lạ với tư tưởng Kinh Thánh. Thực ra, Đức Giê-su đã sử dụng tiếng “sinh khí” như trong sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh linh” (St 2: 7). Rõ ràng ở đây Đức Giê-su đối nghịch việc sở hữu của cải vật chất – mà diễn ngữ “người ta được cả thế gian” gói trọn tất cả ý nghĩa nầy – với việc thiệt mất của cải tinh thần, thiệt mất “mạng sống”, được hiểu theo nghĩa mạnh: “sự sống đời đời”. Vì thế, bản dịch sát ý nghĩa nhất phải là: “Vì nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất ơn cứu độ của mình, thì có lợi gì?”. Câu hỏi mà Đức Giê-su nêu lên: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”, cũng diễn tả theo cùng một tư tưởng: “ơn cứu độ” đời đời, vô giá. Vả lại, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày Quang Lâm của Ngài: “Bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Vì thế, để sở hữu Sự Sống Đích Thật, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ - và sau họ, cho tất cả các Kitô hữu không gì khác ngoài việc noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời khẳng định nghiêm túc, không hoa mỹ, nhưng chan chứa niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.
9. Mất đi để được lại – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trên Internet có kể câu chuyện như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất tiêng líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô hay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tar a cô mới bang hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong long. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô , hót vang nhữngg giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thạt chặt. Trái lại, để giữ mãi ự yêu thương thì ta phải ân cần trao hco cuộc tình một đôi cánh tự do.
***
Cô gái chỉ “được lại” niềm vui khi cô bằng lòng chịu “mất đi” chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Cần phải “Mất đi” để “được lại”.
Người Kitô hữu chỉ thực sự thật hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người kito hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn long “mất đi” của cải phù vân đê “được lại” gia tài vĩnh cửu, “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải “mất đi” và cái gì sẽ “được lại” đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; nhưng cai mình dày công kiếm tìn, theo đuổi.
Đâu pahi dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về “cái được”, “cái mất” cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghĩ chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). “Theo thầy” là “phải từ bỏ chính mình” hẳn là không dễ dàng. “Theo Thầy là “vác thập giá mình mà theo” lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngày sau đó, Đếc Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27).
Các tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Teresa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustino đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
***
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con biết cái gì cần phải “mất đi”, cái gì cần phải “từ bỏ”, để chúng con được nhẹ nhàng bước theo Chúa trọn con đường mà Chúa muốn chúng con đi.
Xin cho chúng con trung thành theo Chúa đến cùng, cho dù là chông gai, đau khổ, vì chỉ có Chúa mới là cùng đích cuộc đời chúng con. Amen.
10. Trong họa có phúc - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Được và mất là hai điều luôn song hành với nhau. Đây là chân lý của cuộc sống con người. Trong cái được luôn tiềm tàng cái mất; và trong cái mất luôn mở ra cơ hội để được. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ học cách chấp nhận để bình an hơn khi mất và học cách trân trọng những cái mình đang được.
Trong đời sống đức tin giữa đón nhận và từ bỏ luôn song hành. Đón nhận theo ý Chúa thì phải từ bỏ danh lợi thú trần gian. Giữa đón nhận và từ bỏ không phải lúc nào cũng dễ dàng chọn lựa. Vì nhận cái này phải bỏ cái kia luôn làm cho con người tiếc nuối. Thế nên, cần phải biết học cách khi nào đón nhận, khi nào từ bỏ để được bình an. Đón nhận hay từ bỏ chỉ bình an khi làm theo thánh ý Chúa mà thôi.
Có lẽ chúng ta đều từng đọc câu chuyện “tái ông thất mã”. Câu chuyện như sau:
Xưa có một ông già sống ở vùng biên giới phía bắc. Ông rất giỏi việc nuôi ngựa. Một hôm ông phát hiện ra rằng con ngựa của ông đã chạy mất sang nước Hồ láng giềng. Hàng xóm cảm thấy tiếc cho ông nhưng ông già nói, “biết đâu nó lại là mang đến một điều phúc?”
Vài tháng sau, con ngựa đã mất tích của ông đột nhiên quay trở về cùng với một con ngựa quý nữa. Hàng xóm đến chúc mừng ông vì điều may đó. Nhưng ông nói “biết đâu nó lại mang đến tai họa?”
Con trai ông thích cưỡi con ngựa quý, và rồi một hôm anh ta bị ngã ngựa gãy chân và bị què. Hàng xóm đến an ủi ông nhưng ông lại trả lời “biết đâu nó lại mang đến điều phúc?”
Một năm sau, nước Hồ láng giềng đưa quân sang xâm lược, và tất cả thanh niên trai tráng đều phải tòng quân ra trận – kết quả là cứ 10 người đi thì 9 người tử trận. Con trai ông bị què nên được ở nhà và thoát chết.
Nhận có thể trở thành họa, và rồi mất đó lại có thể chuyển thành phúc. Sự chuyển hóa này là vô tận và sự bí ẩn của nó mãi mãi là điều huyền bí đối với nhân loại. Tuy nhiên trong đức tin thì mọi sự cần phải phó thác nơi Chúa. Thiên Chúa có thể rút ra một điều tốt từ cái xấu. Anh em nhà Gia-cóp đã bán em sang Ai-cập là điều xấu. Thế mà, Thiên Chúa lại dùng điều ấy để cứu dòng tộc israel khi cho Giuse làm quan lớn trong triều đình Ai cập.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thanh. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”
Chúa giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị. Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Đôi khi chúng ta vẫn tự hỏi: tôi từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa thì tôi được gì? Tôi bước đi theo con đường của Chúa tôi sẽ được gì?
Thực ra, từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa không đương nhiên là nghèo khó mà chắc chắn là được Chúa chúc phúc đời này và cả đời sau. Vì ý Chúa luôn mời gọi con người hoàn thiện mình và sống có ích cho tha nhân. Vì ý của Chúa luôn mang lại niềm vui của tâm hồn an bình, thanh thản. Ý Chúa sẽ giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn trong cuộc đời của mình. Chính sự bình an, hạnh phúc mới là giá trị đích thực mà con người phải tìm kiếm. Nó có giá trị cao hơn hẳn những danh lợi thú mà lại không có bình an.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm từ bỏ con đường dễ dãi của bản thân để đi theo tiếng nói của Chúa dạy bảo qua lời Chúa và qua tiếng lương tâm. Xin đừng vì những danh lợi thú mà đánh mất hạnh phúc đời này và đời sau. Amen.
11. Đau khổ và hạnh phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời luôn có đau khổ và hạnh phúc. Hai trạng thái này luôn đan quyện vào một đời người. Con người vốn dĩ sợ đau khổ và mong tìm hạnh phúc. Thế nhưng đau khổ lại cứ bám riết lấy đời người, còn hạnh phúc lại thật mong manh.
Phật Thích Ca khi nhìn vào cuộc đời chỉ thấy toàn là bể khổ. Sinh - bệnh - lão - tử dường như là định mệnh bể khổ dành cho con người. Phật Thích Ca đã đưa ra một con đường giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ. Đó là con đường diệt dục. Diệt mọi lòng ham muốn mới mong tìm được hạnh phúc.
Biết bao nhà lãnh tụ các quốc gia luôn nỗ lực hạn chế nỗi khổ và gia tăng niềm vui hạnh phúc cho người dân.
Phải chăng là một nghịch lý khi Đức Giêsu đề nghị ta hãy đi vào đau khổ? Phải chăng Ngài chỉ muốn các tín đồ của Ngài sống trong đau khổ?
Nhìn vào cuộc đời của Chúa, đó là một cuộc đời đi vào đau khổ. Từ trời cao Ngài đã đi vào dòng đời trong thân phận con người. Sinh ra trong thân phận thấp hèn, nghèo khó, thuộc giai cấp cùng đinh và hòa lẫn trong giới lao động cùng khổ. Ngài đến trần gian không nhằm mục đích xóa bỏ đau khổ mà là hiện diện cùng với những con người đau khổ. Suốt 30 năm sống đời ẩn dật trong một xóm nghèo lao động. Phải chăng Ngài đã phí thời gian khi ở với gia đình, khi cùng với cha mẹ lao động để kiếm sống như bao con người khác? Tại sao Ngài đã làm phép lạ hóa bánh nuôi trên năm ngàn người ăn mà lại phải chắt chiu từng hạt cơm, chén mắm từ công thợ khi có khi không?
Bài Phúc âm hôm nay còn cho thấy, khi danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Uy tín Ngài đã bao trùm mọi nơi. Khi mọi người chỉ còn chờ Ngài đi vào thành Giêrusalem là họ sẽ tung hô Ngài làm vua để giải thoát dân khỏi cảnh đói khổ lầm than. Thế mà Ngài lại nói đến đau khổ và sự chết. Ngài còn đòi hỏi các môn sinh của mình phải từ bỏ danh lợi thú để đi vào con đường thập giá, con đường mà nhiều người đang muốn vượt ra, nay Ngài lại mời gọi đi vào.
Tuy nhiên, con đường Chúa Giêsu đi không dừng lại ở đau khổ và sự chết. Nếu kết thúc cuộc đời của Ngài chỉ dừng lại ở bi kịch thập giá thì cửa mồ của sự chết sẽ khép lại toàn bộ sự nghiệp của Ngài đã vun trồng. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã đi qua sự chết để mở ra cánh cửa phục sinh vinh hiển. Giá trị đau khổ Ngài chịu đã đem lại niềm vui cứu độ cho toàn thể nhận loại. Sự chết của Ngài đã khai mở cánh cửa thiên đàng cho tất cả những ai tín trung theo Ngài.
Con đường Chúa Giêsu đã đi không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang. Đó là con đường hẹp và đầy chông gai. Con đường từ bỏ hằng ngày. Từ bỏ thiên tính của mình để hòa nhập với khối đông của nhân loại. Từ bỏ quyền lợi của mình để phục vụ lợi ích nhân loại. Từ bỏ những tiện nghi vật chất để sống rầy đây mai đó, để thi ân giáng phúc cho tha nhân. Đó là con đường Ngài mời gọi chúng ta. Hãy từ bỏ lòng tự cao tự đại để sống hòa đồng với anh em. Hãy từ bỏ lòng tham của danh lợi thú để sống thanh khiết và công bình bác ái với tha nhân. Từ bỏ đòi hỏi hy sinh. Hy sinh bản thân để đem lại niềm vui cho tha nhân. Hy sinh thời giờ để phục vụ anh chị em chung quanh. Từ bỏ và hy sinh không làm cho ta bé nhỏ đi nhưng được lớn lên và trưởng thành hơn. Một người trưởng thành là một người biết hy sinh và nhường nhịn cho người nhỏ hơn. Một người được gọi là trưởng thành là người dám lãnh lấy trách nhiệm với gia đình và với xã hội.
Thế nên, sợ hãi đau khổ là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm đó là người vô dụng, và người trốn tránh trách nhiệm chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Là người kytô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của mình.
Nếu mỗi người đều biết chu toàn bổn phận của mình một cách ý thức và trách nhiệm là chúng ta đang trồng cây hạnh phúc ở giữa gia đình và xã hội mà chúng ta đang sống. Thập giá của bổn phận sẽ không còn là nỗi khổ mà là niềm vui, vì chúng ta đang cống hiến tài sức và trí tuệ của mình để đem lại hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta bỏ bê và thiếu trách nhiệm trong bổn phận là chúng ta đang hủy diệt cây hạnh phúc và trồng cây Thập giá đau khổ cho gia đình cũng như xã hội.
Xin Chúa giúp chúng con biết noi gương bắt chước Chúa luôn can đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha nhân, vì "được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen.
12. Đi theo con đường của Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã trở thành Kitô hữu. Từ ngữ “Kitô hữu” có nghĩa là người thuộc về Chúa Kitô hay người được mang danh Chúa Kitô. Đã là Kitô hữu thì phải theo Chúa Kitô. Theo ở đây không phải chỉ tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” như thánh Phêrô đã tuyên xưng. Theo Chúa không phải là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, cũng không phải chỉ thực hành một số tục lệ và nghi lễ do tôn giáo ấn định như đi xem lễ và lãnh nhận các bí tích.
Theo Chúa là phải chấp nhận một số điều kiện khắt khe như Ngài đã đề ra và mời gọi:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy, Ai muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình trong cuộc sống hằng ngày. Đây là điều kiện khắt khe và quyết liệt đòi chúng ta phải nỗ lực không ngừng, nhưng nó sẽ dẫn ta tới sự sống đời đời.
Như chúng ta thường nghe và cũng đã nói cái quí giá nhất của con người là sự tự do, nhưng kèm theo nó như hình với bóng còn có một điều hết sức quan trọng và mang đầy tính chất mạo hiểm: đó là sự lựa chọn theo nhận thức của mỗi người. Chính vì sự lựa chọn này khiến con người phải chịu trách nhiệm về hậu quả của hành động mình. Do đó, khi dùng tự do có ý thức để lựa chọn, con người phải cân nhắc lựa chọn, theo đúng nguyên tắc luật lệ chính đáng, luân thường đạo lý và lương tâm ngay thẳng mới có thể tránh khỏi những sai lầm tai hại về tinh thần lẫn thể xác. May mắn thay cho chúng ta là những Kitô hữu vì chúng ta đã có Chúa hướng dẫn, ơn Chúa soi sáng giúp chúng ta dễ dàng trong việc chọn lựa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 20,7-9.
Tuy Giêrêmia là con người nhút nhát, nhưng Thiên Chúa cũng gọi ông làm tiên tri để tuyên bố những lời chói tai mà người ta gọi ông là “nhà tiên tri loan tin dữ”. Sứ mạng của ông gặp nhiều khó khăn: nguời ta chống đối, chế nhạo ông, thậm chí còn lên án ông nữa vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ, lại còn loan báo án phạt của Thiên Chúa. Bị đau khổ tư bề , nhiều lần ông đã định bỏ cuộc, nhưng dù sao, ông cũng phải thú nhận là ông không thể nào từ bỏ sứ mạng đau khổ đó, vì “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.
+ Bài đọc 2: Rm 26,21-27.
Lời khuyên nhủ của thánh Phaolô đối với tín hữu Roma cũng giống như lời Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Tin mừng hôm nay:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Người theo Chúa là người từ bỏ cách sống theo thời của mình, và hơn nữa là từ bỏ chính mình, tự hiến toàn thân cho Chúa như một của lễ sống động dâng cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong thánh lễ.
Thánh Phaolô cho biết: làm như thế là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý và đáng trân trọng nhất.
+ Bài Tin mừng: Mt 26.21-27.
Đây là lần đầu tiên, Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết là Ngài phải chịu bắt bớ, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Lời tiên báo này làm cho các môn đệ bỡ ngỡ , không hiểu nổi vì các ông vẫn còn cái nhìn và sự hiểu biết của con người, đến nỗi thánh Phêrô phải phản đối. Nhưng Chúa gạt ý kiến này đi và cho các ông biết chính các ông cũng sẽ phải đi theo con đường của Ngài.
Những ai muốn làm môn đệ của Ngài thì phải chấp nhận đi theo con đường của Ngài, con đường đó đòi hai điều kiện căn bản:
- Điều kiện thứ nhất là từ bỏ chính mình.
- Điều kiện thứ hai là vác thập giá của mình.
Ai thi hành hai điều kiện đó sẽ được phần thưởng:”Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Nếu muốn theo Chúa.
I. LỜI CHÚA MỜI GỌI.
Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai:”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16), Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết: “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và luật sĩ gây ra, bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở ra một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này Chúa muốn mạc khải về mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài. Quả vậy, đây là lần thứ nhất trong ba lần (Mt 16,21; 17,22; 20,17) Ngài báo về mầu nhiệm đó. Mỗi lần loan báo như đánh dấu một chặng đường tiến về Giêrusalem. Việc loan báo như vậy cũng là để chuẩn bị đức tin cho các môn đệ có thể đương đầu với cuộc khủng hoảng sắp tới, khi Ngài bước vào cuộc tử nạn và phục sinh.
Vì thế, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Trông thấy trước con đường khó khăn đang trải ra trước mặt các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải dứt khóat lập trường là có muốn theo Ngài nữa hay không? Câu hỏi và lời mời gọi này nêu lên tinh thần tự do đáp trả của con người hơn là sự đòi hỏi của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người như một món quà độc đáo và quí báu nhất.
THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, không phải chỉ là mang tên môn đệ của Ngài, mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài là làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào có thể làm cho họ lìa bỏ nhau
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
(Ca dao)
Trong lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai từ “NẾU” và “THÌ”. Khi dùng chữ “nếu” thì luôn luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, không có không được.
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA.
Phân tích lời kêu gọi của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đưa ra hai điều kiện cho bất cứ ai, các môn đệ hay chúng ta, muốn làm môn đệ của Ngài phải thi hành:
- Từ bỏ chính mình.
- Vác thập giá mình.
1. Từ bỏ chính mình.
Đây là phương diện tiêu cực của việc theo Chúa. Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật... và do bên trong như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi...
Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói:”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.
Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan rã ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.
Một hình ảnh nữa để chúng ta suy nghĩ: Quan sát các nhà điêu khắc tạc tượng, họ chọn một phiến đá cẩm thạch, rồi họ kiên nhẫn đục đẽo, khoét dần mài đi, cho tới khi thành một cỗ tượng mỹ thuật. Không bao giờ thấy nhà điêu khắc lại đắp thêm vào. Cũng thế, trong việc từ bỏ mình, chúng ta phải dẹp lòng ham muốn, để mình sống xả thân thuộc trọn về Chúa.
Chúng ta phải cố thi hành việc đục khoét bỏ bớt những gì bận rộn không cần thiết, gạt chúng ra một bên, nếu có bận tâm thì chỉ bận tâm vào việc nhà Chúa:”Sự sốt sắng việc nhà Chúa làm tôi hao tổn tinh thần”(Tv 68,10).
(Nguyễn duy Phượng, Thực yêu thanh bần, 1967, tr 124-125)
Truyện: Thánh Têrêsa chịu đựng.
Trong cuốn “Một tâm hồn”, thánh nữ Têrêsa Hài đồng có kể:”Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: Chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay... Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại một vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “Dĩ đào vi thượng sách” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41).
Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc... nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh tạo hưởng cái thú không chiến mà thắng.
2. Vác thập giá mình.
Đây là khía cạnh tích cực của việc theo Chúa. Quả vậy, theo Chúa thì phải nỗ lực, cố gắng trong việc sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin mừng trong sự chịu đựng và kiên trì.
Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Roma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối với người Hy lạp, Thập giá trở thành hoa văn xin đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai cập, thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây ban nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ân phúc. Các nước Tiểu Á và Đông Á vẽ thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.
Nhìn chung, nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là KHỔ GIÁ, một đàng thương đau để được sống trường sinh nên được gọi là THÁNH GIÁ.
Trong đời sống Kitô hữu. ai cũng phải vác thập giá vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc chúng ta là phải vác như thế nào: tự nguyện hay miễn cưỡng? Theo kinh nghiệm của chúng ta và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu , nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề.. Tuy nhiên, Thiên Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.
Truyện: Thánh giá vừa sức mình.
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo:
- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:
- Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
- Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
III. THEO CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta cần phải nhìn rõ vào gương tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, để can đảm và sẵn sàng từ bỏ mình và vác thập gía mình mà sống theo Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Tại sao Chúa bảo chúng ta:”Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Bởi vì thánh Matthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC , nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng: “Đã đến lúc người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”. Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân thì có thể sống nhưng sống để mà chết. Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng... có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.
Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời. Và Chúa Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này:”Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì”.
Đứng trước thập giá, đứng trước đau khổ, chúng ta không thể hiểu , không thể cắt nghĩa được vì đó là mầu nhiệm. Cuối cùng, tất cả những gì chúng ta có thể làm khi gặp đau khổ là tín thác vào Chúa Giêsu, Đấng đã phán:”Bất cứ ai chấp nhận mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được sự sống ấy”. Trong cuộc sống, người ta luôn gặp thập giá, đau thương, gian nan thử thách... Tất cả những cái đó có thể làm nên những điều có lợi cho chúng ta.
Truyện: Biến bại thành thắng.
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này: Thập giá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn: Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.
Có một bài thơ cổ của một tác giả vô danh. Bài thơ mang tựa đề “The Folded Page” (Trang sách bị gấp nếp). Sau đây là một đoạn trong đó:
“Trên căn gác một nhà xưa cổ,
Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,
Tôi ngồi đó lật từng trang tập cũ.
Bỗng nhận ra một trang bị gấp nếp,
Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:
“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này,
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Tôi liền mở nó ra và đọc,
Đoạn mỉm cười và gục gặc đầu nói:
“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Trong cuộc đời có nhiều trang khó hiểu
Ta chỉ việc gấp lại và viết lên:
“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Rồi một ngày nào đó trên nước Trời,
Mở trang cũ ra đọc lại ta sẽ nói:
“Thầy giáo có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Amen.
13. Học suy nghĩ và hành động theo Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm, một chứng nhân vĩ đại và là thầy dạy Đức tin có tên là Phêrô. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu. Thực sự, Phêrô không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, ông là con người bằng xương bằng thịt với những đức tính, khuyết điểm và yếu đuối như chúng ta. Có thế, ông mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng, tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Nếu như trong đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, ông được khen là người "có phúc" (Mt 16, 16), kèm theo lời hứa: "Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời". Thì hôm nay, ông bị khiển trách nặng nề: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người " (Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa và bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế.
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết: "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
Học suy nghĩ và hành động theo ý Chúa?
Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải "đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba" (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao "Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy" (Mt 16, 22). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận Thánh giá. Vì Thánh giá là biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Đúng là: "Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi" (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô.
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Chúa.
Học từ bỏ
“Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều “chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng … là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Vác thập giá để theo Chúa
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình”, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình” là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới con mắt người đời, chịu mất mạng sống là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận … chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
14. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Liền sau khi Phêrô tuyên tín rằng: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).
Nghe vậy, Phêrô kéo Người ra và can ngăn Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (x. Mt 16,22). Phêrô cho rằng làm như vậy là đúng, là cần thiết, và chắc chắn sẽ được Thầy khen ngợi như lần trước. Nhưng không ngờ rằng, lần này chẳng những Thầy không khen mà còn quở mắng ông một cách thậm tệ: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Lần trước được Thầy khen “vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 16,17). Còn lần này bị Thầy quở mắng vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,23). Qua lời răn dạy của Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn lại con người của mình, lắm lúc ý nghĩ của chúng ta chưa chắc là ý nghĩ của Chúa, thậm chí còn trái với ý nghĩ của Chúa (x. Is 55, 8). Cho nên, trong các sự việc hằng ngày chúng ta đừng vội làm theo ý riêng của mình mà cần phải tìm kiếm và tuân theo ý của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng đã luôn sống theo thánh ý Chúa Cha, Ngài khẳng định rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 4,34). Trong vườn Cây Dầu, trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Ý của Chúa được thể hiện qua Lời của Ngài, qua các Giới răn, qua các Bề trên hợp pháp, qua cha mẹ… Ý của Chúa còn được thể hiện một cách cụ thể qua lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
Lời mời gọi này diễn tả hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực, đó là “từ bỏ mình”; khía cạnh tích cực, đó là “vác thập giá”.
“Từ bỏ mình” nghĩa là từ bỏ ý riêng của bản thân để tuân theo ý Chúa. Từ bỏ mình là từ bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới. Từ bỏ mình là từ bỏ những thói hư, tật xấu, những tham, sân, si. Từ bỏ mình là từ bỏ cả những cái thân thiết khi Chúa đòi hỏi như nhà cửa, ruộng nương, người thân. Từ bỏ mình là từ bỏ những thứ cồng kềnh khi chúng ta chấp nhận đi con đường hẹp. Đi con đường hẹp đòi hỏi phải hy sinh, phải “liều mất” để “được”. Đi con đường hẹp sẽ nên hoàn thiện, sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 25-26).
Còn “vác Thập giá mình” là đón nhận những đau khổ trong cuộc sống một cách vui vẻ với niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc đời sau, giống như Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh:
Những đau khổ đó có thể do tội lỗi gây ra. Sau khi Adong phạm tội, Thiên Chúa đã cho ông biết: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19);
Những đau khổ đó có thể tự mình gây nên cho mình: Một sự thiếu tiết độ, một thói quen xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, không giữ luật giao thông nên gây ra tai nạn. Nghiện thuốc lá, nghiện rượu gây ra các chứng bệnh phổi, tim v.v.;
Những đau khổ đó có thể do chính con người gây nên cho nhau: Hằng ngày có biết bao nhiêu vụ bắt cóc trẻ em, cướp bóc, hận thù, kỳ thị, ghen ghét, giết chóc, đàn áp, cáo gian, đánh đập, làm thực phẩm độc vv…Những đau khổ đó là do người thân, bạn bè, những người trong xã hội, những người ghét chúng ta gây ra;
Những đau khổ đó có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán, ôn dịch…gây ra biết bao đau khổ cho con người;
Những đau khổ đó có thể do chúng ta mang danh là kitô hữu: Các cuộc bắt bớ các kitô hữu qua các thời kỳ lịch sử cho chúng ta thấy điều đó. Chính Đức Giêsu cũng đã từng nói: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét…” (x. Mt 10,22). Vì thế, để trung thành với luật Chúa và Giáo hội, người kitô hữu phải chấp nhận đau khổ.
Nhìn lại đời sống đức tin, để từ bỏ mình và vác thập giá mình đi theo Chúa một cách trọn vẹn không phải là chuyện dễ dàng. Có khi chúng ta cũng giống như Phêrô không sẵn sàng đón nhận những đau khổ xảy đến với mình, không đón nhận đau khổ trong niềm vui và hy vọng nhưng còn có thái độ gượng ép, thậm chí nhiều khi còn phàn nàn kêu trách Chúa. Người đàn ông trong câu chuyện ngụ ngôn sau đây có lẽ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta: Có một người đàn ông luôn than van về những nỗi khổ cực của mình gặp phải. Một hôm, thiên thần hiện đến nói với ông: “Con hãy theo ta ra nghĩa địa, vì nơi đó người ta để lại thánh giá của cuộc đời mình. Con hãy mang thánh giá của con ra đó, và hãy lựa thánh giá vừa sức với con.”
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn một cái khác nhẹ hơn, nhưng ông tìm kiếm mãi mà không được: vì có cây quá dài, nhưng có cây lại quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng lại quá nặng, và sau cùng ông nói với thiên thần: “Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với sức của con thôi.”
Thiên thần trả lời: “Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa với sức của con, con hãy vui lòng đón nhận mà vác đi trọn cuộc đời của mình, đừng than van gì nữa.”
Ước gì mỗi người chúng ta biết “từ bỏ mình và vác thập giá mình” trong niềm vui và hy vọng. Nhờ đó, khi Con Người ngự đến trong vinh quang, chúng ta được lãnh nhận phần thưởng xứng với sự cố gắng của chúng ta. Amen.
15. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau lời tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) Simon con ông Giona được khen là người "có phúc" (Mt 16, 16), vì được Chúa Cha, "Đấng ngự trên trời mạc khải cho" (Mt 16, 16-17). Lời khen kèm theo lời hứa: "Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời". Nhưng liên sau đó ông bị khiển trách nặng nề vì đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người "(Mt 16, 22-23), lý do vì ông can gián Chúa.
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được ý tưởng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa qua miệng Isaia đã quả quyết: "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi" (Is 55, 8).
Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, họ thực sự không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời, hay là thần thánh gì hết, họ nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?
Vì đã đọc Tin Mừng, nên chúng ta thừa nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia đến hiến mạng trên thập giá vì chúng ta như lời tiên tri Isaia đã báo trước. Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng Người phải "đi Giêrusalem và chịu đau khổ nhiều vì các bô lão, các thủ lãnh các tư tế và các ký lục, bị giết chết và sống lại ngày thứ ba" (Mt 16, 21). Tất cả xem ra bị đảo lộn trong con tim của các môn đệ. Làm sao "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới lên tiếng: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp chuyện ấy" (Mt 16, 22).
Đúng là: "Trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi" (Is 55, 9). Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời với Phêrô: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm"(Mt 16, 23).
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới chỗ thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không cho để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, khi ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: " Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống" (Mt 16, 24).
Chúng ta tự hỏi: "Từ bỏ" mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Chúng ta đang sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đã đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ "điều chúng ta là", nhưng điều "chúng ta đã trở nên". Chúng ta là những hình ảnh Thiên Chúa, chính Thiên Chúa thầy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là "ảnh dưới đất", ngược với "ảnh trên trời", giống như Chúa Kitô. Do đó "từ bỏ chính chúng ta", là từ bỏ ý loài người mà mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra làm sao giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đanh. Con đường "đánh mất chính mình", để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường "đánh mất chính mình", là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình" (Đức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính minh, vác thập giá mình và theo Thầy" (Mt 16, 24). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, "đánh mất đi sự sống" là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: "Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận... chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo" (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: "Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại" (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
TỪ BỎ VÌ YÊU CHÚA
Ngày 04/09/2016, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức giáo Hoàng Phanxicô long trọng tuyên phong Chân Phước Teresa Calcutta lên bậc hiển Thánh, vì chưng, trong tâm hồn Thánh Teresa Calcutta luôn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bừng cháy tình yêu thương xót thôi thúc Thánh Nữ một điều duy nhất là bỏ tất cả theo Chúa và "Đem tình yêu thương xót của Thầy đến cho người khốn khổ nhất trong xã hội". Vâng, đúng thế, Mẹ Teresa sinh ngày 26/8/1910 tại Nước Albanie (An-ba-ni). Ðủ 18 tuổi, Mẹ Teresa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto (Lo-rê-tô) ở Ái Nhỉ Lan. Năm 1928, Sơ Teresa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ. Không lâu sau đó, Sơ Teresa đến Calcutta, thủ đô Bengal (Ben-ga), Ấn Ðộ, để dạy học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Teresa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối, các trẻ em bơ vơ và người khuyết tật trên đường phố, Sơ Teresa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người bệnh tật, nghèo đói khốn khổ. Và năm 1948, Mẹ Teresa, với chiếc áo dòng cũ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Năm 1952 Mẹ Teresa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Teresa đã biến nó trở thành Hội Quán cho những người nghèo đói đau khổ, bệnh tật. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ.
Mẹ Thánh Teresa Calculta đã nên thánh được là nhờ thi hành Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay một cách triệt để nhất, hùng hồn nhất: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi”. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn, chọn lựa giữa tốt xấu, trắng đen của thiện ác. Nhà đạo thường nhắc đến 3 thù là Ma quỷ, thế gian và xác thịt. Ma quỷ có thể thắng lướt, thế gian có thể rời xa, nhưng thân xác thì luôn gắn bó đến hơi thở cuối đời, cùng với nhu cầu và những đòi hỏi không ngừng của nó. Nhà Phật đã chỉ ra tam độc của Tham, Sân Si. Còn các đạo vẫn thường nói về Danh, Lợi. Danh vọng, quyền lực, sắc dục luôn là những vấn nạn của muôn thuở nhân sinh. Nhưng chúng ta phải vượt qua được những cám dỗ bằng sự từ bỏ mình vì hạnh phúc cho chính mình và tha nhân theo mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu.
Cụ thể, chúng ta nhớ những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa: cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn (xác thịt): "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!" (Lc 4, 3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa. Rồi, cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi" (Đnl 6, 13). Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng "Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá" để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Nên hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi là vậy.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta vì như lời Ngài đã nói được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì. Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết từ bỏ tội lỗi từ bên trong ra bên ngoài hầu “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để chúng ta thờ phượng Người. Chúng ta đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người chúng ta bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo để chỉ vì yêu Chúa và mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. Amen.
17. Sống mầu nhiệm Thập Giá – Cố Lm. Hồng Phúc
Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phía cực bắc xa thành Giêrusalem “hay giết các tiên tri”. Bỗng nhưng Ngài quyết định quay trở lại. Ngài tỏ cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thỉ sống lại”. Mấy lúc gần đây, lời tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bầy tỏ rõ ràng những gì sắp xẩy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài là “tôi tớ”, là Con sẽ thực hiện tất cả.
Nhưng khi Ngài vừa tiết lộ tất cả sự thật thì Phêrô, con người vừa được đặt làm nền tảng Giáo hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng cho Phêrô. Phêrô không hiểu nổi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa ý muốn của Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất tuân”, ngày nay Con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải đau khổ tột độ, cho dầu phải để cứu vãn nhân loại. Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc Tử nạn của Ngài.
Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Matthêô đã nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).
Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là cả Thầy, cả môn đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong thân xác tôi những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1, 24).
Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận thánh giá.
Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.
18. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Sau khi nghe Phê-rô tuyên xưng: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về số phận của Ngài: “Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ…, sẽ bị giết…”
Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong quyển sách “Cuộc đời Chúa Giêsu”, nói: “Chúa Giêsu đến trong trần gian là để chết”. Ngài đến trong trần gian không phải để tạo một vương quốc cho Ngài, để hưởng thụ như các vua chúa trần gian. Ngài đến để cứu vớt trần gian để “ban mạng sống cho thế gian.”
Phê-rô, có lẽ đã không hiểu một cách rõ ràng những lời Thầy nói, lên tiếng: “Thưa Thầy, không thể như thế được! Thầy không thể như vậy đâu!” Có lẽ Phê-rô chỉ nhớ hai từ thôi: đau khổ và bị giết.
Hành động của Phê-rô cũng dễ hiểu. Theo ông, Thầy là một vị tôn sư cao cả, Thầy làm những việc phi thường và… Thầy lại là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” mà ông vừa mới tuyên xưng. Vậy thì Thầy làm sao có thể bị giết được! Thầy sẽ đạt đến đỉnh cao của vinh quang. Đó là cái nhìn thực tế của ông. Đi theo Thầy, sau này ông cũng sẽ được hưởng quyền tước nào đó.
Một lần nào đó, Phê-rô đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy, thì sao?” Nghĩa là chúng con sẽ nhận được những lợi lộc nào.
Những người theo Chúa nửa vời thường mang tâm trạng thực dụng đó.
Phản ứng của Chúa Giêsu thật bất ngờ và mạnh mẽ: “Santan, lui ra!”
Satan ở đây được hiểu theo nghĩa “chướng ngại.”
Tại sao Chúa lại tỏ ra cứng rắn như thế? Ngài giải thích: “Anh làm cho Thầy vấp phạm, vì anh không hiểu biết những điều thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết về những gì thuộc về loài người.”
Đối với Chúa Giêsu, Ý Chúa Cha là trên hết, dù biết rằng ý Cha sẽ đưa Ngài đến khổ nạn và cái chết, nhưng Ngài sẽ trung thành đến cùng. Vì thế, khi Phê-rô can gián Ngài, Ngài tỏ ra hết sức nhgiêm khắc. Thái độ cương quyết của Ngài là một bài học cho mỗi người chúng ta. Sống đạo chính là “hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa” chứ không theo ý chúng ta, nghĩa là đi vào quỹ đạo của Thiên Chúa, những gì đi ngược lại là Satan.
Sự cương quyết của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, phải dứt khoát rõ ràng, không thể “làm tôi hai chủ”, không bắt cá hai tay.
Chúng ta luôn được đặt trước hai chọn lựa: Chúa hay thế gian. Phải dứt khoát không khoan nhượng.
Giữ đạo không chỉ chấp nhận một số luật lệ, một số bổn phận đạo đức, mà chọn một người chính là Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống: “Dưới gầm trời nầy không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Diễn từ của Phê-rô trước công nghị. Cvtđ 4,12).
Sự chọn lựa này quyết định tất cả cuộc đời chúng ta, tương lai của chúng ta.
Giữ đạo chính là chọn Chúa và theo Chúa. Theo Chúa, tức là cảm nghĩ như Chúa, nói năng như Chúa, hành động như Chúa.
Và Chúa Giêsu đã nêu lên những điều kiện đó: “Ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta.”
Bỏ mình , thường được hiểu là chết. Một chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến… Người Công giáo hiểu theo một nghĩa thiêng liêng. Bỏ mình là từ bỏ những gì là của mình để theo ý Chúa: bỏ những ý muốn riêng, những mơ mộng, chương trình, ý muốn thống trị của mình để sống theo ý Chúa. Hơn thế nữa, bỏ mình là trao quyền quyết định về vận mạng của mình cho Chúa: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu: Ngài đã bỏ mình như thế nào. Chúng ta có thể trả lời ngay: Ngài đã hoàn toàn bỏ mình. Nhập thể, xuống thế làm người, phải chăng đó là bỏ mình trọn vẹn?
Đó là giai đoạn khởi đầu. Các Kitô hữu đầu tiên đã hiểu điều đó một cách rõ ràng và thánh Phao-lô đã ghi lại một ca khúc xưa: “Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”
Chúng ta hiểu như thế nào?
Ngài đã bỏ mình triệt để. Thiên Chúa là Đấng vô hình, toàn năng hằng hữu, Ngài đã mang lấy thân phận con người. Có thể nói, Ngài đã rơi vào một vực thẳm không thể tưởng được. Chúng ta không thể hiểu được sự bỏ mình thẳm sâu của Ngài. Cuộc đời trần thế của Ngài cũng là một bỏ mình triền miên. “Ngài còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự”. (Pl 2,6-8).
Vâng lời chính là từ bỏ ý riêng của mình để “thực thi ý Cha”. “Lương thực của Thầy là làm theo ý của Cha Thầy”.
Cuộc đời của Ngài chỉ có một nội dung: vâng phục.
Hãy nhìn Chúa Giêsu để thấy sự khác biệt giữa chúng ta với Ngài. Ngài đã vâng phục vì yêu mến Chúa Cha. Chúng ta vâng phục Ngài vì yêu mến hay vì một lý do nào khác? Hay chỉ vì không thể làm gì khác?
Theo Ngài là bỏ mình, là yêu Ngài hơn cả chính mình, là yêu đến quên mình. Sự vâng phục chỉ có nghĩa khi vâng phục vì tình yêu. Bỏ mình là yêu mến trọn vẹn. Chúng ta yêu mến Chúa được bao nhiêu phần trăm? Nếu tỷ lệ tình yêu của chúng ta thấp, làm sao bỏ mình? Vì yêu mới có thể bỏ mình. Hai người yêu nhau thực tình và tha thiết mới có can đảm lo cho người mình yêu. Tình yêu của chúng ta với Chúa được bao nhiêu? Sâu đậm đến độ nào? Chúng ta lo cho Chúa những gì? Chúng ta dám bỏ thì giờ, công khó (và nếu cần cả tiền bạc) để lo cho Chúa được yêu thương hơn không?
Điều kiện thứ hai Chúa Giêsu nêu lên là vác thập giá.
Lúc Chúa Giêsu nói đến điều nầy, Ngài chưa chịu tử nạn, Ngài chưa vác thập giá. Khi nói đến vác thập giá Ngài nghĩ gì?
Ngài liên tưởng đến cuộc tử nạn của Ngài mà Ngài vừa nói đến chăng? Hay đây chỉ là một điều các Kitô hữu đầu tiên đã thêm vào và thánh Mat-thêu đã ghi lại?
Nếu Ngài nói đến vác thập giá có thể hiểu như thế nào?
Có thể hiểu là chấp nhận mọi đau khổ dù nó đến từ đâu; là chấp nhận thân phận yếu đuối của mình, là chấp nhận mọi nhục nhã và cả cái chết đau thương vì Chúa: “ Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.”
Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trên con đường thập giá. Cuộc sống trần gian của Ngài, phải chăng là một cuộc “vác thập giá” liên tục, từ khi mới sinh ra cho đến đỉnh đồi Can-vê?
Con người chỉ muốn sống nhàn hạ, không đau khổ. Chúa Giêsu hướng chúng ta về tương lai, một tương lai duy nhất là hạnh phúc trong Nước Tình Yêu của Chúa Cha. Hạnh phúc vững bền đó chỉ có khi chúng ta dám bỏ đi tất cả thế gian, liều mạng vì yêu mến Ngài, “cho không tất cả.”
Chúng ta dám tin vào Ngài đến nỗi “khóc lóc, hãy như không khóc, vui mừng như không vui, mua sắm như không có gì cả…” (1Cr 7,30-31).
Các thánh đều hiểu điều đó. Các ngài đã tin Chúa vô điều kiện. Các thánh tử đạo là những bằng chứng mạnh mẽ nhất. Các ngài đã dám chịu mọi cực hình và đã trung thành đến cùng.
Còn chúng ta?
Chúng ta đang sống trong một thế giới giàu có, đầy tiện nghi, chúng ta dám “bỏ mình, vác thập giá” như Chúa không?
Chúng ta sống cho thế gian hay sống cho Chúa?
Con đường Chúa đi không có tiện nghi mà chỉ có thập giá. Nhưng Chúa mãi mãi là Tình Yêu. Chỉ có Chúa mới là Hạnh Phúc mà chúng ta đang mong chờ và tìm kiếm. Chúng ta vẫn có quyền chọn lựa, nhưng hãy nhớ rằng: “Bộ mặt thế gian sẽ qua đi”, và “dù được lợi cả thế gian mà mất mạng sống, thì ích gì cho chúng ta?”
Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta vào hạnh phúc của Ngài, chúng ta còn do dự sao?
Ngài không chỉ mời gọi. Ngài đến trên bàn thờ nầy. Ngài đến với chúng ta, tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta đến mức nào.
Ngài hoàn toàn bỏ mình vì chúng ta, đến nỗi trở nên của ăn cho chúng ta, bồi dưỡng nâng đỡ chúng ta, sống trong chúng ta…
Hãy nghe tiếng gọi tha thiết của Ngài và can đảm bước theo Ngài.
Hôm nay, Ngài đến dưới hình thức khiêm nhu, nhỏ bé, nhưng Ngài sẽ đến trong “vinh quang, cùng với các thiên thần của Ngài, và bấy giờ Ngài sẽ trả công cho mỗi người”, những người dám từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
19. Mất và được
(Trích từ ‘tinmung.net’)
Có câu chuyện kể như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.
Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.
Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
20. Con đường ba (chữ) “phải”
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Có lẽ một số người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện mà Khái Hưng và Nhất Linh, trụ cột trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đầu bán thế kỷ 20 đã kể về đôi vợ chồng nghèo tên Thức và Lạc, Hai người phải đi vớt củi kiếm sống. Chẳng may gặp dòng nước lũ xoáy, cuốn luôn bè chìm. Người chồng cố dìu vợ vào bờ, nhưng rất khó khăn, có nguy cơ chết cả hai. Người vợ chợt nghĩ tới thằng Bò, cái Bé, cái Nhớn đang trông ngóng bố mẹ trở về, nên đã từ từ buông tay ra không bám lấy chồng nữa để chồng có thể đủ sức bơi vào bờ một mình, còn mình thì chìm dần, chìm dần rồi mất hút.
Đầu đề của truyện ngắn này là: “Anh Phải Sống.” Anh phải sống, đồng nghĩa với Em phải chết!
Trong cuộc sống hằng ngày, khi chỉ có một con đường để đi, chỉ có một lối để thoát, chỉ có một giải pháp duy nhất, thì ta vẫn thường dùng chữ phải, chứ không dùng “có thể, có lẽ”. Anh phải đi. Em phải chết. Con phải lấy anh ta. Anh phải yêu em. Không còn con đường nào khác.
Hôm nay trong lúc quan trọng, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu hé mở cho các tông đồ biết con đường mà Chúa Giêsu phải đi, con đường ba chữ PHẢI. Chúa phải chịu đau khổ, phải bị loại bỏ, cuối cùng Ngài sẽ phải bị giết chết.
Trước khi chúng ta tìm hiểu con đường ba chữ PHẢI, tại sao Chúa phải đi con đường đó, chúng ta thử hỏi xem có thể có con đường nào khác không?
1. Có thể có con đường nào khác không?
Tông đồ Phêrô khi nghe Thầy mình loan báo con đường ba chữ phải này, thì kéo Chúa Giêsu ra nói nhỏ: Thầy không thể như thế đâu. Còn lý lẽ của loài người lúc nào cũng muốn gào to lên rằng: Chẳng lẽ không có con đường nào khác nhẹ nhõm hơn, dễ dàng hơn để cứu độ trần gian sao? Nếu để tạo dựng nên vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật, Thiên Chúa chỉ phán một lời là có mọi sự, thì tại sao để cứu chuộc, để hồi phục, Ngài không dùng con đường quyền phép đó: chỉ phán một lời mọi sự đâu vào đó.
Hoặc nếu cần, thì sai phái các thiên sứ Kerubim, Seraphim, hay cao hơn nữa, ra lệnh cho các Tổng lãnh Thiên sứ Micae, Gabriel, Raphael xuống trần gian để cứu chuộc. Vượt lên trên đó, Thiên Chúa đã chọn một con đường cực kỳ diệu là đích thân hoá mình làm người để xuống trần. Vậy là chưa quá đủ sao, mà lại còn phải chận bớt khoảng rộng để đi vào con đường quá hẹp hòi, gai góc là phải chịu đau khổ nhiều, phải bị loại bỏ, phải bị giết. Thiên Chúa quyền phép vô cùng, toàn năng vô song muốn gì được nấy, lại nhân từ vô cùng, sao lại để Con của mình cũng là Thiên Chúa phải đi vào con đường khó hiểu như vậy, con đường chẳng có vẻ nhân từ chút nào, chứ chưa nói là con đường của Đấng nhân từ vô cùng.
Cũng vì vậy mà các Tông đồ vấp phạm vì con đường này, còn Phêrô, thì kéo Đức Giêsu về phía mình, một cử chỉ sỗ sàng song thành thực của một dân chài bộc trực như muốn ân cần săn đón, giữ gìn và giật người bạn, người thầy của mình khỏi hiểm nguy, kèm theo lời nói: Thầy đâu thể như thế được! Nhưng Đức Giêsu đã nổi xung thiên về lời nói đó của Phêrô bằng cách đuổi Phêrô đi cũng bằng một lời như khi đuổi ma quỉ cám dỗ trong sa mạc: Satan, hãy xéo đi!
Vậy con đường Đức Giêsu đi là con đường ba chữ PHẢI, chứ không phải con đường “có thể” để thay đổi, để can gián. Và vì nhất thiết phải đi con đường dẫn tới cái chết do người ta giết, nên ta thử tìm hiểu ý nghĩa con đường Chúa đi đó.
2. Tại sao Chúa phải đi con đường ba chữ “Phải” đó?
Trả lời dễ dàng nhất là chúng ta không trả lời được. Hay nói cách khác: ta không hiểu nổi tại sao Chúa phải đi con đường đó. Chữ PHẢI đây không phải là tất yếu của định mệnh: như nghèo thì phải khổ. Bệnh thì phải đau. Đói thì phải rách. Không học thì phải dốt. Nhưng PHẢI ở đây là điều cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa, ăn khớp với chương trình của Ngài trên nhân loại, mà chương trình và tư tưởng của Ngài thì vượt xa ý nghĩ của con người. Sách Isaia (55, 6-9) ghi: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Cách xa nhau như vậy làm sao ta hiểu nổi kế đồ của Thiên Chúa? Khi la Phêrô là Satan, hỡi Satan hãy xéo đi, thì Chúa cũng nói như vậy: vì ngươi chẳng hiểu biết gì những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ biết những gì thuộc về loài người.
Nhưng mà, chúng ta có Chúa Thánh Thần, có Chúa Phục sinh. Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta, còn Chúa Phục sinh giải thích cho ta như xưa Chúa Phục Sinh đã giải thích cho hai môn đồ trên đường Emmau (Lc 24,25): “Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó chịu chết rồi mới vào nơi vinh hiển sao?” Vậy thì Chúa Phục Sinh đã giải thích và Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho ta hiểu phần nào, tại sao Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết.
Càng dày lịch sử, càng lắm giải thích. Cho đến nay người ta ghi nhận ít là bốn giải thích này để trả lời cho câu hỏi Tại sao. Tại sao Chúa phải đi con đường đau khổ và chết? Mỗi giải thích là một cours thần học, nhưng chúng ta chỉ lấy kết luận thôi.
1) Chân lý được khẳng đình rõ nhất là bằng cái chết. Dùng cái chết để chứng minh, thì lời chứng đó hùng hồn nhất (Các thánh Tử đạo sẵn sàng chết để chứng minh Đạo mình theo là Đạo thật; vợ chàng Trương trầm mình chết để chứng minh mình ở nhà không phản bội chồng; các võ sĩ đạo Nhật sẵn sàng chết vì danh dự để chứng minh sự thật).
2) Chúa đi con đường đó không phải để đau khổ, để chết nhưng để diễn tả tình yêu cho đến cùng, “Không có tình yêu nào lớn hơn là chết vì người mình yêu.” Mà Thiên Chúa là Tình yêu, yêu cho đến cùng! Cha mẹ đau khổ vì con, cha mẹ sẵn sàng chết vì con, không phải vì cha mẹ muốn đau khổ, muốn chết, mà là muốn biểu lộ tình yêu đối với con mình. Thiên Chúa là cha là mẹ.
3) Đức Kitô chết để làm giá chuộc cho chúng ta. Người mang thương tích để anh em được chữa lành. Người đã chết – để anh em được sống (x. 1Pr 2, 23-24). Thánh Phaolô nói: Anh em được chuộc bằng giá rất cao: giá máu Con Chúa. Chứng tỏ loài người chúng ta rất có giá, chứ nếu không, chỉ cần giọt mồ hôi của Con Chúa cũng đủ, đâu cần đổ tới giọt máu cuối cùng!
4) Để lại một mẫu mực cho chúng ta. Nếu Đức Kitô không đau khổ, không chết thì khi con người chúng ta bản tính là hay chết, thân phận là lưu đày đau khổ, chúng ta biết nhìn vào ai, soi vào gương nào để tiến bước khi gặp chết chóc khổ đau.
Cũng chính vì vậy mà trong Bài Tin Mừng hôm nay, sau khi vạch con đường ba chữ phải, Chúa Giêsu thêm: “Ai muốn đi sau tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo.”
Trong kinh Tin Kính chúng ta sắp xướng đây, chúng ta hãy cùng tuyên xưng, Đức Giêsu phải đi con đường thập giá và phải chết thời Phongxiô Philatô. Lời chúng ta tuyên xưng cũng là lời nhắc nhở, khuyến khích, nâng đỡ, an ủi chúng ta khi chúng ta bước theo con đường ba chữ phải của Ngài.
21. Hiến mình vì người mình yêu – Lm Anmai, CSsR
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại thấy nó làm sao ấy? Đang vui vẻ với nhau vậy mà Thầy lại nói đến cái chuyện chết chóc rồi đến thập giá rồi đến chuyện vác thập giá rồi thêm nữa là thiệt mạng.
Thật ra, chẳng ai muốn nghe chuyện chết chóc và nhất các môn đệ nghe thầy mình báo trước một cái điềm "gỡ" mà chẳng ai mong đó là thầy mình phải chết trong đau khổ do các kỳ mục và thượng tế. Bởi vậy, Phêrô do yêu Thầy quá nên kéo Thầy riêng ra một bên và thỏ thẻ với Thầy: "Xin Thiên Chúa đừng để Thầy phải chết như vậy! Chúng con, những môn đệ của Thầy không thích và không muốn Thầy phải chết như thế đâu?". Nếu như chúng ta có mặt ở đó với Thầy Giêsu, chúng ta cũng sẽ làm như ông Phêrô vậy nhưng quê quá! Sau khi nói thế, tưởng Thầy sẽ khen nhưng ngược lại, Thầy đã mắng Phêrô. Sau khi mắng xong, Thầy lại nói thêm về chuyện vác thập giá. Thử hỏi ai trong chúng ta - những môn đệ của Chúa - mong vác thập giá không? Chưa dừng lại ở chỗ đó, Chúa Giêsu còn đòi hỏi mỗi người chúng ta, như các môn đệ phải đi thêm một bước nữa là phải hiến mạng sống mình. Phải nói thật với nhau rằng lời này nghe sao mà "chói" tai thế? Thế nhưng, chính khi sống những lời "chói" tai ấy mới đích thực là môn đệ của Chúa và được hưởng nước Trời như Chúa hứa.
Chúa Giêsu rất thẳng thắn: một là một, hai là hai chứ không lập lững trong lập trường về Nước Trời. Chúng ta còn nhớ: nào là không được làm tôi hai chủ, nào là thà cụt một tay một chân mà được vào Nước Trời và hôm nay Chúa mời gọi môn đệ của Chúa đi đến mức đỉnh điểm: Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?
Nhìn lại cuộc đời, nhiều lúc chúng ta lại bé cái lầm, chúng ta lại cứ muốn vun vén cho mình nhiều quá để rồi đánh mất đi cái điều căn cốt của cuộc đời. Chưa nói đến cái cùng đích của cuộc đời, chưa nói đến cái Nước Trời mai hậu, chỉ cần nhìn lại cái thực tại của cuộc sống ngày hôm nay chúng ta sẽ thấy được chúng ta là ai? Chúng ta sống như thế nào với anh chị em đồng loại?
Đời sống gia đình: là cha, là mẹ, là con cái trong gia đình, ngày hôm nay chúng ta có thật lòng sống để hiến mạng sống mình cho gia đình nho nhỏ của chúng ta hay không? Chúng ta có dám dẹp bỏ cái tự ái, cái tôi của chúng ta để chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình hay không? Hay là chúng ta cứ khư khư giữ lấy cái ích kỷ của chúng ta để chúng ta phá vỡ hạnh phúc gia đình, phá vỡ hạnh phúc của "nước trời" trong trần gian này?
Ngày hôm nay, đời sống gia đình đã đánh mất đi cái nền tảng của nó là đơn hôn và vĩnh hôn. Vì sao? Vì lẽ mạnh chồng chồng sống, mạnh vợ vợ sống, không còn ai dám hiến mình cho nhau nữa. Cái ngày mà họ đưa ra nhà thờ cam kết, tuyên bố và thề hứa sao mà hay quá: "...Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương anh (em) suốt đời em (anh)" nhưng thử hỏi còn bao nhiêu gia đình sống đúng cái lời mà mình tuyên hứa trước mặt Chúa qua sự chứng kiến của Hội Thánh? Chủ nghĩa mackeno (mặc kệ nó) ăn sâu vào mỗi người để rồi chẳng còn ai dám hiến mình cho ai nữa.
Một gia đình nọ về đời sống kinh tế khá vững vàng, đời sống danh vọng tạm gọi là có tiếng và nhìn bên ngoài có vẻ đạo đức lắm vì vẫn còn trong vòng lễ giáo của cha mẹ hai bên, vẫn còn tham gia ban hát, ca đoàn nhưng bên dưới của nó đang dần dần rạn nứt và có thể đi đến chuyện ly hôn bất cứ lúc nào. Nguyên nhân? Nguyên nhân là vì hai vợ chồng chẳng còn ai sống cho nhau nữa, không còn hiến mình cho nhau nữa. Chồng đổ cho vợ, vợ đổ cho chồng. Chồng đổ cho vợ là suốt ngày chỉ ham đi kiếm tiền, cắm cúi đi kiếm tiền còn chồng thì đổ cho vợ là không lo cho gia đình, không lo cho vợ cho con. Xét ra thì ai cũng có cái lý cả, ai cũng cho mình là đúng cả nhưng thực tế thì vấn đề của gia đình này quá căng thẳng vì họ không biết hiến mình cho nhau. Đi sâu hơn một chút: họ không hiến mình cho con cái theo đúng nghĩa của nó. Đành biết đồng tiền rất cần cho cuộc sống nhưng đâu phải có tiền là có tất cả để rồi người vợ cứ cắm cúi đi tìm tiền mà không lo cho hạnh phúc gia đình. Lẽ ra hai vợ chồng phải tạm gọi là "dừng lại cuộc chơi" tìm tiền để mà lo cho hạnh phúc gia đình, lo hiến mình cho gia đình của mình. Không phải chị không biết hậu quả của việc lao đầu vào kiếm tiền, không phải anh không biết hậu quả của việc sống thờ ơ với việc bổn phận gia đình nhưng hình như hai người đã không tìm được tiếng nói chung: tiếng nói của sự hiến dâng cho nhau thật sự.
Nhìn vào hai đứa trẻ của gia đình ấy, tôi thật sự e ngại. Nếu như cha mẹ chúng không thay đổi lối sống, không thay đổi lập trường thì tương lai của chúng không biết sẽ đi về đâu khi cha mẹ chúng chia ly?
Đời sống tu cũng thế, người ta không còn biết sống hiến mình cho nhau nữa. Không phải là nhiều, không phải đi tu ai cũng thế nhưng có vài trường hợp đáng tiếc đã xảy đến. Một vị nữ tu tuổi đời mới ngoài ba mươi, được lợi thế hơn các "sơ già" một chút là được ăn được học và được học cái ngành "thầy cãi" nữa nên cãi lý rất hay. Chuyện đáng tiếc đã xảy đến đó là khi nghe "tin hành lang" là vị nữ tu ấy sẽ thay thế vị trí của vị bề trên đương nhiệm để rồi từ đó cách hành xử của vị nữ tu trẻ chẳng ra làm sao cả. Chịu không thấu, vị phụ trách đã trình bày với vị hữu trách và cuối cùng hậu quả vị nữ tu trẻ ấy phải rời cộng đoàn để về nhà Mẹ của Tỉnh Dòng!
Chắc có lẽ vị nữ tu ấy đã quên đi lời khấn hứa trong ngày khấn dòng, lời khấn hứa vâng phục bề trên, lời hứa sẽ cộng tác với chị em để phục vụ, để hiến mình cho người nghèo. Chính vì đánh mất tâm tình dâng hiến nên mới có trục trặc, có đổ vỡ trong cộng đoàn.
Bên cạnh những người quên đi việc hiến mình cho anh chị em đồng loại, cho chồng, cho vợ cho con trong gia đình chúng ta vẫn gặp đâu đó những hình ảnh đẹp chứ không phải là ai ai cũng ích kỷ cả! Trận động đất xảy ra cách đây hơn chục năm ở Ácmênia thuộc Liên Xô cũ chắc chúng ta còn nhớ, sau trận động đất tan thương đấy người ta lại phát hiện ra tình mẫu tử thật tuyệt vời. Dưới đống gạch vụn đổ nát bi thương của một toà nhà bị sập, người ta nghe được tiếng của một đứa trẻ oe oe khóc. Gỡ đống gạch vụn đó lên người ta thấy được một đứa bé đang ngậm tay mẹ của nó, nó đang mút từng giọt máu từ ngón tay của mẹ nó. Hoá ra là trước khi chết, mẹ nó đã khứa tay của mình vào mảnh chai để cho con mình bú những giọt máu từ tay của mình. Chính những giọt máu ấy đã cứu đứa bé sống sót cho đến lúc đội cứu hộ tìm thấy cháu. Một kỳ tích của tình người, một thiên tình sử của tấm lòng mẹ con.
Với tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ai ai cũng biết về Cha Thánh Lập Dòng của mình. Cha Thánh Anphongsô đã phải nhục nhã, cay đắng bị trục xuất ra khỏi tu viện mà chính mình sáng lập vì bị hiểu lầm, bị chà đạp. Ngài đã sống tâm tình "Hiến mình cho ơn cứu độ" một cách viên mãn. Vì Chúa, vì Nhà Dòng, vì anh em, Ngài đã hiến mạng sống mình cho đến chết.
Hiến mình cho Chúa, hiến mình cho ơn cứu độ, hiến mình cho nhau là cử chỉ rất đẹp, cử chỉ tuyệt vời nhất mà con người dành cho Chúa, cho anh chị em đồng loại. Cử chỉ đó được Thánh Phaolô nhắc cộng đoàn Rôma cũng như nhắc mỗi người chúng ta: "Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1a). Ngài còn kết luận một cách xác tín: Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người (Rm 1,1b). Hoá ra là cách thờ phượng xứng hợp mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đó là hiến dâng thân mình chúng ta cho Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa gần nhất đó là Thiên Chúa đang hiện diện nơi anh chị em đồng loại của mình.
Ngài quả quyết với chúng ta rằng: vì Thiên Chúa thương xót chúng ta. Nếu chúng ta thấy Thiên Chúa thương xót chúng ta thì chúng ta mới có thể hiến dâng cho Chúa cũng như cho anh chị em đồng loại được. Ngài còn nhắc chúng ta rằng: Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình (2 Cr 5,15).
Vấn đề còn lại là của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta cảm nhận, chúng ta xác tín rằng Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, chết vì tội lỗi chúng ta và chết để đền bù tội lỗi chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ không sống cho chính mình nhưng chúng ta sẽ sống lại cho Đấng đã chết và sống lại vì mình. Đấng đó đang ở đâu? Xin thưa: Đấng đó ở ngay trong gia đình bạn, Đấng ấy hiện diện ngay trong chính con người của vợ, của chồng, của con của bạn và Đấng đó đang ở trong cộng đoàn tu trì của bạn, là anh chị em cùng lớp, là anh chị em cùng trong Tu Viện, trong cộng đoàn của bạn.
Thử nhìn lại đời sống của chúng ta, chúng ta có hiến mình vì anh chị em đồng loại hay chúng ta lại bắt anh chị em đồng loại hiến mình vì chúng ta?
22. Từ bỏ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy (Mt 16, 24). Từ bỏ mình có nghĩa là từ bỏ ý muốn riêng của mình. Từ bỏ thì không luôn dễ. Sự từ bỏ nào cũng cần có ý thức quyết định mãnh liệt. Chúng ta biết rằng trăm người thì trăm ý. Đôi khi, ai cũng nghĩ rằng ý của mình là hay và là tốt nhất. Bỏ mình thì phải hy sinh ý riêng của mình để chấp nhận ý của người khác. Vả nữa, mỗi người có cá tính riêng biệt, nên rất khó để nhường nhau. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy ghét tội, không ưa những sự gian dối và thói tục xấu xa, nhưng vẫn cứ muốn bám víu cầm chân. Khi chúng ta chìm sâu trong đường lầm, thì tội lỗi lại là những món hấp dẫn và cảm khoái. Miệng của chúng ta thì chê bai ghét tội đó, nhưng lòng lại cứ muốn chiều theo những đòi hỏi bản năng thấp hèn. Nói thật, chúng ta không muốn đi xưng tội thường, tại vì tiếc nuối từ bỏ thói hư tật xấu và tội lỗi. Người ta thường nói rằng bỏ thì thương, vương thì tội. Cho nên cứ lẩn quẩn dùng dằng trong chốn mê lầm.
Truyện kể: Cha Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm, có một bác nông phu người Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó cha giảng về đề tài ‘cách dùng của cải’. Ông rất chăm chú nghe. Trong bài giảng có bốn phần: 1. Hãy tìm kiếm cho được nhiều của cải. Bác nông phu rất hài lòng và nói: Hay quá, tuyệt quá. 2. Hãy tiết kiệm. Ông sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha. Ông nghĩ thật đúng quá, chính ông cũng chủ trương như thế mà. 3. Đừng xài hoang phí. Ông gật gù vui trong lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn Chúa vì ông luôn hành động như thế. 4. Hãy rộng rãi làm phúc và làm việc bác ái. Ông nhăn mặt khó chịu. Ông thở dài đứng lên bỏ về. Ở đời, nhiều người hành động giống như bác nhà quê này: Lý thuyết nhiều và thực hành ít. Chỉ mong tìm lời và thu quén cho mình.
Sự từ bỏ gồm về cả lãnh vực tinh thần lẫn vật chất. Khi chúng ta không có sở hữu tiền bạc của cải nhiều, thì nói đến việc từ bỏ xem ra dễ dàng. Nhưng khi chúng ta giầu có, thì thái độ lại khác vì đồng tiền nối liền khúc ruột, không dễ mà từ bỏ và chia sẻ đâu. Lý tưởng của cuộc sống là vươn lên mãi. Có, rồi muốn có thêm. Vì sống là sự phát triển không ngừng. Ai ai cũng cố gắng gia tăng thủ đắc cho mình nhiều thứ mới lạ mỗi ngày. Đúng thế, sống ở đời, ai cũng phải cố gắng trau dồi thêm tri thức, tập tành nhân đức, học hỏi thêm chuyên môn, lao động thêm giờ, đầu tư sinh lợi nhiều hơn, thu góp tiền của và vui hưởng cuộc sống hơn. Có nghĩa là ai cũng phải luôn phát triển và sinh lợi càng nhiều càng tốt. Đời sống là cuộc phấn đấu không ngừng để tiến thân. Nhưng muốn tiến lên, chúng ta lại phải bỏ bớt, thon gọn và thảnh thơi. Muốn vươn cao, chúng ta cần cắt bỏ những rườm rà níu kéo, giống như cây măng tre càng vươn cao càng nhỏ gọn.
Tiên tri Giêrêmia được Thiên Chúa chọn gọi từ trong bụng mẹ để thi hành sứ mệnh của Chúa. Ngay khi còn trẻ tuổi, ông đã được Chúa trao sứ vụ mời gọi canh tân khi lòng dân đang bị xa lạc đường lối Chúa. Ông sợ hãi và từ chối thi hành sứ vụ. Ông không muốn chuốc lấy sự khốn khó khi phải đối diện với nhóm dân bất tuân phục. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu thiêu đốt trái tim nhiệt thành, ông không thể trốn lánh và chối từ. Ông đã tâm sự: Tôi nói rằng: Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa (Giêr 20, 9). Ơn Chúa đã thúc bách ông vượt qua mọi gian khó. Tiên tri Giêrêmia đã phục vụ trong sứ vụ gần 40 năm tại Giêrusalem (627-587 AD).
Ai cũng có kinh nghiệm, muốn từ bỏ một thói xấu, thật là không dễ chút nào. Những cám dỗ hướng về điều xấu trong tư tưởng, lời nói và việc làm luôn khêu gợi, thí dụ: Ước muốn nhục dục, tham lam tiền bạc, ghen tị, nóng giận, mê bài bạc, nghiện ngập hút sách, trộm cướp, chời bời trác táng, ăn nói tục tĩu và ngồi lê mách lẻo… Những thói hư tật xấu này đã nhiễm sâu trong lòng rất khó từ bỏ. Nó cần sự giác ngộ cao và có ý chí kiên cường tự thắng mình. Đôi khi có người đã không ngại thổ lộ rằng những thù hằn và ghen ghét trong lòng sẽ không bao giờ bỏ qua, nhưng sẽ ghi nhớ suốt đời để đem xuống nấm mồ. Những cách hành xử như thế là thiếu sự khôn ngoan, vì tự mình đã đeo thêm hòn đá nặng vào cuộc lữ hành trần thế. Không may, họ đang bị vuột mất sự tự do để vươn tới trên con đường trọn lành. Cũng có những người hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự nghiện ngập và mất đi tự chủ. Họ không thể vượt qua được sự yếu đuối của chính mình. Thật thế, sự từ bỏ về vật chất đã khó, từ bỏ về đời sống tinh thần còn khó hơn nhiều. Từ bỏ mình cần có sự khiêm hạ trong lòng. Từ bỏ là trút bớt những bận vướng cuộc đời. Càng từ bỏ, chúng ta càng được tự do và thanh thản hơn.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo (Rm 12, 2). Phaolô mời gọi chúng ta hãy canh tân lòng trí để tìm biết thánh ý Chúa. Ý Chúa cao vượt trên ý muốn của phàm nhân. Con người muốn hướng thiện cần thiết phải từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Biết rằng vâng theo thánh ý Chúa, chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Từ bỏ những sự mê lầm của tội lỗi, những thói đời xấu xa và dục vọng thấp hèn. Chúa Giêsu mời gọi rằng ai muốn theo Chúa, không những chỉ từ bỏ mình, mà còn vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Vừa từ bỏ, vừa lãnh nhận. Đã có rất nhiều người lắng nghe lời Chúa và thực hành trong đời sống. Trải qua lịch sử của Giáo Hội, chúng ta biết có rất nhiều người đã dám từ bỏ của cải và danh vọng thú vui trần đời để bước theo Chúa.
Trong môi trường huấn luyện, đặc biệt trong các Dòng Tu, đòi hỏi sự vâng lời trong việc từ bỏ ý riêng. Vâng Lời là một nhân đức. Vâng nhận ý của bề trên như là ý Chúa trong sứ mệnh phục vụ tha nhân. Vâng lời bề trên cũng là một thách thức trưởng thành. Dĩ nhiên trong cuộc sống chung, vâng lời không luôn dễ dàng, vì đôi khi có những cách hành xử quá ích kỷ, thiên vị và nhỏ nhen. Ngày nay, có nhiều trường hợp đôi bên đối thoại và thông cảm với nhau, hơn là kiểu vâng lời tối mặt. Trong Dòng Tu, đức Vâng Lời là một trong ba lời khấn trọng của các tu sĩ. Điều này nói lên sự từ bỏ ý riêng một cách cao thượng. Người khiêm nhượng là người biết vâng lời. Vâng lời là chấp nhận ý của người khác trọng hơn ý riêng mình. Đòi hỏi sự hy sinh hãm mình cao độ. Các tu sĩ đã tự thánh hóa cuộc đời tu trì của mình bằng các nhân đức tốt lành. Họ đã bước cao hơn một bậc trên đường trọn lành.
Ông Phêrô rất nhiệt tình trong sứ mệnh truyền rao Tin mừng. Đôi khi ông đã phạm lỗi lầm và suy tưởng theo sự khôn ngoan của người đời. Phêrô cũng muốn có những vinh quang trần thế. Chúa Giêsu từng bước mạc khải cho các môn đệ con đường mà Chúa sẽ đi qua. Con đường tình yêu của chông gai và đau khổ. Phải qua đau khổ thập giá mới có thể bước vào vinh quang chân thật. Chúa Giêsu đã quở trách ông Phêrô: Chúa Giêsu quay lại bảo Phêrô rằng: Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người (Mt 16, 23). Thánh ý và đường lối của Chúa khác hẳn ý muốn của con người. Chúa Giêsu chọn con đường khiêm hạ và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã từ bỏ mọi vinh quang để chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Chúa Giêsu đã hoàn tất hy tế thập giá bằng con đường hy sinh từ bỏ và vâng phục.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và con đường vâng phục tự hiến. Muốn vào qua cửa hẹp, chúng con phải buông bỏ những thứ lỉnh kỉnh bận vướng cuộc đời. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.
23. Con đường thoát tục tòng Thiên -AM Trần Bình An
Linh mục Tây Ban Nha Miguel Pajares, người đầu tiên được điều trị Ebola bằng vắc-xin Zmapp chưa thử nghiệm trên người, đã qua đời ngày 12-8-2014 ở TP Madrid, sau 5 ngày được đưa ra khỏi Liberia về Madrid bằng máy bay để được các chuyên gia chăm sóc. Vị linh mục 75 tuổi nhiễm Ebola khi đang điều trị cho các bệnh nhân ở Liberia.
Tình trạng sức khỏe của Lm Pajares được các chuyên gia điều trị mô tả là ổn định khi về tới Tây Ban Nha. Nhiều người cho rằng ngài được điều trị bằng Zmapp, một loại thuốc thử nghiệm được tin sẽ mang lại khả năng phục hồi “kỳ diệu,” do hai nhân viên cứu trợ người Mỹ mang đến. Được biết, thi thể vị linh mục đã được hỏa táng trong ngày 12-8 để tránh việc virus lây lan.
Lm Miguel Pajares đã nhiệt thành truyền giáo tại châu Phi suốt 50 năm qua. Ngài bị nhiễm virus Ebola trong khi chăm sóc những người bệnh ở vùng dịch tại bệnh viện Saint Joseph Hospital ở Monrovia, thủ đô Liberia, nơi nhóm từ thiện Công giáo của Lm hoạt động.
Linh mục Pajares được đưa về quê hương bằng một chiếc máy bay quân đội và bị cách ly sau khi phát hiện dương tính với virus Ebola. Các bác sĩ đã sử dụng một chiếc lồng vô trùng đặc biệt để di chuyển Lm Pajares nhằm ngăn ngừa virus có thể phát tán. Được đưa về Tây Ban Nha cùng Lm Pajares là một nữ tu sỹ khác, mặc dù không nhiễm virus nhưng cũng phải chịu cách ly.
Zmapp là một loại kháng thể được bào chế từ cây thuốc lá, có tác dụng thúc đẩy cơ thể sản xuất ra chất kháng lại virus Ebola. Thuốc do công ty của Mỹ sản xuất, chưa được thử nghiệm trên người, linh mục Miguel Pajares là người đầu tiên sử dụng và hiệu quả điều trị trong thực tế chưa được xác định. Sau cái chết của vị linh mục, mối lo ngại hiệu quả của Zmapp ngày càng tăng lên.
Hiện khoa học vẫn chưa tìm ra cách điều trị thông thường hoặc vắc-xin tiêu diệt virus Ebola nên sự chú ý dồn vào Zmapp. Được biết, loại thuốc này được sản xuất rất chậm và chỉ 12 liều đã được làm ra, nhà sản xuất cho biết nguồn thuốc dự trữ hiện đã cạn kiệt. (Reuters, AP, Daily Mail)
Linh mục Miguel Pajares đã hy sinh gần trọn cuộc đời, trung thành theo Chúa Giêsu, bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu sau khi trách mắng ông Phêrô, ngăn cản cuộc chịu nạn, Người tuyên bố điều kiện theo chân Chúa.
Xả kỷ vị tha
”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình,..” Hy sinh, không kể chi đến mình, quên mình, dấn thân, chuyên tâm phục vụ vô vị lợi người khác, giúp đỡ, chia sẻ, che chở, từ thiện, bác ái, an ủi những người nghèo khó, cô quả, khuyết tật, cơ nhỡ, không phân biệt thân sơ, bạn thù.
Tuy nhiên điều kiện tiên quyết theo Chúa là từ bỏ bản thân, xả kỷ, không thể nào dễ dàng, bao lâu chưa vượt qua, chưa chế ngự được bản thân trước bản năng sinh tồn lấn lướt, trước bản ngã vị kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, trước bản tánh chất chứa tam độc tham, sân si.
Thánh Phaolô thẳng thắn vạch trần nếp sống thực dụng, sa đọa, cám dỗ, ràng buộc, cản trở, khó dễ những ai muốn đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu: Có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: Chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. (Pl 3, 19-20)
Bĩ cực thái lai
”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.“ (Mt 16, 24) Đức Giêsu xuống trần không phải xua đuổi sự dữ ra khỏi thế gian, không tránh né, từ chối, mà chấp nhận, thánh hóa, coi sự dữ như là phương tiện hữu ích để rèn luyện con người trở nên tốt lành hơn, một sự chuyển hóa cam go, thầm lặng và hữu ích, sinh hoa kết trái gấp mười, gấp trăm. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga, 15, 2)
Sau bước tiên khởi từ bỏ bản thân theo Chúa, bước tiếp theo là chấp nhận, gánh vác trách nhiệm, bổn phận, dù khó khăn, khổ sở, thách đố, hiểm nguy. Đồng thời mạnh dạn dấn thân, xả thân phục vụ, như con đường Chúa đã đi trước làm gương. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là đề phục vụ và hiến dâng mạng sống làm gia cứu chuộc muôn người.” (Mt 20, 28)
Những đau khổ thách đố lại là niềm vinh dự, vì làm con cái Thiên Chúa, tất cả tín hữu Kitô hân hạnh được “Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô, vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.“ (Rm 8, 17)
Thoát tục tòng Thiên
Trả lời cho ông Phêrô thắc mắc sẽ được gì khi từ bỏ tất cả để theo Chúa, Ðức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau. (Mc 10, 28-30) Nghịch lý bỏ là được, mất là còn, chết là sống mãi luôn khó chấp nhận với thế gian, nhưng là chân lý độc đáo của người theo Chúa.
Chọn theo Chúa với thái độ dứt khoát đoạn tuyệt, từ bỏ, lánh xa nếp sống theo thế gian, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra, đâu là là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 1-2)
Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
Đừng điều tra “tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó Chúa dùng thánh hóa con.
Đừng than thở với bất cứ ai. Chúa Thánh Thể, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
Khi đã qua đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói “Alleluia!” (Đường Hy Vọng, số 700)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa luôn nhắc nhở chúng con biết từ bỏ bản thân, ý riêng, cùng những cám dỗ vị kỷ, tham lam, danh lợi, để có thế lắng nghe và can đảm thực hành Thánh Ý Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã biết xả kỷ, quên mình để nghe theo và thực hành Thánh Ý Chúa. Xin Mẹ dạy cho chúng con biết từ bỏ mọi sự để trung thành theo Chúa luôn mãi. Amen.
24. Theo Thầy Giêsu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.
Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.
Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.
Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước, rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự, nếu họ mất vì Thầy Giêsu, thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.
Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải "đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải "từ bỏ chính mình", tức là "tư tưởng của loài người", mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy "anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1).
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường từ bỏ.
Từ bỏ là một quy luật.
- Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ, thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
- Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó, cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ... có thế mới phát triển dần thành người lớn.
- Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.
- Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.
Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia... mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).
Làm môn đệ Thầy Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải "từ bỏ mình". Cái phần "mình" được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần "Chúa" được gia tăng bấy nhiêu. "Từ bỏ mình" hoàn toàn thì sẽ trở thành "Kitô khác" hoàn toàn.
Như thế, từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường sự sống
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết, mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục, mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ, mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.
Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản "mất mạng sống mình vì Thầy". Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng "nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là "mất mạng sống mình vì Thầy" (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên: "Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng" (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để "ngày thứ ba sẽ chỗi dậy" (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ "tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25), vì Thầy là "sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là "con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất, mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại, để được tương lai. Mất đời này, để được đời sau. Mất phàm tục, để được thần thiêng. Mất tạm bợ, để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
Cầu nguyện
"Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen." (Mẹ Têrêxa Calcutta).
25. Mục đích của đời sống - Lm. Mark Link, SJ.
Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17 tháng Tám, 1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người.
Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.
Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng. Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật. Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh.
Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ.
Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối.
Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó.
Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu.
Lúc đầu ông tưởng là tận thế. Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra.
Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì. Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào.
Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu. Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức.
Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất-vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi "game".
Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc. Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi. Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên.
Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là, "Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa." Ông Yuksel trả lời, "Bây giờ thì không còn quan trọng nữa, vì bây giờ mọi sự sẽ khác biệt."
Sau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: "Đây là cuộc đời thứ hai của tôi. Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy." Và rồi ông khóc. Giống như tiếng khóc của đứa bé mới lọt lòng mẹ.
Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta. Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.
Điều này đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Trong bài Chúa Giêsu nói rằng, "Nếu ai trong các con muốn đến với Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá của con và theo Thầy."
Ở đó chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ về sự ngu dại khi giành được thế gian nhưng đánh mất điều quan trọng nhất trong tất cả: là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
Sau cùng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói: "Con Người sẽ thưởng cho họ tùy theo hành động của họ."
Hãy trở về với câu chuyện của Yuksel. Khởi đầu tưởng rằng là một thập giá nặng nề, nhưng sau cùng lại là một phước lành lớn lao.
Nó đã dạy cho ông và thúc giục ông sống thời gian còn lại theo một phương cách xứng hợp với Chúa, và với suy nghĩ của Thiên Chúa chứ không phải của Satan.
Cũng giống như trận động đất đã thay đổi cuộc đời ông Yuksel, bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắm đến một kết quả tương tự cho chúng ta--tối thiểu cho một số người trong chúng ta. Có lẽ, như Phêrô, lối suy nghĩ về đời sống của chúng ta trở nên nguy hiểm hơn và càng giống với kiểu cách suy nghĩ của Satan hơn là của Thiên Chúa.
Có lẽ, giống như Phêrô, chúng ta đang mất dần ý nghĩa của đời sống. Một đời sống không hoàn toàn vì vui thú và không muốn tránh càng nhiều thập giá càng tốt.
Đúng ra, đó là một đời sống để được phần thưởng là sự sống đời đời. Đó là lối sống trong những năm còn lại của chúng ta ở đời này để giúp chúng ta gặt được phần thưởng là sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
Rõ rệt hơn nữa là vác thập giá hằng ngày của chúng ta và chấp nhận các thập giá ấy trong tinh thần mà Chúa Giêu đã chấp nhận thập giá của Người.
Và đây là phần đáng kể. Một khi chúng ta bắt đầu sống như Chúa Giêsu đã dậy, chúng ta sẽ khám phá ra điều mà Yuksel đã tìm thấy.
Nó sẽ thay đổi mọi sự, và bỗng dưng, điều tưởng như một thập giá to lớn lại trở nên một ơn sủng lớn lao trong đời này và đời sau.
Hãy kết thúc với câu chuyện để nói lên điều chúng ta muốn nói:
Một vài năm trước đây, Gene Stallings đã huấn luyện đội banh trường đại học Alabama để thắng được 22 trận và được coi là trường đứng hạng hai về "football". Nhưng không phải biến cố này, mà là một biến cố khác, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời của ông. Đó là việc sinh hạ đứa con trai, Johnny.
Khi bác sĩ nói với ông Stallings rằng Johnny sẽ bị hội chứng Down (chậm phát triển) và có lẽ không sống lâu hơn bốn năm, ông đã ngất xỉu.
Ba mươi năm sau, Johnny vẫn còn sống. Nói về ảnh hưởng của Johnny trong cuộc đời, ông Stallings cho biết:
"Cháu rất đặc biệt! Tất cả sự yêu thương của cháu thì vô điều kiện. Cháu không đạt thành tích gì. Cháu hoàn toàn vị tha."
Trong rất nhiều dịp, ông Stallings tuyên bố rằng cho dù có thể đảo ngược mọi sự và bắt đầu lại với một đứa con không bị bệnh Down thì ông cũng không muốn như vậy. Ông nói, "Tôi cảm nhận được rất nhiều ơn lành."
Điều mà ông Stallings nghĩ rằng sẽ là một thập giá lớn lao trong đời thì lại trở nên một ơn sủng lớn lao-cả ở đời này và ngay cả ở đời sau.
Đây là Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay. Đây là Tin Mừng mà chúng ta cử hành trong phụng vụ này.
Đó là Tin Mừng khi chúng ta vác thập giá của mình và theo Chúa Giêsu, có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Nhưng nó sẽ đem lại một bình an và phước lành mà chưa bao giờ chúng ta tưởng tượng ra hay hy vọng tới--và ngay cả dám mơ tưởng đến.
26. Thập giá.
Người môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay có thể trở thành một Satan, một thứ kỳ đà cản mũi không cho Ngài thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó như Phêrô ngày xưa.
Thực vậy, chúng ta thường hay quên đi một cách cố tình hay vô ý, lời mời gọi của Chúa Giêsu:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Chúng ta có thể dễ dàng loại bỏ sang một bên tư tưởng của Thiên Chúa để chạy theo tư tưởng của loài người, để rồi cuối cùng đánh mất bản chất người Kitô hữu. Môn đệ không trọng hơn thày. Nếu Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và thập giá vì trung thành với sứ mạng phục vụ con người trong sự thật và tình thương, thì người môn đệ của Ngài cũng phải dám liều mạng sống mình vì Ngài, cũng như vì anh em, thì mới hy vọng tìm lại được mạng sống mình.
Đường lối Chúa Cha đã chỉ cho Đức Kitô thực hiện dường như không đi đúng với cái lý luận thường tình của con người được phản ảnh qua thái độ của Phêrô. Con người dễ dàng chọn theo chiến thuật của Satan, mau mắn xử dụng của cải, danh vọng và quyền lực để thực hiện mọi ý đồ của mình. Và con người cũng dễ viện cớ phục vụ vinh quang Thiên Chúa: Xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, để xây dựng sự nghiệp của riêng mình.
Trái lại, qui luật sống của chúng ta, những người môn đệ Chúa, được thánh Phaolô xác quyết: vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Đừng lầm tưởng rằng đó là một tâm trạng bệnh hoạn, ưa chuộng khổ đau. Dù muốn hay không, thập giá vẫn có mặt trong cuộc sống con người, dưới những danh nghĩa khác nhau, như đau khổ, bệnh tật, tai nạn, cô đơn… nhưng thập giá không chỉ là chịu đựng, chấp nhận một cách thụ động. Vác thập giá còn là một chọn lựa tích cực, như Chúa Giêsu đã từng tâm sự: Thày sẽ phải chịu một phép rửa và lòng Thày khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất. Phép rửa ấy chính là cái chết trên thập giá.
Thế nhưng trong cuộc sống, chúng ta có biết bao sự chọn lựa đi ngược lại với thập giá, tương tự như hành động của Phêrô lẩn trốn khỏi thành Rôma đang khi hoàng đế Nêrôn ra tay bắt đạo. Và trên đường, Phêrô đã gặp Chúa Giêsu đi ngược chiều. Phêrô lên tiếng hỏi: Quo vadis Domine. Lạy Thày, Thày đi đâu đấy? Chúa Giêsu trả lời: Ta đi vào thành Rôma để chết thay cho con.
Người môn đệ Chúa vác thập giá mình mà theo Chúa khi đứng về phía con người, phục vụ cho sự sống, cho tình thương, cho sự thật dù có phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Thập giá sẽ không đè bẹp con người đi theo Chúa, bởi vì chính Ngài tự nguyện làm một Simong ghé vai vác đỡ, đồng thời chính thập giá sẽ nâng chúng ta lên và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Bởi vì, thập giá đã được đóng lên từng việc làm, sẽ đảm bảo chất lượng yêu thương, đúng với nguyên mẫu của Chúa Giêsu.
27. Mất trước được sau – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.
Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.
Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.
Con đường của Chúa là con đường từ bo. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.
Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.
Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.
Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?
2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?
3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?
28. Sống đức tin
Như chúng ta đã biết: Với lời tuyên xưng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tấn phong lên ngôi vị giáo hoàng đầu tiên, hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm nền tảng của Giáo Hội: Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời. Sự gì con cầm buộc ở dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, còn sự gì con cởi mở ở dưới đất thì trên trời cũng cởi mở.
Thế nhưng cũng chính vị giáo hoàng đầu tiên này sau đó ít phút, đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Thực vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó mà Người sẽ phải chịu tại Giêrusalem, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy. Nhưng Chúa Giêsu đã nghiêm khắc nói với Phêrô: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta, bởi vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.
Thái độ nghiêm khắc của Chúa Giêsu làm cho chúng ta ngạc nhiên, thế nhưng biết đâu lúc này Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta như vậy. Bởi vì chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, trên môi trên miệng nhưng chưa thực sự sống đức tin của mình. Đức tin của chúng ta chưa được tôi luyện và trưởng thành trong đau khổ, trong gian nan thử thách. Chúng ta vui vẻ mở rộng vòng tay đón nhận hạnh phúc và may mắn, nhưng lại vội vã chạy trốn trước những khổ đau và bất hạnh. Đối với chúng ta thập giá không còn là một dấu chỉ của ơn cứu độ, nhưng là dấu chỉ của một sự điên khùng và dại dột, một cái gì cần phải xa tránh. Càng tránh xa được bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Bởi vì tư tưởng của chúng ta chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.
Thực vậy, tư tưởng và lập trường của Chúa Giêsu thật rõ ràng và dứt khoát: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta. Chúa Giêsu cũng đã đưa ra hai điều kiện và hai kết quả sóng đôi với nhau: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm thấy. Dĩ nhiên, đây không phải chỉ là sự sống phần xác, chúng ta có bổn phận phải duy trì, phải phát triển nhưng không được lạm dụng bằng những vui thú quá trớn. Mà hơn thế nữa, còn là sự sống phần hồn của bản thân chúng ta và của những người chung quanh chúng ta. Để sự sống ấy được phát triển, chúng ta phải tin cậy và phó thác vào Chúa, nhất là chúng ta phải thực thi những điều Ngài truyền dạy: Từ bỏ mình và vác thập giá là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
Tuyên xưng đức tin là một chuyện, còn sống đức tin là một chuyện khác. Giữa hai việc làm ấy là cả một con đường dài, nhiều cam go và thử thách. Thế nhưng chúng ta đã thực sự sống đức tin của mình hay chúng ta chỉ mới tuyên xưng trên môi trên miệng để rồi cuối cùng chúng ta sẽ bị Chúa Giêsu quở trách như Phêrô ngày xưa: Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khỏi mặt Ta.
29. Đường lối Chúa - Lm Vũ Đình Tường
Phêrô muốn đi theo con đường Đức Kitô hướng dẫn nhưng khi Đức Kitô nói về những thách đố, chông gai trong việc bước theo Phêrô trở nên ngần ngại, lo lắng. Đức kitô cho biết để trở thành môn đệ chân chính, đích thực điều tiên quyết là phải chấp nhận ‘thí bản thân mình’ cho tha nhân. Chính việc ‘thí thân’ này làm cho Phêrô trở nên khắc khoải bởi ông không thể mường tượng ra được việc ‘thí thân’ đòi hỏi những gì. Đức Kitô nói rõ hơn đó là vác thập giá bước theo. Cùng tâm trạng với chúng ta Phêrô chân thành muốn theo nhưng lại sợ thử thách, chông gai và vác thập giá.
Không có thập giá, không có sự sống lại thì việc hy sinh bản thân trở nên vô nghĩa. Có sống tất nhiên có chết vì thế mỗi ngày đều có chết một cách nào đó. Chết đây không thuần nghĩa chết về thể xác mà chết bằng nhiều cách khác nhau dưới dạng hy sinh. Có thể là chết hay hy sinh những đòi hỏi bất chính, tham vọng hay ích kỉ cá nhân để mang lợi ích cho người khác. Có thể là hy sinh ước vọng hay suy tư riêng để mang bình an cho gia đình. Có thể là hy sinh tập quán, đam mê xấu để trưởng thành trong nhân đức. Có thể là hy sinh tính kiêu căng, tự mãn để tâm linh phát triển. Chúng ta tự do trong việc quyết định đi theo Đức Kitô hay theo đường lối riêng tự chọn, đường lối thế gian. Chọn theo đường lối thế gian cũng vẫn không tránh khỏi hy sinh nhưng những hy sinh đó sẽ chết vĩnh viễn; trong khi chọn hy sinh hiến thân chết theo đường lối Chúa thì những hy sinh đó sẽ được Đức Kitô làm cho sống lại muôn đời bởi Ngài sống lại từ cõi chết và không bao giờ chết nữa nên chọn hy sinh chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài kết hợp với sự chết của Ngài và khi sống lại Ngài cũng làm cho sụ chết của chúng ta sống lại vĩnh cửu.
Kitô hữu tin rằng sự sống vĩnh cửu quan trọng hơn cuộc sống tạm bợ thế trần. Một số người lại chối bỏ sự sống vĩnh cửu tin rằng không có sự sống vĩnh cửu. Điều họ khẳng định dựa vào khôn ngoan lí luận của con người. Kitô hữu tin vào sự sống vĩnh cửu bởi niềm tin đó không đặt trên quan điểm lí luận sản phẩm của khối óc mà đặt căn bản trên Lời Chúa, trên giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài phán:
Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin ta sẽ không chết bao giờ Gn 14,7.
Tuyên bố trở thành môn đệ Đức Kitô chỉ là bước đầu trong việc đi theo. Đi theo đòi hỏi phải đi theo đường lối Chúa. Đi là tiến tới, không phải tiến lui, giật lùi. Tiến tới đây là tiến tới trên đường nhân đức, tiến lên trong việc học nên thánh mỗi ngày trong cuộc sống. Đức Kitô tuyên bố Ngài là đường nhưng con đường đó không được vẽ ra rạch ròi như trên bản đồ mà là hướng đi. Bởi đi theo hướng nên rất dễ sai đường, trật hướng. Sai đường xảy ra khi ta quá tự tin vào khả năng chuyên môn của ta hay của tha nhân. Không những đã sai mà còn là vật cản, ngăn đường, chặn lối đường ta tiến đến với Chúa.
Mấy phút trước Đức Kitô khen Phêrô và đặt Phêrô lãnh đạo Giáo Hội và trao chìa khoá nước trời cho Phêrô. Mấy phút sau Đức Kitô khiển trách Phêrô gây nguyên cớ ngăn cản chương trình cứu độ của Chúa. Phêrô với tất cả tấm lòng chân thành yêu mến không muốn điều gì xấy xảy ra cho Đức Kitô. Khi Đức Kitô tâm sự cùng các ông Ngài sẽ vác thập giá và chịu đóng đanh chết trên thập tự, Phêrô nêu í kiến can ngăn Đức Kitô tránh xa thập giá. Đức Kitô cho Phêrô biết điều ông suy nghĩ xem ra có vẻ tốt lành nhưng không phải đến từ trời cao mà đến từ trần thế. Ý kiến trần thế của Phêrô vấp phải hai lỗi lầm. Thứ nhất Phêrô không hiểu rõ sứ mạng của Đức Kitô. Sứ nạng đó là hy sinh chết cho người mình yêu. Thứ hai Phêrô cũng không thể mường tượng ra được đòi hỏi chết bằng cách hy sinh của người lãnh đạo trong Giáo Hội Chúa. Chết bằng cách hy sinh không có nghĩa là trở thành cuồng tín tôn giáo mà là dấu chỉ cho biết tình yêu chân chính, đích thực gắn liền với hy sinh.
30. Nghị lực của người Công giáo phát xuất từ đâu?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Sau khi đã làm vài phép lạ lẫy lừng, trong đó có phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau lúc đã khiêu khích Phêrô tuyên bố: “Thày là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho rằng các môn đệ đã có thể nghe được những lời tiên báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn của Người, Người biết là các môn đệ sẽ không hiểu một cách rõ rệt, nhưng họ cũng sẽ nhận ra ý nghĩa các lời Người vừa đủ để hứng chịu một sự xung đột não trạng của họ, khiến họ trông cậy vào một Đức Kitô làm vua với nhiều đắc thắng trần thế. Não trạng ấy sẽ bám chặt lấy trí óc của các ngài cho đến ngày Chúa sống lại. Cần phải có ngày Hiện xuống để mở lòng họ, giúp họ nhận biết Chúa Giêsu cách đích thật. Trong lúc chờ đời, Chúa đã chuẩn bị họ đón nhận một sự mạc khải làm họ hoang mang nhiều nhất: Ngài, Đức Giêsu, sẽ chịu đau khổ, sẽ chết và sẽ sống lại, phản ứng tức thời của họ không có hơi hướng đề phòng. Họ đã phát biểu qua tiếng nói của Phêrô: ‘Điều đó, lạy Chúa, không thể nào có được’. Chúa Giêsu trả lời như Người đã trả lời với ma quỷ trong sa mạc: ‘hãy đi xa khỏi mặt Ta’. Chúa Giêsu nghĩ tới cái định mệnh sẽ dẫn Người đến thập giá, Người áy náy sợ hãi. Bởi lẽ Người sợ hãi nên Người cực lực bác bỏ những gì cám dỗ Người thay đổi ý hướng. Người nhất định gìn giữ nguyên vẹn sự gắn bó của Người với tư tưởng của Thiên Chúa, tức là với ý muốn của Cha Người. Tất cả những gì đi ngược lại hiện ra như một sự cám dỗ và Người cự tuyệt một cách dứt khoát. Trước lúc hấp hối trong vườn cây dầu Chúa Giêsu đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu trong bản tính nhân loại của Người. Đọc qua chúng ta nên lưu ý đến tính hay thay đổi của lòng người như các môn đệ đã cho thấy. Sau khi tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô”, các môn đệ đã từ chối không chấp nhận điều mà Chúa Kitô nói với họ.
1) Tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra quyết liệt trước mắt các môn đệ là những người có ý ngay lành và lòng tốt nên tìm cách thay đổi ý hướng Người trên con đường đưa tới cuộc Khổ nạn? Bởi vì nơi Người là Con Thiên Chúa, thánh ý Thiên Chúa khiến ý muốn của loài người vượt qua những giới hạn riêng của mình. Mầu nhiệm về con người của Chúa Kitô là Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, không thể nào chúng ta hiểu thấu được. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng cái nghị lực của Chúa do bản tính Thiên Chúa của Người đã hiến cho Chúa Giêsu một cường độ đặc biệt trong ý muốn nhân loại của Người, cũng như sự nhã nhặn thiêng liêng đã hiến cho cảm giác của Người một khả năng vô biên để chịu đau khổ. Không biết chúng ta có suy nghĩ cho đủ rằng sự trung thành với đời sống công giáo chỉ có thể có nếu chúng ta thông công với nghị lực thiêng liêng của Chúa Giêsu? Riêng chúng ta, chúng ta bị đặt trước mọi cơn cám dỗ, có những cơn cám dỗ gây ra do sự yếu đuối của chúng ta và những cơn cám dỗ từ bên ngoài vào kể cả từ phía ma quỷ. Chúng ta chỉ có thể xua đuổi một cách mạnh mẽ, nếu chúng ta thông phần vào sức mạnh của chính Chúa Kitô qua lời cầu nguyện, qua các phép bí tích và qua đức bác ái.
2) Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa nhưng là của loài người. Câu trả lời nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với thánh Phêrô làm chúng ta phải suy nghĩ. Nó đặt ra vấn đề đức tin xác thực. Thực vậy theo lẽ thông thường và cũng là điều Thiên Chúa mong muốn chúng ta phải suy nghĩ về đức tin. Một đức tin ý thức và sống động phải là một đức tin được đón nhận cách sáng suốt. Nơi nhiều người trong thế giới của chúng ta hiện nay, đức tin tiến triển trong sự tìm kiếm. Lúc đó một câu hỏi được đặt ra là liệu khi suy nghĩ về đức tin, chúng ta có khuynh hướng thu hẹp đức tin trong cách thức suy nghĩ của loài người hay là chúng ta biết lo lắng để uốn nắn cách thức suy nghĩ của loài người cho phù hợp với lời giáo huấn, với luật lệ và lý tưởng của đức tin? Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà ngay cả trong Giáo Hội người ta thích những tư tưởng của loài người, hơn là tư tưởng của Thiên Chúa. Xin cứ nhìn nhận đó là một sự cám dỗ muôn đời. Điều ấy có nghĩa là các Kitô hữu của mọi thời đại, kể cả các Kitô hữu ngày nay, đã và đang phải chống lại sự cám dỗ.
31. Từ bỏ mình, vác thập giá mình
Đọc đoạn Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy tư tưởng chính yếu được đúc kết thành những chữ: từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu.
Thật vậy, cuộc sống hằng ngày cho chúng ta một kinh nghiệm quá quý giá. Đón là chọn lựa. Cuộc sống là một chuỗi những sự chọn lựa. Chọn lựa đi đôi với từ bỏ. Chọn lấy cái này thì đương nhiên chấp nhận từ bỏ cái kia. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Vì thế, chúng ta không cảm thấy ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu bảo chúng ta: chọn lựa theo Chúa thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình và đi theo Chúa. Xem ra ba điều kiện này hoàn toàn đi đôi với nhau. Cái này không thể thiếu cái kia và ngược lại. Chúng ta thử nghĩ xem: từ bỏ mình, vác thập giá mà không theo Chúa Giêsu cũng không được. Hay theo Chúa Giêsu mà không tử bỏ mình thì càng không được hơn nữa. Do đó cách tốt nhất cho người môn đệ là từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và đi theo Chúa Giêsu. Chúng ta xem xét những cụm từ này.
Trước hết, chữ từ bỏ mình nghĩa là từ bỏ những gì là của mình, từ bỏ những gì liên hệ thậm chí là gắn bó mật thiết với mình, nó là từ bỏ những gì trở nên chính mìn hay người ta gọi là cái tôi của mình. Để từ bỏ mình thì tôi phải biết mình, biết những gì làm cho tôi bám víu, trì hoãn, không phát triển được đời sống của mình. Lẽ thường, từ bỏ cho ta một cảm giác thật khó chịu, khó lòng và chắc chắn khó khăn. Khó chịu là bởi vì cuộc sống đã làm cho mình trở nên cái nếp, trở nên thói quen nên nếu có thay đổi thì làm cho ta khó chịu. Khó lòng là bởi vì những cái đi theo mình, những sản phẩm mình tạo ra mà lại từ bỏ à! Nếu không có ơn Chúa giúp, ta không muốn từ bỏ mình đâu! Hơn nữa, nếu từ bỏ những thứ đã có sẵn mà làm theo cái mới như Chúa Giêsu đòi hỏi thì quả thực là rất khó khăn.
Tư tưởng của con người là muốn mọi sự dễ dãi, tiện nghi, không vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay tôi sẽ thấy rõ điều ấy. Khi xem tivi, tôi muốn ngồi một chỗ và dùng bộ phận điều khiển từ xa, dùng cái Remote, khỏi mất công đi lại điều chỉnh. Hay nếu ngại nấu ăn thì đã có mì ăn liền, có cháo ăn liền, có cà phê uống liền khỏi mất công pha chế. Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không phải leo lên từng bậc vất vả...Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không phải là điều xấu. Trái lại, nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa học để phục vụ đời sống con người nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng tâm lý thích dễ dãi ấy vào chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được Nước Trời một cách dễ dàng thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy sinh bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm mình, giữ đạo một cách tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được...như thế là tôi còn quá ấu trĩ. Thỉnh thoảng, thậm chí là lâu lâu đi xưng tội một lần, cho ổn "tâm lý" mà thực ra chưa chuẩn bị kỹ càng, điều đó càng cho thấy đức tin yếu kém, không ý thức đó chính là bí tích, là sự sống đức tin, là niềm an bình hạnh phúc của người Kitô hữu.
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi tôi từ bỏ mình hay đúng hơn Ngài muốn tôi trở lại con người mình, nhìn thấy rõ thân phận của mình, thân phận là một con người, một người con đã được cứu chuộc. Một nhân vị cao quý lắm thay! Nhìn nhận để thay đổi lối sống, thay đổi thái độ ứng xử, thái đổi hành vi và tập quán, thay đổi thói quen ấu trĩ, sẵn sàng nghe và làm theo tiếng nói của Chúa, của lương tâm, của lề luật, của Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. và càng hơn nữa, tôi càng biết từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha như chính Chúa Giêsu đã làm (Mt 26, 39). Đó chính là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.
Kế đến, chúng ta nhìn xem thập giá mình. Mang thân phận con người, ai ai cũng có thập giá trong đời mình. Những trái ý, những thất bại...nó chi phối cuộc đời chúng ta. Có người nhìn những trái ý ấy chính là cái khổ, là nghiệp chướng,...Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhìn những điều đó chính là điều kiện tỏ lòng quý mến và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Con đường Chúa Giêsu đi là con đường vâng theo ý Chúa Cha, con đường vác khổ giá. Vì thế, người Kitô hữu không thể đi khác con đường Chúa Giêsu đã đi, phải bắt chước Chúa Giêsu, chẳng những chấp nhận vác khổ giá đời mình mà còn vui lòng vác khổ giá vì Chúa Kitô. Chúa Kitô đã qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Sau chặng đường vất vả khổ giá vì Chúa Kitô, chúng ta sẽ được vui sướng hạnh phúc giống như Ngài, vui bằng niềm vui của ngài, sống bằng sự sống chính Ngài đã khổ công, khổ nhọc đi qua và làm nên chứng tích tình yêu của mình.
Cuối cùng là bước theo Chúa Giêsu. Rõ ràng người kitô hữu được xác định phương hướng là bước theo Thầy. Hành trình trong cuộc đời này, tôi đi với Thầy Giêsu và đi theo Chúa Giêsu. Có Chúa cùng đồng hành, tôi sẽ bình an và vui vẻ tiến bước. Dù cuộc đời cò nhiều gập ghềnh sỏi đá, có nhiều thử thách, có nhiều cam go...nhưng lòng an vui vì tôi đang bước theo và bước với Chúa Giêsu.
Từ bỏ mình, vác thập giá mình và bước theo Chúa Giêsu là những yếu tố cấu tạo nên đời sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện mà Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện Ngài đề ra cho tôi. Thoạt nghe lúc đầu thì đây quả thật là những điều kiện không mấy dễ dàng thực hiện, tuy nhiên Chúa Giêsu loan báo khổ nạn và Ngài cũng loan báo phục sinh vinh quang. Và đó cũng là điều đã được thực hiện. Chắc hẳn ai ai cũng thích sống dễ dãi, tự do, hưởng thụ và theo lối sống của mình. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống cao cấp hơn, sống theo lời mời gọi tình yêu từ thượng giới. Đức Hồng Y Suhard đã nói: "Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa Kitô mà không có thánh giá và cũng đừng tìm thánh giá mà không có Chúa Kitô".
Mỗi lần cử hành Thánh Lễ là mỗi lần tái diễn hy tế trên thập giá của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con, khám phá ra từ mỗi thánh Lễ mà chúng con cử hành, đó là mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc, đồng thời chúng con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu, để nhờ thập giá mà chúng con kết hợp với Chúa Giêsu hằng ngày giúp chúng con đến đích điểm của cuộc đời là được phục sinh với Chúa Giêsu Kitô. Amen.
32. Đọc bản hợp đồng cho cẩn thận.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Người nào đã mua một bản bảo đảm chính trị hoặc ký kết một bản hợp đồng thì bản phải biết đọc kỹ mọi điều kiện, ngay cả những phụ chú chữ nhỏ nữa. Thiên Chúa đã ký kết hiệp ước với chúng ta và chúng ta gọi đó là một giao ước.
Hôm nay phụng vụ khẩn nài chúng ta đọc lại toàn bộ các điều kiện bản hợp đồng, nhưng bản hợp đồng này không có những phụ chú chữ nhỏ. Thánh Kinh kể lại những giáo huấn của Đức Kitô được trình bày trước mắt chúng ta bằng chữ in hoa, những gì chúng ta cần phải biết về giao ước của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ chú ý đến sự khác nhau giữa một bản hợp đồng với một giao ước. Một hợp đồng bị trói buộc bằng luật, một giao ước trói buộc bằng tình yêu.
Một cuộc hôn nhân hợp pháp là một bản hợp đồng. Bí tích hôn nhân là một giao ước. Một bản hợp đồng bị trói buộc bởi luật pháp. Giao ước thì trói buộc bằng tình yêu. Trong Giao ước mà Giáo hội bị trói buộc là tình yêu Thiên Chúa, vì giao ước ấy mà chúng ta trông mong đáp bằng tình yêu của chúng ta. Một bản hợp đồng, chỉ định bổn phận cho cả hai bên được in lên giấy, có hai bên cùng ký tên và đóng dấu. Giao ước của chúng ta được diễn ta trong một con người. Con người đó là Chúa Giêsu Kitô. Bên trong người là tình yêu của Thiên Chúa qua thần tính của Người. Cũng bên trong con người nhân loại của Người là tình yêu của chúng ta. Điều này có nghĩa là để hiểu biết Giao ước, trước tiên chúng ta phải nhìn lên con người của Chúa Giêsu Kitô.
Hôm nay trong Phúc âm, Chúa Giêsu chỉ định phần của Người trong giao ước. Người sẽ đi lên Giêrusalem. Ở đó Người sẽ chết vì chúng ta. Người sẽ đóng dấu giao ước, không phải bằng mực nhưng bằng chính máu của Người. Hãy chấp nhận tình yêu được diễn tả trong cái chết của Con Người, Thiên Chúa Cha sẽ đưa Người tới đời sống mới.
Còn phần của chúng ta trong giao ước là gì? Chúa Giêsu trình bày nó theo cách thế này: “Những người muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta”. Đây có vẻ như một loại tình yêu lạ lùng, phải vác thánh giá để đến chỗ viên mãn của đời sống, nhưng đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, dự định của người. Chúng ta gọi dự định của Người là mầu Nhiệm Vượt Qua.
Ngay cả nhà đại tiên tri Giêrêmia cũng phải tranh đấu dễ hiểu được sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài không do dự phàn nàn: “Ôi lạy Chúa, Chúa đã bịp con và con đã để cho mình bị bịp”, chỉ khi Thiên Chúa nhấn mạnh thì tiên tri Giêrêmia mới chấp nhận vai trò tiên tri của ông nhưng ngay khi ông nói tất cả sự thật thì ông liền bị chế nhạo và bắt bớ.
Thánh Phaolô được chúc phúc bởi một mạc khải đầy đủ, đã nắm bắt tốt hơn mầu nhiệm Vượt Qua này. Ngài khẩn nài những người Roma hãy dâng hiến thân xác mình như “một lễ hy sinh sống động thánh thiện và đáng cho Thiên Chúa chấp nhận”. Chính chúng ta được mời gọi tiếp bước theo sự khẩn nài này bởi việc tham dự thánh lễ của chúng ta. Trong lời nguyện Thánh Thể, đặc biệt là lúc thánh hiến, chúng ta hợp với Chúa Giêsu, vị linh mục của chúng ta trong việc hiến dâng chính mình trên thánh giá. Đó sẽ là cách thế của chúng ta để nói rằng, chúng ta muốn theo ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta, trong tất cả những gì cần thiết. Đó cũng là cách thế chúng ta củng cố giao ước của Chúa Kitô, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu.
Chúng ta phải tiếp tục suy niệm về những hạn từ của giao ước. Với đức tin và ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận được những hạn từ cách sung sướng, bởi vì bằng việc làm chúng ta hợp nhất chính mình với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn chúng ta tới sự viên mãn của tình yêu và tình yêu ấy là ý nghĩa thật sự của giao ước chúng ta với Thiên Chúa.
33. Thập giá, biểu tượng của tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà”.
Nhà văn đã kết luận: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này”.
Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Đập đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận thù. Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá máu của Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy”là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của Ngài cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện này không dễ gì được chấp nhận, vì nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và lời loan báo đó đã được thực hiện.
Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ cũng phải trả giá đắt. Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô trong một môi trường thù địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói khi cuộc sống xung quanh chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài phung phí cho chính bản thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn khi người ta cứ gian tham, bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải trả. Hay nói như Tin Mừng hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để chứng tỏ mình yêu Chúa thật tình.
Thưa anh chị em, chúng ta thường bị cám dỗ thêm đường thêm mật vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất là giới trẻ, thoạt tiên tỏ ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về tình huynh đệ, về công bằng, về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu: “Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như chàng thanh niên giàu có đã từ bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập giá – Chính như thế đó mà đau khổ có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau khổ làm cho người Kitô hữu giống Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và cũng tránh tìm Thánh giá nào không có Chúa Kitô”.
Cái nghịch lý của thân phận người Kitô hữu là: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình (hiến dâng mạng sống mình vì tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài sống lại”, thì người Kitô hữu trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ bỏ mình, vác thập giá”, cũng sẽ có “ngày thứ ba”của mình, ngày phục sinh vinh quang. Con đường thập giá là con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là con đường nhờ đó mà tình yêu đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến thắng trên tội lỗi và sự chết của cả loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành Thánh lễ là mỗi lần tái diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau nguyện xin Chúa cho chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu cũng một cách như Chúa, để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục sinh với Ngài.
34. Con đường khổ giá - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều bị xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Một ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình ảnh của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống. Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã làm ông điên loạn.
Rồi một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt, ông cầm gậy đập phá tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, ông ta đành phải dùng lửa để tiêu hủy.
Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu rụi toàn bộ căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác ông trôi lềnh bềnh trên sông”.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, và Ngài mời gọi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy” là những yếu tố làm nên cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Thập giá mình đó là thập giá của một kiếp người,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị sự bỏ rơi và phản bội,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị thất bại và oan ức,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta.
Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận.
Cũng như nhân vật trong câu chuyện trên, nếu chúng ta không chấp nhận thập giá, thì chúng ta sẽ tiêu diệt chính cuộc đời chúng ta, vì chính những thập giá làm nên cuộc đời chúng ta. Chúng ta từ chối chúng, tức là chúng ta từ chối chính cuộc sống của chúng ta.
Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, nên cách tốt nhất là chúng ta chấp nhận nó như có câu chuyện kể rằng:
Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng.
Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác.
Rồi đến vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu: Đây là nữ thần Jupia giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.
Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên thập tự và đạo sĩ chậm rãi trả lời: "Đây là Đức Giêsu Kitô ". Với chút xúc động lộ trên gương mặt, Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một vị thì cất đi sự đau khổ, còn một vị thì giúp tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích vị nào cả. Thế thì tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên thập tự như vậy?”
Intyra giải thích: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa không tưởng, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống kiếp người hèn nhát. Dù tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né hết đau khổ, vì tránh được đau khổ này thì lại gặp một đau khổ khác. Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, cho nên tốt nhất là đón nhận nó. Amen.
35. Tại sao có đau khổ?
Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ phải chịu đau khổ và người ta sẽ giết Thầy”. Xa hơn một chút, Ngài sử dụng những từ ghê gớm này là vì chúng ta: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất sự sống mình”
Chúng ta đừng thử thoát ra khỏi đó, lựa lọc Tin Mừng chính là từ chối Tin Mừng. Dầu vậy điều đó không có nghĩa là chấp nhận Tin Mừng một cách mù quáng nhưng trên lý thuyết mà thôi. Kẻ nào thực sự muốn đi theo Tin Mừng thì không ngần ngại đặt vấn đề để biết rõ phải đi đâu và tại sao phải đi.
Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cực hình Thánh Giá? Đối với Phêrô đây là điều không thể tưởng tượng được. Chúa Giêsu phản ứng nghiệt ngã bởi vì hình dung điều sắp xảy ra là điều khó chịu đối với Ngài. Trong khi đấu tranh chống lại sự âu lo, Ngài muốn hoàn toàn đi vào trong đường lối của Thiên Chúa, thế mà Phêrô kéo Ngài về lại đường lối của con người. “Hỡi Satan, hãy cút đi!”. Đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người. Điều này có nghĩa là Ngài phải một lần nữa xua đuổi cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế được toàn dân bỏ phiếu ủng hộ, một Đấng Cứu Thế tành công mà không phải đi qua con đường khổ nạn. Không, phải tới lúc Ngài sẽ bị lăng nhục và bị giết vì lòng ghen ghét. Đó là đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người.
Đường lối của Chúa sao? Đường lối của Chúa ở đây đối với chúng ta thật khó hiểu! Thiên Chúa muốn có sự đau khổ sao? Thật là phạm thượng. Chúng ta chỉ đoán thấy Thiên Chúa trao ban Con của Ngài để cứu chuộc chúng ta và điều này dẫn đến giờ phút âu lo này. Trong một thế giới bất công, bạo lực và theo đạo hình thức, Chúa Giêsu đã xử sự theo cách Ngài dứt khoát phải chết. Đó là điều giờ đây Ngài cảm nhận được. Chúa Cha không giao phó Ngài cho cái chết, Chúa Cha giao phó Ngài cho sự cứu chuộc mà sự cứu chuộc này phải kinh qua cái chết.
Vẫn còn mầu nhiệm. Nếu tôi tự hỏi: “Tại sao có đau khổ và chết chóc”, tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi đó, tôi không thể hiểu được ý của Chúa. Nhưng tôi có thể nhìn xem Chúa Giêsu nắm bắt được ý của Chúa như thế nào: “Ngài bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ”.
Tôi có quyền xem đây là điều kỳ lạ, cách mạng, miễn là tôi chấp nhận để cho gương của Chúa Giêsu dạy cho tôi môt bài học. Ngài đã không chấp nhận đau khổ một cách mù quáng. Ngài đã thấy đường lối này rồi, Ngài đã thấy rằng Ngài “phải” chịu đau khổ. Đàng sau Ngài, và đây là nghịch lý lớn của Kitô giáo, chúng ta tiếp tục tiến vước trong bóng tối nhưng cũng trong ánh sáng nữa. Do đó, khi chúng ta muốn “cứu mạng sống của chúng ta” bằng cách tách chúng ta ra khỏi Ngài (vì sợ đau khổ) thì chúng ta sẽ mất nó. Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn khẳng định của Ngài: “Kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”
Nhưng các tiếng này đối với chúng ta có vẻ như không thể hiểu được và khó nghe bao lâu mà chúng ta không biến chúng thành kinh nghiệm. Nếu vậy, không ai theo Chúa Giêsu và ăn năn hối cải. Trái lại, những ai không đọc Tin Mừng thì chắc hẳn những kẻ đó bị đóng khung trong những câu hỏi tại sao.
36. Xin Chúa thương
Sau khi thay mặt các Tông đồ trả lời rất đúng về Đức Giêsu là ai:" Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Phêrô được Chúa khen và được Chúa hứa sẽ đặt ông làm nền tảng để xây dựng Giáo hội của Chúa. Có lẽ vì đó mà Phêrô tự thấy mình có vai trò bảo vệ Thầy mình và cố vấn cho Thầy trong mọi sự. Hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu nói cho các Tông đồ biết sứ mạng của Ngài và cách thức thi hành sứ mạng ấy: " Đi Giêrusalem, chịu đau khổ, bị giết nhưng sẽ sống lại." Phêrô không thể chấp nhận đường hướng đó nên "cố vấn" Chúa đừng đi vào con đường đau khổ đó:' xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp chuyện ấy" nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông cách thẳng thừng: Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy!" vì quá nhiệt thành nhưng nông nổi và hàm hồ, Phêrô đã "dám" đi trước Thầy mình. Khi hành động như thế, Phêrô vô tình là viên đá cản lối Thầy, làm Thầy suýt ngã.
Cũng như bao nhiêu con người khác, Đức Giêsu bước vào cuộc đời này và gặp biết bao những cám dỗ vây quanh. Cám dỗ nào nghe cũng ngọt ngào, hấp dẫn. Ma quỉ cám dỗ Ngài trong sa mạc, trong suốt 40 đêm ngày; đám đông đòi Ngài cho xem phép lạ từ trời rồi thách thức Ngài xuống khỏi thập giá... trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chính Phêrô, người mà Ngài đã chọn làm nền tảng cho Hội thánh cám dỗ Ngài chọn lựa con đường dễ dãi để thực thi sứ mạng của mình. Cơn cám dỗ này có thể nói là cực kỳ nguy hiểm, vì nó đến từ tình thương chân thành của người môn đệ thân tín. Nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ ngọt ngào này. Ngài đã nói với Phêrô cùng một gịong điệu gay gắt như nói với Satan trước đây: " Satan, lui lại đằng sau Thầy".
Chuyện kể rằng, vua nước Thục bên Tàu có tính tham lam, ham mê của cải. Vua Huệ Vương bên Tần muốn xâm chiếm nước Thục nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu, rồi phao tin đồn rằng: " trâu đãi ra vàng". Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho 5 người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp nước Thục. Vua nước Thục vừa mất nước, vừa hại mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà mất cái lợi to lớn sao?
Sống ở đời này ai cũng tranh phần được và sợ mất đi quyền lợi của mình. Nhưng vấn đề là phải cân nhắc và xác định đâu là cái được thật sự, lâu bền và trọn vẹn, đâu là cái quan trọng tuyệt đối? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách thế để được trọn hảo ấy. nhưng trước hết người ta phải biết chấp nhận những cái mất tạm thời: mất công, mất của, mất thời giờ, mất uy tín, mất tương lai và kể cả mất đi mạng sống nữa. Nếu ai vì Đức Giêsu mà chịu mất tất cả những gì mình có ở đời này thì sẽ có lại tất cả. Mất những cái tạm để có được và giữ được những cái mãi mãi. Kitô hữu đích thực là những người say mê những điều vĩnh cửu, say mê một tương lai huy hòang do chính Thiên Chúa ban tặng. Các thánh tử đạo là những người say mê sự sống phục sinh đến nỗi dám chấp nhận cái chết, dám coi cái chết nhẹ như lông hồng.
Lắm người ở đời này tưởng mình được tất cả với những suy tính của mình nhưng lại mất đi tất cả. Câu chuyện của vua nước Thục trên đây là một ví dụ điển hình. Chúng ta hãy nghiêm túc suy nghĩ sâu sắc về cái được và cái mất để có những quyết định đúng đắn và kịp thời kẻo bỏ mất nhiều cơ hội và bỏ mất tất cả.
Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả. Đó là động lực, là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ và hy sinh, dám vượt lên trên lối sống thực dụng và ích kỷ. người dám hy sinh và cho đi sẽ tìm lại bình an, niềm vui, tự do và yêu thương không phải sau khi chết mới thấy được nhưng sẽ được chúng ngay ở đời này.
Xin Chúa thương đến thân phận con người yếu đuối của chúng ta để ban sức mạnh giúp ta hòan thành ơn gọi của chúng ta theo đúng ý muốn của Thiên Chúa. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta biết chọn lựa và gắn bó với những thực tại bền vững trên trời ngay khi còn sống ở trần gian này.
37. Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Thái
(Trích báo Hiệp Nhất tháng 8-2014)
"Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy"
Trong cuốn sách "the 911 Handbook," Kent Crokett nói rằng ở bên trong mỗi chiếc máy bay có những dụng cụ để quyết định phương hướng cho máy bay. Những dụng cụ này sẽ chỉ dẫn chính xác, ngay cả khi phi công phán đoán một cách khác. Vào ngày nắng ráo, bầu trời trong sáng, phi công có lẽ không cần đến những dụng cụ này, nhưng vào ban đêm hay sương mù, những dụng cụ này quyết định mạng sống của phi công.
Ngày 16-7-1999, John F. Kennedy Jf., con trai của cố Tổng thống John Kenndy, đã bị rớt máy bay ngoài biển đông, gần Matha's Vineyard, tiểu bang Massachusetts, gây tử vong cho vơlag Carolyn Bessette Kennedy và người chị vợ, Lauren Besette. Kennedy đã lái phi cơ bay vào vùng đêm tối ngập sơng mù - haze. Sương mù là sự kết hợp của hơi nóng, độ ẩm và khí ô nhiễm thườn xảy ra trong vùng biển đông của Hoa Kỳ vào những đêm mùa hè. Trời vừa tối, vừa bị sưong mù, Kennedy đã bị mất đường chân trời và vùng đất pía dới cần thiết để hướng dẫn máy bay. Khi đó phi công phải biết sử dụng những dụng cụ máy móc hướng dẫn, và phải có kinh nghiệm. Kennedy không được huấn luyện cẩn thận để sử dụng những dụng cụ này nên bị mất phương hướng, thay vì bay lên trời cao, lại cắm đầu đâm xuống biển.
Bài phúc âm hôm nay, Mt 16:21-28, trình bày một hoàn cảnh giằng co giữa hai phương hướng, Chúa Giêsu theo thánh ý của Thiên Chúa cha, sẽ đi lên Giêrusalem chịu đau khổ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Còn Phero muốntheo phương hướng trần gian: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu". Chúa Giêsu quay lại mắng Phêrô: "Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy... con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người". Rồi ngài dạy các môn đệ: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".
1. Từ bỏ chính mình:
Căn bản của sự từ bỏ chính mình là phải quyết định xem ai sẽ kiểm soát cuộc đời của mình. người ta thường nghĩ sẹ từ bỏ mình giống như việc hãm mình trong mùa chay, từ bỏ ăn kẹp, ăn kem, hút thuốc lá... những sự hy sinh hãm mình này vẫn tốt, nhưng không phải là sự từ bỏ mà chúa Giêsu đề cập đến. Điều chính yếu là Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác cuộc đời trong bàn tay của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta chấp nhận sự hướng dẫn và ý định của Ngài cho cuộc đời của chúng ta. Đây mới chínhlà sự từ bỏ thực sự.
Năm 1991, Trung tá Jeff Patton đã lái phản lực cơ chiến đấu F-15 trong trận đánh được mệnh danh là Desert Storm - Bão sa mạc. Ngay đêm dầu tiên của chiến trường, sứ mạng của ông là hộ tống những chiến đấu cơ thả bom xuống những nhà máy chế tạp vũ khí hóa học ở phía bắc Irap. Ngày giờ của cuộc hành quân đã được chọn lựa. Bởi trời tối, không có ánh trăng, lại nhiều mây mù đã giúp cho cuộc tấn công của những phản lực cơ đồng minh cũng không bị theo dõi bởi dàn phòng không của Irap, nhưng cũng rất nguy hiểm cho các phi công. Họ phải hoàn toàn tùy thuộc vàonhừn dụng cụ máy móc điều khiể.
Vừa bay vào không phận Iraq, phản lực cơ của patton đã bị "khóa chặt" bởi dàn ra đa chống hỏa tiễn của Iraq. Ông cố gắng vùng vậy mãnh liệt để thoát ra khoi sự kiểm soát của ra đa. Tuy thành công, nhưng ông lại gặp một vấn đề mới. Sự vùng vẫy đảo lộn trong đêm tối làm ông chóng mặt, và mất phương hướng. Tâm trí ông phán đoán rằng phi cơ quay về bên phải là phóng lên trời cao, nhưng khi kiểm soát lạinhững dụng cụ máy móc, ông thấy rằng chiếc máy bay đang ở vào 60 độ cắm đầu xuống đất! Trong khi lý trí ngĩ rằng phải điều chỉnh lại phi cơ về một hướng khác, thì nhừn dụng cụ hướng dẫn cho biết phải làm ngượclại. Vì đang bay hoàn toàn trong đêm tối, ông phải quyết địnhnhanh chóng tin vào phán đoán củạý trí hay dụng cụ hướng dẫn. Số mạng của ông tùy thuộc vào sự quyết định đúng lúc này. Ông trở cánh phi cơ lại cho thăng bằng và kéo chiếc F-15 phóng thẳng lên trời. Sức kéo mạnh gấp bẩy lần lực hút của trái đấy, để lôi chiếc phi cơ khỏi lao xuống đất. Chỉ trong giây lát, ông nhận ra mình đã quyết định đúng. Nếu ông hạu mũi phi cơ giống như điều đã nghĩ, pi cơ đã đâm vào những dãy núi ở Iraq. Tin tưởng vào dụng cụ hướng dẫnđã cứu mạng sống của ông. Mă2lc dù quyết định theo dụng cụ hướng dẫn, ông cũng nhận ra rằng nếu trỉoãn thêm ba giây nữa thôi, pi cơ vẫn có thể đụng vào núi. Quyết định đúng, nhừn trễ cũng vẫn chết.
Trong cuộc hành trình tinh thần. Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta "những dụng cụ hướng dẫn". Đó là tiếng nói của lương tâm, lề luật, Thánh kinh và những giảng huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải từ bỏ tính ích kỷ và dục vọng để vâng theo những hướng dẫn tinh thần này là điều kiện căn bản cho đời sống thiên gliên (Pl 2:21). Từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa như chính chúa Giêsu đã làm (Mt 26:39; Ga 3:14; Rm 6:13; 12:1; Gl 1:10) là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.
2. Hãy vác thập giá:
đây là hành động chứng tỏ việc từ bỏ chính mình để mang lại vinh danh cho Thiên chúa và giúp xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa. Thập giá Chúa Giêsu đề cập ở đây không phải là gì áp đặt lên chúng ta, nhưng là điều chính chúng ta đã chọn lựa với sự tự do để trung thành với Chúa Giêsu.
Thập giá là một sự hy sinh như chu toàn bổn phận của một người cha, mẹ, chồng, vợ, con cái... trong gia đình, việc dậy giáo lý ngày Chúa nhật, viếng thăm người ốm đau. Đó là một lời mời gọi tham gia vào việc tông đồ mục vụ, sứ mạng truyền giáo, hay thi hành một việc từ thiện bác ái trong xã hội.
"Theo luật Kanun, đối với nhiều sắc tộc miền núi phía BẮc Albanie thì nợ máu phải trả bằng máu. Cha Dionis Maka, thuộc dòng Phanxico, 92 tuổi, đã suốt đời tranh đấu, tận tụy khuyên nhu dân chúng từ bỏ tập tục ghe gớm đó vì nó gay nên nhiều thẳm trạng và hận thù không bao giờ chấm dứt. Đây là luật rừng trong những vùng Scutari, Dukajini, và Lezhe. Trong vùng xảy ra nhiều vụ ám sát thanh toán lẫn nhau để trả thù nợ máu.
Để tránh những cuộc trả thù đẫm máu, Cha Dionis đã phải tìm hiểu xem bạn bè của họ là ai để làm trung gian điều đình, đền bụ sự thiệt hại, và xin tha thứ. Cha phải hành động một cách bí mật và thận trọng để tránh làm cho đôi bên khó chịu bực mình. ngài đến gặp từng người một và yêu cầu họ giúp đỡ. Cám ơn Chúa, rất nhiều người đã không từ chối mà còn nhiệt tình giúp đỡ nữa.
Cuộc hòa giải có thể thu xếp được nếu kẻ sát nhân nhận lỗi và chịu bồi thường mười hai con bò cho gia đình người bị giết. Cha Dionis Maka đã làm việc tích cực để đưa tinh thần yêu thương của Tin Mừng đến với các sắc tộc này hòng thay đổi sự báo thù. (Viết theo tin của viet-cotholic news, ngày 22/7/2002).
Cha Dionis Maka đã vác thập giá. Trong nhiều cách khi ta phục vụ cho Thiên Chúa qua những người anh chị em mình vì tình yêu thương, ta vác thập giá với Chúa Giêsu như gương Mẹ Teresa Calcutta đã làm. Sách giáo lý công giáo sồ 618 đã nói: "Thập giá là hy sinh độc nhất của Chúa kitô 'vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loàingười' (1Tm 2:5). Nhưng, trong Ngôi vị Thiên Chúa nhập thể của Ngài, 'Ngài đã một cách nào đó hiệp nhất với tất cả mọi người,' 'Ngài dành cho tất cả mọi người khả năng kết hiệp với mầu nhiệm Vượt qua của ngài, theo cách thức mà Thiên Chúa biết'. Ngài kêu gọi các môn đệ: 'Vác thập giá và đi theo Ngài', bởi vì 'Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta, Ngài đã vạch cho chúng ta con đường để bước theo ngài' (1Pr 2:21).
3. Bước theo Thầy
Khi ta biến đổi đau khổ thành ơn cứu độ, ta bước theo những vết chân của Chúa Giêsu đã đi. Là người Kitô hữu, đã đón nhận ơn sủng của Thiên Chúa trong đời sống mình, chúng ta phải thể hiện ơn sủng đó ra bằng hành động, qua những công việc bác ái yêu thương đối với những người cần gíúp đỡ. (Pl 3:18-19; Gc 2:24-26; Tt 1:16; Rm 4:12; Ga 8:39). Chúng ta phai sống thế nào để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta.
Chúa Giêsu đã luôn ao ước và hoàn toàn gắn bó với kế hoạc cứu chuộc của Thiên Chúa Cha trên trời: "Điều này đã mang lại sinh khí cho tất cả cuộc đời của Ngài, bơi cuộc khổ nạn cứu chuộc là lý do hiện hữu của sự Nhập Thể của Ngài" (GLCG #607). Và chúng ta, nếu muốn trở nên hoàn thiện, thì cũng phải bước theo con đường Ngài đã đi như lời Ngài phán hôm nay: "Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16:24).
38. Đường xưa Chúa đi
Nói đến con đường Chúa đã đi qua không ai dại khờ đến nỗi phải dành nhiều thời gian để hồi tưởng những nẻo đường Chúa đã đi mang tên gì, dài bao xa? Con đường Chúa đi ai cũng biết đó là con đường thập giá. Có nhiều con đường Chúa đi qua, nhưng quốc lộ của Ngài chính là con đường tiến lên đồi Golgotha để chịu án tử. Một con đường quyết định cho nhiều dự định. "Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo". Lời Chúa mời gọi sao nghe ngán ngẫm vô cùng cho những ai đã từng đi qua con đường thập giá.
Ai đã một thời nghêu ngao bài hát "Con đường xưa em đi" chắc hẳn sẽ thấy một sự đối lập giữa đường Chúa đi và đường em đi. Nếu "đường xưa em đi" ngập tràn thư tình và nắng ấm, thì con đường Chúa đi chỉ toàn là lời ngạo nghễ và lạnh giá của lòng người. Nếu "đường xưa em đi" hướng về một tương lai rạng sáng, thì con đường Chúa đi mỗi ngày như khép lại những lối bước mịt mờ. Dẫu nhiều người cho đường Chúa là mịt mờ, là đường chẳng mấy ai đi, nhưng Chúa vẫn không ngần ngại mời gọi nhiều kẻ bước theo Ngài. Bởi lẽ đường Chúa đi là con đường thật, là quốc lộ đưa đến hạnh phúc và sự sống đời đời. Con đường thập giá có nhiều hình ảnh để diễn tả. Trong bối cảnh Tin Mừng ta có thể diễn tả đường thập giá là con đường mang 3 chữ "T": Từ bỏ - Tự hiến - Tình yêu.
Đường thập giá là đường từ bỏ
Từ bỏ là chủ động đánh mất điều mình đáng được hưởng. Từ bỏ cũng có nghĩa là tự ý tách lìa những gì mình đang quyến luyến để được vươn cao tới sự sống mới. Không ai dại dột bỏ hết để rồi trở nên trống không. Từ bỏ cái cũ để được cái mới hơn, từ bỏ cái nhỏ nhen để được cái lớn lao. Vẫn có quy luật quân bình trong cuộc sống nhưng con người thật khó từ bỏ vì không ai chịu gạt bỏ cái mình đang sở hữu. Người ta vẫn nói cái sở hữu không lớn bằng cái đủ vì vậy mà ai ai cũng tranh nhau ra sức kiếm tìm. Ta vẫn thích chất chứa cho đầy, dự trữ cho nhiều để tìm cảm giác an thân. Nhưng rồi càng chất đầy thì càng thêm gánh nặng, càng tích góp thì càng bị oằn vai.
Từ bỏ mình đó là từ bỏ những toan tính của con người để sống theo tinh thần của Thiên Chúa. Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ. Phêrô muốn Thầy mình thực hiện như điều ông đã nghĩ. Oâng không muốn Thầy lên Giêrusalem, không muốn Thầy mình phải chết như thế. Ông muốn lèo lái Thầy mình đi theo con đường của ông. Nhưng đường lối của con người không phải là đường lối của Thiên Chúa. Tinh thần từ bỏ cao nhất chính là đi tìm và làm theo ý Chúa.
Đường thập giá là đường tự hiến
Đỉnh cao của sự từ bỏ là tự hiến chính mình. Từ bỏ những thứ của mình thật là đáng khen, nhưng từ bỏ ngay chính mạng sống của mình quả là điều đáng nễ phục. Chúa Giêsu thực hiện ý định Chúa Cha cách trọn vẹn chứ không theo kiểu nửa vời. Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tự hiến của Chúa đã khai mở sự sống cho nhiều người. Giá trị của sự tự hiến là tìm được sự bình an cho tâm hồn, niềm vui cho trái tim, niềm xúc cảm trong từng hơi thở.
Lịch sử phải biết ơn những con người đã mạo hiểm, những người dám giã từ cuộc sống yên ổn để dấn thân phục vụ lợi ích cho nhân loại. Nếu không có những người dám liều mình thì những phương thuốc chữa bệnh đã không thành tựu. Nếu không có những bà mẹ sẵn sàng liều mình thì chẳng có đứa trẻ nào được chào đời. Có nhiều của dâng tiến, nhưng của dâng duy nhất có giá trị hơn hết vẫn là sự sống của mỗi người.
Đường thập giá là đường tình yêu
Tự ban đầu thập giá là dấu chỉ của khổ hình ô nhục. Nhưng thập giá có Chúa Giêsu giờ đây đã trở thành thánh giá cho cuộc đời. Một con người luôn từ bỏ và tự hiến cho nhân loại đã biến khổ nhục thập giá thành biểu tượng cho tình yêu. Một tình yêu cao cả nhất trong mọi thứ tình yêu. Chúa Giêsu đã chọn sự ô nhục nhất của con người làm phương thế minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Thiên Chúa. Chính tình yêu đã làm cho sự từ bỏ và tự hiến một giá trị cứu độ. Nếu không có tình yêu thì tôi sẽ không đi hết con đường Chúa đã đi. Không có tình yêu, con đường thập giá sẽ trở nên vô nghĩa.
Văn hào Victor Hugo đã khẳng định: "Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt". Khi nhìn lại thập giá đời mình, có khi ta lấy làm tự hào vì đã được đồng hành cùng khổ nạn với Chúa. Có khi ta cuộc đời như tắt lịm vì thánh giá cứ vây quanh. Sự chối từ, ngán ngẫm không phải vì thánh giá quá nặng nhưng chỉ vì ta thiếu tình yêu.
Trên thánh giá máu và nước chảy ra, là dấu chỉ ơn cứu độ tuôn tràn trên nhân loại. Từ trên thánh giá hận thù đã xoá bỏ. Từ trên thánh giá tội lỗi con người đã được tha. Từ trên thánh giá Chúa Giêsu gọi mời mỗi người cùng chia sẻ nỗi đau và sứ mệnh với Ngài, bằng cách vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài.
Đường xưa Chúa đi khó khăn không phải vì ngăn sông cách núi nhưng vì đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Trong đó tinh thần từ bỏ, tự hiến và con tim đong đầy tình yêu là điều kiện không thể thiếu. Dù ta có tự hào hay ngán ngẫm thì Chúa vẫn luôn gọi mời hãy vác thập giá mỗi ngày mà bước theo. Lạy Chúa, con biết con không thể làm anh hùng trong phút chốc. Xin cho con biết khiêm tốn với chính mình để tập bước đi trên con đường xưa Chúa đã đi.
39. Từ bỏ - ĐGM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Như bài Tin Mừng vừa cho chúng ta biết: hôm ấy Chúa Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị giết rồi ngày thứ ba sẽ sống lại. Ðó là một mạc khải kinh khủng đối với các Tông đồ. Cứ nhìn vào phản ứng của Phêrô thì rõ. Tuy nhiên đó chỉ là những đau khổ động tới con người của Chúa Yêsu, chứ chưa phải là những đau đớn đổ xuống trên thân xác các môn đệ. Hôm nay, phụng vụ muốn nói chính bản thân chúng ta đây phải sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào? Và trước hết chúng ta có thâm tín như vậy không? Chúng ta có chắc rằng chúng ta, mọi kẻ theo Chúa đều phải khổ vì Chúa không? Nếu có, chúng ta phải đón nhận những đau khổ đó như thế nào? Thiết tưởng việc đọc lại các bài Kinh Thánh hôm nay sẽ có ích nhiều cho chúng ta.
A. Nhà Tiên Tri Ðau Khổ
Bài sách Yêrêmya vắn tắt nhưng lâm ly. Nhà tiên tri than thở với Chúa nhưng thực ra cũng muốn cho người khác nghe. Ông tóm tắt cuộc đời của mình trong những lời rất bi quan và đau xót. Lúc nào ông cũng phải la lối: "hành hung và bức hiếp", bởi vì ông được Chúa chọn để sai đi nói với dân: khủng khiếp sắp đổ xuống dân bội bạc, bất tín và dâm đãng này. Ðầu tiên người ta cũng giật mình, nhưng rồi bị thói quen lôi đi, phù vân hấp dẫn và được các tiên tri giả luôn luôn phỉnh nịnh, người ta đâm chán, đâm ghét và muốn xóa bỏ con người cứ liên tiếp đe dọa những tai ương, hình phạt. Có lần người ta đã bắt ông, tống giam và suýt nữa đập chết ông.
Bị kỳ thị tránh né, hiểu lầm, ghét bỏ, Yêrêmya suy nghĩ về cuộc đời của mình. Vì sao lại đâm đầu vào cái nghề tiên tri này? Và sao không bắt chước loại tiên tri kia cứ nói hay, nói tốt cho người ta để được yêu, được thích, được nhiều tiền nhiều của? Cớ sao cứ nói mãi những điềm dữ và tuyên bố kinh khủng sắp đổ xuống trên mọi người, để người ta phải tránh, phải sợ mình như sợ dịch?
Càng suy nghĩ, Yêrêmya càng hiểu rõ bản chất và ơn gọi của mình. Con người xác thịt của ông chắc chắn không muốn sống như xưa nay ông vẫn sống. Nếu cứ phải là tiên tri, chắc chắn nó muốn làm như bọn tiên tri giả, cứ phỉnh nịnh người ta là được chiều chuộng và sung sướng. Làm tiên tri thật, biết nói lên cái hay nhưng cũng không câm miệng trước cái dở của người ta, kể cũng đã khó... huống nữa là chỉ rặt kêu la: "hành hung và bức hiếp!". Lại nữa có chắc gì sẽ xảy ra như vậy? Yôna cũng có lần bị cám dỗ như thế. Ông được Chúa sai đi để cảnh cáo dân tội lỗi. Ông không muốn đi vì ông nghĩ Chúa nhân từ vô bờ, chỉ cần người ta quay đầu lại một tý là Người đã tha thứ và rút cánh tay đe phạt về. Nhưng tại sao Yêrêmya cứ cố chấp và còn nhiệt thành nữa trong việc rao truyền những hình phạt khủng khiếp sắp đổ xuống trên con cái Israel?
Cuối cùng Yêrêmya phải thốt ra những lời hôm nay chúng ta vừa nghe đọc. Không phải ông tự chọn cho mình ơn gọi này; không phải ông thích thú khi tuyên sấm bi quan khủng khiếp như vậy; không phải ông không biết những ê chề, đau khổ và nguy hiểm cho bản thân khi nói ngược với những sự chờ mong của người ta. Cực chẳng đã ông phải làm tiên tri. Không phải để dù sao cũng phải sống và phải có một nghề; nhưng nào ai hiểu được, chỉ để tuân lệnh Yavê!
Người ta bảo ông bị mê hoặc, lừa dối. Phải, nói cho cùng, ông thấy mình bị dụ dỗ thật sự. Nhưng không phải là bùa thiêng hay ma quỷ nào lừa đảo được ông; nhưng là chính sức mạnh của Thiên Chúa. Thần khí Người ập xuống. Ông bị uy hiếp và bị khắc phục, không phải một cách miễn cưỡng và khó chịu, nhưng êm ái và bình an. Thiên Chúa uy dũng đã chiếm đoạt lấy ông. Ông nằm trong tay Người như đứa con trên tay người mẹ: khoan khoái và tin tưởng làm sao! Gặp Thiên Chúa rồi, cảm tình yêu của Người rồi, Yêrêmya phó thác hoàn toàn tấm thân và đời sống nhỏ bé và mỏng manh của mình trong tay Người. Từ nay, Yêrêmya chỉ còn là khí cụ trong tay Ðấng điều khiển tất cả trời đất "vừa cương vừa nhu" (fortiter et suaviter). Ông không làm chủ đời mình nữa. Ông thấy thích thú sâu xa lạ lùng khi được sử dụng vào công việc của Thiên Chúa, cho dù xác thịt tự nhiên cảm thấy ngược lại.
Thế nên nói cho cùng những ê chề, đau đớn, khổ sở mà người ngoài nhìn thấy ở nơi ông và chính xác thịt ông cũng thấm thía thật sự, tất cả những sự ấy vẫn không động đến được ý chí và quan điểm của ông vì "nơi lòng ông như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt ông; ông hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được" bởi vì Thiên Chúa đã dụ dỗ và đang thắng ông.
Yêrêmya đúng là "Người của Thiên Chúa". Ông mô tả trước con người của Ðức Kitô. Ông nhắc nhở tất cả chúng ta về ơn gọi tiên tri của mình. Chúng ta đã lãnh nhận ơn gọi này khi chịu phép Rửa. Mỗi người chúng ta đã được Chúa đặt làm tiên tri để công bố đường lối chân thật của Người. Chúng ta không thấy vất vả vì ơn gọi đó sao? Hay là chúng ta không thi hành ơn gọi đó? Hoặc là chúng ta đang phàn nàn ta thán về số phận khó khăn của ơn gọi là Kitô hữu? Chúng ta chỉ tìm được bình an chân chính và sâu xa nếu chúng ta biết suy nghĩ và tìm ra sự thật như Yêrêmya trong bài Kinh Thánh hôm nay. VÀ bây giờ chúng ta được trang bị đầy đủ để đi vào hai bài Kinh Thánh khác.
B. Ðấng Cứu Thế Chịu Ðóng Ðinh
Sách Tin Mừng Matthêô kể: từ bấy giờ Ðức Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ hay "Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ...". Ðó là câu văn rất quan trọng. Nó đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời Chúa Cứu thế. Cho đến hôm ấy, Người chưa bao giờ bảo môn đệ biết những đau khổ đang chờ Người. Nói đúng hơn, cho đến bấy giờ Người thường đi giữa quần chúng và dạy dỗ họ. Từ nay Người sắp đi Yêrusalem với Nhóm môn đệ của Người. Như vậy hoạt động của Người như muốn thu nhỏ lại hơn, để có giờ đào tạo, huấn luyện, sát các môn đệ hơn. Làm cho họ hiểu Người và giống như Người hơn. Và vì thế Người bắt đầu tỏ cho họ thấy sứ mạng và vinh quang đích thực của Người: Người sẽ đi Yêrusalem, bị bắt, bị xử, bị giết và sống lại ngày thứ ba.
Ðó là chương trình đào tạo của Người kể từ hôm nay. Không phải chỉ là một bài học chỉ cần cắt nghĩa là môn đệ hiểu được. Nhưng là cả một nếp sống mà Người sẽ lần lần "tỏ" ra cho họ thấy, mặc dù chưa chắc họ đã hiểu. Nhưng dù sao cũng phải dùng lời nói để mô tả nếp sống ấy. Hôm nay Chúa Yêsu đã làm công việc này. Chẳng may Người gặp phải một phản ứng tức thời, phản ứng của Phêrô, kẻ mà Người mới đặt làm Ðá để xây lên Hội Thánh.
Phêrô kéo Ngài lại với mình và lên tiếng trách Ngài: "Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!". Kể ra ông cũng rất tế nhị. Ông không dám thẳng thắn phản đối Ngài. Ông kéo Ngài ra để nói riêng, không muốn cho đồng bạn nghe thấy. Ông còn nại đến Thiên Chúa: Người tốt lành không thể để xảy ra như lời Ðức Yêsu đã nói.
Thế thì vì sao Ðức Yêsu lại như phẫn nộ đối với Phêrô. Người nói to không nể mặt: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta...". Có lẽ câu tiếp theo làm cho người ta hiểu ý của Người hơn, Người bảo: "Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Phải, hôm ấy Ðức Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy tương lai của Người; mà tương lai ấy đâu phải Người xây dựng, mà là chính Thiên Chúa vì Người đã nói rõ: "Ta đến không phải để làm theo ý muốn của mình, mà là ý của Ðấng đã sai Ta". Như vậy, cuộc Tử nạn Phục sinh của Người là kế hoạch của Thiên Chúa. Phêrô chưa nhận ra điều ấy. Ông tưởng đó là ý riêng của Ðức Yêsu. Thế nên ông tưởng có thể góp ý với Người. Và ý của ông cũng là ý của các môn đệ, là ý của quần chúng, của con cái Israel... và nói chung, của tất cả loài người. Ai ai cũng đang trông chờ một vị cứu tinh vinh quang, một Ðấng Cứu thế uy hùng, một Ðức Yêsu quyền phép sắp xây dựng Nước Trời trong huy hoàng, rực rỡ. Họ không biết, hoặc chưa biết "Con Người sẽ phải chịu đau khổ... Các lời tiên tri phải nên trọn... Người phải là Con Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ... Và người Tôi Tớ của Thiên Chúa kể trong sách Isaia chính là Người". Phát biểu của Phêrô là tiếng nói của loài người. Hơn nữa phá kế hoạch của Thiên Chúa là ý muốn của Satan. Ðức Yêsu thẳng thắn vạch trần những bộ mặt ấy để từ nay người ta sống chân thật và tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý.
Tác giả sách Tin Mừng Matthêô có lẽ đã hiểu rõ ý Ðức Yêsu Kitô. Ông đính ngay vào đoạn văn trên những lời Chúa dạy dỗ môn đệ: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta". Ðó là bài học cụ thể phải rút ra sau khi đã thấy mầu nhiệm Thánh giá của Chúa. Là điều chúng ta phải ngẫm nghĩ khi muốn đi theo Người và làm môn đệ của Người. Phêrô và các Tông đồ khi đi theo Chúa cũng muốn tham dự vào công cuộc cứu thế của Người. Chúng ta còn hơn nữa, vì khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được sát nhập vào Thân Thể của Người. Chúng ta trở nên Kitô hữu. Chúng ta mặc lấy thân phận của Ðức Kitô. Người tuy là Cứu thế và hơn nữa chính để cứu thế, đã chấp nhận chương trình của Thiên Chúa là đi lên Yêrusalem để bị bắt, bị xử, bị đóng đanh và bị giết. Ðó là con đường cứu thế, con đường của Vua Kitô, con đường của những ai được xức dầu Vương giả của Người.
Hôm nay chúng ta không thể không suy nghĩ những điều ấy, để thấy không những ơn gọi tiên tri mà cả ơn gợi vương đế trong Bí tích Rửa tội đều thúc đẩy chúng ta phải đi vào con đường của mầu nhiệm thánh giá. Nếu muốn sống làm chứng nhân cho đường lối của Chúa, chúng ta đã phải sẵn sàng can đảm, thì muốn tham dự và tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, chúng ta không thể không muốn chấp nhận lấy thân phận của người Tôi Tớ Thiên Chúa. Lúc ấy chúng ta mới thấm thía lời Chúa dạy: ai muốn làm lớn hãy trở nên rốt bét... Hết thảy hãy học với Ta vì Ta có lòng khiêm nhường hiền lành... Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sự sống. Chỉ khi thâm tín những chân lý này, việc làm dấu Thánh giá và đeo ảnh Thánh giá trên mình mới có ý nghĩa. Ðó không phải chỉ là dấu hiệu nói rằng chúng ta đã thuộc về Chúa Yêsu Kitô Cứu thế chịu đóng đinh, nhưng còn là cử chỉ muốn đóng đinh xác thịt và đời sống của mình để cứu thế với Ðức Yêsu Kitô. Sống ơn gọi vương đế cũng phải vác thập giá và chết trên thập giá như khi sống ơn gọi tiên tri. Còn muốn sống ơn gọi tư tế trong Bí tích Rửa tội có như vậy không?
C. Anh Em Hãy Hiến Dâng Thân Mình Là Lễ Tế Sống
Ðoạn thư Phaolô hôm nay mở đầu phần khuyên bảo trong thư Rôma. Thánh Tông đồ thôi giảng về giáo lý và bắt đầu dạy dỗ tín hữu về cách ăn ở. Chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng sự tôn thờ chân thật mà Người muốn, không phải là kinh kệ hay lễ dâng bề ngoài, nhưng là lễ tế thiêng liêng.
Chúng ta hay hiểu lầm ý nghĩa của hai chữ thiêng liêng này. Chúng ta tưởng thiêng liêng là không hữu hình, không nhìn thấy. Và chúng ta nghĩ tôn thờ thiêng liêng không cần đến nhà thờ, bàn thờ, kinh kệ, nghi lễ, mà chỉ cần tâm hồn. Thế là vô tình chúng ta có thể rơi vào "duy tâm".
Nhưng không có tâm hồn ở ngoài thân xác. Và không phải tâm hồn hay thân xách chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa, mà là chính chúng ta là những con người có cả tâm thần và xác thịt. Thánh Phaolô nói chúng ta phải dâng thân mình làm lễ tế sống, tức là phải dâng chính chúng ta và tất cả chúng ta với những sự thuộc về chúng ta làm lễ tế sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Không phải chúng ta sẽ trói mình lại như Abraham bắt trói Isaac ném lên đống củi... Kiểu tế sống đó Thiên Chúa không muốn. Người không cho Abraham làm. Nhưng Người đã ban Con Một Người đi chịu chết. Và lễ tế sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, chính là lễ hy sinh của Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Thập giá. Lễ hy sinh này, Ðức Yêsu Kitô đã khởi sự hôm nay khi Người bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ đi lên Yêrusalem để chịu chết. Nói đúng hơn, Người đã bắt đầu tế lễ sống chính mình khi bước vào thế gian như thư Hipri nói: "Này Con xin đến để làm theo Thánh Ý Cha".
Mà ý của Thiên Chúa không phải ý của thế gian vàloài người. Thế nên thánh Phaolô diễn tả tư tưởng ở trên rằng: "Ðừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương tri, mà biến hình đổi dạng, làm sao anh em thẩm định được Ý Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo".
Mọi chữ đều ý nghĩa. Chính đời sống không rập theo đời này, nhưng canh tân lương tri, biến hình đổi dạng, ăn ở theo giáo huấn của Thiên Chúa, là lễ tế sống, thánh thiện đẹp lòng Người. Như vậy đời sống tư tế của người tín hữu chẳng thuần túy thiêng liêng theo nghĩa vô hình và hoàn toàn nội tâm; bởi vì canh tân biến đổi đời sống cho phù hợp với Ý Chúa phải tác động đến thân xác và nếp sống hữu hình. Nhưng tất cả những kinh kệ và lễ dâng chỉ trở thành lễ tế thiêng liêng khi đó là những lời kinh và lễ dâng của con người đang kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá, là mầu nhiệm hiến dâng và trao ban cả thân mình cho Thiên Chúa và cho hạnh phúc của loài người.
Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm ấy nơi bàn thờ. Ước gì việc tham dự thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào sâu hơn ơn gọi của Bí tích Rửa tội, là bí tích biến chúng ta nên Kitô hữu, môn đệ của Ðức Kitô. Bí tích ấy xức dầu chúng ta nên ngôn sứ, vương đế và tư tế trong Ðức Yêsu. Người đã là Vị Ngôn sứ đau khổ hơn hết. Người đã làm Vua trên Thánh giá. Người đã tế lễ khi hiến dâng sự sống mình. Người đang kêu gọi và đòi hỏi chúng ta: nếu muốn đi theo Người hãy vác lấy thập giá của mình mà đi theo Người.
Quan điểm này phải canh tân lương tri và biến đổi đời sống chúng ta nên lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa và hữu ích cho mọi người hơn.
40. Thập giá Đức Kitô.
I. ĐẠI DIỆN ĐỨC KITÔ HAY PHẢN NGHỊCH ĐỨC KITÔ (16, 21-23)
Trên đây, Đức Kitô vừa được các môn đệ nhìn nhận như Đấng phải đến để thực hiện một khúc rẽ trong lịch sử. Vì thế, mặc dầu dân Do Thái không nhận biết Chúa, các môn đệ vẫn tin nhận Ngài như vị Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống. Thánh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin này. Nhờ thế, Ngài đã được Chúa trao quyền thủ lãnh cùng với chìa khoá nước trời. Nền móng đầu tiên của Giáo hội đã được thiết lập, căn cứ trên sứ mệnh của vị Tông đồ. Quyền lực ma quỷ cũng không nổi lên chống lại được. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu vừa mới quyết định hoàn tất việc kỳ diệu này, thì bóng đen hoả ngục đã bắt đầu quấy rối. Bối cảnh bỗng thay đổi đột ngột.
1) Cảnh tương phản:
Chính Đức Kitô không ngần ngại loan báo, Ngài sẽ bị thất bại, chịu đau khổ, chịu chết rồi sẽ sống lại. Đó thực là một tương phản ghê sợ: Ngài là vị Cứu tinh, Con Thiên Chúa, sử dụng vương quyền Thần Linh, thiết lập một cộng đồng mới cho Thiên Chúa, thế mà Ngài sẽ bị kết án, bị xử hình do chính dân Ngài chọn. Nếu ngay từ bây giờ, Ngài rời bỏ dân Israel và các thủ lãnh, họ cũng chẳng thay đổi ý kiến để cứu Ngài. Ngược lại, sự xa cách này càng làm họ ngoan cố từ chối Ngài rồi tăng thêm lòng căm thù. Có ba tầng lớp được dân tín nhiệm: Bậc Lão thành, đại diện giai cấp lãnh đạo, các Tư tế coi việc Phụng tự trong đền thánh, các Luật sĩ, chuyên viên luật pháp. Tất cả các tầng lớp đều kết án Ngài. Chúa Kitô bị chối bỏ nhân danh dân tộc , Đền thờ và luật pháp. Than ôi, tình cảnh đó đã là một thảm trạng không phải cho Chúa Giêsu nhưng cho dân Do thái.
Chúa Giêsu đã tiên báo định mệnh của Ngài quá đột ngột, khiến cho các môn đệ xúc động không còn nghĩ đến biến cố Phục sinh nữa. Sự Phục sinh đối với họ có lẽ quá khó hiểu. Các bản văn tiên tri ám chỉ những đau khổ của tôi tớ Giavê vẫn là những giòng chữ chết, vô nghĩa trước mắt họ. Họ không nghĩ tới mầu nhiệm Thập giá.
2. Đối với Phêrô, Phêrô cũng cảm thấy một tương phản như thế:
Chúa là người được chọn, được đặc ân, nắm trong tay vương quyền tối thượng siêu nhiên, thế mà bỗng nhiên bị lao xuống vực thẳm. “Cút đi Sa-tan”. Lời Chúa có vẻ thô bạo. Nhưng hình thức đó nói lên tầm nghiêm trọng của vấn đề. Đường lối do Chúa Cha chỉ định sẽ đưa đến Golgotha. Ai muốn Ngài xa khỏi đường lối này, là kẻ nuôi những tư tưởng hoàn toàn phàm tục để cám dỗ Chúa. Thánh giá là tột đỉnh của đời Chúa Giêsu, là bí mật đích thực và là mầu nhiệm chân chính của ơn cứu chuộc. Nhờ sự chết của Ngài, chúng ta sẽ được sống nhờ việc Ngài tự huỷ, chúng ta sẽ được Phục sinh.
Đối với Phêrô, lời Chúa dạy thực là khẩn thiết. Vì yêu mến Chúa, Phêrô can ngăn Chúa. “Thầy đừng chịu như thế”. Hình như đó là lời can ngăn phát sinh do tình yêu giả trá, vì tình yêu chân chính đưa đến Thiên Chúa. Tình yêu đó nhận biết rằng Thánh ý Thiên Chúa là tình yêu, nên tất cả những gì không tùng phục thiên ý, chỉ là vẻ nhiệt thành bên ngoài, chứ không phải lòng mến thực sự. Thánh Phêrô đã có đức tin đảm nhận tất cả để đáp lại lời Chúa. Ngài còn phải học để biết tin tưởng và yêu mến một cách trung thực. Người sẽ phải chu toàn phận sự theo tinh thần Thiên Chúa chứ không phải theo quan niệm nhân loại. Người phải đổi cách sống và suy nghĩ. Người phải biết đòi hỏi đó. Ngài và những người kế vị phải chấp nhận như thế.
Kết quả ra sao sau lời can ngăn của Phêrô? Chúa Giêsu đã khiển trách “cút đi Satan”. Chúa khiển trách vì Phêrô đã nuôi những tư tưởng phàm tục do ma quỷ xúi dục. Thế là đấng mà Chúa Giêsu tuyển chọn làm kẻ đại diện, đã vô tình biến thành kẻ phản nghịch. Lời Luther sau này ám chỉ Giáo Hoàng là địch thủ chí tử của Đức Kitô, hình như vô tình đã có một vài dấu vết nơi vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Nhưng chớ vội lầm tưởng! Tin Mừng đã đổi giọng điệu! Chắc hẳn Người sẽ là địch thủ của Đức Kitô nếu Người đã ngoan cố theo cách suy nghĩ riêng: “Như thế, người ta sẽ thấy rõ vẻ mâu thuẫn giữa chức vụ và tinh thần của Người”. Song không phải như thế. Trong các đoạn Tin Mừng kế tiếp, ta thấy rằng chính Thánh Phêrô được Chúa dẫn lên núi biến hình cùng với Thánh Giacôbê và Gioan. Người đã được chiêm ngắm Chúa trong vinh quang. Lời Chúa tiên báo cách nghiêm trọng sự phục sinh của Ngài lúc đó rất dễ hiểu với Thánh Phêrô. Trong chương mười bảy Tin Mừng Matthêu, Chúa đã dùng một phép lạ đặc biệt, giúp Phêrô được hiểu biết chắc chắn về chức vụ là con Thiên Chúa của Ngài. Trong chương 19, chính Phêrô đã nói nhân danh anh em đồng viện, rồi cũng chính người cùng với hai con ông Giêbêđêô đã gần Chúa trong vườn Cây dầu. Sau đó, người đã chối Chúa, lao sâu xuống vực thẳm lần thứ hai. Nhưng khi Chúa đã sống lại, theo Tin Mừng Thánh Gioan, Ngài đã trao phó cho Thánh Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên. Công vụ sứ đồ mô tả Phêrô là người hướng dẫn và là thủ lãnh của Giáo Hội sơ khai. Quả thực, trong khoảnh khắc, Phêrô đã nghĩ lại. Ý tưởng nhân loại do ma quỷ xúi dục đã nhường chỗ cho ý nghĩ do Thiên Chúa linh ứng. Môn đệ đã qua ngưỡng cửa Thánh giá. Người đã chấp nhận tinh thần của Thầy Chí Thánh. Chức vụ trong Giáo Hội phải nhằm mục đích phục vụ Thánh giá. Các viên chức trong Giáo hội không được ích kỷ, không được để bị lôi cuốn bởi tính yếu đuối và lòng đạo đức sai lạc trong các quyết định. Vị đại diện Đức Kitô phải theo tinh thần Đức Kitô chu toàn nhiệm vụ đã nhận lãnh. Chỉ khi nào biết mặc lấy tinh thần Đức Kitô, nhận lãnh chức vụ nơi Ngài, hoàn toàn giống như Ngài, được niêm ấn bằng Thánh giá, bấy giờ họ mới không phải là địch thủ của Đức Kitô.
Vậy ngay từ khi bắt đầu huấn luyện tông đồ, Chúa đã nói về Thánh Giá. Người ta không xứng đáng với danh hiệu tông đồ, nếu không yêu thích Thánh Giá. Đó là chân lý không những có giá trị đối với Phêrô, nhưng còn đối với chúng ta.
II. BẮT CHƯỚC ĐỨC KITÔ (16, 24-28)
Không phải chỉ có Chúa Giêsu và Thánh Phêrô mới được mời gọi chịu đau khổ, nhưng tất cả các môn đệ của Chúa cũng đều phải chịu đau khổ.
Ở đây không mập mờ “Nếu ai muốn làm môn đệ của ta hãy bỏ mình”. Phải từ bỏ những nguyện vọng, chương trình, tư tưởng riêng để hoà hợp với nhãn quan Thiên Chúa. Vì tư tưởng loài người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Về vấn đề này, lời Chúa nói với Phêrô rất rõ ràng. Kitô giáo không phải để mỗi người tôn vinh chính mình theo chiều hướng nhân loại, nhưng Kitô giáo đòi phải thực hiện một bước tiến mới mẻ tuyệt đối: Phải chết đi để được sống, từ bỏ để lãnh nhận, từ chối để quyết đáp.
Tự thâm tâm phải từ bỏ để vác thập giá mình theo Chúa. Đó là một tâm tình sẵn sàng chịu chung số phận với Chúa Giêsu, chịu bách hại và lùng bắt. Thánh giá là sự hành quyết nhục nhã dành cho những tên nô lệ. Phải biết chuẩn bị chịu khổ hình này. Phải liều chịu như vậy. “Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì ta, sẽ cứu được”. Ở đây không những chỉ nói về lợi lộc và thua thiệt đối với của cải tạm thời, nhưng đối với chính mạng sống để bị thua thiệt hoàn toàn hay được lợi lộc hoàn toàn. Phải từ bỏ cả vũ trụ hư nát hơn là đánh mất linh hồn hay làm hại linh hồn bất diệt. Cuộc sống vĩnh cửu thực là vô giá. Lấy gì đền bù lại linh hồn. Vậy ta phải có mục đích duy nhất là bắt chước Đức Kitô. Tôn giáo không phải chỉ là một lãnh vực hoạt động trong hoạt động khác của cuộc sống. Kitô giáo cũng không phải chỉ là một hỗ trợ phụ thuộc, ngược lại, Kitô giáo đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt để trở nên con người hoàn toàn mới mẻ.
Sở dĩ Chúa Giêsu đòi hỏi như thế là vì một nguyên do rất đặc biệt “Con Người phải đến trong vinh quang Chúa Cha với các Thiên thần, bấy giờ Ngài sẽ thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự nghiệp của họ”. Sự kiện ấy đem lại một viễn tượng mới về cùng đích tối hậu trường tồn và vĩnh cửu: Ta phải từ bỏ để chuẩn bị ngày Chúa đến. Tất cả những gì thuộc về dương thế và thời gian đều có tính cách chuẩn bị và tiên phong. Mục đích thực sự của chúng ta là Thiên đàng vĩnh cửu. Đức Kitô đã đến lần thứ nhất để hoàn tất thực tại này. Nhưng thực tại ấy vẫn còn bí ẩn nhiệm mầu để chỉ hiển hiện khi Chúa bày tỏ vinh quang rực rỡ trong lần tái giáng. Như thế người công giáo nhìn về một vũ trụ khác mà ngay từ bây giờ họ có thể hướng tới. Thế giới hiện tại tạm thời cũng có đôi chút hấp dẫn. Những ai đứng bên ngoài Kitô giáo không biết đến thực tại khác ngoài thế giới này, thì họ cho thái độ của Kitô giáo là một thái độ mơ mộng đầy ảo tưởng, không biết lợi dụng thế giới và thời gian. Ngược lại người công giáo lại gọi kẻ dấn thân hoàn toàn vào trần thế mà quên đi thực tại siêu việt, là kẻ mù quáng thiển cận và suy bại. Đó là những lập trường không thể đội trời chung. Một đàng quá ích kỷ vụ lợi, một đàng đòi xả kỷ hy sinh; một đàng thích hưởng thụ, một đàng thích dâng hiến cuộc sống. Để đáng được làm môn đệ của Chúa Giêsu, phải nắm vững lập trường: Sẵn sàng chịu thua thiệt để được lợi lộc. Thái độ chấp nhận này sẽ biến đổi tất cả đời sống. Không gì nguy hiểm hơn việc tối thiểu hoá tinh thần bắt chước Đức Kitô. Dù sao, không thể vừa thuộc về Thiên Chúa vừa thuộc về ma quỷ. Thiên quốc vinh quang của Thiên Chúa thực bao la! Được vĩnh viễn tham dự vinh quang này là một ơn huệ cao trọng, vì thế ta sẵn sàng bỏ những gì khác để đền đáp ơn huệ này. Đó là một thái độ đáp trả vô điều kiện, phát xuất từ một tâm hồn vui vẻ, bằng lòng bước theo đường Thánh giá, chịu vác Thánh giá hằng ngày. Chết là điều kiện tiên khởi và tuyệt đối để được sống lại. Chỉ có ai hiểu được điều ấy mới là người Công giáo.
41. Điều kiện theo Chúa Giêsu
Con người bản năng dễ có khuynh hướng vỊ kỷ và tìm sự dễ dãi trong cuộc sống, không muốn cực khổ. Tuy nhiên lý trí và ý chí chúng ta lại có xu hướng vươn lên cao, muốn chinh phục cả những cái xem ra vượt quá sức mình, vượt qua mọi trở ngại và giới hạn của chính mình để đạt tới một tầm vóc cao hơn, siêu vượt thế giới vật chất đầy giới hạn này. Chúa Giêsu biết rõ bản tính con người với những ưu khuyết điểm, Ngài không đến để huỷ bỏ bản năng con người nhưng muốn chúng ta dùng lý trí hiểu biết và ý chí để làm chủ và thăng tiến bản thân, mỗi ngày một nên thánh thiện hơn, tương xứng với tầm vóc làm con Thiên Chúa. Để đạt được tầm vóc ấy, Chúa Giêsu đưa ra điều kiện: từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy Chí Thánh.
Trước nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu là người vác Thánh giá đi đầu trong đoàn người tiến về nhà Cha. Mục đích Ngài xuống trần gian là để phục vụ loài người! Thiên Chúa mà lại hạ mình làm người để giúp đỡ, để cứu chuộc loài người khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và sự chết. Đối với tình yêu Thiên Chúa thì con người chỉ chỉ biết ca tụng luôn mãi mà thôi. Tình yêu Chúa ban cho chúng ta không có gì sánh bằng, nhân loại không thể làm gì để đền đáp tương xứng được. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì Chúa chỉ cần chúng ta yêu mến Ngài, thể hiện qua việc vâng phục, sống theo lời Chúa dạy để được ơn cứu độ. Chúng ta không được phí phạm ơn Chúa, nhưng phải cố gắng hết sức để làm phát triển những ơn ban của Chúa nơi cuộc sống trần gian này. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta quá đỗi, Ngài không chỉ đến ở với loài người mà còn hy sinh lãnh lấy tội của loài người nữa, bao nhiêu tội lỗi nặng nề Chúa chịu hết, bao nhiêu sỉ nhục con người đáng phải chịu thì Chúa Giêsu Kitô đã mang lên cây thập giá, không than trách mà bằng lòng chịu vì chúng ta cho đến chết!
Các môn đệ lúc đầu vì chưa hiểu nên còn tranh nhau những sự phù vân ở đời này, họ còn mong danh vọng và hạnh phúc chóng qua. Chúa Giêsu phải nhắc nhở họ, hướng họ đến thực tại cao hơn. Để được vinh quang thật sự, các môn đệ phải chấp nhận vác thánh giá, đi trên con đường hẹp dẫn đến Nước Trời. Đức Giêsu đã tỏ cho các môn đệ biết: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra. Chúa Giêsu chịu thiệt ở đời này vì yêu chúng ta. Ngài đã chết để cho chúng ta hiểu tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và chứng tỏ cho chúng con thấy giá trị thật của loài người, giá trị của hạnh phúc bất diệt đời sau.
Chúng ta không bám vào cuộc sống đời này: ngắn ngủi, mau qua, không bền vững. Chúng ta phải ý thức về sự thật này luôn luôn và chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Xưa kia Phêrô không chấp nhận sự hy sinh của Thầy ở đời này, ông đã ra sức ngăn cản nhưng Chúa Giêsu đã quở trách ông về tư tưởng phàm trần này. Ngài tiếp tục dạy cho các môn đệ biết đường về nhà Cha: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai dám liều mình vì Thầy sẽ được sống.
Người đời thường tham sinh huý tử nhưng người kitô hữu có niềm tin thì thắng vượt cái thường tình này, không cố bám víu cuộc sống này. Cuộc sống trần gian vốn bất toàn chóng qua chóng mất. Đó là qui luật của vật chất. Chúng ta không chỉ có thân xác vật chất, mà còn có linh hồn thiêng liêng bất tử, thân xác chúng ta chóng già cỗi nhưng linh hồn không như vậy. Vậy chúng ta phải làm sao? Chúng ta hãy làm theo lời dạy của Thầy Chí Thánh để tìm về căn nguyên của mình, cố gắng về quê thật của mình và sẽ được Cha chúng ta ban cho gia tài không thể tàn phai nhưng có giá trị vô cùng. Lúc đó, chúng ta được hạnh phúc tràn trề, không sợ phải đau khổ nữa. Từ hôm nay, tôi sẽ sống đúng lời Chúa dạy để tâm hồn luôn được an bình ở đời này và hạnh phúc viên mãn đời sau. Thiên Chúa công bằng vô cùng, Ngài sẽ thưởng phạt công minh xứng với việc chúng ta đã làm ở trần gian.
Lạy Chúa Giêsu, cách nhìn của chúng con còn đầy giới hạn, thiển cận, chưa biết bám vào Chúa, chưa đầu tư đúng mức cho cuộc sống mai sau. Xin Chúa thứ tha và mở trí cho mỗi người chúng con biết nhìn ra sự thật, dám bỏ mình, vác lấy Thánh giá Chúa trao mà bước trên con đường về nhà Cha, đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con trên Thiên Quốc và được cuộc sống viên mãn bên Ngài mai sau.
42. Chúa Giêsu Kitô là ai? – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Có một bài thơ cổ do tác giả vô danh về "Trang Giấy Gấp Lại". Bài thơ này bằng tiếng Anh, nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt, chúng ta chỉ đọc lấy ý mà thôi, đại ý bài thơ như thế này:
"Trên gác nhỏ ngôi nhà mái lá
Những giọt mưa trên mái lá.
Tôi vẫn mở những quyển tập cũ
Bất chợt cho tôi gặp thấy
Một trang tập đã bị gấp lại
Và bên ngoài tôi đọc thấy
Dòng chữ do chính tay tôi viết
Lúc còn thiếu thời như sau:
Thầy giáo chúng ta bảo ta rằng,
Hãy tạm gác lại vấn đề.
Vì ở đây ngay trong lúc này
Nó quả thật là khó hiểu.
Tôi mở trang tập bị gấp lại
Đọc vấn đề tôi đã viết,
Mỉm cười tôi gật đầu rồi nói
Đúng vậy, thầy giáo nói có lý
Bây giờ tôi mới hiểu ra.
Có nhiều trang sách của cuộc đời
Đã ghi lại thật khó hiểu.
Bây giờ ta hãy xếp lại đây
Và để lại nơi bên ngoài.
Thầy cao cả của chúng ta bảo
Hãy để những vấn đề này nằm yên,
Vì chúng thật khó hiểu,
Rồi ngày kia trên thiên đàng
Chúng ta hãy mở ra và đọc,
Rồi chúng ta có thể nói
Thầy cao cả thật là có lý,
Bấy giờ chúng ta mới hiểu.
Bài thơ này như là một kinh nghiệm sống, có những điều bây giờ trong cuộc đời chúng ta không thể hiểu, trên thiên đàng, đọc lại chúng ta sẽ hiểu. Điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay quả thật là khó hiểu, khó hiểu cho các ngài và cũng khó hiểu cho chúng ta hôm nay khi phải đối diện với điều mà Chúa Giêsu gọi là thập giá trong cuộc đời: "Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo Thầy".
Bài Phúc Âm hôm nay trích liền với bài Phúc Âm tuần trước (x. Mt 16,12-23) trả lời cho câu hỏi: "Các con bảo Thầy là ai?", thánh Phêrô đã nhanh nhẹn trả lời: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Đây là một lời tuyên xưng Đức Tin trọn vẹn, nhưng không phải do tự sức người của Phêrô mà là do ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu lúc đó đã khen Phêrô là kẻ: "Có phúc", vì được Thiên Chúa Cha chúc phúc mạc khải cho biết sự thật về Chúa Giêsu, và liền đó có thể nói chúa Giêsu đã lên chức cho Phêrô, đặt ngài làm đá tảng nâng đỡ trọn vẹn Giáo Hội của Chúa: "Phêrô con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Nhưng sau đó, Phêrô đã không hiểu và sống trọn vẹn điều ngài đã tuyên xưng. Phêrô đã sa ngã và trở lại theo tâm thức tầm thường của con người, là không chấp nhận Thầy cao cả về quyền năng mà bị hạ nhục, bị giết chết trên thập giá ở Giêrusalem. Vì thế, khi nghe Chúa nói về cuộc khổ nạn của Ngài tại Giêrusalem, thánh Phêrô đã cản đường: "Lạy Thầy không thể thế được, Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu!". Nhưng Chúa Giêsu trách Phêrô là Satan, là kẻ cản đường, là kẻ thù của Chúa, không hiểu trọn vẹn về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại.
Con đường cứu rỗi phải đi qua thập giá, Chúa Giêsu đã đi trọn vẹn con đường này và Ngài cũng muốn cho đồ đệ của Ngài đi theo con đường đó: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Ta". Thầy Cao Cả của chúng ta có lý, bây giờ chúng ta không thể hiểu. Chúng ta chỉ hiểu khi chúng ta được gặp Ngài trên thiên đàng như bài thơ đã nói: "Thầy Chúng Ta Thật Có Lý", khi chúng ta mở lại những trang cuộc đời của mình với những khó khăn, những thập giá, những điều khó hiểu trên thiên đàng.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con can đảm, trung thành cho đến cùng mà đi trọn con đường Chúa muốn cho mỗi người đi qua, con đường này không phải chỉ với những vinh quang mà thôi, nhưng với nhiều thập giá đau khổ.
Trong bài đọc II hôm nay (Rm 12,1-12), thánh Phaolô Tông Đồ đã mời gọi mỗi người hãy dâng hiến đời mình làm của lễ sống động và thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng hiến trọn cuộc đời làm của lễ dâng hiến sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con củng cố đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
nguon:http://gplongxuyen.org/News