Chúa Nhật 25/10/2020 – Chúa Nhật 30 Thường Niên năm A. – Thi hành Ý Cha.

Chúa Nhật 25/10/2020 – Chúa Nhật 30 Thường Niên năm A. – Thi hành Ý Cha.

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

 

Lời Chúa: Mt 22, 34-40

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40

 

1. Hai điều răn

(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội.

Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn,

có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng:

không trộm cắp, không tham lam, không giết người...

Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm

trước một danh sách những luật cấm và luật buộc,

cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.

Tôi phải thành thật tự hỏi:

Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không?

Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không?

Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.

Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu,

vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8).

Yêu là bước vào một đại dương mênh mông,

là dấn thân trên một con đường dài hun hút.

Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ.

Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước,

và mở ra những cánh cửa không ngờ.

Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.

Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu.

Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng

yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu.

Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu.

Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này.

Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một.

Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim,

Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi.

Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn.

Ai trong chúng ta dám tự hào

mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?

Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi.

Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm.

Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm.

Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất

làm đời sống thiêng liêng bị sa sút.

Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém:

yêu người thân cận như chính mình.

Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào!

Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình

đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác.

Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình.

Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến.

Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi.

Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.

Hai điều răn trên không thể tách rời nhau.

Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.

Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.

Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ.

Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em.

Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?

* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

 

2. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn.

365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.

Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:

“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).

Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,

kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,

với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).

Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).

“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).

Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.

Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.

Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm,

đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.

Nhưng yêu với tất cả trái tim,

tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,

nghĩa là yêu với trọn cả con người mình,

thì điều đó không dễ.

Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.

Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình

là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.

Tất cả đều nhằm làm cho Ngài

được mọi người nhận biết và tôn vinh.

Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.

Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.

Yêu thương và tôn trọng họ

đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.

Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.

Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau,

thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân

như phương tiện lót đường để ta tiến thân.

Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người,

chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình

và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.

Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.

Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,

mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,

trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.

Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,

“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),

đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô:

“Thầy biết con mến Thầy.”

Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.

Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).

Một tình yêu tha thứ đến vô cùng,

một tình yêu đối với cả kẻ thù,

một tình yêu phục vụ như người tôi tớ,

một tình yêu dám hiến mạng.

Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu

và cuộc đời chỉ là tình yêu.

Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.

Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.

Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó,

để chúng nên một tình yêu.

Cầu nguyện:

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!

Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,

vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng!

Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài,

con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.

Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.

Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa.

Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,

trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.

Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con.

Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con.

Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức,

và giờ đây hối hả quay về với Chúa.

Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người.

Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây

con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)

 

3. Mến Chúa và yêu người

Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.

Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình”

Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.

Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.

Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con” (Kn. 8, 19-21). “Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người” (Kn. 16, 26).

Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I – Xh. 22, 21-22)

Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.

Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?

Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v… ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình “thì anh em còn được công chi?” (Mt. 5, 46).

Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.

Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.

Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm. 8, 35-37).

Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.

 

4. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ đề: Yêu thương là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,36)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.

II. Gợi ý sám hối

Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.

Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.

Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Xh 22,21-27)

Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người Do Thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.

Ðoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.

2. Ðáp ca (Tv 17)

Ðây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Ðá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.

Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.

3. Tin Mừng (Mt 22,34-40)

Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Ðức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.

Câu hỏi là: "Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất". Ðây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do Thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.

Câu trả lời của Ðức Giêsu rất xuất sắc: một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy - mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương - là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.

4. Bài đọc II (1 Tx 1,5c-10) (Chủ đề phụ)

Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Ðoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.

IV. Gợi ý giảng

1. Một lời để ghi nhớ: ngươi phải yêu mến

Ðúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Ðiều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình... Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.

Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Ðiều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Chỉ có một mình Chúa là Ðấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người! Còn về người thân cận, Ðức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Ðây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Ðức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12).

 

Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời... Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người... Ðiều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Ðức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.

Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo.

Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp…! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)

2. Một từ tóm tắt tất cả Phúc âm: Yêu mến

Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.

Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Ðấng yêu mến chúng ta?

Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến:

Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi biết có ai mà không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi... Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).

Trình độ thứ hai: thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.

Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.

Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ? Bạn hãy nói cho tôi biết bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng! Tất cả thái quá trong lãnh vực này - quảng đại thái quá - có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.

Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer), có thế thôi! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì Ta yêu là yêu thôi. Ðó mới là đỉnh cao của "tình cho không biếu không".

Hãy nhìn nhận điều này: ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Ðức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Ðức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Ðức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.

Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.

(H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)

3. Những chữ đi sau chữ "yêu"

Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ "như chính mình ngươi".

"Hết" là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ Do Thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể: "lòng" cũng có nghĩa là cả con người, "linh hồn" và "trí khôn" cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình." Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình".

"Như chính mình" nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.

Tóm lại, những chữ đi sau động từ "yêu" nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.

4. Bắt đầu yêu mình trước

Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu bảo "Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi". Có thể hiểu là: hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.

Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi:

- Dân trong thành này là người thế nào?

- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?

- Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.

- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.

Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi:

- Dân trong thành này là người thế nào?

- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?

- Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.

- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.

Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.

Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý: Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)

5. Chuyện minh họa: Tin Mừng trọn vẹn

Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.

Ðến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Ðang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi:

- Thầy đã phạm luật!

Thầy Môsê khiêm tốn trả lời:

- Ðúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.

Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.

6. Mảnh suy tư

Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.

Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.

Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

1. Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.

2. Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc /; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.

3. Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.

4. Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.

CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết "Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa". Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin...

VI. Trong Thánh Lễ

Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Chúa là Cha chúng ta "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn" ta, cũng như yêu thương tha nhân là anh em chúng ta "như chính mình" ta vậy.

Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con luôn cố gắng thực thi điều răn quan trọng nhất là Yêu thương. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."

VII. Giải tán

Chúc anh em ra về và sống yêu thương trọn vẹn đối với Chúa cũng như đối với tất cả mọi người.

 

5. Mến Chúa yêu người

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất. Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.

Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm: Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn, một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn này.

Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng, họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.

Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu thương.

 

6. Điều răn trọng nhất

MINH HỌA LỜI CHÚA

1. Mến Chúa và yêu người

Một thanh niên bị công an tầm nả gắt gao. Trên đường tẩu thoát, anh xin tá túc trong một xóm đạo. Giáo dân che giấu anh tận tình. Nhưng thấy công an đến lục soát và hăm dọa nếu không bắt được người thanh niên đó, họ sẽ thiêu rụi xóm đạo và giết chết hết nên giáo dân sợ tìm đến hỏi ý kiến cha xứ. Cha vừa thương người thanh niên vừa sợ cho giáo dân nên không quyết định ngay được. Cha vào phòng đọc Kinh Thánh mong tìm được tìm giải pháp. Cha tìm thấy ông Caipha nói về cái chết của Chúa Giêsu: "Thà một người chết còn hơn cả một dân tộc bị tiêu diệt". Tin đó là Lời Chúa soi sáng, cha bảo giáo dân nộp người thanh niên cho công an và anh bị xử tử. Cái chết của anh thanh niên mà cha biết là vô tội đã dày vò tâm trí cha. Cha giam mình trong phòng để sám hối.

Một sứ thần đến tra vấn cha. Cha đáp:

- Tôi đã nộp người thanh niên đó cho kẻ thù.

Sứ thần tiết lộ cho cha biết:

- Người thanh niên đó chính là Chúa Giêsu.

Lời tiết lộ của sứ thần làm cho cha càng bối rối thêm. Thấy vậy, sứ thần dẫn giải:

- Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.

Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.

Chắc chắn anh ta là Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã chẳng đồng hóa với tha nhân đó sao?

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo: "Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình" (Mt. 22, 37-39).

Mến Chúa là thương người. Thương người là mến Chúa, vì Chúa đã đồng hóa với tha nhân, và mỗi người là hình ảnh Chúa. Chính vì thế, thánh Gioan đã xác quyết: "Kẻ nào bảo mình mến Chúa mà không thương người là nói dối. Vì tha nhân mình thấy trước mắt mà không thương thì làm sao mến Chúa mình không thấy được" (1 Ga. 4,20).

Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta hai giới răn chính yếu Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay. Đó là "mến Chúa yêu người". Không thể kính mến Chúa mà ghét bỏ con người. Cũng không thể yêu mến con người mà từ bỏ Chúa.

Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, để con người nhận ra mình trong anh em và mến người anh em như chính mình. Như thế "mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất cao trội". Hễ kính mến Thiên Chúa là yêu thương anh em. Nếu không anh em thì không thể nhìn nhận Thiên Chúa và kính mến Người được. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).

2. Người ta thương yêu ông dường nào

Một cuốn phim nói về cậu bé 7 tuổi với ông nội giàu có và đang quản lý nhiều công nhân. Ông là con người ích kỷ, độc ác, bắt công nhân làm việc cực nhọc và nhiều giờ để trục lợi, mà trả lương rất kém. Những ai đã làm việc cho ông đều than phiền ông, nhưng vì không có việc làm nên đành phải chịu vậy.

Trong khi đó, cậu bé quá thần tượng ông mình, nên không nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình là người quảng đại nhân từ. Cậu thường nói với ông:

- Nội ơi! Người ta thương nội biết dường nào. Vì nội nhân từ quảng đại với họ. Con dám chắc người ta thương nội như con thương nội vậy.

Tình yêu và lời nhắc nhở của cậu bé lần hồi thay đổi được lòng ông lão. Ông đã trở nên người quảng đại nhân ái như đứa cháu ông nghĩ về ông.

Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Giêsu có thể thay đổi tâm hồn chúng ta, và ban cho chúng ta sức mạnh thực thi bác ái đối với tha nhân và lòng mến đối với Thiên Chúa.

Việc làm biểu lộ tình yêu rõ rệt và cao cả nhất của Chúa Giêsu là chết treo trên khổ giá.

Trước hết, nó là dấu chỉ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì "không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga. 15,13).

Kế đến, việc Chúa Giêsu đóng đinh mời gọi chúng ta đến với tình yêu. Người bảo chúng ta: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga. 15,12). Người dạy chúng ta biết: chúng ta có thể hy sinh giúp đỡ kẻ khác như người đã hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta.

Sau cùng, ngoài dấu chỉ tình yêu, lời mời gọi đến tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn mạc khải cho chúng ta biết tình thương kéo theo đau khổ: yêu thương giúp đỡ kẻ khác sẽ đem lại đau khổ mất mát cho chính mình, như Chúa Giêsu vì thương chúng ta, để cứu rỗi chúng ta phải chịu chết trên khổ giá.

Như thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết điều răn trọng nhất trong đạo là "mến Chúa yêu người". Và Người mời gọi chúng ta thực thi điều răn đó, bằng cách nêu gương cho chúng ta khi Người chịu chết treo trên thập giá, để làm dấu chỉ tình yêu của Người, để mời gọi chúng ta đến tình yêu và mặc khải cho chúng ta biết tình yêu luôn luôn kéo theo đau khổ mất mát. (Theo "Sunday homilies").

3. Thị kiến hay phục vụ

Đã nhiều năm một vị tu sĩ cao tuổi cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông nhưng chưa được Chúa nhận lời. Trong lúc ông buồn phiền thất vọng thì Chúa hiện ra. Ông mừng quá, quỳ gối tiếp kiến Chúa!... Bỗng hồi chuông tu viện báo hiệu giờ phút phát chẩn cho người nghèo đã đến, và ông là người có trách nhiệm đó. Làm sao đây? Ở lại tiếp kiến Chúa hay đi giúp đỡ người nghèo? Ông suy nghĩ một lúc rồi xin phép Chúa đi làm bổn phận.

Khi làm xong bổn phận, ông trở về phòng, vẫn nuối tiếc vì không được diện kiến Chúa như lòng ước nguyện. Nhưng khi mở cửa phòng, ông không thể tin vào mắt mình: Chúa còn ở đó chờ ông, ông mừng rỡ quỳ xuống cảm tạ Chúa. Chúa liền nói:

- Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo. Ta không ở lại đây chờ con.

Câu chuyện trên đây minh họa tuyệt vời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: "Con hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con, và hãy yêu người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39). Vị tu sĩ lão thành trên đây đã làm đúng ý Chúa Giêsu. Ông đã học được phương thế tốt nhất để kính mến Chúa. Kính mến Chúa không nhất thiết phải từ bỏ mọi sự, phải quay lưng lại với tha nhân, mà thực hiện điều căn bản nhất là phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.

Một Kitô hữu vĩ đại thời nay là Albert Schweizer, người đã từ biệt những buổi hòa nhạc nổi tiếng ở Châu Âu đi làm bác ái thừa sai phục vụ người nghèo ở Phi Châu đã nói: "Tôi không biết bạn kính mến Chúa bao nhiêu. Tôi chỉ biết một điều là ai biết tìm và thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự kính mến Chúa như lời thánh Gioan khẳng định: "Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga. 4, 20-21). (Theo "Thiên đàng là thế đó").

4. Mến Chúa trong tha nhân

Cách đây ít lâu, đài truyền hình Ý đã đưa ra một hình ảnh tra tấn dã man tại một số nhà tù ở Mỹ, là một nước tự hào là dân chủ tự do, tôn trọng nhân phẩm con người. Những hình ảnh tra tấn dã man đó là nguyên cớ sinh ra hận thù, bạo lực. Có sức mạnh nào thay đổi được thảm trạng hận thù bạo lực giữa con người không? Một linh mục đã từng bị tù ngục bất công trong nhiều năm kể lại: Trong thời gian bị giam, một đêm nọ tôi đau quá. Thấy người lính gác đi ngang qua, tôi liền nói:

- Này anh, anh thương cho tôi thuốc uống.

- Ở đây không có tình thương.

Đó là bầu không khí đè nặng chúng tôi trong tù ngục. Nhưng rồi một đêm lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe có tiếng nhắc nhở tôi: "Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm! Con còn mang tình thương Chúa Giêsu trong lòng con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu thương yêu con..."

Thế là tôi bắt đầu yêu thương họ, yêu mến Chúa trong họ, tươi cười với họ, trao đổi với họ. Dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Bầu khí nhà giam thay đổi hẳn. Quan hệ giữa họ và tôi cũng bắt đầu tốt đẹp thân thiện. Từ đó tôi quyết tâm làm theo Lời Chúa Giêsu: "Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em con là làm cho chính ta".

Sự thay đổi bầu khí nhà tù và mối quan hệ thân thiện trong câu chuyện trên đây là do sức mạnh của tình yêu: yêu Chúa qua tha nhân. Quả thế ở đâu có tình thương, ở đó có an bình vui tươi và hạnh phúc vì có Chúa hiện diện và ngự trị, có ngôn ngữ của bác ái. Đức ái liên kết mọi người nên một, đạp đổ hận thù, nghi kỵ. Bác ái chính là chứng tích nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.

Bản tính con người hạn hẹp yếu đuối dễ sai lầm, và sai lầm nhiều nhất là không nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Thế nên trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp một người trong nhóm Biệt Phái hỏi thử, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều răn trọng nhất, cốt yếu nhất, tóm lại tất cả lề luật và lời các ngôn sứ: đó là:

"Con phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con...

Và phải thương người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39).

Chúng ta hãy xin Chúa ban cho một trái tim như trái tim Chúa, để có thể kính mến Chúa tha thiết qua anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).

5. Yêu người không thấy mặt

Một trung úy Hải quân Hoa Kỳ thuật lại:

Qua mục "Tìm bạn bốn phương" trong báo chí, anh quen được một người con gái ở New York. Sau một thời gian thư từ qua lại, hai người yêu nhau. Nhưng có điều là chàng trung úy không vui là cô gái không bao giờ gởi hình cô cho anh, và anh muốn biết mặt cô. Cô giải thích:

- Nếu anh yêu em thực sự, thì diện mạo bên ngoài của em đâu phải là quan trọng. Giả như em đẹp, em sợ rằng anh yêu em chỉ vì sắc đẹp, đó là điều làm cho em thất vọng. Ngược lại nếu em xấu thì sao? Anh có yêu em không?...

Khi nào anh về New York, anh sẽ thấy em, và lúc đó anh sẽ quyết định.

Và họ hẹn gặp nhau tại ga xe lửa New York. Vừa đến điểm hẹn, chàng trung úy gặp ngay cô gái đang đứng chờ mình. Anh chưa kịp tự giới thiệu thì cô ta đã lên tiếng:

- Thưa ông, tôi không biết có chuyện gì giữa ông và cô gái đang đứng bên kia đường. Vừa thấy ông, cô ấy đã vội vã sang đó, và nhờ tôi gặp ông nói dùm: Cô ấy chờ ông ở trong quán bên kia đường.

Chàng trung úy vội vã sang bên kia đường, đến quán ăn nơi người yêu đang chờ đợi. Và họ đã gặp nhau vui mừng phở lở.

Câu chuyện trên đây nói lên tình yêu giữa người với người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng như một cuộc tình, trong đó chúng ta yêu thương một người mà chúng ta chưa hề thấy mặt. Người tình không chân dung đó chính là Thiên Chúa. Trước khi chúng ta thấy mặt diện đối diện, trước khi cho chúng ta chiêm ngắm dung nhan Người, Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta qua dung mạo của người anh em đồng loại chúng ta.

Do đó, cuộc sống của chúng ta tại thế cũng giống như cuộc tập dợt yêu thương từ một tình cảm vị kỷ, tình yêu của chúng ta ngày càng được thanh luyện để trở nên siêu nhiên hơn. Qua bao nhiêu người đồng loại chúng ta gặp mỗi ngày, Thiên Chúa không ngừng đến với chúng ta. Một tình yêu đích thực mà muốn chứng tỏ với Chúa sẽ được đo lường qua chính tình thương mà chúng ta thể hiện với tha nhân, nhất là qua những người mà tự nhiên không bao giờ chúng ta muốn tìm đến gặp gỡ.

Có thực hiện được như thế, chúng ta mới tuân giữ được giới răn trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn thành bổn phận đối với Chúa và với đồng loại. Khi đó chúng ta mới xứng đáng lời Chúa Giêsu mời gọi: "Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các con đã cho ăn; Ta khát các con đã cho uống; Ta là khách lạ các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu các con đã chăm nom; Ta ngồi tù các con đã đến viếng" (Mt. 25, 34-36)

(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).

 

7. Tình Chúa tình người - AM Trần Bình An

Malala Yousafzai đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào hôm thứ Sáu, ngày 10 tháng 10, 2014 cùng với ông Kailash Satyarthi cho những nỗ lực tranh đấu chống lại sự áp bức đối với trẻ em và quyền của giới trẻ, trong đó có quyền được giáo dục.

Malala Yousafzai, người Pakistan, năm nay 17 tuổi là người trẻ nhất trong lịch sử được vinh dự nhận giải Nobel Hòa Bình trong danh sách những người nhận giải nổi tiếng như Martin Luther King Jr., Nelson Mandela and Mẹ Teresa.

Hai năm trước đây Malala Yousafzai bị quân khủng bố cực đoan Taliban bắn vào đầu và cổ bởi vì những tranh đấu của cô đòi quyền được giáo dục cho các em gái nhỏ ở Pakistan. Sau khi hồi phục từ cuộc giải phẫu, Malala đã mở rộng phạm vi chiến dịch vận động ra thế giới bên ngoài và trở thành tiếng nói đi đầu cho quyền được giáo dục của các trẻ em phái nữ.

Từ khi mới 11 tuổi Malala Yousafzai đã bắt đầu có những buổi trả lời phỏng vấn và chuyển tải những thông điệp của cô về sự quan trọng của giáo dục đối với các bé gái. Lúc bấy giờ Taliban đã chiếm đóng thành phố của cô và đe dọa sẽ phá hủy toàn bộ những trường lớp dành cho nữ sinh và ngăn cấm các bé gái đến trường.

"Mặc dù tuổi còn rất trẻ, Malala Yousafzai đã tranh đấu trong nhiều năm cho quyền được đến trường của trẻ em gái. Cô là tấm gương chứng minh rằng trẻ em và thế hệ trẻ cũng có thể đóng góp để cải thiện hoàn cảnh của chính mình. Và Malala đã làm điều đó trong những điều kiện vô cùng nguy hiểm. Qua cuộc tranh đấu hào hùng của cô, cô đã trở thành phát ngôn viên hàng đầu cho quyền của trẻ em gái được học hành." Ủy ban Nobel đã tuyên bố.

Malala Yousafzai hiện đang theo học tại Birmingham, Anh Quốc và cô nhận được tin thắng giải Nobel Hòa Bình vào sáng thứ sáu khi đang ở trong lớp hóa học. Phát biểu cảm tưởng về giải thưởng, Malala nói rằng cô không tin là cô xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình. Tuy nhiên, cô xem đây là một khích lệ lớn lao để cô tiếp tục và biết rằng cô không cô đơn trên con đường tranh đấu của cô.

"Đây chỉ là bước khởi đầu, trẻ em trên toàn thế giới cần đứng dậy cho những quyền của mình mà không phải chờ đợi ai khác," cô nói. (Theo CNN & USA Today)

Cô bé Malala Yousafzai tuy tuổi nhỏ nhưng đã chín chắn trưởng thành, ý thức tranh đấu cho nữ quyền, mặc dù nguy hiểm đe dọa tính mạng. Cô can đảm xả kỷ, xả thân cho lý tưởng phụ nữ bình quyền. Phải có một tình yêu tha nhân cháy bỏng, cô mới có thể kiên trì dấn thân. Điều không phải ai cũng dễ dàng làm được, dù có thừa lợi thế hơn cô bé.

Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố hai giới răn quan trọng nhất. Đó là mến Chúa, yêu người. Tuy vắn tắt, đơn giản nhưng thực hiện không hề dễ.

Khi con người bị đột biến gien

Trong sáng, thành thật, dễ thương, trẻ thơ là hình ảnh Đức Giêsu muốn nhắn nhủ, gửi đến những ai mong được hưởng Ơn Cứu rỗi, được vào Nước Trời. Nhưng dù lên non tìm động hoa vàng đi nữa, chắc mấy ai có thể cải lão hoàn đồng, khi cái tâm vẫn còn lục dục, thất tình, tham sân si?

Vốn nhân chi sơ tính bản thiện, trẻ thơ sống hồn nhiên, vô tư, ngay lành trong tình yêu của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Thiên Chúa đã đặt dấu ân Tình Yêu trên bản sao của Ngài.

Tiếc thay dấu ấn đó phai mờ dần, khi con người lớn lên, chịu ảnh hưởng thói xấu, gian trá, lưu manh, háo lợi, háo danh, háo chức, háo quyền lực của bá tánh, của môi trường xã hội.

Khi này lương tâm hạ cấp thê thảm. Lương tâm không bằng lương bổng! Thay vì làm con thơ yêu thương của Thiên Chúa, lại cam phận nô lệ cho ba thù, xác thịt, thế gian và ma quỷ, mà Thánh Phaolô đã phải chua xót thốt lên: “Họ chẳng phục vụ Đức Kitô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính cái bụng của mình!” (Rm 16, 18)

Tình yêu trong sáng chấp cánh bay đi, chỉ còn tình hận, tình phụ và tình thù. Con người bị đột biến gien, bị văn minh sự chết cấy sinh tử phù dở sống dở chết, cấy gien tự hoại, tự hủy, như Cty Monsanto cấy gien vô sinh vào hạt giống (GMO), để độc quyền cung cấp giống thực vật, động vật đã đăng ký bản quyền.

Khi Đấng Cứu Thế đến giải thoát con người

"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12) Đây chính là lệnh truyền, cũng như điều răn của chính Đức Giêsu phán dạy. Ngôn hành hiệp nhất, Người đã yêu thương con người, đến giảng dạy và chứng mình lời nói bằng chính cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại để giài thoát con người khỏi kiếp nô lệ và cái chết đời đời.

Người đem Tình Yêu cao quý, sáng ngời, nóng bỏng, đến đốt cháy sự chết, gian tà, kiêu căng, hợm hĩnh, xa hoa, giả hình. Tình Yêu xóa tan hận thù, đố kỵ, chia rẽ, để tất cả thương yêu, hiệp nhất với nhau và với Người. “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.” (Ga 17, 20-21) Nên một với Đức Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người, thì con người sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương con người.

Khi con người biết yêu mến Thiên Chúa, tôn thờ, ngợi khen và cảm tạ, cũng là lúc biết sám hối, thành khẩn tìm về với Ngài, mong muốn Ngài luôn hiện diện trong thế giới đang ra sức chổi bỏ Ngài, từ khước và vô ơn bạc nghĩa với Ngài.

“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 39)

Thắm đậm Tình Yêu Thiên Chúa, con người mới mở rộng cõi lòng đến với tha nhân, mới có thể yêu tha nhân như chính mình. Mới biết đem đến tha nhân những tinh túy Tình Yêu, tình người, lòng bác ái, tình yêu thương, đùm bọc, che chở, chia sẻ và giúp đỡ tận tình.

“Vì yêu thương, ta sẵn sàng hy sinh tất cả: “Để thế gian biết Đức Chúa Cha yêu Thầy và Thầy yêu mến Đức Chúa Cha, chúng ta hãy chỗi dậy và ra đi.” (Đường Hy Vọng, số 159)

Lạy Chúa, xin gột rửa trái tim chúng con nên trong sạch, tẩy đi những dấu vết, hoen ố, tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng, đam mê xác thịt, thế gian, để chúng con xứng đáng đón rước Tình Yêu đại lượng cao cả của Thiên Chúa. Xin Chúa cải hóa chúng con trở lại con người chân chính, nguyên thủy mà Chúa đã yêu thương tạo dựng, để chúng con luôn biết kính yêu Chúa, tôn thờ và cảm tạ Chúa mãi, cũng như biết yêu thương tha nhân chân tình.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy dỗ, nhắc nhủ chúng con ngày càng thêm mến Chúa, yêu Chúa qua những bổn phận và trách nhiệm hằng ngày, trở nên chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa giữa tha nhân. Kính xin Mẹ nâng đỡ, hướng dẫn chúng con yêu thương tha nhân như chính Chúa vậy. Amen.

 

8. Mến Chúa yêu người

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.

Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.

Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.

Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.

Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.

 

9. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17) nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).

Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu, luật Do thái có 613 khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình. Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thì Ngài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. Nhưng Đức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”. Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau: Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?

1. Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?

Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:

Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua: Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta... Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.

Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải “ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:

Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!

Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.

Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.

Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.

Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.

Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.

Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.

Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác.

(8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)

2. Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?

Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:

Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).

Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).

Muốn điều tốt cho tha nhân là phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Muốn điều tốt cho tha nhân là phải biết giúp đỡ họ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).

Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng “chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.

 

10. Mến Chúa

Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?

Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.

Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.

Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.

Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.

 

11. Đôi cánh để bay lên - Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.

Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.

Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.

Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22,37-39).

Và qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).

Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.

Ảo tưởng

Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.

Nhưng sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.

Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.

Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.[1]”

Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.

Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì

- Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.

- Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.

Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.

Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.

Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ  “bay” lên tới thiên đàng.

Lạy Chúa Giê-su,

Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.

Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.

Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.

-----------------------------

[1] Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô.

 

12. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"

Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."

1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một

Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.

Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).

Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).

Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)

Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.

Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).

2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác

Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.

Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)

Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)

* * *

Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)

Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.

Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.

Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.

Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.

Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.

Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).

 

13. Ý nghĩa ba chữ "Hết"

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng…, ta mô tả: Tôi đã dành cho công việc đó biết bao thời gian, biết bao công sức, biết bao suy tư, biết bao tiền của…. Tức là nhiều lắm!

Rồi khi mô tả một người mệt quá sức, ta không chỉ nói mệt lắm. Nhưng có thể thêm: Ông ấy mệt thở chẳng ra hơi, nói không thành lời, tay giơ không nổi, chân động chẳng lay. Những kiểu mô tả đó nhằm nói lên một phó từ (trạng từ): lắm, rất, nhiều: rất mệt, gắng nhiều …

Khi Chúa Giêsu tóm tắt lề luật bằng một giới răn mà một trong hai, đó là “yêu Chúa thật nhiều” thì Kinh Thánh cũng dùng kiểu nói: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Nhưng ba cái “hết” đó có phải chỉ là nhiều lắm, hay còn có ý nghĩa gì thêm? Chắc hẳn là có nhiều ý nghĩa hơn, nhất là khi được gắn với động từ “yêu.” Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của ba cái “hết” đó.

Tôi tò mò mở lại vừa học vừa xem nguyên bản Kinh Thánh Do thái (Hipri) dùng 3 cái “hết” đó là những cái “hết” nào, còn Kinh Thánh Hi lạp thì dùng 3 cái “hết” nào.

Do Thái là Đông phương, thì: “hết trái tim, hết linh hồn, hết sức lực” (bơkôl lơbavơka, ubơkol nápơka, ubơkol mơôdeka).

Hy Lạp là Tây phương, viết: “hết lòng (kardia), hết linh hồn (shukhe), hết trí khôn (dianoia).

Người Tây phương nặng óc phân tích, nhất là người Hi Lạp. Thời kỳ khai nguyên Triết học Tây phương là thời đại của Hi lạp. Nói cách khác, Hi lạp là quê hương của các tổ sư Triết Tây, như  Socrates, Platon, Aristote, Zénon, Héraclite…, cho nên thay vì như kiểu nói Do Thái: “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,” thì Hi Lạp đã chữa “hết sức lực” thành “hết trí khôn”. Tại sao?

Trong chương trình Triết lớp 12 trước đây, người ta chia sinh hoạt con người làm 3 lãnh vực: đời sống tình cảm, đời sống hoạt động và đời sống tri thức (lý trí).

Vì thế: hết lòng, hết trái tim: đời sống tình cảm

Hết linh hồn: tức hết ý chí: đời sống hoạt động

Và thay vì hết sức như Do Thái, Hilạp đổi thành hết trí khôn: tức là đời sống tri thức, lý trí.

Mỗi đời sống có thể lệ thuộc nhau, nhưng cũng có thể độc lập.

Kinh nghiệm hoặc những cảnh diễn ra trước mắt cho ta thấy:

Một người chồng có thể yêu một người khác (đ/s tình cảm). Người chồng này có thể nhớ nghĩ một người khác (đ/s tri thức), và hành động theo ý người vợ trước mặt (đ/s hoạt động). Nói đại như sau: Anh Khanh có thể yêu cô Thương, nhớ cô Tưởng, nhưng lại tuân lệnh bà Xã là vợ của anh đang ở trước mặt.

Có thể ba đối tượng của yêu, của nhớ, của hành động cũng là một, mà cũng có thể là ba đối tượng khác nhau, hoặc hai đối tượng khác nhau: yêu và nhớ một người, và hành động theo lệnh một người khác. Trong một tiểu thuyết của Quỳnh Dao tôi không nhớ rõ, có mô tả chàng kia hỏi nàng nọ “tim em đập làm sao, óc em nghĩ cái gì và hồn em thuộc về ai,” thì nàng đã trả lời “tim em đập hai tiếng Tâm Đan, óc em nghĩ tới hai chữ Tâm Đan và hồn em thuộc về chàng trai mang tên Tâm Đan.” Tâm Đan chính là tên của chàng kia hỏi nàng nọ. Thiên Chúa đòi chúng ta ba đối tượng đó phải là một: một Chúa.

Yêu Chúa hết lòng (đời sống tình cảm), nhớ Chúa không nguôi (đời sống tri thức) và làm theo ý Chúa mãi (đời sống hoạt động). Đó là ý nghĩa mệnh lệnh Chúa theo bản Kinh Thánh Hy Lạp: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.”  Các thánh giáo phụ, đặc biệt Augustinô giải thích thêm cho ta:

Yêu Chúa hết lòng tức không yêu ai, yêu gì bằng Chúa. Có một trái tim thì Chúa ngự trị trọn vẹn trong đó.

Yêu Chúa hết linh hồn tức là yêu hết ý chí mình, sẵn sàng vâng theo ý Ngài, dù có phải chết. Chúng ta nghe nói đến thôi miên. Người bị thôi miên là mất hồn, không còn ý chí nữa, mà hành động theo lệnh của người thôi miên mình. Yêu Chúa hết linh hồn là như vậy: bị Ngài thôi miên để lúc nào cũng làm theo ý của Ngài sai khiến.

Yêu Chúa hết trí khôn nghĩa là luôn nhớ tới Chúa, không lúc nào ngơi. Nói theo kiểu nói của ngôn ngữ computer, thì yêu Chúa hết bộ nhớ luôn. Yêu Ngài, là out of memory. Tràn bộ nhớ. Không có cái nào khác lọt vào nữa.

Dân Israel ngày xưa và ngay cả ngày nay khắc ghi mệnh lệnh này của Đức Chúa một cách tuyệt đối. Đây là kinh Sơ ma, “Kinh Hãy Nghe” của họ. Chúng ta nghe trọn vẹn lời kinh “Hãy Nghe” theo bản dịch Hi Lạp:

“Hãy nghe, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết trái tim ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi, những lời ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ và thuật lại cho con cháu. Ngươi hãy lập lại các lời ấy lúc ngồi ở nhà, lúc đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Ngươi phải buộc những lời ấy vào tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Phải viết lên khung cửa nhà và khung cửa thành của ngươi” (Đnl 6, 4-8).

Là người Do thái, Đức Giêsu ngay từ nhỏ đã thuộc nằm lòng Kinh Hãy Nghe này rồi. Vì thế mệnh lệnh “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” phải là mệnh lệnh đệ nhất. Người Do Thái thời đó ai cũng biết, nên khi hỏi Đức Giêsu: Trong lề luật, điều nào trọng nhất? Ngài trả lời dễ dàng.

Nhưng cái hay, cái cả gan của Đức Giêsu là dám nói câu này: Còn một điều nữa cũng giống như vậy: Hãy yêu anh em. Đức Giêsu cả dám đặt “hãy yêu anh em” bằng, như “hãy yêu Chúa.” Đây là mảng đề tài lớn và phong phú mà chúng ta đã được giải thích và ngẫm nghĩ nhiều lần, nhiều cách. Hôm nay chúng ta không đả động gì tới điểm này. Chỉ xin nói một câu: Nếu Chúa Giêsu đã nói “toàn thể lề luật tóm lại trong hai giới răn đó” (mến Chúa, yêu người), thì chúng ta xin tóm tắt hai luật đó thành một: yêu người vì Chúa: ngươi hãy yêu mến anh em hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn vì Ta là Chúa. Bài đọc I rất thấm thía để minh hoạ thêm cho điều này. Chỉ trích tóm một câu: “Nếu các ngươi ức hiếp mẹ goá con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi” (x. Xh 22, 21-23).

Để kết luận: Tại sao phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thưa bởi vì Ngài yêu ta trước.

Trong cuốn “tự thuật”, một người cha ghi lại câu chuyện và ý nghĩ sau: một đêm kia trong lúc tôi đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: “Bố ơi, để con đếm xem trên trời có mấy ngôi sao?” Rồi tôi nghe nó đếm (1,2,3,…) trong khi tôi vẫn chăm chú đọc báo. Đến khi đọc xong bài báo tôi chú ý lắng nghe và tiếng đứa con gái vẫn tiếp tục 300, 301, 302…. Chợt nó dừng lại quay sang nói với tôi: Bố ơi con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế! Nghe con gái bình luận vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng nói với Chúa “Chúa ơi để con thử đoán xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa? Và càng đếm trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thấy phải thốt lên như con gái của tôi: Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế!”

Anh chị em thân mến,

Chúng ta cứ thử đếm mà xem, tưởng ít mà hoá ra vô số các ân huệ của Chúa. Tôi có thể kể cả giờ những ý tứ của lời Kinh Cám Ơn “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành… ,” lời kinh cho ta được một số ý niệm về ân huệ của Chúa.

“Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” vì Ngài yêu ta trước.

Mỗi thánh lễ là một lễ tế tạ ơn. Con người chúng ta tạ ơn không xứng. Ta phải hợp với Đức Chúa Con mà tạ ơn Đức Chúa Cha. Trước khi bước vào phần lễ tế tạ ơn, ta hãy tuyên xưng lòng tin của ta vào Đức Chúa.

 

14. Yêu thương - Con đường dẫn tới sự sống

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Mt 22: 34-40: Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.

Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.

Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín  trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: "Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).

Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã  cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của  mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.

Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.

Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.

Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.

Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói:  “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.

Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều  răn của Chúa đó  là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.

 

15. Vị thế tối thượng của tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)

Anh chị em thân mến,

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.

Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn.... Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con."

Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.

Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.

Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.

 

Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.

Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.

Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối... chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.

Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

 

16. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi

Chỉ còn lương thực tăng giá thôi

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực

Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

 

17. Thiên Chúa bảo vệ người nghèo

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu thương này, để mỗi người được hạnh phúc từng ngày.

1. Mỗi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa

Người đời có thể thiên tư tây vị, trọng người này khinh người kia, vì người này giầu người kia nghèo, vì người này đẹp người kia xấu, vì người này có tài còn người kia kém trí. Người đời có tiêu chuẩn của họ, còn đối với Thiên Chúa ai cũng là con Chúa, mọi người đều bình đẳng. Thiên Chúa tạo dựng tất cả và ban cho mỗi người nét đẹp riêng. Thiên Chúa tạo dựng con người với những khác biệt, người tài về điều này, người tài về điều kia. Ngài tạo dựng con người như ngón tay có ngón dài ngón ngắn, để con người có dịp giúp đỡ nhau, diễn tả tình tương thân tương ái.

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài muốn con người chinh phục vũ trụ này, để hưởng dùng và tôn vinh Thiên Chúa. Tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự như của cải trần thế người cha người mẹ để lại cho con cái; người cha người mẹ muốn con cái dùng tài sản đó mưu hạnh phúc cho tất cả anh em, nếu một người nào đó ỷ vào sức mạnh hoặc tài khéo của mình mà lấy hết tài sản cha mẹ để lại cho tất cả anh em, thì chắc cha mẹ người đó rất buồn. Cũng tương tự vậy, tài nguyên trên thế giới, Thiên Chúa ban cho tất cả con người, và Ngài muốn con người dùng nó để phát triển tài năng Ngài ban, và giúp con người diễn tả tình yêu đối với nhau. Vũ trụ, là phương tiện Chúa ban giúp con người phát triển chính mình.

Con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, con người nhận ra con người có giá trị vô cùng đối với Thiên Chúa, vì yêu con người nên Lời Thiên Chúa đã nhập thể và vĩnh viễn làm người. Con người thường không nhận ra nét tuyệt vời của mình và của người khác, tuy nhiên nơi những người yêu nhau người này có thể nhận ra nét tuyệt vời của người kia, và nét đẹp này người khác không thể thay thế được.

2. Thiên Chúa yêu thương con người, cụ thể người nghèo

Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài là Cha tất cả mọi loài, và đặc biệt con người. Thiên Chúa yêu thương cả người giầu lẫn người nghèo, cả người thông minh lẫn người chậm hiểu. Tuy nhiên với những người nghèo, hoặc những người bị những người quyền thế khác áp bức, Ngài lưu tâm đến họ một cách đặc biệt. Qua việc Ngài để ý đến những người nghèo và cô thân cô thế, người ta nhận ra giá trị tuyệt vời của con người và hiểu biết hơn về Thiên Chúa.

Thiên Chúa rất quảng đại và công bằng, Ngài cho tất cả mọi người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, để mỗi người tồn tại và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Không gì bắt Thiên Chúa phải tạo dựng con người, nhưng chỉ vì yêu mà Ngài tạo dựng họ; cũng không gì bắt Thiên Chúa một khi tạo dựng con người thì phải chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, thế nhưng Thiên Chúa đã cho con người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Một khi con người được tạo dựng, con người mãi mãi trường tồn. Mỗi một cá nhân thật mong manh và mỏng dòn, ấy thế nhưng lại là tạo vật đặc biệt, một tạo vật tồn tại vĩnh viễn và được yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành, nên mới tạo dựng và cho con người được những hồng ân đó.

Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng đôi khi người ta nói Thiên Chúa trừng phạt con người. Thực ra Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, Ngài không muốn con người đau khổ nhưng chỉ muốn con người hạnh phúc; nếu Ngài để những gì như thể “hình phạt” xảy ra, thì cũng là để giúp con người “giác ngộ”, nhận ra sự thật và trở về với chân thiện mỹ, để con người được hạnh phúc thật sự. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu thương. Thiên Chúa là Tình Yêu.

3. Yêu Chúa yêu người

Đối với những bậc sinh thành ra mình, người ta phải thảo hiếu. Hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người lương thiện. Với những người làm điều ác hoặc không lương thiện, họ có thể là người thành đạt và được thoả mãn về nhiều phương diện, nhưng dường như họ không hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, nên con người phải có bổn phận yêu kính Ngài. Không tôn kính Thiên Chúa, cũng tương tự như một người không yêu kính cha mẹ mình, thì không thể sống hạnh phúc đích thực được. Tuy nhiên không phải chỉ có những người nói tin kính Thiên Chúa mới là những người thờ kính Thiên Chúa thật, một người vô thần cũng có thể là người thờ kính Thiên Chúa mà chính họ không biết, nếu họ làm những điều thiện và sống theo lương tâm họ; và ngược lại cũng có những người mang danh Kitô-hữu, nhưng nếu họ làm ác thì họ vẫn không phải là kẻ thờ kính Thiên Chúa thật cho dù họ vẫn thực hiện những hành vi thờ phượng bên ngoài.

Yêu Chúa và thờ phượng Ngài, đó là điều mỗi người biết Ngài đều phải thực hiện. Tuy nhiên nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng thôi thì chưa đủ. Ai yêu Thiên Chúa thì cũng phải yêu con người. “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối.” Yêu là muốn điều tốt xảy tới cho người khác, là kính trọng, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ, là giúp họ triển nở và hạnh phúc hơn. Nếu ai đó để lòng ghét và thù hận, người đó không thể sống thanh thản hạnh phúc được. Lòng thù hận hoặc không tha thứ, làm người ta khổ. Yêu thương, vui khi thấy người khác hạnh phúc, làm con người bình an thanh thản hạnh phúc.

Ai sống yêu thương là đã có thiên đàng nơi lòng mình. Kinh Thánh cũng nói: Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Nếu một người từ chối “Thiên Chúa” mà sống yêu thương anh em mình thật, người đó vẫn thuộc về Thiên Chúa, và “Thiên Chúa” mà họ từ chối e rằng không phải là “Thiên Chúa” thật, có thể đó là những hình ảnh về Thiên Chúa mà người khác phóng chiếu lên, và với hình ảnh “Thiên Chúa” đó người ta không chấp nhận. Bất kỳ ai, hễ yêu thương anh em mình thật, thì đã chấp nhận Thiên Chúa một cách nào đó, và đang sống trong Thiên Chúa. Và ai đang sống trong yêu thương, Thiên Chúa đang ở với người đó, và người đó cảm nghiệm bình an hạnh phúc.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Xin bạn cho thấy bằng cớ Thiên Chúa cũng yêu thương cả người giầu nữa.

2. Theo bạn, tại sao Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa yêu thương bảo vệ người nghèo?

3. Theo bạn, liệu có thể yêu người mà không yêu Thiên Chúa không? Tại sao?

 

18. Điều răn trọng nhất

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực; và yêu anh em như chính mình! Hai điều này không là điều mới, nó đã có trong bộ luật xa xưa, trong sách Thứ Luật và Lêvi (Tl. 6, 5 và Lv.19, 18).

1. Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi

Người Do thái và đặc biệt là các biệt phái một phần nào biết nguồn gốc nhân loại của Đức Yêsu (con bác thợ mộc Yuse và bà Maria, ở Nadarét)- một người không được giáo dục ở trường lớp và không có nhiều kiến thức! Vì vậy, họ muốn thử Đức Yêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?"

Đức Yêsu không nói gì mới, Ngài trích một câu sách Thứ Luật! Câu trả lời của Ngài ngắn gọn, nhưng rất chính xác!

Yêu Thiên Chúa, chọn Thiên Chúa trên hết mọi sự. Coi rằng được Thiên Chúa là được tất cả. Có Thiên Chúa là có tất cả! Mất Thiên Chúa là mất tất cả.

Hệ luận của điều này rất rõ ràng. Thiên Chúa là trên hết, đức tin là trên hết. Nếu điều nào làm một người mất đức tin, người ta sẽ bỏ điều đó. Nếu chọn Thiên Chúa mà phải mất nhiều điều, ngay cả mạng sống, thì họ cũng sẵn sàng mất (trường hợp những người tuyên xưng đức tin dù phải chết). Nếu người chồng ngoại đạo không cho người vợ sống đạo, Hội Thánh cho phép họ ly thân để sống đức tin.

Thà chết chứ không phạm một tội trọng, là trường hợp những người chọn Thiên Chúa trên tất cả.

2. Yêu anh em như chính mình

Sách Lêvi đã dạy điều này, nhưng sau này Đức Yêsu đã dạy: "anh em hãy yêu mến nhau như thày đã yêu mến anh em" (Ga.13, 34).

Từ "yêu người như yêu chính mình" (Lv.19, 18) đến "yêu nhau như Đức Yêsu yêu chúng ta" (Ga.13, 34), là một bước tiến rõ! Đức Yêsu đã yêu chúng ta đến độ tự hủy, chết để chúng ta được sống, cũng vậy chúng ta cũng phải yêu thương nhau và hiến mạng sống cho nhau.

Yêu như Chúa yêu!

3. Yêu nhau như thế nào?

Tôi mới dự buổi chia sẻ của một nhóm bạn sinh viên. Họ là một số bạn ở ký túc xá, và một số bạn cùng nhau thuê nhà trọ ở với nhau. Khi đọc đoạn tin mừng của Chúa Nhật này, có bạn đã chia sẻ: mình đã hy sinh nấu cơm cho các bạn cùng phòng ăn, quét dọn phòng, làm vệ sinh... (và một số bạn đó khá lười, chẳng để ý gì đến việc mình làm, không biết các bạn đó có cho mình là ngu không) để làm chứng bằng đời sống cho các bạn đó, hy vọng các bạn đó thấy điều tốt và các bạn đó tìm hiểu đạo chăng! Một bạn khác chia sẻ: cần phải tổ chức, phân công rõ ràng, chứ không nên hy sinh kiểu như vậy! Bạn sau này cho rằng, nếu chỉ làm thôi, mình sẽ bị dồn nén, mà cũng chẳng làm chứng được gì!

Như thế nào mới là đúng? Như thế nào là yêu thương thực sự? Phải chăng nên nhịn nhục, cam chịu và phục vụ? hay phải nói ra, phân công rạch ròi?

Yêu là muốn điều tốt cho người khác!

Làm sao để giúp tha nhân triển nở toàn diện, về thể xác về tinh thần!

Nếu hy sinh, mà giúp các bạn mình triển nở, trưởng thành, thì mình cần hy sinh phục vụ! Nhưng nếu điều đó làm cho các bạn ỷ lại, làm hư các bạn, thì đó không những không phải là hành vi bác ái, mà lại còn phản bác ái nữa. Cho nên, có khi nhịn nhục, hy sinh phục vụ, là yêu thương, là bác ái; và có lúc phải rạch ròi, phải đòi hỏi, phải cương quyết, mới là bác ái, mới là yêu thương thực!

Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, làm mọi cách để người khác tốt hơn, triển nở hơn, hạnh phúc hơn.

4. Truyền giáo

Khánh Nhật Truyền Giáo. Ngày Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.

Chúng ta xin Chúa cho có nhiều vị quảng đại hiến thân cho công việc thánh thiện này.

Thời buổi này, người ta cần chứng nhân hơn người giảng dạy. Người ta được đánh động bởi những người có đời sống tốt, hơn là những người chỉ biết nói hay. Nếu chúng ta sống tốt, là chúng ta đã đang rao giảng về Thiên Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta!

Sống Tin Mừng, đòi chúng ta phải vui tươi triển nở, bình an hạnh phúc. Nếu Tin Mừng không giúp chúng ta bình an hạnh phúc hơn, thì cuộc sống của chúng ta là một phản chứng. Một kitô-hữu, là người cũng chung thân phận với con người ngày nay, nhưng cũng là người được đức tin, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, nên cuộc sống của họ khác với những người khác. Sống Tin Mừng, là sống giữa những thực tại trần gian, nhưng không thuộc về trần gian. Kitô-hữu, sống giữa lòng thế giới, nhưng như ngọn đèn soi sáng, để con người thời đại này được chỉ lối về với Thiên Chúa.

 

19. Điều răn quan trọng nhất

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?

“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.

Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.

Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.

Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!

Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?

Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.

 

20. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là một”.

Xh 22: 20-26

Trong Bài Đọc I, trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.

1Th 1: 5-10

Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.

Mt 22: 34-40 

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.

BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)

Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Vì thế, Người ta có thể ấn định niên biểu của bộ luật này vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en”. Đây là hư cấu văn chương được dùng để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật Mô-sê.

Trên bình diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.

Trên bình diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra đảm bảo luật luân lý, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.

1. “Người ngoại kiều”.

Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu lên là tính lịch sử: “vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật lệ được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.

2. “Mẹ góa con côi”.

Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en vào thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.

Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành góa bụa đơn côi.

3. Cho vay nợ.

Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.

Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm cho vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em chủng tộc mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).

Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em chủng tộc nầy. Phải nhận ra luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” được mở rộng đến hết mọi người, bởi vì mọi người trong bốn bể đều là anh em.

Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị. Người chăn chiên nằm ngủ ngoài trời cần chiếc áo choàng làm chăn đắp. “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bao hàm trong tình yêu tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người chỉ là một.

BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

1. Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.

Thánh nhân nói đến cách sống của mình và của những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà ngài dành cho họ. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.

Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà ngài vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11: 1) và cả cho các tín hữu Phi-líp nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).

2. Tấm gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, họ vẫn cảm thấy niềm vui vì thấy thành quả của Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng chói cho mọi người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”

3. Dân ngoại đón nhận đức tin.

 Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.

Ở đây, thánh nhân tóm gọn điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.

TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)

 Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh người Pha-ri-sêu tranh luận với Chúa Giê-su ngỏ hầu họ có thể hãm hại Ngài.

1. Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:

Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.

2. Câu trả lời của Đức Giê-su.

Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người, Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn, cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?

Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18). Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ:

Trước hết, giới luật yêu thương người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” và Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).

Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một.

3. Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.

Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:

“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’

mà lại ghét anh em mình,

người ấy là kẻ nói dối;

vì ai không yêu thương

người anh em mà họ trông thấy,

thì không thể yêu mến Thiên Chúa

mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).

 

21. Tình yêu là tất cả

(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).

Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này, chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu, trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22. Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.

Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho Thiên Chúa.

Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng, tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.

Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài. Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha nhân.

Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp, chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa, nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay.

 

22. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai, CssR

Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm, tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.

Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một khế ước: "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." (Xh 1,14-17)

Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết! Ađam - Eva đã không giữ được cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết bao nhiêu là khế ước.

Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.

Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là: phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã ban thập điều cho dân.

Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.

Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: "Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)

Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)

Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.

Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: "Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em". (Xh 11,18-32)

Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.

Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ... và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là "ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội"... Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.

Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.

Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: "Yêu thương là chu toàn lề luật". Thế đấy! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.

Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là lòng mến, là tình yêu.

Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại sao? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ... cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.

Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.

Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: "Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ" (1 Thes 1,5-8). Thế đấy! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng cho bằng luật của lòng mến.

Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận thù, ghen ghét này.

 

23. Yêu

Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên "Nhất cử nhất động", con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.

Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.

Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ "cọng tóc ra làm tư" đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?

Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.

Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối". Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.

Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

 

24. Đức ái - Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị lỗi thời. Mọi sự trên trời, dưới đất đang di động và lòng người luôn đổi thay hướng tới. Cuộc sống sinh hoạt của con người trên thế giới không đồng đều như nhau. Sự khác biệt về gia cảnh giúp mọi người thể hiện lòng bác ái và nâng đỡ nhau trong đời sống. Ngày từ những buổi sơ khai, trong xã hội loài người đã có sự đối xử chênh lệch giữa kẻ giầu người nghèo, kẻ sướng người khổ và người làm chủ kẻ làm tôi. Tác giả sách Xuất Hành đã nói đến sự hỗ tương trong cuộc sống: Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm và chớ bắt nó chịu lãi nặng (Xh 22, 24). Ngoài việc đối xử công bằng, con người cần có đức ái yêu thương chia sẻ với nhau. Vì trong cuộc sống của mỗi người có nhiều những éo le và sự cố khó lường. Người ta nói: Nghèo lại mắc cái eo. Đôi khi những sự khó xảy ra dồn dập, cái khó khăn này kéo theo cái khó khác, họa vô đơn chí là thế.

Đêm năm canh, ngày sáu khắc. Tạo Hóa đặt để sự liên đới giữa muôn vật trong thời gian và không gian. Đêm về mọi loài súc vật đồng hoang bắt đầu ra đi tìm kiếm của ăn. Khi ánh bình minh ló dạng, mọi loài thú vật rừng xanh lui vào hang hốc tìm nơi náu ẩn. Con người bắt đầu một ngày mới lo lao động kiếm sống. Trái đất vòng xoay đêm qua ngày tới, giúp mọi loài thụ tạo sinh sống hài hòa. Con người cũng tựa dựa vào khoảnh khắc thời gian để tập tành, lập công và đối nhân xử thế: Nếu ngươi nhận áo xống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn (Xh 22, 25). Mặt trời lên hay mặt trời lặn là cách diễn tả bình dân của ngôn ngữ loài người. Với lý trí khôn ngoan hiểu biết, con người căn cứ vào sự di chuyển vòng xoay của mặt trời, mặt trăng và thời tiết để ấn định cuốn lịch tính đếm ngày giờ năm tháng. Dùng thời gian đo lường để con người tạo những hiệp định, giao kèo, khế ước, qui ước, hòa ước, giao ước hay thỏa thuận trao đổi của cải với nhau.

Ngày xưa, ngay trong những cộng đồng nho nhỏ đã có sự tín nhiệm nhau qua việc cầm cố và trao đổi để sinh lợi. Xã hội văn minh ngày nay, có rất nhiều nhìn thức kinh doanh kiếm lời qua việc cầm cố mượn nợ. Các chủ ngân hàng dùng việc vay mượn nợ hoặc cầm cố để kiếm lợi nhuận qua việc trả góp dần. Có thể trả nợ hàng tháng (mortgage) nhà cửa, xe cộ, tài sản hay trả nợ thẻ tín dụng. Còn có nhiều tiệm cầm đồ (Pawn hay pledge), nhận tiền thế chân trong một thời gian. Mọi thứ từ thượng vàng hạ cám, đều có thể mang đến tiệm cầm đồ để cầm cố kiếm tiền xài trước. Sự trao đổi hợp lệ có giấy chứng nhận và điều kiện trao trả đúng ngày tháng. Nếu quá thời gian qui định, chủ nhân món hàng có thể sẽ không nhận lại được món đồ đã đưa cầm cố. Ngoài ra, trong xóm làng, còn có kiểu mướn nóng (mượn nóng), người mượn phải chịu trả tiền lời cao hơn, có khi 20-30%. Đây là một cách cho vay nặng lãi kiếm lời dễ dàng của người đời. Là Kitô hữu, trong việc cầm cố, chúng ta cần đối xử với nhau khoan dung hơn, cần có sự công bằng và bác ái nữa.

Tạo Hóa yêu thương tất cả mọi loài thụ tạo, nhưng mức độ và cách diễn tả rất khác biệt. Qua việc nghiên cứu của khoa học, chúng ta có thể nhận biết phần nào sự bày tỏ tình cảm của các loài vật thấp kém tùy theo cấp bậc. Con người cao vượt trên mọi loài thụ tạo, bởi vì con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu. Vì có lý trí, tự do và tình cảm, nên con người có thể chọn lựa đối tượng yêu và thể hiện tình yêu một cách đặc thù. Bài phúc âm hôm nay, những người thông luật hỏi thử Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất (Mt 22, 36). Đã gọi là nhà thông luật thì đương nhiên họ phải hiểu được luật nào là trọng. Biết luật, hiểu luật và giữ luật mới là bước đầu, nhưng sống ý nghĩa thật của luật mới là điều quan trọng. Lề luật giúp người ta sống đạo với cái tâm chính thật. Luật lệ như cái khung, khuôn mẫu và dẫn đưa chúng ta vào đời sống tình yêu nội tâm. Chúa Giêsu muốn mọi người đi vào căn cốt của giới luật.

Trả lời câu hỏi của các nhà thông luật: Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: Người hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22, 37). Yêu mến Thiên Chúa toàn vẹn. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Chúng ta tự vấn phải yêu mến Thiên Chúa thế nào khi chúng ta không thể hình dung, vì Thiên Chúa vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ mạnh miệng tuyên xưng và bày tỏ tình yêu qua ngôn ngữ và sự diễn tả bề ngoài, mà tấm lòng thì rỗng tuếch. Chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Nhớ câu tuyện khi người ta bắt bẻ Chúa về việc giữ truyền thống rửa tay trước khi ăn, Chúa đã trả lời: Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mk 7, 6).

Yêu mến Thiên Chúa phải đi đôi với sự yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu liên kết hai giới răn với nhau: Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39). Yêu thương kẻ khác thật sự không dễ chút nào. Là con người, tuy rằng chúng ta cùng chủng loại. Nhưng chúng ta có quá nhiều sự khác biệt giữa nhau. Sự khác biệt về dòng giống, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, mầu da, văn hóa, ý thức hệ … Làm sao chúng ta có thể nói yêu thương những người chúng ta chưa bao giờ gặp, không biết thân phận gia cảnh của họ và yêu cả những kẻ thù địch? Yêu thương kẻ khác như chính mình là một thách đố về đức ái vô giới hạn. Chúng ta phải cố gắng tiến tới không ngừng. Tình yêu tha nhân như bơi lội trong biển tình, chúng ta chẳng bao giờ yêu cho thỏa và không bao giờ có thể đáp ứng tròn đầy. Chúng ta thể hiện tình yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa Kitô là luôn tôn trọng, chia sẻ, từ bi, khoan dung, tha thứ cho những người chúng ta gặp gỡ và ước muốn điều lành cho hết mọi người.

Nhà truyền giáo sống tại New Guinea kể câu truyện. Một ông già mới tòng giáo, thường mỗi ngày đến bệnh viện để đọc phúc âm cho các bệnh nhân nghe. Vào một ngày kia, ông không thể đọc được nữa. Bác sĩ đã khám mắt và khám phá ra rằng tình trạng mắt của ông rất tồi tệ và rất có thể sẽ bị mù trong vòng một hay hai năm. Sau đó, trong một thời gian, ông biệt tăm không đến bệnh viện nữa. Không ai biết được điều gì đã xảy ra cho ông. May mắn, một người trẻ đã tìm thấy ông và đưa bác sĩ tới gặp ông. Ông già giải thích cho bác sĩ là ông đang bận rộn để học thuộc bản Kinh Thánh trong khi ông còn nhìn thấy. Ông nói: Để sớm khi tôi trở lại bệnh viện, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi là đọc phúc âm cho các bệnh nhân. Ông đã hiến tặng cái mà Chúa đã ban cho ông.

Yêu thương là cho đi. Yêu thương là chia sẻ. Ai cũng có trái tim yêu thương. Ai cũng có thể cho. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Càng yêu thì trái tim càng rộng mở. Trái tim yêu thương sẽ không có giới hạn. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một khả năng yêu thương. Yêu thương là chu toàn lề luật. Muốn sự lành và sự tốt cho người khác. Giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Thánh Phaolô đã cố công lôi kéo nhiều người đến phụng thờ Thiên Chúa: Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, làm sai để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật (1Thess 1, 9). Phaolô đã cho đi cả cuộc đời để phục vụ Chúa và tha nhân.

Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Thánh Augustinô dạy: Yêu đi, rồi làm. Xin cho chúng con được thấm nhuần tình yêu của Chúa để chúng con ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.

 

25. Giới răn yêu thương

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.

Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.

Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy".

Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.

 

26. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?

Hai Điều răn

Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".

Ba đối tượng yêu thương

Chúa Giêsu kết luận: "Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó" (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.

Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất" (Mt 22, 37-38).

Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là chu toàn cả Lề luật" (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác... Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng "yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa "là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta" (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: "Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất" (Mt 22, 38).

Đối tượng thứ hai là "kẻ khác" Chúa phán: "Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39).

Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì "tha nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? "Yêu như chính mình ngươi".

Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.

Yêu kẻ khác như chính mình

Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình", Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu "kẻ khác" hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu " kẻ khác " như "mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.

Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những "việc làm" như bác ái, hay "phải làm" cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.

Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là "không giả vờ," tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình," (Rm 12, 9); người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.

"Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

 

27. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: "Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý."

Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm sao có thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến "những cỗ máy vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội - bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?

Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.

Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.

Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người "không dại gì" và cũng chính "nhờ" những người "không dại gì" đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.

Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.

Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình.

Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình.

Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.

Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau thương mà anh chị em mình đang trải qua.

Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!

Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi yêu thương.

Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen.

 

28. Điều răn trọng nhất - Huệ Minh

Kính thưa cộng đoàn,

Lại một cái bẫy khác, do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một nhóm người như những lần trước, thì lần này họ đưa ra một người đại diện trong nhóm thôi!

Vì muốn thử thách Chúa, họ đã đưa ra một người biết lề luật, và phải nói rằng người này là luật sĩ. Ông rất là thông luật.

Ông này thuộc lòng 613 luật phải ghi trong luật Do Thái. Và trong đó có 365 điều cấm, 248 điều luật truyền làm, chưa tính những cái luật phụ. Ông biết những cái luật này chia làm 2 vế trong Luật: về việc trọng luật và khinh luật.

Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội nhưng phạm trọng luật như: giết người, thờ Tà Thần, gian dâm thì bị tử hình. Bởi vì là người thông luật nên hiển nhiên rằng, ông biết rằng mỗi nhóm có giữ một điều luật và cho rằng điều ấy là quan trọng của họ. Và nếu mà Chúa Giêsu đưa ra cho mình cái luật nào hơn cái luật nhóm kia, thì Chúa Giêsu kẹt.

Và họ chất vấn rằng: Thưa thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất? Thì, chúng ta thấy họ gài bẫy. Chúa Giêsu đáp với người ta rằng: “Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi” nhưng mà, chúng ta thấy cái điều mới mẻ nhất đó là, Chúa nối kết một câu trích khác ở sách Lêvi 19, 18 dạy rằng: “Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi. Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”

Trước Chúa Giêsu chúng ta thấy chưa ai đặc ngang hàng giữa luật yêu mến và đến Ngài Ngài đã hợp nhất thành luật mới đó là đặc điểm của Tin Mừng! Hơn nữa Chúa Giêsu còn tuyên bố rằng: Tất cả luật Môsê và sách ngôn sứ đều thuộc về hai điều này. Có nghĩa là hai điều răn này đã diễn tả trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, và do đó hai điều răn này chứa đựng tất cả mọi điều răn khác. Hay là nói cách khác tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này! và rồi chúng ta thấy sau này Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa khi mà Chúa Giêsu dạy người ta phải yêu mến Chúa và yêu thương an hem như Người đã yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Chúa và yêu người với chính tình yêu của Người, một tình yêu chấp nhận từ Chúa Cha và cái tình yêu đó thúc đẩy người ta đến độ, hiến thân mình hy sinh mạng sống mình, vì người mình yêu.

Hiến chế về mục vụ Giáo Hội Công giáo trên thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy có vài đoạn nói về hiện tượng vô thần.

Ngày hôm nay Giáo Hội lưu ý chúng ta, về một số trào lưu là nhân bản vô thần. Nghĩa là người ta nhân danh con người để khước từ Thiên Chúa.

Những người đó lý luận rằng: niềm tin vào Thiên Chúa và đời sống mai sau, hạnh phúc mai sau. Để rồi, người ta quên lãng cái cuộc sống trần thế, làm cho người ta vô cảm với người khác. Không có giúp đỡ người khác, và họ sống theo cái kiểu chờ thời, chờ lên thiên đàng.

Và rồi vì nhân danh lòng yêu mến con người mà họ đã khước từ Thiên Chúa, thì những người này thì lý luận cái cơ sở rằng là: nhân danh con người.

Bởi vì chính vì con người mà họ khước từ Thiên Chúa, là điều này không có, bởi vì trong lịch sử Thánh Kinh và trong đời sống Giáo Hội người ta nhấn lòng yêu mến Thiên Chúa mà quên đi tình thương với con người.

Chúa Giêsu đi rất sát với câu chuyện Tin Mừng ngày hôm nay. Những người đạo đức, những người thầy thông luật thì họ cái lời Kinh Sêma, cái lời Kinh Sêma là như thế này mà chúng ta nghe rất quen:

Hỡi Iraen! hãy nghe đây! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất và các ngươi phải yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức ngươi.

Và rồi chúng ta rất là buồn cười, những người đạo đức họ viết cái điều luật này vào trong tờ giấy và cho vào hộp, dán trên trán để khỏi quên.

Dán trên trán thì làm sao mà quên được, lúc nào cũng nhớ cả. Và chúng ta nhớ lại Cựu Ước đã có nhiều lần nói về Luật Yêu Thương:

“Ngươi không được trả thù, ngươi không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19, 18).

Nhấn mạnh đến việc mà yêu Chúa, yêu người hết lòng, hết trí khôn! Thì chúng ta lại thấy, thực tế về con người, nó rất là buồn cười: Con người, người ta mâu thuẫn khi mà Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát thì họ phản đối và họ cắt nghĩa rằng là nếu con lừa rơi xuống hố thì họ có quyền kéo lên và nếu là con người thì không được!

Con người xét cho bằng cùng thì con người không bằng con lừa.

Và chúng ta thấy nhìn thấy cái mâu thuẫn đó để rồi cái dụ ngôn Samaria rất là thực tế.

Thầy tư tế, thầy Lêvi đi lên đền thờ, thấy có một người nằm sóng soài ở dưới đất, bị bỏ rơi chẳng ai coi sóc cả, bởi vì người ta đi lên đền thờ, người ta không muốn vấy vào người đó để bẩn tay. Và rồi người ta đã quên đi cái lòng thương xót, và người ta không nhìn tới những cái con người đau khổ. Họ cứ nghĩ rằng là họ đi lễ, đi đọc kinh, đi cầu nguyện làm tốt, nhưng rồi trong lời ăn tiếng nói, trong các cách hành xử của họ lại thiếu bác ái.

Người ta nhân danh Thiên Chúa để quên đi Thiên Chúa ngày hôm nay, mà người ta nhân danh con người. để rồi Cái thái cực mà nhân danh Thiên Chúa đó, để có thể quên đi Thiên Chúa.Và ngày hôm nay, nhân danh con người, người ta gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người. Điều này rất là tinh tế, đã xuất hiện bằng nhiều cách khác nhau.

Liên quan trong cái đời sống thờ phượng, chúng ta có nghe rồi. Có những người lý luận rằng: cần gì đi nhà thờ Đọc kinh cầu nguyện làm gì? miễn là bác ái thôi!

Lý luận này xem ra cũng hay đó. Nhân danh lòng yêu mến mà con người đã gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Thế nhưng mà rồi tinh tế hơn nữa, đó là: đời sống và luân lý đạo đức. Người ta nhân danh con người để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình.

Ví dụ như: Một chàng trai mà lỡ cho cô gái con người ta có thai thì, biện pháp tốt nhất mà người ta dùng đó là đi phá thai thôi! Trong vòng mấy phút đồng hồ và tốn tiền thì coi như xong! Khỏi có áy náy, xã hội không còn lên án nữa! Và lúc đó cảm thấy là thương cô gái đó đó!

Nhưng mà, khi mà người ta làm như thế người ta nhân danh con người, người ta hủy hoại Thiên Chúa hủy hoại cuộc sống. Sự sống, mà mầm sống mà Thiên Chúa ban cho con người. Người ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời người ta, bởi vì chính Thiên Chúa mới là chủ cuộc đời của người ta thật.

Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam thì chưa có, chứ ở nước ngoài thì người ta chủ trương “chết êm dịu”:

- Già rồi, gần chết rồi! chích một mũi thuốc đi “chết êm dịu”.

Mà rồi, Giáo Hội không chấp nhận điều đó. Nhưng khi người ta thấy Giáo Hội làm điều đó, người ta cho Giáo Hội là gian ác, Giáo Hội quay lưng với con người.

Rất tinh tế, người ta nhân danh con người, để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Người ta mâu thuẫn, mà thật sự rằng, nếu mà thật sự như thế! thì rằng, người ta có yêu mến con người hay không?

Sau khi giúp một cô phá thai, người ta có xóa đi vết thương lòng của cô đó hay không? Hay cái nỗi dằn vặt “giết người con” của cô đó, đi theo cô đến chết! Có thật sự rằng, mình yêu mến cô ta thật sự! Hay mình hủy diệt cô ta cùng với đứa con của cô ta, đó là cái điều chất vấn chúng ta.

Trang Tin Mừng ngày hôm nay xem ra quen thuộc, và rất mới và rất gần với đời sống của chúng ta. Cái nét độc đáo của Chúa Giêsu là đã kết nối hai cái giới răn này thành một, và nếu như tách ra hai giới răn này thì không có gì mới nói cả!

Cựu Ứớc thì đã nói về yêu mến rồi, yêu con người thì không cần! Nhưng mà chúng ta thấy đó về phần mà tôn giáo thì người Việt Nam chúng ta vẫn thường nói là gì: “Yêu người, như thể thương thân”.

Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, nối kết cái ý thức đó chứ không có tách lìa.

Còn nói về yêu thương con người thì chả cần gì về Công giáo cả! Có khác nào là Chúa Giêsu. Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, giúp cho con người ta không gạt bỏ Thiên Chúa và cũng không gạt bỏ con người bên ngoài. Cái mới nằm ở chỗ đó đó!

Những cái lối sống thiếu bác ái, thiếu yêu thương, thì không thể nào nói rằng mình mến Chúa được! Và ngược lại nếu mình yêu Chúa thì mình cũng phải bác ái, yêu thương thôi!

Như Thánh Gioan tông đồ nói: - Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Chúa, mà lại ghét anh em mình là nói dối; vì ai không yêu thương anh em mình người mà họ trông thấy, mà họ yêu mến người không trông thấy đó là Thiên Chúa. (1 Ga 4:20).

Điều răn mà ta nhận ra từ ngài: “Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em”. (1 Ga 4:21)

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta, đó là một người Cha yêu thương con cái, ngay khi mà đứa con đó còn ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời. Nghĩa là yêu thương mọi người không trừ người nào.

Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngài đến để nói với con người rằng: Thiên Chúa yêu thương và con người cũng hãy yêu thương nhau!

Chúng ta nhớ đến hình ảnh của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, khi đó Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một cái thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội không bằng lòng, nhưng Têrêsa thì ngược lại vẫn tỏ ra thái độ vui tươi và hồn nhiên và chịu đựng tất cả, vì đơn giản Thánh nữ Têrêsa yêu mến Chúa, vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến cả cái nữ tu đáng thương này.

Tình yêu đối với Thiên Chúa được tỏ ra bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng hành động: sự nhẫn nhịn, sự thứ tha và cảm thông.

Khi mà Chúa Giêsu truyền dạy ngươi hãy yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu như đặt một tấm gương soi, chúng ta có yêu kẻ khác hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu của kẻ khác trên mệnh lệnh của Người. Mệnh lệnh ấy tóm tắt về lề luật. Đây là giới răn của thầy: “Anh em hãy yêu nhau như thầy đã yêu thương anh em”.

Nhiều người có khi đồng hóa Kitô giáo với luật Yêu Người. Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút nữa, khi nói về tình yêu người khác, thì người ta nghĩ ngay tới việc làm như: bác ái phải làm cho kẻ khác. Cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, đi thăm viếng...nói tóm lại là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu chứ chưa phải là yêu. Lòng từ tâm tới trước cái việc làm phúc. Trước khi làm phúc người ta phải muốn là một phúc.

Thánh Phaolô nói rõ với chúng ta: “Đức Bác ái không giả vờ.” Tức là phải chân thật, nghĩa đen là không giả hình. Người ta phải yêu thương với một con tim trong sạch.

Trên thực tế, ta có thể làm việc bác ái và bố thí nhiều, lý do không dính dáng gì tới tình yêu, bởi vì họ đã tô điểm chính mình, bởi vì họ làm cái vẻ đẹp, điều thiện, để được lên thiên đàng. Và có thể là để trấn an một cái lương tâm xấu, bởi vì họ đã không yêu thương thật lòng, như chính mình.

Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu. Và vì vậy: Hãy yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của chính bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Ước gì mỗi người chúng ta, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Sau khi thánh lễ này về, chúng ta sống với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta ngày mỗi ngày: yêu Thiên Chúa, cũng như yêu mến anh chị em đồng loại; mà đặc biệt không phải chỉ trên môi, trên miệng, mà bằng trên hành động, trên việc làm của mỗi người chúng ta. Amen.

 

29. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang

TRỌN TÌNH VỚI CHÚA VÀ VẸN NGHĨA VỚI NHAU

Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của tác giả Phượng Linh, tác giả là một người ngoại đạo yêu một cô gái Công giáo mà không dám tỏ tình, một hôm ông đến Nhà thờ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi. Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Lạy Chúa con thuơng nàng rất ngoan đạo. Thương nàng thường hay luôn di xem lễ. Con thuơng nàng rất đơn sơ. Màu áo trắng đơn sơ, với nét môi cười nắng nghiêng nghiêng. Con yêu nàng, tình yêu rất chân thành. Tình yêu không lừa dối. Nhưng Chúa ơi, nàng đâu hay biết đâu một người ngoại đạo tha thiết yêu nàng. Tình yêu trái ngang. Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời. Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa. Con xin đuợc sống bên nàng, nguời con nhớ con thương. Kính mến tôn thờ Chúa. Amen”.

Anh chàng ngoại Đạo yêu cô gái Công giáo cốt ở điểm nào? Thưa thứ nhất, cô thường đi dâng lễ, có nghĩa rằng giữ trọn tình mến Chúa. Thứ hai, cô này ngoan Đạo, yêu chàng một tình yêu chân tình, tình yêu không lừa dối, có nghĩa rằng cô yêu người như chính mình vậy. Vâng, tại sao, Cô này trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với người yêu bởi vì cô này đã sống Đạo tốt qua việc giữ điều răn lớn nhất và quan trọng rất của Đạo Công giáo là Mến Chúa, yêu người. Đó là điều răn mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.

Trong văn hoá Á Đông, người Việt nam luôn để cao cuộc sống hôn nhân gia đình luôn có tình và có nghĩa với nhau. Cho nên, là vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim (cảm xúc), nghĩa là phần việc của lý trí (trách nhiệm). Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Vì vậy, theo văn hoá Việt Nam, vợ chồng lấy nhau vì “tình”, chung sống vì “nghĩa”. Vì thế, chất keo gắn bó cuộc sống vợ chồng chung thuỷ với nhau suốt đời: “tình” và “nghĩa”. “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để chịu đựng nhau nâng đỡ, chăm sóc và phục vụ nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi măng không có nước.

Cũng vậy, người Kitô hữu luôn mang trên mình Thánh giá Chúa. Thanh dọc của cây Thánh giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, hết linh hồn và hết trí khôn. Thanh ngang của thánh giá là phải vươn đến với tất cả mọi người để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là Thánh giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cho nên chỉ khi sống trọn vẹn giới răn mến Chúa và yêu người, thì chúng ta mới đích danh là Kitô hữu, mới thật sự là trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau trong cuộc sống này. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23). Và ngược lại, “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến việc thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Ngày nay, có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa. Vì vậy, chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thời giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước nguy cơ bách hại.

Bên cạnh mến Chúa, chúng ta còn phải yêu thân cận ngươi như chính mình. Nhưng ở đời đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương hết vì “chín người mười ý”, thượng vàng hạ cám, vàng thao lỗn lộn mà. Thế nhưng, chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mến Chúa mà không yêu người thì là người đạo đức giả. Cho nên, nhà văn học Công giáo Mỹ Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Còn Lời Chúa nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.

Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).

Đời sống Kitô hữu là cuộc tình của mình với Thiên Chúa. Cuộc sống con người chan chứa tình yêu và hiệp thông với Thiên Chúa đời đời. Vì thế, cuộc sống đức tin của chúng ta phải nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng yêu thương để làm sao mình không phải là tâm điểm mà chính Chúa và tha nhân là tâm điểm, và mình phải xoay quanh chứ đừng bắt Chúa và tha nhân phải xoay quanh mình. Nhưng Chúa ở đâu bây giờ và lúc này? Ai là người thân cận của tôi? Đó chính là những người còn sống với tôi hay đã qua đời, vì vậy chỉ yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp và yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta biết cầu nguyện cho những người thân yêu hay mọi người đã qua đời vì chưng sống chết đều có nhau như niềm tin chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin các thánh thông công”.

Vì thế, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta yêu mến Chúa hết lòng hết sức không phải vì Chúa ban cho chúng ta lợi lộc này, lợi lộc nọ mà vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lẽ Sống, là Hơi Thở của chúng ta. Yêu mến Chúa cũng mời gọi chúng ta có lòng vị tha với tha nhân để yêu thương, phục vụ, hy sinh và cầu nguyện cho nhau hầu luôn giữ trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau. Amen.

 

30. Giới luật tình yêu

Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.

Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó, nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: "Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân, nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một người Cha.

Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". (Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần vinh quang của Thiên Chúa.

Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong cuộc sống chúng con.

 

31. Làm sao để yêu thương tha nhân như chính mình

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

“Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều vị, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.

Chúa Kitô đã khẳng định: Người hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” ( Mt 22,38 ). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng tạo thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục đấng tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.

Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng tạo thành mọi sự mà còn là Cha chí ái. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người làm người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.

Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.

Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mớ có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…( x. Mt 5,43-48 ).

Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sư thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có nước chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa ( x.1Ga 4,20 ).

Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. ( vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…)

Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con…Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.

Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x. Ga 14,9 ). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người ( x. Ga 14 23-24 ).

Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta ( x. Ga 15,12 ). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.

Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em., chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung ( x. Mt 25,31-46 ).

Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa - yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.

 

32. Lý do của tình yêu

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình".

Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:

Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt đáp: "ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".

Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.

Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu..., bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận "nó mất hết tính người". Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.

Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. "Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, "với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau"(Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự sống.

Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa - Đấng yêu thương.

 

33. Thừa tác viên - Lm. Vũ Đình Tường

Nhóm Pharisiêu phái người đến thử Đức Kitô hỏi người rằng: giới răn nào quan trọng nhất. Đức Kitô nói cho họ biết tất cả các giới răn lề luật dậy từ thời các tổ phụ cho đến các tiên tri đều tóm gọn trong hai điều. Đó là mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và điều thứ hai sanh ra từ điều thứ nhất là yêu thương tha nhân chứ chính thân mình.

Hầu như trong chúng ta ai cũng biết làm thế nào để yêu Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn nhưng khi áp dụng điều thứ hai vào trong thực tế cuộc sống chúng ta lại gặp khó khăn. Câu chuyện về người giầu có trong phúc âm thánh Marcô 10,17-31 cho thấy rõ khó khăn trên. Chàng thanh niên giầu có mến Chúa với tất cả tấm lòng, giữ tất cả các luật lớn nhỏ. Anh gặp Đức Kitô và nói thế. Đức Kitô khen anh và thêm anh còn thiếu một điều cần phải làm đó là phục vụ tha nhân. Anh buồn rầu bỏ đi và ta không rõ số phận anh ta sau này ra sao. Yêu thương tha nhân đòi hỏi chúng ta phải làm gì cho tha nhân, không thể yêu bằng nói suông nhưng phải hành động thực tế. Tình yêu Thiên Chúa mở đường dẫn ta tới yêu tha nhân. Như thế yêu thương tha nhân chính là phục vụ tha nhân trong tình yêu Chúa. Phục vụ tha nhân trong cộng đoàn đức tin có tên gọi riêng. Tên đó là thừa tác viên. Họ là những người tình nguyện làm công việc chung trong cộng đoàn. Mỗi Kitô hữu cần trở thành một thừa tác viên trong cộng đoàn. Tuỳ hoàn cảnh và thời gian cũng như tài năng Chúa ban cho mỗi người mà trách nhiệm công việc thừa tác cho xứng với tài năng Chúa ban. Công việc phục vụ nào cũng quí, cũng trọng, cũng cao đẹp bởi vì chúng ta thực thi điều răn thứ Hai đó là thương yêu tha nhân qua hành động cụ thể. Chúng ta phục vụ không vì tư lợi hay bè phái mà phục vụ tha nhân, làm cho Danh Chúa cả sáng hơn. Số giờ, số lượng phục vụ rất quí nhưng phẩm chất phục vụ còn quan trọng hơn bởi nó nói lên tâm tình, lòng quí mến, và tình yêu phục vụ. Phục vụ khi có yêu cầu tại chỗ là điều tốt nhưng đó không phải là công việc thừa tác bởi thiếu chuẩn bị, thiếu hy sinh định từ trước. Công việc thừa tác có lịch trình biết trước, được chỉ định từ trước nên thừa tác viên trước khi đến cộng đoàn đã chuẩn bị tâm tình, tinh thần phục vụ trong khi đáp ứng nhu cầu tại chỗ thiếu những chuẩn bị trên, mặc dù người đó quen công việc làm thuần thục nhưng vẫn không thể coi là nhiệm vụ của thừa tác mà chỉ do lòng bác ái giúp khi được yêu cầu.

Cảm xúc của con tim dẫn đến hành động. Nếu tình yêu Chúa đầy ắp trong tim ta không thúc đẩy ta nhận một trách nhiệm nào đó trong cộng đoàn đức tin thì rõ ràng là có điều chi không ổn. Việc cần phải tìm hiểu là điều chi ngăn cản ta thực thi điều răn thứ hai đó là yêu tha nhân. Rất khó có thể biện hộ cho hành động thiếu yêu thương này bởi Kitô hữu tham dự bí tích Thánh Thể mà lại cô lập mình khỏi cộng đoàn đức tin thì không thể nào nói lên đầy đủ í nghĩa của Thánh Thể. Người ta có thể là Kitô hữu tốt nhưng không thể là môn đệ của Đức Kitô bởi là tông đồ là phục vụ mà thiếu phục vụ chính là Kitô hữu hữu danh, chưa chính thức là môn đệ Đức Kitô.

nguon:http://gplongxuyen.org/News