“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Lời Chúa: Mc 14,1 – 15,47 (bài dài)
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Đừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân".
C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Đập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó.
Nhưng Chúa Giêsu bảo: CG. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".
--------------------------------
--------------------------------
Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: CG. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: CG. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Đúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chết thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
Các bài suy niệm LỄ LÁ – Năm B 2018
Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
1. Thiên Chúa ẩn dấu
Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem giữa lúc dư luận đang xôn xao bàn tán về Ngài: Ngài có phải là Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ đến hay không? Dân chúng phần đông, vì những tình cảm nhất thời, chứ không phải vì lòng say mê, muốn tìm hiểu sự thật. Còn bọn Biệt phái thì tức giận, bởi vì họ không muốn để Ngài xóa bỏ mất niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai. Và lần này, Chúa Giêsu chính thức lên tiếng tranh luận.
Lời của Ngài như một lưỡi dao sắc bén. Ta đã nói với các ngươi rằng Ta là Con Thiên Chúa, trước khi có Abraham, thì đã có Ta. Phải chăng đây là một lời nói phạm thượng, không thể nào tha thứ. Vì vậy họ đã lượm đá để ném Ngài, nhưng Ngài đã ẩn mình đi.
Bịt tai, hò hét, xách động và đập phá, phải chăng đó là cách thức con người thường hành động khi không muốn nghe. Đây không còn là một vấn đề thuần túy về hiểu biết, nhưng là vấn đề chọn lựa và yêu thương.
Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi. Đây cũng là điều thường xảy ra trong dòng thời gian, phản ảnh cho sự cứng lòng của con người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Chúng tôi không muốn ông ấy cai rị chúng tôi trong lãnh vực chính trị cũng như quân sự, trong lãnh vực kinh tế cũng như tài chánh, trên phim ảnh sách báo, cũng như trên truyền thanh và truyền hình.
Có người lại thầm nghĩ nếu như bây giờ Chúa Giêsu trở lại, hẵn Ngài sẽ dẹp tan những biến động của thời đại. Thiết tưởng lời ước mơ này chỉ lả một cái gì ấu trĩ, và thiếu nến tảng. Bởi vì Chúa Giêsu chỉ trở lại vào ngày tận cùng của trời và đất. Tuy nhiên, mặc dù bây giờ Ngài có trở lại chăng nữa, thì người ta vẫn cứ ném đá Ngài như thường. Lập trường của con người vẫn không có gì thay đổi: Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi!
Chúa Giêsu đã ẩn mình đi không phải vì sợ hãi, nhưng vì giờ Ngài chưa đến. Thực ra, Ngài không cần phải ẩn mình đi, vì quyền năng của Ngài có thể lập tức vô hiệu hóa những viên đá của những kẻ phẫn nộ.
Chiến thuật của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với chiến thuật của chúng ta. Ngài không cưỡng bức, không ép buộc một ai. Ngài không xuồng khỏi thập giá để mọi người phải tin vào Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con người. Và Ngài chỉ chấp nhận sự cho đi, sự dâng hiến một cách tự nguyện. Chiến thật ấy, ngày hôm nay Ngài vẫn còn áp dụng. Ngài mãi mãi vẫn là một vị Thiên Chúa ẩn dấu. Những sự dữ xảy ra và dường như Ngài đã chẳng can thiệp. Không phải là như vậy. Ngài muốn tôn trọng sự tự do của con người và mong ước con người phục vụ Ngài trong tin yêu.
Lạy Thiên Chúa ẩn dấu, Nếu Ngài còn thinh lặng, nếu Ngài còn là Đấng vô hình, xin hãy củng cố niềm tin nhỏ bé và yếu đuối của con, đừng để vì thế mà con tuyệt vọng và mất đi lòng cậy trông.
2. Phêrô
Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết trung thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng vào sức riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng ông lại cho đó là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng một cách mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng, ông vẫn một mực tin tưởng vào mình.
Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một kinh nghiệm đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.
Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công vào Phêrô, đó là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối với Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và tin tưởng dù đã sa ngã.
Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa. Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật, ông được Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.
Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và hơn thế nữa còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
3. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành Giêrusalem một cách long trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm lời tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta đã tìm hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì chuẩn bị, còn Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều hướng tới cao điểm, đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra cho đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành, chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa con.
Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy hiểm vì đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đang căm thù Ngài, muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn uất, họ đã thưa cùng Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ ba là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành thánh, dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Nhiều lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng trong thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan trọng hơn hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm hồn của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã chứng minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó là tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật ngã được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm hoá, để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã không phải vì sức mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy đồi, và không chòn nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay không còn nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.
4. Những chiếc lá phất phơ - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Tôi đang nhìn thấy những chiếc lá phất phơ trên tay những cụ già đầu tóc bạc phơ đến tay những bé thơ còn măng sữa, trên tay những mái đầu xanh cường tráng đến tay những mái tóc rủ liễu yếu đào tơ.
Những chiếc lá này bao nhiêu năm đã phất phơ, vật vờ, xơ xác, tung lên, nhào xuống, quay cuồng theo chiều gió bão táp, thật tội nghiệp !
Hôm nay, dân Do thái đã reo hò vang dậy: Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa, chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua David tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời với một rừng lá giương cao phất phơ, vùng vẫy như trên đỉnh gió hú.
Cơn lốc ầm ầm đó không do khí trời mà do khí người bị dồn ép bao nhiêu năm, nay được dịp bùng lên: Dịp Đức Giêsu vào thành Giêrusalem khác thường, Ngài ngồi trên lừa con, như Salomon ngồi trên lừa của cha là David để vào thành Sion làm vua (1V. 1, 33). Dân chúng tưởng triều đại David đã vùng dậy, vinh quang của Israel đã đến rồi, không còn nô lệ, không còn khổ dịch ô nhục nữa, không còn chết nữa. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho dòng dõi David lên ngai vương quyền kiên vững đến muôn đời (2Sm. 12). “Thiên Chúa ban quyền xét xử cho vua, và cho hoàng tử đức công minh … Ngài thống trị từ biển này qua biển khác, từ sông cả đến mút cùng cõi đất ! … Vua chúa Tarsis, Saba sẽ đem triều cống lại chầu, vua chúa hết thảy sẽ bái lậy Ngài, tất cả muôn dân sẽ làm tôi Ngài” (Tv. 72, 1. 8. 10-11).
Nhưng than ôi, giấc mộng vàng muôn thuở chóng tan như mây khói. Họ chẳng thấy Ngài ra tay thực hiện chi cả, chỉ thấy Ngài xua đuổi con buôn đang đem lại giàu sang phú quý cho đền thánh. Ngài lại bị các thượng tế, kinh sư, thủ lãnh tra hỏi. Ngài bảo của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, dân còn gì sống đây ! Đế quốc đã bóc lột hết, lấy đâu mà trả Thiên Chúa. Ngài lại loan báo những điều quái gở: Đền thờ sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Mặt trời mặt trăng không còn chiếu sáng, tinh tú sẽ rơi xuống kinh hoàng (Mc. 11, 13). Tận thế rồi ! Họ còn mong ở Ngài gì nữa ! Họ tuyệt vọng, xa tránh Ngài, Ngài xúc phạm đến đền thờ, xúc phạm đến trời đất. Ghê gớm hơn nữa Ngài là thứ gì, đã dám cho mình là có trước Abraham và xưng mình là Thiên Chúa. Tội tầy trời ! Không thể tha thứ. Toàn quyền Philatô chỉ treo hình hoàng đế Xêda trong khuôn viên đền thờ, dân đã nổi loạn chiến đấu với quân Rôma, dù phải đóng đinh họ vẫn bất chấp, huống chi thanh niên con bác thợ mộc dám xưng mình là Thiên Chúa tại đền thờ trong tuần đại lễ của toàn dân. Ghê gớm kinh khủng ! cho nên đành tha tướng cướp Baraba giết người còn hơn tha Giêsu. Thế là họ la hét: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Ôi lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết !
Họ như những chiếc lá phất phơ, vật vờ ray rứt, tung lên, nhào xuống giữa phong ba bão táp, những cơn cuồng phong dục vọng đam mê mù quáng đang bùng dậy trong lòng họ, trong lòng dân, trong lòng trần thế, xô đẩy vùi dập nhân thế xuống sâu trong lòng ham hố, giành giựt, mơ ước vinh quang bụi trần.
Ôi lạy Chúa, xin thương xót con. Đời là bể khổ, giòng đời cuồn cuộn trôi dạt, không biết trôi về đâu. Bao nhiêu thuyết … duy tâm, duy vật, duy dân, duy tân … tương đối, biến dịch, biến hóa chẳng bao giờ thấy chỗ thủy chung. Chẳng thấy cùng đích, chẳng bao giờ thấy nền tảng vững vàng, rõ ràng, luôn luôn là giả thuyết mơ hồ, mò mẫm, tối tăm, tịch diệt cuộc đời, thật khủng khiếp sống trong cảnh bể khổ trần ai như thế. Chẳng lạ gì, họ đã giải quyết, đã xử lý Ngài bằng đóng đinh thập giá, treo Ngài trên đỉnh gió hú: “Trong bóng tối bao phủ, mặt trời tối đi” (Lc. 23, 44-45) “Đất rung đá vỡ, mồ mả lật tung” (Mt. 27, 52).
Ôi lạy Ngài, ai bảo Ngài không ở lại thiên đường, nơi ánh sáng vinh quang, nơi chân lý ngàn đời, nơi hằng hữu trường tồn, nơi bất biến, bất diệt, nơi thỏa mãn mọi giấc mơ. Ai xui Ngài xuống cõi u minh trần tục, cõi tịch diệt đắng cay, mang thân phận nô lệ phàm nhân. Ai xui Ngài tự hạ sống giữa sói rừng, chúng cấu xé Ngài, bắt Ngài phải tùng phục cho đến chết, chết trên thập giá (Pl. 2, 6-11).
Lạy Ngài, xin thương xót chúng con, xin muôn vàn thương xót ! Chúng con chỉ còn trông cậy vào lòng thương xót vô lượng vô biên của Ngài. Chính vì lòng thương xót vô lượng vô biên mà Ngài đến thế gian, dầu bất cứ giá nào, dầu phải thí mạng sống Ngài cũng đến cứu sống chúng con. Cho chúng con được hằng sống, được tồn tại bền vững trong ánh sáng phục sinh vinh phúc của Ngài. Chúng con xin trọn đời cảm tạ Ngài. Amen.
5. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
6. Nhiệt thành của thập giá.
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
7. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN HÒA
Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?" (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.
Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.
Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).
Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu - tu sĩ - linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.
8. Vương quốc Tình yêu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J. Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi vô tội". Người không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
****
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: "Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem... Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: "Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!" Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt" (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: "Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ" (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
****
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen.
9. Đức Vua Tình Yêu – AM Trần Bình An
Buổi sáng một ngày nọ, Chúa Giêsu lên đường về Giê rusalem, có rất đông thiên thần tháp tùng ca ngợi tình thương của Chúa đối với nhân loại. Các thánh ký đã thuật lại cuộc đón tiếp tưng bừng, mà hết mọi người đều say sưa hoan hô Chúa: “Vạn tuế Đức Hoàng Đế, nhân danh Chúa đến với chúng ta! Hoan hô Thái Tử của Đavít.” Tuy bề ngoài chẳng có gì tỏ ra xứng với một cuộc tung hô khải hoàn như thế. Chúa đến, cưỡi trên một con lừa nhỏ. Chẳng có gì lộng lẫy. Nhưng chính Thánh ý Thiên Chúa đã muốn rằng, trong ngày hôm đó, tất cả các tâm hồn đều phải dâng cho Chúa Con một niềm tin kính huy hoàng.
Tại Bêtania, nơi Mẹ lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy tất cả quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe tiếng Thiên Chúa nói tỏ cho mọi người tham dự đều nghe hiểu được: “Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha sẽ còn tôn vinh Con nữa.”
Thiên Chúa cũng muốn cuộc khải hoàn này có một tầm mức rộng rãi khác thường. Chúa sai Đức Tổng Thần Micae đem tin đó xuống u ngục. Tại đây, các thánh được xem thấy những gì diễn biến tại Giêrusalem, và các ngài hát lên nhiều ca vịnh, mừng Chúa Cứu Chuộc chiến thắng tội lỗi, sự chết và hỏa ngục. Ngoài ra, tất cả những người đã biết Chúa Giêsu bất cứ cách nào, không những ở Palestina, mà cả ở Ai Cập hay các nơi khác, đều được Thiên Chúa ban cho một ánh sáng, làm họ hân hoan và tăng thêm niềm tin và nhân đức của họ. Chúa cũng không để cho ngày vui đó phải nhuốm màu tăm tối cái chết: không một ai chết trong ngày đó. Chúa cũng không cho phép ma quỷ, thu được một lợi lộc nào trong suốt thời gian khải hoàn ấy: Chúng bị xô xuống vực sâu hỏa ngục hết thảy. (Văn Hải, Maria Agrêđa, Từ Tabôrê đến rước lá, Thần Đô Huyền Nhiệm)
Giây phút đăng quang tưng bừng, rộn ràng niềm vui quá ngắn ngùi, Bài Tin Mừng thứ nhất diễn tả một thoáng huy hoàng Đức Vua Tình Yêu lên ngôi, chỉ sôi nổi diễn ra vài giờ rồi chấm hết. Rồi bài Thương Khó tiếp theo sau, Đức Vua Tình Yêu lẻ loi, cô đơn, chịu khổ hình, đau đớn và chết nhục nhã trên cây thập tự, diễn tả sứ vụ đã hoàn thành, cũng là thời điểm Đức Vua Tình Yêu chiến thắng sự dữ, hận thù, tội lỗi và cái chết.
Đức Vua bị bỏ rơi
Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai, Đức Vua hoàn toàn cô đơn, lẻ loi trước cuộc khổ nạn khốc liệt. Hàng vạn người đã tưng bừng chào đón Đức Vua cưỡi lừa vào Thành Thánh, hàng ngàn người đã được ăn bánh no nê, hàng trăm người được chữa lành bệnh, tật nguyền, hàng chục người chết sống lại, nay đang ở đâu, khi Đức Vua khủng hoảng trước sự dữ?
Dân chúng bạc bẽo bày đàn chạy theo thói thực dụng đã đành, còn ba môn đệ thân tín thì lại thản nhiên chiều theo bản năng, vô tư ngù vùi, mặc cho Thầy Giêsu kịch liệt chống trả cám dỗ, đến nỗi máu và mồ hôi toát ra giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. Phải chăng vì xác thịt quá nặng nề, vì tình nghĩa dành cho Thầy còn quá hời hợt, nông cạn, xốc nổi, nên trò mới dửng dưng bỏ rơi Thầy lúc ngặt nghèo? Mặc lời mời gọi khẩn khoản của Đức Giêsu với ba mộn đệ như rơi vào hư vô, không một tiếng hồi âm. “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” Lần hai, rồi lần ba cũng hoài công, vô vọng.
Đức Giêsu càng thấm thía nỗi cô đơn sầu não hơn nữa, khi quân dữ xông đến bắt Người, các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy chạy trốn, hoặc sau đó, ba lần Phêrô công khai chối Thầy. Còn gì đau đớn hơn khi bị người thân cận yêu thương nhất phản bội? “Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Lc 22, 61) Cái nhìn độ lượng, nhân từ, xót xa, lẫn khiển trách, đã thức tỉnh Phêrô quay về.
Thân bằng quyến thuộc đều bỏ rơi Người trong cơn nguy khó. Chính vì Vâng phục, Đức Giêsu phải chịu đựng nỗi cô đơn, sự bỏ rơi lạnh lùng đến vô cảm của thế gian. Người chỉ còn duy nhất trông cậy, cầu nguyện, tha thiết khấn xin Thiên Chúa Cha: “Abba Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.”
Nỗi cô đơn dày vò lên đến đỉnh điểm, khi Đức Giêsu hấp hối trên thập giá đã thảng thốt: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Thánh Phaolô vô cùng ca ngợi và vinh danh nhân đức Vâng Lời của Đức Giêsu. Nhờ vậy, mà nhân loại mới được trở nên công chính và được cứu rỗi khỏi sự chết: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thanh người công chính.” (Rm 5, 19)
“Trinh khiết là chết cho nhục dục, vâng phục là chết cho ý riêng.” (Đườnmg Hy Vọng, số 402)
Đức Vua chịu nhục hình
Không chỉ chịu đòn roi, khổ hình hành hạ thể xác, Đức Vua Tình Yêu còn chịu đựng những lời phỉ báng, khinh miệt, những lời vu oan cáo vạ tày trời! Nhưng đau đớn hơn cả là hành vi ác ý bẻ cong, cắt xén, chụp mũ, xuyên tạc Lời Hằng Sống: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" (Mc 14, 58) “Hãy nói tiên tri đi!”
Chịu nhiều cực hình tra tấn nhục nhã ê chề vẫn chưa hết, Đức Vua còn bị liệt vào hạng người còn hèn mạt, tồi tệ, đáng khinh hơn cả phạm nhân Barbara cướp của giết người. Đáng đóng đinh vào thập giá. Nhưng gương mặt mới hôm nào hân hoan rạng rỡ chào đón Đức Giêsu vào Thành Giêrusalem, nay bừng bừng sát khí, đồng thanh phản bội lập đi lập lại: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Gánh hết tội lỗi thế gian, Đức Giêsu cam chịu khổ hình, đền thay cho tội nhân mọi thời, mọi nơi. Thánh Phaolô khẳng định một sự thật kinh thiên động địa:“Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.” (Dt 9, 26)
“Thương tích của Chúa Kitô dạy ta cái gì? Những thương tích đó dạy rằng: Đời là một cuộc chiến, ngày cánh chung, chúng ta cũng được sống lại như Ngài đã sống lại. Nếu đời ta không có thập giá, tất cũng không có mồ táng trống không. Nếu không có ngày Thứ Sáu thụ nạn, tất không có Chúa Nhật Phục Sinh. Không có vành gai, tất không có hào quang ánh sáng. Nếu ta không cùng khổ với Ngài, tất ta không được cùng Ngài sống lại.” (ĐHY Fulton Sheen, Trên Đỉnh Cao Thập Giá)
“Trong giờ tử nạn, Chúa đem theo những Tông đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không?” (Đường Hy Vọng, số 699)
Đức Vua chịu đóng đinh
Cơn cuồng nộ của dân chúng vẫn còn chưa chịu chấm dứt, khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá. Kẻ qua người lại tiếp tục ra rả chửi rủa, khinh miệt, nhục mạ phỉ nhổ, xỏ xiên, khích bác, dè bửu, mạt sát Đức Vua.
Sự dữ tưởng như chiến thắng. Ma quỷ hả hê, hí hửng, tưởng chừng tiêu diệt được đạo lý, sự thật và sự sống. Nhưng không phải vậy, Tình Yêu đã khải hoàn, Đức Vua Tình Yêu đã hoàn toàn chiến thắng thế gian, ma quỷ và xác thịt, khi Người toàn tâm toàn ý vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa Cha. Sẵn lòng làm hạt lúa chết đi, để trổ sinh hoa trái cứu độ cả nhân loại.
Hướng về Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Thánh Phaolô khuyên nhủ hãy cởi bỏ gánh nặng trần thế, lo toan sự đời, ham hố vinh hoa, phú quý và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho tín hữu: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Dt 12, 2)
“Đau khổ không những giúp con can đảm, nhẫn nại, nhưng còn có giá trị cứu chuộc rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương khó Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, số 706)
Lạy Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, xin cảm hóa chúng con, biết ăn ăn, sám hối, canh tân, trở nên khiêm hạ, vâng phục Thánh Ý Chúa, dẫu có chịu cô đơn, hành hạ, nhục hình và thậm chí chịu tử nạn vì sáng danh Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, khấn xin Mẹ dẫn dắt chúng con đồng hành với Mẹ trong cuộc thương khó tới tận đỉnh đồi Canvê. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết bỏ mọi lưu luyến thế gian, từ bỏ cả bản thân, mà vác Thánh Giá theo Chúa cho trọn. Amen.
10. Lễ lá.
Tại một ngôi nhà thờ nọ ở Tây Ban Nha có một cây thập giá được rất nhiều người tôn sùng. Đó là tượng chịu nạn tha tội: Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải của Ngài thì thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải. Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng đấy. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:
- Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
- Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:
- Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con. Lời ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong tuần thánh này. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và thất bại, là hình phạt được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng, Thiên Chúa đã biến đổi nó thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ và của sự tha thứ. Khi tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng cách chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của đau khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con đường của đau khổ, của thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy không đưa chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống như lời Ngài đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
11. Đấng khiêm nhường chính là Ngài
(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào SDB chuyển ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại Đại học St. Thomas, Thánh Phaolo, Minnesota)
“Ngài đã khiêm nhường tự hạ - vâng phục cho đến chết, và chết trên Thập giá” (Pl 2,8)
Tin Mừng Mát-thêu giới thiệu Chúa Nhật lễ Lá với bài Tin Mừng chứa nhiều trình thuật mang đậm những lời tiên báo của các Ngôn sứ thời Cựu Ước. Những trình thuật đó mô tả Đức Giêsu như là người được Thiên Chúa hứa ban, Đấng sẽ đến để thiết lập Vương Quốc Nước Trời. Mát-thêu trình bày lời Ngôn sứ trong Dacaria 9,9 để mô tả việc Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem: “Nào Thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi Thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng, Khiêm Tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”. Mát-thêu đã không nói về dáng vẻ oai phong của một vị tướng quân theo phong cách Do Thái hay Hy Lạp, nhưng ngài chỉ nêu lên 2 phẩm tính căn bản nơi Đức Giêsu, và đó cũng là tâm điểm của lời Ngôn sứ “Vị Vua khiêm tốn và vị vua tiến vào Thành Thánh trên lưng của một con lừa.
Đây là lời tiên tri xem ra có vẻ khập khiễng, bởi vì khiêm tốn không phải là bản chất của các vua chúa. Các ông vua thường tiến vào thành bằng những chiến xa có ngựa kéo với long bào lộng lẫy và đầy uy lực. Sự khiêm tốn của Đức Giêsu không phải để trình diễn, nhưng đây là chính ý định của Ngài khi tiến vào Giêrusalem, và hiểu rộng hơn, khi Ngài đến trần gian mang lấy kiếp người. Một con ngựa chiến biểu thị cho chiến tranh, ngược lại một con lừa gợi đến viễn ảnh hòa bình. Dẫu sao, Dacaria cũng tiên báo về một vị vua “oai hùng và chiến thắng”.
“Oai hùng và chiến thắng” dường như là những lời xưng tụng trên môi miệng đám đông khi Chúa vào Giêrusalem. Người ta hoan hô Ngài, gào lớn tiếng “Hosanna con Vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa ngự đến, hoan hô trên các tầng trời”. Chúa Giêsu biết rằng lời tung hô từ đám đông không đem lại chiến thắng và vinh quang. Ngài biết mình là ai, và Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu thế như thế nào. Vì thế, Ngài nhận ra rằng: việc cưỡi lừa vào Giêrusalem, thực hiện lời Ngôn Sứ Dacaria đòi phải có một phong thái khiêm tốn, không màng quyền lực, không gây tàn phá, hận thù hay chiến tranh để cho hoạch định cứu chuộc của Chúa Cha được thực hiện qua đau khổ của chính Ngài. Cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, với đám đông tung hô bên đường, phải thấm đượm cay đắng, đan xen ngọt ngào. Ngài biết những gì đang xảy ra, và Ngài biết con đường trước mắt sẽ như thế nào?
Câu hỏi được đặt ra là có khi nào Đức Giêsu thực hiện trọn vẹn lời Ngôn Sứ nói về sự khiêm hạ và tự nguyện nơi Ngài khi Ngài không còn một chọn lựa nào khác để xây dựng Vương Quốc Nước Trời? Có khi nào việc Ngài biết trước những biến cố sẽ xảy ra, làm giảm đi giá trị của việc tự hiến nơi Ngài? Như Thánh Phaolo đã nói trong thư gửi Giáo đoàn Philipphê, Đức Giêsu “đã tự hạ” bằng cách mang lấy thân phận loài người, bằng việc Ngài đã “biến mình ra không” và chọn cuộc sống làm người rất thấp hèn. Hơn nữa, trong tư cách là một phàm nhân, Ngài đã “trở nên vâng phục cho đến chết – và chết trên Thập giá”. Khi tiến vào Giêrusalem và đón nhận cái chết, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm tốn, sự vâng phục một cách tự nguyện.
Lẽ dĩ nhiên, chúng ta có thể lý giải rằng cuộc thương khó của Đức Giêsu là do sự trở mặt của đám đông. Dân chúng thay đổi thái độ hoàn toàn, từ việc tung hô chào đón một con người mà họ kỳ vọng sẽ là một ông vua, biến trở thành thái độ chống đối, đòi kết án và loại trừ Ngài. Tuy nhiên, chính Đức Giêsu biết những điều đã, đang và sẽ xảy ra. Ngài cũng nắm bắt được những gì xảy đến cho dân chúng và cả những người lính hành quyết Roma, để cả họ cũng được cứu độ. Đó là lý do Ngài đã trở nên tự hạ, và tự hạ để thương xót cả những con người đã mỉa mai và kình chống Ngài.
Một điều cũng quan trọng, không phải mọi người đã quay lại phản bội Chúa Giêsu, cho dù nhiều người không thể hiểu được nguyên do tại sao Ngài tự nguyện hiến mình cho đến chết. Nhiều người vẫn theo Chúa đến tận chân Thập giá, cho dù những người khác lại bội phản và chối từ Ngài. Sự khiêm hạ và vâng phục nơi Đức Giêsu là quà tặng được trao ban cho chúng ta, cho mọi người và cho cả những ai không chấp nhận, lúc đó hay ngay bây giờ.
Dấu ấn đậm nét nhất khi nhìn vào bản tính Thiên Chúa, chính là Vương Quốc Ngài được xây dựng trên thân xác mong manh của Người Con. Vương quốc đó được trao hiến cho kiếp người, và vinh quang từ Vương Quốc đó đã bị cất giấu đi nơi chính Người Con này. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng sự khiêm hạ, không bằng sức mạnh, để dạy chúng ta biết rằng tình yêu vị kỷ là chính bản tính của Thiên Chúa. Một Đức Giêsu uy quyền và chiến thắng không phải là một Đức Kitô dương oai thị võ, nhưng là một Đấng rất khiêm hạ. Khiêm hạ không phải là con đường Đức Giêsu muốn một mình dấn bước đến Giệtsêmani, nhưng là con đường Ngài đã chọn để vác Thập giá trong vâng phục đến nơi mà chúng ta cần Ngài đi đến.
Nguồn: http://gplongxuyen.org