Chúa Nhật 24/06/2018 – Chúa Nhật tuần 12 Thường Niên năm B – SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ. Lễ Trọng. – Cháu sẽ gọi tên là Gioan.

Chúa Nhật 24/06/2018 – Chúa Nhật tuần 12 Thường Niên năm B – SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ. Lễ Trọng. – Cháu sẽ gọi tên là Gioan.

"Nó sẽ gọi tên là Gioan".

 

Lời Chúa: Lc 1, 57-66. 80

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà.

Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan". Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó". Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan".

Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó". Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.

 

 

24/06 – Chúa Nhật tuần 12 Thường Niên năm B

"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người".

 

Lời Chúa: Mc 4, 35-40

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ".

Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.

hợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

 

SUY NIỆM

1. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy niệm

Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng.

Ngày vui ấy thường đi với quà, tiệc mừng và những lời cầu chúc.

Thật ra mừng sinh nhật có thể là một hành vi mang nhiều tính tôn giáo.

Tôi nhớ đến ngày tôi được sinh ra,

một sinh linh bé nhỏ chào đời,

mang hình ảnh của Thiên Chúa, mang khuôn mặt của Đức Giêsu.

Ngày ấy quan trọng và đáng nhớ ngay cả đối với chính Thiên Chúa.

Dù thế giới có hơn 6,7 tỷ người thì một hài nhi mới sinh

cũng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa.

Thiên Chúa có những ước mơ và dự tính riêng về từng con người.

Chẳng ai chào đời một cách tình cờ và ngẫu nhiên.

Mỗi người đều cần cho kế hoạch lớn của Thiên Chúa.

Mừng sinh nhật một cách nghiêm túc lại trở thành một lễ tạ ơn.

Tạ ơn Chúa đã cho tôi được làm người ở đời.

Bất chấp những khổ đau vấp ngã, những thất bại đắng cay,

tôi vẫn xin được yêu mảnh đời Chúa dệt cho tôi.

Hôm nay Giáo Hội mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả.

Chỉ có Đức Giêsu và Mẹ Maria mới được mừng ngày sinh trong phụng vụ.

Điều đó cho thấy sinh nhật của Gioan là biến cố có ảnh hưởng lớn.

Bài Tin Mừng hôm nay nói vắn gọn về chuyện sinh hạ và cắt bì Gioan,

nhưng kể dài hơn về chuyện đặt tên cho em.

Chúng ta có thể cảm được niềm vui lớn lao của người mẹ là bà Êlisabét.

Niềm vui này đã bắt đầu từ khi bà có thai Gioan.

Chẳng biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bà đã cao niên lại không sinh con.

Hiếm muộn thời xưa thường bị coi là do người vợ.

Đó là một sự sỉ nhục (St 30, 23) và là một hình phạt của Chúa (2 Sm 6, 23).

Nhưng bà Êlisabét lại là người công chính thuộc dòng tư tế Aharon,

“sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa,

không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6).

Bà đã sống với nỗi đau này trong nhiều năm, sau bao lần chờ đợi và thất vọng.

Khi biết mình có thai trong lúc tuổi già,

bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó,

khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước người đời (Lc 1,25).

Ngày sinh của Gioan là ngày vui đặc biệt cho bà, người làm mẹ lần đầu.

Niềm vui ấy còn được nhân lên vì bà sinh một cậu con trai.

Láng giềng, thân thích đến chung vui với bà vì bà được Chúa thương.

Chúng ta không rõ bởi đâu mà Êlisabét đòi phải đặt tên cho con mình là Gioan.

Chỉ biết bà đã phản ứng quyết liệt chuyện đặt tên con là Dacaria.

Nhưng quyết định của người cha mới là quan trọng,

vì người cha thường là người có quyền đặt tên cho con,

qua đó nhìn nhận người con ấy là của mình (x. Mt 1, 21).

Ông Dacaria chẳng những bị câm, lại còn điếc nữa,

nên người ta phải làm hiệu để hỏi ý ông.

Khi ông viết trên bảng tên “Gioan” thì mọi người chưng hửng.

Chính lúc ấy một phép lạ xảy ra: ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa.

Gioan là tên mà sứ thần đã dặn ông lúc dâng hương trong Đền thờ.

Gioan (Yôkhanan) có nghĩa là ĐỨC CHÚA thi ân.

Gioan thật là một ơn của Chúa và sẽ đóng một vai trò trong lịch sử cứu độ.

Chúng ta để ý đến vai trò của bà con láng giềng trong bài Tin Mừng này.

Họ đến chung vui, can thiệp ít nhiều vào chuyện đặt tên đứa trẻ.

Họ bỡ ngỡ với cái tên Gioan, và kinh sợ khi ông Dacaria nói lại được.

Việc sinh hạ Gioan quả đã được vây bọc bởi nhiều chuyện lạ lùng.

Tiếng vang không chỉ nơi láng giềng thân thích,

mà còn được loan truyền khắp vùng đồi núi xứ Giuđê (c. 65).

“Rồi đây đứa trẻ này sẽ ra thế nào?”

Đó là câu hỏi mà ai cũng để tâm suy nghĩ sau khi nghe câu chuyện.

Hẳn là em này sẽ có một định mệnh và ơn gọi đặc biệt.

Có thể sau đó mọi sự lại lắng xuống,

còn cậu Gioan thì vẫn lớn lên, tinh thần vững mạnh.

Cậu không lập gia đình và sống trong hoang địa, chờ ngày đến với Ítraen.

Mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả,

chúng ta thấy được sự khiêm tốn của Thiên Chúa.

Để giới thiệu Con của Người là Đức Giêsu cho dân Ítraen,

Thiên Chúa cần đến Gioan, một người dọn đường.

“Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng

kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối” (Cv 13, 24).

Và Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc sinh hạ của con người này.

“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,

lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (Is 49,1).

Hình ảnh người Tôi Trung trên đây trong Isaia khá hợp với Gioan.

“Người là đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ

để tôi trở thành người Tôi Trung đem nhà Giacóp về cho Người…” (Is 49,5).

Hóa ra việc Thiên Chúa chọn, gọi và giao sứ mạng

đã diễn ra ngay từ con người chỉ mới là phôi thai trong lòng mẹ.

Điều này đúng với Gioan:

“Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ.

Em sẽ đưa nhiều con cái Ít raen về với Đức Chúa…

và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1, 15-17).

Gioan đã được gọi để làm ngôn sứ cho dân tộc của ngài,

giúp cho dân Ítraen đón nhận Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông.

Ơn gọi ấy đã làm cho ông hiện hữu ở trên đời.

Cuộc sinh hạ của Gioan được coi là kỳ lạ.

Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng.

Khi rửa tội một em bé mới sinh,

chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao?

Đâu là định mệnh tương lai của em?

Đâu là con đường riêng mà Chúa muốn em đi?

Chúng ta chỉ mong bàn tay Chúa ở với em (Lc 1, 66).

Những thai nhi, những hài nhi, những trẻ thơ hôm nay ở quanh ta

cũng được hiện hữu và được trao một sứ mạng.

Mừng sinh nhật một vị thánh, chúng ta thêm trân trọng sự sống nơi các em,

và thấy mình có bổn phận nâng đỡ để các em đi con đường Chúa muốn

và trở thành những người đưa dân tộc Việt Nam đến với Chúa.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

 

2. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

A. Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ; trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ…đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Nhưng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:

- “Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy”.

Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…

Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.

Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.

Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ” (Mt 11,11)

Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo ấy mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.

B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày tái sinh của chúng ta.

Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).

Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.

C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài góm tọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.

Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.

Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già An Đo như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!

    Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “ Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.

Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.

Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.

C. Gioan còn có tước hiệu là Tẩy Giả. Ngài đã kêu gọi mọi người sám hối và làm phép rửa sám hối cho những kẻ thật lòng ăn năn.

Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán đang cần đến những cơn mưa tình thương và Ơn Cứu Độ của Chúa.

Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.

Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:

- Luật cấm bắt tay.

Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:

- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?

Ông giám đốc bối rối trả lời:

- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.

Ông Ra-un liền kết luận:

- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.

Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.

Xin nhắc lại ở nơi đây một lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói lời này để kết thúc một dụ ngôn nổi tiếng của Chúa. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu: “Anh hãy đi và làm như thế” Chúng ta hãy đi và làm như thế. Amen.

 

3. Tên là Gioan – J.M

GIOAN TẨY GIẢ

Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc đà. Một hình ảnh nổi bật được nhà điêu khắc Rôbin tạc về Gioan là vị Tiền Hô! Một người đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ: xông pha làm chấn động như một lực sĩ vô địch chạy nước rút. Một hình ảnh cường tráng, nhưng dịu dàng. Một đời sống ngắn ngủi, vì bạo lực đã kết thúc đời Ngài. Nhưng Ngài coi bình thường, một đời sống không khoan nhượng!

Đàng khác Ngài rất khiêm nhường, cảm thương mọi người, được kính trọng đồng thời bị ghét bỏ! người ta không lạ gì khi nghe Ngài tuyên bố: “Tôi không đáng cởi dép cho Người!”

Gioan hẳn đã biết Đức Giêsu, người anh em bà con mình, là Thiên Chúa là tổ phụ Abraham, Isaác và Israel, mà Ngài được gặp hằng ngày trong kinh nguyện và trong lời rao giảng? Gioan không phải là Thánh tử đạo (Người ta không xử tử ông vì đức tin), Ngài không phải là chứng nhân của Thiên Chúa, chỉ là tiếng kêu trong Samạc...

Vì đó là người nhập cuộc hành trình trên con đường trong Samạc.

Con người sống ngoại lệ.

Từ rất sớm, Gioan phải kham khổ, vì do sinh ra khác thường, bởi cha mẹ già cả, mang một tên không theo dòng họ. Ông bố bị câm, được nói như trước. Tất cả những thứ đó đè trên vai đứa trẻ, đứa thanh niên. Tiểu sử đó đã lan ra khắp xứ ngay sau khi đứa trẻ ra đời, nó phải chịu cái nhìn tò mò của mọi người, của bạn bè, chắc chắn nó đã chế nhạo ông bạn ngây thơ của chúng. Câu cuối của đoạn Tin Mừng này nói lên sự đau khổ lớn lao của Gioan: “Cậu bé càng lớn lên tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel!”

Trong hoang địa...

Đó là một người được chiếu cố! không phải để trở nên ngôn sứ, không phải do Thiên Chúa lạm dụng, nhưng vì đồng hương từ chối cậu, cậu không được quyền sống như người khác! Họ muốn cậu phải trung thành với ơn gọi mình, họ không biết thánh ý Thiên Chúa, nhưng đẩy cậu đi vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa....

 

4. Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo

Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời" của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.

Con người của một sứ mạng

Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là "bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính tình Yêu của Chúa "gọi" họ vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng đớ là một "ơn gọi". Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là tiêu biểu vả rõ ràng.

Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv..Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạlùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nới hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ "dọn đường". Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ "dọn đường” và "làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.

Gioan và Hêrôdê

Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.

Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.

Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.

Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.

Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta.

Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên "theo hình ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa" và "chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).

Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố...

Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta. Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?

Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo. Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.

Theo "ơn gọi" và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.

 

5. Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ)

Ngoài Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, nghĩa là lễ Chúa Giáng Sinh, trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, chỉ có hai ngày lễ mừng sinh nhật: sinh nhật của Đức Maria (ngày 8/9) và sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả (ngày 24/6). Chúng ta có thể hỏi: tại sao cùng với Giáo Hội chúng ta chỉ mừng lễ sinh nhật của Đức Maria và của thánh Gioan mà thôi, chứ không mừng sinh nhật của các vị thánh khác?

Đó là bởi vì, sự sinh ra của Đức Maria và của thánh Gioan có liên quan đặc biệt đến sự sinh ra của Đức Giêsu: Đức Maria được Thiên Chúa chuẩn bị cách đặc biệt, ngay trong lòng mẹ, để sau này cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế; còn sự sinh ra của thánh Gioan nhắc nhớ cách Thiên Chúa hành động trong lịch sử cứu độ, và cách hành động này sẽ trở nên viên mãn nơi Đức Kitô, ngay từ biến cố Giáng Sinh của Người.

1. Thánh Gio-an và lịch sử cứu độ

Như chúng ta đều biết, theo lời kể của thánh Lu-ca, thánh Gioan là ơn huệ Thiên Chúa ban, khởi đi từ cung lòng hiếm muộn và già cỗi của mẹ Elizabeth, như chính ông Zacharia thú nhận: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng cao niên” (Lc 1, 18); và chính sứ thần Gabriel loan báo cho Mẹ Maria: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng” (c. 36).

Sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, đó là vì “Chúa đã rộng lòng thương xót bà” (c. 58). Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với bà Elizabeth nhắc nhớ lòng thương xót của Thiên Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ: Thiên Chúa làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người vẫn chưa xuất hiện và ở những hoàn cảnh mà con người hoàn toàn bất lực. Thật vậy, trong công trình sáng tạo, từ mặt đất trinh nguyên, Thiên Chúa làm trào vọt ra sự sống, sự sống phong nhiêu của muôn loài muôn vật, và nhất là sự sống của con người, được hình thành theo hình ảnh của Thiên Chúa; và trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn làm trào vọt ra sự sống ở nơi không còn hi vọng gì: đó là cung lòng đã chết của tổ phụ Abraham và bà Sara, đó là biến cố Xuất Hành: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người” (Tv 77, 20), đó là sự sống, ngang qua ơn huệ lương thực, Chúa ban cho Israel trong hành trình trong sa mạc, đó là sự khai sinh ra vương quốc khởi từ những xung đột chết chóc, đó là niềm hi vọng, được nuôi dưỡng bằng lời ca tụng, khi không còn gì để hi vọng: “Tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề…”. Và Đức Kitô sẽ đến để lấp đầy niềm hi vọng này.

Bà Elizabeth vừa già cỗi và và hiếm muộn, không thể sinh con, là hình ảnh nói lên chính tình cảnh bi đát của Israen, của nhân loại và của từng người chúng ta, bất lực trong việc xây dựng sự sống của chúng ta trong hiệp nhất và tình yêu, và vì thế để cho bầu khí chết chóc làn tràn và để cho Sự Dữ ngự trị. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với bà Elizabeth, khi cho bà cưu mang và sinh con, người con mang tên Gioan, nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”, thì chắc chắn, Thiên Chúa cũng đã và đang thương xót nhân loại chúng ta, Hội Dòng và cộng đoàn chúng ta, gia đình chúng ta và từng người chúng ta.

2. Thánh Gioan và Đức Kitô

Sự sống của thánh Gioan là một tuyệt tác của Thiên Chúa, diễn tả quyền năng ban sự sống của Người; nhưng Đức Giêsu, sinh bởi Đức Maria, là tuyệt tác còn lớn hơn và là tuyệt tác duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, trong ngày sinh nhật của thánh Gioan và nhất là của Đức Giêsu, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Trong đời sống dâng hiến, các nam nữ tu sĩ được mời gọi sống “trinh nguyên” (trinh nguyên, tiên vàn không phải thể lý, nhưng là một con tim ước ao sống bởi và sống cho một Thiên Chúa), chính là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh, bền vững và phong phú, bằng quyền năng sáng tạo của Ngài.

Ngoài ra, tên gọi “Gioan” nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”; trong khi tên gọi “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”, là Ơn Huệ của mọi ơn huệ, là Ơn Huệ mà mọi ân huệ khác hướng tới và chỉ là dấu chỉ, và là Ơn Huệ một lần cho tất cả. Như thế, thánh Gioan không chỉ loan báo Đức Giêsu bằng cuộc đời và cái chết của mình, nhưng còn bằng chính biến cố sinh ra và tên gọi nữa.

Xin cho chúng ta cũng hướng về Đức Kitô như thánh Gioan, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, ngang tất cả những gì chúng ta là, được chất chứa trong “tên gọi” của chúng ta; và xin cho Người nổi bật lên trong cuộc đời, ơn gọi và từng ngày sống của chúng ta.

3. “Chúc tụng Đức Chúa…”

Về chuyện ông Zacharia, cha của thánh Gioan, bị câm, nhưng ngay sau khi đặt tên cho con là “Gioan”, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Bởi vì, sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth.

“Không nói được”, không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được. Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, “Thiên Chúa Thi Ân”, thì ông “lưỡi ông lại mở ra, ông nói được” và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa: Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.

Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Zacharia, bố của thánh Gio-an. Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”. Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là “người câm” vậy thôi!

Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, được bày tỏ cho chúng ta một cách thật hữu hình, có thể nhìn thấy được, đó là Thánh Tâm của Chúa bị đâm thâu.

“Lạy Thiên Chúa, là Cha của chúng con, xin thương xót chúng con, để chúng con đón nhận và xây dựng sự sống của chúng con như ân huệ và theo ơn gọi Chúa ban, bằng cách gắn bó mật thiết và nên một với Đức Giêsu Kitô, Con của Cha, từ lúc chúng con sinh ra cho đến lúc chúng lìa bỏ cuộc đời này, theo gương thánh Gioan Baotixita. Amen”.

 

6. Có bàn tay Chúa phù hộ

Phải thú thật là Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện... “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này hoặc thế kia, nhưng Chúa lại chọn một cách khác, hoàn toàn theo ý định nhiệm màu của Người. Người đảo lộn mọi toan tính lập trình cho dẫu hợp lý và quy mô đến đâu đi nữa của trần gian. Như trong một trò chơi cút bắt, Người vuột thoát khỏi vòng vây của con người chỉ những mong chộp lấy Người để huy động” Người theo ý muốn ích kỷ của mình.

Chúng ta cứ xem cách thức Thiên Chúa chọn Đức Ma-ri-a để làm thân mẫu của Đức Giêsu Nhập Thể. Chỉ là một thôn nữ nghèo, vậy thôi! Đến nỗi Đức Ma-ri-a phải thốt lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...” Sao lại không chọn một mệnh phụ, một bà hoàng, một phu nhân tổng thống, một nữ viện sĩ Hàn Lâm, hay một siêu người mẫu? Vậy là tiêu chuẩn của Chúa trổi vượt mọi lượng giá tầm thường, thấp lè tè sát đất của con người.

Lại đến chuyện vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-da-bét. Dẫu ông cụ là một tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, dẫu bà cụ cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron (x. Lc 1, 5), nghĩa là cũng môn đăng hộ đối đấy chứ, nhưng đã đáng là gì đâu giữa một dân tộc Ít-ra-en chẳng thiếu gì kẻ vênh vang con ông cháu cha, em vua chị chúa? Lại còn thêm hiếm hoi son sẻ, gần đất xa trời rồi mà chẳng được một mụn con nối dõi tông đường! Vậy mà Thiên Chúa lại can thiệp để một Gioan Tẩy Giả vĩ đại sẽ được chào đời, “sẽ đi trước mặt Chúa,...để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. (Lc 1, 17) Đến phiên bà cụ Ê-li-da-bét tự nhủ lòng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1, 25).

Rồi sau này, tới phiên Đức Giêsu, Người cũng sẽ có đường lối tuyển chọn “ngược đời” y như thế. Hóa ra Thiên Chúa chỉ muốn “chấm” những con người hiền lành, khiêm tốn, có tấm lòng chất phác mộc mạc, có một nỗi khao khát cháy bỏng, một ngong ngóng chờ đợi khôn nguôi hướng về Đấng Mê-si-a.

Trước sự kiện em bé Gioan Tẩy Giả chào đời, rồi ông Da-ca-ria mở miệng nói được mà chúc tụng Thiên Chúa, hàng xóm láng giềng và dân chúng khắp miền núi Giu-đê, ai cũng phải “kinh sợ”, “để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Còn tác giả sách Tin Mừng Lu-ca thì kết gọn một câu: “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em!” (Lc 1, 68)

Đối với chúng ta hôm nay thì sao nhỉ? Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả chung chung hời hợt như vậy rồi xong chuyện hay sao? Giáo Hội muốn gửi cho chúng ta thông điệp nào đây, khi mà một năm Phụng Vụ chỉ có 3 Lễ mừng Sinh Nhật của 3 người?

Với Đức Giêsu thì đương nhiên phải mừng trọng thể tưng bừng bằng cả một mùa Noel rồi.

Với Đức Ma-ri-a vào ngày 8.9 hằng năm cũng không lạ.

Nhưng với Gioan Tẩy Giả thì đáng cho chúng ta lắng lòng suy niệm.

Trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ xin đề nghị dừng lại ở xác quyết “Có bàn tay Chúa phù hộ” để tự mỗi người tự đặt ra cho mình một câu hỏi: “Ấy vậy, bản thân tôi, có bàn tay Chúa phù hộ đời tôi hay không?” Hỏi là đã có sẵn trả lời được rồi đó...

Lại một câu hỏi khác không thể không được đặt ra tiếp: “Về phần mình, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào đây khi đã xác quyết mình luôn được bàn tay Chúa hộ phù?” Cần phải nói ngay rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ có ý đồ đầu tư trước mắt để sẽ trục lợi về lâu về dài, một vốn mà bốn lời. Tất cả chỉ là do lòng yêu thương: Người tuyển chọn, rồi không ngừng hộ phù gìn giữ để chúng ta cứ thế mà tăng trưởng, đi cho đúng tuyến, sống cho đúng đạo.

Mọi sự đã rõ, được sinh ra và lớn lên trong bàn tay hộ phù của Thiên Chúa, chúng ta cứ nghiệm xem: sau này Gioan Tẩy Giả sống vai trò Ngôn Sứ và chết vì Chân Lý như thế nào, để rồi chính Đức Giêsu đã phải khẳng định về ông anh họ của mình là: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan...” (x. Lc 7, 28).

Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán bằng những cơn mưa Ơn Cứu Độ.

Mà thôi, khoan hãy nói đến chuyện lớn lao cả thể mà chỉ cần nghiệm sinh về sự Quan Phòng của Thiên Chúa đối với những con người bé nhỏ nghèo hèn ngay trước mắt chúng ta đây cũng đã quá đủ.

Đã nhiều lần, ngồi trước computer, nhận về cho GOSPELNET những E-Mails từ khắp mọi nơi muốn chia sẻ trợ giúp bằng cả tấm lòng, scan những tấm ảnh chụp những em bé bị tim bẩm sinh, những em bé bị bại liệt, những học sinh nghèo ở nông thôn... và gõ lên bàn phím những giòng chữ thông tin về những thai nhi vừa được giành lại cho sự sống..., tự nhiên thấy thấm thía vô cùng, rằng: “Có bàn tay Chúa phù hộ!”

 

7. Sinh nhật Gioan

Mọi người ngạc nhiên và sợ hãi mà nói:

Thằng nhỏ này rồi sẽ ra sao, vì bàn tay Thiên Chúa ở cùng nó.

Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, nghĩa là Thiên Chúa đã ban nhiều đặc ân cho Gioan:

- Đặc ân thứ nhất, là Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một người bà già, bà Elisabeth, mà bà già này lại mắc bệnh từ tuổi thanh xuân, đến nỗi chính ông Giacaria cũng không thể tin được là bà Elisabeth sẽ sinh con, nên ông đã bị Thiên Chúa phạt cho mắc bệnh câm.

- Đặc ân thứ hai: là chính Thiên Chúa đã đặt tên cho Gioan, mà thiên thần Gabriel đã phán với ông Giacaria tại bàn thờ dâng hương trong đền thánh Giêrusalem. Nhưng họ hàng lại nói với bà Elisabeth rằng: trong họ, có ai tên như thế đâu?

- Đặc ân thứ ba: đến khi Gioan sinh ra, đã được khỏi tội tổ tông ba tháng rồi. Vì thánh Ambrosiô giám mục thành Milan đã nói: các thánh khác chỉ được mừng lễ, sau khi đã lập nhiều công phúc ở thế gian mà về trời. Còn thánh Gioan lại được mừng lễ sinh nhật như Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.

Vậy khi ban những đặc ân trên, Thiên Chúa cũng đòi Gioan phải đến đáp bằng cách chu toàn những nhiệm vụ Chúa đã trao phó

1. Nhiệm vụ thứ nhất là tiền hô, là người đi trước, loan báo cho dân chúng biết Chúa cứu thế sắp đến. Mà thực thế mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng nuí Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây da, lương thực là châu chấu nướng, chấm với mật rừng, tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Giodanô, nên hội đồng cộng tọa của người Do thái đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là đấng Kitô không?

Thày tu hành Gioan trả lời: tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Rồi hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: đây là đấng cất tội thiên hạ, người này là con Thiên Chúa (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ bỏ thày mà theo Chúa Giêsu. Đó là Anrê và Gioan

Hôm nay mừng kính sinh nhật thánh Gioan, Chúa cũng muốn ta trở nên tiền hô cho Chúa: rao giảng Chúa Giêsu cho người khác, đem Chúa Giêsu cho người khác, và đem người khác đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là mục đích đời ta, Chúa Giêsu cũng là mục đích của người khác. Còn tôi chỉ là người môi giới, là phương tiện Chúa dùng, để đem người khác đến với Chúa chứ không phải đem người ta đến với tôi mà quên Chúa, cũng không phải đem người ta đến với tôi mà xa Chúa.

2. Nhiệm vụ thứ hai Chúa cậy nhờ Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho Chúa. Vậy theo Tin mừng thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mạng mạng dọn đàng cho Chúa cứu thế đến: là bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, uốn thẳng đường quanh co, nghĩa là Gioan dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái,

Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn độc, bò quanh co, không thể thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Với những người có lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, dùng việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội lỗi.

Với bọn thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, mà chỉ cần giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm hỗ.

Với quân nhân, Gioan kêu họ đừng hà hiếp bóc lột ai, đừng dọa nạt ai, nhưng phải bằng lòng về số lương của mình.

Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa tỏ lòng khiêm tốn ăn năn để được ơn tha thứ, được thấy ơn cứu độ.

Bởi thế, khi thấy Gioan làm phép rửa, những người biệt phái đã đến hỏi: Nếu không phải là đức Kitô, tại sao ông lại làm phép rửa? Thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy sẽ rửa các ông bằng nước và Chúa Thánh Thần.

Hôm nay, mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Thiên Chúa cũng muốn tôi trở nên những tẩy giả. Vậy những người đến với tôi, tôi có làm cho họ trở nên trong sạch hơn không? Tôi có làm cho họ tới gần Chúa hơn không? Hay tôi lại làm cho họ dơ bẩn hơn, mà không đáng đến gần Chúa.

3. Nhiệm vụ thứ ba, Chúa cậy nhờ Gioan là làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi Gioan nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.

Thánh Augustinô tiến sĩ, giám mục giáo phận Hippon còn thể tư tưởng này: Gioan phải thấp bé đi, là vui lòng chịu Herođê chặt đầu, để bắt chước Chúa Giêsu được lớn lên, là bị treo trên thánh giá. Còn tôi, tôi có sẵn sàng chịu nhục mạ để Chúa được vinh danh không? Tôi có sẵn sàng chịu tử đạo thiêng liêng bằng thiếu thốn về thể xác, bị hiểu lầm về phương diện tinh thần, để bắt chước Chúa đã được lớn lên bằng treo trên thập giá không?

Kết

Thằng nhỏ này sẽ ra thế nào, vì có bàn tay Thiên Chúa ở với nó. Lạy Chúa bàn tay Chúa đã ban đặc ân cho thánh Gioan tiền hô, thì bàn tay Chúa cũng đã nâng đỡ đời sống hy sinh của Gioan. Xin bàn tay Chúa cũng nâng đỡ chúng con như thế, vì xác thịt chúng con yếu đuối nặng nề.

 

8. Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả

* LỊCH SỬ

Ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật thật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các đấng thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24.6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.

Theo tường trình của Phúc Âm thánh Luca, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.

So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối. Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan. Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến. Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14). (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

A. Hạt giống...

Tường thuật Gioan Tẩy giả sinh ra nhấn mạnh đặc biệt vào việc đặt tên:

- Đây là một cái tên đặc biệt (c 61: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”)

- Nhưng lại được cả bà Êlisabét và ông Dacaria nhất trí mặc dù trước đó Dacaria bị câm không nói chuyện được với vợ.

- Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương” và là tên do thiên thần bảo phải đặt (Lc 1,13).

Như thế, Gioan tẩy giả là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ trong bụng mẹ, để trở thành ngôn sứ loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

B.... nẩy mầm.

1. Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.

Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết: “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến “danh”, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa giao cho đời mình.

2. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi.

Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.

3. “Khi con trẻ được 8 ngày, họ đến làm phép cắt bì (cho cậu)”: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo Hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo Hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.

4. Cô bé nói với anh trai: nhân ngày sinh nhật ba, em se tặng ba đôi dép. Người anh nói: “Nhưng em lấy tiền đâu mà mua?” Cô bé tròn mắt nhìn anh nói: “Ba cho em tiền mà!” Người anh lặng thinh nghĩ: ba cậu muốn có quà tặng trong ngày sinh nhật. Và vì yêu con gái, ông muốn nhận quà tặng từ tay đứa con yêu quí.

Chúng ta cũng chẳng có gì là của riêng mình để dâng cho Chúa. (Góp nhặt)

5. “Phải đặt tên cháu là Gioan” (Lc 1,60b)

Khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn “đặt tên con là Gioan”. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.

Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.

Lạy Chúa, xin cho con lòng tin vững mạnh, để con có thể nhận ra sự can thiệp của Chúa trong đời con (Hosanna)

6. “Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.

Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.

 

9. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

+ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II

1. "Thiên Chúa đa gọi tôi từ bụng mẹ, từ thân xác mẹ tôi, Người đa đặt tên cho tôi” (Is 49:1).

Hôm nay chúng ta mừng kính le sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia rất thích hợp để dien tả nhân vật trọng đại này của Thánh kinh, người là một gạch nối giưa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngu các vị đại tiên tri và số nhưng người công chính thi Gioan “Phép Rửa” đa được sự quan phòng Thiên Chúa đặt để đi trước Đấng Thiên Sai (Messiah) hầu sửa soạn con đường trước cho Ngài bằng cách giảng dậy và làm chứng nhân cho cuộc sống của Đức Kitô.

Trong tất cả các thánh nhân, chỉ riêng có thánh Gioan Tẩy Giả mới được Lich Phụng Vụ của Giáo Hội mừng ngày sinh nhật mà thôi. Chúng ta nghe từ Sách Thánh, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi Tôi Tớ của Ngài “từ trong bụng mẹ”. Lời xác nhận này trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cung có thể áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nư, Đấng khác sinh ra bởi một bà lao hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đa chỉ điểm cho thấy Đấng se mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.

2. "Từ trong bụng mẹ Ngài đa kêu gọi tôi" (Thánh vinh đáp ca)

Hôm nay chúng ta có thể dùng câu của Thánh Vịnh này áp dụng vào chính chúng ta. Thiên Chúa biết và yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta mở mắt chào đời để chiêm ngắm kỳ công của thọ tạo. Khi sinh ra con người nhận được một tên gọi trần gian. Nhưng ngay trước đó, moi người đa có một tên thần thánh: tên mà Thiên Chúa Cha biết và yêu thương họ từ thuở đời đời cho đến muôn thuở. Điều này đúng cho hết mọi người, không trừ ai cả. Không ai là người vô danh trước nhan Thiên Chúa! Tất cả đều có giá tri binh đẳng trước mắt Ngài: tất cả đều khác nhau, nhưng tất cả binh đẳng, và tất cả đều được gọi là con cái của Thiên Chúa.

"Tên con trẻ là Gioan" (Lk 1:63). Trước sự bơ ngơ và kinh ngạc của người thân và láng giềng, ông Zechariah xác nhận đây là tên con trai của ông ta, khi ông viết tên đó lên chiếc bảng nhỏ. Chính Thiên Chúa, qua trung gian thiên thần đa ban tên đó cho Gioan và tên đó theo nguyên nghĩa Do thái có nghĩa là: “Thiên Chúa có lòng từ tâm”. Thiên Chúa tốt lành với mọi người: Ngài muốn họ được sống; Ngài muốn họ được cứu chuộc. Thiên Chúa tốt với dân của Ngài: muốn họ trở nên sự chúc phúc cho toàn thể các quốc gia địa cầu. Thiên Chúa thương yêu nhân từ với nhân loại: Ngài hướng dan con cái Ngài trên con đường hành hương về đất hứa nơi mà hòa bình và công chính se thống trị. Tất cả nhưng điều này đều chứa trong tên của Gioan!

Anh chi em thân mến, thánh Gioan Tẩy Gỉa là một ‘người đưa tin’, một sứ giả, một người đi trước dọn đường: Người được sai đến để sửa soạn đường cho Đấng Kitô. Nhân vật Gioan Tẩy Gỉa se nói thế nào cho chúng ta tại đây, ở Kyiv này, ngay chính lúc khởi đầu của cuộc hành hương của tôi tới quê hương anh chi em? Đây lại không phải là do đường lối Chúa Quan Phòng mà nhân vật Gioan này nói với chúng ta đúng vào thời điểm hôm nay tại Kyiv này sao?

3. Chính Tại Kyiv mà phép Thanh Tẩy cho người Nga đa khởi điểm. Từ nơi này mà đời sống đức tin Kitô giáo đa bắt đầu lan tràn, Phúc Am đa được mang đến cho mảnh đất của Rus cổ xưa. Thế rồi nhưng lanh thổ của Đông Au và sau này qua vùng Urals, trong các lanh thổ của Châu Á. Trong một nghĩa nào đó, thi chính Kyiv đa đóng vai trò là “người tiền hô của Thiên Chúa” giưa nhiều dân tộc để rồi Phúc Am được tuyên giảng và phát xuất từ nơi đây.

Thánh Volodymyr và nhưng cư dân của nòi giống ‘Rus’ đa được rửa tội bởi các nhà truyền giáo từ thành Constantinople, một trung tâm vĩ đại nhất của thế giới Thiên Chúc giáo thuộc Đông phương thuở đó. Do vậy mà Giáo Hội mới khai sinh đa đi sâu và được sự che chở trong đức tin và văn hóa của Giáo Hội truyền thống Byzantine. Đó là thời kỳ cuối của thiên niên kỷ thứ nhất. Đang khi sống theo hai truyền thống khác nhau, Giáo Hội Constantinople và Giáo Hội Roma thời đó còn hiệp thông trọn vẹn. Như tôi đa viết trong tông thư “Đi vào thế giới” (Euntes in Mundum) rằng: "chúng ta phải cùng nhau cám tạ Thiên Chúa vi sự kiện này, mà hôm nay nó là một điềm báo tốt và là một hy vọng. Thiên Chúa đa muốn rằng Giáo Hội Mẹ, được hiệp nhất cách hưu hinh, cần chào đón vào lòng của Giáo hội người con mới sinh ra trên dòng bờ sông Dnieper đây, dù rằng Giáo Hội đa rất sung túc vi bao gồm rất nhiều quốc gia và dân tộc khắp nơi, và trong lúc mà sự lan rộng của cánh đồng tuyền giáo đang mở rộng tại Tây phương và Đông phương”. (No. 4).

Khi chúng ta cử hành Tiệc Thánh Thể hôm nay theo nghi thức truyền thống Roma, nếu chúng ta nhớ lại cái giây phút thật sâu đậm mà trước đây nó đa liên kết trước truyền thống Byzantine, nên chúng ta cử hành thánh le với lòng tri ân. Chúng ta hiện đang cử hành thánh le nhớ tới cùng một phép rửa, mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, điều này se giúp chúng ta tái tạo trinh trạng thông công trước đây, khi đó dù có khác biệt truyền thống nhưng đa không là cản trở cho sự hiệp nhất đức tin và đời sống giáo hội.

4. Bí tích Rửa Tội đa xẩy ra tại Kyiv, đa khai mào lịch sử một ngàn năm Kitô giáo tại các lanh thổ mà ngày nay là quốc gia Ukraine và trong toàn vùng này. Hôm nay, có được ân huệ đi đến nơi lich sử này, tư tưởng của tôi đi ngược dòng về quá khứ hơn 10 thế kỷ, trong đó món quà mà Phép Rửa tiên khởi van còn tuôn chảy trên các thế hệ nối tiếp nhau, và trên con trai con gái nhưng người con của Đất Nước này. Thực là một cuộc sống tinh thần, phụng vụ và cuộc sống giáo hội cứ tiếp tục cuồn cuộn tuôn chảy biết bao! Nó đa hòa trộn từ nhưng nền văn hóa và truyền thống tín ngương khác biệt mà thành nên. Di sản sáng ngời này ngày nay đa được ký thác cho quí vi, các anh chi em thân yêu của Đất Nước này. Trong nhưng ngày tôi thăm viếng quí quốc, tôi cùng quí vi cầu nguyện cho thế hệ riêng của qúi vi hôm nay, từ khởi đầu của thiên niên kỷ mới này, quí vi se chứng tỏ xứng đáng với nhưng truyền thống vĩ đại của quá khứ.

Từ Thành Tri nôi sinh của đức tin Kitô giáo cho Ukraine và cho toàn vùng, tôi chúc mừng và với lòng quí yêu tôi ôm ấp mọi người đang sống trong giải đất này. Một cách đặc biệt tôi chào mừng các đức hồng y Marian Jaworski và Lubomyr Husar, cùng với đức giám mục quí yêu của Kyiv-Zhytomyr là đức cha Jan Purwiski, các huynh đệ đáng kính thuộc Hội Đồng Giám mục Ukrainia và Thượng Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukrainia. Tôi chào mừng hàng giáo sĩ, các nam nư tu sĩ và giáo dân thuộc các Giáo Hội đa trải qua nhiều thách đố và nay khải hoàn; với một lòng can trường họ đa có thể nêu cao ánh sáng đức tin ngay cả trong nhương giờ phút đen tối của bách hại.

5. Hỡi toàn thể Dân Chúa, anh chi em là nhưng người có đức tin, hy vọng và tinh yêu đối với mảnh đất Ukraine, anh chi em hay một lần nưa hay hân hoan làm sống lại món quà Phúc Am mà anh chi em đa nhận lanh từ một ngàn năm trước đây! Hôm nay hay nhin vào thánh Gioan Tẩy Gỉa, một mau gương trung thành kiên quyết đối với Chúa và Lề Luật của Ngài. Thánh Gioan đa sửa soạn con đường cho Đức Kitô bằng chứng tá lời nói và đời sống của ngài. Hay bắt chước ngài với một lòng quảng đại tin tưởng và vâng phục.

Trên hết thánh Gioan là mau mục đức tin. Theo gương của vi đại tiên tri Elia, hầu có thể lắng nghe lời của Đấng ban sự sống, Ngài đa từ bỏ tất cả mọi sự và rút lui vào hoang đia, từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi vang vọng là sửa soạn đường cho Thiên Chúa (xem Mt 3:3).

Ngài là mậu guơng khiem cung, bởi vi đối với nhưng ai coi ngài không nhưng chỉ là một vi Tiên tri mà còn là Đấng Thiên Sai (Messiah), ngài đa trả lời họ rằng: “Các bạn nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Ngài. Không, Đấng mà đến sau tôi, ngay cả việc cởi giây giầy cho Ngài tôi cung không xứng đáng” (TĐCV 13:25).

Ngài là mậu gương chính trực và can đảm trong việc bảo vệ sự thật, và sẵn sàng trả giá bằng chính con người minh, ngay dù bi tù tội và chính cái chết của minh.

Hơi mảnh đất Ukraine, thấm máu đào của các vi tử đạo, cám tạ các vi vi mau gương trung thành đối với Phúc Am mà quí vi đa dâng hiến cho các Kitô hưu khắp nơi trên hoàn cầu! Đa có biết bao nhiêu người con yêu của Đất Nước này đa tiến đi trên con đường hoàn toàn trung thành với Chúa Kitô; nhiều người còn kiên quyết dầu phải hy sinh đến tận cùng. Ước chi chứng tá của họ là mau gương và là sự htôi thúc cho các Kitô hưu của thiên niêm kỷ thứ ba.

6. Trong trường đào luyện của Chúa Kitô, theo chân thánh Gioan Tẩy Gỉa, các vi thánh nhân và các thánh Tử đạo của quốc gia này, ước chi cả anh chi em yêu qúi nưa, cung có can trường đủ mà luôn luôn đặt ưu tiên cho các giá tri tinh thần trong cuộc sống.

Các hiền huynh giám mục, các linh mục, nam nư tu sĩ, quí hiền huynh là nhưng người đa từng hành trinh trung thành cùng với dân chúng ở đây và sẵn sàng trả bất cứ giá hy sinh nào, quí hiền huynh đa nâng đơ họ trong nhưng giờ phút đen tối nhất của cơn hai hùng Cộng sản, tôi cám ơn qúi hiền huynh, xin quí hiền huynh tiếp tục làm c hứng nhân nhiệt tinh cho Đức Kitô và là nhưng mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người trong quê hương quí yêu Ukraine.

Các bạn trẻ thân mến, hay can trường và tự do! Đừng để lòng các bạn bi nhưng hinh ảnh hỏa mù của một hạnh phúc de dàng chiếm mất. Hau đi theo con đường của Đức Kitô: Chắc chắn là Người đòi hỏi nơi bạn nhiều, thế nhưng cung chỉ có Người là người duy nhất có thể giúp bạn cho bạn ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và thỏa man ước nguyện sự binh an của con tim.

Hoi các bậc làm cha mẹ thân mến, hay sửa soạn đường nẻo của Thiên Chúa cho con cái. Hay nuôi chúng lớn lên với tinh yêu, và là nhưng tấm gương tốt bằng cách sống theo nhưng nguyên tắc mà chính quí vi dậy con cái minh. Quí vi là nhưng bậc thầy và là lanh đạo của xa hội, hay đào sâu thêm sự dấn thân hầu khích lệ sự phát triển hoàn toàn về con người nhân bản, khích lệ nơi giới trẻ ý nghĩa sâu sắc về công lý và tinh liên kết đối với nhưng người kém may mắn trong cuộc sống.

Ước chi từng người và tất cả là “ánh sáng của muôn dân” (Is 49:6)!

7. Hơi thành Kyiv, ước chi thành này là "ánh sáng cho Ukraine".

Vi từ đây mà các vi truyền bá Phúc Am qua các thế kỷ đả là nhưng “Gioan Tẩy Gỉa” cho các dân tộc sống trong các mảnh đất nơi đây. Có biết bao các vi đó, như thánh Gioan, đa chiụ khổ để làm chứng cho sự thật, và với máu đào của họ đa trở thành hạt giống cúc các Kitô hưu mới. Ước chi các thế hệ tương lai không bao giờ thiếu các nam thanh nư tú nối tiếp truyền thống hào hùng theo gương các tiền nhân vinh quang của anh chi em.

Xin Đức Trinh Nư rất thánh, Quan Thầy của Ukraine, Mẹ luôn luôn hướng dan con cái trên đường lư hanh trần thế. Xin Mẹ tiếp tục để mắt đoái nhin đoàn con Mẹ. Xin giúp họ đừng bao giờ quên “tên”, cái danh xưng tinh thần mà họ đa nhận được trong Bí tích Rửa Tội. Xin giúp họ biết vui mừng luôn mai trong an huệ vô giá là nhưng người theo chân Chúa Kitô (Jn 3:29). Uớc gi Mẹ là người dan lối cho từng người một. Oi, Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con!

 

10. Bài giảng của Đức Cha JB. Bùi Tuần

CHỨNG NHÂN CỦA CÕI VĨNH HẰNG

Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gi hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống thi khổ cực. Cách sống thi khắc khổ. Cho ở thì thô sơ. Lúc thì ở rừng rú, lúc thì ở sa mạc, nay đây mai đó.

Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.

Điều đó chứng tỏ nhưng vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá tri con người. Thước đo giá tri con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh nhưng chân thiện mỹ vĩnh hằng.

Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.

Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu, để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp thực sâu, để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.

Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân, mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vịi, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.

Khi phong hoá bi suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ, nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.

Vì thế, đối với tôi,

Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.

Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.

Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài... Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).

Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.

Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.

Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.

Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “ “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.

Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.

Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.

Xin thánh Gioan Baotixita cầu bầu cho chúng ta.

 

11. Sứ điệp cứu nguy phần rỗi

(Đức cha GB. Bùi Tuần – ‘Để mừng lễ Thánh Gioan Baotixita’)

1. Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ đó là đi trước dọn đường. Trách nhiệm đó rất cao cả. Chính Thiên Chúa đã gọi Ngài, đã chọn Ngài, đã thánh hóa Ngài, đã sai Ngài, đã trao trách nhiệm cho Ngài. Mục đích để cứu nguy phần rỗi.

Gioan Baotixita vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng Ngài nói: “Tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Cứu Thế” (Ga 1,27).

2. Với lời trên đây, Gioan Baotixita muốn nói lên sự khó nghèo của Ngài.

Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết Chúa thì vô cùng cao sang, còn mình thì hết sức hèn hạ. Ngài cảm nhận mình không xứng đáng được Chúa chọn.

Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình sẽ phải giới thiệu một Đấng Cứu Thế yêu thương hết mực khiêm tốn. Hình ảnh đó khó được dân chúng chấp nhận. Chính Ngài cũng chẳng hiểu nổi. Ngài cảm nhận mình không có khả năng giới thiệu Đấng Cứu Thế như vậy.

Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình được sai đến với một xã hội tội lỗi cứng lòng. Mà Ngài thì không có chức tước địa vị, không có tiền bạc, không có hậu thuẫn. Ngài cảm nhận mình không có cơ may dọn đường cho Chúa.

Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình phải nói nhân danh Đấng thiêng liêng vô hình. Mà Ngài chỉ như là tiếng kêu trong sa mạc. Ngài cảm nhận mình không có tài đức.

Sự khó nghèo, mà Gioan Baotixita cảm nghiệm về mình, thực là sâu thẳm. Ngài nhận mình bất xứng khó nghèo, thế mà lại được Chúa yêu thương. Nên Ngài cảm tạ Chúa với tất cả lòng khiêm tốn.

Tuy nhiên, Chúa cho Ngài biết chính vì Ngài nghèo khó, nên Chúa đã chọn Ngài. Chúa dạy Ngài hãy thi hành ơn gọi một cách đơn giản, như một người nghèo khó.

3. Thi hành ơn gọi một cách đơn giản là đi vào những gì căn bản một cách đơn sơ.

Thực vậy, thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc giới thiệu con đường phần rỗi linh hồn. Ngài giới thiệu bằng chính cuộc sống của Ngài. Một cuộc sống nhấn mạnh đến căn bản tu đức dựa trên Lời Chúa. Ngài sống cầu nguyện, nghèo khó, khổ hạnh, gần gũi với mọi người, vâng phục thánh ý Chúa.

Thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đối với Ngài, dọn đường là bỏ tội lỗi. Ngài cho biết tội là làm sai luật Chúa, nhất là trong lãnh vực công bình bác ái đối với tha nhân. Phải bỏ đường tội bằng sám hối và sửa lại nếp sống. Nếu không, sẽ bị Chúa phạt. Hình phạt nặng nhất là mất linh hồn, phải sa hỏa ngục đời đời. Ngài nói về cơn thịnh nộ của Chúa (x. Lc 3,7). Ngài đưa ra hình ảnh cây xấu bị chặt đi và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Những gì Ngài nói về tội, thì rất căn bản và dễ hiểu. Đối với Thánh Gioan, biết sợ Chúa phạt là khởi đầu tốt cho việc bỏ đàng tội lỗi.

Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Ngài nhấn mạnh đến việc phải tin cậy vào Chúa Giêsu, để được cứu khỏi tội. Nói thế là rất căn bản và dễ hiểu.

Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong niềm tin. Ngài biết mình chẳng là gì, chẳng đáng gì. Ngài không bám vào điểm tựa nào nơi trần thế. Ngài chỉ cậy tin vào lòng Chúa xót thương mà thôi. Ngài vững tin vào sức mạnh ân sủng của Chúa. Vững tin như thế là rất đơn sơ mà cũng rất căn bản.

4. Tóm lại, đơn giản của Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.

Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.

Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.

Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.

Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.

5. Hôm nay, sứ điệp cứu nguy phần rỗi đang được Chúa gởi vào tình hình Việt Nam bằng nhiều cách. Vấn đề cần đặt ra là người ta có đón nhận sứ điệp đó hay không? Địa chỉ, mà câu hỏi quan trọng về sứ điệp cần gởi tới, không phải là người ta chung chung, mà là mỗi người con Chúa, nhất là mỗi người có trách nhiệm dẫn dắt cộng đoàn.

Có thể nói như Thánh Gioan Tiền Hô và như Đức Mẹ ở Fatima là: Tai họa khủng khiếp cho phần rỗi sẽ đổ xuống, nếu không sám hối, nếu không trở về với Chúa.

Lạy Chúa, xin thương xót ban ơn cho chúng con biết đón nhận sứ điệp cứu nguy phần rỗi. Bởi vì phần rỗi của chúng con rất dễ bị lâm nguy. Cũng xin Chúa xót thương nâng đỡ những người được Chúa sai đi rao giảng sứ điệp cứu nguy phần rỗi tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì trách nhiệm của họ rất nặng nề rất khó khăn, rất khẩn cấp.

 

12. Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

Gioan Tẩy giả là ai?

Ngài là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Cả hai không ngừng cầu khẩn xin Chúa ban cho một người con nối dõi tông đường. Nhận thấy lòng đạo đức của họ, Chúa dủ lòng thương sai sứ thần đến báo: "Này Dacaria! đừng sợ, Chúa đã nghe lời khẩn nguyện của ngươi. Vợ người sẽ sinh một con trai và người sẽ đặt tên là Gioan..."

Dacaria hoài nghi, vì thế Chúa để ông bị câm trong suốt 9 tháng trời, cho đến ngày đặt tên cho Gioan. Gioan lớn lên và được giáo dục trong bầu không khí đạo đức. Đến năm thứ 5 đời hoàng đế Tibêriô, tức năm 28 sau công nguyên, có tiếng Chúa gọi Gioan trong hoang địa, tức vùng đồi núi Giuđê Gioan sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thất dây da. Cuộc đời Gioan thật gương mẫu.

Có lần Chúa Giêsu đã công khai nói với dân Do thái: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả".

Gioan đã làm gì?

Ngài đi khắp vùng sông Giođan rao giảng và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Lời nói và nếp sống khổ hạnh của ngài đã lay chuyển cả những tâm hồn cứng cỏi nhất. Họ đã đến với ngài thật đông đảo để được nghe giảng dạy và được nhận phép rửa. Có người đã lầm tưởng ngài là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái hằng mong đợi, nhưng ngài khiêm tốn trả lời: "Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước, sẽ có một Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa.

Thánh Gioan đã chết thế nào?

Trong khi ngài dang rao giảng sám hối thì một vụ tai liếng đã xảy ra tại cung điện Hêrôdê Antipa. Nhà vua đã cưới con gái của Arêta phương nam làm hoàng hậu. Thế nhưng, trong một chuyến đi Rôma, ghé thăm người em cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-lip-phê, nhà vua lại say mê sắc đẹp của Hêrôdia, người em dâu và tìm cách chiếm đoạt. Hêrôđia có một người con riêng là Salômê có tài múa hát. Câu chuyện tới tai vị Tẩy giả. Với tất cả lòng cương nghị của một người công chính, Gioan cảnh cáo Hêrôđê: "Nhà vua không được cướp vợ em mình” Câu nói đó đã khiến Hêrôđê phải giam Gioan vào ngục. Nhưng Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà. Bà lìm cách đế giết Gioan. Chính vì thế, trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, lợi dụng khi nhà vua đã ngà ngà say, bà xúi Salômê xin chiếc đầu của Gioan.

Thế là Gioan đã phải chết.

Câu hỏi chia sẻ:

Anh chỉ em nghĩ gì về câu tin Mừng: "Cậu bé (Gioan) càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh?

Số phận của Gioan là số phận của các ngôn sứ, vì giảng dạy điều ngay chính mà phải chịu thiệt đến thân. Nhưng "Phúc cho ai phải chịu đau khổ vì sự công chính. Xin chia sẻ.

 

13. Thánh Gioan Tiền Hô- Tẩy Giả

1. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền hô của Gioan, đã được Giáo hội nhắc đến trong kinh tiền tụng II của mùa vọng, bằng vài tư tưởng sau đây:

“Gioan là đấng tiền hô,

Loan tin về Chúa Kitô giáng trần,

Chúa khi truyền đạo xuất thân,

Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài”

“Gioan là tiếng dẻo dai,

“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người,

Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi,

Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta

Vậy mà kẻ đứng gần xa

Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”

Mà thực thế, mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng núi Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây đang, lương thực là châh chấu nướng, châm với mật rừng tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Gior-đa-nô, nên hội đồng công tọa của người Do thái, đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là Đấng Kitô không? Thày tu hành trả lời:

“Tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ nạng dọn đàng cho Chúa Kitô đến“.

Nhưng người biệt phái cũng hỏi: “Nếu không phải là đấng Kitô, tại sao ông làm phép rửa? thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi một tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Gioan 1,19). Hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: “đây là chiên Thiên Chúa, đây là đấng cất tội thiên hạ”. “Người này là con Thiên Chúa” (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ đã xin phép bỏ thày là Gioan để đi theo Chúa Giêsu (Gioan 1,37). Vậy đọc lại những câu phúc âm trên đây, chúng ta thấy thánh Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô mà Thiên Chúa đã trao phó:

“Gioan là đấng tiền hô,

Loan tin về Chúa Kitô giáng trần,

Chúa khi truyền đạo xuất thân,

Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài.

Gioan là tiếng dẻo dai,

“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người.

Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi,

Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta”

Vậy mà kẻ đứng gần xa,

Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”

2. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan còn phải thi hành sứ mệnh tẩy giả nữa:

“Gioan cũng được gọi là tẩy giả,

Vì Ngài đã lấy nước sông Gio-dan,

Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian,

Những con người, đã thành tâm thống hối”

Vậy Gioan, đã biến người có tội,

Trở nên người công chính có đức nhân,

Biết mến Chúa bác ái với nhân dân,

Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”

Vậy theo Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế. Vậy

“Gioan cũng được gọi là tẩy giả,

Vì Ngài đã lấy nước sông Gior-dan

Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian

Những con người, đã thành tâm thống hối,

Vậy Gioan, đã biến người có tội,

Trở nên người công chính có đức nhân,

Biết mến Chúa, bác ái với nhân dân,

Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”

Kết

Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa. Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.

Lời nguyện giáo dân

Thưa anh chị em, hôm nay dạy chúng ta tôn kính thánh Gioan tiền hô và tẩy giả của Chúa, Giáo hội có ý khuyên chúng ta biết trở nên tông đồ đem các linh hồn về cho Chúa.

1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa, và Chúa cứu thế đã đến trong thế gian.

2. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng dự thánh lễ chủ nhật, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa và Chúa cứu thế đã đến chiụ tội loài người.

3. Xin Chúa cho chúng ta biết dâng lên Chúa những mồ hôi nước mắt của chúng ta khi lao động mà đền tội, để trở nên tẩy giả cầu cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.

4. Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng chiụ phép giải tội, nhất là mùa phục sinh, để trở nên tẩy giả làm cho tâm hồn ta nên trong sạch để cầu nguyện cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.

Chúng ta hãy cầu nguyện

Lạy Chúa trong ngày lễ hôm nay, Chúa đã đặt thánh Gioan tiền hô và tẩy giả làm gương mẫu cho chúng con bắt chước. Xin Chúa cho chúng con biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, biết vui lòng lao động nuôi sống gia đình, biết giữ luật xưng tội rước Chúa mùa phục sinh để trở nên Gioan tiền hô.

 

14. Sống lời Chúa- Nói và làm

Nhân ngày sinh của Gioan Tiền hô, tôi muốn chia sẻ một điểm nổi bật trong cuộc sống của thánh nhân, đó là Gioan Tiền hô đã nói và đã làm.

Thực vậy, cách đây hơn mười năm với phong trào đổi mới tại Việt Nam, người ta thấy trên báo chí xuất hiện những bài viết ký tên NVL. Người ta bảo đó là của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Nhưng đồng thời, người ta cũng suy diễn ba chữ viết tắt ấy là nói và làm, chứ không phải là nói và lờ hay nghe và lỉnh. Việc làm mới thực sự là quan trọng, hơn hẳn những lời nói suông bội phần.

Nhìn vào cuộc sống của Gioan tiền hô, chúng ta thấy lời nói của thánh nhân luôn đi đôi với việc làm. Thánh nhân luôn làm những điều mình nói, thực thi những điều mình dạy. Lời nói và việc làm của Gioan tiền hô luôn đi đôi với nhau, luôn ăn khớp với nhau, chứ không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, đúng như người xưa đã bảo:

- Ngôn hành hợp nhất.

Đồng thời, thánh nhân còn luôn chịu trách nhiệm về những điều mình đã nói, cho dù có phải chết.

Thực vậy, trên bờ sông Giócđan, thánh nhân đã rao giảng một cuộc sống khắc khổ, để sám hối ăn năn, hầu dọn đường đón mừng Chúa đến. Và chính bản thân thánh nhân cũng đã sống khắc khổ và sám hối ăn năn như vậy.

Phúc âm đã ghi lại: thánh nhân vào trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Chính vì thế, thánh nhân đã nhận ra Đấng Cứu Thế và giới thiệu Ngài cho mọi người.

Vai trò của thánh nhân là vai trò của một sứ giả, của một tiền hô chuẩn bị tâm hồn mọi người đón nhận Đấng Cứu thế và khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, thánh nhân đã không ngần ngại tuyên bố:

- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian…Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi…tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.

Kể từ tuyên bố ấy, thánh nhân đã chìm vào quên lãng, chìm vào bóng tối và để cho chính những môn đệ thân tín của mình bước theo Chúa Giêsu.

Thánh nhân cũng đã mạnh dạn tố giác tội lỗi của Hêrôđê. Chính vì những lời nói thẳng thắn ấy, thánh nhân đã bị tống ngục và đã bị chém đầu.

Còn với chúng ta thì sao?

Kinh nghiệm cho thấy:

- Nói thì dễ mà làm thì lại khó.

- Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Chúng ta nói xong rồi lờ đi, hay nghe xong rồi lỉnh mất, chẳng đoái hoài chi đến những gì mình đã nói hay đã nghe, như tục ngữ đã diễn tả:

- Trăm voi không được một bát nước xáo.

Chẳng hạn mỗi khi giáo xứ có dịp bàu ban hành giáo, chúng ta nói thì rất hay, nào là người ấy phải thế nọ thế kia. Thế nhưng, khi phiên họp được triệu tập để đề bạt những ứng cử viên, thì chúng ta lại tính chuyện lờ, chuyện lỉnh, chuyện lặn.

Và khi phên họp kết thúc, một người nhiều thiện chí, nhưng hơi thiếu khả năng về mặt này mặt khác, được đề cử, thì chúng ta lại vội vã khua môi múa mỏ, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ. Quả thực, chúng ta đáng được người đời diễn tả:

- Trùm khu, trùm giáp thì chúng ta không dám, chứ trùm chăn, trùm mền thì chúng ta lại ăn đứt thiên hạ.

Hãy ra tay xây dựng bằng hành động, chứ đừng chỉ xây dựng bằng nước bọt, có nghĩa là hãy biểu lộ thiện chí của chúng ta bằng những việc làm cụ thể, nhờ đó lời nói và việc làm của chúng ta luôn đi đôi với nhau, như lời thánh Giacôbê tông đồ đã xác quyết:

- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.

Hay như thánh Gioan tông đồ cũng đã viết:

- Anh hãy chỉ cho tôi một tình yêu không việc làm. Còn tôi, tôi sẽ dùng những việc làm để chỉ cho anh thấy một tình yêu đậm đà thắm thiết như thế nào.

Ngôn hành phải hợp nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm, chứ không phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nói một đằng làm quàng một nẻo. Thậm chí nói một chuyện, nhưng làm lại là chuyện khác. Nhiều khi còn làm ngược lại những điều mình đã nói. Nói vậy mà không phải vậy đâu.

Căn cứ vào những việc làm cụ thể ấy, người ta sẽ nhận biết thiện chí của chúng ta, cũng như đáng giá chúng ta có phải là những sứ giả, những tiền hô đích thực của Chúa hay không?

Nguồn: http://gplongxuyen.org