Chúa Nhật 24/05/2020 – Chúa Nhật CHÚA THĂNG THIÊN năm A. Lễ trọng. Lễ Họ. Cầu cho giáo dân.– Di chúc Chúa Giêsu.

Chúa Nhật 24/05/2020 – Chúa Nhật CHÚA THĂNG THIÊN năm A. Lễ trọng. Lễ Họ. Cầu cho giáo dân.– Di chúc Chúa Giêsu.

"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy".

 

Lời Chúa: Mt 28, 16-20

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.

Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Suy niệm LỄ CHÚA THĂNG THIÊN (Năm A)

Lời Chúa: Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23; Mt 28, 16-20

Suy niệm CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH (Năm A)

Lời Chúa: Cv 1, 12-14; 1 Pr 4, 13-16; Ga 17, 1b-11a

 

LỄ CHÚA THĂNG THIÊN

1. Thầy ở cùng anh em mọi ngày

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Nếu trời là nơi Chúa ngự thì chẳng có gì gần ta bằng trời. Trời ở quanh ta, trời ở trong ta... Trời vượt xa đất muôn trùng, nhưng nếu đất trở thành nơi Chúa ngự thì đất cũng mang dáng dấp của trời.

Thiên Chúa không phải là Đấng chỉ thích ở trên trời. Ngài thích con người, Ngài thương trái đất, nên Ngài đã sai Con Ngài làm người ở đời.

Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã đặt chân lên trái đất. Đất chẳng xa lạ gì với Ngài, vì nhờ Ngài mà nó được tạo dựng.

Đất đã bắt đầu thành trời từ khi Con Thiên Chúa đến dựng lều ở đó. Đất vẫn luôn thuộc về trời vì Đức Giêsu luôn ở với ta cho đến tận thế.

Trời là mẫu mực của đất: Ý Cha phải được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chỗ nào vâng theo ý Cha, chỗ đó thành trời.

Trái tim của chúng ta cũng phải trở thành trời, phải đầy ắp yêu thương, đầy ắp Thiên Chúa.

Rốt cuộc, nhiệm vụ của người Kitô hữu là xây dựng trời cao ở ngay nơi đất thấp, là cho thấy rằng trời cao thật gần, chứ không phải là sản phẩm của hoang tưởng.

Trời cao đã gần bên, chỉ người Kitô hữu biết sống cho nhau chân tình, chia sẻ cho tha nhân tất cả những gì mình có, không bị mê hoặc bởi của cải lợi danh, không bị kéo ghì bởi những đam mê xác thịt, cũng không chùn bước trước cái chết, khổ đau.

Chúng ta phải làm chứng về thiên đàng có thực bằng cuộc sống vui tươi hạnh phúc ở đời này.

Hạnh phúc khi hy sinh, tự hiến, khi chịu thua thiệt, mất mát, lãng quên.

Hạnh phúc cả khi tưởng như không thể nào hạnh phúc được. Hạnh phúc như thế gợi mở về hạnh phúc viên mãn đời sau.

Chúng ta không thể làm chứng về thiên đàng mai hậu bằng một cuộc sống ủ rủ, buồn phiền.

Thiên đàng mai sau chớm nở từ bây giờ. Tôi chỉ được hạnh phúc sống đời sau bên Chúa, nếu tôi đã bắt đầu sống bên Chúa từ đời này.

Có một thiên đàng nho nhỏ ở trong tôi: "Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và dựng nhà nơi người ấy" (Ga 14,24).

Tôi muốn xây những thiên đàng nho nhỏ ở quanh tôi, nơi gia đình, bè bạn; nơi phố chợ, học đường... mong có ngày cả trái đất này ngập tràn sự hiện diện của Thiên Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Có phi hành gia, sau khi du hành trong vũ trụ, đã quả quyết không hề có thiên đàng. Bạn nghĩ gì về nhận xét đó?

2. Theo bạn, có thể dùng lý luận để chứng minh cho người khác về sự hiện hữu của thiên đàng không? Có thể dùng cuộc sống để cho thấy thiên đàng không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bị đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

2. Bàn giao nhiệm vụ - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.

Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời còn lại trên mặt đất.

Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người”. Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.

Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).

Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt”.

Biến cố Chúa Giêsu lên trời, đáng lẽ ra phải là một ngày đại lễ, một cuộc rước khải hoàn vĩ đại nhất, vui mừng nhất, long trọng nhất, như lễ Quốc khánh của trời đất, cho nên Đáp ca trong Thánh lễ đã hô hào: “Hỡi muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thượng đế, Thượng đế ngự lên giữa tiếng tưng bừng, trong tiếng kêu vang, hãy ca mừng, ca mừng vua ta” (Tv. 46).

2- Nhưng việc Chúa Giêsu lên trời, sách Tin mừng chỉ tường thuật rất đơn giản âm thầm, như một cuộc bàn giao nhiệm vụ. Trên trời thì: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” dưới đất thì Thầy đã trao cho anh em: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đây là một cuộc bàn giao nhiệm vụ vô cùng trọng đại và nặng nề. Để các ông được an tâm tin tưởng và mạnh mẽ thi hành trọng trách này. Đức Giêsu đã quả quyết với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Như vậy, anh em không phải đăm đăm nhìn trời mong chờ Thầy nữa, vì Thầy không lìa xa anh em mà là ở cùng anh em, không ở cùng anh em bằng thân xác 3 năm hay 30 năm như trước đây mà ở cùng anh em bằng tinh thần Thiên Chúa. Thầy lên trời như vậy là để anh em được sống hiệp thông, hiệp nhất với Thầy ở khắp mọi nơi, trong tinh thần và chân lý, trong tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Nhờ thế anh em đến được với muôn dân thực hiện nhiệm vụ làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy, như Thầy đã làm cho anh em vậy. Đó là con đường phép rửa, đó là con đường lên trời.

3- Đức Giêsu đã mở con đường phép rửa này khi đến sông Giođan và cùng với Gioan kêu gọi toàn dân chịu phép rửa hối cải. Đó là bước đầu của con đường lên trời.

Bước thứ hai là: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần” (Mt. 3, 11). Thánh thần đã lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu để chứng tỏ cho mọi người thấy: “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt. 3, 17-17). “Chính nhờ Thánh thần của Đức Kitô mà anh em được gọi Thiên Chúa là Cha” (Rm. 8, 15-16).

Ta muốn chứng tỏ làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì hãy nghe lời Người: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy”. Cho nên Thầy đã bảo anh em: “Dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Khi họ đã yêu mến giữ lời Thầy truyền, họ xứng đáng được rửa “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây là bước tột đỉnh lên trời, vì họ đã thực sự sống trong gia đình Thiên Chúa, là con Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Họ đã được thanh tẩy mọi tì ố để trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được “Thầy ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế”. Đó chính là lên trời, là Thiên đàng thực sự vì họ được Thiên Chúa ở cùng mãi mãi.

“Lạy Cha, ngày Đức Giêsu, Con Cha yêu dấu, lên trời đã mở cho chúng con thấy con đường lên trời. Xin Cha ở cùng chúng con luôn mãi để chúng con cùng với muôn dân được sức mạnh của Con Cha thúc đẩy, cùng nhau hăng hái tiến bước lên trời vinh quang của Cha. Amen”.

 

3. Niềm an ủi

Biến cố Chúa về trời đem lại cho chúng ta niềm an ủi nào?

Niềm an ủi thứ nhất đó là sự hy vọng vào cuộc sống vinh quang. Thực vậy, nếu để ý chúng ta sẽ thấy rằng: Núi cây Dầu là nơi đã tiếp nhận những giây phút đau khổ cũng như vinh quang của Ngài. Ngọn núi ấy còn in những vết máu trong cơn hấp hối vào đêm thứ năm Tuần Thánh. Ngọn núi ấy đã nghe thấy tiếng van xin tha thiết của Ngài, đã chứng kiến hành động phản Chúa của Giuđa. Nhưng ở đâu có đau khổ Ngài sẽ biến nó thành vinh quang. Chính vì thế mà Núi cây Dầu đã được chọn làm nơi giã biệt và về trời vinh hiển của Ngài. Đó là một niềm an ủi vì chúng ta sẽ tìm thấy vinh quang ở chính những đau khổ phải chịu cũng như chúng ta chỉ ngắt được những bông hồng thắm trên những gai nhọn của nó, hay như lời Đức Kitô đã phán: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ trước khi được bước vào chốn vinh quang. Chúng ta cũng vậy, sau một cuộc sống đầy chông gai thử thách, chúng ta sẽ được trở v62 trời với Chúa trong niềm hạnh phúc bất diệt.

Niềm an ủi thứ hai đó là Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Chắc hẳn Ngài sẽ trình bày mọi nhu cầu, mọi ước vọng và mọi sự trợ giúp chúng ta cần đến như lời thánh Phaolô đã viết: Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Ngài chuyển cầu cho chúng ta luôn mãi. Và thánh Gioan cũng nói: Nếu chúng ta trót phạm tội, thì hãy vững tâm vì chúng ta có được một vị trạng sư thần thế trước toà án tối cao đó là Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, bao giờ chúng ta cũng kết thúc lời nguyện bằng câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Sau cùng niềm an ủi thứ ba đó là Chúa Giêsu về trời để dọn cho chúng ta. Điều ấy muốn nói lên rằng quê hương chúng ta không phải là mặt đất này nhưng là ở chốn trời cao. Nhìn vào thực tế chúng ta phải thú nhận rằng: chúng ta đã bén rễ quá sâu vào cuộc sống trần gian, chúng ta đã quá quyến luyến và đã có quá nhiều ràng buộc vào những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu. Chúng ta sẵn sàng bán cả linh hồn cho một nắm bụi đất. Dân Do Thái trong sa mạc đã quỳ gối thờ lạy bò vàng thế nào thì con người hôm nay cũng đang đi vào con đường ấy, họ đã tôn thờ những thần tượng chóng qua thay cho Thiên Chúa, như lời phát biểu châm biếm sau đây: Tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu hiện giờ là tôn giáo bóng đá.

Bởi đó ngày hôm nay, sau khi đã hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn các con tới quê trời. Khốn cho các con nếu các con quên đi điều đó. Khốn cho các con nếu các con ra sức biến đổi trái đất trở thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho các con nếu các con không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu.

 

4. Quê trời

Dựa vào đâu chúng ta xác quyết được rằng: Còn có một cuộc đời khác, còn một thế giới khác, còn một quê hương khác là Nước Trời?

Chúng ta không chụp được hình, chúng ta không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy, không một ai đã có kinh nghiệm. Nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến Nước Trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: mắt không thể nhìn, tai không thể nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những kẻ yêu mến Ngài. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, đói khát và cơm áo, tội lỗi và sự chết. Ở đó chỉ còn Thiên Chúa và vương quốc của Ngài, ở đó Con Chiên sẽ dẫn chúng ta đến nguồn suối mát. Chúng ta không thể biết, nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say công bố Tin Mừng, chịu đựng mọi thử thách, chấp nhận mọi đau khổ.

Thế giới của kẻ chết sẽ lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới đó ở đâu? Có phải là ở ngoài các vì sao? Có phải là ở giữa không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương sâu thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu? Tôi xin thưa thế giới ấy ở bất kỳ nơi nào có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là Nước Trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Còn trái lại, ở bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn thấy và chiêm ngắm Ngài, thì đó là hoả ngục, là chốn đoạ đày.

Ngày kia thánh Tôma nói với các tông đồ: Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài. Thì bây giờ chúng ta cũng có thể đối lại câu nói ấy: Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài. Chúng ta sẽ sống với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Phải, chúng ta cần đến khoa học kỹ thuật, nhưng chúng ta luôn nhớ rằng: khoa học kỹ thuật không giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc chắn như ngày mai sẽ là ngày thứ hai hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: điều đó có chắc như mặt trời mọc vào ban sáng và sẽ lặn vào ban chiều không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi tôi rằng: Điều đó có chắc như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: Còn hơn thế nữa. Phải, còn hơn thế nữa, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai. Có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn buổi chiều để lặn. Có thể có một mùa đông mà sau đó, mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ, phải, không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời. Vì ý của Cha Ta là hễ ai tin vào Con Ngài thì sẽ có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. Hãy tin Chúa bằng cách bước theo Ngài, bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhớ đó chúng ta sẽ được sống đời đời, sẽ được về trời trong niềm hạnh phúc bất diệt với Chúa.

 

5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Biến cố Đức Giêsu lên trời là một biến cố lịch sử. Vì biến cố này đã diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, có sự chứng kiến của nhiều người và đã được sách Cộng Vụ Tông Đồ và các sách Tin mừng ghi lại. Bài đọc I cho chúng ta biết, sau thời gian thi hành nhiệm vụ ở thế gian, Ngài chịu nạn chịu chết, sống lại và hiện ra với nhiều người.

Hôm nay, trước mặt các Tông đồ, Ngài được cất nhắc lên trời (x. Cv 1, 1-11). Cũng trong khung cảnh đó, bài Tin mừng cho chúng ta biết, theo lời hẹn trước, Mười một Tông đồ đã đến Galilê gặp Đức Giêsu. Trước khi lên trời, Ngài trao cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng (x. Mt 28,18-20).

Qua biến cố trên và qua những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu, chúng ta thử hỏi: Biến cố Đức Giêsu lên trời nói gì với mọi người chúng ta hôm nay?

1. Biến cố Đức Giêsu lên trời khẳng định cho chúng ta rằng: Có Thiên Đàng.

Có đời sau, có Thiên đàng là niềm tin căn bản của người Kitô chúng ta. Niềm tin này luôn được củng cố bởi Kinh Thánh.

Chính Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài bởi thượng giới (x. Ga 8,23), Ngài tự trời mà xuống (x. Ga 6, 38). Ngài nói với Matha rằng: “Ta là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Ta thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: “Tôi bảo thật anh: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); Ngài nói với các Tông đồ: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,2-3). Ngài khuyên nhủ mọi người rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-20); “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn chứng minh cho chúng ta về sự hiện diện của Thiên đàng: Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó cho chúng ta biết: ông La-da-rô chết và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham (x. Lc 16, 18 – 31). Trong dụ ngôn những nén bạc: người đầy tớ tài giỏi và trung thành được vào hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25,21). Trong bài Tin mừng nói về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 41- 45) cũng cho chúng ta biết về phần thưởng của kẻ lành là được “thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ thuở tạo thiên lập địa”…

Trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô cho chúng ta biết: Đức Kitô đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn loài muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22-23). Ngài còn nói: “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).

Tóm lại, tin vào sự sống lại, tin vào Thiên đàng là đức tin căn bản mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Và, biến cố Đức Giêsu lên trời một lẫn nữa củng cố đức tin của chúng ta.

2. Biến cố Đức Giêsu lên trời giúp chúng ta sống niềm hy vọng sẽ được lên Thiên Đàng

Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn cho hết thảy mọi người được lên Thiên đàng. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Nhưng, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Vì vậy, để được lên Thiên đàng, xin được nêu lên một số cách thế mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện sau đây: Đó là những kẻ tin và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã trả lời với ông Nicôđêmô rằng: “Tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3); Đó là những người đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nghĩa là họ trở nên như trẻ nhỏ, vì nước trời là của những ai giống như chúng (x. Mt 19,14); Đó là những ai thực hiện tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-12), chẳng hạn như: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ; Đó là những người tình nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời như các linh muc, tu sĩ (x. Mt 19,12) và những người từ bỏ mọi sự trần gian vì danh Chúa (x. Mt 19, 27-29); Đó là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với Chúa (x. Mt 21,31-32), như người trộm lành (x. Lc 23,39-43), như Augustinô, như Maria Madalêna...; Đó là những người biết làm việc từ thiện, bác ái (x. Mt 6, 20; Mt 25,31-46); Đó còn là những người biết dọn mình xứng đáng để ăn uống Mình và Máu Thánh Chúa, vì “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”(Ga 6,54)…

Tóm lại, ai cũng có thể được lên Thiên đàng. Nhưng để được lên Thiên đàng cần thực hiện những điều Đức Giêsu chỉ cho như vừa nêu trên, và duy trì tình trạng đó, đặc biệt trong giờ kết thúc cuộc đời này. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói rất rõ rằng: “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ ‘nhìn thấy Ngài’ mặt đối mặt” (Số 1023); “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa” (Số 1054).

3. Biến cố Đức Giêsu lên trời mời gọi chúng ta thực thi bổn phận loan báo Tin mừng.

Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng: Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cho người cùng khổ.”

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng.”

Sau giấc mơ ấy, biết bao nhiêu người cùng khổ, cô đơn đã được chăm sóc và chết êm ái trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu của Mẹ. Thế rồi, cùng đi với Mẹ Têrêxa lên Thiên Đàng là một đội quân đông đảo, họ là những người cùng khổ, cô đơn, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội. Thật đúng như ai đó đã nói: “Không ai lên thiên đàng một mình.” Đó là bài học cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay. Để lên Thiên đàng, không phải chỉ lo cho chính mình mà còn phải giúp cho người khác nữa, bằng việc chu toàn bổn phận truyền giáo. Bổn phận đó đã được Đức Giêsu đề cập đến trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.”(Mt 28,19).

Nhưng phải loan báo Tin mừng như thế nào? Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc rao giảng, rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện (x. 2Tm 4,2), để có thể nói được như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng việc cầu nguyện, hy sinh như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã làm. Đặc biệt, chúng ta có thể loan báo Tin mừng bằng một đời sống thấm nhuần Giáo huấn của Đức Giêsu trong gia đình, trong giáo xứ và ngoài xã hội. Đối với gia đình: vợ chồng luôn sống đúng với những lời cam kết trong Bí tích Hôn Phối bằng cách biết yêu thương chung thủy, giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; cha mẹ biết tôn trọng sự sống, sinh sản và giáo dục con cái theo đức tin Công giáo; con cái kính trọng, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà. Tất cả mọi thành viên trong gia đình biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích. Đối với giáo xứ: các thành viên luôn biết chu toàn những bổn phận mà Giáo xứ đề ra như tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, đóng góp công của xây dựng giáo xứ, sống tình liên đới với mọi người xung quanh. Đối với xã hội: hãy luôn ý thức sống tinh thần truyền giáo nơi mỗi môi trường sống của mình bằng đời sống công bằng, bác ái, yêu thương.

Ước mong rằng, nhờ lời rao giảng, nhờ lời cầu nguyện và đặc biệt nhờ đời sống chứng tá của chúng ta nhiều người sẽ biết Chúa, biết tìm đến với Giáo hội để biết con đường tới Thiên đàng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lên trời và sẽ trở lại đón chúng con. Xin cho chúng con luôn xác tín mạnh mẽ vào sự sống đời sau, biết sống niềm hy vọng và thực hiện những điều Chúa chỉ cho để được lên Thiên đàng. Đồng thời, xin cho mỗi chúng con luôn biết chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.

 

6. Được sai đi

Sứ điệp được sai đi là một điểm nổi bật trong phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, ngày lễ Chúa lên trời.

Trước hết là bài đọc trong sách Công Vụ Tông Đồ, kể lại những biến cố xảy ra trước, trong và sau khi Chúa Giêsu về trời. Điều đáng ghi nhận đó là lời Ngài căn dặn các môn đệ: Các con sẽ làm chứng về Thầy tại Giêrusalem, tại Giuđêa, tại Samaria và cho đến tận cùng trái đất.

Lời căn dặn này cũng là lời tuyên bố của Ngài trong bài Phúc Âm: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Giáo Hội ngay từ buổi đầu đã ý thức được tầm mức quan trọng của việc lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngay sau ngày lễ Hiện Xuống, các môn đệ đã lên đường chinh hục thế giới, đem ánh sáng Phúc Âm chiếu tỏa cho muôn dân. Và từ đó cho tới nay, trải dài hơn hai mươi thế kỷ, Giáo Hội không ngừng thực hiện lệnh truyền của Đức Kitô.

Thế nhưng, không phải lúc nào Giáo Hội cũng nhiệt thành với sứ mạng của mình. Theo các nhà nghiên cứu, thì trong mấy thập niên gần đây, đà hoạt động truyền giáo đã giảm sút một cách đột ngột. Và ngay cả sứ điệp cứu độ của Giáo Hội cũng xem ra mất đi nhiều sức thu hút và tính bén nhạy, trước những thách đố và khủng hoảng do hiện tượng tục hóa gây ra bên Tây Phương và các giáo phái lớn bên Đông Phương.

Chính vì thế mà các Đức Thánh Cha, tiếp nối công cuộc danh tân của Công Đồng Vaticanô II, đã không ngừng lên tiếng và nhấn mạnh đến sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, làm chứng cho Đức Kitô, giúp cho con người khám phá ra Giáo Hội là dấu chỉ và là dụng cụ Thiên Chúa dùng để cứu chuộc nhân loại.

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong tông huấn “Người tín hữu giáo dân”, đã nêu lên vấn để phải đổi mới việc truyền bá Phúc Âm. Đổi mới ở đây có nghĩa là phải có phương pháp mới, nhiệt huyết mới và tổ chức mới. Muốn có được sự đổi mới ấy, thì cần phải thực hiện một cuộc kiểm điểm đời sống một cách nghiêm túc và khiêm tốn, từ đời sống cá nhân của mỗi thành phần dân Chúa, đến đời sống tập thể của cộng đoàn Giáo Hội, trong đó điểm nổi bật cần lưu ý, đó là đời sống bác ái yêu thương, và bênh vực công lý hòa bình của Giáo Hội. Đây cũng chính là những khía cạnh nhạy cảm đối với con người thời nay.

Còn chúng ta, chúng ta đã thực sự lên đường, đã thực sự góp phần vào công cuộc truyền bá Phúc Âm, rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội hay chưa?

 

7. Ngày Chúa trở lại

Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các môn đệ trở lại Giêrusalem, chính tại đây bổn phận và nhiệm vụ đang chờ đón các ông.

Với chúng ta cũng thế, thời gian hiện tại không phải là thời gian mơ mộng, thương tiếc vẩn vơ, nhưng là thời gian hành động. Vậy chúng ta phải làm gì trong lúc trông chờ ngày Chúa lại đến. Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời trong Phúc Âm bằng những hình ảnh cụ thể.

Hình ảnh thứ nhất là hình ảnh những nén bạc. Một người giàu có trước khi trẩy đi phương xa, đã gọi các đầy tớ đến và trao phó tiền bạc của mình cho họ tuỳ theo như khả năng của họ. Sau khi chủ lên đường, người thì dùng tiền ấy đầu tư cho công chuyện làm ăn và đã sinh lời. Kẻ thì chôn giấu số tiền của mình dưới đất. Và khi chủ về đòi tính sổ, ông đã nói với những đầy tớ sinh lời rằng: Hỡi tôi tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi. Còn tên đầy tớ biếng nhác, chôn vùi tiền bạc, thì đã bị trừng phạt một cách đích đáng.

Qua hình ảnh này Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng chúng ta không được phép chờ đợi ngày Ngài trở lại một cách thụ động và biếng nhác. Chúng ta cũng không được phép chọn lựa giữa hành động và chối từ. Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta một sứ mệnh mà chúng ta có bổn phận phải thực hiện. Ngài cần đến chúng ta. Đó là một nhu cầu, một đòi hỏi cần thiết. Nếu chúng ta không làm gì cả là chúng ta đã xỉ nhục Ngài và trong ngày sau hết Ngài sẽ không đón nhận chúng ta như là những người con của Ngài.

Hình ảnh thứ hai là hình ảnh 10 cô trinh nữ được mời đi phù dâu trong số đó 5 cô khôn ngoan đem đèn và dầu. Còn 5 cô khờ dại, đem đèn mà không có dầu. Và khi chàng rể đến, những cô đã sẵn sàng thì bước vào phòng tiệc với chàng, còn những cô khờ dại thì chạy đi mua dầu và bị chàng rể từ chối. Để kết luận Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta: Hãy tỉnh thức. Điều quan trọng không phải là biết được ngày giờ Ngài trở lại, nhưng là sẵn sàng với đèn cháy sáng trong tay.

Điều này đòi buộc chúng ta phải cố gắng thực thi thánh ý Chúa, tuân giữ những điều Ngài truyền dạy. Để trở nên bạn hữu của Chúa, chúng ta phải cố gắng, chúng ta phải hành động. Thế nhưng chúng ta phải cố gắng những gì và phải hành động ra làm sao?

Yêu mến Thiên Chúa là chu toàn thánh ý Ngài trong việc lớn cũng như trong việc nhỏ. Nghĩa là sẵn sàng xin vâng ở mọi nơi và trong mọi lúc. Xin vâng là dùng mọi khả năng của mình để chu toàn điều Chúa muốn, như những người đầy tớ đã sinh lời cho chủ. Xin vâng là sống gắn bó mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Vì cầu nguyện không phải chỉ kết hiệp chúng ta lại với Thiên Chúa mà còn giúp chúng ta khám phá ra được những điều Chúa muốn nơi chúng ta. Xin vâng là sẵn sàng thực hiện những hành động bác ái giúp đỡ anh em.

Bởi vì trong ngày thẩm phán, chúng ta sẽ bị xét xử về những hành động yêu thương chúng ta đã làm hay không làm để giúp đỡ những người nghèo túng, ốm đau và bất hạnh. Thi hành được như thế là chúng ta đã góp phần xây dựng Nước Chúa, và tương lai của chúng ta sẽ được bảo đảm trong ngày Chúa trở lại.

 

8. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

SỰ SỐNG MỚI- HIỆN DIỆN MỚI.

Có lẽ nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: sao trong bài Phúc Âm lễ Thăng Thiên hôm nay, chẳng thấy nói gì đến trời, đến bay lên? Thắc mắc như vậy là hợp lý. Ta vẫn quen gọi hôm nay là lễ Chúa Giêsu lên trời. Và theo quan niệm bình dân, không gian chia làm ba tầng. Tầng dưới đất là âm ty, địa ngục, dành cho người chết. Tầng mặt đất mà ta đang sống là dương gian. Và tầng trên mặt đất là trời. Chúa Giêsu đã sống trên mặt đất, khi chết Người bị chôn trong lòng đất, đi vào cõi âm ty. Sống lại, Người trở lại mặt đất. Và hôm nay Người được đưa lên trời, bay lên đám mây, ngự bên hữu Chúa Cha.

Đó chỉ là một lối diễn tả bình dân. Thực ra, trời đâu phải là một nơi chốn. Con người có thân xác, bị giới hạn trong không gian, cần một nơi chốn để cư ngụ. Thiên Chúa không bị giới hạn trong không gian thì đâu còn bên tả bên hữu gì nữa.

Vậy, tại sao ta nói Chúa Giêsu lên trời? Lên trời ở đây có ý nghĩa gì?

Trời không phải là một nơi chốn, nhưng là một trạng thái, trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa sống chan hoà yêu thương. Sự sống của Thiên chúa không giống sự sống của cây cỏ. Cũng không giống như sự sống của động vật hay loài người. Đó là sự sống thần linh. Sự sống vượt không gian, vượt thời gian, không còn bị lệ thuộc vào điều kiện vật chất. Sự sống không còn bị hao hụt, giảm thiểu bởi đau đớn, bệnh tật, đói khát. Đó là sự sống viên mãn tràn đầy. Được tham dự vào sự sống ấy là một hạnh phúc vô song. Đó chính là thiên đường. Lên trời hay lên thiên đàng như vậy không phải là thay đổi nơi chốn nhưng là thay đổi sự sống. Đó là chuyển đổi sự sống hữu hạn của con người sang sự sống vô hạn của Thiên Chúa. Đó là rời bỏ thế giới hữu hạn của loài người để bước vào thế giới vô hạn của Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời có nghĩa là Đức Giêsu về với Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa, sống cuộc sống Thiên Chúa. Lên trời không phải lên theo chiều cao trong không gian vật lý. Nhưng là lên theo cấp độ sự sống, là sống cao hơn, mạnh mẽ hơn, tràn đầy hơn.

Chính vì thế, Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới, để đi vào xa vắng mịt mù. Nhưng Người không đi vào một hiện hữu mới để hiện diện mãnh liệt hơn. Không còn bị kềm chế trong không gian, giờ đây Người hiện diện ở khắp mọi nơi. Không còn bị lệ thuộc vào một thân xác, giờ đây Người có thể hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Người ở đó trong những trang Sách Thánh đầy lời lẽ nhiệm mầu để dạy cho ta biết con đường về với Thiên Chúa. Người ở đó trong bí tích Thánh Thể huyền diệu để nuôi linh hồn ta, để kết hợp với ta, để giúp ta đủ sức mạnh đi hết con đường trần gian khổ. Người ở đó trong những người anh em đồng tâm nhất trí cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha. Người ở đó trong những anh em bé nhỏ nghèo hèn đang chờ chúng ta mở rộng trái tim, mở rộng vòng tay nhân ái. Người ở đó trong những người hiến thân phục vụ anh em, trong những người hy sinh bản thân mình cho công bình, cho chân lý, cho một thế giới tươi đẹp hơn. Người có mặt trên khắp mọi nơi nẻo đường, trong tất cả mọi cảnh ngộ của cuộc đời. Người có mặt trong mọi thời gian đúng như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu: Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Bây giờ chúng ta đã hiểu lên trời không phải là bay bổng lên không gian. Nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, hay là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu, lên trời không phải là vắng mặt, là xa vắng nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.

Chúa Giêsu là người mở đường cho nhân loại. Người tiến về một thế giới sự sống viên mãn, cao cả để cho ta thêm niềm tin tưởng rằng: vận mệnh của Người cũng sẽ là vận mệnh của ta. Ta cũng sẽ được cùng Người bước vào sự sống thần linh vĩnh cửu, miễn là ta đi vào con đường của Người: con đường khiêm nhường phục vụ. Miễn là ta vâng giữ lời Người truyền dạy: Hãy yêu tha nhân như chính bản thân mình.

Lạy Đức Giêsu, xin hãy nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày?

2) Bạn làm cách nào để mọi người cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện mãnh liệt trong thế giới?

3) Bạn làm gì để xây dựng Nước Trời?

 

9. Xây dựng Nước Trời

(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúng ta vừa nghe những câu cuối cùng trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đây là những lời nói cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã trần gian về trời. Nên có tầm quan trọng rất lớn. Chính vì thế Chúa Giêsu triệu tập các môn đệ lên một ngọn núi cao. Trong Tin mừng, những biến cố quan trọng bao giờ cũng diễn ra trên ngọn núi cao. Chúa ký kết giao ước với dân Do thái trên núi. Chúa giảng bài giảng đầu tiên trên núi. Chúa biến hình trên núi. Chúa chịu chết trên núi. Và hôm nay Chúa trao sứ điệp cuối cùng trên núi. Sứ điệp này thật quan trọng vì cho ta hiểu được định mệnh của con người, hiểu được sự thật về Nước Trời và hướng dẫn đời sống của ta trên trần gian.

Sứ điệp đó cho thấy định mệnh con người.

Chúa Giêsu nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Khi bị treo trên thánh giá, không một mảnh vải che thân, ai cũng nghĩ là Chúa Giêsu đã mất tất cả. Nhưng hôm nay khi về trời, Chúa Giêsu được tất cả. Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã từ chối cơn cám dỗ thờ lạy ma quỉ nhằm được lợi lộc trần gian. Thì nay Đức Chúa Cha đem tất cả đặt dưới chân Người. Là người đầu tiên về trời, Chúa Giêsu mở cho ta một chân trời hi vọng. Định mệnh con người không bị tàn lụi đi theo thân xác ở trần gian, nhưng triển nở đến vô tận trên Nước Trời. Định mệnh con người không chìm trong nhục nhằn thống khổ, nhưng sẽ trổi vượt trong vinh quang trên Nước Trời. Định mệnh con người không phải chịu giam cầm trong số phận xác đất vật hèn ngang hàng với cỏ cây súc vật, nhưng sẽ được nâng lên ngang hàng với các bậc thần thánh trên Nước Trời.

Sứ điệp đó cho thấy sự thật về Nước Trời.

Chúa Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Theo quan niệm dân gian ta thường phân chia trời với đất. Trời cách xa đất ngàn trùng. Đất chẳng bao giờ với được tới trời. Trời chẳng bao giờ có thể cúi xuống tới đất. Nhưng với lời Chúa Giêsu hôm nay, ta thấy trời đất không cách xa nhau. Chúa Giêsu về trời nhưng vẫn ở bên cạnh ta mọi ngày mọi giờ cho đến tận thế. Chúa Giêsu không nói Chúa sẽ lên trời, nhưng Chúa thường nói Người sẽ về với Chúa Cha. Nước Trời chính là sự sống trong Chúa Cha, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Nước Trời chính là sự sống trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Nước Trời là được hưởng hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa. Như thế Nước Trời là một trạng thái chứ không phải một nơi chốn. Ai sống trong tình yêu Thiên Chúa thì đã ở trong Nước Trời rồi.

Sứ điệp đó cho thấy sứ mạng của người môn đệ.

Chính vì không cách biệt mà trời và đất không đối lập nhau. Trời không tách rời đất. Đất không đối lập với trời. Nước Trời phải được xây dựng ngay từ bây giờ, trên mặt đất. Trái đất Chúa ban cho để ta xây dựng thành Nước Trời. Đó là sứ mạng của người môn đệ. Đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Xây dựng bằng cách nào. Thưa bằng “dậy cho họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Những điều Chúa Giêsu dậy đã được tóm tắt trong điều răn mới: “Thầy truyền cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều răn mới này thay thế mọi điều răn cũ. Như thế sứ mạng của người môn đệ Chúa là sống yêu thương, là làm cho mọi người sống yêu thương. Khi mọi người biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương ta, Nước Trời đã hiện diện.

Hôm nay mừng lễ Chúa Giêsu về trời, ta hiểu rằng định mệnh của chúng ta thật cao quí vì không kết thúc ở trần gian mà còn tiếp tục trên Nước Trời. Ta hiểu rằng Trời và Đất không cách xa đối lập nhau, nhưng Nước Trời phải được xây dựng ngay từ bây giờ trên mặt đất và Trái Đất Chúa ban cho để ta xây dựng thành Nước Trời. Ta hiểu rằng sứ mạng của ta phải nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu, sống yêu thương và làm cho mọi người sống trong yêu thương. Khi ta hoàn thành sứ mạng như Chúa Giêsu ta sẽ được chung phần hạnh phúc với Chúa.

Lạy Chúa xin nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.

 

10. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương. Diêm Vương ân cần hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục”.

Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn”.

Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi đi lại lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…

Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…

Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui hơn”.

Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có văn nghệ, chả có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành hạ các tội nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương:

“Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu?”.

Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà con!”.

Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống sao thác vậy”.

Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.

Kính thưa ông bà anh chị em, có lẽ đây cũng là lối sống của nhiều người trong chúng ta hôm nay. Hơn bao giờ hết, người thời nay với lối sống xô bồ, đua tốc độ với thời gian, lấy vật chất làm động lực sống, coi hưởng thụ khoái lạc làm mục tiêu hành động nên đã sử dụng môn quảng cáo như là một tuyệt chiêu để tranh sống và sinh tồn ở đời. Do đó, người ta đua nhau tổ chức cuộc sống mình đặt trên cơ sở lấy ngắn hạn thay cho dài hạn, lấy lợi trước mắt quên tác hại sâu xa, lấy bên ngoài quan trọng hơn bên trong, lấy xác hơn hồn. Tất cả những sai lầm nguy hiểm trên đương nhiên ai cũng biết, nhưng người ta vẫn cứ sống, vẫn cứ coi thường.

Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa lên trời.

Và mỗi lần như thế chắc chắn Chúa vẫn kêu mời mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và đặt lại hướng đi cho cuộc đời của mình. Hay nói cách khác Chúa muốn chúng ta, nhân cơ hội kỷ niệm biến cố Ngài về trời, sáng suốt nhận ra được đâu là mục đích chính của đời sống tại dương thế. Thế mà không hiểu tại sao mọi người chúng ta hình như cứ mải mê cố tình coi nhẹ sự sống đời sau.[1]

Sở dĩ có tình trạng mê lầm mất phương hướng này một phần do những nguỵ biện trong cuộc sống:

nào là “có thực mới vực được đạo”,

nào là sống đạo cốt tại tâm,

nào là phải lo đủ thứ bổn phận trách nhiệm trong gia đình ngoài xã hội,

nào là phải liên tục đương đầu để giải quyết biết bao công việc khó khăn.

Tất cả những thứ đó đã mê hoặc, ru ngủ chúng ta đến nỗi chúng ta cho việc lơ là phần thiêng đạo đức, bỏ bê việc lành, dễ dãi với những yếu đuối sa ngã, khô khan nguội lạnh đôi chút đều không có gì phải ân hận, nuối tiếc cả.

Ngoài ra còn do ảnh hưởng bên ngoài đầu độc. Chẳng hạn, thời nay hầu như ai cũng lấy lợi nhuận, hưởng thụ làm mục tiêu của cuộc sống, trong khi kẻ nào chủ trương ăn ngay ở lành, ăn chay đền tội thì người ta cho là khờ dại. Thêm vào đó, nhiều chủ thuyết cổ võ lối sống tự do phóng khoáng, phi đạo đức luân lý, đả kích tôn giáo khiến đức tin của một số người lung lay và hoài nghi những chân lý trong đạo.

Đặc biệt ma quỉ đâu chịu ngồi yên, chúng dùng mưu mô xảo quyệt, lợi dụng tối đa mọi hoàn cảnh để ra sức dụ dỗ con người nghi ngờ Chúa, quên đời sau.

Cuộc sống hiện tại của chúng ta là như thế đó, nên ngày lễ hôm nay, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta: cuộc sống trên trần thế này không làm thỏa mãn chúng ta và trần gian này chỉ là nơi tạm bợ, chưa phải là nơi ở vĩnh viễn của con người. Quê hương đích thực của chúng ta ở trên trời. Hiểu như thế chúng ta mới thấy được cuộc sống trần gian này chỉ là một giai đọan, một sự chuyển tiếp dẫn chúng ta về quê trời, nơi Chúa Giêsu đã về trước để chuẩn bị cho chúng ta. Amen.

[1] Sưu tầm

 

11. Một khởi đầu mới

(Bài giảng của Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên)

Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.

Khi nói đến lễ Chúa Giêsu lên trời hay lễ Thăng Thiên, chúng ta thường chỉ nghĩ đó là thời điểm kết thúc sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu. Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng, lại quy hướng chúng ta về với một khởi đầu mới, trong lạc quan và hy vọng. Không phải vô cớ mà cả ba bài Tin Mừng cho chu kỳ ba năm A,B,C đều là những đoạn kết của các Tin Mừng nhất lãm. Đây là những kết "mở", dẫn chúng ta sang một khởi đầu mới.

Trước hết, đó là khởi đầu của sứ mạng truyền giáo được Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ. Sứ mạng này có điểm xuất phát là Giêrusalem, là thành thánh và là trung tâm của Do Thái giáo. Sứ điệp mà các môn đệ được trao phó là lời kêu gọi sám hối. Chúng ta hãy nhớ lại, đây cũng là nội dung lời rao giảng đầu tiên khi Chúa Giêsu khởi sự loan báo Tin Mừng: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!". Có điều khác biệt là bây giờ Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mà Người hiện diện qua các chứng nhân. "Chính anh em là chứng nhân về những điều này". Một thời đại mới đã khai mở, đó là thời của các chứng nhân, cũng là thời của Giáo Hội. Qua các ông, mọi người nhận ra Đức Giêsu đang sống và đang hiện diện trong các cộng đoàn Đức tin.

Tuy Chúa Giêsu không hiện diện thể lý giữa các môn đệ, Người lại hứa ban cho các ông "quyền năng từ trời cao ban xuống". Quyền năng này là Chúa Thánh Thần. Vậy, đây là khởi đầu của một thời đại mà Thiên Chúa tuôn đổ Thần Khí của Ngài trên mọi tạo vật, để hướng dẫn và thánh hoá mọi xác phàm, nhất là những môn đệ. Điều này đã được thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang cầu nguyện xung quanh Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. "Quyền năng từ trời cao" đã biến đổi các ông, ban cho các ông sức mạnh và nghị lực, nhờ đó, các ông không còn sợ hãi, mạnh dạn mở tung các cửa và can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh.

Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã lên đường. Đây là cuộc chia tay với Thày, đồng thời cũng là khởi đầu một cuộc lên đường mới. Tác giả Tin Mừng Luca diễn tả: "Các ông trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa". Sứ điệp mà các ông lãnh nhận để rao giảng phát xuất từ Giêrusalem, nơi có Thiên Chúa hiện diện theo quan niệm của người Do Thái. Từ nơi này, ánh sáng Lời Chúa lên đường cùng với các ông, với tư cách là nhân chứng của Đấng Phục sinh, để chiếu toả đến tận cùng thế giới. Lời căn dặn của Chúa được ghi trong sách Tông đồ Công vụ còn cho thấy "không gian" của sứ vụ tông đồ rất rộng lớn bao la: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

Tác giả sách Công vụ Tông đồ, cũng là Thánh Luca, là một nhân chứng mắt thấy tai nghe, giờ phút chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Sau những lời căn dặn, Chúa Giêsu đã lìa họ mà về trời cao. Tác giả dùng chữ "được cất lên", cùng với chi tiết đám mây bao phủ. Trong truyền thống Cựu ước, đám mây là yếu tố diễn tả các cuộc "thần hiện" của Đức Giavê (x. Xh 13,21-22); của Con Người (x. Dn7,13). Đức Giêsu, mặc dù vắng bóng, vẫn luôn luôn hiện diện trong Giáo Hội. Như vậy, cuộc "lại đến" của Chúa được các sứ thần áo trắng diễn tả, không phải là một cuộc trở lại, nhưng đúng hơn, là sự tỏ mình lần cuối để minh chứng sự hiện diện ấy.

Xem ra có mấy vị trong số các tông đồ vẫn còn quan niệm lệnh lạc về sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu. Vì vậy mà họ hỏi Chúa: "Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Israen không?". Xưa cũng như nay, độc giả không khỏi ngỡ ngàng trước câu hỏi đó. Thế mới thấy rằng để canh tân tư duy và quan niệm của con người không phải là điều dễ dàng. Bốn mươi ngày sau biến cố Phục sinh, các ông đã nhiều lần gặp Chúa, mà quan niệm về Đấng Thiên sai của các ông vẫn chưa thay đổi. Trước sự tăm tối của lòng trí con người, tác giả Thư Do Thái khích lệ chúng ta "Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín" (Bài đọc II).

Mười ngày sau lễ Thăng Thiên, Mùa Phục sinh sẽ khép lai. Như đã nói ở trên, Lễ Thăng Thiên không phải hồi kết thúc nhưng là một khởi đầu mới cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa của mỗi chúng ta, với tư cách là tín hữu. "Không ai cho người khác cái mình không có", chúng ta chỉ có thể trở thành chứng nhân can đảm của Chúa Giêsu, một khi chúng ta vững niềm xác tín nơi Người, nhận ra sự hiện diện của Người trong đời sống chúng ta. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc cho chúng ta, quê hương đích thật của chúng ta là trên trời. Chúa Giêsu đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Tin yêu và gắn bó với Người ở đời này, chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.

Hãy cùng nhau lên đường trong hân hoan hy vọng, vì Chúa Phục sinh ở cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế!

 

12. Hộ chiếu Nước Trời – Thiên Phúc

(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)

Chuyện kể rằng: có một bà lão qua đời, suốt cuộc sống bà chẳng làm được việc thiện nào. Vì thế, Satan chộp lấy bà ném vào biển lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh của bà không chịu thua . Ngài suy nghĩ một lúc lâu và nói: “Lạy Chúa, có một lần bà đã đào một củ hành nhỏ trong vườn cho người ăn xin”.

Chúa nói: “Được, vậy con hãy lấy củ hành nhỏ tương tự, thả xuống biển lửa và kéo bà lên bằng củ hành nhỏ đó. Nếu con thành công, bà ấy sẽ được cứu”.

Thiên thần cẩn thận kéo bà lên. Nhưng khi những người khác thấy bà bắt đầu đi lên, họ liền bám theo bà. Bà vội vàng đá tung họ ra và la lên: “Chỉ có tôi là được cứu bằng củ hành này, nó thuộc về tôi chứ đâu có thuộc về các người”.

Lúc đó, củ hành bị tách ra và bà rơi trở lại biển lửa. Thiên Thần quay mặt đi khóc cho số phận của một con người quá ích kỷ.

***

Chúa về trời và Người muốn cho các con cái cũng được lên trời với Người. Vì Người đã cầu xin Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,24).

Nhưng muốn được lên trời cũng phải có hộ chiếu của Nước Trời. Hộ chiếu đó chính là Tình Yêu Thương. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-20a). Mọi điều Thầy truyền chỉ tóm lại có một điều là “Mến Chúa yêu người”. Vì thế, tình yêu thương chính là thước đo, là điều kiện, là bảo đảm cho người tín hữu được lên trời với Chúa.

Chúng ta tưởng trời ở thật xa nhưng thực ra lại rất gần. Đức Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20b). Ở đâu có Chúa là ở đấy có thiên đàng, vậy trời há không ở trong lòng chúng ta đấy ư? Trời ở ngay trong trái tim chúng ta, những trái tim đầy ắp yêu thương, ngập tràn Thiên Chúa. Trời ở ngay trong thế giới này, nếu đó là một thế giới yêu thương và hòa bình, chia sẻ và tha thứ cho nhau.

Chúng ta tưởng mình chỉ được lên trời sau cuộc sống này, nhưng thực ra thì chúng ta đang vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Hạnh phúc Nước Trời là khi chúng ta không màng lợi danh lạc thú, cũng chẳng ngần ngại trước đau khổ và nỗi chết. Nhưng luôn biết chia sẻ cho anh em, xả thân phục vụ hết mọi người. Vì phục vụ là tên gọi của tình yêu.

***

Lạy Chúa, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin chỉ cho chúng con biết đường về trời bằng cách sống hiến thân, phục vụ và trao ban.

Xin đừng để những truân chuyên nơi cuộc sống này làm chúng con quên mất trời cao. Xin đừng để những quyến rũ của trần gian cản lối chúng con về trời.

Ước gì qua cuộc sống chúng con mọi người sẽ nhận ra con đường về trời. Amen.

 

13. Lễ Chúa Thăng Thiên

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Bá Trung)

Hôm nay, toàn thể cộng đoàn Dân Chúa cử hành đại lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hay còn gọi là Chúa Giêsu lên trời. Mầu nhiệm này đã được Dân Chúa ngay từ đầu tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”.

Chúa Giêsu “được đưa lên trời” đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay lại trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”(Ga 3, 13). Vì thế, nếu ta cho rằng về trời theo quan niệm địa lý bình dân như trời cao đất thấp, thì ta có thể nghĩ rằng việc Chúa về trời là ở xa loài người. Quan niệm về trời xa như vậy là rối đạo, là lạc giáo, không khác gì sự ngớ ngẩn của một phi hành gia không gian, anh Youri Gagarine của Liên Xô, sau chuyến du hành vũ trụ, bay về mặt đất, đã ngông nghênh tuyên bố rằng: “Tôi đã bay ngang dọc khắp không gian nhưng chẳng gặp một ông Chúa nào trên đó cả”. Với một quan niệm và niềm tin mơ hồ lệch lạc như thế, chắc chắn không phải chỉ với vài khoảnh khắc trong không gian anh ta không gặp được Thiên Chúa mà nếu anh ta cứ cố chấp và kiêu căng, có lẽ đời đời Thiên Chúa sẽ “ngàn trùng xa cách”.

Như vậy, lễ Chúa Thăng Thiên hay Chúa lên trời không phải là một cuộc tiễn đưa Chúa Giêsu đi vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Nhưng Chúa lên trời được hiểu là chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Ngài tại trần thế, Ngài không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa. Chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Chúa bắt đầu một sự hiện diện “ẩn khuất”, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được. Chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài. Chẳng hạn: Chúa hiện diện trong Lời Ngài, trong Bí Tích Thánh Thể, trong những anh chị em sống chung quanh, trong những người nghèo hèn, khốn khổ, bị bách hại đau thương, trong mỗi người chúng ta khi chúng ta họp nhau dâng lời cầu nguyện và tiến dâng hy tế: “Ở đâu có hai ba người họp lại vì Danh Ta thì có Ta ở giữa họ”…Và lát nữa đây, trên bàn thờ này, nhờ Ngài lên trời, mà chúng ta được hân hoan đón nhận Mình Thánh Ngài như lương thực trường sinh nuôi dưỡng chúng ta trên cuộc hành hương về quê trời vĩnh cửu.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!

Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa, Chúa Giêsu về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ cứu chuộc mà Chúa Cha đã trao phó, nhưng sự cứu độ của Chúa Giêsu vẫn còn được tiếp tục qua Giáo Hội khi Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”(Mt 28, 19-20). Mệnh lệnh này Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ta là những người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để chúng ta trở nên chứng nhân cho Chúa Giêsu tại trần gian này.

Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, Chúa cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời…Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời”. Và như lời kinh tiền tụng hôm nay cũng nói: “Người đã lên trời trước, để chúng ta là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”. Quê trời là đích điểm của người kitô hữu. Quê trời là niềm hy vọng cho những ai biết dấn thân xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này. Vì thế, những hy sinh ở đời này, dù có chịu nhiều mất mát, thiệt thòi đi nữa vẫn không thể nào so sánh được cuộc sống trên quê trời.

Trong tờ báo Công Giáo và Dân Tộc, số 1505 có đăng tải thắc mắc của một em bé 10 tuổi, tên là Thu Minh, em hỏi: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới qua đời có được lên thiên đàng không?”. Với câu hỏi ấy, hôm nay em Thu Minh có lẽ đã tìm được câu trả lời. Vì để tỏ lòng biết ơn Đức Giáo Hoàng về những công lao to lớn trong việc phục vụ cho Giáo Hội hoàn vũ, vào ngày 27. 4. 2014 vừa rồi, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành lễ phong hiển thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp kỷ niệm ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót. Như chúng ta đã biết, việc ai được lên thiên đàng, đó là quyền Thiên Chúa xét đoán. Chúng ta tin Thiên Chúa như một người Cha, giàu lòng thương xót và luôn giúp chúng ta sống tốt. Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chắc chắn đã sống tốt: ngài hoạt động cho hòa bình thế giới, ngài đã đi thăm những người nghèo khổ, ngài đã bênh vực những người yếu hèn, ngài đã hòa giải những tôn giáo không cùng ý tưởng, ngài đã đem Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến cho mọi người trên toàn cầu. Nén bạc mà Thiên Chúa giao cho ngài đã được sinh lợi gấp trăm, gấp ngàn lần. Một cuộc sống như vậy thế nào cũng được Thiên Chúa dành cho một chỗ trên thiên đàng, và chắc chắn Thánh Gioan Phaolô II sẽ được gặp lại Chúa và tất cả những người thân thương của ngài. Tin vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta tin chắc giờ này Thánh Gioan Phaolô II rất hạnh phúc vì được ở gần Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Cũng trong tâm tình đó, Chúa Giêsu lên trời là chuẩn bị chỗ cho chúng ta ở trên thiên đàng, để khi chúng ta từ giã cõi đời này cũng được các thiên thần Chúa rước đưa về thiên đàng. Muốn được vậy, chúng ta cần phải yêu mến những sự trên trời bằng cách chu toàn thật tốt bổn phận ki tô hữu ở trần gian. Chu toàn thật tốt bổn phận ở trần gian là góp phần xây dựng Nước Trời. Một khi chu toàn tốt bổn phận ở trần gian như vậy đó là dọn chỗ ở trên thiên đàng. Trần gian không phải là nơi ta chọn để bám víu luôn mãi. Nhưng trần gian là cơ hội để ta đạt tới hạnh phúc trên thiên đàng.

Ước gì, xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết chu toàn bổn phận hằng ngày để mai sau được về trời với Chúa. Amen.

 

14. Bài chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

LỄ CHÚA GIÊSU THĂNG THIÊN

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm.

Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

15. Về Trời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mừng lễ Chúa Lên Trời, Về Trời hay Thăng Thiên, ý nghĩa là Chúa Giêsu Kitô đã được cất nhắc lên và không còn xuất hiện hiển nhiên với các tông đồ nữa. Theo kiểu nói bình dân có hình tượng đi lên, đi xuống và ngự bên phải, bên trái, để mọi người dễ hiểu. Chúa Kitô đã hoàn tất sứ mệnh tại thế: Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy, Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng, Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa (Tđcv 1, 3). Chúa Giêsu đã xuống trần gian sinh sống trong khoảng thời gian ba mươi ba năm. Chúa ra rao giảng Tin mừng Cứu độ, chịu khổ hình thập giá, chết và sống lại. Sau khi sống lại, Chúa lưu lại trần gian một khoảng thời gian ngắn để dạy dỗ, an ủi và sai phái các tông đồ đi ra làm nhân chứng tin mừng. Rồi Chúa lên nơi đã ở trước và ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trí khôn của chúng ta chỉ có thể hiểu được các sự kiện gắn liền với thời gian và không gian. Đôi khi chúng ta thắc mắc, lên trời là lên nơi nào và ở đâu? Xa hay gần. Bầu trời thì bao la như không cùng.

Thánh Luca, tác giả sách Tông Đồ Công Vụ làm sáng tỏ một chút: Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ người khuất mắt các ông (Tđcv 1, 9). Chúa Giêsu được cất lên, mây che phủ và khuất mắt các tông đồ. Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện với các tông đồ theo thể thức khác. Chúa không còn hiện ra cách nhãn tiền để đàm đạo, dậy dỗ hoặc ăn uống với các ông như trước nữa. Chúa sẽ hiện diện linh thiêng qua các việc cử hành phụng vụ, các Bí tích và hiện diện nơi cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện với lịch sử của một dân tộc được chọn lựa. Có khởi đầu, diễn tiến và sẽ thành tựu trong thời gian và không gian. Các sự kiện lịch sử về ơn cứu độ được in ghi rất cụ thể và gắn kết với một dòng dõi, nơi một đất nước xứ sở và dưới thời một vua chúa, quan quyền.

Sứ mệnh cứu thế của Chúa Kitô đã được chuẩn bị rất lâu dài qua cả ngàn năm. Thiên Chúa Cha đã tuyển chọn một người, một gia đình sinh xôi nẩy nở thành một bộ lạc và rồi trở thành một dân tộc để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế. Các tiên tri đã loan báo và hướng dẫn dân chúng về Đấng Xức Dầu sẽ xuất hiện để ban ơn cứu độ giải thoát. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoặch của Người qua Đức Kitô. Ngài là trung gian của vũ trụ vạn vật. Đây là một biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu cao siêu và linh thiêng đi vào cụ thể nơi lòng người. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng hạ thân làm người, gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Giêsu đã trải nghiệm một cuộc đời như mỗi người chúng ta. Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta về tất cả mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa vô hình và vô biên đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời trong cách thế và ngôn ngữ giới hạn của con người qua niềm tin tôn giáo, văn hóa, tổ chức xã hội và ý thức hệ chính trị… Chúa Kitô đã gặp gỡ con người xác phàm đầy sự yếu đuối, u mê và lầm lạc. Chúa Kitô đã phải đối xử một cách rất kiên nhẫn và nhân từ trong việc truyền rao chân lý Nước Trời.

Mầu nhiệm Nước Trời đã được gieo trồng trong thửa đất của tâm hồn con người. Tâm trí của con người không dễ dàng đón nhận những sự cao siêu trên trời vượt quá tầm trí hiểu. Chúa Giêsu đã thường lấy những hình ảnh cụ thể, thí dụ, tỉ dụ, dụ ngôn và ngụ ngôn để khải mở tâm trí con người để dẫn tới nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Đức Kitô dùng khoảng thời gian rất ngắn để hoàn thành tất cả những lời đã được các tiên tri loan báo: Công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời (Eph 1, 20). Chúng ta học biết Đức Kitô là con người lịch sử. Có nơi sinh và có chỗ từ trần. Ngài đã khai mở Nước Trời ban ơn cứu độ cho toàn dân. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện với Giáo Hội dưới nhiều cách thế để ban ơn cứu độ. Đức Kitô không bị đóng khung hay giới hạn vào một niềm tin đặc thù nào, nhưng ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Ngài, sẽ tìm thấy ơn cứu độ.

Khi Chúa Kitô hoàn tất sứ mệnh trên trần gian, Chúa Cha đã trao mọi quyền năng trên trời dưới đất, để mọi sự qui phục dưới chân Ngài: Chúa Giêsu tiến lại và nói với các ông rằng: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy (Mt 28, 18). Chúng ta tin nhận Chúa Kitô là nguyên thủy và là cùng đích. Thật khó hiểu, chúng ta rơi vào giữa sự huyền nhiệm đời đời và cụ thể thực nghiệm, giữa thần thiêng và vật chất, giữa vô hạn và giới hạn. Chúng ta không thể đong đo tính đếm con đường tâm linh. Với niềm tin vào Chúa Kitô là trung gian, thân phận con người mỏng dòn được cất nhắc lên làm con Chúa và được hứa ban sự sống trường sinh. Con người có chiều sâu ước muốn đời sống tâm linh vô hạn. Ngưỡng vọng một cuộc sống vĩnh cửu. Linh hồn hiện hữu thiêng liêng không bị tiêu diệt.

Chúa Giêsu mong muốn Tin mừng cứu độ được tiếp tục truyền rao đến muôn thế hệ. Ngài đã trao phó sứ mệnh này cho các tông đồ và những người kế vị: Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, là phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (My 28, 19). Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng và làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã ra đi tản mát mỗi người một nơi để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các ngài đã can đảm và không còn nhút nhát sợ sệt như trước nữa. Các ngài ra đi khắp vùng loan tin mừng cứu độ và mời gọi nhiều người trở về cùng Chúa. Các ngài đã nhiệt tâm rao giảng và dám dùng sự sống sự chết của mình để làm nhân chứng cho lời sự thật. Nhớ rằng, trước kia các tông đồ chỉ là những người chài lưới, ít học và dân giã. Nhưng với ơn biến đổi của Chúa Thánh Thần tác động, các tông đồ đã hiên ngang chu toàn sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác.

Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolô dùng ngôn ngữ và cách hiểu biết của loài người để diễn tả: Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài (Eph 1, 22). Chúa Kitô về trời là Ngài lên nơi đã ở trước. Ngài thuộc về thiên giới, còn chúng ta thuộc về hạ giới. Ngài không xuống trần để cai quản mà để phục vụ con người. Ngài hạ thân để chia sẻ tình yêu vô điều kiện. Ngài đã hiến mạng sống và yêu thương chúng ta đến cùng. Cách đơn giản, Chúa Giêsu muốn cứu chuộc chúng ta khỏi quyền lực ma quỉ, sự dữ và tối tăm. Ngài muốn chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Ngài.

Chúng ta được tự do chấp nhận hay chối từ lời mời gọi của Chúa. Nếu thật tâm tìm kiếm và đi theo lối bước của Chúa, chúng ta cần lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống mình. Một ý tưởng minh họa: Khi du khách đi du lịch đến một đất nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền lưu hành tại nước đó. Tiền của chúng ta trên thế gian này chẳng có giá trị gì trên nước trời, nếu nó không đổi thành tiền của nước Trời, đó chính là các việc lành phúc đức có giá trị. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: Hãy bán gia sản và bố thí cho kẻ nghèo để mua Nước Trời.

Lạy Chúa, Chúa về trời nhưng Chúa vẫn còn luôn hiện diện giữa chúng con. Chúa không bỏ chúng con mồ côi. Chúa đi là để chuẩn bị chỗ cho chúng con và sẽ trở lại đón chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa đến muôn ngàn đời.

 

16. Hành trình về Trời

Lễ Thăng Thiên không chỉ là lễ kính mừng Chúa Giêsu lên trời mà còn là dịp tái khẳng định tín điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng”. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta vô ích, và chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời.

Chúa Giêsu lên trời là để minh chứng và xác định lời hứa Ngài đã nói trước: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!

Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị. Thánh Phaolô đã nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (1 Tm 3:16).

Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời, vì Ngài xuất phát từ Trời, từ Chúa Cha: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28). Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Thật kỳ diệu quá đỗi!

Thánh Luca viết trong sách Công Vụ: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngàyNgười được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:1-5). Chúa Giêsu về trời, nhưng rồi Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc.

Tư tưởng loài người không cao hơn mặt đất, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Ít-ra-en. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo hút Ngài, chẳng hiểu thế là thế nào.

Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Lời giải thích này cho chúng ta biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào mà chúng ta không thể biết được, thậm chí có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải sẵn sàng và tỉnh thức. Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được!

Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho chúng ta. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người.

Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1:17-19a). Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:19b-23). Đức Kitô được Chúa Cha trao ban mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng cho Ngài, mà Ngài lại muốn chia sẻ với chúng ta, làm cho chúng ta được viên mãn với Ngài, dù chúng ta không chỉ là phàm nhân mà còn là những tội nhân hoàn toàn bất xứng.

Niềm hạnh phúc như điệp khúc cứ lặp đi lặp lại trong cuộc đời chúng ta, trên suốt hành trình về trời. Không hạnh phúc sao được, vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi quá nhiều, minh nhiên nhất là chúng ta được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là cũng sẽ được về trời.

Một hôm, mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin. Vả lại, họ cứ tưởng Đức Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền cai trị Ít-ra-en từ bọn thực dân Rôma. Khi đó, Đức Giêsu đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Chúa Giêsu đang làm chính trị thật, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng lại không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị.

Chúa Giêsu nói với họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20a). Ngài biết Ngài sắp đến giờ về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng. Ngài về trời nên Ngài bảo chúng ta vào đời làm chứng nhân về Ngài. Đó vừa là một tặng phẩm vừa là một mệnh lệnh, vừa là một đặc ân vừa là một trọng trách.

Trước khi về trời, lời cuối của Chúa Giêsu trên thế gian là một lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b). Lời hứa đó đã được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Chúa Giêsu rất “tội nghiệp” chúng ta, Ngài cũng đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14:8). Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta (Ga 14:16). Thánh Thể và Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trên suốt Hành Trình Về Trời.

Cái gì cũng có “mở” và “kết”. Cũng vậy, Hành Trình Về Trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết”, có thể “chết yểu”, “chết” trước kỳ hạn, “chết” ngay khi mình đang sống. Chết như vậy thì thật là nguy hiểm! Vì thế, chính Chúa Giêsu đã khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp” (Lc 13:24). Rất “ngược đời”, nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu.

Thánh nữ Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn”(Nhật Ký, số 774). Đây là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu của Chúa và nhìn theo cách nhìn của Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Con Chúa về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà chúng con đang cố gắng chiến đấu để đạt được. Xin mau ban Chúa Thánh Thần để đổi mới chúng con, làm cho chúng con can đảm làm chứng về Chúa Ba Ngôi. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài đã hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

17. Lần gặp gỡ cuối cùng

(Trích dẫn từ tập sách “Giải Nghĩa Lời Chúa” - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

A. Lần Gặp Gỡ Cuối Cùng

Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại nhiều lần Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Nhưng chỉ hai thánh sử Marcô và Luca có những lời kết thúc mọi lần gặp gỡ ấy. Marcô viết: sống lại lúc tảng sáng, ngày thứ nhất trong tuần, trước tiên Ngài hiện ra cho Maria Magđala... Sau đó Ngài tỏ mình ra cho hai người trong nhóm họ ở trên đàng... Sau cùng Ngài đến với chính nhóm Mười Một đang khi họ dùng bữa... Và sau khi đã nói cùng họ xong, Chúa Giêsu được nhắc về trời và lên ngự bên hữu Thiên Chúa (16,9-19).

Marcô cho ta có cảm tưởng mọi lần Chúa Phục sinh hiện đến đều xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần và Người đã lên trời cũng trong chính ngày ấy. Như vậy rõ ràng Marcô không đồng ý với Luca trong bài sách Công vụ hôm nay, vì tác giả này viết: Chúa Giêsu chỉ về trời 40 ngày sau khi sống lại và đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ.

Nhưng chính Luca cũng lại mâu thuẫn với mình nữa. Trong sách Công vụ thì ngài viết như thế, còn trong sách Tin Mừng thì ngài lại viết hầu giống như Marcô. Ngài cũng thuật rằng: Ngày thứ nhất trong tuần Chúa Phục sinh tỏ mình ra cho hai môn đệ đi Emmau vào lúc sau khi ngày đã xế chiều. Ngay giờ đó họ đã chỗi dậy trở về Giêrusalem và gặp thấy các bạn đang sum họp cùng nhau... Họ đang còn nói thì Ngài đã đứng giữa họ... Rồi Ngài dẫn họ đến tận Bêthania: đoạn giơ tay, Ngài chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài tách lìa họ và được nhắc lên trời (24,13-51).

Luca có thể quên những điều ngài vừa viết khi soạn sách Công vụ các Tông đồ không? Và ngài có ý gì khi khẳng định việc Chúa Lên Trời khác nhau như vậy?

Ðọc kỹ các sách Kinh thánh, chúng ta có thể thấy rằng, trong sách Tin Mừng, Luca đã theo Marcô. Và cả hai đều muốn tô đẹp ngày Chúa nhật Phục sinh. Ðối với cả hai, đó là ngày Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Chắc chắn các ngài đã không muốn thuật lại hết mọi lần Chúa hiện ra. Các ngài đã lựa chọn kể lại một vài lần hiện ra đặc sắc. Và câu các ngài viết để thuật lại việc Chúa Lên trời thực ra nhằm mục đích kết thúc mọi lần Chúa sống lại hiện ra hơn là muốn khẳng định Chúa đã lên trời trong chính ngày Chúa nhật Phục sinh.

Nhất là trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy hai môn đệ đã phải trở về Giêrusalem vào lúc tối. Ðến nơi, họ gặp các Tông đồ, rồi được Chúa hiện ra chung cho mọi người và sau đó tất cả được Người dẫn đến Bêthania để chứng kiến việc Người lên trời. Như vậy, Người lên trời vào lúc đêm tối ư?

Không, lối hành văn của hai bản Tin Mừng Marcô và Luca trên đây không ghi lại lịch sử theo chi tiết thời gian. Hai tác giả muốn loan truyền Tin Mừng cứu độ: Ðức Kitô đã sống lại ngày thứ nhất trong tuần; Người đã hiện ra dạy dỗ các môn đệ nhiều lần; và lần cuối cùng Người đã cho họ thấy Người lên trời. Còn "lần cuối cùng" này xảy ra vào ngày nào, lúc nào, thì không tác giả nào muốn xác định theo lịch sử thời gian. Hai thánh Marcô và Luca, "bề ngoài" có vẻ như muốn quả quyết là vào cuối ngày thứ nhất trong tuần, nhưng thật sự như chúng ta đã thấy, cả hai chỉ muốn dùng việc lên trời để kết thúc mọi lần hiện ra; và các lần hiện ra này lại được xếp cả vào ngày thứ nhất trong tuần để tô điểm cho ngày Chúa sống lại. Ta có thể nói hai bản văn Tin Mừng Marcô và Luca là hai bài thần học về ngày Chúa Nhật: đó là ngày Chúa sống lại hiện đến với các môn đệ. Ðồng thời cũng là những bài thần học về mầu nhiệm Chúa Phục sinh. Mầu nhiệm này bao gồm việc Người sống lại, hiện ra với các môn đệ và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa.

Theo Luca, chúng ta có thể nghĩ Chúa sống lại như mặt trời lúc rạng đông và Người về trời như vừng ô lúc lặn; còn cả ngày, thì ánh sáng Người chiếu soi cho các môn đệ. Luca kể chuyện Chúa đã liên tiếp hiện ra trong một ngày. Nếu chúng ta gom mọi lần hiện ra đó vào một và coi như chỉ là những diện khác nhau của việc Chúa sống lại tỏ mình ra cho các môn đệ, thì khi Người hiện đến họ biết Người đã sống lại và lúc Người biến đi họ biết Người đã về trời. Không vậy thì phải hỏi Người ở đâu? Nhưng họ đã không hỏi vì đã tin quyền năng Thiên Chúa đã phục sinh Ðức Giêsu từ nơi kẻ chết, thì mặc nhiên họ đã nhận ra rằng Người đã được nhắc lên trong vinh quang Thiên Chúa. Hai người trong nhóm họ đã viết lại việc Người lên trời cách hữu hình chẳng qua để muốn nói rằng từ nay Chúa sống lại không hiện ra nữa.

Nhưng tại sao Luca trong sách Công vụ lại nói đến con số 40 ngày như là thời gian để Chúa Phục sinh hiện ra dạy dỗ các môn đệ? Có thể lần hiện ra cuối cùng đã xảy ra vào ngày thứ 40 sau khi Chúa sống lại. Nhưng có thể hơn là Luca có một ẩy ý gì đây khi nêu ra con số này.

Chúng ta biết Môsê đã ở trên núi 40 ngày; dân được chọn đã đi trong sa mạc 40 năm; Êlya đã đến núi Horeb 40 ngày và nhất là chính Ðức Kitô đã chay tịnh 40 ngày trong sa mạc. Con số 40 ngày trở thành biểu tượng thời gian kết hợp với Thiên Chúa và được Thiên Chúa dạy dỗ. Có lẽ Luca muốn nói lên hạnh phúc và địa vị ưu việt của các Tông đồ. Các ngài là những người được Chúa sống lại hiện đến dạy dỗ trong 40 ngày. Như vậy các ngài đã có giáo lý đầy đủ của Chúa phục sinh và chúng ta phải kính nể, tin yêu giáo lý ấy.

Bởi vì chính đoạn sách Công vụ các Tông đồ hôm nay không có ý trình bày việc Chúa lên trời, đó là những lời mở đầu cho cả một cuốn sách. Tác giả nói đến nhiều ý tưởng mà tựu trung là để chuyển từ cuộc sống trần gian của Ðức Kitô sang thời đại hoạt động của các Tông đồ. Nên vai chính trong đoạn văn này là Phêrô và các bạn ông. Họ là những người được Ngài tuyển lựa dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, được tiếp xúc với Chúa Phục sinh trong 40 ngày là thời gian đầy đủ và lý tưởng, được Ngài dạy dỗ cặn kẽ về hoạt động tương lai và cuối cùng được thấy Ngài về trời để biết rõ nay đã đến thời đại của họ. Chính vì vậy mà bài sách Công vụ hôm nay kết thúc bằng câu: "Ðấng vừa bỏ các ông mà siêu thăng, sẽ đến cùng một thể như các ông đã thấy Ngài đi lên trời", để hàm ý nói rằng: các ông phải đi làm việc cho đến ngày Ngài lại đến.

Như vậy chúng ta không còn lý do nào nữa để cứ nhìn lên trời mãi. Hãy đi thi hành mệnh lệnh Chúa để lại mà cả hai bài sách Công vụ lẫn bài Tin Mừng đều tường thuật.

B. Lệnh Chúa Truyền

Bài sách Công vụ cho ta thấy: suốt 40 ngày Chúa Giêsu đã hiện ra cho các môn đệ mà nói về Nước Thiên Chúa. Rồi đang lúc đồng bàn với họ, Ngài truyền cho họ chớ rời xa Giêrusalem... nhưng hãy đợi chịu lấy quyền năng của Thánh Thần... rồi sẽ là chứng tá cho Ngài đến tận cùng trái đất.

Cụ thể, các Tông đồ phải ở lại Giêrusalem chờ lãnh ơn Thánh Thần rồi ra đi làm chứng cho Chúa Giêsu. Lệnh truyền có vẻ đơn sơ, nhưng nhiều ý nghĩa và hậu quả. Sau ngày Chúa thực hiện những hành vi quyết định để cứu thế qua việc chịu chết và sống lại, Giêrusalem trở thành nơi phát xuất ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các Tông đồ ở Giêrusalem để tung họ đi vào thế giới. Họ sẽ phải làm chứng về Chúa Giêsu nhưng nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Thời đại của Giáo hội vì thế là thời đại của Chúa Thánh Thần làm việc với các Tông đồ, mà đối tượng là làm chứng cho Chúa Giêsu.

Thánh Matthêô trong bài Tin Mừng hôm nay không dùng những từ ngữ như thế, nhưng ngài cũng không nói khác Luca. Ngài đã tả Chúa sống lại hiện ra lần cuối cùng ở trên núi. Núi nào, ngài không nói rõ, dường như để chúng ta nhớ lại những lần Ðức Giêsu đã chay tịnh trên núi, đã giảng dạy trên núi và đã biến hình trên núi. Và tất cả những kỷ niệm đó đều có thể tăng thêm ý nghĩa cho việc Người đứng trên núi hôm nay với các môn đệ.

Việc Người được các Tông đồ thờ lạy và tuyên bố được Chúa Cha ban cho mọi quyền trên trời dưới đất, phải chăng không muốn gợi lại câu chuyện Satan cám dỗ Người hãy thờ lạy nó để được tất cả trời đất làm vương quốc? Và hôm nay Người đã sống lại vinh quang mà đứng trên núi, làm sao không khiến Phêrô nhớ lại hôm Người biến hình. Và nếu Người đã có lần ngồi trên núi giảng về Tám mối phúc thật, thì hôm nay Người cũng đang lệnh cho các Tông đồ: hãy ra đi làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ, rửa tội cho người ta nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy dỗ họ giữ mọi lệnh truyền. Và nay, Ta ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế.

Thánh Matthêô đã diễn tả lệnh truyền qua nếp sống của Hội Thánh. Ngài dùng các công thức Rửa tội của Hội Thánh. Ngài nói đến sự hiện diện của Chúa ở với Hội Thánh cho đến tận thế như là bảo chứng việc Chúa phù trợ Hội Thánh nhờ Thánh Thần. Nghĩa là đối với thánh Matthêô, thời đại của Hội Thánh cũng là thời đại của các Tông đồ làm việc với sự cộng tác và nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Và đối tượng sinh hoạt của Hội Thánh cũng là làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Chúa Giêsu qua việc rao giảng Người cho họ và rửa tội cho họ nhân Danh Ba Ngôi.

Do đó với những lời lẽ khác nhau, bài sách Công vụ và bài Tin Mừng hôm nay đều ghi lại lệnh Chúa truyền cho các môn đệ trước khi Người về trời. Họ phải đón nhận Thánh Thần và ra đi làm chứng về Chúa Giêsu để thiên hạ trở thành môn đệ Người. Lệnh truyền này được ban bố sau khi Chúa sống lại để tập họp nhóm Mười Một qua các lần hiện ra để họ tin mầu nhiệm Phục sinh và được dạy dỗ về Nước Trời.

Ngày lễ Chúa Lên Trời, Phụng vụ muốn cho chúng ta thấy nhóm Mười Một ấy đã thực sự trở thành chứng nhân của Chúa Phục sinh. Họ còn phải chờ đón ơn Thánh Thần mới có thể ra đi tuyên chứng. Nhưng việc họ đã được huấn luyện xong nói lên thời gian của Chúa Giêsu ở trần gian đã kết thúc. Người lui khỏi họ mà về trời để thời đại của Hội Thánh khởi sự. Lễ Chúa Lên Trời vì thế có ý nói lên sự kiện mới trong đời sống của Hội Thánh và của chúng ta hơn là một biến cố nữa trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Bởi vì như lời Kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc: chính vì chúng ta mà Người đã sinh ra làm người v.v... Và hôm nay Người về trời cũng là vì chúng ta. Nên chúng ta phải suy nghĩ về cuộc đời của mình nhân việc Người lên trời để ngày lễ hôm nay đạt được kết quả.

C. Thi Hành Lệnh Chúa

Trong 40 ngày chúng ta đã cử hành mầu nhiệm Phục sinh, chúng ta đã suy nghĩ về những lần Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ. Và nhất là chúng ta có thể nói được như Phêrô rằng: chúng tôi là những người được chọn để ăn uống với Người sau khi Người đã sống lại, vì từ ngày đó chúng ta vẫn tham dự Thánh lễ và Tiệc Thánh. Chúng ta phải coi mình như các môn đệ 40 ngày sau khi Người Phục sinh: sẵn sàng lãnh lấy trách nhiệm tiếp nối sứ mạng của Người ở trần gian. Phải ra đi khỏi nơi Bàn tiệc này như núi thánh, để gặp mọi người và làm chứng cho họ về Nước Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu về trời nói lên rằng: thời đại của Hội Thánh và của chúng ta đã khởi đầu. Công cuộc cứu thế từ nay chuyển sang chúng ta.

Dĩ nhiên chúng ta không đơn độc. Còn Thánh Thần nữa. Và phải có Thánh Thần chúng ta mới thi hành được sứ vụ. Từ hôm nay Giáo hội khuyên ta hợp ý cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Và như cộng đoàn các môn đệ xưa, Giáo hội chờ đợi Thánh Thần với Ðức Mẹ. Nay cũng là tháng Năm, tháng hoa của Mẹ chúng ta. Con cái Mẹ hãy sốt sắng vây quanh Người để cầu xin ơn Thánh Thần xuống dồi dào trên Giáo hội và trong các tâm hồn.

Tuy nhiên, những ngày tới không phải chỉ là những ngày cầu nguyện. Phêrô và các Tông đồ đã làm việc đang khi chờ đợi ơn Thánh Thần. Các ngài chọn người thay chỗ Giuđa. Và phải là người có tư cách để làm chứng, tức là không những đã ở trong hàng ngũ môn đệ và biết Chúa Giêsu, nhưng nhất là phải tin Người đã sống lại để đem sức sống mới vào thế gian. Vì sứ mệnh của Giáo Hội tựu trung là đem vào đời sống của con người mầm mống của sự phục sinh sau này, tức là sự sống trường cửu của chính Thiên Chúa.

Sự sống này giờ đây Chúa sẽ ban thêm cho chúng ta trong Thánh lễ này để hôm nay và hằng ngày, chúng ta đem tăng cường cho sự sống của mọi người, khi chúng ta phấn đấu cho đời sống loài người mỗi ngày một đẹp hơn, tốt hơn và hạnh phúc hơn.

 

18. Thầy ở cùng anh em

Mấy năm trước, một giáo phái bên Mỹ, qui tụ được năm bảy chục người gì đó. Ông giáo chủ cũng là người có uy tín nên nói ra câu nào cũng được các đệ tử lắng nghe, dù ông cũng lợi dụng sự cả tin của tín đồ, để thu góp của cải của họ. Năm 2003, ông giáo chủ bảo ngày 20 tháng 12 năm này, các người ở tinh cầu mới sẽ đến vào ban đêm để rước họ đi lên ở trên tinh cầu mới đó. Sống trên tinh cầu đó được so sánh như lên thiên đàng. Các môn đồ đã tin vào lời ông giáo chủ; vào giờ đó ngày đó, ông giáo chủ và môn đồ đều tự sát để được rước lên tinh cầu mới. Ai sợ chết, đều bị ép buộc tự sát... Vài hôm sau, cảnh sát mới phát hiện, dân quanh vùng báo vì mùi hôi thôi xông lên...Chúa nhật hôm nay, Hội thánh cũng nói về việc Chúa Giêsu lên trời trong vinh quang. Tuy nhiên việc lên trời này đáng hân hoan, không phải đáng kinh sợ như câu chuyện chúng ta nghe ở trên. Kính mời suy niệm...

a/. Trước hết, theo bài Tin Mừng hôm nay, Matthêu tường thuật biến cố Chúa về trời cách đặc biệt: Chúa Giêsu hẹn 11 tông đồ và một số môn đệ, đến miền Bắc Galilêa, nước Do Thái, trên một ngọn núi, không rõ là ngọn núi nào... Tại đó, trước khi về trời, Chúa nói mấy lời từ biệt, dặn dò các ông với những lời nói vừa trang trọng, vừa rất thân tình, dạy các ông phải tiếp tục sứ mạng đem giáo lý và ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Đó chính là sứ mạng Chúa Cha đã giao phó cho Ngài; giờ đây Ngài đã hoàn tất trong vinh quang, nên Ngài phải về bên Chúa Cha. Dù vậy Chúa Giêsu cũng hứa hẹn với các ông là không bỏ các ông mồ côi. Ngài về trời để dọn chỗ cho các ông; nhưng trong khi còn ở trần gian, Ngài vẫn ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế...

b/. Sau đây là một vài câu hỏi suy niệm: * Tại sao nói Chúa Giêsu về trời trong vinh quang? Chúng ta phải nghĩ thế nào?

Thưa chính là vì Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha giao phó cách tốt đẹp, về trời trong vinh quang chính là để được Chúa Cha tôn vinh...Chúa Con về trời là về cùng Chúa Cha, về bên Chúa Cha, để được Cha khen thưởng, để được tôn vinh, vì đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng cứu chuộc Cha giao phó. Chúa Cha yêu Chúa Con hết mực, thế mà khi Chúa Con làm tròn sứ mạng Cha giao phó, chẳng lẽ Cha không vui, chẳng lẽ Cha không khen thưởng? Chúng ta thử suy nghĩ: sau khi Chúa Con hoàn tất công việc cứu chuộc cách xuất sắc, nếu Chúa Cha không khen thưởng Chúa Con, đó mới là điều lạ chứ! Vì Chúa Cha tôn vinh Chúa Con, nên Chúa Con về trời để được trao cho toàn quyền trên trời dưới đất (Mt 28, 18), vì thế Chúa mới sai các môn đệ tiếp tục công việc của Chúa...

* Khi Chúa về trời, Ngài có bỏ môn đệ mồ côi không? Chúa về trời, có nghĩa là không còn hiện diện với các môn đệ bằng thể xác vật chất nữa, không còn cùng ăn cùng ngủ, giảng dạy họ hằng ngày, nâng đỡ đời sống vui buồn sướng khổ với họ trực tiếp, như khi Chúa còn sống. Dù vậy lời Chúa nói: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế, đây không phải là câu nói ngược. Hội thánh Chúa Giêsu thiết lập ở trần gian, trên nền tảng các tông đồ luôn vẫn có Chúa hiện diện cách thiêng liêng, qua các bí tích, nhất là qua sự hiện diện đầy ơn sũng của Chúa Thánh Thần...

Một điều khác, Chúa về trời thì có lợi cho các tông đồ (Gn 16, 7): Thầy không đi, thì Thánh Thần sẽ không đến (Gn 16, 7) - Thầy đi để dọn chỗ cho anh em (trong Nước Trời) (Gn 14, 2) - Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy (Gn 14, 3).

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Nghe nói về Nước Trời, quê hương trên trời, ai nghe cũng thích, cũng ham muốn cả; tuy nhiên muốn được lên trời, ta có sẵn sàng sống ở dưới đất này cho đàng hoàng tử tế, để mai sau đáng được lên trên đó không? Nhất là ta có cố gắng sống đúng lời Chúa dạy không?

 

19. Biệt ly hay hội ngộ? – An Phong

Phúc âm hóa thế giới đang diễn tiến ra sao? Đâu là "quyền lực lớn lao Người đã thi thố" (Ep 1:19) trong công cuộc Phúc âm hóa thế giới? Những vấn đề lớn đó sẽ được giải đáp trong biến cố Chúa thăng thiên hôm nay.

LỜI HỨA.

Cuối cùng "mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi cao Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến" (Mt 28:16) để "được cất lên ngay trước mắt các ông và được rước lên trời." (Cv 1:9.11) Thật là ấm cúng và cảm động, mặc dù cảnh ly biệt diễn ra giữa trời. Đức Giêsu "lìa bỏ các ông" (Cv 1:11) để thoát khỏi giới hạn vật chất và hiện diện sâu xa hơn khắp vũ trụ, nhất là trong tâm hồn tín hữu. Nhờ quyền lực Thánh Linh, Đức Giêsu có thể thực hiện lời hứa "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28:20) Sự hiện diện vô cùng sâu xa và đích thực đó như một bảo đảm vững chắc cho công cuộc Phúc âm hóa nhân loại.

Bảo đảm đó có thể tìm thấy nơi quyền lực của Đức Giêsu phục sinh. Quả thực, "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất" (Mt 28:18) sau khi sống lại từ cõi chết. Chính Chúa Cha đã trao quyền bính của Nước Thiên Chúa vào tay Chúa Con. Không một quyền lực nào lớn hơn Chúa Cha để có thể lấn át được quyền bính Chúa Con. Nếu thế, tại sao phải sợ trước những thách đố cuộc đời? Tại sao chưa dấn thân vào công cuộc Phúc âm hóa? Tại sao vẫn coi việc truyền giáo như công trình cá nhân hay lệ thuộc vào chức tước, tài năng, tiền bạc? Công cuộc Phúc âm hóa hoàn toàn lệ thuộc vào một mình Đấng nắm trọn quyền bính vũ trụ mà thôi.

Sau khi đã củng cố niềm tin vào quyền bính độc nhất đó, Đức Giêsu trao sứ mệnh Phúc âm hóa cho các môn đệ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ." (Mt 28:19) "Hãy đi" ra khỏi nhà, khỏi cái tôi ích kỷ. "Hãy đi", chứ đừng nằm lì một chỗ mà hưởng thụ. "Hãy đi" đem Tin Mừng cứu độ đến muôn dân thuộc những nền văn hóa khác nhau. Phúc âm hóa không biên giới: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1:8) Phải mở rộng tầm nhìn mới mong Phúc âm hóa thành công. Tự bản chất, Phúc âm hóa không thể đi đôi với kỳ thị. Không biên giới nào có thể ngăn cản bước chân người rao giảng Tin Mừng. Nói khác, Tin Mừng thúc bách người tín hữu ra đi không ngừng. Kitô hữu là lữ khách suốt đời ra đi đến với mọi người qua con đường Giêsu. Đó là một sứ mệnh cao cả, cao cả như sứ mệnh Thày Chí Thánh.

Sứ mệnh đó do chính Thiên Chúa trực tiếp trao cho tín hữu ngày lãnh bí tích thanh tẩy "nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28:19), chứ không nhân danh bất cứ người nào. Sứ mệnh Kitô hữu có một nguồn gốc vô cùng sâu xa nơi Thiên Chúa và dựa trên "sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời." (Ep 1:19b-20) Chính nhờ sức mạnh đó, họ mới có thể "dạy bảo muôn dân tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em." (Mt 28:20) Sức mạnh đó đang đẩy mạnh công cuộc Phúc âm hóa thế giới, vì Kitô hữu đã "nên một với Người, nhờ được sống lại như Người" (Rm 6:5) vì họ đã "nhận được sức mạnh của Thánh Thần" (Cv 1:8) như một hồng ân "Chúa Cha đã hứa." (Cv 1:4)

Hồng ân vô cùng cao cả đó khiến họ có thể tham gia vào việc thánh hóa tha nhân vì được chia sẻ thừa tác vụ linh mục của Đức Giêsu khi "chịu phép rửa trong Thánh Thần." (Cv 1:5) Việc thánh hóa đạt tới cao điểm trong thánh lễ. Tham gia vào việc thờ phượng là làm cho lời Chúa nhập thể vào cộng đoàn và làm chứng cho Chúa. Nhờ đó, Kitô hữu có quyền thi hành tông vụ để tích cực xây dựng cộng đoàn Dân Chúa, theo nguồn ơn phục vụ là chính Thánh Linh Thiên Chúa đã ban cho toàn thể Giáo Hội. Sức mạnh Thánh Thần không ngừng tăng cường sự hợp tác trong cộng đoàn và làm cho Kitô hữu sống những giá trị Tin Mừng. Chính vì biết lắng nghe Thánh Linh với tâm tình cầu nguyện trong nội tâm và đời sống, Kitô hữu ngày càng có tinh thần phục vụ mạnh mẽ hơn. Càng phục vụ càng chia sẻ vương quyền với Đức Giêsu. Nhờ đó công cuộc Phúc âm hóa muôn dân càng mau hoàn thành.

CHIỀU HƯỚNG PHỤC VỤ HÔM NAY.

Quả thực, phục vụ là con đường đẹp nhất đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận sứ mạng của mình khi nói: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mt 20:28; Mc 9:35; Ga 13:4-15; Rm 5:6-21; Is 53:10-11) Bước theo Thầy Chí Thánh, Mẹ Têrêsa Calcutta đã hành động "như một mẫu mực Phúc âm hóa, công bố Tin Mừng bằng việc làm hơn là lời nói." Đó là lời Đức TGM Henry Sebastian D'Souza thuộc giáo phận Calcutta công bố khi hân hoan nhắc lại thông điệp Instrumentum Laboris. Mẹ Têrêsa đặt nơi mỗi cửa nhà nguyện của Mẹ những chữ "tôi khát" Đức Giêsu. Đây chính là những chữ ngày xưa "đã gợi hứng cho mẹ rời bỏ Loreto êm ấm mà liều mạng dấn thân vào những đường phố bất ổn ở Calcutta." Công cuộc dấn thân cho người nghèo đã đáp ứng cho cơn khát này (Zenit 21/04/ 02). Không thể giả điếc làm ngơ trước cơn gào thét rát cổ bỏng họng của các Giáo Hội Á Châu. Bao nhiêu dân cư trên lục địa mênh mông đó đang gào thét trước những cơn đói khát công lý kinh niên.

Làm giảm cơn đói khát đó, Giáo Hội sẽ hoàn thành được sứ mệnh Phúc âm hóa lục địa bao la này. Thực vậy, Đức TGM Calcutta nói tiếp: "Phúc âm hóa có thể mạnh lên nhờ chứng từ xã hội, không chỉ dưới hình thức bác ái như Mẹ Têrêsa, nhưng cũng nhờ những phương pháp phân tích quan trọng. Giáo Hội Á châu phải hành động để chống nạn mù chữ, yểm trợ quyền phụ nữ, và bảo đảm nền y tế tốt đẹp hơn." (Zenit 21/4/02) Đó là những nẻo đường Phúc âm hóa rất thực tế.

Chính Đức Giêsu đã không ra ngoài con đường ấy khi công bố Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Noi gương Thày Chí Thánh, Giáo Hội đang nỗ lực xây dựng "nền văn minh tình thương" như con đường Phúc âm hóa nhân loại. Nhưng làm sao có thể hoàn thành công cuộc lớn lao đó, nếu các Giáo Hội đàn anh Âu Mỹ cứ ngủ yên trước những gào thét công lý và hòa bình của các Giáo Hội đàn em nghèo đói? Bởi thế, Đức TGM Calcutta "kêu gọi các Giáo Hội đàn anh hãy đề cao trách nhiệm của mình tại Á châu. Họ cần dấn thân vào việc kiểm soát thương mại để bảo vệ những nước yếu kém; đề cao khía cạnh nhân bản trong thương mại, và xóa bỏ hay giảm thiểu những món nợ làm cản trở bước tiến nhiều quốc gia Á Châu." (Zenit 21/4/02) Đó là một chiều kích lớn trong nỗ lực Phúc âm hóa nhân loại.

Mặt khác, khi xâm nhập một lục địa đa văn hóa và tôn giáo như Á Châu, Giáo Hội chắc chắn gặp nhiều chống đối từ các tôn giáo lớn như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Do thái giáo. Đó là những thách đố lớn lao cho công cuộc Phúc âm hóa. Lớp áo Tây Phương đã che mất nét hấp dẫn Tin Mừng trước cái nhìn của các dân tộc Á Châu. "Chúng ta chỉ có thể trao cho Á Châu một sứ điệp khi các anh em Á Châu thấy những dấu chỉ Thiên Chúa hiện thân thực sự nơi con người chúng ta," (TGM Daniel Acharuparambil:Zenit 21/4/02) chứ không phải qua lớp áo Tây Phương xa lạ. Chỉ khi nào tìm thấy chính mình nơi Tin Mừng, người Á Châu mới đón nhận Chân lý như một sức mạnh giải thoát khỏi những cơ chế bất công dưới mọi hình thức.

 

20. Quê hương chúng ta ở trên trời – An Phong

Phục Sinh và Lên Trời là hai từ ngữ diễn tả một thực tại: Đức Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những người chết và được vinh quang bên hữu Thiên Chúa Cha. Sau khi sống lại, Ngài đã Lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha.

Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời tức là cử hành "Sự hiện diện theo cách thế mới" của Chúa Giêsu. Đức Giêsu về trời nhưng Ngài không bỏ rơi các môn đệ. Ngài vẫn hiện diện qua Thánh Thần, qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Ngài và qua biết bao tâm hồn thành tâm thiện ý sống Đức Tin giữa cuộc đời này: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".

Người cất nhắc lên cõi trời muôn thuở, xác phàm nhân thân cát bụi yếu hèn". Vì "quê hương chúng ta ở trên trời" (Pl 3,20) nên "anh em hãy tìm kiếm những gì trên cao" nơi Đức Giêsu cư ngụ (Cl 3,1).

Con người vốn "đầu đội trời, chân đạp đất", con người là "nhân linh ư vạn vật". Niềm xác tín chúng ta "từ trên cao" sẽ làm cho chúng ta trước hết lo tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng điều đó không có nghĩa là trốn tránh trần gian này. Trái lại, chúng ta phải xây dựng một nước trời tại thế đã được khai mở cùng với sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu; và nước trời đó đang chờ ngày nên viên mãn. "Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự". Đừng để mình nô lệ cho vật chất, tiền bạc, danh vọng, thành đạt, mà quên mục tiêu tối hậu của cuộc đời mình là "quê hương chúng ta ở trên trời".

Phải chăng tôi nhận ra chúa hiện diện trong cuộc đời cùng với tôi; và tôi đang đi tìm "quê hương chúng ta ở trên trời"?

Lạy Chúa Giêsu,

Cũng như các môn đệ ngày xưa

chúng con tiếc nuối, vì:

không thấy Chúa đi lại,

không nghe thấy Chúa nói.

không thấy bàn tay Chúa can thiệp.

Chúa vắng mặt

và bao lần

chúng con than trách Chúa như bỏ rơi chúng con

trong những khó khăn của cuộc đời.

Nhưng niềm tin cho chúng con biết

Chúa vẫn đang hiện diện ở đây

trong tấm bánh nhỏ này,

trong tâm hồn của con,

và trong cuộc đời của con.

Lạy Chúa Giêsu

xin củng cố niềm tin đó nơi chúng con

để chúng con có thể nhận ra Chúa vẫn đang hiện diện

hiện diện một cách khác

trong từng bước chân của cuộc đời chúng con".

 

21. Suy niệm của Lm. Dom. Trần Quang Hiền SDB

Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn... nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.

Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta, đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi.... để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.

Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.

 

22. Khai mở trang sử mới của Giáo hội

(Suy niệm của Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).

3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

 

23. Lòng hướng về trời cao - Huệ Minh

Ngày hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha sau khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Chúa Giêsu hồi hương trong vinh quang phục sinh và được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa.

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Trang Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi.... để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.

Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn... nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.

Người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Chúa Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10, 22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.

Mừng Lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay, Chúa muốn nhắn gởi cho chúng ta một sứ điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.

 

24. Chúa trong cuộc sống

Anh chị em thân mến.

Nói đến tình bạn tri kỷ thâm giao, tôi chợt nhớ đến câu chuyện Lưu Bình và Dương Lễ. Đôi bạn tri kỷ này đã sống chết có nhau, cho dù phải trải qua những sóng gió của cuộc đời.

Lưu Bình là một chàng trai giàu có và phong lưu, trong một hoàn cảnh bất ngờ, anh gặp một chàng thư sinh nghèo khó nhưng hiếu học là Dương Lễ. Hai người kết nghĩa huynh đệ. Dương Lễ hiếu học nên đến kỳ thi anh đạt được công danh. Còn Lưu Bình vì có tiền của nhiều nên anh không chăm học, đến kỳ thi, anh đi không rồi lại trở về không. Anh cũng không buồn sầu lo lắng gì, cứ mãi lo ăn chơi. Dương lễ đau xót nhưng khuyên bạn không được. Việc gì đến rồi cũng phải đến.

Một hôm Lưu Bình đến nhà Dương Lễ xin tá túc, vì nhớ đến tình bạn tri kỷ mà hai người đã từng thề ước với nhau, đồng thời Lưu Bình còn nhớ đến những gì mà mình đã từng cưu mang nên Dương Lễ mới được như ngày hôm nay. Nhưng nào ngờ, khi vừa nhìn thấy người bạn năm xưa, Dương Lễ trở mặt không nhìn, còn nói những lời chê bai thậm tệ. Lưu Bình thất vọng bỏ đi, lòng buồn cho thế thái nhân tình. Trong lúc thất vọng, anh gặp được một người an ủi và lo lắng. Từ đó anh cố gắng học hành để đạt cho được ý nguyện, trước tiên là để trả thù cho thế thái nhân tình, kế đến là để làm lại cuộc đời. Ngày vinh quang đã đến, trời không phụ lòng người. Anh vội trở về tìm người đã giúp anh làm nên danh phận, nhưng không thấy, anh đến nhà người bạn mà anh cho là bất nhân, để tìm cách trả lại mối hận năm xưa. Nhưng lại một bất ngờ nữa, người đã từng giúp anh trong những tháng ngày gian khổ, giờ đây lại đang ở bên cạnh người mà anh cho là bất nhân. Anh chợt hiểu ra, vì lo lắng yêu thương, nên người bạn tri kỷ đã dùng khổ nhục kế và cho người vợ thân yêu nhất của mình giúp đỡ anh lập được công danh. Đôi bạn càng hiểu nhau càng thương mến nhau hơn.

Chỉ có tình yêu thương chân thành, mới có thể làm cho tình bạn cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể như là ở kề cận để lo lắng cho nhau.

Chúa Giêsu chuẩn bị mọi sự thật chu đáo trước khi Ngài rời xa các môn đệ. Ngài truyền lệnh cho các ông thi hành "các con hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần", không phải chỉ có thế, Ngài còn hứa một điều hết sức quan trọng: "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Các môn đệ không còn buồn sầu lo lắng gì nữa, mà các ông thi hành mệnh lệnh đã được trao cho. Các ông thi hành với một con tim cháy bừng lửa yêu thương, với một niềm tin vững mạnh là luôn có người mình yêu thương ở bên cạnh.

Mỗi người trong chúng ta đang sống trong tình yêu thương, mà Chúa Giêsu cũng chuẩn bị chu đáo cho chúng ta trong mọi việc và Ngài cũng hứa như các tông đồ khi xưa: "Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế". Nhưng nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta sống dường như không có Chúa bên cạnh, chúng ta mãi đi tìm những thú vui cho riêng mình mà để ngoài tai tất cả mọi lời nói, lời khuyên can. Những gương tốt ngay trước mắt, chúng ta cũng không cần nhìn đến. Những khi sa cơ thất thế, chúng ta quay qua phiền trách tất cả mọi người, phiền trách cả Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta ngỡ rằng Ngài ở tận trên trời xa xôi nên không nhìn thấy cũng không biết những gì chúng ta đã và đang làm.

Nếu chúng biết thức tỉnh như anh chàng Lưu Bình, thì cơ may vẫn còn đến với chúng ta, khi đó chúng ta đã nhận ra ơn Chúa qua những người chung quanh, qua những bàn tay giúp đỡ chúng ta, qua những lời nói chân thành, có khi còn qua những thất bại trong cuộc đời. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, thì bất cứ giờ phút nào Ngài vẫn luôn ở bên chúng ta như Ngài đã hứa. Nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, biết đến với mọi người để đem mọi người về làm môn đệ của Chúa, một môn đệ của Tình Yêu Thương, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta được biết nhận ra Chúa trong cuộc sống hằng ngày, để biết luôn lắng nghe và vâng phục Thánh Ý Chúa.

 

25. Ái mộ những sự trên trời

(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)

Vừa xong giờ kinh gia đình tối thứ tư, với chuỗi hạt mân côi Năm Sự Mừng, Cu Út lớp 3, hỏi Mẹ:

- “Mẹ ơi, “ái mộ những sự trên trời” là gì thế, Mẹ”.

Mẹ vui mừng trả lời con:

- “Ái là Yêu, Mộ là mến… là yêu mến những sự trên trời đấy con à”

- “Những sự trên trời là sự gì?”

Mẹ của Cu Út lớ ngớ, không biết phải trả lời con thế nào. Mẹ nhớ ra: “Thứ hai thì gẩm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Mẹ nói:

- “Những sự trên trời là những thứ mà Chúa Giêsu Lên Trời chuẩn bị cho mình đó con à.

- “Chúa Lên Trời là lên làm sao? Chuẩn bị cho mình thứ gì?”

- “Là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, chuẩn bị cho mình về với Chúa Cha…”

Cu Út không bằng lòng:

- “Con không hiểu gì cả. Về với Chúa Cha? Về đâu”

………..

Một em bé không cố ý làm bài kiểm tra giáo lý mẹ mình, nhưng quả thật, để trả lời cho bé hiểu về việc Chúa Giêsu Lên Trời và chuẩn bị cho chúng ta về với Chúa Cha thì không dễ dàng chút nào. Mẹ có thể hiểu được cả một cuộc đời mầu nhiệm của Chúa Giêsu với niềm tin và sự trải nghiệm trong hành trình đức tin của mình, nhưng để giải thích cho một tâm hồn non nớt thì không biết phải đi từ đâu…

Những sự ở trên trời, chỉ có người ở trên trời mới biết. Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.

Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến “ Người được cất lên Ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galile, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Việc “về với Cha”, Chúa Giêsu đã nói trước tới biến cố nầy với bà Maria Madalena sau khi sống lại: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22).

Như thế, giải thích của người Mẹ trên đây với cậu con trai út chắc là không sai lạc giáo lý: Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người Mẹ nầy cũng đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của “những sự dưới đất”đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.

Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng! Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ. Tưởng là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo, hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc “phải làm”. Ngài không soi sáng cho chúng ta việc “thích làm”. Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh “cúi xin Chúa sáng soi” trước những công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho “những sự dưới đất” được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về “những sự trên trời”, “ái mộ những sự trên trời”, chắc ăn hơn.

Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,18-20)

Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất. Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn “dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay. Có thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.

Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.

Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. Amen.

 

26. Ý nghĩa Thăng Thiên

5g17' sáng ngày 19.04 vừa qua, mọi người đã chứng kiến một bước tiến mới của ngành viễn thông Việt Nam khi vệ tinh đầu tiên của Việt Nam bay vào không gian. Từ độ cao 35.768 km so với mặt đất, vệ tinh Vinasat-1 sẽ trở thành người bạn đồng hành không mệt mỏi trong suốt vòng đời 15-20 năm của nó nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân Việt Nam.

Hai tuần sau đó, tức là hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành thánh lễ mừng kính biến cố thăng thiên của Đức Giêsu, biến cố đánh dấu lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu với các Tông đồ; để rồi từ đó trở đi, Người đồng hành cách thiêng liêng với Giáo Hội trong hành trình hướng về quê trời. Từ sự kiện thời sự vừa xảy ra, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về biến cố thăng thiên của Đức Giêsu trong đời sống chúng ta.

Vệ tinh Vinasat-1 khi bay vào không gian, nó được định vị tại một khoảng không gian dành riêng cho nó, quỹ đạo 132 độ Đông. Còn khi nói Đức Giêsu lên trời, chúng ta phải hiểu thế nào? Có phải Người đi đến một nơi có thể định vị được trong không gian bao la nầy không? "Trời" của Kinh Thánh không nhất thiết đồng nghĩa với "trời" của con người. Khi nói Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Người bay lên khoảng không gian trên đầu ta. Trời là nơi Thiên Chúa ngự, mà Thiên Chúa không lệ thuộc vào thế giới vật chất như con người, nên "nơi" của Ngài không lệ thuộc không gian và thời gian, không xác định cụ thể một nơi có thể đo đạc và nhìn thấy được. Do đó, khi nói Đức Giêsu lên trời, ta không nên hiểu Người bay lên một nơi nào đó trên tầng mây xanh; trái lại, phải hiểu rằng Người về cùng Chúa Cha và Chúa Cha "tôn vinh Người lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai" (Ep 1,21).

Vệ tinh Vinasat-1 sẽ phủ sóng toàn cõi Việt Nam và một số nước khác trong vùng, giúp cho việc truyền tải thông tin dễ dàng hơn. Nó sẽ là công cụ hữu dụng cho ngành viễn thông Việt Nam. Còn Đức Giêsu lên trời đem lại lợi ích gì cho con người nói chung, cách riêng là những Kitô hữu chúng ta? Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Người sẽ mãi mãi rời xa chúng ta. Ngược lại, Người sẽ ở gần chúng ta hơn bao giờ hết. Nếu như trong thân xác thể lý trước đây, Người chỉ hiện diện tại một nơi trong cùng một thời gian mà thôi; thì giờ đây, với thân xác phục sinh không còn lệ thuộc thời gian và không gian, Người hiện diện với mọi người và bên mỗi người để nâng đỡ, ủi an, dìu dắt tất cả đến với Chúa Cha. Không những thế, Thánh Thần của Người sẽ hoạt động mạnh mẽ để tăng sức cho con người yếu đuối có đủ khả năng tiến về quê trời. Đức Giêsu lên trời vừa là bảo chứng cho cuộc sống vinh quang thiên quốc, vừa phát sinh nguồn lực dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.

Vệ tinh Vinasat-1 đã đi vào không gian nhưng con người phải biết cách sử dụng và khai thác đúng cách thì nó mới đem lại lợi ích cho con người. Đức Giêsu lên trời cũng sẽ chỉ là một biến cố lịch sử, chẳng có ích gì nếu chúng ta không nhận biết được ý nghĩa của sự Thăng Thiên, và sống tích cực với ý nghĩa ấy. Mỗi Kitô hữu, qua kho tàng đức tin của Giáo Hội, nhận ra rằng Đức Kitô Phục Sinh luôn hiện diện bên mình, trong đời sống mình; và mình có nhiệm vụ làm sáng lên hình ảnh Người bằng cuộc sống giữa lòng xã hội. Đồng thời, theo lệnh truyền của Đức Kitô, mỗi người cũng được mời gọi làm cho mọi người nhận biết sự hiện diện của Người bằng lời nói và bằng chính hình ảnh sống động của Đức Kitô nơi bản thân mình. Có như thế, "vùng phủ sóng" của Đức Kitô Phục Sinh mới rộng lan trong lòng thế giới và trở nên hữu hiệu cho hành trình tiến về sự sống đời đời của con người.

Mừng Đức Giêsu lên trời, chúng ta hướng lòng lên cao, chiêm ngưỡng Đức Giêsu là mẫu mực cho đời sống mình, rồi trở về cuộc sống thường nhật, ra sức bắt chước Người trong cách ăn, nết ở; để "tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Nhờ đó, sức sống của Đức Kitô phục sinh ở mãi trong ta và rồi lan rộng cho mọi người bên ta.

 

27. Người “Giời” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Chúng ta vẫn thường nói với nhau: “người Giời”, nghĩa là người chẳng biết những sự gì dưới đất. Một người dường như ở cõi trên chứ không phải phàm nhân. Đó là người vô tư, vô lo thật đáng bị khiển trách.

Trong cuộc thi Hoa hậu Đại Dương vừa diễn ra tối 25/5 tại Bình Thuận, thí sinh Phan Thị Thu Phương (SBD 18) đã phát biểu: "Khi biết về việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương tại vùng biển Việt Nam mình, em cảm thấy rất là bức xúc, nó xâm phạm về lãnh thổ, về vùng kinh tế của đất nước Việt Nam mình. Em muốn người Trung Quốc hãy mở giàn khoan đó ra, và để cho đất nước Việt Nam của em ngày càng xinh đẹp hơn".

Trước câu trả lời thiếu sự hiểu biết khi muốn người Trung Quốc mở giàn khoan để đất nước Việt Nam xinh đẹp hơn của thí sinh Thu Phương đã khiến khán giả có mặt trực tiếp xem cuộc thi không khỏi bật cười. Và câu ứng xử này của thí sinh Hoa hậu Đại Dương đã nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng xã hội.

Nhiều người đã tỏ ra bức xúc trước sự việc đang là tâm điểm của Quốc gia, được đưa tin trên hàng trăm phương tiện truyền thông mỗi ngày mà thí sinh Hoa hậu Đại Dương lại tỏ ra kém hiểu biết. Đúng là người “Giời”!

Cuộc đời người tín hữu luôn ước ao những sự trên trời nhưng không bao giờ quên bổn phận với gia đình, với quê hương đất nước. Người tín hữu càng không thể bàng quan trước những thăng trầm của cuộc đời, trước những vận mệnh của quê hương. Cuộc đời người ky-tô phải biết dấn thân cho dân tộc khi cần tựa như thánh Gióng biết đứng lên khi đất nước lâm nguy.

Truyện xưa kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.

Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".

Sứ giả trình với nhà vua và được ưng thuận.

Sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.

Khi giặc Ân đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Thánh Gióng về nhà dập đầu lạy mẹ, tạ ơn công nuôi dưỡng sinh thành rồi lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời…

Có một người đã về Trời thực sự. Ngài từ Trời mà đến và sau khi hoàn tất sứ mạng Ngài đã trở về Trời trong vinh quang. Sự kiện Chúa Giêsu về Trời hôm nay không phải là một truyền thuyết mà là một sự kiện lịch sử. Vì Chúa Giêsu là người thật. Chính Ngài đã trải qua những thăng trầm bể dâu đời người. Ngài đã đi qua kiếp người với gió mưa, nắng bụi... Ngài thực sự là Thiên Chúa xuống trần gian để cứu chúng sinh. Qua cái chết Ngài đã đánh bại tử thần để mở cửa trời đưa con người về với Thiên Chúa. Và sau khi kết thúc cuộc đời trần thế trong việc chu toàn sứ mạng của mình, Ngài đã được đưa về Trời trước sự chứng kiến của các môn đệ, và trong sự nuối tiếc vì kẻ ở người đi nơi các môn đệ.

Hôm nay chúng ta mừng Chúa về Trời. Mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa. Mừng Chúa đã hoàn tất cuộc đời trần thế của mình trong vâng phục thánh ý Chúa Cha và thi hành thánh ý trọn vẹn. Sứ vụ của Chúa đến trần gian giúp con người đánh bại tử thần, và mang lại quyền làm con cái Thiên Chúa cho con người. Sự kiện Chúa về Trời cũng mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng sau những bể dâu cuộc đời chúng ta cũng có một bến bờ yên bình hạnh phúc là quê Cha trên Trời. Chúa về Trời cho chúng ta quyền hy vọng sẽ được lên trời với Chúa nếu biết đi trên con đường của Chúa. Con đường của hy sinh phục vụ. Con đường dấn thân cứu đời. Con đường sống vì lợi ích của tha nhân.

Cuộc đời của mỗi con người đều gắn với một sứ mạng phải hoàn thành, một công việc để thi hành. Đó chính là bổn phận mà Chúa đã trao cho mỗi người chúng ta khi bước vào trần thế. Xin cho chúng ta luôn biết kiên nhẫn chu toàn bổn phận Chúa trao. Xin cho chúng ta luôn theo gương Chúa Giêsu tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Xin đừng vì những đam mê trần thế mà bỏ bê bổn phận của người con với Cha trên trời. Amen.

 

28. Sứ mệnh

Trong lá thư của cha tuyên uý Vania gởi cho cha mẹ trước khi gục ngã dưới làn mưa đạn đại để như sau: "Cha mẹ yêu dấu Thiên Chúa đã vạch chỉ cho con con đường con phải theo Ngài. Con không chắc là có thể còn sống để trở về với cha mẹ nữa, con không cảm thấy lo sợ vì có Chúa ở cùng con. Người ta cấm cản không cho con rao giảng về Chúa, và con phải trải qua nhiều khó khăn thử thách, thế nhưng con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ, mà tiếp tục rao giảng Tin Mừng và tình yêu Chúa Kitô, bởi vì đó là điều Thánh Linh đã phán bảo con; Hôm mùng 10 tháng này, khi con rao giảng một binh sĩ đã tin Chúa".

Qua đời sống chứng nhân của cha Viana, rao giảng là một công việc rất cần thiết và hệ trọng, một công việc phải được xuất phát từ một con tim quảng đại, nhiệt thành trong tình yêu Chúa. Để được như thế thì lời Đức Giêsu nói với các môn đệ trước khi Ngài về trời: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; giảng dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con", không phải là một lời nói thông thường mà như một lời trăn trối thiêng liêng, một sứ mệnh vô cùng cao quý, vô cùng to lớn và vô cùng nặng nề.

Công cuộc truyền giáo của Người, công việc rao giảng để dẫn đường chỉ lối cho mọi người về với Chúa Cha vẫn chưa hoàn tất. Còn rất nhiều người đang sống trong u mê, họ vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng của Chúa. Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát. Đó không chỉ là sứ mạng của các tông đồ, của các giám mục, linh mục ngày nay, mà là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội của tất cả mọi người.

Qua mọi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục sứ mạng đó, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, những khi Giáo Hội bị bách hại dã man, các môn đệ của Chúa vẫn hiên ngang rao giảng, thực hiện sứ mạng mà Chúa Kitô đã giao phó. Giống cha Viana, họ cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì Nước Trời, để minh chứng cho niềm tin của họ vào Đức Kitô.

Ngày lễ Chúa Lên Trời phụng vụ muốn cho chúng ta thấy nhóm mười một đã thực sự trưởng thành, và trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Nhưng họ còn phải chờ đón ơn Thánh Thần mới có thể ra đi tuyên chứng. Vì thế, lễ Chúa Lên Trời muốn nói lên sự kiện mới trong cuộc sống của Hội Thánh và của chúng ta hơn là một biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được đổi mới và lãnh nhận sứ mạng truyền giáo của Đức Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy. Người truyền giáo là người dám loan truyền sự hiện diện của Chúa giữa nhân loại, nghĩa là cho mọi người nhìn thấy Chúa qua đời sống chứng nhân thường ngày. Thử hỏi, Giáo Hội Việt Nam, Khi Tin Mừng mới được gieo vãi vào Việt Nam, được phát triển mạnh mẽ, rồi qua bao triều bạo Chúa bắt bớ và giết chóc nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Những nhân chứng đó chính là hình ảnh Chúa Kitô hiện diện qua các thánh tử đạo. Còn ngày nay, trong một thế giới vô thần lại cần rất nhiều chứng nhân hơn nữa, cần những nhân chứng biết hy sinh đem Lời Chúa đến như dòng nước ấm rửa tan sự băng giá còn khô cứng trong lòng của họ. Nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi người chúng ta hãy kiên trì làm chứng bằng chính đời sống của mình.

Nhu cầu được biết Tin Mừng là khát vọng của nhiều người còn chưa biết Chúa, họ vẫn còn đang mò mẫm tìm đường. Vì thế "lời trăn trối" của Đức Giêsu hôm nay cần thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi mỗi người hãy cấp bách đi gieo Lời Chúa, gieo Tin Mừng trên những cách đồng xa, những nơi mà hạt giống Tin Mừng chưa được gieo vãi, vì ở đó đang đói khát Tin Mừng, đang mong được thoát khỏi cảnh nô lệ tội lỗi của ma quỷ và của sự chết. Khát vọng đó là mảnh đất tươi tốt thúc bách chúng ta mau mắn thi hành sứ mạng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho thế giới này ngày cáng có nhiều người trẻ dám dấn thân, phục vụ trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen.

 

29. Ước mơ về trời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho kiếp người chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đã và đang trao phó cho giáo hội, cho mỗi người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành Thánh Giá của hồng ân cứu độ.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy mời gọi họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn Cây Dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống yêu thương và phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, luôn kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em,

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Xin Chúa Giêsu vinh thắng về trời giúp chúng ta luôn ước ao những sự trên trời và tìm kiếm Nước Chúa trong cuộc sống hôm nay. Amen.

 

30. Lễ Thăng Thiên - Damiano

Trích đoạn Tin Mừng của lễ Chúa Lên Trời hôm nay là đoạn kết thúc Tin Mừng thánh Matthêu. Khung cảnh là miền Galilê, một miền dân ngoại. Chúa Giêsu dặn các ông đến đây để gặp gỡ các ông lần cuối và căn dặn những điều cần thiết trước khi rời bỏ thế gian mà về Trời. Trong những lời nói cuối cùng nầy, có hai lời dặn rất quan trọng:

“Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Lời dặn của Chúa Giêsu cho thấy, Nước Chúa không chỉ dành riêng cho dân Do thái mà cho cả muôn dân; cũng vì thế mà ngày đem các ông đến Galilê là miền dân ngoại.

Theo lời Chúa hôm nay thì tất cả những ai chịu phép rửa đều là môn đệ của Chúa. Và muốn trở thành môn đệ thì phải có hai đều kiện: phải chịu phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi mà còn phải tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Điều kiện thứ nhất thì tương đối dễ vì là kitô hữu thì ai cũng được chịu phép rửa; nhưng điều kiện thứ hai thì ít ai giữ cho trọn hảo. Và người ta cứ tưởng lầm rằng hễ chịu phép rửa đã là người kitô hữu rồi, còn điều kiện thứ hai: sống lời Chúa thì thường được kể như là điều kiện phụ trội, có hay không cũng được. Theo Lời Chúa thì đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Cả hai điều kiện điều cần thiết; và nhiều khi điều kiện thứ hai còn cần hơn cả điều kiện thứ nhất, vì có những người tuy chưa được rửa tội nhưng sống tốt lành hợp với Lời Chúa thì vẫn được cứu rỗi.

Vì thế thánh Matthêu dùng cụm từ “trở thành môn đệ” để nói lên rằng người môn đệ là người sống theo lời dạy của Thầy mình, vì đó là điều kiện để trở thành môn đệ Chúa.

Trong lời dặn thứ hai: Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế, Chúa bảo đảm cho các tông đồ cũng như cho Hội Thánh sự hiện diện hằng ngày của Chúa trong công việc rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Người tông đồ không cô đơn vì luôn có Chúa ở cùng. Trước mọi khó khăn và thử thách, người tông đồ ý thức về sự hiện diện của Chúa nên tâm hồn vẫn bình an, vẫn can đảm và kiên trì.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã giao cho các Tông Đồ và Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở thế gian. Là môn đệ của Chúa Kitô, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa giao cho nhiệm vụ mở mang Nước Chúa, rao giảng Tin Mừng bằng chính cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống đầy chất Phúc Âm. Thánh Phaolô đã ý thức được nhiện vụ đó và đã kêu lên: khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.

Lời nói cuối cùng.

Chuyện xảy ra trong một bệnh viện ở New York.

Một thanh niên được đưa lên bàn mổ. Đội ngủ phẩu thuật đã sẵn sàng, vị bác sĩ giải phẩu nói với bệnh nhân: Tôi tưởng đã đến lúc phải nói thật với em: Cái lưỡi của em bị ung thư, và để cứu sống em, chúng tôi phải cắt cái lưỡi của em. Nếu em cần nói điều gì lần cuối thì em nói đi vì sau khi mất lưỡi, em không bao giờ nói được nữa! Người thanh niên tái mặt, những bắp thịt ở môi em rung lên vì sợ hãi. Nhưng sau một phút im lặng, vẻ mặt người bệnh bổng từ từ bình tĩnh lại; cuối cùng, vân dụng tất cả sức lực còn lại, anh nhìn mọi người đứng chung quanh một lượt, rồi nhìn lên trời và thốt lên: Xin chúc tụng danh Chúa Giêsu! Đó là lời quan trọng nhất mà anh thốt ra lần cuối!

Lời nói cuối cùng của bệnh nhân nầy đã làm bừng tỉnh đức tin của tất cả những người đứng chung quanh giường bệnh. Giường bệnh cũng là nơi truyền giáo. Nhà tù cũng là nơi truyền giáo. Cuộc sống đời thường cũng là nơi truyền giáo.

 

31. Suy niệm của Lm Phêrô Trần Đình

Lễ Chúa Giêsu lên trời nói với chúng ta thật nhiều điều.

1/ Trước tiên, con người chỉ có thể sống khi cuộc sống có ý nghĩa đối với họ. Họ phải biết sống để làm gì?.Chết rồi thì đi đâu?. Con đường chúng ta đang đi sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nào.

Người ta thống kê rằng cứ mỗi ngày trên thế giới có 5000 người trẻ tự vẫn. Đó là những người có cuộc sống đầy đủ, không cần phải phấn đấu, nhưng họ tìm đến cái chết (như lái xe với tốc độ cao…) vì không biết sống để làm gì, không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.

Lễ Chúa lên trời dạy chúng ta rằng cuộc sống có một ý nghĩa, đường ta đi sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là về với Chúa Cha. Chúa Cha là quê hương của Đức Giêsu, là nơi Người phát xuất và cũng là nơi Người trở về. Chúa Giêsu về trời trước rồi Người sẽ trở lại đón chúng ta, để Người ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó.

2/ Chúa lên trời không phải để xa cách chúng ta, cho bằng là để gần kề chúng ta hơn mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Khi còn sống ở dương gian, Chúa Giêsu bị hạn chế về mặt không gian và thời gian. Nếu Chúa ở chỗ này, thì Người không thể ở chỗ kia. Còn bây giờ khi đã lên trời, Chúa không còn bị giới hạn về mặt không gian và thời gian nữa.

3/ Chúa lên trời để ngự bên hữu Chúa Cha, nghĩa là Người sẽ trở thành Đấng cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Kinh tiền tụng ngày lễ).

4/ Chúa lên trời để Giáo Hội trưởng thành hơn. Giờ đây, Giáo Hội sẽ tiếp tục công cuộc rao giảng của Người: “Anh em hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Thời kỳ của Giáo Hội bắt đầu từ đây.

Các môn đệ của Chúa rất ý thức điều đó. Họ đã tuân lệnh Chúa “ra đi rao giảng khắp nơi”, làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa, nghĩa là tin vào Chúa.

5/ Chúa lên trời còn để dọn chỗ cho chúng ta như chính Người đã nói. Mỗi lần sau truyền phép chúng ta đều tuyên xưng: “Trong vinh quang mai Người sẽ đến, đón chúng con lên trời về với Chúa Cha”. Người kitô hữu ý thức rằng quê hương đích thực của chúng ta là ở với Chúa trên trời. Nhưng việc chúng ta có được vào chốn đó hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta hôm nay.

Để kết thúc tôi xin kể một câu chuyện. Có một bà chủ nhà kia rất mực giàu có. Bà nuôi một gia nhân để dọn dẹp nhà cửa cũng như chăm sóc vườn hoa. Người này rất chăm chỉ lao động, nhưng bà chủ ác độc la mắng anh ta đủ điều, dầu vậy anh ta vẫn phải ngậm tăm

Thế rồi bà chủ đã chết và được quỉ đưa ngay xuống địa ngục, chốn khóc lóc và nghiến răng. Quỉ chỉ cho bà một túp lều rách nát và bảo rằng đó sẽ là nơi cư ngụ của bà từ đây. Bà chẳng còn biết làm sao nữa, cho bằng răm rắp tuân lệnh.

Một thời gian sau, người nô bộc của bà cũng chết và được thiên thần rước ngay lên trời, chỉ cho anh ta một ngôi nhà sang trọng và nói đó sẽ là nơi cư ngụ vĩnh viễn của anh.

Từ đàng xa, bà chủ thấy anh và lập tức nhận ra đó là người nô bộc của mình. Bà không vui khi thấy anh này được ở trong ngôi nhà xinh xắn. Bà đề nghị đổi túp lều của mình để lấy ngôi nhà sang trọng kia, nhưng thiên thần bảo: “Không được đâu bà. Sở dĩ người kia được ở trong ngôi nhà xinh xắn sang trọng, là bởi vì từ trần gian anh ta không ngừng gởi cho chúng tôi những vật liệu quí giá. Chúng tôi chỉ có việc xây nhà từ những vật liệu anh ta gởi lên mà thôi’. Còn bà, bà chỉ gởi cho chúng tôi những vật liệu tồi tàn và ma quỉ cũng đã dùng chính những vật liệu bà đã gởi xuống, để dựng cho bà một cái chòi rách nát mà thôi”. Bà đừng ghen tị mất công. Số phận của mỗi người tuỳ thuộc khi còn sống người ta đã gởi những vật liệu nào về đời sau.

 

32. Hãy đi, vì có Thầy ở cùng!

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Có một vấn nạn không dễ gì lý giải: địa điểm Chúa lên trời thực sự ở đâu, Ga-li-lê-a hay Giê-ru-sa-lem, hai địa điểm cách nhau tới vài trăm cây số? Tác giả Luca khảng định rất rõ ràng: tại Giê-ru-sa-lem, địa điểm đó gần Bê-ta-ni-a (Lc 24, 47.50; Cv 1, 4-12), trong khi Mát-thêu lại xác định: một ngọn núi miền Ga-li-lê-a (Mt 28, 16). Tôi đã đặt câu hỏi này cho hướng dẫn viên chuyến hành hương Đất Thánh năm 2005, giáo sư Coffele của đại học UPS và nhận được câu trả lời: ‘truyền thống’ luôn xác định là Giê-ru-sa-lem (lúc đó chúng tôi đang viếng đền thờ Thăng Thiên, do người Hồi Giáo quản lý, có cả tảng đá in vết chân Chúa khi Ngài cất lên trời!) Điều đó cho thấy, khi Kinh Thánh đề cập tới bất cứ biến cố nào thì điều quan trọng nhất cần lưu tâm vẫn là nội dung của sứ điệp hơn là chính sự kiện. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Về biến cố Đức Giêsu phục sinh thăng thiên thì chỉ có Lu-ca mới tường thuật cách tương đối chi tiết, trong khi các tác giả khác, hoặc không đề cập gì (Gioan, Mátthêu), hoặc chỉ thoáng qua mà thôi (Máccô).

Tin Mừng Mátthêu hôm nay, thay vì mô tả chính biến cố Chúa về trời thì chỉ đơn giản ghi lại những lời căn dặn và trăn trối đầy tâm huyết cuối cùng Chúa gửi gắm tới các môn đệ thân yêu trước khi xa rời họ vĩnh viễn.

Trong giờ phút ly biệt chấm dứt cuộc hiện diện trần thế, Đức Giêsu long trọng công bố Vương Quốc Người chính là quyền lực yêu thương của thập giá đã được vĩnh viễn xác lập và bao trùm: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”; đồng thời Người căn dặn các môn đệ ở lại, và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Như vậy Thăng Thiên trước hết phải được hiểu như một mệnh lệnh ‘ra đi’ để mở rộng vương quốc Kitô. Chúa về trời là để tạo điều kiện cho các môn đệ có thể tự do lên đường. “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em hơn” (Ga 16, 7). Chúa về trời là để vương quốc tình yêu của Ngài được mở rộng tới mọi nơi, tới mọi cõi lòng. Hướng nhìn của biến cố ‘Chúa lên trời’ không phải là không gian vũ trụ vô tận, mà là đi sâu vào niềm tin bên trong tâm hồn con người. “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1, 11) Sự hùng vĩ và huy hoàng của ‘lên trời’ không phải là một thứ ánh sáng chói lòa của tinh tú hay mây trời, nhưng là “anh em nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em… anh em là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Như vậy việc mừng ‘Chúa lên trời’ đối với các Kitô hữu sẽ đồng nghĩa với việc xác định lại niềm tin vào quyền lực tình yêu của Thầy Giêsu, và khảng định lại quyết tâm mở rộng vương quốc đó tới mọi tâm hồn và cho tới tận cùng trái đất. Do đó Thăng Thiên chính là một biến cố nội tâm sâu xa nhất, một đòi hỏi khắt khe nhất của niềm tin.

“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, lời trăn trối tâm huyết làm sao chính vào lúc hình bóng Thầy Giêsu lặng lẽ bị mây trời che khuất. ‘Xa mặt thì cách lòng’, thói thường vẫn thế… Đức Giêsu thì khảng định ngược lại, khi ‘các ông không còn thấy Người nữa’ thì lại là lúc Người ‘cận lòng’ và gần gũi thắm thiết với từng môn đệ hơn bao giờ hết. Thậm chí sự gần gũi thắm thiết này còn được hiện thân hóa bằng cả một nhân vật kỳ diệu được Người sai phái đến: Thần Khí - Đấng Bảo Trợ - Thần Chân lý. Các môn đệ mừng vui là phải bởi vì ‘Chúa về trời’ đâu phải là mất mát, là xa cách. Các ông được lợi, lợi rất nhiều, nhiều tới mức sung mãn nhất: họ được sở hữu Thầy Giêsu cách trọn vẹn và vĩnh viện, qua sự hiện diện phong phú tột cùng của Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn. “Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em…” (Ga 14, 17). Câu Đức Giêsu nói với tông đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29) đang lộ rõ nội dung cụ thể, phong phú và thâm sâu nhất của nó, có giá trị cho hết mọi thời, tới tận thời đại chúng ta hôm nay.

Mừng Chúa Thăng Thiên là như thế; không phải mừng vì Đức Kitô được vinh thăng, mà thực chất là mừng cho người môn đệ là mỗi chúng ta được cất nhắc lên cách kỳ diệu. Niềm vui đó ta có được không phải vì chăm chú nhìn lên trời, cho dầu đó là thiên đàng đi nữa, để mà mơ ước và chờ đợi, nhưng vì đi xâu vào nội tâm, nơi Thần Khí Đức Kitô Giêsu hiện diện và tác động, để nghiệm thấy tình yêu mạnh mẽ của Người, và sẵn sàng để cho tình yêu đó thúc đẩy ta lên đường công bố niềm vui phục sinh cho mọi tạo vật.

“Hãy đi vì có Thầy luôn ở cùng!”

Lạy Chúa Thăng Thiên vinh hiển, con xin được ca ngợi Chúa đã lên trời trong âm thầm lặng lẽ hơn là trong hoành tráng phô trương. Con cảm tạ Chúa đã ra đi vĩnh viễn để niềm tin con tập trung hơn vào Thần Khí đã được Người sai đến và đang ngự trị trong thâm sâu cõi lòng con. Do đó xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa hằng ở cùng con, và sức mạnh tình yêu của Thần Khí Người luôn thôi thúc con lên đường. Amen.

 

33. Hãy đi loan báo Tin Mừng

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”

Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).

Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.

Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).

Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ - chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ - chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ - sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ - sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’

Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.

Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để - vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương - con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.

nguon:http://gplongxuyen.org/News