"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Lời Chúa: Mt 16, 13-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó".
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is 22, 19-23; Rm 11, 33-36; Mt 16, 13-20
1. Trên tảng đá này
(Manna - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)
Trong cộng đoàn Hội Thánh, Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Đức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Đức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Đá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Đức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
"Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Đó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
"Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy."
Với niềm tin-yêu vào Đức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Đức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài,
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Đức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Đức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin;
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi;
khi Đức Thánh Cha bị công kích.
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khuôn mặt Hội Thánh vẫn còn nhiều vết nhăn, và trở nên khó coi trước mặt mọi người. Theo ý bạn, đâu là điều cần phải sửa trước hết, để Hội Thánh trở nên đáng tin hơn?
Bạn có khi nào cầu nguyện cho Đức Thánh Cha không? Bạn có cảm được gánh nặng trách nhiệm và nỗi âu lo của Đức Thánh Cha trước những vấn đề của Hội Thánh và của thế giới không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
2. Đức tin vững như tảng đá - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi nhận một chức vụ to lớn, người ta phải long trọng tuyên thệ trước toàn dân, trước pháp luật, dù Chủ tịch hay Tổng thống cũng phải nghiêm chỉnh tuyên thệ làm tròn sứ mệnh quốc dân trao phó.
Phêrô trước khi được Thầy đặt làm đá tảng xây tòa nhà Giáo hội, đã phải quyết liệt tuyên xưng đức tin chân thật của mình: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Những người khác chỉ biết Thầy là Gioan tẩy giả, Thầy là Elia, Giêrêmia hay một tiên tri nào khác. Họ coi Thầy là một người phàm trần, một người nổi hơn người khác về chức vụ. Họ không thể nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa đến cứu độ trần gian.
Riêng Phêrô, ông đã tuyên xưng rõ rệt và dứt khoát Thầy là Đấng hằng sống như xưa Thiên Chúa đã tỏ cho Môsê biết: “Ta là Đấng tự hữu, Đấng hằng có”. Đấng ban sự sống, sự hiện hữu cho muôn loài. Chỉ có Đấng hằng sống mới cứu con người khỏi chết, Phêrô đã nhận ra Đấng ban sự sống cho mình, ông không còn sợ chết nữa.
Ông đã trở nên bất tử, sống trường tồn vững chắc như đá tảng để Thầy xây Hội thánh vững mạnh đến muôn đời. Đồng thời ông cũng là người được nắm giữ chìa khóa nước Trời hằng sống đó.
Chìa khóa đó cũng chính là đức tin của ông, xin ông trao ban chìa khóa đức tin ấy cho chúng tôi để chúng tôi cũng được mơ ước hằng sống cho mình và nhiều người. Chính ông không có chìa khóa đức tin đó. Máu huyết của ông thuộc loài hay chết và không có xác phàm nào cho ông được đức tin hằng sống đó. Chỉ có Cha Thầy là Đấng hằng sống đã ban chìa khóa hằng sống đó cho ông. Vậy ông đã được không công, thì ông hãy cho chúng tôi cách vô vị lợi để ông xứng đáng làm nền tảng Hội thánh cho muôn dân được hằng sống.
Êlyakim trong Bài đọc I (Is. 22, 19-23), cũng như Phêrô, được Thiên Chúa trao cho chức vụ làm tướng phủ của triều đình vua Êzêkia thay cho Shêbna, để làm sứ giả đi điều đình với quân hùng tướng mạnh của vua Sennakia đang đe dọa xâm chiếm Giêrusalem. Sở dĩ Êlyakim được làm tướng phủ và thành công trong việc cứu dân ông là nhờ ông đã vững tin vào lời Chúa phán cùng tiên tri Isaia rằng: “Đừng sợ những lời lộng ngôn của bầy tôi vua Sennakia, Ta sẽ cho nó linh cảm và nghe tin đồn mà lui về quê quán; và Ta sẽ cho nó ngã gục vào gươm đâm chính ở quê nhà nó” (Is. 37, 6-7).
Êlyakim đã tin lời Chúa và đã cứu dân khỏi chết. Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin vào con Thiên Chúa, đã được làm Thủ tướng tiên khởi của nước Trời.
Chiêm ngưỡng những kỳ công của Thiên Chúa đã làm, Thánh Phaolô đã ca tụng: “Thiên Chúa thật giàu có, khôn ngoan, thông suốt dường bao, vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại. Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. Amen” (Rm. 11, 33. 36 - Bài đọc II).
Lạy Chúa, Chúa đã làm tất cả mọi sự tốt đẹp như khi Chúa tạo dựng trời đất muôn vật: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra: và này tốt lành quá đỗi” (St. 1, 31).
Xin cho con biết chiêm ngắm những công trình kỳ diệu đó như Thánh Phaolô, để xin tôn vinh Chúa suốt đời. Xin cho con biết tuyên xưng đức tin mạnh mẽ như Thánh Phêrô để tham gia vào công cuộc xây dựng Hội thánh, xây dựng nước Trời và biết nghe lời Chúa để làm cho dân tộc được hòa bình hạnh phúc như tướng phủ Êlyakim xưa.
3. Ý Chúa
Trong bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu khen ngợi thánh Phêrô. Thực vậy, Chúa Giêsu hỏi các tông đồ: Các con bảo Thầy là ai. Thánh Phêrô thưa: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Nghe vậy, Chúa Giêsu liền chính thức xác nhận: Tư tưởng con vừa nói ra, không phải của con, nhưng đúng là của Chúa Cha soi sáng cho con.
Với lời đó, Chúa Giêsu đã đánh giá cao quan điểm của Phêrô. Cũng vì thế Chúa Giêsu trao cho Phêrô một nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là nhiệm vụ phải đội trên mình tất cả toà nhà Hội Thánh. Chúa phán: Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.
Thánh Phêrô hiểu lời đó. Ngài hiểu là chính bản thân mình, với tâm tình, tư tưởng của mình cùng với cuộc đời mình, sẽ phải là một cái nền, để Chúa xây Hội Thánh lên trên. Đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đồng thời cũng là một vinh dự hết sức lớn lao. Vinh dự làm người đứng đầu Hội Thánh. Thánh Phêrô hiểu rõ mình được Chúa Giêsu tín nhiệm, nên ngài cũng tự nhiên nhìn thấy trước mắt một bổn phận được đặt ra cho mình, đó là phải bảo vệ Thầy mình. Bảo vệ Thầy mình có nghĩa là làm sao cho Thầy mình được an toàn, uy tín của Thầy mình được vẻ vang. Ít là thế, ít là phải thế. Chính vì vậy mà mấy ngày sau, khi nghe Chúa Giêsu nói, Chúa sẽ phải nạp mình chịu chết một cách đau đớn khổ nhục, thì Phêrô liền phản ứng ngay lập tức. Phêrô can ngăn: Xin Thầy đừng làm chuyện đó. Xin Chúa Cha đừng để chuyện đó xảy ra cho Thầy. Sở dĩ Phêrô can ngăn chính là để bảo vệ mạng sống và uy tín của Thầy. Ngài nói lên ý nghĩ của mình. Nhân danh của kẻ đã được chọn đứng đầu Hội Thánh. Phải bảo vệ Chúa. Tôi tưởng rằng, khi nghe lời thánh Phêrô nói, Chúa Giêsu sẽ lại khen như lần trước và Chúa sẽ nói: Tư tưởng của con là được Chúa Cha soi sáng cho con. Thế nhưng sự việc đã xảy ra trái ngược. Chúa Giêsu không những không khen, lại còn nặng lời mắng trách: Satan hãy lui xa Ta, vì tư tưởng vừa nói không phải là do Chúa Cha soi sáng cho con đâu. Rõ ràng, ở đây có mâu thuẫn giữa ý Phêrô và ý Chúa.
Sự mâu thuẫn này, lại xảy ra một lần nữa ở vườn Cây Dầu, tối thứ năm tuần thánh. Phêrô liền tuốt gươm chém đứt tai một người trong bọn họ. Phêrô biết việc mình làm là một đụng độ liều mạng, là một thái độ cứng rắn, mục đích chỉ là để bảo vệ Thầy mình. Phêrô đã làm việc đó với tư cách một người đã được Chúa chọn làm nền tảng Hội Thánh. Tôi tưởng rằng việc làm đó của Phêrô được Chúa khen và Chúa sẽ nói: Việc con vừa làm là do Chúa Cha soi sáng. Nhưng không, Chúa Giêsu không khen, trái lại Chúa còn trách Phêrô đã làm một việc ngăn cản thánh ý Chúa Cha.
Khi suy nghĩ mấy sự việc trên đây nơi thánh Phêrô, tôi thấy lo sợ. Tôi thấy thánh Phêrô là người được Chúa chọn đứng đầu Hội Thánh, được ở gần Chúa. Ngài có những ý nghĩ và việc làm tưởng là đẹp lòng Chúa, tưởng là cần thiết để bênh Chúa, bênh đạo, thế mà Chúa lại không chấp nhận. Ý Chúa khác xa ý ngài. Những trường hợp như thế, có thể đã và đang xảy ra nơi nhiều người chúng ta. Chúng ta cũng như thánh Phêrô, thực sự nhằm mục đích làm sáng danh Chúa, bênh đạo. Mục đích như thế là rất tốt. Mục đích đó chẳng có gì phải trách. Nhưng đều có thể bị Chúa trách, đó là cách ta chọn để đạt mục đích đã thiếu khôn ngoan siêu nhiên. Tôi nghĩ là chúng ta phải khôn ngoan dè dặt, tế nhị nhiều lắm. Phải khiêm tốn nhiều lắm mới có thể nhìn rõ ý Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta được sự khiêm nhường nhưng đầy can đảm, sự dè dặt tế nhị đầy sáng suốt, để nhận ra đâu là ý Chúa muốn cho chúng ta phải thực hiện.
4. Lời tuyên tín giá trị - Huệ Minh
Sau những ngày tháng rao giảng về Nước Trời cho dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân tại miền Xêdarê Philliphê để kiểm điểm tình hình và lượng định kết quả. Là những người sống trà trộn với quần chúng, các môn đệ hẳn đã nghe ngóng nhiều hơn về Người. Chúa bắt đầu kiểm chứng: “Người ta nói Con Người là ai? " (Mt 16, 13)
Nghe hỏi như vậy thì ta thấy: "Kẻ thì nói là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, có người lại cho là Giêrêmia, hay một trong các vị ngôn sứ". Người ta có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng dường như họ đồng ý coi Chúa Giêsu thuộc hàng ngôn sứ. Lối sống và các lời dạy của Chúa Giêsu cho họ là giảng dạy với năng quyền của Thiên Chúa. Quả thực, họ ca ngợi Ngài! Nhưng Chúa Giêsu không để ý đến những điều người ta nói, và Ngài hỏi ngay các môn đệ. "Còn anh em, anh em nghĩ gì về Thầy?" Thánh Phêrô thưa: "Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Sau khi thánh Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền phán: “con thật có phúc”. Lời Chúa phán với Phêrô như là một xác tín rằng vì con đã tuyên xưng Thầy, nên con sẽ được Chúa Cha chúc phúc. Cũng vậy, mỗi khi chúng ta tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, chúng ta cũng sẽ được Thiên Chúa chúc phúc.
Với lời tuyên xưng, Simon được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết; sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4, 18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.
Chúa Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng một tên mới và loan báo một nhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1, 42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là một sáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc một người có quyền thế có thể ban một tên mới cho một người đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (St 17, 5.15; Ds 13,16; 2 V 24, 17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với một nhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói một cuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông một tên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Khi tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thánh Phêrô đã bộc lộ một Ðức Tin cá vị, và từ đó, ngài đảm nhận từ nơi Chúa trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn. Ðây là một sự dấn thân vô điều kiện. Ðức Tin cá vị cũng đòi hỏi một sự dấn thân vô điều kiện.
Sau Phục Sinh, ta thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16, 7; Ga 20, 2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24, 34; 1 Cr 15, 5). Vai trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20, 3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22, 31t)
Những ai tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” cũng sẽ được phần thưởng dự tiệc thánh trong Nước Trời. Đó chính là phần thưởng dành cho những người vừa tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chuá hằng sống”. Mạc khải đã mở trí, mở lòng cho Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô con Chúa Trời hàng sống” cũng là mạc khải của chúng ta, khi phải đương đầu với các cửa hoả ngục. Trên những cửa đó, người ta viết: Yếm thế, khi tiếp xúc với tha nhân; Tuyệt vọng, khi đối phó với các khó khăn lớn: nghèo đói, chiến tranh; Ham muốn vô độ, khi thu tích tài sản, bất chấp lương tâm và quyền lợi người khác; Vô cảm, trước những quằn quại, đau thương của nhân loại;
Những người theo Chúa Kitô sẽ phải trả lời câu hỏi về đức tin của mình và truyền lại cho con cái và cho những người họ giảng dạy. Họ sẽ rao giảng cho những thính giả hỏi Chúa Giêsu là ai, và Ngài đã đem gì khác lạ đến cho đời sống của họ. Và bởi đó kinh Tin kính được thành hình, nhưng những lời giảng sẽ không có nghĩa gì nếu những người được nghe giảng hôm nay không tự trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu không hỏi chúng ta là con có đi lễ ngày chúa nhật không ? con có cho con cái đi học giáo lý không ? hay con có đọc kinh trước khi ăn không ? Trước hết Ngài mời chúng ta nhìn nhận tin vào Ngài, làm chứng cho thế giới về tình thương và cách sống của Ngài .
Ta là những Kitô hữu, chúng ta mang Chúa Kitô trong mình. Vì thế chúng ta phải tỏ ra cho người khác thấy được hình ảnh Chúa Kitô hiện diện trong mỗi người chúng ta. Khi chúng ta thể hiện được hình ảnh Chúa Kitô trong chúng ta tức là chúng ta đang tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn còn hỏi chúng ta như xưa Chúa đã hỏi các Tông đồ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Vẫn câu hỏi đó cho chúng ta, nhưng Chúa còn hỏi mỗi người Kitô hữu đã nói về Chúa trước mặt thiên hạ như thế nào. Câu trả lời mà Chúa đòi hỏi chúng ta không những bằng lời nói mà còn đòi hỏi chúng ta một câu trả lời bằng chính cuộc sống của chúng ta.
5. Đức Yêsu là tất cả
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, Đức Yêsu hỏi các tông đồ: “người ta bảo Con Người là ai?”, và sau đó Ngài hỏi các tông đồ: “còn anh em, anh em nói thầy là ai?” Thánh Phêrô đã đại diện các tông đồ trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con của Thiên Chúa hằng sống.” Kitô-hữu trong dòng lịch sử đã diễn tả Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, là Con “đồng bản tính” của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Còn với bạn, hôm nay, Đức Yêsu là ai?
1. Đức Yêsu là người như tất cả chúng ta
Ngài được sinh bởi người cha người mẹ, tại một nơi và một thời điểm như ai khác. Ngài được nuôi dưỡng dạy dỗ như bao trẻ thời đó. Ngài sống bằng lao động tay chân, có tôn giáo là Do Thái giáo.
Ngài đã được cha mẹ dạy dỗ giáo dục. Ngài đã vâng lời cha mẹ là Đức Maria và thánh Yuse trong suốt thời gian thơ ấu, thiếu niên và thanh niên. Tuy vậy, cũng có lúc Ngài làm cha mẹ lo lắng buồn lòng, như biến cố Ngài ở lại đền thờ khi Ngài lên 12 tuổi mà cha mẹ Ngài không hay biết. Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, về danh, về quyền bính khi cầu nguyện một mình trong hoang địa.
Kinh Thánh không nhắc đến chuyện tình cảm của Ngài: vào tuổi thanh niên không biết Ngài có được cô nào thương đặc biệt không, và thái độ của Ngài thế nào. Tuy nhiên, có thể nhìn vào thái độ của Ngài đối với phụ nữ khi Ngài rao giảng, để biết thái độ của Ngài thế nào đối với phụ nữ thời Ngài thanh xuân: chắc có nhiều người thương Ngài. Về trí khôn, nếu không kể trường hợp thông minh đặc biệt ngồi giữa những người giỏi tại đền thờ lúc 12 tuổi, người ta còn thấy Ngài có trí khôn lanh lợi để thoát khỏi bẫy của những kẻ muốn giăng ra để hại Ngài như trường hợp họ hỏi có nên đóng thuế cho Cesar không, có ném đá chị phụ nữ ngoại tình không, tại sao môn đệ của Ngài lại không giữ luật tuốt lúa ăn vào ngày sabbat, v.v… Đức Yêsu là người như tất cả ai khác.
2. Đức Yêsu là Đấng Thiên Sai
Vào tuổi trưởng thành, Ngài ra đi rao giảng, thu nhận môn đệ. Ngài làm được nhiều điềm thiêng dấu lạ. Nhiều người kính phục Ngài, coi Ngài là một tiên tri. Tiên tri ở đây được hiểu như người của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sai gởi tới để nói với dân nhân danh Thiên Chúa.
Câu trả lời của Phêrô đại diện các tông đồ cho câu hỏi của Đức Yêsu, có gì khác biệt với câu trả lời của dân chúng? Trong câu “Thầy là Đức Kitô, Con của Thiên Chúa hằng sống,” người ta hiểu từ ngữ “Kitô,” nghĩa là “được xức dầu,” Đấng được Thiên Chúa sai đến. Theo quan niệm của người Do Thái, có ba hạng người được xức dầu, đó là vua, tư tế và tiên tri. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, người ta thấy tiên tri Samuel đã xức dầu cho vua Saul, cho vua David. Môsê đã xức dầu cho tư tế Aaron. Các tiên tri thường được hiểu là những người được Thánh Thần xức dầu: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi” (Is.61, 1tt). Trong câu trả lời của Phêrô và thái độ muốn giữ kín điều này, làm người ta hiểu “Kitô” mà Phêrô nói ở đây, được hiểu theo nghĩa “Kitô Vua” nhiều hơn. Giữa hoàn cảnh dân Do Thái đang bị người Roma đô hộ, mà nhắc đến vị Kitô (được xức dầu) Vua, thì không lợi lắm theo quan điểm chính trị. Và khi Đức Yêsu bị kết án, Ngài cũng bị kết án là muốn xưng vua! Dân chúng hiểu Đức Yêsu là tiên tri, người nói với dân nhân danh Thiên Chúa; còn các tông đồ hiểu Đức Yêsu là Kitô Vua, Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ.
Cụ thể Đức Yêsu không giải phóng dân Do Thái khỏi bị người Roma đô hộ. Ngài đã bị kết tội cách hợp pháp vì tội chính trị này, dù rằng Ngài không làm chính trị. Đức Yêsu quả là Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, Đấng giải phóng không chỉ dân Do Thái mà tất cả con người khỏi nô lệ tội lỗi, nô lệ ma quỷ, nô lệ vật chất. Đức Yêsu là Đấng Kitô, để giải phóng con người khỏi mọi nô lệ, cho con người trở thành tự do với tất cả, trở thành con của Thiên Chúa.
3. Đức Yêsu là tình yêu Thiên Chúa cho con người
Đức Yêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa diễn tả tình yêu đối với con người, đặc biệt đối với Kitô-hữu. Đối với những người theo Hồi giáo, Mahomet là Đấng đại diện Thiên Chúa cho họ; với những người theo đạo Phật, Đức Phật là biểu tượng của tuyệt đối.
Với Kitô-hữu, Đức Yêsu không chỉ là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa đối với riêng Kitô-hữu, mà là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Qua Đức Yêsu, con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng vô tận; qua Đức Yêsu, Thiên Chúa ban tất cả cho con người. Sở dĩ vậy vì Kitô-hữu tin Đức Yêsu là tiên tri, người của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa; là Kitô Vua, Đấng giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ; là Đấng Trung Gian, máng chuyển ơn duy nhất cho con người. Thiên Chúa nói qua Đức Yêsu, Thiên Chúa giải phóng qua Đức Yêsu, Thiên Chúa ban ơn qua Đức Yêsu. Dù một người biết hay không biết, tin hay không tin vào Đức Yêsu, thì họ vẫn được nói, được giải phóng, được ban ơn qua Đức Yêsu Kitô như trung gian duy nhất. Trung gian thứ hai, có thể là Đức Maria, Đức Phật, hay các vị được ơn sáng lập các tôn giáo khác.[1]
Đức Yêsu là một người rất đặc biệt, kết hiệp với Thiên Chúa cách rất đặc biệt, đến độ các thần học gia Kitô-hữu diễn tả Ngài bằng từ ngữ: Lời của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Đức Yêsu và Thiên Chúa vẫn là hai Đấng phân biệt (hai ngôi vị), nhưng liên hệ với nhau rất đặc biệt mà các nhà thần học diễn tả liên hệ này như liên hệ Cha Con, đến độ là một, một Thiên Chúa.
Đức Yêsu là Đấng nói với tôi về Thiên Chúa, cho tôi biết Thiên Chúa là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng yêu tôi vô cùng. Đức Yêsu là Đấng như tôi, mời gọi tôi hãy vươn lên như Ngài đã vươn lên trong cuộc sống này. Đức Yêsu là Đấng nâng tôi dậy, giúp tôi đứng lên dù đã bao lần vấp ngã trong cuộc đời. Đức Yêsu là tất cả cho tôi và với tôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Giữa bạn và Đức Yêsu, ai sống lâu hơn? ai giầu hơn? ai sống tiện nghi hơn? ai được biết nhiều hơn? ai khổ hơn? ai hạnh phúc hơn?
2. Bạn và Đức Yêsu, có những điểm nào giống nhau?
3. Với bạn, Đức Yêsu là ai?
6. Nhận ra Đức Kitô
Khi nhìn vào hiện tình của thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi đau lòng mà nhận ra rằng: con số những người chưa nhận biết Đức Kitô dường như càng ngày càng gia tăng. Vì thế Giáo Hội cần phải cấp bách đổi mới lòng nhiệt thành và hoạt động truyền giáo của mình. Tuy nhiên, muốn làm chứng về Chúa, muốn rao giảng Ngài một cách hiệu quả, thì chúng ta cần phải nhìn lại chính mình: Đối với tôi, Đức Kitô là ai?
Câu hỏi nòng cốt này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm toàn diện niềm tin và cách sống của mình. Có thật chúng ta tin nhận Ngài là Đức Kitô, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và vạch cho chúng ta con đường sống hay không? Nếu tin nhận như thế, thì cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội của chúng ta phải chuyển biến phù hợp và kịp thời chưa? Hay là chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, làm như niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Đức Giám mục Josef Cordes trong buổi nói chuyện với 17.000 đại biểu của phong trào Canh Tân, đã nói: Trong viễn tượng năm 2000, sẽ có nhiều thách đố mới đặt ra cho Giáo Hội. Trong Giáo Hội nhiều triệu người công giáo vẫn chưa sống mối quan hệ cá vị với Đức Kitô. Nhiều triệu người khác vẫn không sống theo Đức Kitô và không vâng phục Ngài... Cho dù họ vẫn tự xưng mình là người công giáo và vẫn tham dự vào phụng vụ của Giáo Hội.
Có thể nói được rằng, đối với một số không nhỏ trong chúng ta thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung và mờ nhạt. Vì thế, trả lời được cho câu hỏi: Đức Kitô là ai đối với tôi? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở lặp lại những gì được nghe trong các lớp giáo lý hay trong các bài giảng, mà còn là câu chuyện của chính cuộc sống, của sự chọn lựa cá nhân cũng như của sự dấn thân.
Hơn bao gờ hết xã hội thời mở cửa, đón nhận những trào lưu tư tưởng mới, càng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải chuẩn bị cho mình một tư thế sẵn sàng để trả lời cho câu hỏi ngàn đời nêu trên. Bằng việc đem hết khả năng của mình để đóng góp vào việc thăng tiến con người, lành mạnh hoá xã hội và làm cho quê hương thêm giàu mạnh, người công giáo Việt Nam trả lời thoả đáng cho câu hỏi: Đức Kitô là ai?
Niềm tin Kitô giáo mặc dầu bắt nguồn từ một cuộc gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô nhưng lại có một âm vang rộng lớn trên toàn bộ đời sống xã hội và văn hoá của những người có lòng tin.
7. Phần quan trọng của cơ thể – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Có một người mẹ trẻ thường hay đố đứa con gái rằng: "Phần nào trong cơ thể quan trọng nhất?". Em trả lời rằng âm thanh là quan trọng nhất nên đôi tai là bộ phận quan trọng nhất trong cơ thể. Thế nhưng người mẹ lắc đầu bảo rằng: "Có rất nhiều người điếc, họ không cần âm thanh". Một thời gian sau, người mẹ lại hỏi và lúc này đứa bé đã lớn hơn một chút nên nó nhận xét: hình ảnh là quan trọng nhất trong cuộc sống nên đôi mắt là phần quan trọng nhất. Người mẹ âu yếm nói với con: "Nhiều người mù họ không cần hình ảnh. Đôi mắt vẫn chưa phải là cần thiết nhất. Con hãy tiếp tục suy nghĩ".
Sự kiện được tiếp tục nhiều năm tháng trôi qua, cho tới hôm ông nội của đứa trẻ hấp hối qua đời. Người mẹ dẫn con lại chào ông nội lần cuối và nói rằng: "Con đã tìm ra câu trả lời chưa?". Đứa con ngạc nhiên vì câu hỏi của mẹ trong lúc này, nó tưởng rằng đây chỉ là trò đùa giữa hai mẹ con, nhưng người mẹ trịnh trọng nói: "Phần quan trọng nhất trên cơ thể con người chính là đôi vai. Vì đó là nơi người thân có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một đôi vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai để con có thể ngả đầu vào. Hôm nay gia đình chúng ta đã mất đi đôi vai của người cha, người ông. Một con người mà cả gia đình đã nương tựa nay đã không còn".
Vâng, phần quan trọng nhất của con người không phải là phần để cho mình mà là để cho tha nhân. Vì thế, một con người quan trọng trong xã hội là một con người có ích cho người khác. Một người được yêu mến và quý trọng không phải vì địa vị hay chức quyền mà là vì sự đóng góp của họ với cộng đồng nhân loại.
Hôm nay, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô, Chúa đã đặt Phêrô làm đá tảng của Giáo hội. Chúa không bảo Phêrô trở thành một cục đá vô hồn mà là một viên đá sống động, một chỗ dựa cho các tông đồ và cho toàn thể giáo hội. Phêrô phải là một tảng đá có một đức tin vững chắc đến nỗi không có gì lay chuyển nổi mới có thể bảo vệ và gìn giữ Giáo hội. Chúa cũng biết con người Phêrô còn đầy bất toàn, yếu đuối, nhưng Chúa cũng nhận thấy Phêrô có một tấm lòng nhiệt thành theo Chúa. Ông mến Chúa. Ông luôn mong muốn hoàn thiện đời mình. Ông đã từng vấp ngã, nhưng ông mau làm lại cuộc đời. Chúa chọn ông không vì tài năng đức độ, nhưng vì lòng chân thành của ông. Chúa dùng ông, một con người đã từng vấp ngã để có thể nâng đỡ đức tin còn yếu kém nơi anh em. Chính Chúa đã từng nói với Phêrô: "Khi nào con trở về, con hãy củng cố đức tin anh em con".
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy trở nên những viên đá sống động để xây dựng Giáo hội. Tuy nhiên, mỗi người một khả năng, mỗi người một hoàn cảnh, Chúa mời gọi chúng ta hãy biết tự xây dựng đời mình bằng những vật liệu mà chúng ta đang có để trở thành những viên đá hữu ích cho tha nhân. Đặc biệt là cho gia đình chúng ta đang sống. Có nhiều người nghĩ rằng: mình phải làm ông này bà nọ mới có thể cống hiến cho tha nhân. Đó là chuyện của tương lai, nhưng ngay hôm nay, chúng ta hãy biết vận dụng những khả năng, hoàn cảnh Chúa ban để giúp đời, để cứu đời, để xoa dịu nỗi đau cho những người chung quanh, để trở nên điểm tựa cho anh chị em chúng ta.
Nếu chúng ta là người chồng hay người vợ: hãy đưa vai gánh lấy cuộc đời nhau. Hãy là điểm tựa để nâng đỡ chia sẻ buồn vui và cùng dìu nhau qua những thăng trần của dòng đời.
Nếu chúng ta là người cha, người mẹ: hãy là điểm tựa cho con cái. Hãy sống vì gia đình, vì con cái mà quên đi những niềm vui riêng của mình. Hãy chu toàn bổn phận của mình để xứng đáng là núi thái sơn, là biển rộng bao la cho con cái hưởng nhờ sự ấm áp, sự chở che của tình cha nghĩa mẹ.
Nếu chúng ta là con cái trong gia đình: hãy gánh vác trách nhiệm với gia đình. Hãy quan tâm tới gia đình, đừng vì sự lười biếng, cẩu thả của mình mà trở thành gánh nặng cho gia đình.
Nếu chúng ta là thành viên trong cộng đoàn nhân loại: hãy chung vai góp sức xây dựng hoà bình. Hãy hỏi với lòng mình: "Tôi đã làm gì cho thế giới này được tốt đẹp hơn?". Hãy biết dùng cuộc đời nhỏ bé của mình để trở nên những viên gạch xây dựng thế giới này mỗi ngày hạnh phúc và an khang hơn.
Trong cuộc sống không có việc gì là việc tầm thường đến nỗi không đáng cho chúng ta làm mà chỉ có những con người tầm thường khi thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Có thể công việc của chúng ta thật bé nhỏ, thật âm thầm nhưng nó lại thật cần thiết cho gia đình và xã hội. Tựa như viên đá góc tường nhỏ bé nhưng không thể thiếu khi muốn xây dựng ngôi nhà cao rộng hơn.
Tuy nhiên, muốn trở thành chỗ dựa cho tha nhân, chúng ta cần phải biết xây dựng đời mình trở nên những viên đá vững chắc, nghĩa là mỗi người cần biết rèn luyện đức hạnh đời mình trên nền móng Lời Chúa và phải được tôi luyện hằng ngày qua việc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Đó chính là người khôn ngoan. Vì kẻ khôn ngoan là người biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, cho dù có gặp thử thách, gian truân, tựa như nước lũ ngập tràn cũng không lay chuyển. Còn kẻ thiếu đức hạnh, thiếu nền tảng Lời Chúa, không chỉ làm hỏng đời mình mà còn gây tai hoạ cho biết bao người khác, vì "mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống lỗ".
Xin Chúa giúp chúng ta biết uốn nắn đời mình trở thành những viên đá sống động và hữu ích cho gia đình và những người chung quanh. Amen.
8. Xây dựng cuộc đời trên lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Thảm họa ngày nay chính là sự sụp đổ của hôn nhân gia đình. Tỷ lệ các gia đình sụp đỗ mỗi ngày một cao. Cuộc sống gia đình luôn bấp bênh, khó bền vững. Vợ chồng ít hy sinh cho nhau và chỉ tìm cách bảo vệ hạnh phúc cho riêng mình mà bỏ quên người bạn trăm năm.
Vào tháng 11 năm 1994, một câu chuyện làm rung động cả Nước Mỹ đó là chuyện cô Susan Smith, một bà mẹ trẻ sống ở thành phố Union, tiểu bang South Carolina, đã giết hai đứa con nhỏ để không mất tình nhân. Trước một thảm cảnh gia đình quá đau thương như thế, nhiều người chỉ biết lắc đầu hỏi: Tại sao một người mẹ có thể giết chết con của mình một cách tàn nhẫn như thế!
Nhìn lại cuộc đời của cô Susan Smith, người ta thấy rằng cô đã bước vào hôn nhân một cách vội vàng, khi chính cô cũng như người chồng trẻ đều chưa sẵn sàng. Hôn nhân của hai người không được xây dựng trên một nền tảng vững chắc nên đã sụp đổ mau chóng. Không những thế, khi ngã vào tình yêu lần thứ hai, cô Susan Smith cũng không biết rõ những yếu tố cần thiết để xây dựng một hôn nhân vững bền nên cô đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì cô nghĩ là cần phải làm để nắm giữ tình yêu đó. Kết quả là, khi thấy người yêu tỏ vẻ không thích trẻ con, cô Susan Smith đã giả vờ bị tai nạn để hai đứa con nhỏ chết chìm dưới sông.
Vâng, sự sụp đổ nơi các gia đình chính là họ kết hôn nhưng không dựa trên nền tảng tình yêu. Tình yêu của họ thật hời hợt với nhau. Tình yêu của họ thiếu chân thành với nhau, có khi còn lừa dối làm hại nhau. Một cuộc hôn nhân thiếu nền tảng tình yêu sẽ chẳng bao giờ bền vững. Gặp chăng hay chớ. Vui thì ở. Buồn thì đi!
Bên cạnh sự sụp đổ về gia đình còn có biết bao sự sụp đổ bởi xây dựng thiếu nền móng vững chắc là tình yêu, là tính chân thật. Không có tình yêu thì ở bất cứ ngành nghề nào hay lãnh vực nào cũng chỉ là phá hoại. Không có tính chân thật thì chỉ có gian dối lọc lừa để làm lời cho bản thân. Điều này chúng ta thấy rất rõ trong nhiều ngành nghề như dạy học chỉ vì tiền. Làm bác sĩ chỉ vì lợi nhuận mà bất chấp tính mạng của bệnh nhân. Làm quan chức thì vun quén làm giầu cho mình và đương nhiên làm nghèo cho đất nước...
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy xây dựng nền móng cho cuộc đời dựa trên lời Chúa và giáo lý của Ngài. Lời Chúa là ngọn đèn dẫn dắt chúng ta đi trong chân thiện mỹ. Lời Chúa luôn xây dựng đời chúng ta trong tình yêu là giới răn cao cả mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thực thi. Khi con người được xây dựng trên tình yêu với Chúa và tha nhân sẽ giúp con người biết sống cho Chúa và tha nhân trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Khiêm tốn để tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Phục vụ để cho danh Chúa được cả sáng qua đời sống yêu thương của chúng ta.
Có thể nói nếu con người biết nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể muôn loài thì con người sẽ quy phục Thiên Chúa, và nhờ tin vào Chúa họ sẽ sống yêu thương tha nhân hơn. Chính nhờ tin vào Thiên Chúa mà con người sẽ sống dưới cái nhìn của Chúa và bước đi trong sự dẫn dắt của Ngài.
Nhưng đáng tiếc cho con người ngày nay thường quay lưng lại với Thiên Chúa. Khước từ Chúa con người cũng khước từ nhau. Con người sống trong bản năng vì tin vào ma quỷ hơn là tin vào Thiên Chúa. Ma quỷ luôn bảo với chúng ta không có Thiên Chúa, không có đời sau để lôi kéo chúng ta sống một cuộc sống buông thả theo tính xác thịt. Ma quỷ luôn bảo chúng ta xây dựng đời mình một cách hợi hợt, nông cạn, sống theo bản năng hơn là theo ý chí và lý trí. Chính đời sống thiếu chiều sâu đã làm cho con người dễ lao vào hưởng thụ hay dễ thất vọng chán nản nếu gặp thất bại.
Nếu cuộc sống chúng ta được xây dựng dựa trên Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Sự tự do tự tại không bị tính xác thịt thống trị. Sự tự do để chúng ta không bị những đam mê lôi cuốn vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền mà xa rời Thiên Chúa.
Ước gì chúng ta đừng bao giờ lười biếng để rồi xây dựng đời mình một cách cẩu thả, hời hợt và thiếu đầu tư cho những giá trị Nước Trời là tình thương, là công lý và hòa bình. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để thánh hóa bản thân và biến đổi thế gian. Amen.
9. Tôi đang tìm kiếm gì? - Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Một trong những khao khát sâu thẳm của con người là được kéo dài sự sống đến trường sinh bất tử. Con người dường như luôn bị dằn vặt, trăn trở khi phải đối diện với sự già nua, suy thoái của thân xác. Vì thế, họ tìm kiếm linh dược để kéo dài sự sống của mình. Khao khát này được thể hiện qua việc chăm lo cho thân xác luôn được khỏe mạnh, được cường tráng. Tuy nhiên, quy luật của tự nhiên là sinh bệnh lão tử khiến con người vẫn già, vẫn bệnh, vẫn trở về cát bụi... Con người đâu hiểu được rằng điều quan trọng không phải là sống thọ hay không thọ, mà là sống như thế nào? Sống với mục đích gì? Điều đó nó mới làm nên giá trị chất lượng cuộc sống và làm nên sự bất tử cho con người.
Thánh Phê-rô sau thời gian dài đi bên Chúa, nhìn và nghe thấy biết bao điều kỳ diệu Chúa đã làm, ông đã khám phá ra phương thuốc trường sinh là chính Đức Giê-su - Đấng hằng sống. Ông đã mạnh dạn tuyên xưng: “Thầy là Đức Ky-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Qua đây Chúa đã khen ngợi Phê-rô vì ông đã được Thiên Chúa Cha mạc khải điều bí nhiệm của Nước Trời. “Này anh Simon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy Đấng ngự trên trời”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy xây dựng nền móng cho cuộc đời dựa trên lời Chúa và giáo lý của Ngài. Lời Chúa là ngọn đèn dẫn dắt chúng ta đi trong chân thiện mỹ. Lời Chúa luôn xây dựng đời chúng ta trong tình yêu là giới răn cao cả mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thực thi. Khi con người được xây dựng trên tình yêu với Chúa và tha nhân sẽ giúp con người biết sống cho Chúa và tha nhân trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Khiêm tốn để tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Phục vụ để cho danh Chúa được cả sáng qua đời sống yêu thương của chúng ta. Hãy đặt cuộc đời ta trên lời hằng sống. Hãy chọn Chúa là gia nghiệp. Hãy sống gắn bó với Chúa như cành liền cây để được sống sự sống trường sinh của Chúa.
Chọn Chúa hay đặt nền tảng cuộc đời trên Lời Chúa là biết nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho con người để rồi luôn biết quy phục Chúa, và tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Nhờ niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng sống mà con người sẽ sống dưới cái nhìn của Chúa và bước đi trong sự dẫn dắt của Ngài.
Nhưng đáng tiếc cho con người ngày nay thường quay lưng lại với Thiên Chúa. Khước từ Chúa con người cũng khước từ nhau. Con người sống trong bản năng vì tin vào ma quỷ hơn là tin vào Thiên Chúa. Ma quỷ luôn bảo với chúng ta không có Thiên Chúa, không có đời sau để lôi kéo chúng ta sống một cuộc sống buông thả theo tính xác thịt. Ma quỷ luôn bảo chúng ta xây dựng đời mình một cách hời hợt, nông cạn, sống theo bản năng hơn là theo ý chí và lý trí. Chính đời sống thiếu chiều sâu đã làm cho con người dễ lao vào hưởng thụ hay dễ thất vọng chán nản nếu gặp thất bại.
Thế nên, vẫn còn đó những người chỉ lo hưởng thụ vật chất mà xa rời cội nguồn sự sống đời đời. Vẫn còn đó những người tham danh vọng mà đấu đá loại trừ lẫn nhau gây nên những bể dâu cho cuộc sống. Vẫn còn đó những người đặt cuộc sống trên đồng tiền mà đánh mất lương tri con người, sống lỗi công bình bác ái với nhau...
Ước gì chúng ta đừng vì lười biếng mà xây dựng đời mình một cách cẩu thả, hời hợt và thiếu đầu tư cho những giá trị Nước Trời là tình thương, là công lý và hòa bình. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để thánh hóa bản thân và biến đổi thế gian. Amen.
10. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Vì yêu thương, Đức Giêsu đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại. Để thực hiện sứ mạng đó, Ngài đã ở thế gian 33 năm: 30 năm sống ẩn dật, 3 năm đời sống công khai.
Trong 3 năm ngắn ngủi của đời sống công khai, Ngài đã đi khắp đó đây rao giảng Tin mừng. Đồng thời, để chuẩn bị cho việc thiết lập Giáo hội, Ngài đã chọn và huấn luyện nhóm mười hai. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã đặt Thánh Phêrô làm đầu mười hai Tông đồ, cũng chính là làm đầu Giáo hội mà Ngài sẽ thiết lập.
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta biết, sau khi hỏi dư luận quần chúng suy nghĩ như thế nào về Ngài, Đức Giêsu quay sang hỏi các Tông đồ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”(Mt 16,15). Thánh Phêrô đại diện cho các Tông đồ trả lời rằng: “Thầy là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16). Đức Giêsu khen ngợi câu trả lời của Phêrô. Đồng thời, Ngài nói với ông rằng: “Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16,18-19).
Đá là một vật thể cứng, bền, chắc…Đức Giêsu gọi Phêrô là Đá, và trên “viên đá” đó, Đức Giêsu muốn xây Hội thánh của Ngài, chứng tỏ Đức Giêsu xây dựng Hội thánh trên nền tảng vững chắc, đúng như lời Ngài khẳng định: “Dầu cửa địa ngục sẽ không thắng được”.
Chìa khóa biểu tượng cho quyền lực. Ai được trao chìa khóa thì người đó có quyền đóng mở và bảo quản những gì có trong đó. Bài đọc I cho chúng biết, khi trao quyền lực cho En-gia-kim, Thiên Chúa trao cho ông chìa khóa: “Ta sẽ để chìa khoá nhà Ða-vít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được” (Is 22,22). Cũng vậy, Thánh Phêrô được trao chìa khóa nước trời, nghĩa là Thánh Phêrô có quyền lãnh đạo dân Chúa, có quyền đóng mở và bảo quản kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Lời Chúa, các Bí tích. Ngoài ra, Ngài còn có quyền “trói và cởi”. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: Quyền “trói và cởi” là quyền tha thứ các tội lỗi, công bố những phán đoán về giáo lý và đưa ra những quyết định có tính kỷ luật trong Giáo hội (x. số 553).
Nhìn lại lịch sử Giáo hội suốt 2000 năm qua, chúng ta thấy lời hứa của Đức Giêsu với Phêrô đã trở thành hiện thực. Dẫu Giáo hội trải qua nhiều sóng gió nhưng Giáo hội vẫn luôn luôn đứng vững trên nền tảng của Thánh Phêrô: Thánh Phêrô và các đấng kế vị luôn đóng trọn vai trò “Đá tảng”, luôn chu toàn chức vụ “cầm chìa khóa nước trời” để “trói và cởi”. Nhờ đó, nhân loại đón nhận biết bao ơn lành từ Thiên Chúa qua Giáo hội.
Chúng ta cám tạ Chúa đã lập nên Giáo hội. Giáo hội trở thành mẹ của chúng ta trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Vì thế, bổn phận của chúng ta đối với Giáo Hội cũng tương tự như bổn phận của con cái đối với Cha Mẹ. Đó là chúng ta phải biết ơn, vâng lời và xây dựng Giáo hội.
Thứ nhất, chúng ta biết ơn Giáo hội, vì Giáo hội đã sinh ra chúng ta trong đức tin, nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời Chúa và các Bí tích. Trong bài huấn dụ với 100.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 10/9/2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày đề tài giáo lý “Giáo hội là mẹ”. Ngài cho biết, trong các hình ảnh mà Công Đồng Chung Vatican II đã chọn để giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của Giáo hội nghĩa là bản chất là “mẹ”: Giáo hội là mẹ chúng ta trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Ngài nói: Giáo hội “đồng hành với sự trưởng thành của chúng ta, bằng cách thông truyền Lời Chúa cho chúng ta, là ánh sáng chỉ con đường cuộc sống kitô cho chúng ta, và ban phát các bí tích. Giáo hội nuôi dưỡng chúng ta bằng bí tích Thánh Thế, đem lại ơn tha thứ cho chúng ta qua bí tích Sám Hối, nâng đỡ chúng ta trong lúc đau yếu với bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Giáo hội đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc sống đức tin.” (Nguồn: vi.radiovaticana.va). Vì vậy, chúng ta cần thể hiện lòng biết ơn bằng cách tôn kính và yêu mến Giáo hội.
Thứ hai, chúng ta phải vâng lời Giáo hội. Vâng lời Giáo hội là vâng lời Đức Thánh Cha, các Đức Giám mục, các linh mục và những người đại diện của Chúa ở trần gian này. Vâng lời trở thành một nhân đức như khi các thành phần trong Giáo hội vâng lời Đức Giáo Hoàng. Vâng lời còn trở thành luật buộc như khi các Giám Mục vâng phục Đức Giáo Hoàng, các linh mục vâng phục Giám mục Giáo phận của mình, các tu sĩ vâng phục Bề trên hợp pháp của cộng đoàn. Có nhiều mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong Giáo hội, đáng chú ý là mẫu gương vâng phục của Đức Tổng Giám Mục Fénelon, nước Pháp sau đây: Giám Mục Fénelon là Tổng Giám Mục danh tiếng của giáo phận Cambrai nước Pháp vào đầu thế kỷ XVIII. Ngài được mọi người thán phục và kính nể vì ngài đạo đức và thông thái. Ngài sáng tác cuốn sách thiêng liêng rất hay, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” Ngày kia, khi sắp lên tòa giảng để giảng một bài quan trọng trước một cử toạ đông người đang thán phục, ngài được tin Đức Giáo Hoàng Inôsentê XII đã lên án cuốn sách của ngài và cấm lưu hành. Đến giờ giảng, ngài vẫn bình tĩnh bước lên tòa giảng, nhưng không phải để giảng bài ngài dọn, mà để giảng một bài về sự tuân phục đối với Giáo-Hội. Ngài nói: “Đức Thánh Cha đã lên án cuốn sách của cha. Cha xin hoàn toàn tuân phục quyền bính Giáo Hội cho đến chết để làm gương cho anh em.” Và để tỏ lòng tuân phục công khai một cách khiêm nhượng, ngài cho khắc cảnh thiên thần đang dày đạp dưới đất những tác phẩm bị Giáo Hội lên án, trong đó có cuốn sách của ngài, nhan đề “Cắt nghĩa các câu châm ngôn của Các Thánh.” (Trích bài gợi ý của Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang).
Thứ ba, chúng ta phải có tinh thần xây dựng Giáo Hội cả về tinh thần lẫn vật chất. Thánh Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội đã cho biết: “Nhờ khả năng chuyên môn và uy tín của họ (Giáo dân), họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ của mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo hội… nhưng luôn với lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài” (Ibid., no. 37). Thật vậy, Giáo hội cần những lời góp ý chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến từ phía giáo dân đối với các đấng bậc trong Giáo hội, nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ Giáo hội. Đừng bao giờ chỉ trích, lên án hay nói xấu Giáo hội. Còn về vật chất, điều răn Thứ Năm của Hội thánh nhắc nhở mọi tín hữu cần phải chu toàn nhiệm vụ đóng góp công của để xây dựng Giáo hội. Ngoài ra, các tín hữu cũng có thể đóng góp thêm tùy theo khả năng của mình để xây dựng Giáo xứ, Giáo phận, và Giáo hội ngày một thêm lớn mạnh và bền vững hơn.
Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã lập nên Giáo hội để sinh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng con. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến, vâng lời và đóng góp tinh thần và vật chất để xây dựng Giáo hội. Amen.
11. Trở nền Tảng Đá sống động – AM. Trần Bình An
Người Chăm xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống, trong đó có chứa một ít cát khoảng 10%, nhúng nước rồi xát và ép chặt vào nhau để kết dính, tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra cách xây này không vữa mà như là có vữa, rồi nung toàn khối. Trong đó, người Chăm xưa đã nghĩ tới phương pháp xây tháp theo nguyên tắc tạo ra một tổng thể đồng chất với bề dày tường lớn để có được lực liên kết bền vững nhất, đồng thời dễ dàng tạo ra được những tác phẩm điêu khắc có đường nét mỹ thuật cao. Nhưng vì đất sét là vật liệu lâu khô, lại phải nung qua lửa, đòi hỏi độ ẩm phải còn 20% trước khi nung nên người Chăm không thể đổ đất sét lỏng như hiện nay ta đổ bêtông, mà trước tiên phải làm nên những viên gạch mộc, phơi qua vài ngày để gạch se lại, sau đó nhúng nước, xát và ép để viên này dính sát với viên kia, chồng lên và so le mí với nhau. Khi ngôi tháp xây xong thì toàn bộ ngôi tháp, nền và móng đã trở thành một tổng thể đất sét đồng chất, ngoại trừ một ít lanh tô hoặc trụ đá phải dùng trong kỹ thuật xây và có thể được xử dụng để gia cường sau khi xây. Tổng thể đất sét này được nung chín, tất nhiên sẽ có độ bền vững hơn là xây bằng gạch đã nung trước với hồ vữa, là hai chất liệu khác nhau. Và cách xây và nung tháp của người Chiêm Thành thì bắt buộc phải “xây từ dưới lên trên và nung từ trên xuống dưới” nhằm tránh cho tháp khỏi bị đổ vì xây bằng gạch mộc.
Phần đỉnh tháp luôn luôn được xây nhỏ hơn phần đế và thân tháp để trọng tâm khó đổ ra ngoài. Vì vậy người Chăm xưa phải xây tường tháp rất dày từ 1m đến gần 2m. Cùng với việc xây từng đoạn xong để trong một ít thời gian cho gạch se cứng lại thì những yếu tố này góp phần làm giảm tải trọng bản thân của tháp lên các viên gạch. Xây tháp tới đâu thì đổ đầy đất ở trong lẫn ngoài lên tới đó, ngang với mặt tường đang xây, ém đất thật chặt để giữ tháp cho vững đồng thời để người thợ làm việc dễ dàng trong lúc xây và chạm khắc. (Hồ Thế Vinh, TC KT VN)
Tin Mừng Thánh Matthêu Chúa nhật hôm nay thuật lại Đức Giêsu gọi ông Simon là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Người sẽ xây Hội Thánh của Người, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Tảng đá rất hữu dụng trong xây dựng, vì cứng, bền đẹp và phổ thông.
Tảng Đá nền móng
Với tính năng chịu lực nén cao, bền bỉ, vững chãi và hoa văn đẹp, đá tảng hữu dụng trong xây dựng từ ngàn xưa đến nay. Có lẽ vì thế, mà theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ, thâu nhận ông Simon làm môn đệ chân truyền, Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá. Trên Tảng Đá này, Người sẽ xây Hội Thánh bền vững mãi. Hẳn ai cũng cho là điên rồ, dại dột, khi thấy Người quyết định trao sứ vụ quan trọng và nặng nề lên đôi vai ông ngư phủ vai u thịt bắp, xoàng xĩnh và yếu đuối tinh thần.
Với con mắt thế gian, với sự khôn ngoan, sáng suốt của phàm nhân thì chẳng ai có thể hiểu nối Thánh Ý Chúa, luôn trái nghịch với đời: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.” (1 Cr 1, 27)
Tảng Đá Phêrô dù đã được Đức Giêsu chọn làm thủ lãnh các môn đệ cũng đầy khiếm khuyết, như yếu nhân đức tin, suýt chết đuối khi đi trên mặt nước, như khuyên Chúa tránh cuộc tử nạn tàn khốc: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 17, 22), như bạo lực chém đứt tai thủ hạ của quân dữ, như chối Chúa đến ba lần trước khi gà gáy.
Nhưng Tảng Đá Phêrô đã trung kiên lại ngay sau khi cái nhìn trìu mến thương yêu tha thứ của Đức Giêsu đang chịu nạn. Phêrô đã khóc lóc thảm thiết, sám hối, ăn năn tội bất nghĩa, bất tín, bất trung.
Sau lễ Ngũ Tuần, tràn đầy ân sủng Đức Chúa Thánh Thần, Tảng Đá Phêrô đã can đảm công khai loan báo Tin Mừng, đã gặt hái được kết quả đầu mùa, khoảng ba ngàn người theo đạo. Đến nay, dù trải qua bao cơn sóng gió, mưa bão vùi dập suốt hơn hai nghìn năm, Hội Thánh Chúa vẫn vững bền, tồn tại và phát triển trên Tảng Đá Phêrô và quý Đức Giám Mục Roma kế vị.
Tảng Đá sống động
Những viên gạch mộc của tháp Champa được liên kết chặt chẽ vào nhau trước khi chất củi nung chin. Chúng đều được nhúng nước, rồi cọ xát tứ bề, tiết ra dung dịch đất sét sền sệt, kết dính viên gạch này khắng khít với viên khác.
Các tảng đá xây dựng cũng phải được đẽo gọt sao cho phẳng phiu, ăn khớp với nhau. Chính sự cọ xát viên gạch và đẽo gọt tảng đá mới có thể kiến thiết, xây dựng hoàn chỉnh bức tường, dựng nên tòa tháp, ngôi thánh đường, đền thờ.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình” (Mt 16,24). Tảng Đá Phêrô đã chịu cọ xát, đẽo gọt, ăn năn, sám hối, thanh tẩy, thánh hóa, từ bỏ ý riêng, quyết sống tích cực theo Đức Tin đã được tuyên xưng hùng hồn: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa." (Ga, 6, 70)
Với Đức Mến, Tảng Đá sống động Phêrô phó thác cuộc đời trong tay Chúa, để trở nên Đền Thờ tôn kính Thiên Chúa: "Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng." (1 Pr 2,5)
Với Đức Cậy,Tảng Đá Phêrô luôn trông cậy vào Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa yêu thương và tha thứ: ”Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19)
Vậy trở nên Tảng Đá sống động là nghe, hiểu và thực hành Lời Chúa, tức là kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn với Tảng Đá Góc Tường, là Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa lựa chọn và coi là quý giá, (1Pr 2, 4) để xây dựng Đền Thờ cá nhân thánh thiện, cũng như Giáo Hội viên mãn. Bởi vì “Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. (Mt 7, 24-25)
Đừng ngạc nhiên khi người ta phá Hội Thánh, vì đó là nhiệm thế Chúa Kitô; họ tiếp tục giết Chúa Kitô; không giết được Chúa Kitô được nữa, người ta phá Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, số 251)
Lạy Chúa Giêsu, xin biến cải chúng con trở nên những tảng đá sống động, biết lắng nghe, tìm hiểu Lời Chúa và đem ứng dụng trong cuộc đời, để chúng con chung sức gìn giữ, phát huy, xây dựng Hội Thánh từ ngay tâm hồn, đến gia đình và xã hội.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết ăn năn, hoán cải, sám hối những tội lỗi vấp phạm, đã làm sứt mẻ Tảng Đá sống động, để luôn tha thiết gắn bó kiến thiết Đền Thờ Thiên Chúa. Amen.
12. Đá tảng xây dựng Hội Thánh tại gia
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hai diễm phúc lớn của thánh Phêrô
Sau khi Phêrô tuyên xưng rằng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
Trích đoạn Tin mừng này cho ta thấy thánh Phêrô có hai diễm phúc lớn:
Một là được Chúa Cha mặc khải cho biết Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống; hai là được Chúa Giêsu đặt làm Tảng Đá kiên vững để xây dựng Hội thánh của Ngài.
Hai diễm phúc tương tự của người Kitô hữu
Tuy nhiên, không chỉ một mình thánh Phêrô mới được hưởng hồng phúc lớn lao đó mà bất cứ Kitô hữu nào cũng được thông phần vào hai hồng phúc quý báu này.
- Hồng phúc thứ nhất: Nhờ ơn Chúa ban, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng được hồng phúc nhận biết Chúa Giêsu như thánh Phêrô từng biết.
Đây là điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các nhà thông thái… chưa từng được nghe, chưa từng được biết, vậy mà chúng ta đã được biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống. Hơn thế nữa, chúng ta còn được nghe Ngài phán dạy qua những trang Tin mừng, qua giáo huấn của Hội thánh từ lâu nay.
Chính Chúa Giêsu cũng nhìn nhận đây là đại phúc:
“Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).
Hồng ân này lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giêsu đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25).
- Hồng phúc thứ hai: Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô như thánh Phêrô, chúng ta còn được hồng phúc thứ hai là được Chúa chọn làm đá tảng xây hội thánh nhỏ của Chúa.
Thánh Phêrô dạy rằng Thiên Chúa muốn nhờ đến chúng ta như “những viên đá sống” để xây nên Đền thờ của Chúa. Ngài nói như sau: “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5).
Noi gương thánh Phêrô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia
Phêrô là Đá tảng được Chúa chọn làm nền móng để xây dựng Hội thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ. Thế là chúng ta trở thành những Phêrô khác, những “viên đá” khác trong Hội thánh tại gia. Hội thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phêrô thì Hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi Phêrô được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội thánh, ngài không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa, mở mang Hội thánh và đem lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Xin cho chúng con là những người được Chúa tuyển chọn làm những viên đá xây đền thờ Chúa, thì cũng biết noi gương thánh Phêrô mà tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng con trở nên một đại gia đình thánh thiện và chan hòa tình yêu thương.
13. Trở nên “đá tảng” xây dựng Hội Thánh tại gia
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ."
Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Si-môn Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Một câu đáp gây kinh ngạc! Si-môn Phê-rô đã thấu được căn tính của Chúa Giê-su!
Cho đến lúc đó, chỉ có Si-môn Phê-rô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giê-su ca ngợi và chúc mừng: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Cũng như thánh Phê-rô, chúng ta được diễm phúc nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì Phê-rô xưa.
Trong số 87 triệu người Việt Nam, có chừng bảy triệu người công giáo, chiếm 8%. Như thế, cứ một trăm người Việt mới có được tám người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào con số ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị đại ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đó là đại phúc:
"Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe”. (Mt 13, 16-17)
Sở dĩ đây là đại hồng phúc vì hiểu biết Thiên Chúa là đầu mối đưa đến ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời.
Hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giê-su đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25)
Cũng như thánh Phê-rô xưa, chúng ta được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội Thánh.
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Si-môn Phê-rô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội Thánh Chúa: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Từ ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc đó cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được liên kết với Chúa Giê-su là “viên đá đỉnh góc” (Mt 21,42), là “viên đá sống động” (I Pr 2,5) để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa, như lời thánh Phê-rô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5)
Noi gương thánh Phê-rô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia.
Phê-rô là Đá Tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội Thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta. Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong hội thánh tại gia. Hội Thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội Thánh, Phê-rô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Được chọn làm đá tảng như Phê-rô, chúng ta hãy tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng ta trở nên một đại Gia Đình chuyên chăm phục vụ và chan hòa tình yêu thương.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phê-rô làm tròn vai trò của người trong cương vị Đá tảng Hội Thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của hội thánh tại gia.
14. Đá Tảng Phêrô - Quyền bính vững chắc
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Anh là Phêrô, là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18).
Một trong những điều mà Kinh thánh nói tới, thường dễ gây ra dị ứng, nhưng vẫn rất được quan tâm, đó là quyền bính. Quyền bính quả là một thách đố, nhưng thách đố như thế nào? Theo truyền thống Thánh kinh, quyền bính được phú trao như một ân huệ nhưng không. Tuy nhiên, đề cập tới những con người kém cỏi được trao ban quyền bính, thậm chí có quyền sinh sát hoặc có thể khuynh đảo xã hội, thì rất họa hiếm, trong xã hội ngày xưa cũng như ngày nay. Vì vậy, một cách mặc nhiên phải hiểu là, những ai được trao phó quyền bính, ngay cả những quyền bính được ban trao một cách chính đáng, thì chính họ cũng như chúng ta, cần phải lắng nghe để hiểu rõ sự thật về chính nhân thân nơi con người của mình. Trong cựu ước, các ngôn sứ thường được trao phó để đảm nhận công việc khó khăn này. Thiên Chúa khích lệ và cổ vũ để họ dám nói, dám nhắc bảo những con người nắm trong tay quyền lực nhưng phạm nhiều sai trái, để họ biết trở về với con đường giao ước và những thánh chỉ của Giavê.
Trong cách thức đó, Isaia đã nói với Shebna, “chủ cung điện”, tức tể tướng dưới triều đại của hoàng đế Sennacherib, vua nước Assyria. Chúng ta sẽ biết nhiều về thời kỳ này, cùng những nhân vật liên quan, khi đọc lại sách Isaia 36-39, và sách các vua quyển thứ nhất 18-20. Isaia quả quyết với Shebna là ông ta sẽ bị tước quyền hành, để trao cho Eliakim, người sẽ làm chủ lâu đài. Hiện nay, Shebna đang là tể tướng triều đình. Shebna sẽ bị truất phế, theo lời Isaia, vì ông ta đã xây một lăng mộ kiên cố cho chính ông ta và đã bội nghĩa với chủ. Chúa nói qua miệng Isaia: “Ta sẽ tống khứ ngươi khỏi chức vụ, và sẽ đuổi ngươi ra khỏi địa vị.”
Đoạn văn trên mang chở ý nghĩa sâu xa, vừa trong văn mạch cổ xưa, vừa tương thích với lối cắt nghĩa hiện nay. Eliakim đã được trao ban quyền bính, thay cho Shebna, “để trở thành cha của dân cư tại Giêrusalem và của nhà Giuđa. Ta sẽ đặt trên vai nó chìa khóa nhà Đavit, nó sẽ mở và không ai đóng được. Nó sẽ đóng lại và không ai có thể mở ra. Nó sẽ thắt đai lưng và ngồi trên ngai an toàn cho tới khi Eliakim bị hạ bệ và ngã đổ.”
Đoạn văn này vẫn để lại âm vang và ám chỉ về quyền bính để lãnh đạo trong Giáo hội, Ekklesia, như được nói tới trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Tại Cêsarê Philiphê, Đức Giêssu đã đặt tên cho Simon là Petros, nghĩa là Đá. Matthêu thuật lại, Đức Giêsu nói với Phêrô “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy, cửa hỏa ngục cũng không chống nổi. Ta sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời. Điều gì ở dưới đất con cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên trời sẽ tháo mở”. Nhiều học giả tranh luận về tính xác thực của bối cảnh toàn bộ câu truyện. Nhưng có một điều chắc chắn, tên của Simon được Đức Giêsu thay đổi và gọi là Petros, là chi tiết được cả 4 phúc âm thuật lại, không có gì phải bàn cãi.
Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì? Oscar Cullmann trong cuốn tự điển thần học tân ước đã viết: “ Vì Phêrô, đá tảng của Hội Thánh, đã được chính Đức Giêsu đặt định, nên Ngài trở thành “ chủ của ngôi nhà, là chìa khóa của Vương quốc Nước Trời ”(Is 22,22; Khải huyền 3,7). Ngài còn là người trung gian của mầu nhiệm Phục sinh, và có phận vụ tiếp nhận dân của Chúa vào trong Vương quốc Phục Sinh này. Chính Đức Giêsu đã ủy thác cho Phêrô năng quyền để mở cửa Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến, hoặc là sẽ đóng lại”. Shebna và Eliakim được phó trao quyền bính để phục vụ ông chủ của ngôi nhà là Hezekiah. Cũng vậy, Phêrô cũng được trao phó quyền bính để cai quản ngôi nhà của Đấng Messia.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, quyền bính này không thuộc về người quản lý ngôi nhà. Nó hệ tại ở chính ngôi nhà đó, và sâu xa hơn, nó phát nguyên từ Thiên Chúa. Ngay sau khi Phêrô tuyên tín Đức Giêsu là Đấng Messia, ông đã bị Người khiển trách vì đã không quy thuận đường lối của Chúa. Đó là lý do tại sao ngay cả hôm nay, khi chúng ta chấp nhận vâng phục quyền bính đối với các vị lãnh đạo trong Giáo hội, thì chính các Ngài là những người được ủy thác, luôn được mời gọi phải hành xử quyền bính trong khiêm tốn để phục vụ, bởi lẽ quyền bính tối thượng trong Giáo hội khởi nguồn từ Thiên Chúa, và chính xác hơn, là chính Thiên Chúa.
15. Đi sau Chúa – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Đang khi dân chúng còn mù mờ về vai trò và con người của Đức Giêsu thì Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi đã mạnh mẽ tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Phêrô được khen là có phúc vì nhận được mạc khải từ trên cao. Thế nhưng chỉ một khoảnh khắc sau, chính Phêrô lại bị Thầy mình trách là “Satan” vì lòng dạ tăm tối, chỉ “hiểu biết những sự thuộc về loài người” và đang “làm cớ cho Thầy vấp phạm”.
Phêrô tuy nhận chân Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng trong cái nhìn của ông, Đấng Cứu Thế sẽ là người hùng mạnh, đánh đông dẹp bắc, chinh phục vua Chúa, thâu tóm quyền hành, và rồi đăng quang thống trị thế giới.
Đức Giêsu hiểu rõ quan niệm trần gian của các tông đồ về Đấng Cứu Thế, nên ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Ngài cấm các ông nói cho người khác những gì họ mới biết. Ngài muốn giúp các ông thay đổi quan niệm về Đức Kitô. Đức Kitô đúng nghĩa sẽ là đấng phải đau khổ, bị từ khước, chịu giết chết trước khi đi đến toàn thắng. Sức mạnh của Đức Kitô không ở trong binh khí hay chiến mã như bao vua chúa trần gian, song là nơi thập giá khổ đau. Chiến lược của Đức Kitô là đi xuống chỗ tận cùng trong lũng sâu nước mắt của nhân loại để nâng tất cả lên trong vinh quang của Thiên Chúa.
Nhưng nào các tông đồ có hiểu được điều đó! Và đâu phải chỉ có các ông. Chính tôi lắm khi cũng không hiểu nỗi đấy chứ. Tôi cứ nghĩ Chúa là Đấng quyền năng đầy sức mạnh, phải cứu con người khỏi bao gian nan, khốn khổ, trái ý trên đường đời; phải ra tay làm nhiều phép lạ cho người ta tin; chứ đàng này Chúa lại im như bất lực, thậm chí còn để cho dân Chúa, Giáo hội Ngài chịu biết bao thách đố đau thương.
Cũng như Phêrô, tôi muốn chỉ cho Chúa phương cách cứu thế, chứ làm theo kiểu của Chúa thì e rằng chẳng còn ai tin và Ngài sẽ thất bại ê chề.
Cũng như Phêrô, tôi muốn chận Chúa lại, không cho Ngài tiếp tục cuộc hành trình kỳ quặc về Giêrusalem. Tôi muốn “dạy” cho Ngài lối đường nên đi. Tôi muốn Ngài rút bớt điều kiện cho mọi người cảm thấy nhẹ nhàng; cung cấp bánh ăn, của cải vật chất dư đầy cho người ta theo đông; làm nhiều phép lạ, ảo thuật giựt gân cho dân chúng thích thú.
Nhưng Chúa Giêsu quát lên: ‘Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Ta”.
Có hai lần trong đời mình, Chúa Giêsu đã dùng đến chữ “Satan”. Một lần với tên Cám dỗ và lần này với Phêrô. Satan đối nghịch với Thiên Chúa. Satan làm đảo lộn trật tự thế giới. Satan phá hoại chương trình của Thượng Đế nơi con người. Thế nên lời quở mắng “Satan” là lời khiển trách nặng nề nhất.
Nhưng để ý sẽ thấy: trong lần quở mắng tên Cám dỗ, Chúa Giêsu bảo nó “hãy cút đi”, Ngài không còn muốn thấy mặt nó nữa; nhưng khi khiển trách Phêrô, Chúa Giêsu lại nói “hãy lui ra sau Ta”. Như thế Ngài vẫn cho người môn đệ cơ hội hoán đổi hướng nhìn và cách đi. Thay vì đi trước và chỉ lối cho Chúa, tôi phải hướng theo và tiếp bước sau Ngài.
Satan không thể bước theo Chúa vì bản chất kiêu ngạo của nó. Nhưng riêng tôi, dù bao vấp phạm lầm lỡ, dù lắm khi sống theo ý mình, hay từng chạy theo tiếng gọi của quỉ ma, tôi vẫn được ban cho cơ hội làm lại hành trình của người môn đệ Đức Kitô, dẫu biết rằng không môn đệ chân chính nào của Ngài lại không phải mang thập giá: “Ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ mình, hãy vác lấy khổ giá mình và theo Ta” (Mt 16:24).
Thánh Phêrô, sau lời khiển trách của Thầy, đã về lại với chỗ đứng đúng nhất của mình: ông không đòi Chúa theo ý mình, song là vâng theo ý Chúa; ông không dẫn đường cho Chúa nhưng là bước theo dấu chân Ngài. Cao điểm của sự “đi theo” này là việc Phêrô chịu đóng đinh thập giá vì Đức Kitô vào năm 69 AD.
Như thế, vị Giáo hoàng tiên khởi, với biết bao yếu đuối sa ngã, cuối cùng đã lấy cái chết của mình để xác minh chân lý thập giá. Từ chỗ muốn dạy cho Thầy mình về sự khôn ngoan của thế gian đến việc khám phá và ôm ấp giá trị sâu xa sự điên rồ của Thiên Chúa. Từ chỗ phủ nhận và ngăn chận Thầy mình bước đi trên con đường khổ đau, đến việc chính mình anh dũng tiến vào. Nhưng nhờ đâu mà Phêrô có được thái độ và hành vi hào hùng đó? Phải chăng chính nhờ niềm xác tín vào Đức Giêsu, Đấng ông đã tuyên xưng. Nếu không có xác tín, hẳn ông đã chẳng dám theo.
Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu thúc đẩy người ta vâng theo lời Ngài. Khi Chúa bảo “Hãy lui ra sau Ta”, Phêrô vâng lời lui ra chứ không giận dỗi bỏ đi. Khi bị mắng là “Satan”, Phêrô vẫn khiêm tốn nhìn nhận tầm nhìn nông cạn của mình chứ không tự ái phản đối.
Thử hỏi tôi có được niềm xác tín làm phát sinh thái độ khiêm tốn và nghe lời Chúa như thế không, hay tôi vẫn khăng khăng chối từ lối đường thập giá?
Một nhà tư tưởng quả quyết: “Luật của thập giá là luật phổ quát. Làm người, không ai thoát khỏi thập giá”. Như thế chối từ thập giá là chối từ làm người đúng nghĩa.
Nhưng phải vác thập giá theo Đức Giêsu-tức là sống theo những giá trị Tin Mừng như vị tha, thanh khiết, chân thật, từ tâm, phục vụ, quên mình…-tôi mới là con người trọn vẹn, một con người phản chiếu dung mạo Thiên Chúa.
16. Đức Kitô, Ngài Là Ai?
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Trung Tây - www.nguyentrungtay.com)
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là kitô và mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9,26-27; 10,1; 16,12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này, "Đức Kitô, Ngài là ai?"
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong - tương tự như thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,
- Người ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,
- Người ta nói Thầy là Êlia.
- Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
- Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
- Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
- Thầy là Đức Kitô (Lc 9,20), Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tuyên xưng hai điều,
(1). Ông tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu bởi Thiên Chúa, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;
(2). Điều này khá mới lạ, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Con của Thiên Chúa.
Không giống như các dân tộc lân bang thờ phượng đa thần, người Do Thái chỉ thờ phượng một Giavê Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, “Hỡi Israel, Giavê là Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa duy nhất” (Đệ Nhị Luật 6,4). Nhưng từ cửa miệng của Phêrô, một tư tưởng thần học mới đã hé nụ, đó là, Đức Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa.
Phêrô là một trong những Kitô hữu đầu tiên, theo như thánh Matthêu, đã tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là, Giavê Thiên Chúa có ba bản thể (essence): Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Linh. Tín điều này loài người không bao giờ hiểu được, nên được gọi là một Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu đã cất tiếng khen ngợi người thủ lãnh của nhóm Mười Hai là ông đã được Thiên Chúa chúc lành, bởi chính Thiên Chúa đã mạc khải cho Phêrô biết mầu nhiệm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau đó, Đức Giêsu đổi tên Simon sang Phêrô, Kêphas, nghĩa là đá. Bắt đầu từ giây phút đó, Phêrô trở thành nền đá vững chắc trường tồn của Giáo Hội Kitô. Sau cùng, người ngư phủ Biển Hồ cũng được trao ban chìa khóa Nước Trời. Điều gì Phêrô cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì Phêrô tháo cởi, trên trời cũng sẽ tháo cởi (Mt 16,19). [Thánh Phêrô được minh họa trong tay đang cầm hai chìa khóa. Một vài người thắc mắc là tại sao Phêrô lại cầm tới hai chiếc chìa khóa trong tay? Nguyên văn trong bản tiếng Koiné, thánh sử Mátthêu sử dụng chữ klêdas, có nghĩa là những chiếc chìa khóa. Như vậy, vào ngày hôm đó, Đức Kitô đã trao cho Phêrô không phải chỉ là một chiếc chìa khóa. Bao nhiêu chìa khóa? Rất tiếc, thánh Mátthêu không nhắc đến. Nhưng, có lẽ, dựa vào chi tiết của câu nói tiếp theo sau đó, “... dưới đất con cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc, dưới đất con tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi... (Mt 16,19), người họa sĩ vẽ hình Phêrô nghĩ rằng Đức Kitô đã trao cho vị Giáo Hoàng tiên khởi hai chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa để cầm buộc, một chiếc chìa khóa để tháo cởi.]
Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
- Ông vẫn tin vào Thượng Đế?
Vị tu sĩ đáp,
- Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.
Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
- Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,
- Tôi, tôi tin vào tấm hình này...
Suy Niệm
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,
- Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,
- Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, iPod nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.
17. Đêm dài nhất của Phêrô – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Pholo II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác sau đây. Ngài đã thực hiện:
- 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.
- 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.
- 3,078 bài nói chuyện và bài giảng.
- 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu. Chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.
Người đã viết:
- 13 thông điệp
- 36 Tông thư
- 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt
- 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội đồng.
Ngài đã đọc diễn văn cho:
- 600 chuyến “Đi Viếng Mộ Thánh Phêrô” của các giám mục.
Ngài đã công bố:
- Giáo luật mới và sách Giáo Lý Công giáo, (Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm)
Ngài đã tôn phong:
- 798 chân phước.
- 280 thánh mới (trong đó có 117 thánh tử đạ Việt nam 19-6-1988)
- Chưa kể 233 vị Thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.
- Tổng cộng 145 buổi lễ phong thánh.
Ngài đã chọn:
- 2650 Giám mục trong số 4200 giám mục trong Hội thánh.
- 159 Tân Hồng Y.
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.
***
Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo hội của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phêrô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng Tin Mừng hôm nay đã nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.
Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ về thân thể của Người, lập tức Phêrô được Chúa cha mạc khải đã mạnh dạn thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Người liền khen ông là người có phsuc và trao cho ông quyền trên Giáo Hội: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (mt 16,18-19).
Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tân phong Phêrô làm thủ lãnh cuả Giáo Hội. Người đã đổi tên Simon của ông thành Phêrô, tiếng Aram là Kêpha nghĩa là Tảng Đá, tượng trưng cho sự vững chắc trường tồn mà Thánh Kinh chỉ dành cho một mình thiên chúa: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Người đã xây Hội Thánh của người trên tảng đá Phêrô và hứa bảo vệ Hội Thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Người còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với tối thượng quyền này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.
Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh giáo Hội vì Phêrô đã mắn tuyên xưng Đức Tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Vì chỉ ít phút sau đó, Đức Giêsu đã phải nặng lời với ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy” (Mt 16,23).
Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Phêrô quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Vì ngày đêm hôm ấy, không ai bắt ông phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đầy tớ thượng tế gặng hỏi, ông đã thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy” (Mt 26,74).
Thế là đã rõ, Đức Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội Thánh của Người, mà đã chọn một dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã, và … phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Đức Giêsu đã nhìn thấy suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn thẳm sâu và một long sám hối chân thành.
Phêrô, một con người khiêm tốn:
Sau khi Đức Giêsu giảng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-nét, Người bảo Simon: “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Simon đáp: “Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5, 4-6). Kinh nghiệm chài lưới ông đã quá rõ, đánh cá ban ngày chẳng hy vọng gì, nhưng ông không cãi, ông khiêm tốn vâng lời. Khi kéo lên một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi muốn rách lưới, ông không hả hê vui mừng, cũng chẳng kinh ngạc trước phép lạ cả thể, mà nghĩ ngay đến thân phận bất xứng của mình. Ông chạy đến sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Simon, Đức Giêsu không do dự, quyết định tuyển chọn ông: “Đừng sự, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta” (Lc 5,10).
Phêrô, một con người sám hối:
Sau khi nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn vầ cái chết của người, thì Phêrô liền nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 17,22). Nhưng Đức Giêsu đã mắng ông thậm tệ, còn gọi ông là Satan. Thực tình ông chưa hiểu sứ mạng thiên sai của Người, ông thưởng làm thế là thương Thầy, nhưng thật ra ra là ông đang nối giáo cho giặc. Ông chẳng hiểu gì cả, nhưng ông biết mình sai, ông im lặng, không cãi lại, âm thầm ăn năn.
Ông tưởng mình sẽ không bao giờ sai phạm nữa, chẳng bao giờ sa ngã nữa. Suốt ba năm theo Thầy, chắc ông sẽ mạnh mẽ hơn trong Đức Tin, sẽ trung kiên với Thầy cho đến cùng. Thế nên, khi nghe Đức Giêsu tâm sự trong bữa tiệc ly: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,21), thì Phêrô không thể nào tin được. Người còn nói đích danh Phêrô sẽ chối Thầy ba lần. Ông càng bực tức và quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối thầy” (Mt 26,35). Nhưng chuyện gì đã xảy ra đêm hôm ấy, chúng ta đều biết rõ. Thánh sử Luca ghi lại: “Ông Phêrô trả lời cho tên đầy tớ vị thượng tế: “Này anh, tôi không biết anh nói gì?” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn Phêrô..” (Lc 22,60). Hai ánh mắt gặp nhau. Chúa biết hết rồi. Phêrô xấu hổ qua đỗi, nước mắt tuôn trào, ông lầm lũi ra khỏi pháp đình, tan nát cõi lòng, bước chân nặng trĩu.
Đêm hôm đó, một đêm dài nhất trong đời, ông không thể nào ngủ được, ông gặm nhấm tội lỗi của mình, tại sao mình có thể phản bội Thầy được. Hóa ra mình cỉ là cát bụi chứ đâu là Tảng Đá, là tội nhân chứ đâu phải là thánh nhân. Ông khóc òa lên, khóc mãi, khóc mãi, cho đến khi ông nhớ lại lời của Thầy: “Thầy không bảo là (phải tha) đến 7 lần mà là 70 lần 7” (Mt 18,21). Và ông biết mình đã được thầy tha thứ, ông biết mình đã được than gay từ cái nhìn của Thầy trên dinh tượng tế.
Ông quên đi quá khứ tội lỗi để hướng đến tương lai của ơn thánh: Cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Sau này Phêrô đã khuyên bảo các tín hữu của mình: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19).
***
Lạy Chúa, Chúa đã tuyển chọn thánh Phêrô cả khi ngài thiếu sót, yếu đuối và sa ngã. Xin cho chúng con biết học nơi Thánh Phêrô lòng khiêm tốn thẳm sâu và lòng sám hối chân thành, để chúng con cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa và để chúng con trung kiên theo Chúa đến cùng. Amen.
18. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI năm A này có thể được gọi là lễ trao ban quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Is 22: 19-23
Bản văn I-sai-a gợi lên việc tấn phong một tổng giám quản hoàng cung của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
Rm 11: 33-36
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma kết thúc phần đạo lý, thánh Phao-lô ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa.
Mt 16: 13-20
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)
Bài Đọc I nầy hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy tước vị và quyền quản trị hoàng cung qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.
Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a thuật lại chắc chắn được định vị vào trước thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa. Chính Thiên Chúa sẽ truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” đương nhiệm, mà trao cho ông Ê-li-a-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài. Câu chuyện nầy có hai nét đặc trưng: lễ tấn phong và hậu cảnh thiên sai.
1. Lễ tấn phong:
“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho y; cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y; quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay y”: Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định tước vị và quyền hành của ông: “Đối với dân cư Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa, y sẽ là một người cha”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”, chắc chắn, ở đây, tước hiệu này muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến tư lợi của mình. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày đăng quang của mình, chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền bính của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích Mê-si-a.
2. Hậu cảnh thiên sai:
Trong ánh sáng giải thích theo chiều hướng thiên sai, phần cuối bài thơ mặc lấy một chiều kích khác. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y: y mở ra thì không ai đóng được, y đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho y vững chắc như đinh đóng cột, và y sẽ làm cho gia tộc của mình được rạng rỡ vinh quang.” Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một tân vương. Nhưng phải chăng đây thật sự là một “tân vương thuộc dòng dõi vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích hậu duệ vua Đa-vít này theo nghĩa thiên sai. Quả thật, sách Khải Huyền thánh Gioan đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Theo sau thánh Gioan, các Giáo Phụ cũng đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh thiên sai nầy.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)
Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo lý của thư gởi tín hữu Rô-ma.
1. Ơn Cứu Độ cho người Do thái:
Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: sự bất phục tùng của dân Ít-ra-en lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.
2. Niềm cảm tạ tri ân:
Từ đó, thánh Phao-lô cất cao lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi. Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh nhân diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình.
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a vang lên trong tâm trí của thánh nhân:
“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?
Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?
Người đã thỉnh ý ai để giúp Người thông hiểu,
bảo cho Người biết lối công minh,
dạy cho Người mở mang kiến thức,
chỉ cho Người con đường trí tuệ?” (Is 40: 13).
Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Thiên Chúa:
“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
….
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể!” (Tv 139: 6, 17).
3. Lời chúc tụng:
Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men.” Lời tán tụng nầy, câu “Vinh Chúc” nầy với những đặc ngữ chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xuyết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được một kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi khơi nguồn cảm hứng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)
Vì người Biệt Phái và kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư thân thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế, nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền của vua Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp, một nhà cai trị chừng mực và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp”. Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông.
Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.
1. Thăm dò dư luận.
Trước khi đề cập đến cuộc chuyện trò cách chi tiết hơn, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện vừa mới xảy ra trước đây. Sự kiện thứ nhất chỉ một mình thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 67-69).
Sự kiện thứ hai kể ra việc Đức Giê-su thực hiện hai phép lạ cùng một lúc: đi trên mặt biển và dẹp yên bảo tố, hai phép lạ này đặc biệt dành riêng cho các môn đệ và chỉ cho các môn đệ mà thôi. Thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và là người duy nhất được Thầy cho phép đi trên biển dậy sóng để gặp Ngài. Sau cùng tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33). Đức tin trong những giây phút đầy cảm kích còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi họ tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Vì thế, đây là giây phút thuận tiện để mà Đức Giê-su dò xét mức độ đức tin của họ vào Ngài.
Trước hết, Ngài hỏi các ông dư luận quần chúng về Ngài ngỏ hầu giúp các môn đệ hiểu biết hơn rằng đức tin của họ phải thoát khỏi thế kiềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào. Kẻ thì nói Ngài là ông Gioan Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc độc giả nhớ rằng tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su chính là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ngôn sứ Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, tước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Có người lại cho Ngài là ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14). Sách Ma-ca-bê quyển hai chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (2Mcb 15: 13-16; x. Xh 32: 11).
2. Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô.
Tuy nhiên, không phải dư luận quần chúng về Ngài mà Chúa Giê-su thực sự muốn biết khi hỏi các môn đệ của Ngài. Câu hỏi về dư luận quần chúng chỉ như khúc dạo đầu cho một câu hỏi khác, còn quan trọng hơn nhiều, mà Đức Giê-su muốn dò hỏi từ chính các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, thánh Phê-rô trả lời nhân danh họ: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là một tước hiệu được phiên âm từ tiếng Hy-lạp: “Christos” dịch sát từ tiếng Híp-ri: “Mê-si-a”, có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong các sấm ngôn Cựu Ước, tước hiệu này loan báo Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu độ dân Ngài. Còn trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là biểu thức tiêu biểu Cựu Ước. Biểu thức nầy nhắc nhớ rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng vô tri vô giác của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, nghĩa là Ngài không đơn giản chỉ là Đấng Ki-tô phàm nhân thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Ki-tô có nguồn gốc thần linh. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay là đầy đủ nhất so với Tin Mừng Mác-cô: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8: 29) và Tin Mừng Lu-ca: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20).
Đó là lý do tại sao chỉ duy Tin Mừng Mát-thêu ghi lại cho chúng ta rằng Đức Giê-su tán dương lời tuyên xưng đức tin nầy và nhận ra mặc khải siêu nhiên mà thánh Phê-rô nhận được: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu đuối mõng dòn trái ngược với Thiên Chúa hằng sống. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải. Lời tuyên xưng này cũng đã được Đức Giê-su xác nhận và chứng thực khi chính Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài: “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Vài ngày sau đó, Đức Giê-su sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp.
3. Lễ tấn phong thánh Phê-rô:
Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là lễ tấn phong Phê-rô cũng chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu, lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Kepha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Kepha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng, nhưng là một danh từ. Khi nâng danh từ “kepha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Kepha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên thánh nhân từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy để lãnh nhận một sứ mạng mới, như vậy, với một con người mới và một vận mệnh mới, thánh Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay trên đó Chúa Giê-su xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Đức Giê-su chọn hình ảnh: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” để khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”. Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng cung, ông có nhiệm vụ coi sóc và quản trị hoàng cung. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, vị tổng quản Giáo Hội, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và quản trị Giáo Hội của Đức Kitô.
“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” để áp dụng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “ngăn cấm”, và “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.
4. Quyền Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô:
Để kết thúc buổi chia sẻ này, chúng ta nên đọc và hiểu bản văn Tin Mừng Mát-thêu này một cách tinh tế, đừng vội đồng hóa lời tuyên xưng của thánh Phê-rô với con người của thánh nhân, bởi vì ngay sau câu chuyện này, Đức Giê-su đã quở trách nặng lời với thánh nhân khi thánh nhân tìm cách ngăn cản Ngài thực hiện con đường cứu độ cho muôn người qua cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Vì thế, chính không phải con người của thánh nhân, nhưng lời tuyên xưng của thánh nhân mới là đá tảng vững chắc trên đó Đức Giê-su xây dựng Hội Thánh của Ngài mà ngay cả quyền lực tử thần cũng sẽ không thắng nổi.
Vì thế, không lạ gì trong các sách Tin Mừng, ngoài bản văn của thánh Mát-thêu, chúng ta còn gặp thấy hai bản văn khác nữa nói về quyền tối thượng của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng của thánh Lu-ca, vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi báo trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay thánh nhân sẽ chối thầy đến ba lần, Đức Giê-su nói với chỉ một thánh Phê-rô,: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22: 32). Theo truyền thống Tin Mừng Lu-ca, thánh Phê-rô được trao quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ngài không phải vì thánh nhân có đức độ tài năng hơn các bạn đồng môn khác, nhưng chỉ vì thánh nhân có cảm nghiệm sâu xa hơn những môn đệ khác về sự mõng dòn yếu đuối của bản thân mình qua ba lần chối Thầy và sự tha thứ vô hạn của Thầy đối với mình. Chỉ như thế, thánh nhân mới có thể cảm thông những yếu đuối của anh em mình và nâng đỡ đức tin của anh em mình trong những gian nan thử thách.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, vào sáng sớm sương mờ của biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su Phục Sinh gặp gỡ các môn đệ của Ngài. Sau khi đã cho các ông một mẽ lưới cá lạ lùng và đã dọn sẵn cho các ông một bữa ăn trên bờ hồ, xảy ra một cuộc đối thoại thật cảm động của Chúa Giê-su với chỉ một mình thánh Phê-rô. Trong cuộc đối thoại đó, Chúa Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Anh có mến Thầy không?”, và ba lần Chúa Giê-su trao quyền mục tử cho thánh nhân (Ga 21: 15-17). Như vậy, theo truyền thống Tin Mừng Gioan, quyền mà Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô không là cai trị, nhưng là ân cần chăm lo cho đoàn chiên của Ngài bằng trọn một tấm lòng yêu mến mà thánh nhân dành cho Thầy mình. Quả thật trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11), khác với kẻ chăn chiên thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10: 12). Kẻ chăn chiên thuê mà Chúa Giê-su đề cập đến ở đây chính là giới lãnh đạo tôn giáo của dân Ít-ra-en, họ cũng đã được Thiên Chúa chọn và trao ban quyền chăm lo cho dân của Ngài. Nhưng Chúa Giê-su trách cứ họ khi gọi họ là kẻ chăn chiên thuê vì họ chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình, không sống chết với đoàn chiên mà Thiên Chúa ủy thác cho họ.
Có hiểu như thế, chúng ta mới có thể nhìn thấy cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội Chúa Ki-tô thật đẹp biết bao. Cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội được chính Đức Giê-su thiết lập không phải để cai trị nhưng để yêu thương và phục vụ. Ngay chính Tin Mừng Mát-thêu, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta cuộc tấn phong thánh Phê-rô hôm nay, cũng ghi lại những lời tâm huyết mà Đức Giê-su muốn các môn đệ chân chính của Ngài phải khắc cốt ghi tâm: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 25-28). Chính thánh Phê-rô đã hiểu, nên sau này thánh nhân đã khuyên các bậc kỳ mục: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã trao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiểu không bao giờ hư nát” (1Pr 5: 2-4).
Cuối cùng, chúng ta đừng quên, chính đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã chọn bản văn Tin Mừng Gioan chứ không bản văn Tin Mừng Mát-thêu vào ngày lễ đăng quang của mình, để nhấn mạnh chức năng Mục Tử tối cao của ngài, chứ không vai trò thủ lãnh tối cao của Giáo Hội.
19. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Niềm tin Kitô giáo không phải là một quyển sách hay một lý thuyết nào mà là một con người: đó là Giêsu Na-da-rét, là Thiên Chúa thật và là người thật.
Chúng ta hãy cùng với thánh Phêrô, tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Hôm nay, Chúa Giêsu sẽ đến với chúng ta nơi bàn thờ nầy, không phải dưới khuôn mặt con người mà là một tấm bánh. Chúng ta có thể tin như Phêrô không?
Chắc chắn, nếu trong giây phút nầy, Ngài hiện ra với chúng ta như khi xưa ở miền đất Xê-da-rê-Phi-líp-phê, và Ngài cũng hỏi chúng ta như đã hỏi các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời sao?
Có lẽ chúng ta sẽ trả lời như Phêrô: “Thầy là Thiên Chúa”, “Thầy là Con Thiên Chúa vv...” Nhưng câu trả lời của chúng ta có giá trị như thế nào? Chúng ta sẽ trả lời đúng với lòng mình không?
Thực sự, hôm nay và mỗi ngày, Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta như thế: “Con nghĩ Thầy là ai đối với con?” Sự có mặt của Ngài trong Bí Tích Thánh Thể là một câu hỏi không lời. Chúng ta không thể tránh né câu hỏi đó, nếu không, đức tin của chúng ta sẽ vu vơ, không rõ nét. Mỗi người chúng ta phải giáp mặt với Chúa trong tận đáy lòng mình, và phải xác định thái độ và niềm tin của chúng ta.Chỉ có Chúa Giêsu mới nghe câu trả lời của chúng ta , và đó là chuyện của mỗi người chúng ta với Chúa.
Chúng ta hãy xem thái độ của những người đương thời với Ngài. Họ đã gặp Ngài, đối diện với Ngài, họ nghĩ sao về Ngài.
Những người hàng xóm, họ hàng: “Ông nầy là con ông Giuse”, “con bà Maria”... Đó là cái nhìn của những con người gần Ngài nhất. Họ không cần đặt vấn đề về những gì họ nghe thấy, và họ lại còn hiểu lệch lạc: “Làm sao ông ấy giỏi như thế, làm được những việc lạ lùng như thế?”
Những người ganh ghét như mấy ông Pha-ri-sêu lại cố gắng bóp méo những gì họ chứng kiến, xuyên tạc sự thật, không dám nhìn giá trị của người khác: “Ông nầy ăn uống với người tội lỗi!” “Ông ấy không giữ luật ngày sabbat.” Và đến một giai đoạn nào đó, họ xúc phạm: “Ông bị quỉ ám.”
Nhưng có những người thành tâm, với cái nhìn không méo mó, họ cũng nhận thấy được một cái gì khác thường nơi Ngài.
“Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền”.
“Ngài làm những dấu lạ… từ trước đến nay không ai làm được như Ngài”. Và họ tưởng rằng Ngài là một tiên tri, họ nghe lời Ngài và ngợi khen Thiên Chúa vì những việc Ngài làm.
Ông Ni-cô-đê-mô là người Pha-ri-sêu đã đến gặp Ngài ban đêm và công nhận: “Thầy là Đấng Thiên Chúa sai đến…” Người mù thành Giê-ri-khô đã gọi Ngài là “Con vua Đa-vít.
Một số người khác gặp Ngài và được Ngài tỏ cho họ biết Ngài là ai, trong số đó chúng ta nhận thấy người phụ nữ Samari: “Đấng Thiên Sai là ai vậy, thưaThầy?”
Chúa Giêsu trả lời và cho chị biết: “Chính là Ta, người đang nói chuyện với chị”. Chị nhận ngay và bỏ bình nước đó, chạy về làng báo cho mọi người biết. Dân làng nhờ đó nhận ra Ngài: “Chúng tôi đã biết Ngài và chúng tôi biết Ngài là Đấng Cứu Thế”.
Anh mù Bar-Ti-mê đã được chữa lành. Trước những ông Pha-ri-sêu sừng sỏ, anh đã tuyên xưng: “Ngài là một vị tiên tri”. Và trong cuộc chất vấn gay gắt đó, họ bảo anh: “Anh hãy làm sáng danh Chúa. Phần chúng tôi, chúng tôi thấy rằng tên đó là một người tội lỗi”. Anh mù trả lời một cách ngay thẳng: “Ông ấy là người tội lỗi, điều ấy tôi không được biết: tôi chỉ biết một điều là xưa tôi mù và bây giờ tôi được sáng mắt… Không có ai mở mắt cho người mù từ thuở mới sinh. Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì chẳng làm được như vậy”.
Câu chuyện cũng có một nét gì đó khôi hài và mỉa mai, nhưng chúng ta nhìn thấy lòng tin chất phát của anh mù. Vì thế, khi gặp lại anh, Chúa Giêsu cho anh biết rõ hơn: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh trả lời: “Người là ai, xin Thầy nói để tôi tin”. Chúa Giêsu nói với anh: “Ngươi đã thấy Người, chính Người đang nói với ngươi đây”. Anh đáp: “Thưa Thầy, tôi tin”. Và anh sụp lạy Ngài.
Chúng ta tin thế nào? Chúng ta có dám nói như Na-tha-na-en không: “Thầy là Con Thiên Chúa.” hay không?
Chúng ta hãy nhìn lại niềm tin của chúng ta. Hãy cùng với thánh Phêrô tuyên xưng một cách mạnh mẽ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Thánh Phao-lô, trên con đường Đamat, đã nhận biết Chúa và hoàn toàn sống cho Chúa, đến nỗi Ngài đã nói mà không sợ ai hiểu lầm: “Tôi sống, nhưng không là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. “Không ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô…”
Các thánh mà chúng ta được biết đã hoàn toàn sống “hết mình” cho Chúa. Họ đã biết họ tin vào ai. Còn chúng ta? Nếu thực sự chúng ta tin Ngài, tại sao chúng ta không sống thực sự cho Ngài? Mấy người trong chúng ta dám nói như Phao-lô: “Sự sống của tôi là Chúa Giêsu Kitô?”
Nơi bàn thờ nầy, Chúa Giêsu có mặt. Ngài cho chúng ta một hình thức kết hợp với Ngài sâu xa không thể tưởng được là ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ đáp lại tình yêu của Ngài như thế nào? Ngài đang đợi chờ nơi chúng ta một câu trả lời dứt khoát. Chúng ta sẽ nói sao?
20. Đá Tảng thật, Đá Tảng dỏm – Lm. Anmai
Lẽ thường tình, khi mà khoa học - kỹ thuật - công nghệ phát triển thì phẩm chất cũng tăng theo nhưng hình như ngược lại. Nói không biết có quá đáng hay không nhưng hầu hết các kết qủa của công trình thời hiện đại này đều kém chất lượng. Thử nghĩ xem từ giáo dục, y tế, xây dựng... cho đến tình người với người trong cuộc sống hiện tại nó cứ làm sao đó!
Với giáo dục thì không thể nào biết được là Việt Nam có bao nhiêu cái bằng giả và bao nhiêu cái bằng thật. Và trong cái đống bằng thật có đó nhưng chắc có mấy cái có chất lượng, mấy cái đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Theo thống kê thì chỉ có 30% sinh viên ra trường đáp ứng được nhu cầu của các công ty, các đơn vị sử dụng lao động. Vậy thì 70% những bác sĩ, kỹ sư và thậm chí là tiến sĩ, thạc sĩ sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp, sau khi cầm bằng trong tay? Phụ huynh ngày nay không còn đơn giản là chạy cơm chạy áo nữa mà còn phải chạy trường!
Y tế thì có ai vào bệnh viện mới hay! Chẳng hiểu sao những ai vào bệnh viện về đều chỉ xin một điều là "xin Chúa cho tôi ra đi nhanh chóng chứ đừng để tôi phải vào bệnh viện". Hỏi lý do thì chẳng ai chịu nói cả. Chỉ có ai vào viện mới hiểu được lý do mà thôi.
Tình người với người ngày hôm nay quả là một thực trạng thật đáng buồn thật bi đát. Người ta không còn yêu nhau, đến với nhau bằng mối tình thật nữa nhưng mà bằng tình dỏm. Nó cũng giống như con chuồn chuồn vậy: khi vui thì đậu - khi buồn thì bay. Tình yêu đôi lứa, tình cảm trong gia đình cũng thế, nó nhạt nhạt, nhẽo nhẽo làm sao đó! Có khi nhìn bề ngoài rất đẹp nhưng mà bên trong đang đứng trước bờ vực của ly tan mà người ngoài không tài nào thấy được.
Ngoài đời là thế! Gia đình là thế! Còn trong nhà tu thì sao? Thật ra nhà tu ngày nay do ảnh hưởng của tục hoá tràn ngập vào bốn bức tường của tu viện để rồi tình cảm của những người đi tu, của những người dâng hiến không còn tinh tuyền, không còn đẹp như xưa nữa. Chuyện này là chuyện hết sức tế nhị và nhạy cảm, không nên nói ra. Chỉ có mỗi người tự vấn trước mặt Chúa và trước mặt lương tâm thì mới thấy mà thôi. Và cười ra nước mắt khi nói đến chuyện Chúa và lương tâm. Hình như "gần chùa gọi bụt bằng anh" hay sao đó nên ở gần Chúa nên người ta quá xem thường Chúa và coi Chúa ngang hàng ngang lứa. Nếu có Chúa thật thì tu sĩ, linh mục đâu có cư xử như thế với anh chị em cùng đi tu với mình, cùng dâng hiến với mình như thế!
Một lãnh vực hết sức gần gũi với con người đó là chuyện xây dựng. Nhan nhản các công trình bị rút ruột, bị ăn sắt, ăn thép nên chất lượng chẳng ra làm sao cả. Có những phóng sự trình chiếu trên tivi thật nực cười: cọc bê tông nhưng ở trong thay vì cốt thép người ta làm bằng tre!
Một lần đang ngồi học trong nhà dòng, cả thầy và cả trò giật bắn người khi nghe một tiếng nổ cái "đùng". Tưởng cái gì, hoá ra là gạch dưới nền chẳng hiểu sao bỗng nhiên bị nổ tung lên hết. Mọi người đến xem, hoá ra là ở dưới nền người ta trộn hồ toàn là cát chẳng thấy xi măng đâu cả. Ngước mắt nhìn lên toà nhà tu viện được xây trước ngày "miền Nam hoàn toàn giải phóng" sao mà nó vững chải thế, sao mà nó kiên cố thế! Lẽ ra với máy móc hiện đại, kỹ thuật tiên tiến thì phải tốt hơn ngày xưa chưa có nhiều máy móc như bây giờ chứ!
Thì ra là ngày hôm nay, người ta đánh mất cái nền tảng, cái đá tảng của căn nhà, của tâm hồn và của cuộc đời.
Trang tin mừng khá ngắn mà Thánh Matthêu vừa thuật lại cho chúng ta thấy rõ sự chọn lựa, sự cắt đặt của Chúa cho nền tảng của Giáo Hội.
Sở dĩ Giáo hội luôn bền vững và tồn tại dù trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu bão tố là vì Thiên Chúa đã biết và đã chọn đúng nền móng cho toà nhà Giáo Hội. Thiên Chúa là một chủ đầu tư thật tuyệt vời, Chúa không phải như những nhà đầu tư trần gian đã không biết "chọn mặt gửi vàng". Chúa nhìn người và Chúa biết người, dẫu rằng một Phêrô thật mong manh và mỏng dòn, nóng tính và vồn vập nhưng Phêrô đã sống trọn vẹn niềm tin của mình vào Chúa và vẹn tròn niềm tin của Chúa đặt nơi Ngài.
Vì sao như thế? Vì chính Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi tín hữu Rôma một lần nữa minh xác cho chúng ta rằng: "Sự giàu có, sự khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được? Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người?" (Rm 11, 33-35). Chính vì Thiên Chúa khôn ngoan và thông suốt, Ngài thấy rõ lòng của con người nên Ngài quyết định. Ngài đã ra nghị quyết nào là nghị quyết ấy thật chính xác, thật khôn ngoan chứ không phải ra rồi lại đổi. Ngài giàu lòng thương xót, chậm bất bình và giàu ân sủng. Thiên Chúa đã tin Phêrô và giao con thuyền Giáo Hội cho Phêrô. Thiên Chúa khôn và Phêrô cũng khôn. Nếu như Phêrô tự cao tự đại, tự mãn thì Phêrô không kê cuộc đời của mình vào Chúa nhưng đàng này Phêrô đã tín thác vào Chúa và để cho Chúa quan phòng cuộc đời của mình. Thật sự "đá tảng" Phêrô đã quá tuyệt vời, đã quá khôn ngoan để dựa cuộc đời mình vào cuộc đời của Chúa. "Đá tảng" Phêrô đã quá khôn ngoan để dựa vào "viên đá thợ xây loại bỏ đã trở thành đá tảng góc tường" là chính Chúa Giêsu.
Chính "viên đá thợ xây loại bỏ" mà Phêrô đặt vào là viên đá thật làm cho nền tảng Giáo hội được bình an, được vững chắc!
Nhìn lại những thực tại của xã hội, của con người chúng ta thấy đau đau làm sao đó trong cõi lòng, đau nhưng mà không nói được và có nói ra thì cũng bị người đời xỉ vả dèm pha thôi. Lý do thực tế nhất đã đưa đẩy xã hội, đưa đẩy con người, đưa đẩy người kitô hữu, đưa đẩy tu sĩ linh mục sống mất phẩm, mất chất phải chăng là đã không biết đặt cuộc đòi của mình vào tảng đá thật là chính Chúa.
Thay vì đặt vào đá tảng thật là Chúa thì con người lại đặt cuộc đời của mình vào những tảng đá như quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc ... Với con người, cứ tưởng chừng đá tảng tiền bạc, địa vị, danh vọng là đá tảng thật nhưng thật ra tất cả là đá dỏm. Tin hay không tin còn ở quan niệm của mỗi người. Có ai mang được quyền lực, tiền bạc, địa vị mà bao nhiêu năm tháng đổ mồ hôi, sôi con mắt và thậm chí phải thức trắng đêm để mưu mô tính toán chiếm đoạt được của người khác xuống mộ phần chăng?
Một câu chuyện có thật được một Cha trong Dòng kể lại sau khi đi Tây về kể lại là có an viện nọ ở bên Pháp. Chẳng hiểu sao mà du khách đến đan viện thấy cảnh trong tu viện buồn tẻ và u uất đến thế! Thấy cảnh tượng như thế ai cũng buồn nản. Đan Viện Trưởng bắt đầu cải tổ lại đời sống trong đan viện bằng cách lấy lại đời sống thiêng liêng, đời sống đạo đức, cầu nguyện thì tình hình bắt đầu thay đổi. Từ ngày ấy các vị ẩn sĩ thay đổi đời sống, họ yêu thương nhau hơn và chính tình yêu của họ đã lan toả đến tất cả những người đến thăm đan viện.
Lý do chính để đánh mất đi cái bầu khí yêu thương hiệp nhất trong đan viện đó chính là vì các đan sĩ đã không còn bám vào Chúa nữa. Khi và chỉ khi người ta đánh mất Chúa, đánh mất đá tảng thật của mình thì mới đâm ra đố kỵ, hơn thua, tranh giành, chà đạp, nói hành nói xấu nhau. Nếu có Chúa thật ở trong mỗi đan sĩ của đan viện thì chắc có lẽ không xảy ra tình trạng bi đát trước kia.
Ngày nay đan viện ấy khá nổi tiếng với nhiều du khách khi đặt chân đến thăm viếng đan viện. Đan viện ấy không phải nổi tiếng vì sầm uất, vì hoành tráng nhưng đan viện ấy nổi tiếng vì đã có một đời sống mật thiết gắn kết với Chúa.
Là giáo dân, tu sĩ hay linh mục cũng mang trong mình cái phận người mỏng dòn, mong manh và yếu đuối như Phêrô nhưng chúng ta có biết chỗi dậy sau những lần vấp ngã, sau những lần chối Chúa như Phêrô hay không? Chúng ta có dám thỏ thẻ với Chúa như Phêrô đã từng thỏ thẻ với Thầy: "Thầy ơi, tin con đi con yêu mến Thầy, tình con tuy phôi pha nhưng chân thành thiết tha!".
Với Chúa, với anh chị em đồng loại cũng vậy, nếu như chúng ta sống với nhau bằng một lòng tin chân thành, một lòng tin thiết tha thì dù tình chúng ta có phôi pha đi chăng nữa nhưng cuối cùng Chúa cũng như anh chị em đồng loại sẽ tin và yêu chúng ta như Chúa vẫn tin và yêu Phêrô như vậy. Chỉ ngại chăng là chúng ta cứ theo cái thói tục của thế gian là sống không chân thành với anh chị em đồng loại đã đành mà còn không chân thành với Chúa nữa mới chết!
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt cuộc đời chúng ta vào đá thật hay đá dỏm.
Nguyện xin Thánh Phêrô giúp chúng ta biết bắt chước như Ngài là đặt cuộc đời chúng ta vào đá tảng là Thầy Chí Thánh như thánh nhân đã từng đặt.
Nguyện xin Chúa Giêsu là viên đá góc, viên đá tảng giúp mỗi người chúng ta biết đặt cuộc đời chúng ta vào đá tảng thật là Chúa.
21. Ngài là Đức Kitô!
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 16,13-20 nằm ở trung tâm của tin mừng Matthêô. Đây là đoạn kết thúc và cũng là cao điểm của phần đầu của tin mừng bàn về sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilêa, như là Đấng Thiên Sai được hứa ban (4,17-16,20). Chủ đề chính của đoạn nầy là nói đến căn tính của Chúa Giêsu, và việc Chúa Giêsu trao quyền thủ lãnh cvà điều hành cho Phêrô. Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Bối cảnh (c. 13a); - Ý kiến về căn tính của Chúa Giêsu (cc. 13b-17); Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19); Kết luận (c. 20).
Bối cảnh (c. 13a)
Bối cảnh của trình thuật nầy là một chỉ dẫn về không gian: Chúa Giêsu “Đến vùng Caisaria của Philip” (c. 13a). “Caesarea của Philip là một nơi rất đẹp dưới chân núi Hermon, trên nguồn nước chính của sông Giorđan. Thần Baal được sùng bái ở đây trong thời Cựu ước; sau đó người Hy lạp thay thế thần Pan vào, và vùng nầy mang tên Paneas, đền thờ của thần gọi là Panion… Vua Hêrôđê Cả xây một đền thờ cẩm thạch cho Augustus Caesar, người đã hiến cho ông vùng nầy; và Philip, vị tổng trấn sau đó đặt lại tên cho thành là Caesarea để tôn kính hoàng đế. Tên “Philippi” nghĩa là “của Philip” được thêm vào để phân biệt vùng nầy với bờ biển *Caesarea (x. Cv 8,40)…” (D.F.P., Caesarea Philippi, in Wood, D. R. W.; Marshall, I. Howard: New Bible Dictionary. 3rd ed. Leicester, England, 1996, p. 153). Chính giữa khung cảnh vùng “linh thánh” nầy, dâng kính cho các thần từ thời xa xưa đến giờ, Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi liên quan đến bản thân Ngài: “Người ta nói Con Người là ai?” Và Phêrô trả lời “Thầy là Đấng Kitô” (Mt 16,13-20; Mc 8,27-30; x. Lc 9,18-22).
Ý kiến về căn tính của Chúa Giêsu (cc. 13b-17)
Phần nầy thuộc dạng tường thuật, kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ; vì thế các động từ ở ngôi thứ ba. Đoạn nầy mở đầu với câu hỏi “Người ta nói Con Người là ai?” (c. 13b) và đóng lại bằng câu trả lời của Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). Như thế, “Con Người” được đồng hóa với “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng Sống”. Câu hỏi trên Chúa Giêsu đặt ra hai lần: một là để biết ý kiến của “người ta” (c. 13b), hai là ý kiến của các môn đệ (c. 15).
Về ý kiến của người ta, có nhiều phát biểu khác nhau. Điểm chung giữa các phát biểu nầy là họ xem Chúa Giêsu như là một ngôn sứ. Ý kiến về Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả đã thấy trong lời của Hêrôđê: “Ấy Yoan Tẩy Giả đó, ông ấy đã sống lại khỏi cõi chết, và vì thế những phép lạ mới phát hiện nơi Ngài" (14,2). Người khác cho rằng Chúa Giêsu là Êlia, vì Êlia “đến để tu chỉnh mọi sự” (17,11), và họ thấy điều nầy nơi lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Vào gần cuối tin mừng Matthêô sẽ nói là đông đảo dân chúng cho rằng Ngài là một ngôn sứ xuất thân từ Nazaréth niền Galilêa (21,11.46).
Có một ý kiến khác không phải từ giữa dân chúng, mà cũng không từ giữa nhóm môn đệ của Chúa Giêsu, đó là của Gioan Tẩy Giả. Ông đã đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: “Có phải Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác? (11,3). Và Gioan Tẩy Giả chỉ nhận được câu trả lời là hãy nghe những điều Ngài rao giảng và xem những hành động Ngài làm thì sẽ biết Ngài là ai (x. 11,4).
Với các môn đệ trước đây họ cũng thắc mắc Chúa Giêsu là ai (8,27). Hôm nay họ có câu trả lời từ miệng Simon Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c. 16). So với các bản văn song song, lời tuyên xưng trong Matthêô dài hơn, thêm câu “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mc 8,29; Lc 9,20; Ga 6,69). Đối với Matthêô, việc thêm nầy giúp xác định rõ hơn “Đức Kitô”, ho Christus. Ngay đầu tin mừng, “Đức Giêsu Kitô” được viết là “con Đavít, con Abraham” (1,1), nghĩa là Ngài được biết đến là thuộc dòng họ vua Đavít (1,17) và dân Israel thuộc mọi tầng lớp khác nhau đều xem Ngài là “Con vua Đavít” (9,27; 12,23; 15,22; 20,30tt; 21,9.15; 22,42). Tuy nhiên, không chỉ như thế. Ngài còn là “Con của Thiên Chúa hằng sống”. Chú ý là từ Christòs và hyios đều có mạo từ xác định, nghĩa là xác định rằng “Đấng Kitô nầy chính là Con của Thiên Chúa hằng sống”. Cách nói nầy chỉ được lập lại một lần nữa trong lời thẩm vấn của vị thượng tế (26,63; x. 27,40.43), và trong câu trả lời, chính Chúa Giêsu đã làm chứng về mình (26,64). Động tính từ zòvtos, “hằng sống” bổ nghĩa thêm cho “Thiên Chúa”. Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp… Thiên Chúa của kẻ sống” (22,32; 26,63), cũng có nghĩa là Thiên Chúa của dân Israel. Vậy Đức Giêsu Kitô, chính là Con của Thiên Chúa của tổ phụ dân Israel và Ngài được Thiên Chúa nầy sai đến, chứ Ngài không phải là một ngôn sứ (x. 14,33).
Lời tuyên xưng nầy không bởi “nghe và thấy” thuộc về kinh nghiệm con người, mà bởi mạc khải của Cha trên trời, như lời xác định của Chúa Giêsu (c. 17). Cụm từ “xác và máu” không thấy nơi khác trong các tin mừng. “Xác và máu” là thuộc về thân xác con nguời, và cũng là những gì của con người (19,5). Nó chỉ sự yếu đuối và hạn chế của con người so với tinh thần và Thiên Chúa (26,41; x. Ga 6,65; 1 Co 15,50). Bởi đó, Simon Phêrô không thể bởi kinh nghiệm và sự hiểu biết thuộc về con người mà có thể tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô. “Phúc cho”, makarios, chỉ phúc lành của Thiên Chúa ban cho ông. Cái phúc của Phêrô là được Chúa Cha mạc khải cho biết Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa hằng sống. Vậy lời tuyên xưng của Phêrô là câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra “Con Người là ai?”.
Trao quyền cho Phêrô (cc. 18-19)
Phần nầy chỉ có trong Matthêô. Nó gồm các câu nói trực tiếp, động từ ở ngôi thứ nhất và thứ hai, và các đại danh cũng thế. Hai câu 18 và 19 có cấu trúc tương tự là một lời trực tiếp Chúa Giêsu nói với Phêrô + hai khẳng định tương phản nhau khai triển từ khẳng định trước: - Câu 18: “Tôi nói với anh: anh là Đá - “trên đá nầy Thầy sẽ xây dựng hội thánh của Thầy” - “cửa hoả ngục không thể phá được”; - Câu 19: “Tôi trao cho anh: chìa khóa Nước Trời” - “Sự gì anh cầm buộc…” - “Sự gì anh tháo gỡ…”.
“Anh là Đá” (c. 18) rất khớp với câu khẳng định của Chúa Giêsu “Thầy là Đấng Kitô”. Cả hai đều dùng “Thầy là /anh là…”. Phêrô đã cho biết Chúa Giêsu là ai, và Chúa Giêsu cũng cho biết Simon là Petros, nghĩa là Đá. Tên Petros không phải lần đầu tiên được nhắc đến ở đây, mà đã thấy ở các đoạn trước (4,18; 8,14; 10,2; 14,28). Tuy nhiên những bản văn ấy không cho biết khi nào và tại sao có tên nầy được dùng, và nó mang ý nghĩa gì. Tên nầy đã được dùng mà không được giải thích. Chỉ trong đoạn 16,18-19 nầy, chúng ta mới thấy nguồn gốc và ý nghĩa trọn vẹn của nó. Đặt tên mới là trao ban một ơn gọi. Abram được Thiên Chúa gọi là Abraham, vì Ngài sẽ đặt ông làm cha nhiều dân tộc, các dân và con cháu ông sẽ được Thiên Chúa chúc phúc bởi ông, và Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của họ (Kn 17,1-8). Cũng thế Simon được gọi là Phêrô vì Chúa Giêsu sẽ đặt ông làm thủ lãnh trên Hội Thánh của Ngài sẽ thành lập, và Ngài sẽ trao quyền hành nắm giữ và tháo gỡ cho ông.
“Trên đá nầy Thầy sẽ xây hội thánh của thầy”. Trong 7,24 Matthêô dùng hình ảnh “nhà xây trên đá” để diễn tả nền tảng vững chắc của những người nghe lời Chúa và đem ra thực hành trước những thử thách. Phêrô đã được Chúa Giêsu khen ngợi về lời tuyên xưng, và được Ngài đặt tên là Đá, và làm nền móng cho hội thánh Ngài. Vì thế, “xây trên đá nầy” nghĩa là xây trên lời tuyên xưng đức tin nền tảng của Phêrô “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. 1P 2,5). Chỉ trên nền móng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” nầy thì cửa hỏa ngục mới không thể phá hủy được; ngược lại chúng còn bị tiêu diệt (x. 8,16. 29.33).
Hành động tiếp theo Chúa Giêsu làm cho Phêrô sau lời tuyên xưng của ông là “Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (c. 19). Sách Khải huyền cho biết chỉ mình Chúa Giêsu Kitô có chìa khóa nầy, nói là khi Ngài đã mở thì không ai có thể đóng lại, và khi Ngài đóng lại thì không ai có thể mở (Kh 3,7). Khi trao cho Phêrô “chìa khóa Nước Trời” là Chúa Giêsu trao cho ông quyền nắm giữ chìa khóa và hành động thay mặt Ngài.
“Chìa khóa Nước Trời” là chìa khóa dùng mở ra để đi vào trong Nước Trời. Xét trong bối cảnh của bản văn, sau khi lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu đã làm cho Phêrô hai điều: một là đặt ông làm Đá như là nền móng để xây dựng hội thánh Ngài trên đó; hai là trao cho ông “chìa khóa Nước Trời”. Cả hai điều nầy chỉ có thể hiểu được trong tương quan với Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Bởi đó “chìa khóa Nước Trời” là chìa khóa để hiểu và tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Thật vậy, Chúa Giêsu chính là “Nước Trời” đến trong thế gian (3,2; 4,17). Không phải ai cũng hiểu Ngài và nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Điều nầy đã thấy trong dư luận của dân Israel (cc. 13b-17; 11,16-19; 12,24; 13,54-56). Ngài chính là “các mầu nhiệm Nước Trời” mà chỉ các môn đệ được ban ơn để hiểu (x. 13,11). Phêrô được phúc bởi Chúa Cha mạc khải cho về căn tính của Chúa Giêsu; các môn đệ cũng có phúc vì “mắt được thấy và tai được nghe” (13,16). Bởi đó, “chìa khóa Nước Trời” mà Phêrô nhận lãnh từ Chúa Giêsu chính là những mầu nhiệm liên quan đến bản thân Ngài, và quyền cầm buộc và tháo cởi là quyền tối cao về giảng dạy liên quan đến “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Quyền của Phêrô là quyền giảng dạy các mầu nhiệm Nước Trời, và quyền tuyên bố giáo thuyết nào là đúng hoặc sai (x. 23,13).
Kết luận (c. 20)
Vậy Chúa Giêsu được tuyên xưng là Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Từ ho Kristos đóng khung lại câu chuyện (cc.16 và 20). Tuy nhiên Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ giữ thinh lặng về căn tính thiên sai của mình (8,4). Lý do việc giữ kín nầy là vì “Đức Kitô” nầy không phải là một vị thiên sai như dân chúng nghĩ. Phêrô sẽ để lộ ý nghĩ mình về một vị thiên sai trần thế trong trình thuật tiếp theo sau (16,22).
Lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là cốt lõi của nìềm tin Kitô giáo. Lời rao giảng và hành động của Ngài là gì đối với chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta tin Ngài là ai. Nếu tin Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, thì việc lắng nghe và thực hành lời Ngài, cũng như sống theo cách hành động của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ.
22. Thầy là ai?
(Tổng hợp từ R. Veritas)
- Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. (Mt. 16,16).
Bạn thân mến! Trên đây là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô đối với Chúa Giêsu. Và đây cũng là lời tuyên xưng hùng hồn nhất, sâu sắc nhất và trang trọng nhất.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tường thuật rằng: Thầy trò Đức Giêsu đi bên nhau, nói chuyện tâm tình bên nhau, Ngài tế nhị dẫn dắt và nhắc nhở các môn đệ bằng những câu hỏi để gây ý thức nơi các ông. Trước hết Ngài nói: "Người ta nghĩ Thầy là ai?" (Mt 16,13). Và dần dần Ngài dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16,15)
Đức Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Ngài, Ngài muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Ngài.
Là môn đệ Đức Kitô, mỗi người chúng ta phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của chính mình. Người môn đệ phải biết căn tính của thầy mình, phải biết mình đang theo ai và người mình theo từ đâu đến. Có như thế, người môn đệ mới có thể đi sâu vào trong tình thân mật với thầy mình, mới tin tưởng những điều thầy mình dạy, mới can đảm thi hành những giáo huấn mà thày mình đã trao ban.
Phêrô đã trả lời câu hỏi này cho phần của ông: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống”. Còn bạn và tôi, chúng ta trả lời câu hỏi này ra sao? Nếu Đức Giêsu đến và hỏi tôi và bạn hôm nay “Thày là ai”, tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? Nếu người ta hỏi tôi “Đức Giêsu là ai”, tôi sẽ giải thích cho họ như thế nào?
Được biết Đức Giêsu, được nói về Đức Giêsu, được làm chứng cho Đức Giêsu, được tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu … Đó là một ân phúc, ân phúc từ trời cao đổ xuống cho những người luôn vững lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, vì “không phải phàm nhân mạc khải cho điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17)
Sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô đứng lên để cùng cộng tác trong công trình xây dựng Hội thánh của Ngài: “Phêrô! con là đá, trên tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày”(Mt 16,18). Với lời nói này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh trên trần gian. Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng, nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng được vững bền. Phêrô giữ chìa khoá Nước Trời, nhưng chính Chúa gìn giữ toà nhà Nước Trời.
Chúa Giêsu đã mời gọi Phêrô làm người lãnh đạo và cai quản Giáo hội. Còn bạn và tôi, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong vai trò gì? Chúng ta phải làm gì để chung tay góp sức xây dựng Hội Thánh mà Ngài đã thiết lập?
***
“Phêrô! con là đá, trên tảng đá này, Thày sẽ xây Hội Thánh của Thày” (Mt 16,18).
Lạy Chúa! Nghe lời mời gọi của Đức Giêsu nói với Phêrô, con cứ nghĩ là Ngài chỉ nói với những người mà Ngài chọn làm giáo hoàng mà thôi. Nhưng suy xét kỹ hơn, con nhận ra Ngài nói với tất cả mọi người, mọi Kitô hữu. Ngài mời gọi mọi người trở nên đá tảng để chung tay góp sức xây dựng căn nhà Giáo Hội. Lạy Chúa! Xin giúp con biết quảng đại đáp trả lời mời gọi ấy. Amen.
23. Thầy là Đấng Kitô
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”, câu tuyên xưng này của Phêrô hẳn phải có một tầm quang trọng lớn lắm, căn cứ vào phản ứng trang trọng của Đức Giêsu khi tuyên bố: “Này anh Si-môn con ông Gio-na, anh thật có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Ngược lại, chính vì là tín hữu (hơn nữa tu sĩ và linh mục) mà thường khi nhiều người trong chúng ta lại có cảm tưởng là lời tuyên xưng trên cũng tầm thường thôi, chẳng có chi mới lạ; chắc hẳn vì ta đã quá quen thuộc với công thức tuyên tín thuộc lòng này.
Gần đây, khi theo dõi chương trình Frontline series có tựa đề From Jesus to Christ: The First Christians, một chương trình hội thảo 02 ngày (two-day symposium) tại Đại Học Harvard (Hoa Kỳ) qui tụ nhiều học giả thuộc các lãnh vực khảo cổ, lịch sử, nhân văn, thánh kinh, thần học… trao đổi nghiên cứu để tìm hiểu cách hết sức khoa học đề tài: ‘làm sao đế quốc Rô-ma đã từng đóng đinh tên Giêsu vào thập giá, trong vòng 300 năm sau lại quay ra tiếp nhận Kitô giáo?’ nói cách khác, làm sao một Giêsu Na-da-rét lại có thể trở thành Giêsu Kitô?, tôi mới nhận ra câu tuyên xưng của Phêrô - một ngư phủ bình dị, quả là một bước nhảy vọt ghê gớm. Phêrô đáng được gọi là Kitô hữu tiên khởi vì là môn đệ đầu tiên đã mạnh dạn tuyên tín: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”
Tên gọi Giêsu (Ya-su/ Gio-su-ah) trong tiếng Aramaic tự nó đã mang một ý nghĩa rất độc đáo: ‘Thiên Chúa cứu vớt’. Tuy nhiên tên này trở thành khá phổ thông giữa các người Do Thái, vì nó hàm ý, căn cứ vào trình thuật của sách Xuất Hành, chỉ dân riêng mới được Đức Chúa giải thoát khỏi mọi ách thống trị. Còn danh xưng ‘đấng Kitô’ (Christos tiếng Hy-lạp/ Mashiah tiếng Do Thái), được hiểu là người được Thiên Chúa ‘sức dầu tấn phong’, thì trong suốt Cựu Ước được dành cho nhân vật đặc biệt nào đó, như vua Sao-lê, Đa vít, các quan án hay tiên tri… mang nơi mình hai chức năng giải thoát và lãnh đạo, kể từ khi được sức dầu. Càng về sau, danh xưng này càng giới hạn dần vào một lãnh tụ tối cao được Đức Chúa hứa gởi đến trong ngày sau hết để vĩnh viễn giải thoát dân khỏi mọi ách thống trị. Tới thời Đức Giêsu, vì danh xưng này đã bị nhiễm nặng mầu sắc xã hội chính trị nên chính Người đã chủ động né tránh cách tế nhị (xem Mt 16, 20; Lc 22, 67); điều này càng rõ ràng hơn trong Phúc Âm Mác-cô (Cf. Théo 610a). Chính trong bối cảnh này mà câu tuyên xưng của Phêrô trong Phúc Âm Mát-thêu được coi là rất đặc biệt, đặc biệt tới độ nhiều tác giả cho là nó được thêm vào chỉ sau này khi các tín hữu nhìn lại cả quãng thời gian hơn ba thế kỷ lịch sử đã qua. Cho dầu thế nào đi nữa thì đối với các tín hữu gốc Do Thái, đây chắc hẳn phải là lời tuyên xưng căn bản nhất: Giêsu chính là Đấng được Thiên Chúa sức dầu tấn phong (Kitô) hằng được mong đợi, là Đấng giải thoát tối hậu và trọn vẹn, không những dân riêng mà toàn thể nhân loại. Chúng ta biết rằng cho tới ngày nay Do Thái giáo và Hồi giáo, cho dầu chia sẻ với Kitô giáo rất nhiều điều trong niềm tin nhưng vẫn nhất mực từ chối chấp nhận điều căn bản này.
Chắc hẳn Phêrô và các môn đệ khác đều hiểu rõ, đối với các ngài nói riêng và đối với toàn dân Do Thái nói chung, Giêsu chính là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng giải thoát tối hậu và vĩnh viễn. Trong một khoảng khắc siêu đẳng của niềm tin, vì “không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, đấng ngự trên trời”, Phêrô đã đạt được điều mà, dưới khía cạnh nghiên cứu, các học giả cho thấy phải mất gần ba thế kỷ xã hội La-mã mới đạt được.
Và toàn bộ sứ mệnh của Hội Thánh được đặt trên lời tuyên tín này của Phêrô, căn cứ vào khảng định của chính Đức Giêsu. Ai nhận Giêsu là Kitô - đấng giải thoát cứu độ tối hậu và duy nhất - sẽ có chìa khóa để được giải thoát và cứu độ, còn ai không tin nhận cũng có nghĩa là không có chìa khóa mở, và do đó sẽ vĩnh viễn bị cầm buộc: “Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời…” Trước đây, trong câu chuyện trao đổi với Ni-cô-đê-mô về việc sinh lại, Đức Giêsu cũng đã từng khảng định cùng một nội dung đó rồi, “Ai tin vào con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi” (xem Ga 3, 18). Qua mọi thế hệ, Hội thánh được xây dựng trên nền đá tảng Phêrô sẽ không ngừng tuyên xưng Giêsu là đấng Kitô duy nhất và tối hậu; đồng thời các phần tử của Hội Thánh - mọi Kitô hữu, nhờ tác động của Thần Khí và trong đức tin đối thần chân chính, cũng phải tự mình và trong sâu thẳm nhất của cõi lòng mình, mở miệng tuyên xưng: Giêsu chính là Đấng cứu độ duy nhất của tôi, và là Đấng tối hậu giải thoát tôi khỏi mọi tội lỗi.
Mỗi người chúng ta cũng cần tự vấn: riêng tôi, tôi đã làm điều đó cách thâm tín tới đâu rồi? Hãy nhớ rằng chìa khóa mở Nước Trời cho tôi, và cho mọi tín hữu mà tôi có bổn phận dẫn dắt, hệ tại duy nhất ở điều này, nếu không thì cũng chính chìa khóa đó sẽ vĩnh viễn đóng chặt cửa cứu rỗi ngay trước mặt tôi đấy!
Lạy Chúa, xin cho con hiểu hết ý nghĩa danh xưng Kitô hữu con được hạnh phúc mang nơi mình. Thường khi con vẫn hay hời hợt coi đây chỉ là một công thức đức tin, một danh xưng trống rỗng. Từ nay xin cho con, trong mọi hoàn cảnh sống, biết cùng Phêrô tuyên xưng ‘Thầy quả là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’. Và con mong rằng không chỉ khi sống nhưng nhất là trong giờ chết, con vẫn có thể tiếp tục tuyên xưng như thế, để có được chìa khóa mở tung ra cho con cánh cửa Nước Trời. Amen.
24. Người ta bảo Con Người là ai?
(Suy niệm của Lm. Đức Khiêm, CRM)
Trong Kinh Thánh có chuyện ông Gióp là người trung thành và tín phục Thiên Chúa. Ông được Chúa yêu thương rất mực, khiến ma qủy ghen tức với ông. Có một lần bọn chúng đã kêu xin Chúa cho thử lòng ông. Chúa cho phép ma quỷ và phán rằng: "Ta cho phép ngươi được làm hại nó mọi cách để thử lòng nó có trung tín với Ta không, nhưng Ta cấm ngươi không được làm nó chết". Thế là ma qủy ra sức tấn công ông Gióp. Nó gây nhiều tai họa trên ông như cướp hết gia tài của ông, lại giết chết các con trai con gái của ông trong một ngày. Còn chính ông thì nó làm cho ra ghẻ lở, chốc lếch, khiến ông phải ngồi trên đống tro... Vậy mà ông cũng một lòng trung thành tạ ơn Chúa. Ba người bạn của ông là Eliphaz, Bildad và Xophar đến để tìm hiểu cái huyền bí đau khổ của ông, nhưng ông một mực thưa: "Chúa cất hết con tôi, tịch thu hết nhà cửa, của cải sản vật của tôi, lại biến tôi thành lở chốc như thế này, tôi xin cảm tạ Chúa. Chúa cất đi rồi Chúa cho lại mấy chốc".
Trong cơn đau khổ của ông, Chúa thân hiện ra chất vấn ông: "Lúc Ta đặt nền móng trái đất này thì ngươi có chưa? Ngươi có biết ai đã đặt kích thước cho vũ trụ và thế giới này không? Ai đã phủ mây quả địa cầu này như người mẹ che phủ quần áo cho con? Ai đã mở đường cho sấm chớp đổ xuống?" Ông thưa: "Ai có thể trả lời được những câu hỏi của Chúa, lạy Chúa, Chúa biết hết rồi".
Thánh Phaolô đã kêu lên: "Ôi thẳm sâu thay, sự thượng trí và thông biết của Chúa". Sự phán quyết của Chúa làm sao hiểu được, đường lối của Chúa làm sao mà dò, nó cao xa tựa ngàn mây thẳm. Thiên Chúa là Đấng hằng có đời đời, chẳng ai dựng nên Người, Người quyền phép vô cùng, thông biết mọi sự. Người là thượng đế, mọi loài đều phải suy phục, tôn thờ. Thánh Phêrô được Thánh Linh soi sáng đã thưa với Chúa Giêsu: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Nếu như thế thì chúng ta đừng bao giờ tự hỏi: Tại sao Chúa để tôi khổ thế này? Tại sao Chúa không cho tôi được thế này thế kia? Tại sao Chúa không giúp những chương trình, những dự định của tôi?
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết đường lối khôn ngoan Chúa đã định cho con, để con sống trong hạnh phúc và đẹp lòng Chúa luôn.
25. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ, CON THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền khen thưởng thánh Phêrô: ”Phêrô, con là Đá trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”.
Con là Đá: Đá ở đây vừa là tảng đá vừa là tên mới của Simon. Trong Kinh Thánh, khi trao nhiệm vụ đặc biệt cho một nhân vật nào thì Thiên Chúa thường đổi tên cho người đó (St 17,5-15. 35,10 . Tv 13,16. 2V 23,34) . Quả vậy, khi đổi tên Simon là Phêrô, tức là Đá,
Chúa có ý chỉ Phêrô sẽ là Đá Tảng vững chắc, trên đó Người sẽ xây Hội thánh của Người và Chúa còn hứa với thánh Phêrô: quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi.
Như vậy Phêrô là một tảng đá, một tảng đá chắc chắn, bền vững và kiên cố.
Phi hành gia James Irwin, lái chiếc phi thuyền Apolo 15 sau khi đã đáp xuống mặt trăng, ông đào được một tạ đá đưa về trái đất, và ông đem đi khắp thế giới để nói về sự thành công vĩ đại của khoa học không gian ngày nay.
Ngày 8 tháng 3 năm 1973, James Irwin đã nói chuyện tại rạp Thống Nhất ở Sàigòn như sau:
Có ba loại đá tượng trưng cho ba lãnh vực:
1. Đá mê tín của những người bạc nhược, không tận dụng khả năng của mình, mà chỉ tin vào sức thần thiêng giải quyết trong mọi lãnh vực cuộc sống. Loại đá mê tín này khiến nhiều người lầm lẫn, vì tin rằng cứ rờ vào là khỏi bệnh tật, thoát hoạn nạn, hết rủi ro, được bình an!
2. Đá nguyệt cầu (đá lấy từ mặt trăng) tượng trưng cho tài khéo của khối óc và nỗ lực làm việc của con người cộng tác với ơn Chúa.
Sự thành công này, nhiều người đã quá cao vọng, đi đến chỗ cực đoan và kiêu ngạo, tưởng khoa học sẽ giải quyết thoả đáng mọi khát vọng của con người ! Nhưng nếu có ai tài giỏi hơn tôi khi ngồi vào phi thuyền đi vào không gian, mới thấy con người quá nhỏ bé, so với quyền lực của vũ trụ, và số phận người ta quá mỏng manh như bong bóng xà phòng trong không khí ! Do đó phải biết rằng khoa học không bao giờ làm ra được cái máy nói dối, chỉ những kẻ phủ nhận Thiên Chúa mới nói dối mà lại cho là khôn ngoan!
3. Đá Kitô. Ngồi vào phi thuyền mới thấy con người không thể cậy dựa hoàn toàn vào sức mạnh của phàm nhân. Hơn lúc nào hết, ngay lúc này chỉ còn trông cậy vào sự nâng đỡ của Thượng Đế cho con người một niềm tin, niềm phó thác và sự bình tĩnh, bởi vì
“Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con" (Tv 139/138, 7-10).
Do đó ơn Chúa phù trợ giúp cho chuyến bay của tôi được thành công rực rỡ là tôi tin vào Đức Kitô, vì nếu Ngài ngoảnh mặt đi trong chốc lát là tôi chết ngay (Tv 104/103,29)! Vậy ngồi ở trong phi thuyền nếu biết tin vào Đức Kitô để đi đến nơi an toàn, thì người ở trong Hội Thánh tin vào Đức Kitô, chắc chắn được Ngài trợ giúp, điều chỉnh cách sống Đạo, mới có thể bay về tới thiên cung, nơi mọi người tin Chúa đang mong chờ![1]
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hỏi: "Người ta bảo Thầy là ai?", Đây là câu hỏi thứ nhất, nhưng là câu hỏi phụ. Câu hỏi thứ hai quan trọng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ và cũng là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho mỗi người chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết.
Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nếu chúng ta chỉ lặp lại lời của Phêrô thì quá dễ:
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Điều quan trọng là Đức Kitô Hằng Sống đó đối với chúng ta như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn vào phi hành gia James Irwin diễn tả ra sao:
Khi bay vào không gian ông cảm thấy con người quá nhỏ bé, so với quyền lực của vũ trụ,
và số phận người ta quá mỏng manh như bong bóng xà phòng trong không khí!
Do đó, ông chỉ biết trông cậy và phó thác nơi Chúa và ông đã mượn thánh vịnh 139 để nói lên tâm tình của mình:
“Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con" (Tv 139/138, 7-10).
Và nếu Ngài ngoảnh mặt đi là tôi biến tan ngay trong cuộc sống này (Tv 104/103,29)!
Niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống là như thế đó.
Kính thưa anh chị em,
Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho xã hội hôm nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng Quyền Năng, Ngài đã làm người và đang ở giữa chúng ta. Amen
---------------
[1] Câu chuyện của Lm Giuse Đinh Quang Thịnh, truyện góp nhặt trg. 63-64
26. Hồng ân và trách nhiệm
Thánh Têrêsa có câu nói rất hay: "Tất cả là hồng ân", câu nói tuy đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa. Thánh nhân cảm nhận được mọi sự trên đời là do Chúa ban, một ơn ban nhưng không, do tình yêu thương lạ lùng của Chúa chứ không do công lao hay con người xứng đáng được hưởng. Thật vậy, với cái nhìn đức tin ta biết rằng tất cả là hồng ân, mà hồng ân thì theo sau đó là trách nhiệm.
Chúng ta hãy hình dung vào bối cảnh bài Tin Mừng hôm nay, nơi Phêrô ta thấy được hồng ân và trách nhiệm mà ông nhận từ Chúa: "Này anh Simon, anh thật có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời". Qua lời tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" thì Chúa Giêsu khen ngợi Phêrô rằng: ông là người có phúc. Có phúc vì đó là hồng ân, hồng ân đức tin. Chúa Giêsu khẳng định: không phải tự sức mình mà Pr hiểu được, cảm nhận được để rồi tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Nhưng là nhờ ơn Chúa ban, nhờ Chúa Cha mạc khải cho biết về Chúa Giêsu, về nguồn gốc thần linh của Ngài: rằng Ngài là Con Thiên Chúa; là Messia của Israel; là Vua Trời Đất mà Cựu Ước đã loan báo. Tuy nhiên đức tin của Phêrô còn phải được củng cố thêm lúc Chúa Giêsu biến hình và những lần Ngài hiện ra sau Phục Sinh nữa.
Với hồng ân đức tin được Chúa ban, Phêrô có trách nhiệm củng cố đức tin nơi anh em mình trong cộng đoàn các tông đồ, cộng đoàn các tín hữu sơ khai và Hội Thánh mà Chúa Giêsu thiết lập. Đồng thời phải bảo vệ, gìn giữ đức tin vẹn tuyền ấy. Pr còn thay mặt Chúa giảng dạy cho muôn dân, cắt nghĩa chính đáng đức tin Kitô giáo và chiếu toả đức tin ấy cho muôn người.
Hồng ân tiếp theo mà Phêrô nhận được là ông được đổi đời. Chúa Giêsu đổi tên cho ông, mặc cho ông một con người mới: "Anh là Phêrô nghĩa là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy". Việc đổi tên từ Simon thành Pr mang ý nghĩa mới cho cuộc đời ông, bước ngoặc cuộc đời ông được mở ra. Thay đổi tên là thay đổi cả số phận con người: thay đổi đời, thay đổi sứ mạng. Từ một ngư phủ đánh lưới cá trở thành ngư phủ đánh lưới người. Kể từ đây, Phêrô là đá tảng vững chắc, là nền móng kiên cố xây dựng Hội Thánh Chúa. Kiên cố và bền vững đến nỗi không một thế lực nào có thể phá huỷ được: "quyền lực Tử thần sẽ không thắng được".
Đây quả thật là một trách nhiệm nặng nề đối với một ngư phủ bình dân - chất phác - ít học như Phêrô: trách nhiệm bảo vệ, xd Hội Thánh Chúa ở trần gian; trách nhiệm qui tụ muôn dân nước về với Hội Thánh Chúa. Nhưng ông không làm việc một mình. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu hứa rằng: "Thầy sẽ không để các con mồ côi". Điều đó chứng tỏ rằng Chúa luôn ở cùng, đồng hành, và ban Chúa Thánh Thần để giúp đỡ Phêrô và các tông đồ trong việc xây dựng Hội Thánh Chúa và trong việc loan báo Tin Mừng cứu độ.
Ngoài ra Phêrô còn thay mặt Chúa cai quản và điều khiển Hội Thánh. Với chìa khóa Nước trời Chúa ban là quyền tháo cởi và cầm buộc:" Thầy sẽ ban cho anh chìa khoá Nước trời, dưới đất anh cầm buộc điều gì trên trời cũng cầm buộc; dưới đất anh tháo cởi điều gì trên trời cũng tháo cởi". Với tư cách là người đứng đầu Hội Thánh, là quản gia của Nước Trời, Phêrô đại diện Chúa ở trần gian ban phát ơn thánh, làm cho mọi người được nên thánh, phục vụ và cứu rỗi các linh hồn; mở cửa qui tụ muôn người về với Hội Thánh Chúa và làm cho nước Chúa được rạng sáng.
Hồng ân Chúa ban cho Phêrô quả là to lớn và trách nhiệm cũng nặng nề không kém. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lại đời sống mình với biết bao ơn lành Chúa ban và đã sử dụng những hồng ân đó như thế nào? Khi lãnh Bí tích Rửa Tội là ta được vinh dự làm con Chúa, được sống trong Hội Thánh, là người có đức tin và sống niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất; rồi ơn Chúa thánh hoá ta qua các Bí Tích. Đặc biệt Ngài trao ban chính mình Ngài cho ta nơi Bi tích Thánh Thể mà ta đón nhận hằng ngày,.v.v. Đây là hồng ân lớn lao đối với người kitô hữu chúng ta.
Với những ân huệ to lớn đó mà ta đón nhận hằng ngày từ Chúa. Vậy trách nhiệm của ta là hãy dâng lời tạ ơn Chúa mỗi ngày; phụng thờ Chúa; sống niềm tin-cậy-mến vào Chúa cách ý thức hơn với tư cách là một người con hiếu thảo: bằng những cử chỉ yêu thương giúp đỡ nhau cách cụ thể trong đời sống thường ngày. Can đảm tuyên xưng niềm tin và giới thiệu Chúa cho người khác.
Mặt khác nhìn vào đời sống gia đình, OBACE là cha là mẹ thì phải có bổn phận với nhau và với con cái: chu toàn bổn phận với nhau, nâng đỡ yêu thương nhau trong đời sống vợ chồng; cộng tác với nhà trường, với cha sở họ đạo để giáo dục con cái trong đời sống đức tin và tri thức như ý Chúa muốn. Đó là trách nhiệm mà mỗi người Kitô hữu chúng ta cần phải có đối với Chúa và với nhau.
Đời người là một chuỗi những hồng ân trải dài trong suốt đời sống mà ta đón nhận từng giờ từng phút trong cuộc đời. Ước mong OBACE luôn nhận ra mọi sự trên đời và những gì ta có đều là do hồng ân Chúa ban mà dâng lời cảm tạ. Đồng thời biết quý trọng và sử dụng những ơn ban ấy như là trách nhiệm cần phải có để sinh nhiều hoa trái tốùt đẹp cho cuộc sống. Qua đó ta cảm nhận được tình Chúa yêu thương và trong đức tin ta dám nói lên với Chúa rằng: "Tất cả là hồng ân Chúa ban". Amen.
27. Các con cho Thầy là ai
(Suy niệm của Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long)
Tạp chí Reader’s Digest - Das Best số tháng 4/1999 trang 116 đăng kết quả Bản thăm dò ý kiến của người dân Đức về Đức Tin vào Thiên Chúa:
50 phần trăm người được hỏi ý kiến vào lứa tuổi từ 14 đến 39 tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau; trái lại chỉ 38 phần trăm người vào lứa tuổi 60 còn tin vào điều này.
70 phần trăm đều cho rằng xã hội bây giờ không tin vào Thiên Chúa nữa. 78 phần trăm những người trẻ thuộc thế hệ từ 14 đến 29 tuổi cảm thấy đời sống tôn giáo càng ngày càng biến mất trong đời sống; và họ cho là tình trạng này xảy đến quá sớm...
Hội Thanh Thiếu Niên Công giáo thuộc Giáo phận Munich thăm dò ý kiến 1200 bạn trẻ về vai trò Chúa Giêsu trong đời sống tinh thần của họ... Phần đông cho biết Chúa Giêsu Kitô không còn chiếm địa vị trung tâm đời sống tinh thần họ nữa! Bản đúc kết đi kết luận: Trong đời sống tôn giáo của người trẻ ngày nay, niềm tin Kitô giáo không còn hấp dẫn hay gây nhiều ảnh hưởng nơi họ. Chúa Giêsu dần dần ít được nhắc tới trong các buổi thuyết trình, hay nếu có cũng chỉ được nêu ra như một nhân vật lịch sử.
Như thế có thể nói hình ảnh về Thiên Chúa, về Chúa Giêsu, trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo không còn ăn rễ sâu nơi tâm thức con người, ít là nơi những người trẻ tương lai của xã hội, Giáo hội nữa!
Vậy đâu là ý nghĩa câu hỏi của Thầy Giêsu năm xưa cho chúng ta ngày nay: “Các con cho Thầy là ai?”
Ông Phêrô xưa kia nhân danh anh em môn đệ trả lời Thầy mình: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tôi không tin Ông Phêrô trả lời theo cách suy tư lý luận thần học khúc mắc khô cứng với nhiều trích dẫn dài dòng ngày nay. Nhưng câu trả lời đó do Thần Linh Thiên Chúa đánh động tâm hồn Ông nói ra. Câu trả lời ngắn gọn biểu lộ niềm xác tín của tâm hồn đơn sơ mộc mạc của bác sống nghề thuyền chài lưới ngoài sông biển!
Vậy niềm tin đó từ đâu mà ông có? Lòng tin đó không phải tự dưng từ trời rơi xuống, nhưng là kết quả của năm tháng ngày giờ tiếp xúc, nghe nhìn tận mắt Thầy Giêsu.
Lúc đầu các môn đệ theo Thầy Giêsu cũng nghĩ Thầy mình là một nhà giáo có nhiều tài năng thu hút con người, hay một Tiên Tri như các tiên tri thời Cựu ước, và cũng có thể là một Gioan Tẩy Giả! Nhưng với thời gian gần Thầy, các Ông nhận ra Thầy mình không phải như vậy. Thầy Giêsu giảng dậy không căn cứ vào luật lệ truyền từ xa xưa, vào sách vở. Nhưng lời Ngài nói phát ra luồng mãnh lực, một Người đầy uy quyền: "Các con nghe nói, luật xưa truyền dậy rằng... nhưng Thầy bảo cho các con hay...(Mt 5,21...) Ngài quả quyết, chính Ngài có quyền trên ngày Sabbath (x.x.Mt 12,8). Và dân chúng kính phục uy tín quyền năng Ngài, chính lời Ngài đã đi sâu vào tim óc người dân (x.x. Mt 7,29).
Đời sống, lời giảng dậy của Ngài hoàn toàn khác biệt với các Tiên tri thời Cựu ước. Lời Ngài không phải chỉ là mớ điều khôn ngoan, điều răn đe, kêu gọi phải ăn năn sám hối, nhưng là lời ban ơn tha thứ làm hoà, khoan dung nhân ái, điều này ai có thể làm được, nếu không phải chỉ một mình Thiên Chúa! (Mt 9,2).
Mối liên hệ giữa Ngài với Thiên Chúa Cha không phải là tôi tớ, nhưng là liên hệ thân tình cha con. Ngài là sứ giả rao giảng tình yêu Thiên Chúa, nhưng vị Sứ giả đó lại chính là trung tâm của sứ điệp tình yêu (Mc 8,35; Mt10,37).
Các môn đệ thán phục Thầy mình, ngày càng nhận ra và tin vào Ngài. Dân chúng kính phục đổ xô đến nghe ngài giảng thuyết. Nhưng những lời quả quyết về Ngài phát xuất từ chính Ngài làm cho người nghe không khỏi bất mãn khó chịu đến nghi ngờ.
Phêrô và các môn đệ tin vào Thầy mình không qua do hiểu biết nghiên cứu học hỏi lý luận, nhưng qua gặp gỡ, đối thoại, nghe Ngài giảng thuyết. Chính từ mảnh đất đó Thần Linh Thiên Chúa tác động soi chiếu tâm hồn các ông nhận ra Thầy mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Tò mò theo Chúa để tin vào Ngài, hay tin vào Chúa để theo Ngài. Cả hai thái độ đều biểu lộ một tâm hồn sẵn sàng gặp gỡ Chúa, qua việc đọc Lời Chúa, nghe Lời Chúa và ngắm nhìn Chúa trong thiên nhiên, nơi con người.
Và qua đó tìm ra trả lời cho câu hỏi: "Các con cho Thầy là ai?"
28. Phêrô là Đá: Đá quy tụ, Đá hợp nhất
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM)
Nếu ta nhìn vào Tivi cách đây hơn chục năm, hoặc xem băng hình ghi lại các chuyến đi của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II trong những năm cuối đời của ngài, hẳn ta sẽ nhìn thấy cây gậy của Đức Giáo Hoàng trở thành hữu dụng. Ngài chống và tựa trên chiếc gậy đó. Gậy không còn là biểu tượng cho quyền chăn chiên, quyền dẫn dắt, như ta thấy các giám mục vẫn thường dùng. Vị Giám mục Roma Gioan Phaolô II dùng gậy để chống đỡ chính mình.
Hình ảnh ĐGH Gioan Phaolô II về già chống và tựa cả thân mình trên chiếc gậy đó có diễn tả được điều mà Tin Mừng hôm nay nói về Phêrô mà ĐGH là người kế vị không: Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy và cửa địa ngục không thể phá được.Nếu Phêrô là Đá Tảng, thì kẻ kế vị người, cũng là tảng đá. ĐGH là đá tảng.
Nếu tảng đá được ví như cái gì chắc chắn, cho người khác tựa nương vào, thì với hình ảnh ĐGH Gioan Phaolô khi vượt qua ngưỡng cửa bát tuần, đã bết bát về sức khoẻ thể lý, lúc nào cũng phải tựa nương vào chiếc gậy, có còn là hình ảnh của tảng đá cho người khác tựa nương hay không ? Hẳn là khó hình dung tưởng tượng.
Nhưng tảng đá, ngoài ý nghĩa vững chắc, tựa nương, thì tảng đá còn có một ý nghĩa khác không kém phần quan yếu. Đó là: Tảng đá là nơi qui tụ. Tảng đá là nơi hợp nhất.
1. Tảng đá qui tụ
Tảng đá như nền nhà, quy tụ gạch xi măng, cát, sắt… để làm thành căn nhà. Căn nhà trong mạch ý Tin Mừng hôm nay chính là Hội Thánh.
Nếu Đức Gioan Phaolô không diễn được hình ảnh tảng đá cho người ta tựa vào, thì hình ảnh cụ già Wojtyla trên 80 tuổi vẫn và có khi còn hơn thế nữa, càng trở nên rõ nét hình ảnh của tảng đá quy tụ. Bởi tâm lý chung, nhất là tâm lý người Việt, người ta quy tụ về nhà người bô lão, chứ không tụ họp nơi nhà đám trẻ (giống như Tết nhất tới, người ta qui tụ về nhà ông bà để chúc thọ). Người bô lão là yếu tố thuận lợi để tụ hội, hợp nhất.
Chẳng thế mà, tuy tuổi đã cao, rất cao, lại yếu ớt, nhưng Đức Gioan Phaolô đi đến đâu là qui tụ cả rừng người đến đó (ta không nhắc đến ĐGH đương kim vì tuy đã bát tuần, nhưng còn mạnh khoẻ chưa phải “chống” gậy !). Chục nghìn, trăm nghìn, nghìn nghìn. Triệu này triệu kia. Điều này thật đúng khi giới trẻ ùn ùn kéo tới với ngài trong các đại hội giới trẻ. Mehico, St Louis, Compostella, và đặc biệt tại Đại Hội giới trẻ tại Paris, Pháp 1997. Đặc biệt không phải vì con số, mà vì sức lôi cuốn không ngờ. Trước ngày Đại Hội ít lâu, một nhà báo vô thần đã nhận xét về bầu khí xuống dốc của người Công giáo ở Pháp, và đoan chắc rằng đại hội sẽ rất ít người. Và với con số may ra được khoảng 100.000 người đến dự, thì bõ bèn gì để một vị giáo chủ già nua phải lần mò chống gậy sang tận Paris cho tốn công tốn sức. Nhưng rồi chuyện kinh ngạc đã xảy ra: Trên một triệu người trẻ tuốn về qui tụ tại Paris để gặp gỡ ĐGH, tảng đá qui tụ. Đại Hội sau đó 2000, con số bạn trẻ tụ họp tại Roma vượt xa con số này, trở thành kỉ lục với hơn 3 triệu người tham dự thánh lễ bế mạc. Ấy là ta chỉ kể tảng đá Phêrô qui tụ bạn trẻ, còn cả người lớn nữa, thì con số hẳn là hơn nhiều. Cụ thể, cụ già Wojtyla (tức ĐGH Gioan Phaolô 2) về thăm quê hương Balan lần thứ 9, qui tụ cả rừng người: hơn 3 triêu người tham dự thánh lễ tại Krakovia, giáo phận cũ của ngài trước khi về làm giám mục Roma. Một ông già qui tụ được bạn trẻ, nhiều người đến như thế, nghĩa là gì, nếu ngài không phải là tảng đá qui tụ.
Phát ngôn viên Tòa Thánh lúc đó, tiến sĩ Navaro Valls đã nhận xét: “Sức khỏe của ngài xuống hẳn, nhưng cảm ơn Chúa, điều đó không cản trở công việc của ngài. Tay bị run (vì bệnh Parkinson) phát âm nhiều chữ không rõ, nhưng đây có khi lại giúp ngài nói được với dân chúng hùng hồn hơn ở chiều kích mới.” “Cảm tưởng của tôi,” lời giáo sư Navaro Valls, “là khi người ta thấy tay ngài run, thì mọi thành quách bên trong của họ bị sụp đổ hết. Cánh tay run, đôi chân không vững phải tựa vào gậy lại có tác dụng mạnh hơn thân hình cường tráng của ngài cách đây hơn 20 năm khi mới lên nhận nhiệm vụ kế vị Phêrô tảng đá.” Phêrô là tảng đá, tảng đá quy tụ. Hình như càng già càng có khả năng quy tụ ! Nói thế không có nghĩa vị giáo hoàng trẻ tuổi thì ít có khả năng quy tụ hơn, nhưng muốn nói: đã là giáo hoàng, đấng kế vị Phêrô Tảng Đá, thì cũng là tảng đá quy tụ muôn người.
2. Tảng Đá Hợp nhất.
Qui tụ và hợp nhất có nét giống nhau, nhưng ta tạm phân biệt như sau: qui tụ là từ nhiều nơi trên khắp mặt địa cầu này hội tụ về một chỗ. Hợp nhất là cho dẫu phân tán ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng vẫn hướng về một người, một đích để hợp nhất. Phêrô là đá tảng hợp nhất.
Khi gọi Phêrô là Đá, trên nền đá này “tập kết” (quy tụ) gạch cát ximăng xây nhà Giáo Hội, Chúa Giêsu còn nói thêm: “quyền lực hỏa ngục không thể phá được.”
Phân tích có vẻ chú giải Kinh Thánh một chút, ta thấy trong hỏa ngục có ma quỷ. Hỏa ngục không thể phá đổ được, tức ma quỷ không thể lật nhào Hội Thánh được. Mà ma quỷ tiếng Hilạp là Diabolos (dia: xuyên qua; bolein=bolo=ném), tức kẻ gây chia rẽ, kẻ gây rối.
Trong ý hướng tảng đá hợp nhất, ta sẽ diễn dịch lại lời Chúa Giêsu như sau: Con là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây một Giáo Hội duy nhất, Kẻ Phá Rối, kẻ gây Chia Rẽ không đời nào phá vỡ nổi sự hợp nhất ta xây dựng.
Thử điểm lại các tôn giáo trên thế giới, và cách riêng Kitô giáo thôi, ta thấy không có Hội thánh nào khác ngoài Hội Thánh Công Giáo Roma có sự hợp nhất hữu hình này.
Ví dụ Anh Giáo, với cơ cấu có 7 Bí Tích như công giáo (như về con số 7 chứ không phải như về tính thành sự), họ có 27 Giáo Hội khắp nơi. Nhưng họ đâu có một con người hữu hình, một điểm nhắm cụ thể để họ hướng về đâu. Anh Giáo tại Mỹ, đâu có lệ thuộc gì Anh Giáo tại Anh quốc là nơi phát sinh ra Anh Giáo. Anh Giáo tại Úc không liên hệ gì tới Mỹ, tới Anh. Họ toàn quyền tổ chức, họ phong chức giám mục cho cả người nữ nữa, điều mà Anh Giáo gốc tại Anh Quốc chưa dám (chỉ mới phong chức linh mục cho nữ thhôi).
Ví dụ như Chính Thống với 13 Lễ chế khác nhau, và ngay cả cùng một lễ chế, như lễ chế Byzantin mà ở 2 nước khác nhau thôi, thì Chính Thống Rumani chẳng cần hướng lòng mình về Chính Thống Nga. Chính Thống Nga chẳng cần ngó xem Chính Thống Constantinop (hiện ở Thổ Nhĩ Kì, nôi của Chính Thống Giáo) làm gì để noi theo. Mỗi nước có một giáo hội Chính Thống độc lập. Họ có liên kết với nhau cũng rất lỏng lẻo, và chỉ là liên kết trên phiên họp lâu lâu (mấy trăm năm…) một lần.
Còn Tin Lành thì càng khó thấy sự hợp nhất. Mấy trăm giáo phái khác nhau là mấy ngàn thế giới: nào là Lutheran, Presbyterian, Methodist, Baptist, Phục Lâm ngày thứ 7… Mỗi giáo phái là một thế giới, mà hơn thế nữa, mỗi giáo phái tại mỗi nước, lại không lệ thuộc gì, không hợp nhất gì với cùng một giáo phái đó, tại các nước khác. Ranh giới quôc gia phân chia luôn ranh giới đạo giáo. (Và còn nhỏ hơn, trong cùng một nước, mà tỉnh này khác tỉnh kia. Vd: Hội Thánh Tin Lành Vĩnh Phước và Hội Thánh Tin Lành Lê Thành Phương, đâu nhất thiết phải hợp nhất với nhau.)
Tóm lại các Hội Thánh kể trên chỉ có cấp quốc gia mà không có cấp hoàn vũ. Trong khi đó, Hội Thánh Công Giáo, dù ở chân trời góc biển nào, dù màu da khác nhau tương phản, đều qui về, đều hợp nhất dưới một con người hữu hình, mang danh hiệu đấng kế vị Phêrô, Tảng Đá hợp nhất. Đây là nét trổi vượt, tính hơn hẳn, là lợi thế của Hội Thánh Công Giáo Roma trên con đường hợp nhất Kitô hữu, đến nỗi có thành ngữ, đường nào cũng dẫn tới Roma.
Sách Giáo Lý Chung, số 882, nói về ĐGH như sau: “Đức thánh cha, giám mục của Roma, kẻ kế vị Phêrô, là nguồn mạch và nền tảng hữu hình và vĩnh cửu về sự hợp nhất giữa các giám mục và sự hợp nhất của toàn thể cộng đoàn tín hữu.”
Anh là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Ta đã diễn dịch lại rằng “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây một Hội Thánh duy nhất, tên Phá Rối, tên Gây Chia Rẽ không đời nào phá vỡ nổi sự hợp nhất Thầy xây dựng.”
Trong Kinh Tạ ơn của bất cứ thánh lễ nào, cử hành bằng bất cứ ngôn ngữ nào: Tây Tàu Mỹ, Lào, Campuchia, K’hor, H’Mong… đều có một lời cầu cho ĐGH, Tảng Đa hợp nhất. Ta hãy đặc biệt hiệp lòng. Và ta hãy long trọng tuyên xưng rằng ta tin vào một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, mà trong đó nét trổi vượt chính là sự hợp nhất, do bởi có ĐGH là đá tảng hợp nhất, tảng đá qui tụ. Amen.
29. Yêu mến Hội Thánh
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
1. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói đến những chức vụ Thiên Chúa ban cho con người. Thật vậy, các chức vụ được ban không phải do sáng kiến hay chọn lựa của con người, nhưng trên hết đều bắt nguồn từ Thiên Chúa cũng như sự tự do và uy quyền của Thiên Chúa ban cho những người mà Ngài đã tuyển chọn.
2. Bài đọc một chúng ta vừa nghe thuật lại việc Chúa chọn Êliaquim thay thế cho Sobna để nắm giữ chức vụ cai quản Đền thờ. Dù lúc bấy giờ Êliaquim đang phục vụ trong triều đình nhà vua, nhưng không vì thế mà ông được vua trao ban trách nhiệm, nhưng mà chính Thiên Chúa chọn và ban nhiệm vụ cho ông.
Khi chọn Êliaquim để cai quản Đền thờ, Thiên Chúa cũng ban cho ông những dấu chỉ bên ngoài như mang ý nghĩa là từ đây ông sẽ được Thiên Chúa nâng đỡ để hoàn thành phân vụ của mình. Dấu chỉ Chúa ban cho Êliaquim là áo choàng, đai lưng và chìa khóa, còn mang thêm ý nghĩa hợp pháp trong việc tuyển chọn, từ đây ông sẽ được mọi người nhìn nhận là người chính thức để cai quản Đền thờ cũng như có đầy đủ thẩm quyền để phục vụ và hành xử trong cương vị của mình. Vì Êliaquim là người chính thức được Thiên Chúa tuyển chọn nên ông sẽ được Thiên Chúa ở cùng để phù trợ và gìn giữ trong mọi hoàn cảnh.
3. Tiếp theo việc tuyển chọn Êliaquim, trang Tin Mừng lại cho chúng ta nghe việc Chúa Giêsu trao cho Thánh Phêrô “chìa khóa nước trời”, nghĩa là Phêrô được Chúa chọn để cai quản Hội Thánh Chúa sẽ thiết lập. Bởi vì trong số mười một Tông đồ còn lại thì chưa chắc Phêrô giỏi hơn, khôn khéo hơn, năng động hơn, đạo đức hơn, làm việc hiện quả hơn những vị này. Ngược lại, có những lúc vô tình hay cố ý, thì chính Phêrô cũng để lại những chuyện không hay cho Tông đồ đoàn của Chúa Kitô. Như Phêrô đã từng bỏ Chúa hấp hối trong vườn cây dầu, bởi vì ham mê giấc ngủ. Cũng có lần do sự nóng tính của mình, Phêrô đã dùng gươm chém đứt tai một đầy tớ của vị Thượng tế. Đặc biệt một biến cố tai hại đau thương của cá nhân Phêrô mà ngài không thể nào quên được, đó là Phêrô đã đành tâm chối Chúa ban lần. Đây là thời gian cay đắng nhất mà Phêrô đã gặp phải. Có lẽ khi biết những lầm lỗi của Phêrô thì chúng ta cũng đừng xem đó là chuyện lạ, bởi vì Phêrô cũng là một con người với những mỏng giòn yếu đuối giống như chúng ta mà thôi.
4. Có những trường hợp dựa trên bình diện tự nhiên, chúng ta khó có thể chấp nhận việc tuyển chọn theo đường lối của Thiên Chúa. Nhưng nói theo Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma của bài đọc hai, thì tất cả ơn gọi đều do mầu nhiệm và tình thương của Thiên Chúa. Con người chúng ta vì lý trí luôn bị giới hạn rất nhiều, nên chúng ta không thể nào hiểu thấu về sự “giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa. Vì quyết định của Ngài ai dò cho thấu! Đường lối của Ngài ai theo dõi được!” (Rm 11,33)
5. Khi suy nghĩ về “huyền nhiệm” ơn gọi, thì đó cũng là lúc chúng ta phải vận dụng đức tin để vâng phục Thánh ý kỳ diệu của Chúa. Vì trên thế gian này không phải ai cũng vô tội cả, tất cả đều là tội nhân trước mặt Chúa. Có như thế cúng ta mới hiểu đường lối diệu kỳ của Chúa là Ngài luôn kêu gọi người tội lỗi để đưa bước người có tội đến với Ngài, vì trong Hội thánh của Chúa toàn là những con người lầm lỗi yếu đuối, ngay cả phẩm trật trong Hội thánh cũng là những tội nhân bất xứng. Biết như thế, chúng ta hãy ra sức nâng đỡ Giáo hội. Trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn được Chúa kêu gọi phải đứng về Giáo hội để bênh vực Giáo hội. Hãy đề phòng trong mối tương quan: Đừng vì lời hứa, bổng lộc, lợi nhuận, chức tước, danh vọng để gây chia rẽ, đau khổ, bách hại trong Hội thánh… Vậy bao lâu chúng ta tìm mọi cách để bảo vệ và sống chết với Hội Thánh, thì hình ảnh người lính chiến của Chúa Kitô sẽ không bao giờ phai nhòa trong danh xưng Công giáo của mình. Ngược lại, nếu có ai, nếu có người mang danh là Công giáo vẫn luôn tìm cách phá hoại Hội Thánh, thì hành động của những người đó đươc coi là ngông cuồng và hoang tưởng, bởi vì những thành tích mà họ đang xây dựng trước thế lực của trần thế, lúc đó chỉ là công dã tràng se cát biển đông. Dù Hội thánh Chúa Kitô thiết lập đó đây vẫn mang bóng dáng của những con người mỏng dòn yếu đuối, nhưng bên trong Hội thánh vẫn còn có Chúa Kitô là nguồn trợ lực. Vì thế sẽ không có sức mạnh trần thế nào có thể làm hao mòn và giết chết Giáo hội. Lời Chúa hứa với Thánh Phêrô khi Chúa trao sứ mạng thủ lãnh cho ngài cách đây hơn hai ngàn năm, thì hôm nay, ngày mai và mãi mãi vẫn còn đó, vẫn luôn có hiệu lực. Lời hứa ấy chính là niềm an ủi ngọt ngào, nhưng đó cũng là sức mạnh tinh thần vô song để Hội thánh yên tâm phục vụ Tin Mừng sự sống của Chúa rên khắp Thế gian. “ Phêrô, con là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16,18)
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội, xin Mẹ gìn giữ và cầu cùng Chúa ban cho Giáo Hội được an bình. Amen.
30. Niềm Tin: Chúa là ai? - Lm. Louis M. Nhiên,CRM
Một trong những phương pháp giảng dạy được Chúa Giêsu ưa dùng đó là đặt câu hỏi. Có khoảng hơn 100 câu Chúa hỏi trong 4 sách Tin Mừng. Với cha mẹ, Chúa hỏi: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Với người mù tại Giêricô: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Với những kinh sư và biệt phái trước khi chữa người bại tay, Chúa hỏi: “Tôi xin hỏi các ông: ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?”
Tuy nhiên, có lẽ không câu hỏi nào quan trọng bằng câu Chúa hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?”
Khi nêu lên câu hỏi này, có nhà chú giải thánh kinh bảo rằng, Chúa không quan tâm đến danh tiếng của Chúa cho bằng Chúa quan tâm đến niềm tin, sự hiểu biết của các môn đệ.
Chúa đến như là Đấng Cứu Chuộc, Đấng Thiên Sai và Chúa biết điều này. Không điều gì các môn đệ hay cả thế giới nói có thể thay đổi sự kiện này. Vai trò của Chúa ở giữa nhân loại không thể bị thay đổi bởi bất cứ cuộc thăm dò nào, hay lệ thuộc vào cuộc bỏ phiếu của các môn đệ hay bất cứ ai khác.Do đó, rõ ràng điều các môn đệ tin Chúa là ai thật quan trọng. Bởi vì những gì họ tin vào Chúa sẽ tạo nên sự khác biệt đối với họ và cả thế giới. Niềm tin của họ không thay đổi Chúa, nhưng đã có thể thay đổi họ.
Mỗi người chúng ta đều có một số niềm tin. Chúng ta không sinh ra với niềm tin đã được tạo sẵn trong mình, nhưng là tiến trình của cuộc sống. Nhận thức hay không nhận thức, cố tình hay vô tình, hôm nay chúng ta thu góp ở nơi này một niềm tin, ngày mai ở nơi kia một niềm tin khác, dần dần chúng ta tích lũy gom góp lại những niềm tin ảnh hưởng chi phối những quyết định của chúng ta.Niềm tin của chúng ta thật quan trọng, vì hầu hết những gì chúng ta tin sẽ hướng dẫn những chọn lựa, và kiểm soát những hành động của chúng ta. Dù có nhận thức về niềm tin của mình hay không, chúng ta hiểu rằng có một sự liên hệ sâu xa giữa những gì chúng ta tin và chúng ta hành động.Ví dụ, nếu chúng ta tin mình chỉ là những con vật, không tin có linh hồn, thì chúng ta sẽ có khuynh hướng mạnh hành động như con vật mà chúng ta tin chúng ta là. Nếu chúng ta tin người ta luôn tìm cách nói xấu, làm hại chúng ta thì chúng ta sẽ luôn để tâm phòng thủ canh chừng. Do đó, những gì chúng ta tin tưởng nơi Chúa sẽ có ảnh hưởng lớn lao trên cách thức cư xử của chúng ta.Chúng ta sẽ làm lộn xộn cuộc sống của mình trừ phi chúng ta chắc chắn niềm tin của mình có sự liên hệ với thực tại. Thỉnh thoảng có người nói:
“Chúng ta tin gì không thành vấn đề, bao lâu chúng ta chân thành.” Điều này không trúng. Bạn có thể tin một cách chân thành rằng uống thuốc độc chẳng hại gì, rồi bạn uống một cốc. Kết quả, nếu may mắn không chết, bạn sẽ thấy “niềm tin chân thành” của bạn thành vấn đề chứ không phải là không thành vấn đề.
Khi cách cư xử không hợp với những gì tốt, chúng ta gọi là cách cư xử xấu. Khi niềm tin không hợp với những gì chân thực, đó là tin sai lầm. Có cách cư xử xấu, và có niềm tin sai lầm. Do đó, vấn đề không phải là chỉ tin một vài điều gì đó, nhưng vấn đề là chúng ta tin gì.
Niềm tin có nghĩa vụ với chân thực. Nó có trách nhiệm ăn nhịp với thực tại. Nó cần hòa hợp với những gì là, những gì đã là, hay sẽ là. Chúng ta nghĩ gì khi có người nào đó cố chấp tin rằng hai với hai là năm? Bạn không thể tiến xa hơn trong toán học trừ phi bạn tin điều gì trúng, niềm tin của bạn trùng hợp với những gì thật.
Giữ hai cục đá ở tay phải và hai cục đá ở tay trái, rồi đặt chúng xuống bàn. Có tất cả bao nhiêu? Dù có đếm đi đếm lại, dù đếm chúng ở mùa đông hay mùa hè, ở Bắc Mỹ hay ở Phi Châu, hai cục đá với hai cục đá luôn luôn là 4 cục đá, và chúng ta không thể làm gì khác được. Do đó, nếu chúng ta muốn sống hòa hợp với vũ trụ vật chất này, có những điều chúng ta phải tin, và không có sự lựa chọn nào khác.
Bây giờ bước sang lãnh vực khác ngoài vũ trụ vật chất này, lãnh vực tâm linh, siêu nhiên. Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?” Kinh Thánh bảo rằng, Phêrô được ơn soi dẫn của trời cao đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và chỗ khác: “Thầy có những lời ban sự sống đời đời.” Thánh Phêrô cũng như các tông đồ được ơn soi dẫn của Chúa đã nhận thức, đã tin cậy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng trao ban sự sống đời đời, nên các ngài đã can đảm dấn thân hy sinh mạng sống theo Chúa đi trọn con đường. Phải chăng nhận thức và tin tưởng vào lời Chúa nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống,” các thánh tử đạo Việt Nam cha ông chúng ta cũng đã can đảm dám sống chết cho Thiên Chúa?“Này con, con bảo Thầy là ai?” Câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ hôm xưa, cũng là câu Ngài muốn hỏi mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa không muốn chúng ta vay mượn câu trả lời của ai đó, nhưng Chúa muốn câu trả lời từ chính chúng ta. Phải chăng chúng ta nhận thức và tin nhận rằng Chúa là Chúa tình thương, đầy lòng thương xót để rồi dám sống chết cho Chúa và cho cuộc sống đời sau? Một người vô thần lần kia nói với một tín hữu: “Tội nghiệp anh, quả thật là anh bị lừa gạt nếu thiên đàng chỉ là một hoang tưởng.” Người tín hữu đáp lại: “Tội nghiệp cho anh là kẻ vô thần, nếu hỏa ngục không phải là một chuyện hoang đường, thì anh sẽ bị đày đọa biết chừng nào.”
Để kết thúc, xin mượn lời hình như là của một người Do Thái trên đường trốn bọn Quốc Xã đã viết trên tường nhà để củng cố niềm tin của chúng ta khi phải đối diện với những khó khăn thử thách khủng hoảng niềm tin trong cuộc sống, được biết luôn tin tưởng tín thác và nhận thức rõ ràng rằng Chúa luôn đồng hành và yêu thương: “Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc tôi không cảm thấy nó. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.”
Chúa Giêsu hỏi: “Con bảo Thầy là ai?” Điều chúng ta trả lời cho câu Chúa hỏi sẽ tạo nên sự khác biệt cho mình trong cuộc sống - thật ra hai cuộc sống: Cuộc sống hôm nay và cuộc sống vĩnh cửu đời sau.
31. Trụ cột của đức tin – Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 16,13-20) nói với chúng ta những nội dung rất quan trọng liên quan đến đời sống của Hội Thánh.
Hôm ấy, Đức Giêsu đưa các môn đệ đến Xêdarê Philípphê, một thành phố do tiểu vương Hêrôđê Philipphê xây năm 2 tr.CN để kính nhớ hoàng đế Augustô “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (c.13). Người đã không hỏi các ông về ý kiến của đám đông dân chúng về bài giảng trên núi của Người chẳng hạn, hay về một hoạt động nào đó của Người, ví dụ như về phép lạ hóa bánh ra nhiều mới đây… Nhưng Người quan tâm đến ý kiến của đám đông và nhất là của các môn đệ về chính bản thân Người. Điều này cho thấy đây là một vấn đề quan trọng đối với Đức Giêsu.
Các môn đệ nhanh chóng nói cho Đức Giêsu biết đám đông dân chúng nghĩ gì về Người. “Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (c.14). Đám đông dân chúng đồng hóa Đức Giêsu với các nhân vật nổi tiếng trong Cựu Ước. Thậm chí có kẻ còn cho rằng Người chính là ông Gioan Tẩy Giả, vốn đã bị giết (x. 14,2), nay tái thế. Có kẻ nói Người là ông Êlia, vị ngôn sứ phải trở lại, theo sấm ngôn do Ml 3,23 và Hc 48,10 loan báo từ trước. Có người bảo Người là ông Giêrêmia, như đã từng xảy ra trong 2Mcb 15,13tt. Nói chung lại, đám đông dân chúng chỉ quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật, cho dù vĩ đại, cũng vẫn chỉ là sự tiếp nối quá khứ; đó là một nhân vật do Thiên Chúa sai đến như các nhân vật vĩ đại trong Cựu Ước mà thôi. Họ chưa nhận ra nơi Đức Giêsu những thực tại mới mẻ chứng tỏ tính cách độc nhất vô nhị của Người, càng không nhận ra nguồn gốc độc đáo và thần linh của Người. Họ không hiểu đúng về con người và sứ mạng của Người.
“Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (cc.15-16). Câu hỏi thứ hai này hướng trực tiếp về các môn độ. Đức Giêsu muốn biết lập trường và quan niệm của chính các ông về bản thân Người. Các ông đã đi theo Người một thời gian dài, đã chứng kiến những hoạt động của Người, đã được nghe những giáo huấn của Người. Thay mặt anh em, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu câu trả lời của các ông đối với vấn đề quan trọng này. Ông tuyên xưng lòng tin của chính ông và của các anh em ông trong cộng đoàn các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Câu trả lời của ông Phêrô rõ ràng là một lời tuyên xưng đức tin rất hoàn hảo. Trong Mc 8,29 câu trả lời chỉ đơn giản là “Thầy là Đấng Kitô”. Hình như tác giả Mt không hài lòng lắm với câu trả lời đó. Ông bổ túc rõ ràng: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh tư cách là Con Thiên Chúa của Đấng Mêsia (x. 3,17;17,5), không hoàn toàn trùng với quan niệm về Mêsia con vua Đavít như dân chúng nói chung đang mong chờ. Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” không chỉ theo nghĩa là do Thiên Chúa sinh ra, mà trước hết là do Người hành động trong tư cách là chính Thiên Chúa đang hành động. Nói cách khác, công thức “Con Thiên Chúa” ở đây là tương đương với công thức “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Thiên Chúa hằng sống (x. Is 37, 4.17; Hs 2,1; Đn 6,21) thì đối ngược, khác biệt và siêu vượt các ngẫu thần chết chóc: Ngài sống và làm cho sống. Là Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu là Đấng sống và thông ban sự sống đích thực cho con người.
“Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (c.17). Đáp lại lời tuyên xưng của ông Phêrô, Đức Giêsu tuyên bố một mối phúc. Ngài khẳng định Phêrô có phúc vì được lãnh nhận một ơn huệ cao trọng và huyền nhiệm do chính Thiên Chúa ban. Chính Cha của Đức Giêsu, tức là vị Thiên Chúa hằng sống trong lời tuyên xưng của Phêrô, đã mặc khải cho Phêrô biết về căn tính đích thật của Đức Giêsu.
Trong 11,25-27, Đức Giêsu đã dâng lời tạ ơn Cha của Người: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. Đọc câu 27 của bài Tin Mừng hôm nay trong liên hệ với lời ngợi khen đó, chúng ta biết rằng ông Phêrô đang được đón nhận ân huệ dành cho những người bé mọn, chứ không phải vì ông là kẻ khôn ngoan và thông thái theo kiểu các người Pharisêu và các kinh sư. Nói cách khác, ông Phêrô và các môn đệ anh em của ông không bị nhiễm men, tức là không bị ảnh hưởng, của giáo thuyết của các người Pharisêu và nhóm Xađốc (16,12). Đước chính Thiên Chúa mạc khải, ông Phêrô và các anh em được hiểu biết ý nghĩa sâu xa của những hoạt động và giáo huấn của Đức Giêsu.
“Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” cần được đọc song song với “Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời” trong Mt 6,9. Những ai đón nhận từ Chúa Cha mặc khải liên quan đến Đức Giêsu thì đồng thời cũng nhận biết nơi Đức Giêsu dung mạo của chính Chúa Cha; và những ai đón nhận từ Đức Giêsu kinh nghiệm về chính Thiên Chúa là Cha thì sẽ có thể thưa với Thiên Chúa lời Abba thân tình. Chính trong ân huệ và trải nghiệm huyền nhiệm ấy mà ông Phêrô và toàn thể cộng đoàn các môn đệ tuyên xưng lòng tin của mình về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu tiếp tục nói với ông Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Tương ứng với lời tuyên xưng “Thầy là” của ông Phêrô là lời tuyên bố của Đức Giêsu “Anh là”. Đức Giêsu khẳng định ông Phêrô là “Tảng đá” (pêtra), tức là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi. Hội Thánh được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà ông Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa do chính Đức Giêsu xây dựng trên tảng đá Phêrô. Ông có nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn ấy sự chắc chắn, bền vững, không thay đổi, không lay chuyển, dựa trên ơn huệ là mạc khải của chính Thiên Chúa ban cho những con người bé mọn. Và sự bền vững ấy được bảo đảm bởi chính lời hứa của Đức Giêsu rằng “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
“Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Chúng ta thấy thấp thoáng ở đây nội dung của mối phúc cuối cùng trong 5,10t (“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”) và nội dung lời giáo huấn trong 10,28 (“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”). Quyền lực của tử thần, quyền lực của những kẻ bách hại Hội Thánh, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… sẽ không thể tiêu diệt Hội Thánh, vì Hội Thánh được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn thoe thánh ý Ngài.
Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn sự bền vững, ông Phêrô còn có nhiệm vụ quản lý các mầu nhiệm Nước Trời như một người tôi tớ được Chủ trao cho chìa khóa (x. Is 22,22): “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (c.19).
“Cầm buộc và tháo cởi” là ngôn ngữ của các trường phái rabbi, diễn tả nhiệm vụ cho phép hay ngăn cấm về những điểm còn tranh luận trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng quy về việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời.
Trao cho Phêrô những nhiệm vụ làm đá tảng, giữ chìa khóa và cầm buộc – tháo cởi, Đức Giêsu cho thấy Người không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu trong tình trạng mất hướng, nhưng ban cho cộng đoàn đó người lãnh đạo với những năng quyền và nhiệm vụ lớn lao.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng: ông Simon Phêrô, người thứ nhất và là đại diện cho anh em, tuyên xưng lòng tin vào Đức Giêsu với một công thức diễn đạt hoàn hảo con người và sứ mạng của Người, đã được Đức Giêsu đặt làm đá tảng cho Hội Thánh, làm người quản lý các mầu nhiệm Nước Trời và làm người có quyền bính thực sự trong việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời. Với ông, Đức Giêsu xây dựng cộng đồng nhân loại mới, cộng đồng những con người bé mọn tuyên xưng lòng tin vào Người là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Cộng đồng mới này là chính Hội Thánh, sẽ đứng vững trước những sức mạnh tấn công của quyền lực tử thần.
Ý thức về sự cao cả và sự nặng nề của những quyền bính và các nhiệm vụ mà Phêrô đã được trao phó, chúng ta được mời gọi cầu nguyện, vâng phục và hiệp thông sâu xa với Đấng kế vị Thánh Phêrô.
32. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG CUỘC SỐNG TÔI?
Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi nhà lãnh đạo Trung Hoa rằng: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo?” Ông đáp: “Có ba lý do. Thứ nhất, Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai, Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống. Thứ ba, Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế là vị thẩm phán”. Đó là những lý do và cũng là lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế được lưu truyền trong suốt lịch sử Giáo hội, khởi đầu từ các Tông đồ.
Quả thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không hỏi các Tông đồ: “Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải, là quan trọng nhất trong đời? Nhưng Ngài hỏi: “Các con nói Thầy là ai?” Các Tông đồ đã nói cho Chúa biết dư luận của dân chúng rằng: Kẻ thì nói Chúa là ông Gioan Tẩy giả. Kẻ thì bảo là ông Êlia. Có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ. Vì sao người ta lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Gioan Tẩy giả sống lại? Vì Vua Hêrôđê sau khi nghe những việc Chúa Giêsu đã làm, ông đã xác định đó là Gioan bị Vua chém đầu đã sống lại, cho nên dân cũng nghe theo (Mt 14,1-2: Mc 6,14-16). Tại sao có người nghĩ Chúa Giêsu là ông Êlia? Bởi vì, thời đó, trong niềm mong đợi Đấng Mêsia, người ta luôn mong đợi ngôn sứ Êlia sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến (Ml 3, 23-24). Tại sao có người lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Giêrêmia hay là một trong các ngôn sứ? Vì đối với dân Do Thái, một vị ngôn sứ xuất hiện là dấu chỉ niềm hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung thành với giao ước. Ngài sắp đến viếng thăm cứu chuộc dân Ngài. Rõ ràng, tùy góc cạnh tiếp xúc, tùy trình độ hiểu biết, các người dân có những những câu trả lời khác nhau về Chúa Giêsu. Nhưng những câu trả lời ấy chưa chính xác cho nên Chúa Giêsu hỏi chính các Tông đồ: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Thánh Phêrô đã thay mặt toàn thể anh em khác thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha (Mt 9, 1-8 ; Ga 5,17-23 ), vừa là người thật như ta (Pl 2,7; Dt 4,15 ). Ngài có hai bản tính, vừa bản tính Thiên Chúa, vừa bản tính loài người, trong cùng một ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa (Ga 1,14;20,24-29). Ngài cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài còn cao trọng hơn tất cả những tước hiệu, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai yêu tố vững chắc đó là yêu tố tự nhiên và siêu nhiên. Trước hết, yêu tự nhiên: ông Phêrô, người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trợ giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Còn yếu tố siêu nhiên của đức tin Phêrô là chính ngài được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong mà chính Chúa Giêsu đã nói rõ với ông hôm nay: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Đức tin Công giáo của chúng ta trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều mà là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu trong đời sống chúng ta. Cho nên, hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho mỗi người chúng ta rằng: "Con bảo Thầy là ai?" Ngài nhắm thẳng vào mỗi người trong chúng ta, đòi chúng ta phải trả lời. Và câu trả lời của ta không phải là câu trả lời máy móc, không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ, phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm gặp gỡ và sống thân tình với Đức Giêsu. Vì vậy, câu trả lời đúng nhất cho câu hỏi của Chúa Giêsu là hãy sống tận căn thân phận của Chúa Giêsu, tức sống chân thật với Lời Chúa hằng ngày. Cụ thể, ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Chúa Giêsu loan báo con đường duy nhất dành cho người môn đệ đó là con đường Thập Giá mà Chúa đã đi qua. Chúa Giêsu đã sống phận con người với tất cả bấp bênh tăm tối, đã phải chịu đau khổ, chịu hành hạ và sỉ nhục, chịu vác thập giá và chịu chết. Tôi có dám sống chết với phận con người của tôi hay chính hoàn cảnh của tôi giờ này trong cuộc sống hiên tại với niềm vui, tin tưởng và phó thác không? Tôi có dám từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ngài để trọn tình nghĩa với ông, bà cha mẹ, vợ chồng hay con cái trong gia đình tôi chưa? Chúa Giêsu đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng sống của tôi vì Chúa và vì Tin Mừng của Chúa không? Chúa Giêsu đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó để phục vụ Chúa và tha nhân chân tình chưa?
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, một đức tin có thật bên trong, một đức tin mà ông sẵn sàng sống chết với nó, thì Đức Giêsu tuyên bố: «Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi». Chúng ta cũng vậy, trước khi chịu Phép Rửa Tội, linh mục hỏi người chịu rửa tội, anh chị em xin gì? Chúng ta thưa, xin đức tin. Linh mục hỏi tiếp, đức tin sinh ích cho con. Anh chị thưa: đức tin đem lại cho con sự sống đời đời. Như vậy, để đức tin của chúng ta sống và sinh ích thì chúng ta phải hành động và chứng tỏ đức tin ấy bằng chính cuộc sống người môn đệ của Chúa, bằng những lời ăn tiếng nói và hành động cụ thể phù hợp Chúa và với Lời Chúa vì chưng /, nhà thần học Arialdo Beni nói rằng: “Đức Tin không phải là kết quả của hoạt động con người, nhưng mà kết quả của hoạt động phối hợp với Thiên Chúa và con người.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn lấy Chúa làm gia nghiệp và Lời Chúa làm lẽ sống hằng ngày như thế chúng ta mới xứng đáng là những viên đá tảng của gia đình, của giáo xứ và Giáo Hội. Và đó gia đình chúng ta chan hoà yêu thương, giáo xứ chúng ta luôn hiệp nhất nên một trong Ba Ngôi Thiên Chúa và Giáo Hội được làn rộng khắp nơi. Amen.
33. Tôi cũng là người Công Giáo
Nếu như bây giờ thiên hạ hỏi chúng ta: Bạn có phải là người Công giáo hay không? Tôi nghĩ rằng một số người trong chúng ta sẽ trả lời như thế này: Tôi cũng là người Công giáo. Hai tiếng “cũng là” biểu lộ một cái gì e dè, coi vấn đề tín ngưỡng cũng bình thường như mọi vấn đề khác. Và Kitô giáo cũng chỉ là một tổ chức nhằm thúc đẩy con người sống tốt lành hơn, bởi vì Kitô giáo có những nghi lễ trang trọng, đánh động trái tim con người mà đôi lúc chúng ta cần đến. Họ coi niềm tin chỉ là một vấn đề riêng tư cá nhân chúng ta với lương tâm và với Thiên Chúa mà thôi.
Nếu như vây giờ thiên hạ hỏi chúng ta: Bạn nghĩ gì về Đức Kitô? Tôi tin chắc rằng một số người trong chúng ta mặc dù đã biết Người là Con Thiên Chúa, nhưng vẫn ngập ngừng không dám tuyên xưng, bởi vì một khi tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thì lời tuyên xưng này đòi buộc họ phải chấm dứt những ý tưởng và những hành vi mờ ám, đòi buộc họ phải lột xác, phải đổi đời. Và họ đã sợ hãi trước viễn ảnh một tương lai như thế.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Từ hơn 2000 năm qua Người vẫn không ngừng đặt lại câu hỏi cân não ấy, cho mỗi người chúng ta: Phần các con, các con bảo Thầy là ai? Hướng đi tương lai của cuộc đời chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào câu trả lời này.
Trải qua hơn 20 thế kỷ, Đức Kitô vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng nhất. Người ta bàn bạc, người ta tranh luận về Người. Người thì yêu mến Người, kẻ thì ghét bỏ Người. Điều quan trọng là chính thái độ, là chính câu trả lời của mỗi người chúng ta. Dĩ nhiên không phải là một câu trả lời thuộc lòng nằm sẵn trong sách giáo lý: Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng là một câu trả lời được gạn lọc ra từ cuộc sống như thánh Phêrô ngày xưa: Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.
Khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thì một trật chúng ta cũng tuyên xưng: Người là ánh sáng thế gian, là trung tâm của vũ trụ, là chìa khoá giải đáp cho mọi vấn đề được đặt ra. Bình thường thì lúc đau yếu chúng ta mới tìm bác sĩ; khi kiện tụng, chúng ta mới mời luật sư, nhưng Chúa Giêsu thì khác, Người chính là mục đích chúng ta hằng theo đuổi, Người chính là niềm hy vọng chúng ta hằng mơ ước, Người chính là tất cả cho cuộc đời chúng ta. Bởi đó trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta thử đặt lại vấn đề xem: Đức Kitô là ai và Người nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
34. Hội Thánh của Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
TẤM BÁNH CHIA SẺ
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.
TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Hội Thánh rất yếu đuối. Nhưng Hội Thánh vẫn vững bền. Bạn có ngạc nhiên về điều đó không?
2- Khuôn mặt Hội Thánh còn nhiều vết tì ố. Bạn thấy vết nào xấu xa nhất, cần gột rửa ngay tức khắc?
3- Hội Thánh là của Chúa. Bạn tâm đắc gì về điều này?
4- Hội Thánh cho con người. Bạn sống điều này thế nào?
35. Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Thái
(Trích trong Hiệp Nhất, tháng 8-2014).
“Phần các con, các con bảo Thầy là ai? Simon Phêrô thưa rằng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Rembrandt vẽ Đức Giêsu rất con người với tất cả ánh sáng và bóng tôí. El Greco trình bày một Đức Giêsu đòi hỏi và hoang dã, hơi gầy và tình cảm. Còn Angelico miêu tả một Đức Giêsu ngọt ngào giống như thiên thần. Có những hình vẽ Đức Giêsu là Chúa chiên lành, hiền từ và yêu thương, ôm lấy những con chiên hay bế trẻ thơ trong cánh tay. Có hình vẽ Đức Giêsu là quan án, nghiêm khắc, ngôì trên ngai, đang nhìn thấu suốt tâm tư của con người.
Điều không ai nghi ngờ là, con người được miêu tả nhiều nhất trong nghệ thuật trải qua bao nhiêu thế kỷ, là đức Giêsu Kitô. Ngày xưa cũng như ngày nay, người ta vẫn tiếp tục vẽ ra hình ảnh của Ngài. Bài Phúc âm hôm nay, Mt 16:13-20, nói đến sự kiện Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea Philippi và hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” họ trả lời: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.” Ngài hỏi thẳng các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên chúa hằng sống” (Mt 16:16).
William Barclay đã nêu lên những lý do rất hợp lý giải thích tại sao Chúa Giêsu lại rút về vùng Caesarea Philippi để dạy cho các môn đệ biết ngài là ai. Vào thời điểm này, Chúa giêsu phải đối diện với một vấn đề rất gay go. Cuộc đời trần thế của Ngài quá ngắn ngủi, đã có ai thực sự hiểu và nhận biết Ngài là ai chưa? Vì thế, Chúa đã chọn lựa rất kỹ lưỡng địa danh này để đặt câu hỏi “Thầy là ai?”
Theo William Barclay, vùng Caesarea Philppi cách biển Galilea 25 dăm về phía đông bắc, ngoài vùng đất cai trị của vua Herođê, đa số dân chúng không phhai là Do Thái, chịu ảnh hưởng của những thần ngoại đạo, với nhiều đền thờ cổ thờ thần Baal của người Syrian. Vùng này lại có nhiều hang động nằm sâu trong núi. Một trong những hang này được tin tưởng la gnơi sinh ra của vị thần Pan, thần của vũ trụ. Những huyền thoại về thần của người Hy Lạp đã được gom góp lại trên phần đất này. Xa hơn nữa, hang này đã được truyền tụng là nơi xuất phát ra những nguồn suối nước tạo nên dòng sông Gioađan. Nhưng quan trọng hơn hết, có một đền thờ vị đại bằng cẩm thạch trắng để thờ vị thần của hoàng đế Caesar.
Đang khi nhóm người Do Thái chính thống âm mưu giết Ngài như một kẻ rối đạo, Ngài đi đến một vùng đất thiêng thánh nhất của dân ngoại để mạc khải sự thật của Ngài. Đây là một bối cảnh có ý nghĩa sâu xa và có lẽ cũng là nơi an toàn để Chúa Giêsu cùng với mười hai môn đệ tuyên xưng niềm tin. Qua lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mạc kải về thần tính của ngài ở địa vị tối thượng trên hết mọi thần linh. (Tuyên ngôn Dominus Jesus).
Câu trả lời của Thánh Phêrô là kết quả của những ngày tháng gặp gỡ chính conngười Đức kitô. Ông đã quan sát đời sống hằng ngày của Ngài khi giảng dạy, làm phép lạ, chữa lành bệnh nhân, kêu gọi dân chúng thay đổi đời sống, tiếp xúc với những người tội lỗi, phụ nữ và trẻ em, ăn uống, gần gũi và yêu thương những người bị bỏ rơi… Khi sống chung với Đức Giêsu Kitô, sự nhận thức của Pherô về Ngài được mở ra dần dần. Ông nhìn thấy khuôn mặt của Thiên chúa trong Đức Giêsu. Lời tuyên xưng phát xuất từ sự gặp gỡ chân thành trong tâm hồn của Phêrô.
Đức tổng giám mục Oscar Romero của El Salvador , người đã bị bắn chết đang lúc dâng Thánh Lễ, đã phát biểu một cách hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin, những luật lệ phải tuân giữ… Kitô giáo là một con người… Kitô giáo là Chúa Kitô.”
Chính sự kết hợp mật thiết và gắn bó với Chúa Giêsu mà Phêrô đã được đặt làm thủ lãnh của Giáo Hội: “Con là Đá, trên đá này thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được” (Mt16:18).
Năm 1958 ĐGH Gioan 23 được chọn trong cơn khủng hoảng của Giáo Hội về các vấn đề liên hệ đến chức linh mục, đời sống tu, hôn nhân, và đức tin. ĐGH đã phải làm việc vất vả nhiều giờ để cố gắng giải quyết những vấn đề này. Vào một buổi tối, sau một ngày làm việc mệt mỏi trong văn phòng, ngài đi đến nhà nguyện để làm Giờ Thánh theo thông lệ hằng ngày trước khi đi ngủ. Vì ngài quá kiệt sức và căng thẳng tới nỗi không thể tập trung tinh thần để cầu nguyện được nữa. Sau một vài phút cố gắng nhưng vô ích, ngài đứng dậy và nói: “Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội thuộc về Chúa. Con đi ngủ đây.” Chính những khó khăn đã đưa dẫn ĐGH tới việc nhận thức rằng Giáo Hội thuộc về Chúa Kitô.
Nếu hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Câu trả lời của chúng ta là gì? Hầu hết những câu trả lời của chúng ta đã được nghe và đặt thành những tước hiệu về Chúa Giêsu: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ trần gian, Ngôi Thứ Hai của Ba ngôi Thiên Chúa, Chúa chiên lành, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống… Những câu trả lời này có thể là của suy luận thần học và Thánh Kinh, nhưng chưa phải là câu trả lời phát xuất từ đáy tâm hồn ta!
Chúa Giêsu đang mong đợi những câu trả lời cá nhân của chúng ta. Những câu trả lời do sự liên hệ gặp gỡ thân mật giữa ta với Ngài.
36. Đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đức Giêsu, một nhân vật lịch sử đã chết và sống lại gần 2000 năm rồi. Thế mà nhân loại ngày nay, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba, vẫn còn đặt lại câu hỏi đã được đặt từ lúc Đức Giêsu giáng sinh: “Đức Giêsu Kitô là ai?”
Ngài đã trở thành “siêu sao” (Jesus, Super Star) trong các tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng như trên màn ảnh, cả đối với các tác giả không chia sẻ niềm tin vào Đức Giêsu nữa. Nhà văn Aimatov trong tác phẩm “Đoạn đầu đài” đã nói lên những cảm nghĩ và trăn trở của mình về Đức Giêsu và về cây thập tự của Ngài. Dumbatze trong tác phẩm “Quy luật muôn đời” hay Abuladze trong phim “Sám hối”và Nikos Kazantzakis trong tác phẩm “Chúa lại bị đóng đinh”hay trong “Cám dỗ cuối cùng của Chúa”, cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo. Tất cả đều đặt vấn đề về Đức Giêsu.
Tuy nhiên, những Đức Giêsu mang tính thời sự đó, dẫu có hay và lôi cuốn, vẫn chưa phải là Đức Giêsu đích thực của lịch sử, cũng không phải là đức Giêsu của lòng tin, Đức Giêsu của Tin Mừng. Chẳng qua các tác giả đó chỉ mượn dung mạo của Đức Giêsu để ký thác một điều gì trong thâm tâm mình. Cùng lắm, đối với họ, Đức Giêsu cũng chỉ là một bậc thầy rất có thế giá của quá khứ, hay một con người đáng nguyền rủa, nhục mạ của hiện tại.
Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Người ta bảo Thầy là ai?” các ông cho biết: có những người đánh giá rất cao, họ coi Ngài như một Ngôn sứ có tầm cỡ, như Êlia hay Giêrêmia là những ngôn sứ nổi danh bậc nhất trong lịch sử Do Thái. Trái lại, có những đối thủ lại coi Ngài như một người Samari lạc đạo, như một người bị quỷ nhập, như một tên phỉnh gạt hay một tay xách động dân chúng… Riêng đối với các môn đệ thân tín bên Chúa Giêsu, chắc hẳn các ông đã biết rõ Ngài hơn. Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ xác định nhận thức của họ về Ngài. Dân chúng thì nghĩ về Thầy như thế, “còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô đã nói lên nhận xét của các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Lời tuyên xưng đức tin này chúng ta đã gặp trong giai thoại của Chúa Giêsu cứu Phêrô khỏi chết chìm và khiến sóng gió im lặng. Khi Ngài bước lên thuyền, những người ở trong thuyền, tức là các môn đệ, sấp mình dưới chân Ngài mà nói: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. Ở đây, Chúa Giêsu khẳng định lời tuyên xưng này là hiệu quả của ơn mạc khải “do Thiên Chúa Cha của Ngài trên trời”, càng cho chúng ta có quyền nghĩ rằng Phêrô đã thấy được một số nét đặc biệt siêu phàm trong con người của Thầy mình. Chúa Giêsu còn mạc khải thêm cho Phêrô một điều khác cũng quan trọng đặc biệt không kém đối với bản thân ông: “Này, anh tên là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy, và các quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô trách nhiệm giữ “chìa khóa Nước Trời”, trách nhiệm “cầm buộc hay tháo gỡ”được cả trên trời dưới đất đều chấp hành.
Trao chìa khóa nhà mình cho ai, có nghĩa là tín nhiệm và nhờ cậy người ấy coi sóc nhà mình. Người được trao chìa khóa có quyền đóng mở, ra vào, mà không bị coi là kẻ trộm, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm nặng nề canh chừng kẻ xấu, người gian. Chọn lựa, trao gởi trách nhiệm vẫn làđường lối của Chúa đối với Giáo Hội, đối với chúng ta. Tiêu chuẩn để được chọn lựa, tín nhiệm trao gởi trách nhiệm không phải là sự trổi trang về tài năng hay đức độ, mà là lòng tin. Không phải là một Phêrô yếu đuối tầm thường nữa, nhưng là một Phêrô Đá Tảng, người có lòng tin, có sức nâng đỡ cả Giáo Hội của Chúa Kitô. Phêrô đã tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, không chỉ một lần bằng lời tuyên xưng ấy mà thôi, mà bằng cả một cuộc đời không ngừng tuyên xưng lòng tin cho đến lúc tuyên xưng quyết liệt cuối cùng bằng cái chết đóng đinh thập giá như Thầy mình.
“Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ không ngừng vang dội suốt 20 thế kỷ nay đến chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết. Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Phản ứng đầu tiên là im lặng, suy nghĩ, có khi với niềm vui, có khi có một sự ngại ngùng vì câu hỏi mang nặng hậu quả. Câu hỏi chạm đến tận cõi thâm sâu của cuộc đời tôi. Nó buộc tôi phải chọn, một chọn lựa kéo theo nhiều việc khác nữa. Nhưng vì là câu hỏi hệ trọng nhất, nên tôi không thể lẫn tránh được. Chúng ta không thể chỉ tuyên xưng bằng hành động, bằng việc làm cụ thể. Lắm khi sự tuyên xưng chân chính còn đòi buộc chúng ta phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phải, một khi chúng ta đã thực sự tin Đức Giêsu rồi, thì đời ta sẽ phải gắn chặt vào Ngài cho đến chết thôi. Và chết cũng chưa hết, còn cả cuộc sống đời đời nữa.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới thực nghiệm và duy vật chất. Lời nói trên lý thuyết có hay ho cao siêu đến mấy, nếu không được chứng minh bằng đời sống cụ thể, thì thiên hạ sẽ chẳng ai tin chúng ta. Đức Giêsu Kitô là ai? Chúng ta có giảng giải cặn kẽ về nguồn gốc và thân thế của Ngài, người ta có lắng nghe, có theo dõi, nhưng điều người ta theo dõi nhất là coi những người tin theo Đức Giêsu sống ra sao, ăn ở như thế nào, có thái độ thế nào với những công việc mưu cầu lợi ích chung, hạnh phúc chung của mọi người. Và từ đó, người ta sẽ suy nghĩ coi Chúa Giêsu của chúng ta là ai. Việc sống đạo của chúng ta, những người tin Chúa Giêsu, là phải chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu thật là Chúa cuộc đời chúng ta, ngay trong chính cách chúng ta sống Tin Mừng yêu thương, phục vụ của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu Kitô là ai?
Thưa anh chị em, Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho cả xã hội ngày nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người đang sống ở giữa chúng ta.
37. Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16, 15) là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ Chúa để trắc nghiệm sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, trên hành trình từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, nay chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài, một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và này, Simon Phêrô đã thay mặt cả nhóm thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô.
Đáp lại lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả nói: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17).
Phêrô thật có phúc! Phúc của Phêrô phát xuất từ mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa Cha, chính Chúa Cha mạc khải cho ông. Đây là mạc khải chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Phêrô, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã trở thành chứng nhân tuyên xưng một chân lý siêu phàm. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội Chúa: "Trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy" (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết, khi Phêrô bị giam trong ngục. Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên cùng Chúa cho ông (x. Cv 12, 5), vì sự hiện diện của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh: Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách hại (x.12, 7-11). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô, sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần.
Hôm nay, lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, vào giai đoạn công khai sứ vụ cuối cùng, chuẩn bị bước vào cuộc thương khó dẫn tới cái chết đau thương và phục sinh của Chúa. Sau khi hóa bánh và cá ra nhiều, Chúa Giêsu đã quyết định cùng với các môn đệ tách khỏi dân chúng, sang bờ bên kia để huấn luyện các ông.
Hai ngày Chúa nhật trước, chúng ta nghe nói về Phêrô xin Chúa cho đi trên mặt nước, đang đi thì ông chìm dần xuống, Chúa cứu ông lên kèm theo lời quở trách: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" (Mt 14,31 ). Hôm nay, Chúa khen ông: "Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc" (Mt 16,17). Phêrô có phúc là vì ông đã mở lòng mình ra để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa và nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Câu hỏi: "Người ta bảo Con Người là ai? " (Mt 16, 13) được đặt ra trong dòng lịch sử cùng một câu hỏi: "Phần các con các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16, 15). Và một lúc nào đó chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với tôi và tôi là ai đối với Chúa?
"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), là câu trả lời của Phêrô sau khi được Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình về chính mình. Nếu ngày hôm nay Chúa Giêsu hỏi chúng ta: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai? " Chúng ta có thể trả lời Chúa một cách rõ ràng và chính xác như Phêrô. Nhưng nếu Chúa hỏi: Thầy là ai đối với mỗi người chúng ta? Mỗi người phải suy nghĩ, nhìn vào chính tâm hồn mình để trả lời câu Chúa hỏi. Câu trả lời này hết sức riêng tư, không ai giống ai. Đối với người này, Chúa là gia nghiệp, Chúa là bạn trăm năm, là sức mạnh mỗi khi gặp thử thách; đối với người kia, Chúa là Đấng ai ủi khi buồn phiền,v.v…
Bây giờ chúng ta hãy hỏi ngược lại Chúa: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thấy con là ai? Chúa xếp con vào loại người nào?
Tin Mừng hôm nay đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi quan trọng: Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta? Và chúng ta là ai dưới cái nhìn của Chúa Giêsu? Mỗi người chúng ta phải tự trả lời, không ai trả lời thay cho chúng ta được. Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Đấng sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Amen.
38. Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phêrô là người lãnh nhận lời hứa từ Chúa Giêsu quyền chăm sóc anh em. Trước đó ít lâu, ông là người đã đi trên mặt nước, bị Chúa Giêsu quở trách là "người hèn tin" (Mt 14, 31). Trong thực tế, có lẽ Chúa Giêsu đã can thiệp và thách thức ông kêu cầu, đòi hỏi ông phải lớn lên trong đức tin, ông có thể xấu hổ trước mặt đồng nghiệp của mình, cũng như các môn đệ khác, vì "hèn tin", nhưng ông vẫn tự tin, lời tuyên xưng đức tin địa hạt thành Xêsarêa Philipphê của Phêrô là một bằng chứng. Ông đã được Chúa Cha ban cho hồng ân đức tin, nhờ ánh sáng Thần Linh mạc khải, ông biết được căn tính đích thực của Chúa Giêsu; ông tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), nhờ đó ông có thể làm cho anh em khác vững tin.
Hành trình đức tin của Phêrô
Đối với Phêrô, đức tin là một hành động lớn dần. Như bào người trẻ Do thái, ông đã nghe nói về Đấng Mêssia, dùng thánh vịnh của Đavid để cầu nguyện, nghe các thầy Do thái tại Capharnaum hát về niềm hy vọng của dân Israel. Hạt giống rơi vào đất tốt, hôm nay, bén rễ nhờ Lời Chúa Giêsu.
Hành trình ấy khởi đi từ lần đầu tiên gặp gỡ Chúa Giêsu qua Anrê, em ông, cũng là môn đệ của Gioan Baotixita làm trung gian bên bờ sông Giorđan. Anrê là người tìm Chúa: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia" (Ga 1, 41). Không phải Phêrô là người được gọi trước, nhưng là Anrê. Điều này không cản trở ông thành người lãnh nhận trách nhiệm củng cố đức tin cho anh em mình.
Thứ đến, tại tiệc cưới Canna, chính Phêrô là người chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu và "các môn đệ đã tin vào Người" (Ga 2, 11).
Sau một đêm trắng lưới, Phêrô và em ông là Anrê được gọi: "Hãy theo Thày và Thầy sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ lưới người" (Mt 4, 19). Ngày hôm đó, họ để lại tất cả mọi thứ, gia đình và nghề nghiệp để đi theo Chúa.
Và trên một ngọn núi cao, Phêrô đã được Chúa Giêsu cho thấy vinh quang Thiên Chúa (x. Mt 17, 1-9). Ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu của bộ ba, những người sẽ trực tiếp chứng kiến sự phục sinh một cô gái nhỏ (x. Mc 5, 37). Một sự kiện đánh dấu bước tiến đức tin của Phêrô!
Phêrô tuyên xưng đức tin
Được cứu khỏi chết đuối trong một cơn bão khi đi trên mặt nước, lần đầu tiên Phêrô tuyên xưng đức tin: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 33).
Thời gian sau, trên đường từ địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16, 15). Nhân danh các môn đệ kia, Phêrô trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16). Đức tin của Phêrô cũng là của các môn đệ kia, ông thừa nhận và khẳng định lời đầu tiên của Anrê (x. Ga 1, 41), khi nhận lãnh trách nhiệm trong Giáo hội.
Điều này không can ngăn được Chúa Giêsu từ chối đi lên Giêrusalem chịu chết (Mt 16, 22). Chính vì là Con Thiên Chúa, nên thập giá và cái chết của Chúa Giêsu là thử thách nặng nề đối với đức tin của Phêrô. Chúa Giêsu bảo Phêrô: "Con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người" (Mt 16,19).
Đức tin đòi hỏi người ta gắn chặt với thánh ý Thiên Chúa, cho dù có điều gì xảy ra đi chăng nữa. Biến cố biến hình trước Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ là sự bảo đảm: "Đây là Con Ta yêu dấu " (Mt 17, 5).
Lời tuyên xưng thật sâu xa
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn còn hỏi: "Người ta bảo Con Người là ai? (Mt 16, 13) "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16, 15) Đây không phải là một cuộc thăm dò ý kiến để biết lòng dân, nhưng là câu hỏi về vị trí của Thầy trong các môn đệ. Đối với ông, Chúa Giêsu là ai?
Khởi đầu sứ mạng công khai, trước các phép lạ và lời giảng có uy quyền của người thợ mộc thành Nazareth, một câu hỏi hiện lên trong đầu các môn đệ: "Người này là ai? " (Mt 8, 27).
Chúa Kitô không yêu cầu các môn đệ phản ánh ý kiến của người khác, Người hỏi dồn và đợi câu trả lời cá nhân của các ông. Và Phêrô đã trả lời Chúa Giêsu mà không liệt kê lại ý kiến của dân chúng như: Ê-li, Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri. Ông đi thẳng vào vấn đề. Lời tuyên xưng này còn đi xa hơn trước bởi được long trọng tuyên xưng: "Vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17).
Với Thiên Chúa, hành động đức tin không đến từ sự suy tư nhân loại theo kiểu lý trí, triết học, hay tìm kiếm sự hợp lý, những cần phải có ơn "mạc khải từ Thiên Chúa" để tôn thờ bản tính Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu. Người đã nói với họ: "Không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấn mạc khải ra cho " (Mt 11, 27).
Chính lúc Simon đã trả lời đúng về sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng là lúc ông được tiết lộ một ơn gọi đặc biệt. Simon trở thành "Kepha" nghĩa là "tảng đá", "đá". Simon, con người bằng xương bằng thịt, mỏng giòn, dao động như bao nhiêu người khác, nhờ ân sủng đã vượt qua đượcgiới hạn của chính mình. Nếu ông là "đá", là vì Chúa Kitô là đá tảng. Đức tin của ông chỉ lớn lên, khi đặt nền tảng trên Chúa. Thử thách trong cuộc Khổ Nạn của Thầy đụng chạm tới cùng sự mỏng giòn của Phêrô, lúc ấy, ông phải dựa vào sức mạnh của Chúa, xây dựng đời mình trên Chúa.
Khi chúng ta khám phá ra Chúa Kitô, là chúng ta khám phá ra chính bản thân, và căn cội của chính mình. Bước vào trong quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, Người sẽ mạc khải cho chúng ta căn tính của chính mình, đó là điều Phêrô làm. Khi nghe lời Chúa, bước đi với Chúa, ta thực sự trở nên chính mình. Điều quan trọng không phải là việc thực hiện ý muốn của riêng ta, nhưng là ý Chúa, cuộc sống sẽ trở nên đáng tin hơn. Và nếu ta thực sự muốn được kiện toàn bản thân mình, không có cách nào khác ngoài việc mở rộng đường cho Chúa Kitô.
39. Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
Chúa Giêsu vì yêu chúng ta đã giáng thế trong thân phận con người. Ngôi Hai đã tự nguyện trở nên một phàm nhân, chịu giới hạn như người trần thế, Ngài đã chịu đón lấy những cách đối xử bất công của loài người...Đó là điều thiệt thòi cho Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa chấp nhận những thiệt thòi chỉ vì muốn cho loài người được hạnh phúc, cho tôi được nhận biết Ngài mà được cứu độ.
Nếu ai hỏi tôi về Đức Giêsu, tôi bảo Ngài là Chúa của tôi, tôi tin vào Ngài. Thế nhưng, tôi cứ vấp phạm hoài giới răn của Ngài, chưa thực hành lời Ngài dạy cho đúng mức. Từ đó, tôi biết mình hay nói suông mà chưa biết yêu mến Chúa! Chúa phải nhiều lần nhắc nhở tôi qua những bài giảng giải Kinh thánh, qua những người xung quanh... Ngài hỏi tôi: con đặt Ta ở vị trí nào trong lòng con? Đối với con, Ta là ai?
Sau một thời gian giáo hoá các môn đệ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ xác định lập trường của mình về Thầy Giêsu, về cách nhìn, sự hiểu biết và sự tiến bộ của họ. Ngài hỏi các Tông đồ: người ta bảo Con Người là ai? Dư luận bên ngoài thì rất mơ hồ, họ chỉ biết Chúa Giêsu là tiên tri, chưa biết chương trình của Thiên Chúa nơi Ngài. Chính Phêrô đã thay mặt các Tông đồ nói lên quan điểm và sự hiểu biết của mình: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Phêrô dường như hiểu được sứ mạng của Thầy mình. Vì thế, Chúa Giêsu khen Phêrô có phúc đã được Chúa Cha thương soi sáng cho ông. Chính trên niềm tin và lập trường đúng đắn, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm tảng đá xây dựng Hội thánh và quyền lực Ác Thần sẽ không thắng được. Sau này, Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô quyền thay mặt Chúa để tháo hay buộc ở trần gian.
Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng niềm tin và được giao cho một nhiệm vụ quan trọng: lãnh đạo Giáo hội, những người đồng tuyên xưng cũng được Chúa sai đi làm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Còn đối với tôi, Đức Giêsu là ai, tôi có tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa của tôi, là Đấng yêu thương tôi không? Đức Giêsu là sức sống và hy vọng của tôi, không có Ngài tôi không có hy vọng, tôi không có khả năng làm việc gì. Ai sẽ cứu chuộc tôi và cho tôi làm con Chúa nếu Đức Giêsu Kitô không đến cứu chuộc tôi. Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy phó thác vào tình yêu và sức mạnh của Ngài.
Khi tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, tôi phải cố hết sức giữ điều răn Chúa, thực hành lời Người dạy, biết kính mến Chúa hết lòng qua việc giữ ngày Chúa Nhựt, đọc kinh cầu nguyện, dâng mọi việc làm trong ngày cho Chúa với lòng tin tưởng và phó thác. Hiện nay, tôi có yêu thương anh em, sống bổn phận bác ái, tương trợ, loan truyền Tin Mừng mà tôi đã nhận lãnh cho mọi người chưa! Chúa Giêsu nói: lòng tràn thì miệng mới nói ra. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi sẽ biểu hiện lòng kính mến của tôi ra bên ngoài, nhưng rõ ràng là hiện giờ tôi chưa hăng hái, chưa nhiệt tình với việc truyền giáo. Nếu tôi có lòng biết ơn Chúa, tin tưởng nơi Chúa thì lòng tôi hân hoan vui sướng khi nói về Chúa, loan báo niềm vui Chúa Phục Sinh cho mọi người cùng hưởng.
Nhiều lúc tôi tưởng mình có đức tin mạnh, nhưng không ngờ sau một biến cố khó khăn, tôi biểu lộ sự kém đức tin của mình, tôi trở nên yếu đuối, nghi ngờ vào tình yêu của Chúa đối với tôi. Tôi cho rằng nếu Chúa thương và quan phòng thì phải để tôi luôn được sung sướng. Tôi đi lễ thường xuyên, không làm phiền ai, không ngỗ nghịch với Chúa... nhưng tôi thiếu lòng tin tưởng vào bàn tay dẫn dắt tài tình của Chúa, đúng ra là tôi muốn sống nhàn hạ theo ý mình chứ không phải tôi muốn theo ý Chúa. Hơn nữa, tôi muốn Chúa phải theo ý tôi, nên khi Chúa để xảy ra những khó khăn là tôi cảm thấy khó ở... qua những biến cố cuộc đời, tôi cảm thấy mình còn kém đức tin, yếu đuối, cần phải cầu xin Chúa thiết tha hơn, quyết tâm yêu Chúa mạnh mẽ hơn, bám chặt vào Chúa hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết nhận ra và chấp nhận ý Chúa. Tôi cần trưởng thành hơn trong đời sống thiêng liêng, trong sự liên kết thâm sâu với Chúa và bác ái với anh em.
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương chúng con mà Chúa đã phải chịu bao nhiêu sự đối xử bất công của nhân loại và sự tệ bạc của một số người trong chúng con nữa! Xin Chúa thứ tha những sai lỗi của chúng con và ban cho chúng con niềm tin mến Chúa. Mỗi người chúng con sẽ tuyên xưng danh Chúa mạnh mẽ trước mặt thế gian như thánh Phêrô hôm nay để mọi người nhìn vào chúng con đều cảm mến Chúa và được ơn cứu độ.
40. Phêrô tuyên tín – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết là câu: "Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?".
Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một con người lịch sử đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestina cách đây hơn 2.000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những kẻ sống đồng thời với Ngài, họ cũng nhìn thấy những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một E?lia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và các Tông Đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.
Câu hỏi thứ nhất: "Người ta nghĩ Thầy là ai?", chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?". Mỗi người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của mình đối với Chúa. Điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông, ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: "Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân". Câu trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Chúa Giêsu xác nhận không phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín đức tin đó là hồng ân của Chúa Cha ban cho: "Không ai đến được với Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến" (Jn 6,43.45). Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: "Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Phêrô đã nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa".
Mỗi người chúng ta đều cần có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho, là làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, khó mà trung thành với đức tin tuyên xưng này.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: "Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn". Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo". Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phaolô Tông Đồ đã trình bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung thành với đức tin.
Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dầu Phaolô đã có đôi lần sống theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình, Ngài đã chọn Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi". Ơn Chúa luôn luôn ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người "khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng cố anh em con". Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.
Thêm một bài học nữa cho mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin và trung thành với Tin Mừng: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
41. Sống đức tin
Trong câu chuyện trao đổi giữa Thầy và trò, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo Thầy là ai?
Các môn đệ liền đúc kết các dư luận quần chúng:
- Người thì bảo Thầy là Êlia, là Giêrêmia, là Gioan Tiền hô hay là một tiên tri nào đó.
Có lẽ lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đưa ra một câu hỏi cân não:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Giữa lúc các bạn còn lúng túng, phân vân, suy nghĩ, thì Phêrô đã mạnh dạn thưa:
- Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.
Lời tuyên xưng của Phêrô thật đáng ca ngợi. Thế nhưng, nguyên một lời tuyên xưng mà thôi, thì chưa đủ để bảo đảm phẩm chất của một đức tin, bởi vì còn phải đợi xem đức tin ấy sẽ trải qua những thử thách nào và được tôi luyện trong thực tế ra làm sao? Khi tuyên xưng đức tin, hẳn Phêrô chưa thấy hết được những khó khăn sẽ gặp phải trên con đường tin sau này.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài, thì Phêrô đã phản ứng một cách dữ dội, ông đã quyết liệt can ngăn Ngài. Thử thách đức tin lớn nhất Phêrô đã trải qua chính là cuộc thương khó. Tại vườn Cây Dầu, ông đã hung hăng chém đứt tai người lính để bảo vệ Thầy, nhưng rồi sau đó, ông cũng đã chạy trốn. Tiếp đến, khi bị người tớ gái nhận mặt và chất vấn, ông đã chối Thầy tới ba lần. Rồi khi được tin báo Chúa Giêsu đã sống lại, thì cũng như các tông đồ khác, Phêrô vẫn chưa chịu tin ngay.
Chỉ khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, đức tin của Phêrô mới thực sự trưởng thành và trở nên kiên vững. Lúc đó đức tin biến thành một xác tín và người tin trở thành một chứng nhân, tuyên xưng niềm tin của mình không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Con đường Phêrô đã đi qua cho chúng ta thấy: Từ chỗ chấp nhận chân lý đức tin đến chỗ sống đức tin của mình là cả một chặng đường dài, đầy cam go. Con đường dài này là một cuộc thử lửa, một cuộc kiểm tra chất lượng.
Như một sản phẩm, trước khi được tung ra thị trường, cần phải được đưa qua khâu kiểm tra chất lượng để đo độ bền, độ cứng, độ dẻo, sức chịu nhiệt, chịu ẩm… Cũng vậy, chất lượng đức tin của chúng ta cũng cần phải được kiểm tra. Chính cuộc sống mỗi ngày sẽ kiểm tra chất lượng và định đoạt số phận đức tin của chúng ta. Nếu chúng ta sống hợp với điều chúng ta tin, nếu trong gian nan thử thách lòng tin của chúng ta vẫn không bị nao núng, nếu vì đức tin mà dám chịu thiệt thòi… thì quả thực đức tin đó đã được tôi luyện và đã trưởng thành. Đức tin đó không chỉ còn là một thái độ của trí tuệ mà đã trở thành một nếp sống.
Ban đầu đức tin của Phêrô còn non nớt, bởi vì Phêrô mới chỉ tuyên xưng bằng lời nói. Dần dần qua những khó khăn, những thất bại, những cố gắng, những phấn đấu, đức tin đó đã lớn lên và được tuyên xưng bằng chính cuộc sống. Và đó là một sự trưởng thành cần thiết.
Hãy cầu xin cho đức tin của mỗi người chúng ta cũng lớn lên, cũng trưởng thành theo nhịp độ của cuộc sống, giữa những gian nguy thử thách chúng ta gặp phải.
42. Một ngôi nhà xây trên đá cứng
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Một vị tiểu quân vương là Philipphê, chư hầu của La Mã đã cho xây cất một thành phố nhỏ với cái tên là Césarea, nhân danh hoàng đế Césaré-Augustô. Do đó có cái tên là thành Césarea của quân vương Philipphê. Nó không cách xa nguồn của sông Hòa Giang là bao, chỉ độ 40 cây số về phía bắc hồ Tibêriát. Vùng này đa số là ngoại giáo nhưng cũng hiếu khách. Chúa Giêsu dừng chân tại đây để tránh những lời phản đối của người Do Thái và Người cũng lưu tâm đến việc huấn luyện các tông đồ về chiều sâu. Người đi đến chỗ đặt cái câu hỏi đầy tin tưởng: “Đối với chúng con, Thầy là ai?”. Trước hết Chúa Giêsu hỏi xem người ta nghĩ gì về con người của Người. Dân chúng có thói quen suy nghĩ theo những mẫu mực mà tập quán đã đặt sẵn vào trong trí óc. Do đó có những ý kiến liên quan đến những quan niệm đang được truyền tụng. Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại hay Êlia, hay Giêrêmia, hay là một trong các tiên tri. Chúa Giêsu muốn mở mắt cho các môn đệ thấy sự mới lạ chưa hề được tiết lộ về bản thể và con người của Ngài. Ngài biết rằng lời giảng dạy bên ngoài của Ngài nối liền với tác động bên trong của Chúa Cha trong tâm hồn. Biết chắc là có sự đồng quy ấy nên Ngài long trọng nêu ra một câu hỏi to tát, đồng thời cũng là trung tâm của Tin Mừng theo thánh Matthêu: Đối với chúng con, Thầy là ai? Chính Simon-Phêrô đã trả lời và tự đặt mình làm phát ngôn viên của mọi người: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Nên lưu ý là Matthêu đã ghi: Simon-Phêrô, Simon là cái tên riêng cho phép nhận ra danh tánh của con người, còn Phêrô là tên chính thức gán ghép cho con người một chức vụ. Simon-Phêrô có ý chỉ con người của Phêrô với tư cách là người đứng đầu Hội Thánh. Không để đi lạc vào trong những điều bàn cãi của khoa chú giải Kinh Thánh, ở đây chúng tôi muốn gán cho câu trả lời của Phêrô cái ý nghĩa minh bạch do đức tin gợi ra. Cần minh định một vài điểm:
1) Phêrô được tuyên bố là nền tảng của Giáo Hội.
Thực ra nền tảng căn bản của Giáo Hội là Chúa Kitô, nhưng Phêrô làm thành cái nền tảng bên ngoài, có thể xem thấy được của Giáo Hội. Chính bản thân Ngài là nền tảng và với tư cách là người được ký thác đức tin. Hơn thế nữa, Giáo Hội, các dân tộc tụ họp theo ý muốn của Thiên Chúa, xét về thời gian, còn đi xa hơn cuộc sống của con người Phêrô. Giáo Hội cũng dựa trên các Đấng kế vị Phêrô. Đức tin của chúng ta ngày nay nhìn thấy trong lời nói của Chúa sự khai mào của một trong những tổ chức căn bản của ‘xã hội’ Giáo Hội, các xã hội xét về mặt huyền nhiệm, là cộng đoàn của các tín hữu mà thánh Phaolô gọi là thân thể của Chúa Kitô.
2) Danh từ ‘cửa hỏa ngục’ có ý nghĩa gì?
Bên Đông phương người ta có thói quen triệu tập các thân hào nhân sĩ ở các đô thị ngay nơi các cửa thành, khi họ thảo luận với nhau về vấn đề trị an hay phân xử dân chúng. Kết quả là danh từ ‘cửa thành’ mang ý nghĩa quyền hành pháp hay uy quyền. ‘Cửa hỏa ngục’ có ý nghĩa là những quyền lực tối tăm ở bên kia thế giới vật chất. Những quyền lực này sẽ tấn công Giáo Hội nhưng không bao giờ thắng nổi.
3) Ta sẽ giao cho con chìa khóa Nước Trời.
Chìa khóa tượng trưng cho quyền hành và trách nhiệm cai quản. Trao chìa khóa theo ngôn ngữ Kinh Thánh tượng trưng cho sự ủy thác trách nhiệm quản gia của nhà vua hay của vị thủ tướng. Trong trường hợp hiện thời, Chúa Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm cai quản Hội Thánh trên bình diện đức tin, trong sự tham gia vào các bí tích và trong luật sống của cộng đoàn. Những danh từ ‘buộc tội’, ‘tha tội’, liên quan đến quyền hạn của Phêrô, có thể được hiểu theo nghĩa là ‘cấm đoán’ hay ‘tha phép’ hiểu theo nghĩa mạnh. Điều này có nghĩa là hễ ai cấm đoán hay cho phép đều đã được trao quyền và chính cái quyền hành đó cưỡng bách chúng ta.
43. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương
ĐỨC KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT VÀ PHỔ QUÁT CỦA NHÂN LOẠI
Nếu chúng ta còn nhớ cách đây không lâu ở Mỹ này, nhà văn Dan Brown viết cuốn sách Da Vinci code, nó trở thành cuốn sách bestseller, được đóng thành phim, và được phổ biến khắp thế giới, trở thành «hiện tượng Da Vinci code» và làm nhiều người công giáo bị sốc. Bởi vì trong đó Dan Brown giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn khác biệt với Đức Giêsu ở trong kinh thánh. Ngài là một người bình thường như mọi người, đã có gia đình, có vợ có con và giòng giống của ngài vẫn tồn tại cho đến hôm nay. Và Giáo hội chỉ là một tổ chức chính trị và quyền lực hoàn toàn nhân loại. Nhiều người công giáo bị sốc và lung lay đức tin và có người đã nói rằng: mấy chục năm theo đạo, tôi đã bị lừa... bây giờ người ta find out ra thì mới biết Chúa Giêsu chỉ là một người đàn ông bình thường... v.v.v.
Tôi nhắc lại sự kiện đó để chúng ta thấy rằng: Câu hỏi của Chúa Giêsu với các tông đồ hôm nay vẫn còn mang tính thời sự: Người ta bảo Thầy là ai? Thời Chúa Giêsu dư luận dân chúng cũng biết mù mờ về Ngài: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêremia hay một tiên tri nào đó”. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: Người ta bảo thầy là ai? Nhiều người mang danh là kitô hữu nhưng biết rất mơ hồ về Ngài. Chúng ta thưa: Dạ thưa Chúa: kẻ thì nói Chúa là một nhà sáng lập tôn giáo, một nhà cách mạng tinh thần... còn Ông Dan Brown bảo Chúa lấy bà Mađalêna và có quan hệ với bà nên có vợ con đề huề....
Ngày hôm nay chúng ta đang sống trong một thế giới bùng nổ thông tin và của thị trường tự do. Tất cả mọi thứ người ta có thể rao bán và quảng cáo. Về mặt tư tưởng cũng thế, tôn giáo và các hệ tư tưởng cũng bị biến thành thị trường cạnh tranh mua bán, và người ta cứ việc mua thứ tôn giáo nào hợp với sở thích của mình. Đức Kitô cũng nhào nặn, được make up theo sở thích và lợi nhuận của họ để rao bán khắp nơi. Nói như Cha Cantalamessa, ngày xưa Chúa bị bán bởi Giuđa, còn hôm nay Chúa cũng bị bán bởi các nhà viết sách và làm phim, mà lợi nhuận không phải ba mươi đồng bạc nhưng là cả triệu dollar!
Nhưng chúng ta phải tĩnh thức, vì đó không phải là Đức Kitô của Kinh Thánh, của niềm tin Giáo hội, mà là Đức Kitô của «người ta»: một Đức Kitô của tưởng tượng và sự hiếu kỳ của họ. Chúng ta không cần phải hoang mang và lo sợ gì!
Niềm tin của chúng ta vào đức Kitô được gói ghém trong câu hỏi thứ hai của Chúa Giêsu “Còn các con bảo Thầy là ai?” Anh chỉ Em và tôi bảo Đức Giêsu là ai? Câu này mới là quan trọng. Nhân danh tất cả Phêrô trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là mạc khải và là trung tâm điểm niềm tin chúng ta vào Đức Kitô và kể từ năm 325 (Công Đồng Nicée) trở thành định tín kitô học của Giáo hội mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh tin Kính: «Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng. Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Cha, nhờ người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thể... ». Nghĩa là Đức Kitô đó là Thiên Chúa thật và người thật, vrai Dieu et vrai homme. Ngài cũng biết khóc biết cười, ngài cũng có nhu cầu ăn uống và nghĩ ngơi, Ngài giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi thôi. Nhưng Ngài là “Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, nghĩa là ngài là chính Thiên Chúa. Ngài nhập thể để cứu độ chúng ta nên Giáo hội tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Và nói như thánh Gioan: Ai tin vào con của người thì cứu độ (x. Ga 3,14). Chỉ nhờ Ngài mà chúng ta được cứu độ. Chỉ qua Ngài chúng ta tới Thiên Chúa.
Đức tin đó không phải là một sự hiểu biết suông, nhưng là một sự gắn bó đời mình với Đức Kitô. Người kitô hữu là người xây dựng cuộc đời và những dự phóng đời mình trên Đức Kitô, lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm của cuộc sống. Bởi vì nơi Ngài chúng ta tìm được tất cả những giải đáp cho những thắc mắc, những khát vọng sâu thẳm nhất về ý nghĩa cuộc đời. Đó là một đức tin trưởng thành, mang tính cá vị và không bị lung lay trước thử thách.
Một lần nữa, cùng với Phêrô và các tông đồ: Chúng ta tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống qua kinh tin kính.
44. Các bạn nói Chúa Giêsu là ai? – Charles E. Miller
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Khi vị tổng thống Hoa Kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi. Hầu như mọi điều do Tổng thống nói đều là những tin tức đáng giá không phải vì lời của Tổng thống sâu xa hay sẽ thay đổi các biến cố trên thế giới nhưng đơn giản chỉ vì ông ta là Tổng thống. Ngay sau khi ông xuống khỏi chức vụ, ông sẽ chẳng còn hấp dẫn mấy với những phương tiện truyền thông đại chúng nữa.
Một con người là ai sẽ làm cho mọi chuyện ra khác lắm. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đặt câu hỏi về chính mình khi Người hỏi các môn đệ, phần các con bảo Thầy là ai? Phêrô hành động như một vị phát ngôn cho tất cả các tông đồ, ông không mắc phải sai lầm như những người khác nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri nào khác đã trở lại trái đất này. Phêrô đã tuyên bố cách trang trọng: “Thầy là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tuyên bố của thánh Phêrô có hai phần: trước hết, ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Câu trả lời này là sự xác tín của các môn đệ. Niềm hy vọng một Đấng Mêsia đã trở nên nồng cháy và rõ ràng trong suốt thời cai trị của vua Đavít, đặc biệt là qua tiên tri Nathan vào thế kỷ thứ X trước công nguyên. Niềm hy vọng này đã lớn lên cách mạnh mẽ vào thời Chúa Giêsu, một số người đã trông đợi Đấng Mêsia xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Bây giờ các tông đồ đặt trọng tâm niềm hy vọng của mình vào Chúa Giêsu.
Nhưng phần hai lời tuyên bố của thánh Phêrô đã làm kinh ngạc mọi người có mặt ở đấy. Thánh Phêrô tuyên bố rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải bằng cảm giác mà người ta có thể xác định được đức tin của một người nào, nhưng chỉ có một cách duy nhất người ta có thể áp dụng vào một mình Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhấn mạnh không phải do con người đã tỏ lộ cho Phêrô biết điều này, nhưng Người không bằng lòng với cách nói đơn giản: “Thiên Chúa đã mạc khải điều đó”. Người tuyên bố cách rõ ràng: “Chính Cha Thầy ở trên trời đã mạc khải điều này”.
Kiểu ngôn ngữ này làm cho các tông đồ kinh ngạc, Chúa Giêsu đặt nền tảng cho sự thật đáng sợ Thiên Chúa là Cha của Người, rằng Người thật sự là Con Thiên Chúa, không thể mơ hồ hay phân tích cách nào khác nhưng chỉ có một ý nghĩa được chuyển trao cho trí hiểu của cả nhân loại.
Trong việc đáp lại sự diễn tả đức tin của Phêrô, Chúa Giêsu đã nói những lời nổi tiếng này: “Con là Đá trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Sự nối kết giữa chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và Giáo hội được đặt nền tảng trên đá thì không có gì làm thay đổi được. Đúng hơn nó trở thành một sứ vụ chắc chắn của Giáo hội để làm rõ ràng, để dạy dỗ và sống theo chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Ý nghĩa này đã được các công đồng sơ khai của Giáo hội (mà Công đồng Vaticano II là Công đồng thứ 21) đã xác định cách rõ ràng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua những thế kỷ, Giáo hội vẫn tiếp tục giảng dạy cho mỗi thế hệ người công giáo mới, để làm cho lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô trở nên chính họ, như chúng ta cũng phải làm cho lời tuyên xưng ấy trở nên chính chúng ta vậy. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia đại diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu thật sự là Người Con duy nhất của Thiên Chúa, ngang với Đức Chúa Cha trong mọi sự. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu là những gì làm cho những lời của Người trở nên quý giá cho chúng ta và những hành động của Người thì vô giá. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu cũng là những gì làm cho mọi sự Người đã làm, làm đẹp lòng Cha người và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Mọi sự nơi Chúa Giêsu tuôn trào từ sự đồng nhất thật sự này. Ôi, sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa sâu xa biết bao, đã mạc khải cho chúng ta sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Đây là chân lý được củng cố trên thế gian và còn tiếp tục trên thiên đàng cho đến đời đời.
45. Ngọc trong đá
Không một quyền bính nào được thiết lập mà không bởi Thiên Chúa. Quyền bính đích thực không phải là để cai trị nhưng là để phục vụ.
Trong bài đọc một được trích từ sách tiên tri Isaia, ta thấy được rằng Thiên Chúa Giavê đã kết án Shebna, một tướng lãnh hùng mạnh và giàu có, người đang cố công xây dựng những thành quách và mộ phần thượng cấp cho mình. Chúa phán sẽ truất phế hắn và hất hắn ra khỏi cương vị của hắn. Thay vào đó, Chúa sẽ đặt Êliakin, con của Hikias vào vị trí đó và sẽ củng cố quyền bính cho ông.
Tin Mừng hôm nay làm nổi bậc lên hình ảnh của Phêrô, người mà Đức Giêsu chọn làm Đá Tảng để xây dựng Hội thánh của Ngài trên đó. Vinh dự đó có phải là vì Phêrô là người xứng đáng hơn những tông đồ khác không, có phải vì Phêrô tài giỏi và đạo đức hơn các người khác không? Chắc chắn, nếu nhìn theo kiểu thế gian thì không phải thế, nhưng Chúa hành động theo cách của Chúa, theo đường lối của Chúa. Chúng ta tin chắc rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều đó nên ngài đã viết trong thư gởI tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc 2 rằng: "Sự giàu có, khôn ngoan và thông hiểu của Thiên Chúa sâu thẳm là dường nào! Ai biết được tư tưởng của Chúa... vì mọI sự đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng về Người. Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm hồn mỗi người chứ không nhìn xem vẻ bên ngoài theo cách thế của con người nên Chúa Giêsu đã chọn Phêrô làm đầu Hội thánh ở trần gian để tiếp tục sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Ngài. Phêrô không phải là người thay thế Đức Giêsu nhưng là tôi tớ của Ngài, được Ngài cắt đặt lên để làm công việc được trao phó là chăn dắt đoàn chiên của Chúa.
Cuộc đời của Phêrô được đan kết bởi một chuỗi những tranh sáng và tranh tối. Có những lúc Phêrô tỏ ra can đảm lạ lùng; nhưng cũng có lúc Phêrô yếu nhược vô cùng. Chúng ta hãy nhớ lại xem, chính Phêrô đã nói rõ ràng rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" và ông cũng đã lớn tiếng thề thốt rằng: "con sẽ liều mạng sống vì Thầy", nhưng rồi sau đó, chắc cũng không lâu lắm, chính ông đã thề độc là " tôi không biết con người đó". Có phải chăng là đã có 2 Phêrô: một Phêrô thật và một Phêrô giả chăng? Không phải thế. Vẫn là một con người Phêrô ấy, chỉ có một Phêrô đã nói lên những điều rất trái ngược ấy. Điều đó muốn nói gì với chúng ta? Thưa có sự phân chia trong con người của Phêrô cũng như trong con người của mỗi chúng ta. Điều mà thánh Phaolô đã cảm nghiệm rõ ràng: " Điều tốt tôi muốn làm thì tôi lại không làm, còn điều xấu tôi không muốn làm thì tôi lại làm". Hay cũng như thánh Phaolô đã nói là trong ta có con ngườI sống xác thịt và con người sống theo Thần khí. Do đó, Phêrô có những lúc nhiệt tâm và can đảm thật sự, nhưng cũng có lúc ông nhát đảm và yếu đuối. Và bản thân mỗi người chúng ta cũng thế. Có những lúc chúng ta sốt sắng nên thề hứa với Chúa đủ điều. Không phải là thề hứa giả dối nhưng là thề hứa thật; rồi có những lúc cảm thấy chán nản, thất vọng và muốn buông xuôi tất cả. Không phải chỉ có chúng ta mà thôi nhưng biết bao vị thánh lừng danh cũng ở trong tình trạng đó, tình trạng mà các ngài gọi là " đêm tối đức tin". Những giây phút yếu nhược không quan trọng, không có gì đáng sợ, nhưng điều quan trọng là ta không được phép để cho những khoảnh khắc ấy đè bẹp chúng ta. Hãy nhớ đến Chúa đang ở bên ta. Chúa đang mỉm cười với ta lúc ta cao hứng nhưng Ngài sẽ đỡ nâng và thêm sức cho ta khi ta yếu nhược: "Ơn Ta đủ cho con".
Việc ý thức mình có những lúc mạnh và có những lúc yếu như thế giúp ta có một cuộc sống quân bình và biết cảm thông, tha thứ đối với người khác. Thông thường, chúng ta thấy dễ dàng phê bình người khác nhưng lại khó chấp nhận những khiếm khuyết của mình; hay ta thấy phấn khởi khi được khen tặng nhưng khó mở lời để khích lệ ai, và điều này đã làm cản trở biết bao những cơ hội tốt trong cuộc đời này.
Phêrô đã phạm nhiều sai lỗi. Điều đó là rõ ràng, ai cũng nhìn thấy được. Những Phêrô cũng có rầt nhiều điểm mạnh như lòng quãng đại, sự nhiệt tâm, tinh thần lãnh đạo...và Chúa Giêsu đã nhận ra những điều đó nơi ông và Ngài đã tin tưởng và tín nhiệm Phêrô.
Cầu nguyện: Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta tập và cố gắng nhìn thấy và khám phá ra những điều tốt nơi ngườI khác để luôn biết nói tốt, nghĩ tốt và làm tốt cho họ. Và chính khi làm những điều ấy thì không những bản thân những người ấy được vui tươi hạnh phúc mà bản thân mình cũng được hưởng. Nhờ những thành quả tốt đẹp ấy. Đó là những viên ngọc mà chúng ta đã tìm thấy được nơi những hòn đá cứng cỏi.
nguon:http://gplongxuyen.org/News