Chúa Nhật 22/12/2019 – Chúa Nhật 4 Mùa Vọng năm A: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Chúa Nhật 22/12/2019 – Chúa Nhật 4 Mùa Vọng năm A. – Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

"Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".

 

Lời Chúa: Mt 1, 18-24

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".

Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A 2019

Lời Chúa: Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24

 

1. Khuôn mặt Giuse: Đấng Công Chính - Huệ Minh

Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông Dacaria và một cho Đức Maria. Thánh Giuse, người công chính, đã nhanh chóng “đọc” được ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa và cũng mau mắn vâng lời. Đặt tên cho em bé là nói lên quyền làm cha của em. Con Trẻ tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ; và Ngài còn được gọi là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Để cứu chuộc con người, Con Thiên Chúa đã đến trần gian, mặc lấy thân xác và sống giữa, sống với con người. Thiên Chúa đã đích thân đến với con người bằng một cung cách thật gần gũi và bình thường.

Chúa Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cha mẹ của Người: Đức Maria một cô thôn nữ đơn sơ, nhỏ bé, bình dị đã thành hôn với ông Giuse thuộc dòng tộc Đavít (18.20b). Ông là người công chính, luôn mau mắn vâng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa (c. 19.24).

Sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể là để “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (c. 21b). Con Thiên Chúa làm người, đi vào lịch sử loài người, Ngài không chọn một gia đình cao sang quyền quí làm nơi xuất thân nhưng là một mái ấm gia đình đơn nghèo đạm bạc để làm nên trang sử gia đình thánh và viết lên trang sử đời Người. Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Với sứ mạng Thiên sai, Ngài đến để rao giảng Tin mừng tình thương cứu độ. Ngài gần gũi, quan tâm, săn sóc những người nghèo khổ, lầm than vất vưởng, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Và điều quan trọng là Người đến để cứu vớt, giải phóng con người khỏi nô lệ, xích xiềng tội lỗi, cho họ được tự do và làm con Thiên Chúa, được chung hưởng hạnh phúc nước trời.

Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi Đavid, hậu duệ của vua Đavid. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho Đavid một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".

Trước sự kiện Maria tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giuse đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Maria, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Maria về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Maria đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Maria, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.

Giuse còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giuse đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Maria. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.

Tuy nhiên, hậu duệ của Đavid không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?

Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.

Cách ứng xử của thánh Giuse nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Maria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giuse là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay.

Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.

Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.

Cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giuse.

Mạc khải ơn cứu độ là công việc của Thiên Chúa, nhưng để thực hiện ơn cứu độ ấy thì cần đến sự cộng tác của con người. Chỉ khi ta sẵn sàng dẹp bỏ chương trình, sở thích cá nhân, để mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, ta mới có thể cộng tác với chương trình của Ngài. Như Đức Maria khiêm tốn đón nhận lời truyền tin hay tựa như thánh Giuse lập tức thi hành điều được báo mộng, ta cũng hãy tìm mọi cách giúp cho Chúa Giêsu nhập thể và sống giữa môi trường của ta.

 

2. Đừng ngại... thực thi ý Chúa - Dã Quỳ

Tám ngày trước Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vai trò của Thánh Giuse và Mẹ Maria rất quan trọng. Chính nhờ lòng vâng phục của Thánh Giuse và Mẹ, mà Đấng Emmanuel đã nhập thể, nhập thế và hiện hữu trong một dòng tộc giữa trần thế để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa trong sứ mạng cứu độ nhân loại.

Vai trò của Mẹ Maria thật lớn lao. Mẹ luôn hiện diện trong những tường thuật của Tin Mừng mà chúng ta sẽ đọc cho tới ngày Noel "Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người..." Những lời kể về Mẹ thật giản dị nhưng lại mang nặng chiều sâu nhân loại và mầu nhiệm. Chúng ta chiêm nghiệm hình ảnh của Mẹ Maria, một thôn nữ đang ở độ tuổi mười lăm đôi mươi.

Mẹ Maria theo tập tục của Phương Đông thời ấy, đính hôn và thành hôn với một người nam "Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse." Với kinh nghiệm của nhiều người, chắc hẳn chúng ta biết trong thời gian sau khi đính hôn, người ta rất hạnh phúc để chờ đợi ngày được ở bên nhau. Thế nhưng, với Mẹ Maria, một biến cố mầu nhiệm khác đã diễn ra trong cuộc hôn nhân của Mẹ "Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần." Người con Mẹ đang cưu mang là do quyền năng Thiên Chúa thực hiện sau lời xin vâng và niềm xác tín của Mẹ vào chương trình của Ngài. Con trẻ này không là một trẻ thơ như bao đứa trẻ khác. Người là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Người sẽ được gọi là "con người và Thiên Chúa". Nhưng làm sao Giuse, hôn phu của Mẹ hiểu được và đón nhận?

Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã quan phòng chuẩn bị cho Ngôi Hai một người cha trần thế. Người cha ấy chắc chắn cũng được đầy tràn ân sủng "Ông Giuse, chồng bà là người công chính." Vì công chính nên khi gặp điều trái ý, đối diện với những biến cố khó khăn hay sai phạm của người, Giuse chỉ âm thầm suy nghĩ và tìm cách cư xử tốt nhất cho người khác, nhất là người mà mình yêu thương "không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo." Làm sao có thể hiểu được ý Chúa nhiệm mầu? Làm thế nào để thực hiện được chương trình của Thiên Chúa, nếu không lắng nghe và mở lòng vâng phục tín thác?

Có thể nói giấc mộng và lời báo mộng của Thiên Thần Chúa cho Thánh Giuse được gọi là một biến cố "Truyền Tin", một loan báo về cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô- Đấng Cứu Độ "Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại ...Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Lời sứ thần mà Giuse lắng nghe đã thay đổi mọi suy nghĩ và quyết định của ngài. Giờ đây thực thi ý Chúa và cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa là chọn lựa hàng đầu của thánh Giuse. Từ đây, ngài đã đón nhận Đấng Cứu Thế và Mẹ Người bằng hành động cụ thể và cuộc sống hy sinh tận tụy trong suốt cuộc đời.

Tạ ơn Thiên Chúa về lời hứa kỳ diệu Ngài đã thực hiện "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta.’” Một Đấng Cứu Độ mặc lấy xác phàm để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa. Một Giao Ước mới với nhân loại được thực thi "Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Thật hạnh phúc cho chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương khi sai Ngôi Hai Thiên Chúa đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta có ước muốn Thiên Chúa ở cùng và sẵn lòng đón Người không? Mẹ Maria và Thánh Giuse đã là mẫu gương cho chúng ta về việc rộng mở tâm lòng và cuộc đời để Chúa đến, ở cùng và cứu độ.

Ta hãy chiêm ngắm sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời và chương trình riêng của Mẹ Maria để xin vâng và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ đã trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính lòng dạ mình và Mẹ được gọi là "Thân Mẫu Chúa Giêsu". Chúng ta cũng hãy học nơi Thánh Giuse sự khéo léo tế nhị khi đối xử với anh chị em và lòng vâng phục tín thác vào thánh ý Thiên Chúa qua mọi biến cố, qua tiếng nói lương tâm chân chính và trong sáng. Sự công chính đã giúp ngài có khả năng tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng dấn thân cộng tác thực thi chương trình của Chúa dẫu cho khó khăn vất vả.

Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta, từng Kitô hữu hay những đôi bạn trẻ sắp, đang và đã bước vào đời hôn nhân. Hôm nay, mỗi chúng ta cũng có một trách nhiệm: lắng nghe, thực thi thánh ý Chúa, làm cho Chúa sinh ra trong tâm lòng mình, trong anh chị em và nhất là để Chúa ở cùng, lớn lên và cứu độ chúng ta. Ước gì trong thời gian cuối của Mùa Vọng này, chúng ta biết noi gương Mẹ Maria và Thánh Giuse, biết hăng hái thưa xin vâng và sẵn sàng chọn lựa theo ý Chúa để dâng trọn cuộc đời thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay qua đời sống yêu thương, công bằng, bác ái, sẻ chia cụ thể. Có như thế, cuộc đời chúng ta mới thực sự có Thiên Chúa ở cùng và chính chúng ta là cánh tay nối dài của Chúa vươn đến anh chị em.

Lạy Đấng Emmanuel, xin đến và ở cùng chúng con. Xin dạy chúng con biết mở rộng tấm lòng chờ đón Chúa và dấn thân thực thi thánh ý Chúa. Amen.

 

3. Thiên thần báo tin cho Giuse - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Vua Akhab, người làm chủ một đất nước, không tin Chúa nên đã đưa cả dân tộc đến chỗ diệt vong. Một gia trưởng, hết lòng tin vào Chúa, đã đưa muôn dân đến ơn cứu độ. Gia trưởng đó là ai? Thưa là Giuse, một người chồng lý tưởng trầm tĩnh sáng suốt, luôn luôn biết cầu nguyện bàn hỏi Chúa về mọi vấn đề, để hành động hợp với đức mến Chúa yêu người và luật lệ xã hội. Trước vấn đề gay cấn nhất của bậc vợ chồng là Maria đã mang thai ngoài ý của mình, Giuse đã cư xử thế nào?

1- Giuse đã rất tế nhị hiền lành: theo luật, Giuse được tố cáo Maria để ném đá. Nhưng Giuse đã không nói một lời nào làm phiền Maria, không một cử chỉ nhỏ nào làm Maria phải ngượng ngùng, e ngại, không một cái nhìn nhỏ nào làm cho Maria phải khó chịu. Giuse đã tỏ lòng trọng kính chân thành hết sức mình đối với Maria. Nếu chỉ tỏ một tí nghi ngờ, mặt nặng mặt nhẹ thôi, đủ gây đau khổ dai dẳng ngậm ngùi cho giới liễu yếu đào tơ đến chừng nào! Gia đình sẽ bị đổ vỡ lập tức.

2- Giuse đã cư xử rất thánh thiện và công chính: cứ theo nhận xét bề ngoài thì không thể biết được ơn phúc mang thai của Maria, nên Giuse không thể tự cho phép mình chung sống bất chính với Maria. Ông đã quyết định xa bà cách âm thầm. Quyết định đó rất công chính vì hôn phối của Giue và Maria chưa thành sự, mới đính hôn, chưa về chung sống với nhau, bỏ là rất hợp pháp và hợp lý cho đời sống trong sạch thanh tịnh của ông. Quyết định đó chứng tỏ Giuse rất nhân từ và thánh thiện. Thánh thiện vì Giuse thấy cái gì có dáng vẻ tội lỗi thì ông cương quyết tránh xa. Nhân từ vì ông đã hành động thật êm ái, kín đáo, không để lộ việc gì làm bà sợ hãi trong lúc mang thai. Ông còn hết sức giữ gìn danh thơm tiếng tốt của bà. Sự công chính của Chúa là biểu lộ lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân. Giuse đã biểu lộ được lòng thương xót của Chúa, nên Kinh thánh đã đặc biệt gọi thánh Giuse là Đấng công chính. Nhờ đó, Chúa giải quyết những vấn đề gây cấn nhất cho gia đình nhân loại để nhân loại được tràn đầy vinh phúc lãnh nhận ơn cứu độ.

    “Hãy đến cùng Giuse” - Xin cho hết mọi gia trưởng biết đến cùng Giuse thấm nhuần được lòng từ bi nhân hậu, thực thi đức mến Chúa yêu người như Thánh Cả để làm cho gia đình được sống trong tình thương hạnh phúc và chúc lành muôn thuở của Chúa Giáng Sinh.

 

4. Trời can thiệp

Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài, vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.

Còn Giuse cũng vậy, thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc mắc chi nữa.

Nhìn vào lịch sử Giáo Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối, những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những thí dụ điển hình.

Giáo Hội thuở ban đầu rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính canh và Phêrô được giải thoát.

Tiếp đến là những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao? Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào chữa nổi.

Qua những chứng tích kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.

Hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của Chúa.

 

5. Emmanuel

Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.

Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.

Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.

Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.

Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.

Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.

 

6. Chúa ở cùng chúng ta

Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.

Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.

Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.

Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.

Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?

Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.

Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.

Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.

 

7. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.

Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.

Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.

Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.

Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.

Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.

Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.

Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.

 

8. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy

NGƯỜI HẠNH PHÚC LÀ NGƯỜI BIẾT TIN TƯỞNG VÀO SỰ AN BÀI CỦA THIÊN CHÚA!

Những lời cầu chúc cho nhau được may mắn hạnh phúc là câu điệp khúc luôn được lặp đi lặp lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong mọi dịp thuận tiện của cuộc sống: Các đại lễ tôn giáo, dịp đầu năm, dịp cưới hỏi, dịp sinh nhật mỗi người, dịp thi cử, tốt nghiệp, hành nghề, mở công ty, khai trương tiệm buôn bán, v.v…! Trong dịp đại lễ Giáng Sinh, từ các đường phố cho đến các ngõ hẻm, người ta dù vội vã đến đâu đi nữa cũng vẫn chúc mừng nhau mỗi khi gặp mặt: “chúc mừng lễ Giáng Sinh vui vẻ!”

Vâng, ai nấy đều chúc cho nhau hạnh phúc! Và những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường trở thành một thứ ngôn ngữ không thể thiếu trong các dịch vụ thương mại, buôn bán hay giao lưu nghề nghiệp. Nhưng trong những dịp như thế, lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường chỉ là những lời nói xã giao đầu môi chóp lưỡi, chứ ít khi có chủ ý hay thành tâm thực sự. Vì thế, chúng không đưa lại niềm vui dài lâu bền vững. Trong khi đó, tất cả mọi người chúng ta - từ cụ già đến em bé, từ đàn ông đến đàn bà - ai nấy đều mong muốn được hạnh phúc, được sống một cuộc sống thực sự có hạnh phúc. Nhưng nhiều người đã ngã lòng buông xuôi, không dám nghĩ tới hay đeo đuổi chạy theo ước muốn được hạnh phúc nữa, hoặc cho mình hoặc cho người khác. Sau bao nhiêu chán nản và thất vọng ê chề, mọi ước muốn và mọi tìm kiếm hạnh phúc đã biến thành những tang tóc, những khổ đau đầy cay đắng!

Thật ra, những thất vọng hay những mơ ước hạnh phúc bất thành, chắc chắn mỗi người trong chúng ta ít hay nhiều đều đã hơn một lần trải qua. Nhưng bất hạnh nhất là những người bất đắc dĩ phải đối mặt với cái số phận quá nghiệt ngã cay đắng, phải gánh chịu những thách đố hầu như quá sức. Ở đây, tôi nghĩ tới những gia đình mà vì một chút sơ suất của một ai đó, đã để xảy ra tai nạn và cướp đi cuộc sống đang bất đầu chớm nở của những đứa con thân yêu. Tôi cũng nghĩ tới người bạn trẻ, sau một cuộc tình đầu đời sâu đậm bị tan vỡ, và nay một mình phải vật lộn với nỗi cô đơn trống trải trong một cuộc sống đầy hoang vắng. Tôi nghĩ tới đôi vợ chồng trẻ đã từng lạc quan và tin tưởng nhìn về tương lai, nên đã đi vay nợ ngân hàng và bạn bè thân quen để hiện thực những hoài vọng và dự định về kế hoạch kinh tế của mình. Nhưng bỗng nhiên người chồng bị trọng bệnh. Ðời sống gia đình rơi vào cảnh chật vật, thêm vào đó nợ nần chồng chất, bất khả thanh toán. Hay tôi nghĩ tới những người giáo dân, vì nỗi trăn trở lo lắng cho miếng cơm manh áo hằng ngày, đã bỏ quên kinh nguyện sớm tối và cả đến thánh lễ ngày Chúa Nhật. Sau cùng, tôi nghĩ tới hàng triệu đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, chỉ một vài ngày sau khi được mở mắt chào đời, đã bị chết đói, hay nghĩ tới hàng triệu đứa bé khác đang khi còn êm đềm nằm trong dạ mẹ đã bị giết chết một cách đầy dã man: Chúng bị những chiếc kềm sắt cắt ra từng mảnh trước khi bị lôi ra khỏi bụng mẹ chúng.

Vâng, có biết bao nhiêu người thật quá bất hạnh, cả đời không hề biết hạnh phúc là gì, dù một chút bé tẻo teo và chỉ trong giây lát cũng không! Thực tại đau buồn và phũ phàng đó chụp xuống trên đời con người trong suốt năm, ngay cả trong mùa Giáng Sinh, một thực tại đã làm cho nhiều người luôn cảm thấy mình hoàn toàn vô phúc và chỉ muốn tìm kiếm một sự kết liễu!

Chính số phận chàng thanh niên Giuse thành Na-da-rét, một người thợ mộc trẻ, cũng không may mắn hơn. Chàng không có may mắn và hạnh phúc như bao người khác. Chưa lâu, chàng đã đính hôn với Maria, một người con gái cùng xóm, nết na, trẻ trung và xinh đẹp. Cả hai cùng mơ ước một tương lai hạnh phúc. Nhưng bỗng chốc, giấc mơ đó đã như chiếc bong bóng nổ tan tành trước mắt Giuse khi chàng phải đối mặt với một sự thật quá phũ phàng: Maria, người hôn thê yêu dấu của chàng đã mang thai trước khi hai người cùng chung chăn gối! Trong thất vọng và đau khổ tột độ, chàng tự mỉa mai chính mình: Người con gái mà mầy yêu thương đã ăn nằm và mang thai với người đàn ông khác!

Thật vậy, khi một người đã một lần thực sự yêu, yêu thật lòng, sẽ hiểu rõ được nỗi lòng của Giuse tan nát như thế nào! Sự thách đố đối với chàng to lớn và nặng nề biết bao! Hơn nữa, chàng cũng chỉ là một con người và là một con người thanh niên, mới lớn lên! Thêm vào đó còn một nỗi đau khổ phụ khác là Giuse chỉ muốn âm thầm ôm bụng chịu đựng một mình, chứ chàng không muốn “hở môi răng lạnh”, không muốn cho bất cứ ai biết nỗi lòng của chàng để được chia sẻ và ủi an, vì lòng chàng vẫn luôn yêu quí và kính trọng Maria trước sau như một. Nhưng cũng chỉ vì không muốn bộc lộ câu chuyện ra cho ai khác biết, một chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng một mình và không được ai góp ý kiến cả, nên chàng càng cảm thấy mình bị chạm tự ái, bị hạ nhục và trở thành trò cười cho thiên hạ. Giuse hoàn toàn mất hết can đảm để bắt đầu lại từ đầu. Do đó, chàng đã quyết định âm thầm chia tay Maria. Chàng không muốn mình hoặc Maria phải mang lấy tiếng xấu suốt đời, bị miệng đời xì xèo dèm pha. Cuộc tình duyên hạnh phúc giữa chàng và Maria kể là chấp dứt. Theo ngôn ngữ ngày nay, người ta có thể nói rằng Giuse là người thanh niên đáng nể, chàng đã dàn xếp sự việc thật khôn ngoan khéo léo. Mặc dù cảm thấy bị người hôn thê phản bội, chàng vẫn bình tĩnh, sáng suốt và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định một cách hợp lý. Dĩ nhiên sự quyết định đó không hề làm chàng hạnh phúc. Toàn bộ sự cố còn tiếp tục dằn vặt trái tim chàng.

Thật ra, qua Phúc Âm chúng ta đã không hề biết được Giuse trong thực tế đã xử trí ra sao. Phúc Âm cũng không kể lại là đã xảy ra những cuộc cãi cọ hay đã nói những lời phàn nàn, như thường tình vẫn xảy ra trong các cuộc tình đổ vỡ khác! Cũng vậy, chúng ta cũng biết được rất ít về những giọt nước mắt và nỗi đau buồn của Giuse. Thánh sử chỉ tường thuật lại giấc mộng của Giuse mà thôi. Vâng, thánh Giuse luôn là con người khiêm tốn âm thầm, âm thầm như những giọt nước mắt và nỗi khổ đau của mình, và âm thầm như sứ mệnh làm người đứng sau hậu trường của “màn kịch cứu độ” mà Thiên Chúa đã giao phó cho ngài.

Còn nói về các giấc mộng hay chiêm bao. Tại sao thánh sử lại tường thuật giấc chiêm bao của Giuse?

Trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay, những giấc mộng không còn mang mấy giá trị nữa. Và những người mộng mị chiêm bao thường bị thiên hạ mỉa mai trêu chọc! Có nhiều câu phương ngôn đã nói lến thái độ coi khinh những người hay mơ mộng, như: “Mơ màng chỉ đàng chết đói” hay: “ngồi mơ mộng khi bụng rỗng mới hay”, ý muốn nói những người thích mơ mộng là những người thiếu thực tế, xa lạ với cuộc sống cụ thể; “Cứ ngồi đó mà mơ mộng”, ý muốn nói đến những người mà người ta cho là loại người khờ, dại dột!

Giáo sư Carl Gustav Jung (1875-1961), một nhà tâm lý học người Thụy Sỹ nổi danh trên khắp thế giới, đã khám phá được ý nghĩa của thế giới chiêm bao. Ông gọi giấc mơ là ngôn ngữ của vô thức. Ngày nay các nhà chuyên môn về phân tâm học đều đồng ý cho rằng các giấc mơ rất cần thiết cho cuộc sống con người. Ai không mơ, ít là thỉnh thoảng, người đó sẽ chết, không thể sống được. Nếu một người luôn luôn bị quấy phá giấc mơ trong khi đang ngủ, người đó từ từ sẽ sinh bệnh và chết. Giấc mơ rất quan trọng cho cuộc sống.

Chính giấc mơ của Giuse đã cứu được cuộc đời anh. Giấc mơ đã mang lại cho anh niềm vui và sự hạnh phúc. Vâng, nhờ giấc mơ anh đã giải quyết được cơn khủng hoảng tình cảm và gia đình của mình. Nhờ giấc mơ anh đã tìm lại được nghị lực và sự can đảm cần thiết để vượt qua được cơn thử thách đầy nguy hiểm của đời mình. Nhờ giấc mơ anh đã được giải thoát khỏi mọi nỗi lo sợ hằng dằn vặt tâm hồn anh từ bao tháng ngày qua: lo sợ mình bị cắm sừng, bị cười chê, lo sợ Maria không còn yêu mình nữa, lo sợ thiếu vắng ơn Chúa trong cuộc sống. Thật vậy, giấc mơ đã chữa lành tâm hồn Giuse, đã hàn gắn và nối kết chàng lại với Maria trong tình yêu thương thủa đầu. Nhờ giấc mơ hạnh phúc của Giuse đã được cứu vãn. Trong cơn cùng khổ của tâm hồn Giuse, “Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi” đã trở nên sống động và lớn mạnh trong cung lòng Maria. Và trong chính “Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi” chứa ẩn trọn hạnh phúc của Giuse.

Ai không hề mơ, người đó sẽ chết! Ai được hạnh phúc trào dâng, người đó chẳng cần đến những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc nữa. “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi” sẽ trở nên sống động cho những ai đói khát hạnh phúc. Ai hằng mơ ước một thế giới tươi đẹp hơn, thì người đó sẽ tìm gặp nơi “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi “ như là Ðấng Cứu Giúp quyền năng. Nhưng không một ai có thể chứng minh và hiểu thấu được Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Người hiện diện cụ thể và gần gũi trong những ai đang phải trải qua cảnh khốn cùng và sự đau khổ cùng quẫn mà vẫn có thể mơ ước. Người ở với những ai còn luôn biết hy vọng và chờ đợi một điều gì đó. Giuse đã tìm lại được hạnh phúc hằng mơ ước của mình. Tôi xin cầu chúc cho tất cả các bạn những giấc mơ có khả năng cứu vớt, thăng tiến và làm tốt được cuộc đời, tình yêu và sinh kế làm ăn của các bạn. Tôi cầu chúc cho tất cả chúng ta sự hạnh phúc chân thật của “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi.”

 

9. Dòng tộc – Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - RVA)

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.

Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.

Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.

Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.

Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”

Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.

Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.

Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?

Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.

Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.

Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.

Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

 

10. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta

Anh chị em thân mến.

Thời gian gần đây có một bộ phim đã đi vào trong lòng người, đó là phim Hoàng Châu Công Chúa. Khi xem qua bộ phim, mọi người đều có cảm tình với nhân vật chính, một người có lòng nhân ái, nhưng vì thẳng thắng nên thường gặp những đều trắc trở. Mọi người càng thỏa mản hơn khi những trở ngại đó dần dần cũng bị phá vở và an bình lại đến. Đó là vì cô công chúa nhờ có bùa hộ mệnh. Vị thần hộ mệnh rất đắc lực, ngài là một vị vua công minh, một người cha nhân hậu. Khi nào có Ngài ở bên cạnh thì vị công chúa và những người thân không còn phải lo sợ gì hết. Chỉ khi vắng bóng ngài, mọi thế lực thù nghịch mới tìm cách hảm hại. Nhưng tất cả đều được hóa giải khi có ngài ở cùng, khi đó những nguy hiểm, những khổ đau không còn tồn tại được nữa.

Giuse lo sợ vì chưa hiểu được Thánh Ý Chúa. Ông đã có những toan tính riêng tư của mình, những toan tính của sự sợ hãi, những toan tính của con người không có Thiên Chúa Ở Cùng. Ông lo âu bối rối không biết giải quyết như thế nào. Nhưng khi ông tỉnh dậy, ông hành động không do dự nữa, hành động cách can đảm, hành động trong sự bình an và vui mừng. Vì ông đã được biết Thánh Ý Chúa, ông biết có Thiên Chúa Ở Cùng ông, ông biết ông không còn hoạt động cách cô đơn nữa. Khi đó mọi thắc mắc đã được tháo cởi, mọi lo âu đã được cất đi, mọi nguy hiểm mà ông nghĩ tới không còn tồn tại nữa. Ông chỉ còn biết vâng phục trong vui mừng, trong hân hoan, vì Có Thiên Chúa Ở Cùng.

Trong cuộc sống đời người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác. Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình, cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.

Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động trong cơn mê, hành động trong đêm tối.

Nếu khi nào chúng cảm thấy bình an thư thái, cho dù bao tai vạ ập đến, những khổ đau cứ dồn vào, những bất hạnh cứ tiếp diễn, mà chúng ta vượt qua cách an toàn, không để lại chút vương vấn trong lòng. Đó là vì chúng ta đang Có Chúa Ở Cùng. Đó là vì chúng ta đã được bừng tỉnh dậy. Nếu chúng ta nhìn thấy được ích lợi chung, nhìn thấy được nhu cầu của bao nhiêu người chung quanh, để sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của con tim chân chính, hành động không còn ỷ lại vào con người riêng tư của mình nữa, mà hành động với Chúa Ở Cùng. Nếu được như thế, chúng ta mang được tâm trạng của Hoàng Châu Công Chúa khi có Vua Cha ở Cùng. Quang trọng hơn nữa chúng đang đi trên con đường mà Thánh Giuse đã đi vì vâng nghe Lời Chúa, bởi Ngài đã nhận ra được Có Thiên Chúa Ở Cùng.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người được sáng suốt, để nhận ra Chúa Ở Cùng Chúng Ta trong hoàn cảnh sống, trong những người chúng ta gặp hằng ngày, trong những công việc chúng ta đã và đang làm, để biết sống và hành động theo Thánh Ý Chúa.

 

11. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Chúng ta sắp cử hành một mầu nhiệm lớn lao, mầu nhiệm Thiên Chúa đến làm người trong trần gian, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đấng là Chủ lịch sử đã đi vào lịch cử con người, và để thực hiện điều đó, Thiên Chúa đã tạo nên cho Người một gia đình thuộc dòng tộc Đa-vít.

Thiên Chúa không làm gì mà không có một chương trình hẳn hoi.

Trước khi tạo nên con người, Ngài quyết định rõ ràng: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta.”

Trước khi thực hiện ý định cứu chuộc con người, Ngài đã chuẩn bị suốt gần 2.000 năm, một dân tộc – dân tộc của lời hứa – là dân Do Thái, để đón tiếp Ngôi Hai ra đời.

Trước khi cho Ngôi Hai ra đời, để hoàn tất chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã chọn một trinh nữ và trinh nữ nầy đã được đính hôn với một thanh niên tên là Giu-se. Nhờ đó, Đấng sẽ sinh ra “không do ý muốn loài người, cũng không do ýmuốn của nam nhân” sẽ có cha có mẹ hợp pháp trong xã hội loài người. “Kỳ diệu thay ý định của Chúa!”

Và Giu-se, người đã được chọn cũng sẵn sàng đón nhận Con Thiên Chúa làm con mình: “Ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu”, nghĩa là chính thức làm cha của Chúa Cứu Thế.

“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”

Thiên Chúa, Đấng điều khiển lịch sử loài người đã xuất hiện trong trần gian đúng theo quy luật mà Ngài đã ấn định. Thánh Phao-lô thốt lên lời ca tụng: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!” (Rm 11,33).

Còn về Maria thì thánh sử nói: “Ngài thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.

Mầu nhiệm chúng ta cử hành hôm nay là mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần. Ngài là nguồn suối mọi sự từ đầu khi vũ trụ chưa thành hình…

Ngài vẫn tiếp tục hoạt động trong chương trình cứu độ suốt bao nhiêu thế kỷ…

Ngài sẽ tiếp tục hoạt động cho đến cuối cùng…

Maria đã thay mặt cho nhân loại đón nhận hồng ân của Thánh Thần và cộng tác vào chương trình của Chúa: “Nầy con là tôi tớ của Chúa, xin cứ thực hiện nơi con những gì Chúa muốn.”

Thánh Mat-thêu nhắc lại lời tiên tri I-sa-i-a: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là EMMANUEN” nghĩa là “Thiên Chúa ở với loài người .” Mat-thêu muốn chứng minh rằng mọi sự đều nằm trong chương trình kỳ diệu của Chúa.

“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, phải chăng đây là hồng ân tuyệt hảo Chúa trao ban cho chúng ta? Đáng lý chúng ta phải “nhảy mừng” và tạ ơn với tất cả tâm hồn chúng ta. Đây không chỉ là một ân huệ trong muôn vàn ân huệ mà là nguồn suối mọi hồng ân, vì nơi Ngôi Hai chúng ta được “ơn nầy đến ơnkhác”.Thánh Phao-lô nói: “Một khi (Thiên Chúa ) đã ban Người Con đó, lẽnào Thiên Chúa không ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32).

Maria là dụng cụ tuyệt hảo, là người cộng tác khiêm nhu và đắc lực của Thiên Chúa. Giuse cũng là người tôi trung âm thầm nhưng rất hữu hiệu trong chương trình yêu thương của Chúa.

Để thực hiện chương trình nầy, Maria và Giuse phải đi ngang qua một thử thách hết sức lớn lao.

“Maria đã mang thai trước khi về chung sống với Giuse.” Đây có thể nói là một thảm kịch xét theo thường tình.

Chắc chắn, Giuse đã yêu Maria (các thánh sử không nói rõ, nhưng chúng ta có thể hiểu như thế), và Maria lại là một cô thiếu nữ đoan trang đạo đức (“đầy ơn phước”). Thế nhưng sau ba tháng đi thăm người chị họ về, đã mang thai.

Giuse đã đến thăm sau bao tháng ngày chờ đợi và khám phá ra thực trạng.

Giuse nghĩ gì ? Chúng ta không thể biết.

Thánh Mat-thêu chỉ nói ngắn gọn: “Giuse là người công chính không nỡ lòng tố cáo Maria (theo luật thời bấy giờ). Nhưng chắc chắn Giuse đã đau khổ đến tột cùng và có lẽ thất vọng não nề. Là người công chính, tức là một người đạo đức giữ luật Chúa nghiêm chỉnh, không bị trách cứ điều gì, con người ngay thẳng hiền lành. Ông đã chọn một giải pháp êm đẹp nhất là bỏ xứ.

Chính lúc đó, vào giờ phút chót, Chúa can thiệp.

Chúng ta nhớ câu chuyện của Ap-ra-ham và Sara. Vào phút chót Chúa đã can thiệp để cứu hai người khỏi bàn tay vua Ai Cập.

Sau khi biết rõ ý Chúa Giuse đã thi hành như lời đã truyền cho ông…

Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai thành tâm theo Chúa, và những ai thành tâm cũng không bao giờ thất vọng.

Mỗi người chúng ta, trong thân phận nhỏ hèn của mình, cũng có thể là những cộng tác viên của Thiên Chúa. Chúa không chê bỏ một người nào, dù nhỏ hèn đến đâu, cũng có thể cộng tác vào chương trình của Chúa.

Dù “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”, dù “Chúa có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu Ap-ra-ham”, Ngài cũng không tự mình làm mọi sự, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài.

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới đang gãy đổ vì tội ác và hận thù bất công… cần có những bàn tay xây dựng… Hãy rót vào trần gian ô nhiễm vì tội lỗi của chúng ta một giọt yêu thương.

Chúa đến trong trần gian, trong thân phận một người nghèo hèn, bị bỏ rơi bị hất hủi, phải nương thân nơi một hang đá. Hãy như Maria, đón nhận Ngài với tất cả tình yêu… Hãy như Giuse, dẫn dắc Maria về hang đá, nghèo nàn nhưng đầy yêu thương .

Chúa cần những người cộng tác đơn thật, không giả dối, những người dám buông bỏ tất cả để trở nên những bàn tay xây dựng tương lai huy hoàng cho thế giới hôm nay: tương lai của tình yêu.

Maria và Giuse nghèo nàn, nhỏ bé, đã mang lại cho thế gian một kho tàng là EMMANUEN.

Chúng ta cũng có thể làm như thế khi chúng ta “ăn lấy tấmbánh tình yêu”, tấm bánh nơi bàn thờ hiến tế và biến tấm bánh ấy thành những tâm tình yêu thương chân thật, qua trái tim nhỏ bé của chúng ta.

 

12. Trong kế hoạch của Thiên Chúa – R.St.G

Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)

Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.

Giuse bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đavít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đavít.

Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?

 

13. Giuse, người công chính

(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

Mở đầu sách Tin Mừng bằng bản gia phả (Mt 1,1-17), thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu nguồn gốc lai lịch của Chúa Giêsu: Người là người con của nhân loại, thuộc dòng tộc vua Đavít, được sinh ra bởi Đức Maria. Nhưng do đâu mà Chúa Giêsu thuộc dòng tộc Đavít, vì theo phong tục Do Thái, người ta không kể phụ nữ để xác định gia phả. Vậy Maria thụ thai bởi đâu và đâu là vai trò của Giuse. Trình thuật truyền tin cho Giuse nhằm minh tỏ Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, con vua Đavít, ứng nghiệm sấm ngôn Isaia (Is 7,14). Giuse có nhiệm vụ nhận Đức Giêsu vào tông tộc của mình, nhờ đó Chúa Giêsu thuộc dòng vua Đavít. Qua trình thuật này, Mt cũng giới thiệu cho ta một mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong đức tin: Giuse, người công chính.

1. Giuse, người công chính

Giuse đính hôn với Maria như các thanh nam nữ từ thời bấy giờ. Theo phong tục Do Thái, khi hai người nam nữ đính hôn, thì đã thành vợ chồng trước luật pháp, nhưng chưa sống chung; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về chung sống. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.

Sự kiện xảy ra là trước khi về sống chung, Maria đã có thai. Giuse thật khó xử. Tin Mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Giuse được Tin Mừng gọi là “người công chính” theo nghĩa nào? Trước hết, công chính có nghĩa là vâng phục lề luật (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Theo luật, Giuse phải tố cáo Maria. Nhưng Giuse lại là người nhân hậu, có lòng thương xót, không muốn làm nhục người phụ nữ mà ông rất tin tưởng, mến yêu và kính trọng; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi.

Thứ đến, công chính là hành động phù hợp với ý Thiên Chúa. Giuse không hề hồ nghi Maria, nhưng không thể nhận bào thai. Một mặt, giả như ông chưa biết là Maria thụ thai do quyền năng Thánh Thần, thì cũng nghĩ rằng đây là một mầu nhiệm. Do đó lời sứ thần nhằm thông tin sự thật về bào thai và trao phó cho ông trách nhiệm đặt tên và làm cha đứa trẻ trước pháp luật. Mặt khác, giả như ông đã biết là Maria thụ thai do Thánh Thần, ông cảm thấy mình bất xứng để đón nhận hài nhi, nên muốn âm thầm rút lui. Và như thế, lời sứ thần nhằm xác nhận là thật điều ông đã biết (dĩ nhiên qua tâm sự của Maria) và trao cho ông trách nhiệm đón nhận hài nhi vào dòng tộc của mình.

Dù giải thích cách nào thì lời truyền tin của sứ thần cũng nhắm mục đích giải thích cho biết Chúa Giêsu được thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần; Giuse được trao sứ mệnh đón nhận Người vào dòng tộc vua Đavít; và Người là Đấng Thiên Sai con vua Đavít, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã từng loan báo: “ Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).

Trước lời truyền của sứ thần, Giuse chỉ biết vâng phục. Ông không nói lời nào mà chỉ tuân theo cách triệt để. Tin là vâng phục và dấn thân hành động. Giuse, cũng như Maria với lời xin vâng, đã hành động theo mẫu gương của tổ phụ Abraham: vâng phục trong đức tin.

2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai cứu độ

Sứ thần trao cho Giuse quyền đặt tên cho hài nhi là Giêsu. Quyền đặt tên đồng nghĩa với việc đón nhận Giêsu vào dòng tộc của mình và trở nên cha của đứa trẻ trước pháp luật. Giuse trở nên bạn trăm năm của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giêsu.

Tên “Giêsu” có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Danh xưng này bao hàm căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trong thế gian như là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để thi hành chương trình cứu độ nhân loại. Đây chính là sợi chỉ đỏ chạy dài suốt Tin Mừng Mátthêu. Cuối cùng, Mt tuyên xưng Người đã chết và sống lại để chu toàn sứ mệnh cứu thế, và Người hằng hiện diện mỗi ngày với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20).

Các nhà chú giải Kinh Thánh còn nhận thấy một tương đồng trong cấu trúc giữa trình thuật về nguồn gốc lai lịch Chúa Giêsu với hai chương đầu Sáng thế (St 1,1-2,4a // Mt 1,1-17; St 2,4b-25 // Mt 1,18-24). Sự tương đồng ấy nhằm cho thấy việc xuất hiện của Chúa Giêsu như một Ađam mới, khởi đầu một sáng tạo mới.

Kết luận

Hãy đến với thánh Giuse với tất cả niềm tôn kính mến yêu và học tập dưới mái trường của ngài tinh thần vâng phục ý Chúa, lòng khiêm tốn, tính tự chủ và tâm hồn nhiệt thành quảng đại phục vụ.

Tin Mừng nói rất ít về Giuse. Tuy nhiên, qua ít đoạn vắn vỏi ấy, ta cũng cảm nhận được một tương đồng giữa Giuse và Đức Maria. Nếu Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Ngai cũng đã tuyển chọn Giuse làm dưỡng phụ để chăm nom săn sóc. Trước đề nghị của Thiên Chúa, Giuse và Maria đã sẵn sàng vâng phục ý Chúa. Cũng như Maria, Giuse sống thánh thiện, khiêm tốn, yêu thương và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

 

14. Sự công chính của Thánh Giuse

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

Chúa nhật hôm nay, trước lễ Giáng Sinh, Giáo hội đề nghị chúng ta nghe "loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse".

Mátthêu viết: "Mẹ Người là bà Maria đã đính hôn với Giuse" Đính hôn hay thành hôn có nghĩa là "đến với, phối hợp với một người nào đó," chỉ việc chung sống vợ chồng. Cô thiếu nữ Dothái được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi. Theo phong tục và hôn nhân của người Dothái, đính hôn đã là thành vợ chồng trước pháp luật, nhưng việc rước dâu thường cách xa lễ đính hôn, có khi cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước khi rước dâu, nhưng giả thiết có con với nhau trong giai đoạn này, đứa con vẫn là con hợp pháp.

Maria đã đính hôn với Giuse, nghĩa là cả hai như các cặp hôn nhân khác, có dự tính thành vợ chồng. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Người ta đặt câu hỏi: Ông Giuse có biết việc Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo tin không? Sự công chính của Giuse ở chỗ nào?

Theo nhiều nhà chú giải, Giuse công chính không theo nghĩa vâng lời lề luật. Vì chẳng có luật nào buộc phải ly dị người mới đính hôn (Đnl 22,13-21; 23-27), luật chỉ dạy ly dị khi hôn nhân đã hoàn hợp (Đnl 24,1). Đàng khác âm thầm ly dị, Giuse lại càng bất tuân lề luật. Vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý, khi mang tính cách chính thức công khai. Vả lại, ly dị âm thầm như thế không thể giữ bí mật được lâu, trong một ngôi làng nhỏ bé như Nadarét. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, ta không thể hiểu được tại sao ông lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép. Xét như là hôn phu, ông có bổn phận bảo vệ hôn thê vô tội, chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác.

Hơn nữa, trong Tin mừng của Mátthêu, chỉ duy nhất Giuse được gọi là công chính, tựa như Abel người công chính. Abel công chính không phải theo luật, vì lề luật chỉ được công bố với Maisen, nhưng vì kính sợ Thiên Chúa. Vì thế, không thể cắt nghĩa đức công chính của Giuse " theo luật" được, nhưng công chính vì kính sợ Thiên Chúa.

Nhiều nhà chú giải cho rằng: Trước khi Thiên sứ loan báo, Giuse đã biết Maria có thai bởi quyền năng Thánh Thần, có thể do chính Maria tiết lộ, tâm sự với người mình đính hôn, hay đúng hơn mẹ của Maria, theo tập quán Đông phương. Vì thế, điều làm cho Giuse băn khoăn, không phải vì tiết hạnh của Maria, song là sự thụ thai huyền nhiệm của nàng. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse nghĩ: Ông không có quyền đem về nhà một kẻ, Đức Giavê đã dành riêng cho Người, ông không có quyền làm cha đứa con không phải là của ông. Ông nhận ra quyền làm Cha của Trẻ này là chính Thiên Chúa, còn ông, không được coi như cha của đứa con đó.

Thật thiêng thánh! Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui và cẩn thận không muốn tiết lộ mầu nhiệm thiên linh ấy nơi Maria (Theo Origène và Eusèbe, từ "deigmatisai" = tiết lộ, không bao hàm ý nghĩa xấu: tố giác, bêu nhục như từ Paradeigmatisai; Touon cũng dịch là tiết lộ, bầy tỏ). Giuse phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Kinh thánh, trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Maisen cởi giầy trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm trước việc xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh (Is 6,3-4), như Êlisabét hỏi tại sao mình được Mẹ Thiên Chúa đến thăm (Lc 1,39-45), như Phêrô cúi mình thưa: "Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi." Tuy nhiên, "đang khi Giuse toan tính lìa bỏ Maria, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về." Giuse kính sợ Thiên Chúa, không phải vì lề luật.

 

15. Đấng Emmanuel

Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.

Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.

Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.

Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.

 

16. Tâm tình của Giuse với biến cố nhập thể – Anmai

Con người, dù quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.

Thiên Chúa là Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.

Hôm nay, chúng ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên dân của ông.

Thiên Chúa thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa."

Nếu tiếp tục theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.

Tâm tình của vua Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước những biến cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.

Giữa mùa Vọng này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta “gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần gian.

“Đây là gốc tích của Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.

Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.

Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.

Thực tế, Hài Nhi Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản. Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.

Khi đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang hơn, một cách quyết liệt hơn.

Đối diện với những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Sự thinh lặng thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.

Những ngày chờ đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.

 

17. Hạnh phúc khi có Thiên Chúa ở cùng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Lộ trình phụng vụ mùa Vọng đã mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng tiếp đón, đồng thời tỉnh thức để nhận ra và chiêm ngưỡng biến cố Chúa Cứu Thế bước vào trần gian. Nên thời gian trước lễ Giáng sinh mang tính đặc thù của nó là chờ đợi với niềm vui, mong muốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên chúa làm người sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy ông Dacaria và bà Êlisabét, đặc biệt là Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người đầu tiên đã cảm thấy vui mừng khi đối với mầu nhiệm Giáng sinh. Toàn bộ lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện với biến cố Con Thiên Chúa, Vị Cứu Tinh giáng trần. Như thế bên cạnh sự chờ mong của các nhân vật trong Thánh Kinh cũng có sự chờ mong của chúng ta nữa...

Isaia loan báo: "Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Đó là các lời chúng ta thường lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV và cũng là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay.

Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa "sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai..." ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai ..." Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.

Chân trời ơn cứu độ phổ quát hôm nay nhằm vào đối tượng cụ thể trong lịch sử và thời gian là: Gia Đình Thánh Gia Nazarét, trong đó Đức Maria là đối tượng của lời ngôn sứ, thánh Giuse, người công chính được sứ thần hiện đến trong giấc mơ, và Đức Giêsu Đấng phải đến đã nhận được hai tên: Giêsu, nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ"; và "Em-ma-nu-el", theo Thánh Kinh nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, người ta có cảm thấy bầu khí nhẹ nhàng và thân thiện của Giáng sinh; máng cỏ được trưng ra với bò, lừa, tất cả sẽ được trang trí ở đó, đưa chúng ta đến gần với máng cỏ đã dọn sẵn.

Bằng cách giới thiệu bản văn Tân Ước, Isaia (7,14) chứng tỏ lời hứa đã được thực hiện, hoàn tất lời Thiên Chúa phán qua miệng các tiên tri: 'Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai' (Mt 1,22-23). Vì niềm tin của dân Israel mà lời Thiên Chúa hứa được thi hành. Đó là ý nghĩa đích thực của sự mong chờ trong Mùa Vọng. Thiên Chúa không từ trời xuống, như một giải pháp kỳ bí cho sự tuyệt vọng của con người, Ngài đến để lấp đầy khát vọng từ con tim của Abraham, Isaac, Giacob, và của toàn dân Israel, vì ước muốn này "tin vui mà Thiên Chúa đã hứa qua các ngôn sứ trong Thánh Kinh" (Rm 1,2). Cần phải đón nhận Thiên Chúa đến trong "Thần Khí", nghĩa là như một hồn ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải "theo xác thịt" (Rm 1,3-4).

Kết quả là những lời hứa cứu độ phổ quát dành cho dân Do thái do miệng các ngôn sứ loan báo nay hoàn tất trong biết cố Giáng sinh. Không có gì là chiến thắng hết: còn qui chiếu nào đơn giản hơn là một người nam và một thiếu nữ đang sẵn sàng sinh em bé không? Nhưng con trẻ là đối tượng của lời hứa: Thiên Chúa cứu độ nay đến ở cùng chúng ta.

"Emmanuel" nghĩa là, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Vâng, Người là Thiên Chúa ở trên chúng ta, nhưng hôm nay Người đến ở cùng chúng ta! Người là Thiên Chúa ở với chúng ta trong nhân tính và trong ân sủng của Người, Người ở với chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta và tốt lành của Người, Ngài ở với chúng ta trong đau khổ của chúng ta với tình thương của Người để đưa chúng ta vào trong tình yêu dịu dàng và từ bi của Người đối với chúng ta.

Thiên Chúa ở với chúng ta! Tác giả thư Do thái viết: Anh em là con cái Adam đã không thể lên trời ở với Thiên Chúa "Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?" (x. Dt 30,12) Thiên Chúa từ trời xuống là "Emmanuel", Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến nhà chúng ta, chúng ta đến với Chúa để được ở với Người! "Phàm nhân hỡi, cho đến bao giờ lòng vẫn còn chai đá ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối? "(Tv 4:3) Ở đây có sự thật: "Sao lại yêu mến sự hư vô? " Và đây lời chân thật và bền vững: "Tại sao tìm kiếm sự dối trá?"

Đây là Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhỏ bé như ta, yếu đuối như ta, trần truồng như ta, nghèo khó như ta, trong mọi sự, Người đã trở nên giống tôi, mặc lấy tôi và hiến mình cho tôi. Tôi nằm chết, không có tiếng nói, không có ý nghĩa, thậm trí ánh sáng cũng không còn trong mắt tôi. Hôm nay Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người như ta vậy. Ôi! còn sung sướng và hạnh phúc nào hơn nữa. Thiên Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết, sau khi Adam và Eva phạm tội, Người đã tái ôm hôn chúng ta và mở toang cửa dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.

Thánh Ireneo giải thích rằng "Chính Con Thiên Chúa đã xuống trong một xác phàm giống xác phàm của tội lỗi" (Rm 8,3) để lên án tội lỗi và sau khi đã lên án nó, Ngài hoàn toàn loại trừ nó khỏi loài người. Ngài kêu gọi con người giống chính mình, Ngài làm cho nó bắt chước Thiên Chúa, và dẫn nó đi trên con đường Thiên Chúa Cha đã chỉ, để nó có thể trông thấy Thiên Chúa và ban tặng chính Thiên Chúa Cha cho nó" III, 20,2-3). Ireneo khẳng định rằng: với Chúa Giêsu Hài Nhi, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giống Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa như Người là. Và như thế Người nhắc nhở cho chúng ta biết chúng ta phải giống Thiên Chúa, và phải bắt chước Người. Thiên Chúa đã tự hiến cho chúng ta, trong tay chúng ta.

Thánh Ireneo còn khẳng định như sau: "Ngôi Lời của Thiên Chúa đến ở giữa loài người và làm Con của loài người, để tập cho con người nhận biết Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa quen sống trong con người theo ý Thiên Chúa Cha. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như "dấu chỉ" ơn cứu rỗi của chúng ta, Đấng được sinh ra từ Đức Trinh Nữ, là Emmanuel". Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse giúp chúng ta sống Mầu Nhiệm Giáng Sinh với lòng biết ơn được canh tân. Amen.

 

18. Ôi thật diễm phúc vì có Thiên Chúa ở cùng!

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Trái đất này đang nóng dần lên, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến -60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ mấy ngày.

Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh bất thường và thay đổi đột ngột một cách bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm trong chưa đầy 100 năm, khoảng thời gian ngắn nhất trong lịch sử.

Hôm 2/5, các nhà khoa học sử dụng kính thiên văn TRAPPIST tại Chile để theo dõi và phát hiện ra ba hành tinh có kích thước giống Trái Đất quay quanh một ngôi sao lùn ở khoảng cách thích hợp, tạo điều kiện cho sự sống phát triển với hy vọng con người có thể sống được ở đó.

Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.

Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất là Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ... Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.

Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như "Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện" gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 4 người con của bà có mặt tại viện (trong số tất cả 8 người con) tranh cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết (Vnexpress,Thứ ba, 27/8/2013). Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay khó sống và khó yêu quá.

Trái đất và con người đang như thế, nhưng Đức Giêsu con Thiên Chúa đã đến sống cùng chúng ta, như Isaia loan báo: "Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Những lời trên đây được lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV, để khẳng định rằng Trái đất vẫn rất đáng yêu và con người vẫn còn đáng mến. Thiên Chúa đến vì mến địa cầu, Thiên Chúa thương vì tình thương vấn vương khi tạo dựng.

Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa: "Sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…" ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …" Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.

Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta, vì Ngài vẫn còn tin tưởng chúng ta!... Ngài đến để sống với con người, Ngài chọn cư ngụ trên trái đất để ở lại với con người, để sống tại nơi con người vẫn sống trong niềm vui hay nỗi buồn. Vì thế, Trái đất không còn là ‘thung lũng đầy nước mắt’ nữa mà là nơi Thiên Chúa đến cắm lều, gặp gỡ con người, là nơi Thiên Chúa liên đới với con người.

Thiên Chúa xuống thế làm người vì chúng ta, tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận; chúng ta khám phá mình có phẩm vị quý giá và duy nhất trước nhan Ðấng Tạo Hoá.

Ðấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi sinh ra trong cảnh khó nghèo tại Bêlem, Chúa Giêsu đã muốn trở thành bạn đồng hành với mỗi người chúng ta. Trên mặt đất này, kể từ khi Người muốn "dựng lều" để cư ngụ, thì không còn ai là kẻ xa lạ nữa. Thật vậy, tất cả chúng ta là những khách lữ hành sống tạm qua trên trần gian này, chính Chúa Giêsu là Ðấng làm cho chúng ta có cảm nghiệm dường như mình đang sống tại nhà mình, trên mặt đất này, nơi được thánh hoá do bởi sự hiện diện của Chúa. Và Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biến trái đất này trở thành căn nhà đón tiếp tất cả mọi người.

"Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Các Giáo Phụ đã giải thích. Con Thiên Chúa đã trở nên nhỏ bé, đến độ vào được trong máng cỏ. Ngài trở nên trẻ thơ để dạy chúng ta yêu thương những trẻ thơ và những kẻ yếu đuối. Bằng cách thế như vậy, Ngài dạy chúng ta tôn trọng trẻ thơ, những em đang đau khổ và bị lạm dụng trên thế giới, những em đã được sinh ra cũng như những trẻ không được sinh ra. Ngài dạy chúng ta nhìn đến những trẻ bị đưa vào trong thế giới của bạo lực, như làm lính, phải đi ăn xin, phải khổ vì nghèo vì đói, những trẻ em không được hưởng chút tình thương. Chính Thiên Chúa, Ðấng đã trở nên trẻ thơ, mời gọi chúng ta dấn thân, ngõ hầu sức mạnh của tình yêu Chúa chăm sóc cho tất cả các trẻ em này; để phẩm giá của các em được tôn trọng.

Nhưng khi Thiên Chúa chia sẻ thân phận con người của chúng ta, Ngài không hiện diện giữa nhân loại ở một nơi an nhàn lý tưởng, nhưng ở trong thế giới thực này, với bao điều tốt đẹp và xấu xa, với những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, lạm dụng quyền lực và chiến tranh. Ngài chọn tham gia vào lịch sử của chúng ta như lịch sử ấy vốn thế, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và bi kịch của nó.... Ngài là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta... trong mọi nỗi khổ đau của lịch sử. Chúa Giêsu được sinh ra là minh chứng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía con người, một lần và mãi mãi, để cứu chúng ta và nâng chúng ta lên khỏi bụi bặm của khổ đau, của khó khăn và tội lỗi chúng ta”.

Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa ở cùng, ấy là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền... Chúa Giêsu được sinh ra mang đến cho chúng ta tin vui rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và yêu thương mọi người và từng người trong chúng ta. Amen.

 

19. Vâng theo Ý Chúa – R. Veritas

(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.

Thật vậy, Đức Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.

Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta.

Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.

 

20. Hãy làm sáng danh Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một em bé về kể với mẹ: Mẹ ơi, hôm nay khi một chiếc xe chở bia bị lật, con thấy nhiều người ra hôi bia về uống.

Mẹ nói: Vì họ là người tham lam. Họ phạm tội ăn cắp một cách công khai đáng bị lên án.

Đứa bé: Nhưng con thấy có cả chú tư, cô ba gần nhà mình cũng vui vẻ bưng một thùng bia về nhà.

Mẹ: Vì chú tư, cô bà đã bán sĩ diện mình bằng vài lon bia.

Đứa bé: Con thấy không một ai nhặt giúp bia cho người bị nạn mà ai cũng tranh thủ chộp một vài lon hay vài thùng rồi lên xe chạy hết.

Mẹ: Vì họ sống theo bản năng đói thì ăn, khát thì uống mà không còn xét về luân lý được ăn hay không?

Đứa bé: Vậy nếu xã hội mà con người chỉ biết sống theo bản năng thì xã hội sẽ ra sao?

Mẹ: Thì xã hội sẽ chẳng còn luật lệ, người ta sẽ mạnh ai người ấy sống, hay “cá lớn nuốt cá bé”. Xã hội sẽ loạn lạc, chẳng còn ai tin vào ai.

Đứa bé: Vậy sống trong một xã hội mà con người không còn thân thiện, giúp đỡ nhau thì mình phải làm sao?

Mẹ: Mình phải là một ánh sáng cho thế gian bớt u tối bằng việc làm tốt, không hùa theo đám đông làm chuyện xấu. Dù chỉ là ánh sáng lẻ loi nhưng vẫn phá tan những đêm tối của lòng người. Nhất là mình là người Công giáo phải sống chứng nhân cho Chúa qua dấu chỉ yêu thương để người ta nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, và đừng bao giờ vì một vài lon bia mà làm ô danh đạo thánh của chúng ta.

Cách đây hơn hai ngàn năm giữa một khung trời đầy những bóng tối của tội lỗi, của sự ích kỷ lòng người Ngôi Hai Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian. Ngài là Emanuel ở cùng chúng ta. Ngài đến để thắp sáng trên trần gian ánh sáng của tình bác ái, của sự hiệp thông. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Ngài soi chiếu ánh sáng chân lý để đầy lùi bóng tối gian tà. Ngài thắp sáng ánh sáng tình yêu để xua tan bóng đêm của ích kỷ, lạnh lùng. Ngài đi vào trần đời để ném ngọn lửa yêu thương, lửa bác ái, lửa tin yêu cho trần gian.

Thế nhưng, vẫn có những con người khước từ ánh sáng. Họ thích sống trong tăm tối. Họ thích sống theo bản năng, nuông chiều tính xác thịt. Họ ngồi trong u tối nhưng không muốn ra ánh sáng. Vì theo ánh sáng phải bỏ bóng tối. Bóng tối của ích kỷ, của dửng dưng, của gian tà. Nhưng tiếc thay, con người lại thích sống theo bản năng nên họ khước từ ánh sáng.

Ngày nay cũng có nhiều người không muốn theo một đạo nào. Không phải là họ không tin mà điều quan yếu là họ sợ phải sống đạo, phải giữ đạo. Họ thà không theo đạo để sống theo bản năng của mình. Thế nhưng, bản năng thường ích kỷ, thường lầm lỗi và hẹp hòi nên vẫn còn đó những việc làm thiếu tình liên đới, hiệp thông yêu thương trong tình người.

Ngày nay Thiên Chúa vẫn đang cần chúng ta hãy trở thành ánh sáng cho trần gian. Hãy chiếu sáng cho thế gian ánh sáng của yêu thương, của tình liên đới và hiệp thông. Hãy dẫn dắt con người đến cùng ánh sáng đích thực là chính Chúa Giêsu là nguồn mạch ánh sáng.

Thánh Giu-se và Đức Maria năm xưa đã cộng tác với Chúa để mang ánh sáng vào trần gian. Mẹ đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để đón nhận hài nhi ngự trong cung lòng Mẹ. Thánh Giuse đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để trở thành cha nuôi của Chúa Giêsu. Cả hai cùng thưa xin vâng như lời dâng hiến cuộc đời để trở thành khí cụ của Chúa mang ánh sáng vào trần gian. Ngôi Hai Thiên Chúa đã có thể cư ngụ giữa chúng ta là nhờ tấm lòng hy sinh của hai thánh nhân. Chính các ngài đã từ bỏ ý riêng, từ bỏ nếp sống của mình để hành xử theo ý Thiên Chúa.

Nếu cuộc đời mà ai cũng biết từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa thì cuộc đời tốt đẹp biết bao. Nếu dòng đời ai cũng biết chế ngự bản thân để sống cho tha nhân thì dòng đời sẽ không còn vẫn đục bởi hôi của, bởi dưng dưng trước khốn khó của đồng loại mà ai cũng sẵn sàng giúp đỡ nhau.

Mùa Noel nữa lại đến như mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Xin đừng vì những quyến luyến trần tục, những tham lam bất chính mà bản rẻ lương tâm, nhân phẩm của mình. Nhưng mỗi người hãy là những vì sao sáng trên bầu trời loan báo tin vui Chúa giáng sinh cho nhân trần. Xin Đấng Emaul mãi ở lại trong tâm hồn chúng ta ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta cũng ra đi xây dựng tình yêu và hạnh phúc cho nhân trần. Amen.

 

21. Gia đình cần niềm tin nơi nhau

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Cuộc sống chung cần niềm tin nơi nhau. Niềm tin sẽ cho nhau hạnh phúc, và sự bình an. Niềm tin sẽ khích lệ nhau vượt qua khó khăn, vì ở giữa những phong ba bão táp vẫn có người tin tưởng ở bên chúng ta. Nhất là trong đời sống vợ chồng càng cần niềm tin nơi nhau hơn. Vợ chồng không tin nhau sẽ đầy đọa nhau suốt đời. Lấy phải một người đa nghi thì suốt ngày được nghe những bản án vô cớ nơi người bạn của mình.

Có một bà vợ hay ghen một cách vô cớ. Mỗi lần ông chồng đi đâu về là bà đều khám xét kỹ lưỡng trên áo xem có gì lạ không. Ngày thứ nhất bà thấy có 1 sợi tóc quăn trên áo, bà liền phán: hôm nay lại ôm cái con tóc quăn phải không? Ông chồng ậm ừ cho qua. Ngày thứ hai bà khám xét lại thấy một sợi tóc bạc. Ông chồng liền phán đừng nói tôi ôm bà lão nhé, nhưng bà vợ liền phán: Hôm nay tôi đoán chắc ông ôm con tóc bạch kim phải không?. Ông chồng đành chịu thua. Lần thứ ba, bà khám kỹ lưỡng nhưng không có sợi tóc nào dính trên áo ông. Tưởng cho qua, ai dè bà phán một câu xanh rờn: Hôm nay, lại ôm cái con trọc đầu rồi!

Ghen tương là biểu lộ tình yêu, nhưng ghen tương vô cớ sẽ đánh mất tình yêu, đánh mất tự do của người mình yêu. Hai người cần phải biết tin tưởng lẫn nhau, biết cảm thông cho nhau, nhất là biết tôn trọng nhau mới có thể cùng nhau đi qua kiếp người với lòng trung thủy khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Nếu không tin nơi nhau sẽ đầy đọa và làm khổ nhau suốt đời.

Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Tình yêu của Ngài đôi lúc cũng có những ghen tương. Ngài đòi con người chỉ được yêu một mình Ngài và không có được thờ một thần linh nào khác. Nhưng tình yêu của Ngài không ghen tương mù quáng. Người luôn tin tưởng con người. Ngài luôn tôn trọng con người. Điều Ngài có thể làm để níu kéo con người về với Ngài chính là tình yêu. Ngài đã dùng tình yêu hy sinh, tận hiến cho người mình yêu được sống và sống hạnh phúc. Tình yêu của Ngài luôn bao dung có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi con người, tha thứ và nhẫn nại chờ đợi con người.

Phúc âm hôm nay cho ta thấy tình yêu đầy tin tưởng nơi thánh Giuse. Ngài từng khó hiểu tại sao người bạn đính hôn của mình lại mang thai. Ngài cũng có những giao động đến nỗi định tâm bỏ đi cách kín đáo. Nhưng niềm tin vào Mẹ Maria đã giữ ngài ở lại. Ngài tin Mẹ Maria là người đoan trang thanh khiết. Ngài tin rằng với tính cách của Mẹ Maria sẽ không làm gì trái với lương tâm hay trái với luân thường đạo lý. Trên hết mọi sự chính là niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Ngài để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài. Ngài tin vào đường lối của Thiên Chúa luôn tốt nhất cho từng người. Ngài đã để thánh ý Chúa thực hiện theo như chương trình đã định.

Chính niềm tin vào Thiên Chúa và sự tin tưởng nơi người bạn đính hôn, thánh Giuse đã đón nhận Mẹ về nhà mình. Không có niềm tin tuyệt đối thì làm sao có một mái ấm gia đình Nagiaret? Không có niềm tin nơi nhau làm sao thánh Giuse có thể có thể nhận làm cha nuôi của Chúa Giêsu?

Cuộc sống sẽ tốt hơn nếu con người dám tin nơi nhau. Niềm tin sẽ giúp nhau bỏ qua những nghi kỵ, hiểu lầm, những toan tính để sống chia sẻ với nhau. Niềm tin cũng có nghĩa là phó thác trọn vẹn. Khi vợ chồng tin cậy nhau sẽ phó thác cả cuộc đời mình cho nhau. Vui buồn, sướng khổ cùng chia sẻ ngọt bùi với nhau. Lòng tin cũng được bày tỏ bằng sự cảm thông và chấp nhận nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ không còn phê phán hay lên án nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ giúp gia đình hòa hợp, yên vui và hạnh phúc bên nhau.

Ước gì các đôi hôn phối biết tìm được niềm vui hạnh phúc bên nhau khi biết tin tưởng nơi nhau, khi biết sống bao dung đón nhận nhau hầu xâu dựng một mái nhà rộn ràng niềm vui và hạnh phúc. Amen.

 

22. Đừng ngại

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.

Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.

Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình.

Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.

Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.

Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.

Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.

Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.

Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.

Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.

Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.

Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.

Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).

Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.

Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?

Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn cả? Tại sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

23. Được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ

Dường như theo cách nghĩ thông thường của con người thì ai càng yếu đuối thì càng cần nhiều đến sự giúp đỡ của người khác. Thiên Chúa chúng ta là Đấng Toàn Năng quyền phép vô cùng nhưng Người vẫn cần nhờ đến sự cộng tác của con người là thụ tạo của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa mời gọi hai con người cộng tác đặc biệt vào chương trình cứu độ loài người.

"Này đây một thiếu nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en" (Is 7, 14) Đây là lời loan báo của tiên tri Isaia ở cuối Bài đọc I cho biết Thiên Chúa đã có dự định từ lâu về chương trình cứu độ loài người. Đến giờ đã định Người đã sai thiên sứ Gapriel đến mời gọi Đức Maria cộng tác bằng cách cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế Giêsu.

Cũng vậy, trong đoạn Tin mừng hôm nay Thiên Chúa tiếp tục cho thiên sứ đến mời gọi Giuse: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần". (Mt 1, 20b). Thiên Chúa mời gọi Giuse làm cha Đấng Cứu Thế Giêsu cho hợp với luật pháp dân sự.

Với lời thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền" (Lc 1, 38) Đức Maria đã thật sự đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa. Còn Giuse thì: "Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà." (Mt 1, 24). Cả hai Đấng đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa một cách vui vẻ. Với sự đón nhận ấy trước mắt họ chẳng có ích lợi gì cho bản thân mình. Một trinh nữ mà phải mang thai khi chưa hề biết đến chuyện vợ chồng. Một thanh niên phải đón nhận Maria về để chăm sóc và phụ với nàng nuôi dưỡng đứa con không phải của mình.

Dầu vậy, nhờ đó Đấng Cứu Thế được sinh ra đến trong thế gian này . Người được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có đầy đủ cha mẹ như bao trẻ thơ khác.

Thánh Augustinô đã có lần nói: "Để sinh ra con Nguời không hỏi ý kiến con nhưng để cứu chuộc con Nguời phải hỏi ý kiến con". Như vậy, Thiên Chúa đã hoàn tất chương trình cứu độ của Người nơi Đấng Cứu Thế Giêsu. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta tùy theo cương vị và bậc sống cộng tác với Người trong việc cứu độ chính mình và anh chị em. Chúng ta hãy noi gương Đức Maria và Thánh Giuse đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời mình. Khi có Chúa Giêsu ở cùng thì dù có khó khăn mấy chúng ta vẫn có thể cộng tác tốt với Chúa.

 

24. Ngài từ đâu đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Bắt đầu bài trích Phúc Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô...”. (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này - Et voici comment Jésus Christ fut engendré...bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem) (Mt 1,18).

Khi thánh sử Mátthêu mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang trọng viết: “Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham”. (Gia phả Đức Giêsu Kitô, con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de Jésus Christ, fils de David, fils d’Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem). (Mt.1,1-17).

Người xưa có câu: “vô tri bất mộ”. Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng không ai đặt niềm tin vào người mà mình không hề biết “gốc tích” người đó. Làm sao ta có thể an lòng đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không biết gì về “lý lịch”?

Nên, không phải vô tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng, ngài đề cập đến hai lần “gốc tích” của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường cho Đức Tin độc giả, thánh Mátthêu muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. - Đức Giêsu, Ngài từ đâu đến?

Đức Giêsu: nhân vật lịch sử.

Không một sử gia nào ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì trên phương diện sử học.

Ngay cả những tranh luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về kinh Thánh, về truyền thống truyền miệng; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái, và ngay cả kinh Coran cũng coi Ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của Hồi Giáo.

Trong những văn kiện ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre Juive) và những Cổ truyền Do Thái (les antiquités Judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.

Trong những cổ truyền Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62: Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án jacques, anh em của Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm Luật Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau: thứ nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn (acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng, bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân Roma này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng Judée thời đấy.

Trong chiến tranh Do thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64), ông có viết: Trong thời đó có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế hay không, bởi vì đó là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối với nhiều người muốn tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông. Đó là Đức Kitô. Khi ông bị tố cáo và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá, những người theo ông vẫn không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba; nhiều vị tiên tri thần linh đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu khác về ông. Cho tới bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro Magazine, 01.10.1999, Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ).

Còn rất nhiều bằng chứng, để có thể tin chắc một người mang tên Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã từng có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không phải là một nhân vật huyền thoại, được tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý do trần tục của nhân loại.

Vì Giêsu, Ngài là một nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân loại, nên Ngài phải có “gia phả”, có “gốc tích” rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh ra ở đâu, quê hương, cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là “nhân tính” của Đức Giêsu.

Nhưng, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường. Ngài không phải chỉ là một vĩ nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.

Đức Giêsu: “Thiên-Chúa-làm-người”.

“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt.1,18).

Lý lịch của Chúa Giêsu rất hợp lệ theo thủ tục của con người, nhưng không tự nhiên theo kiểu con người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngài là Thần Linh Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát sự sống, Ngài đến để tái tạo sự sống cho con người, Ngài không thể được hình thành từ máu huyết phàm nhân.

Thánh Giuse là “người công chính”, chắc chắn đã được Thiên Chúa mạc khải chương trình huyền nhiệm về Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn phận nuôi dưỡng, nhưng, trong sự hiểu biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài luôn cần Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài trong giấc mơ, để ngài an tâm thực thi sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của Đấng Cứu Thế.

“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt.1,23-24).

Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là “gốc tích” của Giêsu. Giêsu, không phải chỉ là một “vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta”, nhưng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Và nhân loại phải nhận ra “gốc tích” đích thực này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.

Con người mang tên Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng hành với nhân loại”, mà nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài. Đó là “Thiên Tính” của Đức Giêsu.

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14).

Đón tiếp Thiên Chúa Giáng Sinh.

Lễ Giáng Sinh ngày nay tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả cộng đồng nhân loại biết đến. Nhưng phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu như một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự kính trọng Ngài như một vĩ nhân. Nhưng, ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý nghĩa khi con người chào đón Ngài là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Niềm Tin ấy chỉ có được khi con người nhận ra “gốc tích Đức Giêsu là Thiên Chúa”.

Và, như thế, đón mừng Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con người với Mầu Nhiệm Nhập Thể.

“Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt.1,23); hay “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ.

Yêu nhau trăm sự chẳng nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên Chúa, thấp hèn nào như thấp hèn kiếp bụi tro, nhưng “một trăm chỗ lệch” ấy đã được “kê bằng” để Thiên Chúa đến với con người, ở giữa con người, sống như con người, chỉ trừ tội lỗi. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được vươn lên tới Thiên Chúa.

Không có Tình Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được.

Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).

Quả thực, chỉ có Tình Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật sự hồi sinh, và hạnh phúc mới tìm lại được trong mọi con tim nhân thế.

Vì Chúa đến, không phải đem lại cho con người những cuộc vui chóng tàn hay những lợi lộc chóng qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người những giá trị vĩnh cửu mà nếu không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.

Lòng chúng ta sẽ trống rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là Thiên Chúa Nhập Thể trong chính tâm hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà chúng ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng hành cùng ai. Và điều kỳ diệu sẽ đến với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta là mỗi bước an bình và đầy hoan lạc trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như thế mới đúng với danh xưng của Ngài: Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Hiểu được Đức Giêsu Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới biết cách tiếp đón Ngài và đón tiếp Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.

Lạy Chúa,

Này đây Máng Cỏ lòng con,

xin Ngài ngự đến.

Nghèo hèn và bé nhỏ,

không xứng với Vua Trời Đất,

nhưng con tin rất vừa

với Chúa Tình Thương. Amen.

 

25. Truyền tin cho ông Giuse

(Trích ‘Sống Lời Chúa’ – Damiano)

Việc Chúa Ngôi Hai đến trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên cái mới nối tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện diện của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc dòng dõi Đavít: “Đây là gốc tích của Chúa Giêsu... Đức Kitô con vua Đa-vít, con của Abraham... Giacob sinh Giuse, chồng Maria, từ nơi bà sinh ra Đức Giêsu, cũng gọi là Đức Kitô...”

Để cắt nghĩa vai trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Giai đoạn này được coi như một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao?). Việc Giuse nhận làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông , đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây giờ chỉ còn việc thực hiện sứ mạng nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền: ông rước vợ về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của Thiên Chúa, Giuse có một chỗ đứng rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa Cựu và Tân Ước, vừa là công tác viên tích cực không thể thiếu được trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Nhưng trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà chính Chúa Giêsu gọi là Emmanuel (Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai nguồn gốc: nhờ Giuse và Maria mà Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng thời Ngài cũng ra đời bởi phép Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc... Thánh sử Mátthêu muốn cho thấy nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài đất trời đã được nối lại với nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa. Vì thế Chúa Giêsu gọi ông Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.

Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.

Thánh Giuse đưa người lầm lạc trở về.

Một cha xứ ở Pháp kể rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của ngài, và ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô hiệu.

Sau đó một thời gian anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô hiệu. Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước bàn thờ thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc. Lễ xong, cha lại trở lại thăm anh ta. Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng chào thì anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối ăn năn thật lòng. Anh đã xin chịu các bí tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh ta qua đời cách bình an.

 

26. Thánh Giuse, mẫu gương Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin Mừng Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời "Xin Vâng" trọn cuộc đời.

Ngày Sứ thần Gabriel truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời "Xin Vâng", Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.

Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.

Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. "Đào vi thượng sách" là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: " Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).

Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.

1. Mẫu gương công chính

Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: "Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không?". Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St 18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.

"Giuse là người công chính". Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.

Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: "Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.

Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.

2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.

Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).

Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận "Maria mang thai do Chúa Thánh Thần" và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria "có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần", vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì "ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà", cần phải dịch là "ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ 'mầu nhiệm', quyết định rời bỏ bà cách kín đáo". Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là "tố cáo, tố giác" (điều xấu), "bày tỏ, tiết lộ" (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x. Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).

Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa "chọn mặt gởi vàng", chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.

Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.

- Ở Bêlem: "Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!' Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập." (Mt 2,13-14) .

- Ở Aicập: "Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. "Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen" (Mt 2,19-21).

- Ở Giuđê: "Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét" (Mt 2, 22-23) .

Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.

Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.

Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.

 

27. Chúa ở trong tôi.

Lễ Giáng sinh đã gần đến, hẳn là chúng ta đã bắt đầu những trang trí bên ngoài như làm hang đá, làm máng cò, làm đèn ngôi sao. Thế nhưng chúng ta đã thực sự chuẩn bị tâm hồn hay chưa? Chúng ta đã lo liệu để lễ Giáng sinh không còn là một lễ trần tục, nhưng là một dịp để chúng ta và những người thân yêu tìm gặp Chúa, lớn lên về phương diện đạo đức để nhờ đó phục vụ Chúa một cách quảng đại hơn, như chính Chúa đã trở nên một hài nhi bé nhỏ để cứu độ chúng ta và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.

Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta được hưởng một niềm hạnh phúc chân thật ngay từ cuộc sống trần gian này. Niềm hạnh phúc ấy lệ thuộc nơi mỗi người chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải sống trong tình thương của Chúa. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu Ta thì giữ lời ta. Cha ta sẽ yêu thương nó và Chúng Ta sẽ đến và ở trong nó. Hai chữ “Chúng Ta” ở đây có ý muốn nói đến Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ biến tâm hồn những người sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa trở nên như một đền thờ sống động.

Dostoievsky, một văn hào người Nga, đã viết: Cuộc sống là một thiên đàng, bởi vì tôi có thiên đàng ngay trong chính tâm hồn tôi. Cùng một chiều hướng ấy, thánh nữ Elisabeth đã quả quyết: Tôi tìm thấy nước trời ngay trên mặt đất này. Bởi vì nước trời là gì nếu không phải là chính Thiên Chúa. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có nước trời . Mà Thiên Chúa thì đang ngự trong tâm hồn tôi, cho nên chính tâm hồn tôi cũng là thiên đàng, cũng là nước trời. Ý tưởng Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta là một ý tưởng vừa đơn sơ, nhưng lại vừa thâm sâu mà đôi khi cả những người ngoại đạo cũng cảm nghiệm được. Tôi xin đưa ra trường hợp của Gandhi, một vị thánh sống, một đấng anh hùng của dân tộc Ấn độ. Ông nói: Một người chỉ là người, không phải vì đã có hai tay và hai chânm nhưng vì đã trở nên một nhà tạm cho Thiên Chúa.

Thế nhưng Chúa Giêsu, con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để đem lại cho chúng ta sự vui mừng và bình an nếu như chúng ta là những người thiện chí. Hàng trăm năm về trước, các tiên tri đã loan báo điều đó. Isaia đã long trọng công bố cho vua Achaz để củng cố niềm tin vào Chúa nơi ông như sau: Này đây, một trinh nữ sẹ thụ thai, sinh hạmột con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Trong cơn bối rối, Thánh Giuse có ý định lìa bỏ Mẹ Maria một cách kín đáo, nhưng thiên thần đã hiện ra cùng ông trong giấc mơ và bảo: Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, bà sẽ sinh hạ một contrai và ông sẽ đặt tên cho là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội. Rồi thánh Matthêu đã kết luận: Tất cả những sự kiện này được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng tiên tri mà phán, như chúng ta đã thấy ở trên.

Thánh Gioan cũng xác quyết: Không phải chúng ta đã yêu thương Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã phái Con Một Ngài đến với chúng ta. Màu nhiệm tình yêu này có thể chúng ta đã được nghe nói đến qúa nhiều, nên chúng ta tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt.

Bởi đó, chúng ta hãyxin Chúa hâm nóng lại tình yêu của chúng ta, để chúng ta không còn là những kẻ vô ơn tệ bạc. Tình yêu của Thiên Chúa đòi chúng ta phải đáp trả băng chính tình yêu. Một tình yêu chân thanh và mạnh mẽ. Một tình yêu biết khử trừ tội lỗi, để biến tâm hồn minh trở thành một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự trị.

Vậy chúng ta đã lam được những gì để đón mừng Chúa đến? Chúng ta đã làm được những gì để thực sự trở nên những Kitô hữu, nghĩa là những người thực sự có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô đến cho những người chung quanh.

Lạy Chúa, lễ Giáng sinh một lần nữa sắp trở lai, xin cho mỗi người chúng con biết khử trừ tội lỗi để biến tâm hồn trở thành một máng cỏ cho Chúa, cũng như biết chấp nhận những vất vả, khổ đau, buồn phiền vì lòng yêu mến Chúa vì mỗi hy sinh sẽ là một cọng cỏ khô để sưởi ấm cho Chúa.

 

28. Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý nghĩa của cái tên Giêsu -”Chúa Cứu Thế”- chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.

Song đó là những vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.

Ở đây chúng ta dành quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi con người Giêsu này.

Rất đáng đề cập một hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ. Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Nhưng không một giải thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự thông truyền của Ngài.

Tất cả những điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình. Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt ra.

Chúng ta không được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.

Sự diễn giải có tính trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu nhiên tính” của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một kiếp người hữu hạn.

Đó là ý nghĩa của “ơn phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.

Nhưng giáo thuyết về “ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.

Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế, những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta đến mức không ngờ. (Có nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai quấy chủ quan” nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh viện đã khẳng định như thế).

 

Tuy nhiên, sự tự do của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần) không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói “không” với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói “không” của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.

Sống trong sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây rồi!.

 

29. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.

Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.

Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).

Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.

Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.

Thưa anh chị em,

“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa - ở –cùng – chúng - ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng - ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.

Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.

Vì vậy, thưa anh chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.

Anh chị em thân mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.

 

30. E sợ

Chuyện xưa kể lại rằng: Đức Khổng Tử thấy người giăng lưới chim sẻ, chỉ đánh được các chim sẻ con, còn non, vàng mép. Ngài liền hỏi rằng: "Không đánh được chim sẻ già là làm sao?". Chim sẻ già bíết sợ nên khó được, sẻ non ham ăn cho nên dễ bắt. nếu sẽ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẽ già mà theo sẽ non thì bắt sẽ già cũng dễ. Đức Khổng Tử nghe vậy hỏi học trò rằng biết sợ để tránh tai hại tham ăn mà quên nguy vong . Điều đó là tính tự nhiên vậy.

Qua câu chuyện trên ta thấy những con chim sẻ già biết sợ nên sống, đó là một cái sợ khôn ngoan, cái sợ của một con chim có nhiều năm kinh nghiệm, nên nó biết chọn chỗ nào nguy hiểm chỗ nào không nguy hiểm, có thể nói con chim sẽ già biết sợ để được sống chứ không phải là bị sợ vì nó hoàn toàn chủ động chứ không phải vào thế bị động.

Trong tâm lý học cho thấy, có rất nhiều cái làm cho người ta sợ. Sợ có thể là do bị mặc cảm tự ti, sợ không bằng người khác, sợ không thể làm được trước một công việc mà họ cho là quá lớn lao. Cái sợ thứ hai gần giống như sự xao xuyếnbăn khoăn thổn thức, nội tâm cảm thấy bất an sâu xa mà không có nguyên do khách quan nào. Họ sợ bị bất hạnh ập đến, một tai nạn gần kề trí tưởng tượng sẽ xảy ra cho họ rằng có những biến động bất ngờ đôi khi rất kinh sợ mà họ không tài nào xua đuổi được.

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một cái sợ mới, rất độc đáo. Nó không giống cái sợ từng trải của con chim sẻ già, cũng không giống một cái sợ mặc cảm tự ti, cũng không xao xuyến bất an, một cái sợ thật dễ thương biết mình là thụ tạo được tuyển chọn, biết mình để mà sợ sống phó thác, sống vâng lời. Đó chính là cái sợ của Đức mẹ Maria cô trinh nữ làng Nazareth và anh chàng thợ mộc Giuse nghèo nàn, ít nói và luôn sống âm thầm.

Không phải tự nhiên ta có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ thần truyền tin. "Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái" Chắc Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ. Vì theo lật Do Thái người phụ nữ nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người, Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn, được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa

Khi nói đến Thánh Giuse, người ta nghĩ ngay đến một người công chính, ngay thẳng sống âm thầm, ít nói. Suốt cuộc đời trong Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của ông nhưng ta biết được ông cảm thấy e ngại khi biết Đức Maria có thai, ông không hề nói cho ai biết điều làm ông e ngại đó, nhưng Thiên Chúa đã thấy và biết được sự lo lắng trong lòng ông. Do đó Thiên Thần đã đến với ông trong giấc mơ và nói với ông hỡi Giuse đừng sợ đón nhận Maria về nhà làm vợ vì nàng đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. sau khi tỉnh giấc Giuse đã tin tưởng vào Thiên Chúa và đường lối hành động của người. Do đó ông cũng vượt qua được nỗi sợ hãi và làm theo ý Chúa. Tất cả chúng ta đều đã đụng chạm đến nỗi sợ hãi và chắc chắc cũng còn gặp nhiều nỗi sợ hãi nhưng đường để nỗi sợ hãi đó làm ta không thể đến được với Chúa nhưng hãy biết chuyển đổi nỗi sợ hãi để thành niềm tin.

Trong mùa giáng sinh này hãy biến nỗi sợ hãi thành lòng khao khát đợi Chúa đến, và chỉ có Chúa ta mới nhận được niềm vui lớn lao như Đức Mẹ và thánh Cả Giuse đã nhận hơn 2000 năm trước.

 

31. Chúa Cứu Thế giáng sinh – R. Veritas

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.

Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm rút lui.

Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.

Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.

Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.

 

32. Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA

Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?

Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.

1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.

Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.

Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.

Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?

2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?

3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?

 

33. Emmanuel - Br. B.M. Thiện Mỹ, CRM

Có ba thanh niên leo núi Manhull bên Hoa Kỳ. Bỗng một cơn bão tuyết đổ xuống vùng ba người đang ở. Họ bắt buộc phải ẩn trú trong một hang đá!

Cơn bão kéo dài đến ngày thứ 11. lương khô đã cạn,mỗi người chỉ còn được một muỗm mạch nha mỗi ngày. Trong cơn nguy ngập như thế, họ chỉ còn một nguồn hy vọng là cuốn Thánh Kinh của một người trong nhóm mang theo. Mỗi người đọc Kinh Thánh 8 tiếng đồng hồ rồi trao cho người khác. Cứ như thế họ đọc lời Chúa suốt đêm ngày. Bên ngoài là tiếng gió rít của bão tố, bên trong hang họ nhờ Kinh Thánh mà duy trì niềm tin cho đến ngày thứ 16, bão tuyết chấm dứt và có nhóm người tiếp cứu tìm gặp họ …

Cuộc đời chúng ta cũng tràn đầy những cơn phong ba bão táp, bao trùm khắp cả địa cầu. Đối với thời tiết cơn bão cũng chỉ có từng lúc rồi lại tan biến nhường chỗ cho thời tiết điều hoà, riêng mùa xuân cảnh vật trời đất còn được vui tươi, thanh bình, ấm áp, cùng với muôn chim ca hót trong những vườn hoa nở rộ, những bông hoa thật xinh tươi thơm tho …. Nhưng cơn bão tâm hồn nó hoành hành con người triền miên, lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Cơn bão nội tâm đầu tiên mà ma quỷ tạo ra ngay từ lúc nguyên tổ còn ở trong vườn địa đàng, con người đã bị ngã gục trước cơn bão khổng lồ của Satan. Cũng như mưa sa bão táp ở thiên nhiên, cơn bão tâm hồn cũng xô đẩy con người dưới nhiều hình thức và cường độ mạnh yếu khác nhau mà chúng ta quen gọi là 7 quỷ hay 7 mối tội đầu. Một cơn bão cụ thể hiển nhiên và nổi bật trong các thời đại hiện tại là cơn “bão sex”, nó bao vây thế giới trẻ hiện nay và đã có rất nhiều thanh niên thanh nữ, kể cả những anh chị mới lớn cũng bị gục ngã trước cảnh bầy hầy trong sinh hoạt hằng ngày.

Dưới sức tấn công của tà thần trong muôn mặt của cuộc đời, chúng ta cũng có quyển Kinh Thánh ở ngay trong tâm hồn người Kitô hữu. Quyển Kinh Thánh này ghi khắc vào linh hồn ta khi rửa tội, bắt đầu gia nhập hàng ngũ Hội Thánh và được chính thức làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Quyển Kinh Thánh đó, với ơn thánh trợ giúp, chúng ta đọc thấy những trang sách ở mọi nơi: Ở trong giòng suối nước róc rách chảy ngang qua các cánh đồng cỏ xanh tươi, ở trên những dãy núi hùng vĩ trùng trùng điệp điệp, ở tận bầu trời cao thẳm hay ở dưới đại dương mênh mông … vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và lời Chúa sống động nhất trong lúc ban bố ở Thánh Lễ Misa hằng ngày. Lời Chúa chính là của ăn bổ dưỡng cho tâm hồn để chúng ta chiếm hữu được Đấng EMMANUEL nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta cũng như lời thánh Phaolô nói: “cho đến khi Chúa Kitô thành hình trong anh em”.

Ngày Chúa Nhật hôm nay, Phúc Âm cũng thuật lại câu chuyện của gia đình Thánh Gia vào thời kỳ đính hôn. Hồi ấy giữa lúc mối tình đẹp đẽ đang dâng cao để tiến lễ thành hôn, thì cơn bão thánh thiện ập đến túp lều lý tưởng đề hứa hẹn. Suy đi nghĩ lại nhiều ngày trời về sự kiện Mẹ Maria, thánh Giuse rất áy náy ưu tư khi thấy bạn đồng trinh của mình ngày càng khác lạ rõ ràng. Còn đối với người ngoài cuộc, bà con trong họ hay hàng xóm láng giềng, lại không có vấn đề gì phải thắc mắc. Vì theo phong tục người Do Thái, việc thụ thai trong thời kỳ đính hôn được coi như con chính thức. Riêng thánh Giuse lại không hiểu đơn giản như thế, Ngài thấy đây là công trình tác tạo của Thiên Chúa, thánh Giuse ái ngại như thánh Phêrô khi thấy quyền năng của Thiên Chúa liền cúi mình thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc.5,8). Lại nữa, thánh Giuse là người công chính, Ngài không muốn đảm nhận tư cách làm cha mà không phải là tác phẩm của Ngài. Để tôn trọng chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Mẹ Maria, thánh Giuse đã muốn âm thầm rút lui ….

“Nhưng đang khi định tâm như vậy …” thì Thiên Chúa đã sai sứ thần đến để trấn an, báo tin và trao ban sứ mệnh cho Ngài. Như vậy thánh Giuse là nhân chứng sống động cho việc Mẹ Maria sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn trinh khiết. Việc thánh Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu nói lên vai trò làm Cha trước pháp luật. Vì theo phong tục bấy giờ, chỉ có cha mẹ mới có quyền đặt tên cho con mình. Và vì thánh Giuse là con vua Davit, nên Con Trẻ Giêsu cũng thuộc dòng tộc Davit, đúng như lời Kinh thánh đã báo trước qua các ngôn sứ. Đó là một chiến thắng rất vĩ đại của Cha thánh Giuse, Ngài đã vượt qua mọi giông tố để chiếm được Đấng EMMANUEL cho nhân loại.

Như vậy bài suy niệm hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoàn cảnh gia đình thánh Nazaret, để chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh, để nhận ra công trình phi thường của Thiên Chúa, và để chúng ta noi gương các Đấng đã rất mềm mỏng tinh tế với ý muốn của trời cao.

Gương sáng chói của Chúa Giêsu, Ngài là Đấng rất cao cả vô cùng, Ngài có thể cứu chuộc thế gian bằng nhiều cách, nhưng Chúa đã trở nên con của Mẹ và con của thánh Giuse là Cha Đồng Trinh Ngôi Lời Nhập thể và nhờ Giáo hội cộng tác vào chương trình cứu thế của Ngài. Được Thiên Chúa xử dụng trong việc tông đồ, được Ngài kêu gọi chúng ta vào hàng ngũ tuyển chọn trong đời dâng hiến … Chúng ta hãy thưa lời xin vâng như thánh Giuse khi được báo tin trong giấc mơ, như lời Fiat của Đức Mẹ trong ngày truyền tin, như thánh Phêrô thưa cùng Chúa rằng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới…”.

Tuy nhiên cuộc đời không thuần đơn giản như thế, thánh ý Chúa dễ bị những mây mù bão tuyết của trần gian che khuất. Che khuất bởi quỉ thần Satan, bởi dục vọng nặng nề của lòng người , bởi hào nhoáng của thế gian, đấy là chưa kể ý chí bị ru ngủ, không muốn vươn cao lên khỏi tầng mây mù để bay về trước Thánh Nhan Chúa, tìm gặp Đấng EMMANUEL. Ước gì gia đình Thánh Nazret là mẫu gương sáng chói cho chúng ta noi theo sống đời theo chân Chúa.

 

34. Hãy sẵn sàng - Lm. Thu Băng, CRM

Vài tuần trước đây, tạp chí "This week" có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé người Hòa Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và đã bị kết án tử hình. Ngày trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho cha ruột cậu lá thư sau đây. "Cha thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho cha lá thư này, nhưng con vẫn phải cho cha hay rằng con đã bị tòa án quân sự kết án tử hình. Xin cha đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ sáng, chỉ một lát nữa thôi, thế là con sẽ về cùng Chúa. Nói cho cùng, đấy có phải là sự chuyển tiếp đáng kinh hãi không? Không, con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵng sàng chờ đón giờ Chúa gọi con. Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn cha nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng tội, đã sống công chính và hiện tâm hồn con hoàn toàn bình an thanh than. Ký tên "John Kless". Phúc cho ai vào giờ Chúa gọi có thể nói được như cậu ta.

Chúng ta có thể nói được rằng, Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn, sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Giáo Hội khuyên chúng ta nên chuẩn bị tâm trí, chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị thể xác, để đón tiếp Chúa Kitô. Đây phải chăng chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng thế có tính cách lịch sử của Ngài, thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc ẩn thân mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là việc Chúa đến với mỗi người chúng ta trong giờ chết.

Để đón tiếp Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời thánh Gioan tầy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi, tin vào Phúc Âm. “Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi” (Lc.3:8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi thực hiện trong ngày đón chờ Chúa đến. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những tính mê nết xấu, những gian tham, những hờn oán và bắt đầu sống đúng như lời Chúa Giêsu từng khuyên dạy chúng ta. Hãy tập tành các nhân đức. Hãy dục lòng yêu mến Chúa gấp trăm lần bù lại những giây phút quên lãng. Hãy hy sinh, hãm mình và làm việc lành phúc đức nhiều hơn mọi khi. Hãy để giờ làm việc thiêng liêng, đọc kinh nguyện ngắm, để tâm thần thêm sốt sáng. Hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem "liệu chúng ta có thể trình diện trước mặt Chúa ngay lúc này không?

Mùa Vọng là thời gian tốt nhất để chúng ta hồi tỉnh tâm trí và chuẩn bị tinh thần. Đây là thời gian tự vấn chính mình xem chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Chúa chưa? Chúng ta có nói được như cậu bé John Kless trước giờ hành quyết: "Con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần Chúa. Con chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cái chết... Con đã xưng tội và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản, bình an và hạnh phúc".

Chúng ta hãy qùi xuống trước tôn nhan Chúa, hãy dùng giây phút này để thầm lặng, gẫm suy đến việc chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến.

Lạy Chúa, xin giúp con sẵn sàng đón Chúa đến trong mọi lúc. Xin canh tân trí lòng chúng con, đổi mới ý chí. Xin giúp chúng con quyết tâm trong lời nói, trong việc làm, trong hành động, để sống đạo đức thánh thiện hơn trong những ngày đón chờ Chúa đến. Lạy Chúa, con đây xin sẵn sàng thực thi ý Chúa. Amen.

 

35. Vâng phục trong trách nhiệm

Học cùng buổi, là anh lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út học ở trường mầm non gần trường tôi. Tôi chẳng thích tí nào, vì như thế tôi chẳng bao giờ được đi chơi cùng đám bạn mỗi khi tan học. Nhưng tôi chẳng còn cách nào khác vì cha mẹ phải đi làm, em út thì chưa thể tự đi được.

Lần nọ, cô giáo bị bệnh đột ngột. Chúng tôi được nghỉ tiết cuối. Tôi theo đám bạn ra sân vận động chơi đá banh. Mãi chơi quên cả giờ giấc phải đón em. Chờ mãi không thấy tôi đến rước, cô giáo nhà trẻ đưa luôn em tôi về nhà cô và điện qua nhà tôi bảo mẹ tôi qua rước em. Còn tôi, khi chơi chán thì đã trễ giờ, đến trường của em thì được biết em đã được cô đưa về. Tôi đành lững thững về nhà chịu tội. Về đến nhà, đứa em út nhìn tôi khóc tức tưởi: "Anh hai đi đâu không đón em!".

Phúc Âm ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta một khuôn mặt - một người thầm lặng, thầm lặng nhưng rất vâng phục; ít nói nhưng đầy trách nhiệm. Thánh sử gọi ngài là người công chính. Đó là thánh Giuse.

Trình thuật bài Phúc Âm cho biết Giuse đã đính hôn với Maria, nhưng trước khi về chung sống thì Maria đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse thì lòng bối rối như tơ vò, "bỏ thì thương vương thì tội". Tố cáo thì Maria sẽ chết, bởi luật lệ Do thái thời ấy rất khắt khe với những phụ nữ chửa hoang. Rước nàng về chung sống thì sao quá bất công cho mình. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp âm thầm ra đi. Đành chấp nhận dang dở một cuộc tình đẹp... Nhưng có phải vì sự âm thầm đó mà Giuse được gọi là người công chính? Hay là vì lòng nghĩa hiệp không muốn phanh phui ra ánh sáng một bào thai đang lớn lên từng ngày trong bụng Maria?

Nếu chỉ đơn giản như thế thì cần gì phải nêu ra cho mọi người học hỏi làm gì! Vì thực tế mẫu anh hùng như thế không phải làm hiếm.

Mặc dù Phúc Âm không nói gì về cuộc đời thánh Giuse, nhưng chắc rằng ngài là một người tốt lành, có đạo đức, có học thức. Sự công chính của Giuse được các nhà chú giải cho rằng: Giuse đã biết được thai nhi trong bụng Maria là ai, ngài cũng hiểu được rằng Thiên Chúa đã chọn Maria cho công trình cứu rỗi của Người. Giuse tự thấy mình không có quyền giành Maria với Thiên Chúa, càng không xứng đáng tham dự vào công trình quá cao vời của Thiên Chúa. Giuse chấp nhận hy sinh tình yêu của mình để ý định của Thiên Chúa được thành sự. Giuse công chính là vì ngài đã nhận ra được điều Chúa muốn ngài phải hy sinh và vâng theo điều đó với cả ý thức và trách nhiệm.

Cho tới khi suy nghĩ của Giuse được xác nhận bởi lời của sứ thần, thì sự vâng phục của Gisue được chuyển sang hướng khác và nâng lên cao hơn. Giuse không là kẻ đứng ngoài công trình cứu rỗi. Rối rắm trong lòng Giuse được hoá giải. Trách nhiệm của Giuse giờ đây là công nhận người con Giêsu trong tư cách pháp lý cũng như cho Giêsu được đứng vào hàng con cháu Đavit. Giuse không hề đắn đo hối tiếc trong vai trò cha nuôi của mình. Ngược lại, ngài còn vui mừng vì đã được cộng tác, vì đã được mời gọi. Việc nầy xem ra quan trọng hơn so với việc chấp nhận người khác đứng vào dòng tộc mình. Giuse đã hoàn toàn để ý Chúa "được như lời sứ thần truyền".

Là người Công giáo, chắc hẳn phải hơn một lần bạn nghe nói về sự vâng phục của thánh Giuse, hay của Đức Maria, hay của một vị thánh nào đó. Thế bạn nghĩ gì về điều nầy? Các ngài không phải vâng phục lề thói xã hội không đâu, mà là vâng phục ý Chúa. Và khi đã chấp nhận xin vâng như vậy, các ngài cũng phải đảm đương một trách nhiệm đi cùng.

Như câu chuyện tôi đã kể ở phần đầu, tôi đã miễn cưỡng vâng phục. Tôi không phản ứng nhưng tôi không làm tròn trách nhiệm. May là hôm ấy em tôi không xảy ra sự cố gì rắc rối. Nếu không chắc tôi phải ân hận suốt đời.

Cuộc sống đòi buộc bạn phải dấn thân, đòi buộc bạn phải đáp trả lời mời gọi cộng tác. Bạn không thể ăn bám gia đình mãi. Bạn không thể ngồi đó oán trách số phận đen đũi. Bạn càng không thể trốn chạy trước tương lai của chính đời bạn. Khi bạn chưa bắt tay vào làm bất cứ điều tốt nào thì bạn không được quyền nói bạn không có khả năng. Bạn đã thấy thánh Giuse cũng nghĩ rằng ngài không thể, nhưng với lòng tin vào Chúa và vào chính mình, ngài đã làm được.

Hãy đến chiêm ngắm sự vâng phục của Giêsu - Maria - Giuse nơi hang đá trong đêm Giáng Sinh và nguyện cầu để được các Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn. Chúc bạn Giáng Sinh an lành.

 

36. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.

Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.

Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:

1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.

Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.

2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.

Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản rất cao quý.

 

37. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống

Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.

Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.

Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.

1) Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.

Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.

Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)

Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.

Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.

2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.

Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.

Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?

Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).

Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.

3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.

Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.

Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.

Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?

Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.

Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.

Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).

Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.

 

38. Giuse im lặng

Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.

Thông thường khi bản thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng.

Thế nhưng, những người tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.

Phải, thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:

- Khi cõi lòng chất nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.

Bởi đó sự thinh lặng là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung niềm tin tưởng vào Ngài.

Thứ đến, sự thinh lặng sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta. Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần? Ngài hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.

Thánh vịnh 37 đã khuyên chúng ta:

- Hãy thinh lặng và đợi chờ, chớ buồn lòng.

Vậy những lý do ấy đã đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa? Nhiều khi chúng ta thêm buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.

Dưới con mắt trần gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.

Trên đời này không thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.

Nhưng cũng có những trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài. Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.

Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình tốt đẹp.

Tin rằng khi Thiên Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ vỡ của đời mình.

Lạy thánh Giuse, là gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.

 

39. Mộng báo

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Chuyện kể rằng: có một cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.

Một sáng Chúa nhật, sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa xin cô giúp đỡ.

Cô gái rất ân hận thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.

Qua câu chuyện vui hi hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.

Để rồi cuối cùng, Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là “người công chính”.

Nhưng chính lúc Giuse khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”. Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như “của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.

Như Maria, Giuse cũng phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc, các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.

Thật đáng mừng là trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.

Sau khi “cam kết”, các thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách quá khích.

 

40. Đức Trinh Nữ Maria

Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa. Tại sao thế? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.

Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa, nên không thể đội trời chung với nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực yêu thương các tội nhân.

Thực vậy, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn năng và giàu lòng nhân ái. Từng giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người cha.

Hơn thế nữa, tội lỗi còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa, khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.

Chúa ban cho chúng ta đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm cắp.

Chúa ban cho chúng ta một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.

Cũng vậy, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:

- Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.

Mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá. Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra trở nên vô ích.

Có một tên sát nhân âm mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống. Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:

- Ngươi sẽ làm gì để đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử?

Tên sát nhân không ngần ngại trả lời:

- Tôi sẽ tìm cách để giết chết hoàng tử một lần nữa.

Đức Kitô đã xuống thế và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta cũng nói như tên sát nhân:

- Tôi sẽ tìm cách để giết chết Ngài một lần nữa.

Sau cùng, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho chúng ta và nói:

- Hời thần ô uế, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Thế nhưng, khi phạm tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:

- Hỡi Thiên Chúa, hãy ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.

Tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.

Vì thế, để đón mừng Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.

Có khử trừ tội lỗi, thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự đến.

 

41. Công chính

Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn bộ Thánh Kinh, thì công chính là nhân đức luân lý mà chúng ta biết, được nới rộng để chỉ sự tuân giữ hoàn toàn các giới răn Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại luôn được coi như một phẩm tính để đáng được công nghiệp trước mặt Thiên Chúa”.

Khi Matthêu gọi Giuse “là người công chính”, không chỉ vì Giuse tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng còn vì trái tim của Giuse tràn ngập lòng nhân từ, quảng đại và thương yêu đối với Maria: “không muốn tố giác bà”. Thánh Kinh gọi Giuse là người công chính, vì Giuse thánh thiện và vô tội nữa. Khi viên đại đội trưởng chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, đã nói: “Người này quả thật là công chính”. Công chính còn có nghĩa là thánh thiện và vô tội, Giuse đã có lòng kính sợ và thi hành thánh ý Thiên Chúa qua mọi hình thức mạc khải, dù là giấc mơ: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì thế Giuse đã được chọn để đặt tên cho Đức Giêsu, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Một người có tội không thể nào đặt tên cho Đấng Cứu Thế được!

Quả vậy, bản tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc âm của thánh Matthêu đã tập trung vào vai trò của thánh Giuse hơn là của Đức Maria. Bởi Phúc âm của thánh Matthêu được viết cho những người Kitô hữu gốc Do Thái, Matthêu muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã đến qua dòng dõi vua Đavid. Đấng đã được hứa ban và loan báo bởi các tiên tri trong Thánh Kinh. Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid. Chính Giuse đã đặt tên cho con trẻ, đã dâng hiến cuộc đời mình và làm tất cả mọi sự cho con trẻ. Con trẻ là Con Thiên Chúa và con Đức Maria, nhưng qua việc đặt tên của Giuse, con vua Đavid.

Mỗi vị thánh đều có một ơn đặc sủng và một nét độc đáo. Đặc sủng ấy, nét độc đáo ấy nơi thánh Giuse là sự công chính.

nguon:http://gplongxuyen.org/News