"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Lời Chúa: Ga 6, 61-70
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin".
Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho".
Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?"
Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 54a. 60-69
1. Lời ban sự sống.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy
một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ.
Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa
khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy.
Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38),
và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62),
sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51)
và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai.
Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa,
bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời:
đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng,
vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta.
Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn
và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa.
Họ đã đi với Ngài một thời gian,
đã tin và đã trở thành môn đệ.
Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu
không phải là một bảo đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu,
là khám phá ra một Đức Kitô luôn luôn mới,
là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro,
cũng đòi chút liều lĩnh,
vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi.
Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội.
Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại.
Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu,
nhưng vì họ tin vào con người của Thầy,
tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa,
Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã đi trên biển.
Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai.
Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu,
Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy..." Bạn nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2. Hành trình đức tin
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3. Lời Chúa là Lời Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Từ xưa đến nay, sống trường thọ luôn là mơ ước của toàn nhân loại. Không hiếm các bậc đế vương trong lịch sử hao công tốn của đi tìm kiếm. Hiện nay, dù cho khoa học có rất nhiều tiến bộ, đời sống con người ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ được nâng cao, nhưng cái đích cuộc sống bất tử có lẽ còn rất xa con người hay bất cứ ai muốn đạt được điều kỳ diệu ấy. Bất tử, đồng nghĩa với không phải chết, hay sống đời đời.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta một bí quyết, chọn Chúa thì sẽ được sống tự do, sống vui và sống sống hạnh phục (x. Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b), theo Chúa, kết hợp với Chúa thì sẽ được sống đời đời, lời thánh Phêrô khẳng định, "chỉ có Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (x. Ga 6,68).
Chọn Chúa để được sống
Sinh ra sống ở trên đời, con người được đặt trước những lựa chọn. Chọn cho mình một lý tưởng, một hướng đi là điều rất quan trọng nhất, chọn đúng thì hạnh phúc, chọn sai sẽ có điều ngược lại. Ai trong chúng ta cũng phải đối diện với sự chọn lựa ấy, dân Do thái thời được Giôsuê đặt trước những chọn lựa: " Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ…”. Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa, mà phụng thờ các thần khác. Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông của chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ…" (Gs 24, 15-17). Dân đã chọn Chúa để được sống trong tự do làm con cái Chúa là Chúa sự sống.
Chọn Giêsu Bánh Hằng Sống
Đoạn Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta về Capharnaum, nơi có rất nhiều người theo Chúa Giêsu vì họ đã thấy phép lạ Chúa làm, đặc biệt sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Về phương diện xã hội, chính tại nơi đây Chúa Giêsu có nguy cơ "chết vì thành công", như Tin Mừng mô tả, họ muốn tôn Người lên làm vua (x. Ga 6, 15). Đây là thời điểm quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Kitô. Chính thời điểm này, Người bắt đầu mạc khải rõ nét về về Bánh Hằng Sống là chính Người với những lời xác quyết về sự sống siêu nhiên qua điệp của Người.
Khát vọng của con người là được sống trường sinh. Ngay từ thủa ban đầu, Adam va Evà đã hái và ăn trái cấm, vì tin rằng trái này sẽ làm cho mình sống mãi, không phải chết. Bất tử trên đời này là một điều thú vị và ai cũng khao khát, nhưng xem ra không tìm thấy ở trần gian này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ăn và uống chính thịt và máu Người để được sống đời đời. Điều này có nghĩa là chúng ta được mời gọi “ăn” và “uống” không phải một sự vật, nhưng là “ăn thịt và uống máu con người có tên Giêsu” một ngôi vị sống động. Người tha thiết mời gọi chúng ta đến với Người, tin vào Người, ở lại trong Người như thánh Phaolô: "Không còn là tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi" (), nghĩa là ai đón rược Chúa vào trong cuộc đời, được Chúa trở thành xương thịt, thành sự sống cho người ấy. Chẳng những thịt máu Chúa nuôi sống mà Lời Chúa cũng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời cho những kẻ nghe Người. Thế nhưng không phải ai cũng có thể lĩnh hội được.
Lời từ miệng Chúa phán ra với đám đông dân chúng khiến Chúa gặp rắc rối với họ, đến nhóm môn đệ Chúa cũng còn nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6, 60).
Một ai đó nói rằng, trong lịch sử Giáo hội, những người vĩ đại giống như những những cây cột không thể phá hủy khi đổ xuống: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa" (Ga 6,66). Chúng ta có thể gục ngã, "bỏ qua", ra đi, chỉ trích, hay tiếp thu những Lời Chúa Giêsu nói trên vào trong tâm trí chúng ta. Với sự khiêm nhường và tin tưởng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa chúng con muốn trung thành với Chúa hôm nay, mai ngày và mãi mãi. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rằng thật vô ích khi tranh luận về lời giảng dạy của Thiên Chúa hay Giáo hội nên chúng ta nói với nhau rằng "Tôi không hiểu"; "Lạy Thầy, chúng ta sẽ đi theo ai?" (Ga 6,68). Chúng ta nên xin một ơn phân định siêu nhiên hơn. Chỉ trong Thiên Chúa và Giáo hội chúng ta sẽ tìm thấy Lời ban sự sống đời đời: "Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Lời Đức Kitô mang lại sự sống đời đời
Giống như Phêrô, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu nói với chúng ta bằng ngôn ngữ siêu nhiên, một ngôn ngữ mà chúng ta phải đồng ý và đồng hóa để hiểu ý nghĩa, nếu không chúng ta chỉ nghe thấy những tiếng ồn không mạch lạc và khó chịu. Giống như Phêrô, trong đời sống Kitô hữu chúng ta có những khoảnh khắc, chúng ta phải tự làm mới và bày tỏ chính mình với Chúa Giêsu để thưa với Chúa rằng chúng con ở với Chúa và chúng con muốn tiếp tục theo Chúa. Phêrô yêu mến Chúa Giêsu, và đó là lý do tại sao ông ở lại với Chúa, những người khác yêu Chúa chỉ vì cơm bánh, trẻ em theo Chúa vì "kẹo", số người khác vì lý do chính trị đã bỏ rơi Chúa. Bí mật của lòng trung thành là tình yêu và sự tin tưởng.
Chúng ta hãy xin Đức Maria là Đức Nữ trung tín thật thà giúp chúng ta từ bây giờ trung thành với Chúa và với Giáo hội.
4. Hãy làm điều có thể
Có một chàng thanh niên xa rời Giáo Hội. Chàng không đi lễ, không chịu các bí tích nữa. Thế rồi chàng phải lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự. Mẹ chàng băn khoăn lo lắng và tự hỏi: Nếu chẳng may chàng chết thì sao? Bởi đó, vào buổi tối trước khi chàng lên đường, người mẹ ấy đã nói với chàng: Con ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều. Chàng hỏi lại: Điều gì vậy? Người mẹ trả lời: Mẹ muốn con mỗi ngày hãy đọc một kinh Kính Mừng mà thôi. Chàng do dự nhưng cũng đã nhận lời. Trải qua năm tháng, những bức thư chàng gởi về gia đình cứ thưa dần, rồi một ngày kia bức điện tín ngắn ngủi được trao cho người mẹ: Con bị thương nặng và đã chịu các bí tích. Rất may chàng được bình phục. Trong một dịp về thăm gia đình, chàng đã nói với mẹ: Điều mẹ căn dặn, con đã làm, nhờ đó mà con đã trở về với Chúa.
Từ câu chuyện trên tôi nhận thấy: Một tâm hồn trôi dạt xa lìa Chúa, nhưng nếu họ còn giữ được một liên hệ nào đó với Ngài, dù chỉ là một kinh Kính Mừng mỗi ngày, họ vẫn có hy vọng và có cơ may tìm thấy con đường trở về với Ngài. Như rất nhiều người Công giáo, chàng đã bắt chước các môn đệ trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Lìa bỏ Chúa mà đi. Những môn đệ ấy từ chối, không muốn tin rằng: Đức Kitô có thể lấy thịt Ngài cho họ ăn và máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã chứng kiến phép lạ năm chiếc bánh hoá nhiều làm cho năm ngàn người được no nê.
Hầu hết những lý do khiến người Công giáo xa lìa Giáo Hội đều liên quan tới vấn đề này. Chẳng hạn như: Thánh lễ không liên hệ gì đến tôi. Họ muốn nói rằng thánh lễ không đem lại cho họ một rung động, một cảm xúc nào cả. Và họ cũng chẳng làm gì để thay vào đó. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một câu kinh. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì đối với việc quan trọng nhất là bí tích Thánh Thể mà họ còn đối xử như vậy, huống nữa là những phương tiện đạo đức khác.
Trong khi đó, tôi nghĩ rằng mỗi người cần phải làm một cái gì có thể làm được. Chính việc làm nhỏ bé này sẽ đem lại ơn trợ giúp của Chúa. Chẳng hạn như đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, hay cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ riêng tư của mình: Lạy Chúa, xin giúp con làm vui lòng Chúa. Đó chính là khởi điểm cho một sự trở về. Cũng giống như một viên bi rơi trên một triền dốc, nếu không chặn lại, nó cứ lăn mãi lăn hoài cho đến tận cùng con dốc mới thôi. Người khô khan nguội lạnh, bỏ dần những việc đạo đức thì rồi, một lúc nào đó họ sẽ bỏ tất cả. Coi thường một giới răn thì rồi một lúc nào đó họ sẽ gác bỏ tất cả những giới răn khác.
Hãy gượng dậy từ một cố gắng. Hãy khởi đầu đi từ một việc làm nhỏ bé và rồi Chúa sẽ nâng đỡ phù trợ. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng tối. Hãy làm những gì mình có thể và rồi hãy thưa lên cùng Chúa như Phêrô ngày xưa: Bỏ Thầy con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có lời ban sự sống.
5. Thử thách
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị. Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai. Bài thơ ấy như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc.
6. Niềm xác tín
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Đề cập đức tin – một trong ba đức đối thần, Thánh LM TS Tôma Aquinô (1225-1274) phân tích: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng ĐỨC TIN, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc”.
Cũng liên quan đức tin, Chân phước LM Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) cho biết: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. ĐỨC TIN tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. ĐỨC TIN làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay”.
Đặc biệt là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã từng nhắn nhủ riêng với Giáo Hội Việt Nam: “Xin mượn lời Thánh Phaolô để nhắn nhủ rằng: ‘Các con hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy can trường và mạnh mẽ’ (1 Cr 16:13). Và để biểu dương hơn nữa lòng thương yêu, săn sóc và cảm phục, cha nhắc lại đây lời Thánh Phaolô: ‘Hằng ngày, cha phải cám ơn Thiên Chúa vì các con. Thực thế, đức tin các con mãnh liệt thêm mãi, tình thân ái của các con với tha nhân mỗi ngày một dồi dào, khiến Cha được hãnh diện vì chúng con trước mặt Giáo hội của Chúa, hãnh diện vì các con bền chí, vững lòng tin trong mọi cơn bách hại, trong những giờ gian lao khốn khó: như thế mới xứng đáng vào nước Thiên Chúa, chính vì Ngài mà các con đã chịu đau khổ’ (2 Tx 1:3-5)”.
Đức tin trừu tượng, không thể sờ được, nhưng có thể cảm nhận một cách cụ thể. Thật lạ! Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải có lòng can đảm để có thể đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Các ngài đã can đảm, và một niềm xác tín rằng “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta – Kitô hữu Công giáo – là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi, chứ không có bất cứ một thần linh nào khác!
Chúng ta diễm phúc là nhận biết Chúa và tin theo Ngài, nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ. Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau). Tuyên tín một cách đơn giản là “làm dấu Thánh Giá”, thế mà đôi khi chúng ta làm cho xong lần, vội vã như “phù phép”, thậm chí có khi tay “vẽ dấu Thánh Giá” mà miệng còn càm ràm hoặc lầm bầm điều gì đó. Ôi thôi!
Biết rằng con người yếu đuối, dễ thay lòng đổi dạ, nhưng không thể cứ viện cớ đó để tự biện hộ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác, chắc hẳn nên xét lại lắm. Ngày xưa, ông Giôsuê đã quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Israel và triệu tập các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân về lời tuyên phán của Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2). Ngày nay, chúng ta gọi họ là những kẻ phản bội hoặc bội bạc, nhưng ngày nay chúng ta cũng có hơn họ, bởi vì chúng ta cũng đã bao lần phạm tội phản nghịch với Thiên Chúa nhân hậu.
Tuy nhiên, ông Giôsuê vẫn không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em CỨ TUỲ Ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Nghe vậy mà họ thấy “rét”. Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Cũng là phàm nhân với nhau nên cũng giống nhau y chang. Nghĩa là chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa thực sự “nên người”. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:15). Đó là sống theo huấn lệnh của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta đã xác tín là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.
Tuyệt đối Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), và chỉ có Ngài là Đấng nhân lành (Mt 19:17), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài vẫn luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” (Tv 34:16-17). Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:18). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34:19-21). Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34:21). Đó là cách quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Phàm nhân là loài yếu đuối, chúng ta là phàm nhân nên chúng ta cũng yếu đuối, mà càng yếu đuối thì càng cần có đức tin, và chính đức tin làm cho chúng ta nên vững mạnh. Đức tin và đức ái liên quan tinh thần phục vụ – sống cho và sống vì nhau – khởi đầu từ gia đình. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy TÙNG PHỤC LẪN NHAU” (Ep 5:21).
Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân giải thích “dài hơi” một chút: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng NƯỚC và LỜI hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27). Thiên Chúa là Đấng chí thánh nên những gì thuộc về Ngài đều phải là thánh.
Tương tự, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất hợp lý, bởi vì vợ chồng “tuy hai mà một”, trở nên “một” qua bí tích Hôn phối. Nên một thì không thể là hai hoặc ba, nghĩa là “người này cũng là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, chỉ có kẻ ngu xuẩn mới hành hạ chính mình, nhưng “người ta NUÔI NẤNG và CHĂM SÓC thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh xác định rạch ròi: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT XƯƠNG MỘT THỊT” (Ep 5:31). Và Thánh Phaolô minh định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo Hội – và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gắng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình. Hôn nhân là bí tích do Thiên Chúa thiết lập chứ không phải do loài người tạo nên. Thế nên không thể “vui ở, buồn đi” theo ý mình.
Cái gì cũng có tính liên đới, dù đó là điều tốt hay xấu. Tương tự, đức tin cũng có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết – bởi vì “Chúa lấy sinh khí lại, chúng tắt thở ngay” (Tv 104:29), và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 & 26). Đó là hai cái chết: chết thể lý và chết tinh thần. Cái chết nào cũng đáng sợ!
Hôm đó, khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Ngài nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng cảm thấy “nóng gáy” nên nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN” (Ga 6:61-64). Quả thật, vấn đề đức tin là vấn đề thực sự quan trọng. Không phải cứ nói tin là tin, vì lời nói đó có thể chỉ là “hàng giả” – giả vờ vậy thôi. Cách xác tín cho biết “sức khỏe tâm linh” của chúng ta ra sao, khỏe hay yếu, hoặc cứ làng xàng – chẳng khỏe cũng chẳng yếu.
Thật vậy, ngay từ lúc đầu, Chúa Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Thế nên Ngài cho biết: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Nhưng ngư phủ Simôn Phêrô nói ngay: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Thật tuyệt vời! Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã xác tín. Thật vậy, chính ông đã công khai tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con ĐÃ TIN và NHẬN BIẾT chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Ôi, lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ duy nhất, và luôn biết tín thác vào chính Thiên-Chúa-Con-Người ấy.
Cũng liên quan đức tin, Thánh LM Piô Năm Dấu (1887-1968) cho biết: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn TRONG ĐỨC TIN, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy phải bước đi TRONG ĐỨC TIN tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu”.
Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin thắp lên ánh sáng đức tin trong mỗi chúng con, xin nâng đỡ để chúng con hãnh diện tuyên tín qua từng ánh mắt và mọi động thái, xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, và tất cả chỉ vì Thánh Danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
7. Vấn đề đức tin
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Bởi vì “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi!
Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau).
Con người yếu đuối nên dễ thay lòng đổi dạ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác. Ông Giôsuê quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Ítraen và triệu tập các kỳ mục Ítraen, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen, phán thế này: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2).
Ông Giôsuê không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa nên người. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” [Tv 33 (34):2-3]. Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):15].
Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” [Tv 33 (34):16-17]. Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):18]. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” [Tv 33 (34):19-21]. Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” [Tv 33 (34):21].
Chúng ta càng yếu đuối càng cần có đức tin. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5:21). Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân “dài hơi” giải thích: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27).
Cũng thế, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất lô-gích, vợ chồng “tuy hai mà một”, nên một qua bí tích Hôn phối. Mà là một thì “người này là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, mà “người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh có lời chép: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5:31). Thánh Phaolô xác định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo hội, và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gằng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình.
Đức tin có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết, và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17&26).
Khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu có nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng “nóng gáy” nên liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Ngài bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin” (Ga 6:61-64).
Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Và Ngài nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Ông Simôn Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã tin. Thật vậy, ông liền tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và luôn biết tín thác vào Người Con ấy.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin thêm đức tin cho chúng con và xin nâng đỡ chúng con để chúng con can đảm thể hiện đức tin qua từng ánh mắt, lời nói, cử chỉ, động thái,... Nhờ đó mà chúng con xứng đáng là môn đệ của Con Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
8. Theo ai?
Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?
Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.
Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?
9. Lời ban sự sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời" là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa phán mà ra.
Sáng thế ký chương I viết: “Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,... liền có như vậy."
Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Stk 1, 20.24.26)
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giêsu thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giêsu cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. "La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giêsu có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Ga 6, 68)
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, "nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giêsu tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
10. Lời Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong suốt bốn tuần qua, Giáo Hội giúp chúng ta suy nghĩ chương 6 của Tin Mừng Gioan: diễn từ về bánh trường sinh. Trọng tâm là câu mà chúng ta vừa nghe đọc: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”.
Diễn từ xoay quanh vấn đề bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh đó chính là thịt máu Ngài.
Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta suy niệm đoạn cuối của chương này.
Tất cả kết thúc trong sự thất bại. Không ai chấp nhận, không ai muốn hiểu những gì Chúa Giêsu nói và mọi người đều bỏ Ngài, kể cả một số môn đệ, chỉ còn lại nhóm Mười Hai đang ngơ ngác nhìn mọi người bỏ đi.
“Lời này chói tai quá! Ai mà nghe được?”
Sao họ nhẹ dạ thế? Sao họ không thấy rằng với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi năm ngàn người trong hoang địa? Sao họ không nhìn thấy quyền lực lạ lùng của người đã làm được một việc phi thường như thế? Con người chỉ có ăn là đủ sao?
Nhiều người trong chúng ta cũng vậy. Chỉ cần có lợi cho mình, mọi sự khác không cần nghĩ đến, sống chết mặc ai.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ, những người đang xầm xì về những điều Ngài vừa nói: “Điều đó anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”
Như thế, Ngài tỏ cho họ biết nguồn gốc thần linh của Ngài. Ngài từ trời xuống. Bánh hằng sống Ngài ban cũng từ trời. Những lời Ngài nói là lời của Thiên Chúa chứ không phải của người phàm. Thế nhưng Ngài chỉ gặp thấy những tâm hồn khép kín, không thể chấp nhận những gì khác hơn là những gì họ nghĩ. Nhưng với đầu óc chắc nịch những vật chất, làm sao họ có thể đón nhận những hồng ân tuyệt diệu của Ngài?
Chúng ta hãy xét lại bản thân. Chúng ta đang sống cho cái gì? Chúng ta đang đi về đâu? Tương lai của chúng ta là gì?
Nếu chúng ta chỉ lo nghĩ đến tiền bạc, của cải, lợi lộc trần gian mà thôi, chúng ta sẽ thất vọng. Chính Chúa nói: “Xác thịt chẳng có ích gì”.Vì nó sẽ tan biến trong giây lát. “Chỉ có Thần Khí mới làm cho sống” Thần Khí mới mở mắt chúng ta vào chân trời của Chúa: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Ngài mời gọi chúng ta vượt lên trên thế giới vật chất để tìm được những thực tại thiêng liêng, mang lại cho chúng ta sự sống đích thực.
Câu chuyện người đàn bà Samari bên bờ giếng Giacob cũng là một bài học cho chúng ta thấy vũ trụ vật chất chỉ là phương tiện để nhờ đó, chúng ta đạt đến những thực tại thiêng liêng, đạt đến mục đích tối hậu mà chúng ta phải hướng đến.
Từ một miếng nước vật chất đơn thường, Ngài dẫn bà ấy đến nguồn nước trường sinh. Ngài cũng muốn hướng đám dân đang theo Ngài từ bánh trần gian đến bánh hằng sống, nhưng họ không muốn hiểu. Cả những môn đệ cũng không tin và rút lui. Cha trên trời mới có thể đưa họ đến với Ngài khi họ chấp nhận tìm kiếm.
Mọi người đều đả đảo Ngài chỉ còn Nhóm Mười Hai đang ngơ ngác chưa biết nên rút lui hay ở lại.
Ngài hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”
Một câu hỏi đau lòng!
Ngài không cần một ai. Ngài có thể biến đổi mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài không muốn ép buộc ai. Ngài là Đấng vô biên không ai dò thấu.
Câu hỏi của Ngài như một cầu cứu khẩn thiết, làm như Ngài mất tất cả. Ngài nắm mọi sự trong tay, nhưng Ngài đã trở nên người ở giữa sa mạc. Ngài đã cho không cuộc đời, nhưng con người vẫn không đón nhận.
Câu hỏi này tiên báo cảnh vườn Ghetxêmani: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được. Hãy thức với Thầy”. Ngài vẫn cô đơn giữa đám đông, giữa các môn đệ. Con đường Ngài đi, Ngài chỉ cô độc một mình. Nhưng “khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”. Chỉ lúc bị treo lên mà thôi. Giờ này, Ngài vẫn một mình. Ngài báo trước hồng ân tuyệt diệu Ngài ban tặng, nhưng mọi người đều cho rằng: “Khó nghe quá!”
Nhưng may mắn thay! Phêrô đã đại diện cho anh em Nhóm Mười Hai đang lưỡng lự, đã trả lời, một câu trả lời chân thật, rõ rệt, không úp mở, không chịu ảnh hưởng của một yếu tố ngoại lai nào, cũng không do một áp lực nào, có thể nói là hoàn toàn chân thành. Kết quả của một quá trình chung sống gần ba năm đáp: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Những lời Thầy vừa nói mà người ta cho là chướng tai là những lời mang lại sự sống đời đời. Chính Thầy là bánh trường sinh. Ngoài Thầy ra, không còn ai khác.
Chúng ta hãy cùng với Phêrô nói lên tiếng lòng của chúng ta. Không có Thầy, chúng con bám víu vào ai đây? Chung quanh chúng con là một đống đổ nát hoang tàn. Con người đang tận diệt nhau. Bạo lực lan tràn. Tội ác ngập tràn như nước lũ.
Chúng ta không bi quan. Sự thật đã quá rõ ràng không thể chối cải. Thế giới này đang đổ nát. Tương lai của con người đang mịt mờ đen tối. Chỉ có Thầy là ánh sáng duy nhất đang mời gọi.
Hôm qua, Ngài hỏi các môn đệ và cũng chính là câu hỏi cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Chúng con cũng bỏ Thầy nữa sao?”
Chúng ta sẽ trả lời sao?
Chắc chắn, chúng ta sẽ cam kết sống chết với Thầy như Phêrô: “Con dám liều mạng cho Thầy!”
Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng này nhắc lại lời tuyên xưng ở Xêdarê-Philipphê: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đúng thế! Chúng ta chỉ có Ngài thôi. Gắn bó với Ngài sâu đậm hơn và nhất là ăn lấy Ngài để làm một với Ngài. Đó là ước mong duy nhất của Ngài. Ngài dám trở thành tấm bánh cho chúng ta, nơi đó Ngài chứng tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu chúng ta đến mức độ nào. Chúng ta có thấy được không?
Ngài hiến dâng tất cả cho chúng ta, chúng ta sẽ dâng cho Ngài cái gì? Tất cả hay chỉ một phần nào đó? Tình yêu không chấp nhận sự tính toán, nửa vời. Yêu phải là trọn vẹn. Ngài đã cho chúng ta tất cả, Ngài muốn chúng ta hoàn toàn là của Ngài.
Hãy cho Ngài một miền đất thênh thang để Ngài tự do hoạt động, và chúng ta cũng trở nên tình yêu như Ngài.
11. Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
12. Trong anh em có những kẻ không tin
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Lời mời gọi tiếp nhận ‘bánh hằng sống’, hay đúng hơn ‘ăn thịt và uống máu’ của Đức Giêsu, đã bị đám thính giả Do Thái nói chung, thậm chí cả một số môn đệ nói riêng, khước từ; “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi!... Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Chắc chắn không phải vì họ không muốn có bánh ăn là thứ mà họ đang kiếm tìm, nhưng họ khước từ ‘ăn thịt và uống máu’ vì là hình thức ghê tởm đối với bất kỳ ai. Điều đó thật ra cũng dễ hiểu thôi, và chẳng có gì đáng chê trách! Tuy nhiên điều làm chúng ta suy nghĩ chính là, từ sự ghê tởm tự nhiên đó, họ đã không còn tin vào Đức Giêsu nữa, “Trong anh em có những kẻ không tin”… và nhiều người quyết định lìa bỏ Người.
Nếu chỉ là vì hình thức ‘ăn thịt và uống máu’ làm họ ghê tởm, thì cách giải quyết cũng nhẹ nhàng thôi: chỉ cần trao bánh và rượu, rồi nói: “này là thịt và máu Ta”, như Người sẽ làm trong bữa ăn ly biệt, là sẽ dễ dàng được chấp nhận ngay. Thế nhưng, trong nhận thức của Đức Giêsu, thì rõ ràng đó không phải là lý do đáng quan tâm nhất để họ từ khước. Đối với Người, các môn đệ đang cần củng cố một điều gì còn thâm sâu hơn nhiều mà Người gọi là đức tin nhờ Thần Khí; “Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì”, vì cũng chỉ có Thần Khí mới có thể mở miệng Phê-rô thốt lên lời tuyên xưng: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”
Ngày nay trong số các Kitô hữu cũng có nhiều kẻ không tin, nhưng vấn đề chúng ta phải giáp mặt có lẽ lại trái ngược hẳn với các môn đệ Do Thái thời xưa. Khi giảng giải về Thánh Thể, người ta nhấn mạnh, bánh và rượu thật là ‘mình và máu’ Chúa (cũng có thể là do phản ứng của Công Giáo trước việc anh em Tin Lành chối bỏ học thuyết ‘biến thể’ transubstantiation). Điều này ngày nay không quá khó chấp nhận, ngay cả đối với các dự tòng, chỉ cần đưa ra một lý luận đơn giản: có điều gì mà Thiên Chúa không làm được? Cũng vậy khi tiến lên rước lễ, chẳng ai trong chúng ta còn có cái cảm giác ghê tởm của ‘ăn thịt và uống máu’. Thế nhưng, như đã từng xẩy ra cho các môn đệ xưa, vấn đề chính của chúng ta sẽ là: tôi có thật sự ‘tin và theo Thầy’ cách triệt để hay không? ‘Uống nước hằng sống’ và ‘ăn bánh trường sinh’ thực chất chỉ là những kiểu nói tượng hình để diễn đạt một điều hệ trọng hơn nhiều. Môn đệ Phê-rô đã biểu lộ niềm tin này qua lời tuyên xưng chân thành: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).Chính Đức Giêsu cũng chỉ rõ: “… Trong anh em có những kẻ không tin… Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Tác giả Gio-an hình như cũng có cùng một nhận định khi nói về các môn đệ: “Quả thực ngay từ đầu đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp người”. Như vậy ‘tin Đức Giêsu’ có nghĩa là lấy cái chết tự hiến thập giá của Người làm sức sống cho đời mình, làm con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha – sự sống vĩnh cửu; “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Chỉ ai tin như thế (= ăn thịt và uống máu) mới bảo đảm cho mình được sống muôn đời; “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Xác tín điều này, tôi không hề có ý hạ thấp tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong nội dung triết học và thần học; ngược lại là đàng khác. Khi cử hành Thánh Thể, thay vì chỉ suy nghĩ rằng mình đang làm một việc đạo đức tốt lành và thánh thiện bậc nhất (hàng đầu trong số các bí tích hay phụng vụ), tôi cần minh định rõ rằng mình đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô cách long trọng nhất, cũng như đang đón nhận ơn cứu độ cách thâm sâu nhất. Đức tin của tôi không đơn thuần chỉ là xác tín bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Đức tin phải đưa tôi tới việc đón nhận Đấng đã hiến dâng mình trên thập giá để tôi được thông phần vào sự sống từ ái vô biên của Chúa Cha… Và điều này thiết thực tới độ, cho dầu tôi, nếu có chết trước cả khi có dịp ‘ăn thịt và uống máu’ Người nơi bí tích Thánh Thể, và nếu tôi đã từng hết lòng ‘ăn bánh trường sinh’ trong niềm tin phó thác thâm sâu nhất đó, thì chính niềm tin này mới đảm bảo cho tôi “không còn chết nữa, nhưng được sống muôn đời”.
Điều tối quan trọng là đôi lúc tôi cần thật sự duyệt lại niềm tin của mình đạt nơi bí tích Thánh Thể, nhất là trong Thánh Lễ tôi cử hành hàng ngày
Lạy Cha chí ái, mỗi ngày khi con cử hành Thánh Thể, cho dầu có là một thói quen như hầu hết các linh mục khác, xin Cha luôn làm con ý thức rằng, đây chính là lời tuyên xưng đức tin thâm sâu nhất của con. Thánh Thể khi đó sẽ diễn đạt việc con đón nhận ơn cứu độ vô giá của thập giá Chúa Kitô cách trọn vẹn nhất, sẽ trở thành con đường để con đi vào sức sống vô biên của Chúa Cha, và bảo đảm cho con cuộc sống vĩnh hằng. Xin Cha giúp con luôn cử hành Thánh Lễ trong niềm tin như vậy. Amen.
13. Tình đời thay trắng đổi đen!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng:
"Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi".
Người ta gắn bó với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi "gió chiều nào xuôi theo chiều đó" để được an toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem". Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản thân.
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương trọn đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian "hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy". Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ "làm tôi hai chủ", mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: "cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?". Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: "bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời". Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: "Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù". Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta "phần các con có muốn bỏ Thầy không?". Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: "Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời". Amen.
14. Bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Ga 6: 60-69: Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “...
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do Thái.
- Khi Chúa Giêsu tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó.
- Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con ông Giuse, một bác thợ mộc ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được?
- Rồi trước lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do Thái: ”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60)?
Cho nên nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Chúa như Phúc Âm đã ghi lại: ”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Chúa Giêsu nữa”(Ga 6,66).
Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng, vì lời nói của Ngài: ”Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
Đứng trước sự tan rã bi đát đó, Chúa Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất, Ngài nói: ”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?
Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6 , 70).
Đây là cách Gioan nhắc lại lời của Phêrô tại Xêdarê Philipphê (Mc 8,27; Mt 16,13; Lc 9,18). Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản là chẳng còn có ai đáng cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông, chỉ có Ngài mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Lòng trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác. Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng.
Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
Cha Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca:
“Bỏ Ngài con biết theo ai” với những lời lẽ như sau:
- Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
- Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
- Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
- Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu?
- Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
- Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Quả thực, không có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ như một con thuyền lênh đênh trên biển cả. Không có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ cô đơn buồn chán.
Trong lúc cô đơn buồn chán, chúng ta thường chạy đến với người này người nọ, nhưng cũng chẳng giải quyết được gì để rồi cuối cùng đưa chúng ta đến thất vọng. Thất vọng lại càng làm cho chúng ta cô đơn buồn chán hơn.
Chắc chắn chúng ta chúng ta cứ phải loay hoay mãi trong cô đơn, buồn chán và thất vọng
bao lâu chúng ta chưa chạy đến với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thánh Thể.
Nhưng đến với Ngài bằng cách nào đây?
Nói tới đây tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng: Khi còn ở tiểu chủng viện, trong kỳ hè, được cha linh hướng nhắc nhở. Mỗi ngày phải chầu Thánh Thể ít nhất 30 phút.
Quả thực ban đầu khi bước vào nhà thờ là ngó đồng hồ ngay. 30 phút sao mà nó lâu thế. Rồi cứ thế, kỳ hè qua đi, rồi lại một kỳ hè nữa lại tới.
Cứ cố gắng tập dợt, để rồi tới một ngày nào đó nó đã trở thành những giây phút cần thiết cho cuộc sống. Có lần tự nhiên trước khi đi ngủ sực nhớ lại hình như mình còn quên một điều gì đó, thì ra chính là chưa dành 30 phút trước Chúa Giêsu Thánh Thể.
Nhờ những giây phút như thế tâm hồn tôi luôn được nâng đỡ, ủi an để vượt qua được những quãng đời gian khổ trong cuộc sống.
Ước gì trong cuộc sống, chúng ta luôn lập lại lời của thánh Phêrô:
”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
Vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Amen.
15. Lòng trung thành
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể: Anh... nhận em... làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.
Lòng trung thành dường như là điều cần thiết cho cuộc sống chung. Trong mọi tương quan, trong mọi bậc sống đều cần lòng trung thành, sự chung thủy với nhau. Bạn bè chơi với nhau cần trung thành để không phản bội nhau. Vợ chồng cần trung thành để không có lỗi với nhau. Thầy trò cần lòng trung thành để gắn bó mật thiết với nhau... Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Nhưng xem ra xã hội chạy theo lợi nhuận đã khiến con người khó giữ lời hứa trung thành. Vì lợi nhuận có người đã thay đổi công ty mỗi năm vài lần, cho dù đó là những ông chủ đã từng cưu mang họ lúc khó khăn. Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế! Rất khó kiếm được bạn tri kỷ như thế hệ cha anh. Họ chơi với nhau nhưng dễ dàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì công danh của họ. Ngày hôm nay càng khó kiếm những đứa học trò về thăm thầy cô sau khi công thành danh toại, đôi khi còn phản thầy, phản bạn và vu khống nhau...
Điều báo động là lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân hôm nay cũng đang bị phá hủy một cách đáng báo động. Ở những thành phố lớn như Sài Gòn người ta tính cứ 3 đôi kết hôn thì 1 đôi không trung thành với nhau trọn đời. Và theo thống kê tại nơi thử máu AND để xác định cha con ruột với nhau thì cứ 10 trường hợp thì có 3 trường hợp nuôi con hàng xóm...
Quả thực, lòng trung thành nói thì dễ nhưng giữ lại chẳng dễ chút nào. Ngay trong tôn giáo có mấy người thực sự giữ lòng trung thành với Thiên Chúa? Ở Việt Nam vào thập niên 1980-1990 của thế kỷ trước rất nhiều người đã ghi vào lý lịch bản thân là không tôn giáo để tìm kiếm công danh cho dễ. Ở đâu đó ta vẫn thấy người Công Giáo nhưng không trung thành giữ luật Chúa, họ vẫn tham ô, lừa gạt, sống thiếu yêu thương...
Lời Chúa hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ môi miệng của Simon Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời ". Nhưng Phê-rô thực sự đã không giữ lời hứa. Ông đã ngã đi ngã lại tới 3 lần và cuối cùng bỏ chạy biệt tăm trên đường thập giá mà Chúa phải đi một mình!
Cuộc đời mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống Simon Phêrô xưa. Nói yêu Chúa thì dễ nhưng khi phải làm chứng thì lại chạy xa. Đi lễ thì đông nhưng giữ trọn luật Chúa còn mấy ai? Ngày nay không còn có những cuộc bách hại đạo tàn khốc nhưng cuộc cạnh tranh cơm áo gạo tiền đã khiến bao người đánh mất lòng trung thành với Thiên Chúa. Và lòng trung thành với nhau của vợ chồng, của bạn bè , của đối tác làm ăn càng khó giữ vì lợi nhuận mà người ta dễ dàng phản bội nhau.
Chúa Giêsu hôm nay nói với các môn đệ và cũng là chúng ta muốn trung thành với Chúa và với nhau không thể dựa vào bản thân mà hãy dựa vào chính Chúa. Chính ơn ban của Chúa Cha mới giúp chúng ta sống trung thành với lời hứa. Thế nên, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy với ơn Chúa. Hãy gia tăng cầu nguyện, hãy phó thác vào Chúa để Ngài nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta và hoàn thiện chúng ta nên tốt hơn.
Xin ơn Chúa giúp chúng ta giữ lòng trung thành với Chúa và với nhau. Nhất là luôn nhận ra Chúa mới là nguồn sống trường sinh để biết chọn Chúa hơn là của cải trần gian mau qua. Amen.
16. Trung thành hay phản bội
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Người ta vẫn thường nói, trên đời này không có gì ghê tởm và đáng cho chúng ta khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Trò phản thầy. Con cái phản bội công ơn cha mẹ, nhất là vợ chồng phản bội nhau trong nghĩa tình phu thê,.. tất cả đều đáng bị nguyền rủa và coi khinh. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, đặc biệt trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta cũng có nguy cơ dễ rơi vào sự bội phản này. Lời tuyên tín của thánh Phêrô trong trình thuật tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải luôn canh tân lòng trung thành và bền bỉ theo Chúa Giêsu từng ngày: “ Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68)
Nghịch lý của Lời
Sau khi Đức Giêsu tuyên bố: “ Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ dị ứng và ngán ngẩm bỏ đi. Có lẽ họ đã theo Chúa một thời gian khá lâu với những động cơ khác nhau, nhưng cuối cùng hầu hết đã thoái lui và đầu hàng vô điều kiện. “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(c.60). Họ bỏ của chạy lấy người, vì không thể chấp nhận nghịch lý theo suy luận tự nhiên nơi đầu óc của họ. Lời Đức Giêsu tuyên bố làm sụp đổ hoàn toàn những toan tính trần thế mà họ vẫn đeo bám khi đến với Đức Giêsu. Quả thật, Đức Giêsu vẫn luôn là một mầu nhiệm ẩn kín và khó hiểu. Mầu nhiệm về Ngài và những lời Ngài nói luôn hàm ngậm một nghịch lý, và cao điểm của nghịch lý này là cái chết trên Thập giá. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ trở thành thủ lãnh chính trị, khai lập một vương quốc mới đầy oai phong, lại bị kết án như một tên tội phạm, và bị treo thân cách nhục nhã giống hệt một tên cướp đáng sợ. Một số môn đệ bỏ đi cũng dễ hiểu. Lời Đức Giêsu nói ra nghe thật chói tai và nhức nhối. Giả như chúng ta ở vào hoàn cảnh đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ hành xử giống như họ. Khi tuyên bố như thế, ông Giêsu đúng là một con người điên điên khùng khùng chẳng giống ai. Ngay cả các thân nhân đồng hương với Chúa cũng đã có lần phải lắc đầu và ngao ngán thốt lên “Ông ấy đã mất trí rồi” ( Mc 3,21).
Nhưng nếu tìm hiểu căn nguyên một cách sâu xa hơn, một số môn đệ bỏ đi, bởi vì họ đã chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu. Họ chỉ nghe Chúa nói bên ngoài, nhưng bên trong, tâm hồn họ vẫn hoàn toàn đóng khép. Con tim họ chưa mở toang ra để lời Chúa có thể thẩm thấu vào sâu tận nơi con người họ. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “ Chúng con phải siêng năng lắng nghe lời Chúa, nhưng không phải nghe với đôi tai của thân xác mà với đôi tai của cõi lòng”.
Tự bản chất, Đức Giêsu chính là Lời hằng sống được hiến trao cho nhân loại. “ Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa không phải là một hệ thống những triết ngôn, hay những tư tưởng khuyến thiện để răn đời. Lời Chúa ở trên một mức độ khác cao cả hơn rất nhiều, bởi vì Lời Chúa và duy nhất chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đây là lời tuyên tín của Thánh Phêrô, được khởi hứng bởi Thần khí, đồng thời cũng là một mặc khải sâu xa Thiên Chúa ngỏ trao. Những kiến thức khoa học, chúng ta có thể nghiên cứu để sở đắc. Những chân lý triết học, chúng ta có thể dùng lý luận để suy tư. Nhưng lời Chúa không phải là một mớ kiến thức để nhồi nhét, nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi đầu óc con người. Muốn đón nhận lời của Chúa để được sống luôn mãi, thái độ căn bản cần phải có chính là “tin” vào Ngài. Trong diễn từ về bánh nơi chương 6 trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu nói khá nhiều về thái độ căn bản này: “Ai tin vào tôi sẽ được sống muôn đời”. Lời khuyến mời của Đức Giêsu cũng tương thích với lời tuyên tín của thánh Phêrô. “ Chỉ Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Ăn thịt và uống máu Chúa, cũng như mở lòng đón nhận nhận Lời của Thiên Chúa sẽ được trường sinh. Đây là hai cách thái giống hệt nhau biểu tỏ một thực tại duy nhất: Tin vào Đức Giêsu.
Canh tân lòng trung thành
Lời của Chúa là nghịch lý luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng”. Ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi.... là những cặp phàm trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu. Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong. Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “ Những người có đức tin vững mạnh phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy). Điều này ai cũng biết trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật, thì đó chính là một sự phản bội. Khi chúng ta chủ trương sống an nhàn với những tiện nghi vật chất để thỏa mãn nhu cầu thể xác theo kiểu sống hưởng thụ, đó cũng là một sự phản bội. Đặc biệt, khi chúng ta mất dần cảm thức linh thánh, không còn thiết tha đến việc cầu nguyện và rơi vào nếp sống tục hóa, thì chắc chắn đó cũng chính là con đường phản bội mà chúng ta đang từ từ đi vào. Chúng ta phải can đảm đạp đổ những “con bò vàng” giống như con bò vàng của những người Do thái năm xưa trong sa mạc Sinai, để từng giờ từng phút, chúng ta luôn lặp lại quyết tâm sống trung thành.
Nguy cơ phản bội
Một đứa bé 12 tuổi ngồi tham dự phiên tòa xét xử vụ án ly dị của bố mẹ, đã viết lại những dòng tâm sự đầy nước mắt sau đây:
“Con nhớ mãi buổi chiều thu ấy, lá rơi nhiều. Bên ngoài trời mưa tầm tã. Bố đến hôn con, một nụ hôn cay đắng và nghiệt ngã. Tâm hồn con tan nát và chết lặng.
Bố ơi, sao bố dùng cái hôn ấy để xé nát gia đình chúng ta. Sao bố dùng nụ hôn giả dối ấy để trao cho con thay vì hôn trên đôi môi của mẹ. Chữ ký ngày xưa trên bàn thờ Chúa ngày bố mẹ thành hôn nay trở thành những nét chữ không hồn.
Mẹ ơi, sao mẹ không đến nhận nụ hôn thay cho con, nụ hôn ngày xưa mẹ đã hạnh phúc lãnh nhận trước bàn thờ Chúa. Sao mẹ vẫn lạnh lùng đứng đó như một kẻ xa lạ nhìn bố hôn con, một nụ hôn như mũi dao nhọn đâm nát trái tim bé bỏng nơi con.
Bố ơi, mẹ ơi, con phải trung thành với ai đây khi con sẽ đứng nhìn những nụ hôn bố trao cho mẹ ghẻ, mẹ sẽ trao cho một người đàn ông khác hoàn toàn xa lạ.
Chúa ơi, con còn quá nhỏ bé, sao Chúa để con phải nhận những nụ hôn Giuđa này?”
Đúng vậy, trên đời này không có gì đáng chúng ta ghê tởm cho bằng sự phản bội.
Nhưng, những nụ hôn Giuđa hình như vẫn đang được lặp lại trong cuộc sống mỗi người chúng ta, qua nhiều dạng thức khác nhau, đặc biệt trong đời sống đức tin, nhất là trong đời sống thánh hiến.
Kết luận
Cha Matthêu King, một linh mục dòng Salêdiêng DonBosco đã qua đời cách đây hơn 7 năm. Ngài được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời sang Rôma để làm cố vấn đặc biệt cho giáo triều về những vấn đề của Trung quốc. Trong những năm tháng cuối đời nằm trên giường bệnh quặn đau với căn bệnh ung thư, Ngài vẫn thường nói: “ Tôi luôn cám ơn Chúa về ba hồng ân Chúa đã ban cho tôi. Trước hết, tôi được biết Chúa và trở nên môn đệ Đức Giêsu ngày tôi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Thứ đến, Chúa đã chọn tôi trong ơn gọi Salêdiêng và trở nên một linh mục phục vụ Giáo hội. Cuối cùng, Chúa đã gửi đến cho tôi căn bệnh đau đớn này để tôi được thông dự vào những khổ đau với Chúa Giêsu trên Thánh giá. Tôi luôn cảm tạ Chúa vì ba ân huệ quý giá này”. Ngài cũng luôn nói với những ai đến thăm Ngài: “Xin anh em cầu nguyện cho tôi, để tôi được mãi trung thành”.
Đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Chúng ta còn phải chiến đấu mãi, phải luôn bươn chải mãi, để với ơn Chúa, chúng ta có thể trung thành đến cùng.
17. Bỏ Thầy, Con Sẽ Theo Ai?
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?
Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.
Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)? Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.
Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai..., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?
Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60) trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).
Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.
Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh Thể:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con
khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa
Và xin cho con giữ vững lời Chúa.
Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai
mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.
18. Lạy Thầy, chỉ Thầy mới có Lời Hằng Sống - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử ca tụng Hội nghị Diên Hồng thời vua Trần nhân Tông. Vua đặt ra trước mắt toàn thể bô lão, khanh tướng và dân chúng một sự lựa chọn quyết liệt: Nên hòa hay chiến? Toàn dân hô: Chiến, chiến, chiến. Nhờ đó đã tạo được một sự đoàn kết có một sức mạnh phi thường, đã đánh bại quân Mông Cổ hùng mạnh đã từng bách chiến bách thắng chiếm cả Châu Á và một nửa Châu Âu, thống trị nước Tầu vĩ đại, còn muốn xơi ngon nước Việt nhỏ bé.
Cách đây gần ba ngàn năm, Giosuê đã bảo toàn dân phải dứt khoát chọn lựa: Hôm nay các ngươi hãy chọn hoặc thờ các thần, hoặc thờ Thiên Chúa. Còn tôi và gia đình, chúng tôi chọn thờ Thiên Chúa. Toàn dân thưa: Không đời nào chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần khác. Vì Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi khỏi nô lệ Ai cập, chính Người đã thực hiện trước mắt chúng tôi những dấu lạ vĩ đại, gìn giữ chúng tôi trên khắp nẻo đường.
Vinh phúc cho dân Do thái thời Giosuê và cho dân Việt thời vua Trần nhân Tông đã biết chọn lựa đúng, nên đã cứu cả dân tộc thoát khỏi nô lệ và khỏi chết nhục nhã.
Đức Giêsu từ trời xuống thế, đã ban phát một của ăn nuôi sống đời đời. Phúc cho ai biết chọn lấy lương thực trường sinh ấy, họ sẽ được sống vinh phúc đời đời.
Để người ta chọn đúng, Đức Giêsu đã phân biệt cho họ biết đâu là của ăn hư nát, đâu là của ăn hằng sống. Người Do thái chỉ biết có hai loại của ăn: một là loại của ăn hằng ngày, hai là loại của ăn lạ thường. Của ăn thường ngày là do hoa mầu ruộng đất và lao công loài người gieo trồng, chăm bón, chăn nuôi để nuôi sống thể xác. Để có của ăn này, con người phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, tận tâm, tận lực làm việc cực khổ hơn muôn loài mới có của ăn. Nhưng dù có ăn bao nhiêu vẫn còn đói. Họ rất sợ đói. Cái đói đã giết chết hàng triệu người trên thế giới này, mặc dầu Thiên Chúa quan phòng đã dựng nên một vũ trụ phong phú cho loài người. Nếu họ biết khai thác, phát triển và chia sẻ cho nhau, thì chắc chắn chẳng ai bị chết đói. Chiến tranh thế giới thứ hai, người ta đã đổ hàng triệu tấn lương thực xuống biển, trong khi đó có hàng triệu người chết đói. Ở Việt Nam cũng có gần triệu người miền Bắc chết đói, lúc đó ở miền Nam, Phát xít Nhật đốt cháy hàng ngàn tấn lúa gạo.
Của ăn lạ thường do Thiên Chúa làm phép lạ như man-na hay bánh hóa nhiều trong những trường hợp đặc biệt. Bánh man-na đã được Thiên Chúa ban cho tổ tiên Do thái xưa đã biết nghe lời Chúa, từ bỏ Ai Cập, vượt qua sa mạc, trở về Đất Hứa để tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng ban bánh hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn, vì họ đã sẵn sàng chịu đói để kiên trì theo Chúa đến nơi hoang vắng nhiều ngày.
Người Do thái đã kêu xin Chúa ban cho họ hai thứ của ăn đó, để họ không còn đói, và khỏi phải khổ cực làm ăn. Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho họ thấy: Đó là của ăn hay hư nát. Họ ăn bao nhiêu vẫn còn đói và còn chết, như cha ông họ đã ăn man-na và đã chết.
Đức Giêsu muốn ban cho họ thứ của ăn hằng sống: Đó là lời hằng sống và bánh hằng sống. Lời hằng sống là những giới răn giáo dục con người yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và xây dựng đời sống con người tồn tại vĩnh cửu như xây nhà trên đá. Muốn nên người, con cái cần cha mẹ dạy dỗ như thế nào, thì muốn trở nên con Thiên Chúa hằng sống, con người rất cần lời Chúa dạy dỗ như vậy.
Lời hằng sống là hạnh phúc trường sinh khi con người thực hiện được tám mối phúc thật. Lời hằng sống mặc khải cho ta thấy những mầu nhiệm Nước Trời vinh quang, như tiệc cưới hoàng tử, thấy Nước Trời phát triển mạnh mẽ như hạt cải nhỏ bé mọc lên thành cây lớn cho muôn chim trời trú ẩn, thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa như người cha hiền đón mừng đứa con phung phá, như mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, như người bạn thí mạng sống cho người mình yêu.
Lời hằng sống còn biểu lộ bằng hành động ban sự sống. Đức Giêsu chỉ phán một lời bão biển phải im lặng để cứu sống các môn đệ. Người chỉ phán một lời, hàng đoàn quỷ phải xuất ra khỏi con người và nhào xuống biển chết. Người chỉ phán một lời đem sự sống cho bao nhiêu bệnh nhân, tội nhân và kẻ chết.
Lời Người đã làm cho nước biến thành rượu, bánh hóa nhiều và nhất là bánh rượu trở nên Mình Máu Người để nuôi sống các linh hồn muôn thuở.
Tại sao lời Đức Giêsu có sức sống quyền năng vô cùng như thế? Người đã giải thích: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và Sự sống”. Lời Người bởi chính tim, óc, máu, thịt Người, bởi Ngôi Lời từ trời xuống. Lời hằng sống đó là tiếng hô hào vang dội dọn đường trực tiếp đón rước Người: “Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi, cũng như Tôi sống nhờ Cha Tôi là Đấng Hằng Sống... Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời … Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”.
Dù Đức Giêsu đã thương yêu họ, ban cho họ lời hằng sống và Bánh hằng sống, để làm của nuôi sống họ đời đời, nhưng người Do thái chưa có kinh nghiệm gì về Lời Hằng Sống và Bánh Hằng Sống. Họ chỉ biết có hai thứ bánh là của ăn hằng ngày và bánh như man-na và bánh hóa nhiều. Cho nên, ngay từ đầu Đức Giêsu đòi họ phải tin vào Người: “Việc của Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga. 6, 29). Vì thế bắt buộc con người phải lựa chọn, phải tỏ lập trường: tin theo Đức Giêsu hoặc không tin và bỏ đi.
“Cả anh em nữa, cũng muốn bỏ đi sao?”. Một câu hỏi dứt khoát quyết liệt, không phải thách đố, nhưng có mục đích làm sống lại sự cương quyết của bản thân mỗi người phải cam kết gắn bó với Đức Giêsu. Bởi bài giảng này mặc khải về phép Thánh Thể là một hồng ân đặc biệt của Đức Giêsu về bánh hằng sống: Bánh Thịt Máu Người từ trời xuống. Loài người không thể nào cứ sống theo lối sống vật chất hay hư nát, Đức Giêsu nhất quyết nâng con người lên tầm mức siêu việt theo lối sống con cái Thiên Chúa. Vì thế mỗi người phải tự quyết định lấy một là tin vào Đức Giêsu để được sống vinh phúc muôn đời, hai là bỏ đi sống theo lối xác thịt hư nát để phải chết đời đời.
Trước giờ phút long trọng cam kết và quyết liệt này nhiều người đã bỏ đi, Đức Giêsu nhìn sang nhóm mười hai hỏi: “Cả anh em nữa, cũng bỏ đi sao?”. Bầu khí thật ngột ngạt, nặng nề. Nhưng hạnh phúc thay cho Phêrô, ông đã đại diện cho anh em quả quyết đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có lời hằng sống. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Trước mỗi Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời hằng sống của Chúa, lời đó cũng hỏi mỗi người chúng ta: Cả anh chị em nữa, cũng muốn bỏ đi hay sao? Nhiều người đã bỏ đi, không muốn đi dâng lễ. Một số người đã đến nghe lời Chúa, nhưng có tin và sống thực thi lời Chúa, hay cũng như dân Do thái thấy chướng tai rồi bỏ đi?
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quyết tâm mau mắn đáp như thánh Phêrô, và bước lên cung thánh đón rước bánh hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
19. Bỏ Thầy con biết theo ai? – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
****
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?". (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
****
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen.
20. Trung thành đi theo Chúa
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Ga 6: 60-69: Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường,quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui, sắc dục, danh vọng, quyền lực…
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan rút súng ra dí vào đầu linh mục: Nếu ông không chịu nói là ông không tin gì cả, tôi sẽ nổ súng.
Tưởng chừng như trước cái chết, con người sẽ phải khuất phục mọi sự. Nhưng không, linh mục vẫn thanh thản trả lời: Tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tôi tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân vào Đất Hứa, những năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsuê đã triệu tập đại hội ở Sikem để yêu cầu họ xác định lập trường. Và thật là cảm động, không phải chỉ có gia đình ông Giôsuê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: "Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác".
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời". Nhưng họ cho rằng "lời này chói tai quá, ai mà nghe được". Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn đi theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với Nhóm Mười Hai: "Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Nhưng Phêrô đã đại diện các tông đồ xác định sự chọn lựa của mình: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh".
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề nghiêm trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nổi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì "lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?" Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay cũng đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường,quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui, sắc dục, danh vọng, quyền lực… Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: "Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho". Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh". Quả thực, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diệu Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để "trung thành với tình yêu ban đầu" (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
21. Mầu nhiệm Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
I. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu
“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.
Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.
II. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải
Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.
Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?
Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.
III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?
Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.
Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.
22. Chọn lựa đi theo Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.
Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống"
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian.
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao.
Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b)
Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Ðất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Ðất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát: Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.
2. Ðáp ca (Tv 33)
Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Ðất Hứa.
3. Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69)
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:
Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: "Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa".
Ðức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"
4. Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ)
Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng: (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Ðức Kitô; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Sống là chọn lựa
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống". Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằng co: khi ấy người ta đi theo Ðức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Ðức Giêsu đột ngột chuyển hướng: Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân: họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Ðức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình "Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?" Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Ðời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn: Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế:
Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: ta phải chọn hoặc là lòng tham hay là đức công bình.
Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.
Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.
Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: "Bỏ Ngài con biết theo ai?
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió
"Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi".
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
"Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu?"
Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.
"Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
"Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh".
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.
Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.
Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.
* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?". (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
*******
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. Ðức tin "nghĩa địa"
Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin "nghĩa địa".
Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.
Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.
Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin "nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng?
Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!
Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.
Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Ðức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa "và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và "không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (c.3). Và "Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (c.14).
Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần." (cc.32-33).
Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận!
Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Ðức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Ðức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Ðức Giêsu. Ðiều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: "Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa." (Ga 1,10-12).
Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Ðức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại", các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.
Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả! (Mc 9,34).
Ðức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình.
Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người!
Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Ðức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).
Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Ðức Giêsu tại Caphácnaum. Ðức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Ðức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (c.35). Ðó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).
Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Ðức Giêsu tuyên bố "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Thịt nói đây là "sarx" trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Ðức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Ðức Giêsu lại còn nói: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (cc.53-56)
Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Ðức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (c.60). Nhưng Ðức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Ðấng từ Thiên Chúa mà đến: "Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (cc.62-63). Ðáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.
Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Ðức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Ðức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa" (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Ðức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, "vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, sau khi Ðức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng:
1. Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
2. Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người.
3. Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người.
4. Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Ðấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu đã dạy "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời". Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.
VII. Giải tán
Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.
23. Tin hay không là đón nhận hay từ chối
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 6: 60-69: Khi nghe Chúa Giêsu giảng bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ đã khó chịu vì cho rằng: "Những lời này chói tai quá! Ai nghe được". Chói tai không phải vì khó hiểu mà vì khó nuốt, khó chấp nhận được...
Bài giảng về Bánh Hằng Sống đưa tới kết luận đòi người ta phải tin hay không tin, chấp nhận hay từ chối. Và cũng đưa tới cao điểm của một cuộc khủng hoảng, từ đó phát sinh cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Không chỉ là một sự chống đối chóng qua, nhưng là cả một số đông người từ chối đi theo Chúa, một sự từ chối quyết liệt của những người không tin, sự phản bội của Giuđa và những âm mưu chống lại Chúa.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Ga 6,61-70
1. Nghi vấn của niềm tin: Khi nghe Chúa Giêsu giảng bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ đã khó chịu vì cho rằng: "Những lời này chói tai quá! Ai nghe được". Chói tai không phải vì khó hiểu mà vì khó nuốt, khó chấp nhận được. Đấy là não trạng của những người không tin, không thể nào chấp nhận Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống. Họ không tin, thấy chói tai vì họ không hiểu lời Chúa trong Thần Khí, họ dùng trí khôn loài người, những quan niệm trần thế và tập tục của cha ông để xét đoán lời Chúa. Kết cục là từ chối sứ điệp lời Chúa, từ chối chính Người.
2. Cuộc khủng hoảng niềm tin: Vì không thể nào hiểu được lời Chúa bởi sự cứng lòng của mình, nên kết cục hiển nhiên đã dẫn tới việc nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa. Đây quả là một cuộc khủng hoảng niềm tin, cũng như sự kiện Chúa Giêsu bị từ khước tại chính Nagiarét, quê hương của Người. Dầu vậy, Chúa Giêsu vẫn kiên định với chân lý mình mạc khải. Người biết ai tin, ai không tin. Trước con mắt người đời xem ra: Chúa Giêsu như bị thất bại. Chúa Giêsu không nhượng bộ, Người đòi hỏi mạnh mẽ và dứt khoát. Người sẵn sàng đau lòng nhìn cảnh các môn đệ bỏ đi. Đối với Người trung tín với Chúa Cha, kiên định theo đuờng lối của Chúa Cha là trên hết, cho dù có phải bị phản bội, bị bỏ rơi và bị giết chết.
3. "Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?" Trước sự từ chối bỏ đi của một số đông các môn đệ, Chúa Giêsu đã hỏi Nhóm Mười hai. Chắc chắn không phải Chúa hỏi để gỡ lại sĩ diện cho mình. Người đặt một câu hỏi để các ông xác định lập trường của mình. Phêrô đã đại diện anh em của mình để trả lời Chúa, để nói lên chọn lựa của mình: "Lạy Thầy!, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Các ông đã xác định 'đi' theo Chúa ngược lại với những người bỏ Chúa. Nhóm Mười hai đã quyết định dấn thân theo Thầy Chí Thánh của mình. Vì các ông đã tin và đã nhận ra: Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống. Bỏ Thầy rồi thì đi với ai để có được sự sống đây. Từ đó, các ông còn tiến xa hơn nữa trên hành trình niềm tin của mình, không chỉ có những lời ban sự sống, mà Thầy của mình còn là: "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Đấy mới là cốt lõi của niềm tin. Phải tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa mới có thể hiểu nổi Người là Bánh ban sự sống như thế nào, mới có thể hiểu và đón nhận Mình Máu Người làm của ăn, của uống mang lại sự sống đời đời.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Dầu bị nhiều môn đệ cảm thấy chói tai trước lời giảng của mình, từ chối bỏ đi, Chúa Giêsu vẫn kiên định trong đường lối của Chúa Cha, Người không nhân nhượng, không nhượng bộ, không thỏa hiệp. Sau này cho dù bị bắt bớ, đánh đập và bị giết, Chúa Giêsu vẫn một lòng trung thành theo thánh ý Chúa Cha. Đó chính là phẩm chất của vị Thiên Sai, người tôi trung của Thiên Chúa. Người quả thực là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Chiêm ngắm Chúa Giêsu, Người Con luôn trung thành theo thánh ý Chúa Cha, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng quyết tâm sống trung thành với đức tin, quyết tâm thực thi thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Quyết định của đức tin: Kết thúc của bài giảng về Bánh Hằng Sống đưa người nghe đến một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin hay không tin vào Chúa Giêsu; theo hay không theo Người. Đây là một sự chọn lựa dứt khoát. Một số đông đã cảm thấy chói tai trước những gì Người giảng và đã bỏ đi. Nhưng vẫn còn có nhiều người tin và đi theo Người như Nhóm Mười hai. Phêrô đã đại diện cho những người tin theo Người xác tín: "Bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống. Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Ông đã có một chọn lựa dứt khoát, mạnh mẽ dựa vào chính niềm tin của mình. Những người từ chối là vì họ không biết, không tin Giêsu Nagiarét trước mặt họ là Con Thiên Chúa, là Đấng đến để lấy máu thịt mình làm lương thực ban sự sống đời đời cho họ.
2. Tin mừng cũng đặt ra cho Kitô hữu một sự chọn lựa dứt khoát: Tin hay không tin, đón nhận hay từ chối? Đây là một quyết định của niềm tin, không thể chỉ dựa trên cảm tính hay dựa trên một lý luận con người để có thể quyết định cách chính xác. Cần phải có tinh thần yêu mến, khiêm tốn và cầu nguyện mới có thể đi đến quyết định theo Chúa rõ ràng, mạnh mẽ và dứt khoát. Còn không sẽ chỉ là thái độ theo Chúa nửa vời, vô tín và từ chối hoàn toàn.
3. Tin theo Chúa Giêsu, Đấng có lời ban sự sống: Trọng tâm của bài giảng về Bánh Hằng Sống là mạc khải: Chúa Giêsu Đấng ban sự sống, Người ban sự sống cho nhân loại bằng chính mình máu Người được hiến dâng làm của ăn, của uống. Thịt máu của Người là chính Người. Đón nhận máu thịt Người là đón nhận Người trọn vẹn cả nhân tính lẫn thiên tính. Do đó, lời khẳng định của Phêrô: "Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" là lời đã cách nào đó hiểu được sứ điệp Chúa Giêsu loan báo. Ông không tuyên xưng cách ngẫu hứng hay để làm vui lòng Thầy mình trước một số anh em từ chối bỏ đi. Ông tuyên xưng vì ông hiểu và ông yêu mến đón nhận sứ điệp của Chúa. Một sứ điệp mang lại cho ông và các Tông đồ cũng như những ai tin sức sống mới, sức sống mang lại niềm hy vọng, mang lại lòng can đảm dấn thân.
Cùng đích của cuộc đời theo Chúa Giêsu chính là ơn cứu độ. là nên thánh, nghĩa là được sống sự sống đời đời của Thiên Chúa. Sự sống ấy Thiên Chúa đã và đang quảng đại trao ban cho nhân loại nơi Người Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Tin và theo Chúa Giêsu Kitô bằng nỗ lực sống thực thi lời Người, chính là con đường đi tới sự sống của Thiên Chúa.
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta tin theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng có lời ban sự sống đời đời. Trong niềm tin tưởng chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Hội thánh ngày nay đang tiếp nối sứ mạng loan báo cho con người và thế giới biết: Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn trung kiên với đức tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô.
2. Ngày nay, biết bao nhiêu trào lưu tư tưởng, lối sống vô tín, hưởng thụ vật chất đang làm cho nhiều người trở nên khô khan nguội lạnh; nhiều người không còn khao khát đi tìm chân lý, tìm Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em ấy tìm được ý nghĩa cuộc đời đúng đắn nhờ đời sống lương tâm công chính và nhờ gặp được nhiều gương sáng dấn thân trong cuộc sống.
3. "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?" Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có được một đức tin vững vàng để can đảm, dứt khoát chọn theo Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Đấng ban sự sống đời đời. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương hiến ban chính mình làm lương thực mang lại sự sống vĩnh cửu cho chúng con. Xin cho chúng con khi đón nhận Mình Máu Thánh Chúa, biết làm cho sự sống của Chúa phát triển nơi cuộc đời chúng con bằng nỗ lực thực thi lời Chúa, dấn thân yêu thương, hy sinh phục vụ mọi người với tất cả đức tin vững vàng. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
24. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Ga 6: 60-69: Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh?...
Trong cuộc đời, ai cũng có những thử thách của riêng mình. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Chúa Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”, khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay.
Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”.
Chúa Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, “nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
25. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỨC TIN
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Giai thoại này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần học của Gioan?
2. Câu 62 ám chỉ cái gì bí mật?
3. Nếu "xác thịt không ích gì”, thì xác thịt của Con Người mà ta phải ăn để được sự sống vĩnh cửu có ích gì không? Phải chăng có mâu thuẫn?
1. Diễn từ về Bánh sự sống là nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng sứ vụ tại Galilê.
Các Tin Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).
Gioan đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt, của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ về "Giờ"nhưng chương ở giữa 7-12. chỉ đề cập đến những giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50). Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người, đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái, đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu chẳng cần phải nghe những gì người Do thái và các môn đồ giả nói mới biết (x. 5,6) họ không đồng ý với Người. Phải chăng việc ám chỉ đến cái chết của Người và đến ý nghĩa cứu chuộc của cái chết ấy làm cho họ vấp phạm?
Đúng! Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại, đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu. Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc "từ trời xuống" cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan. Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người (1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy: giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.
Một vài nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác bằng cách xem mấy chữ "Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước" như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille, Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải thích này ít xác đáng vì hai lý do:
1/ Động từ amabainein "lên" không bao giờ tương đương với động từ hupsôthênai "giương cao" trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)
2/ Việc gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.
Ý kiến này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó khăn.
3. “Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (c 63)
Phải chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon, một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.
Người ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: "Xác thịt không ích gì" có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu rỗi nào nếu không có "thần khí tác sinh"; điều này giả thiết sự sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c 54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a Người bảo: "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống''. Câu này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra. hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.
Thật ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn không bàn tới sự đối nghịch giữa "Thịt Ta -Thần Khí", nhưng tới sự đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí - xác thịt là ngày nay ta đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại còn phi lý hơn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Nhiều môn đồ nói..."
Tiếng Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều' hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng rõ là số "môn đồ'' ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu, ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là "quỷ sứ" (6,70).
"Lời chi mà sống sượng thế"
Không phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.
"Vì chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai"
Không chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.
"Từ đó"
Thành ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.
"Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời"
Nói cho đúng, phải dịch câu này như sau: "Ngài có nhiều lời ban sự sống đời đời" (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào chữa được.
KẾT LUẬN
Các lập trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ là hai đại lễ của dân "được tập họp" của Thiên Chúa (Ga 7-10).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phần kết luận của diễn từ về bánh sự sống dẫn đưa chúng ta tới cao điểm của cơn khủng hoảng từ đó phát sinh cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã hỏi một số lời bắt người ta phải chọn lựa: hoặc tin vào Người, hoặc từ chối không tin.
2. Sở dĩ một số môn đồ kêu ca khó chịu và từ chối tin, là vì họ có một cách thức hiểu lời Chúa Giêsu. Hoặc họ từ chối, hoặc đối với một vài kẻ, chưa đến giờ tin, tất cả là vì họ không hiểu lời Chúa Giêsu trong Thần khí. Họ chẳng chịu vượt qua sự hiểu biết vật chất và xác thịt về những lời của Người. Tại sao vậy? Vì tâm hồn họ không ở trong tình trạng đón tiếp. Tâm trí họ đóng kín trước điều mới mẻ. Họ giam mình trong thế giới vật chất mà họ coi là dễ chấp nhận hơn. Điều Chúa Giêsu nói không thể nào có được xét theo con người, thành thử họ loại bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm trong câu hỏi: Điều gì không thể được đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, chỉ muốn phê phán điều có thể và không có thể; họ chẳng có ý định đi tìm quan điểm mà từ đó một số tâm hồn đơn sơ tự nhiên thấy được lối vào trong cái vô biên của thực tại, thực tại Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước một trường hợp điển hình của sự tự mãn ngoan cố và hẹp hòi của trí tuệ con người chỉ muốn phủ nhận cái bên kia những chân trời của nó. Các sứ đồ dã có được phản xạ cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thần khí trợ giúp, họ đã vượt thắng được sự khó hiểu bằng cách trung thành với Chúa Giêsu chỉ Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa".
3. "Nhưng trong các ngươi, có những kẻ không tin". Hãy tự vấn xem câu này có liên can đến chúng ta, là những tín hữu của thế kỷ XX không? Việc đọc và nghe lời Chúa Giêsu làm chúng ta đặt lại vấn đề. Chúng ta có cho những lời ấy là quan trọng, có thực sự muốn lao công vì "lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời" (6,27), có muốn tiếp nhận lương thực ấy bằng cách ăn uống Thịt Máu của con Người và thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Người không? Nếu không, chúng ta hãy thành thật thú nhận: "Lời chi mà sống sượng thế ”. Ai nghe được (c 60) và hãy rút ra những hậu quả. Chúng ta đừng hy vọng đánh tráo: "Bởi chưng ngay từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Người. Và Người nói: Vì thế Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta trừ phi là đã được Cha ban cho". Lúc chúng ta quyết định, thì Chúa Giêsu nhắc lại rằng rốt cuộc đức tin của chúng ta không thể căn cứ vào những nhận xét, những suy diễn hoặc những cảnh tượng chủ quan, những căn cứ vào mặc khải mà Thiên Chúa ban cho chúng ta về nhân cách đích thực của Chúa Giêsu và về tương quan giữa ta với Người.
4. Thánh Thể là bí tích và là chiến thắng của sự bé nhỏ Tin Mừng: trong Thánh Thể chúng ta là con và lại được trở thành con cái Thiên Chúa. Vì để tin rằng Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình bánh, thì phải có một tâm hồn của trẻ nhỏ, cởi mở đón nhận những điều diệu kỳ của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại câu nói rất mạnh của thánh Tôma: "Chúng ta luôn luôn như là đứa bé trong lòng mẹ trên trần gian này". Chúng ta đang ở vào thời gian con nhộng. Trong thế giới bên kia, con bướm sẽ ra khỏi bóng tối của nó và sẽ triển nở trong ánh sáng chan hòa.
26. Lòng trung thành – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
27. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin mừng Ga 6: 60-69: Chúa Giêsu cũng chấp nhận sự thật phủ phàng ấy, Người liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Chúa Giêsu không muốn kéo số đông về mình vì chân lý không thuộc về số đông...
Suy niệm
Rất thường trong cuộc sống, chúng ta nghe người ta quan niệm rằng “Đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Thưa như thế là đang nói về phương diện đời sống luân lý của đạo. Việc “đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành” là hệ quả của của lòng tin. Đó là phương tiện để nâng con người lên. Nhưng để có thể ý thức ăn ngay ở lành thì điều quan trọng là cần có phương diện tâm linh, có tin thì mới sống được.
Cốt lõi của niềm tin Kitô giáo dạy về một Thiên Chúa yêu thương trao ban tất cả cho con người, thậm chí cả mạng sống mình. Nhưng cũng chính điều ấy lại trở nên nguyên cớ cho người ta tỏ vẻ khó chịu: “Lời này chói tai quá, ai mà tin được”. Điều này đã khiến một số người quay lưng lại với Chúa.
Và Chúa Giêsu cũng chấp nhận sự thật phủ phàng ấy, Người liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Chúa Giêsu không muốn kéo số đông về mình vì chân lý không thuộc về số đông. Người không muốn dùng quyền lực và vị thế mình để ảnh hưởng trên sự chọn lựa của người khác. Người để cho từng người tự chất vấn lương tâm mình, để sự chọn lựa riêng theo tự do mới là sự lựa chọn trưởng thành. Và Phêrô đại diện nhóm Mười Hai thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Vâng, sẽ có lúc trong cuộc sống, ở những ngã rẽ, chúng ta phải thực hiện cho mình những chọn lựa. Lựa chọn ấy quyết định hướng đi, hành động và lối sống của mình. Và sự chọn lựa đẹp nhất, đáng trân trọng nhất lại chính là sự chọn lựa trong những giờ phút cực kỳ khó khăn, tăm tối và gian khổ. Cũng vậy, trong khi người này người kia bỏ Chúa, quay lưng lại với Chúa, trong khi niềm tin của các môn đệ đang bị thử thách mà các ngài vẫn chọn Thầy và tin rằng “Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa” thì chính sự lựa chọn này sẽ nâng đỡ niềm tin cho các môn đệ.
Ngạn ngữ có câu: “Người bạn chân thành nhất là người bạn bên cạnh trong lúc hoạn nạn của bạn mình”. Chính khi các môn đệ chọn Chúa làm bạn mình thì rồi trong những khó khăn, các ngài sẽ cảm nghiệm được sự đồng hành của Chúa. Việc chọn lựa ấy còn nói lên sự trưởng thành trong đức tin, nhờ đó các ngài mới có thể được nâng đỡ và vượt qua những lúc khó khăn nhất trong cuộc sống. Cũng chính sự lựa chọn quyết liệt ấy mới cho các ngài có đủ sức mạnh bước theo Thầy đến giây phút tàn hơi.
Gần đây, một số bài báo trên truyền thông đưa tin giật gân về việc Hoa Kỳ đang bị những tai tiếng khiến nhiều người tỏ ra thất vọng về Giáo hội. Dẫu vậy, cùng lúc ấy, cũng xuất hiện những dòng bình luận trên internet như sau: “Bạn nghĩ bạn muốn chạy trốn khỏi Giáo Hội. Bạn nghĩ bạn sẽ tìm được một nơi không còn giả hình, không tội lụy à? Tôi không chắc bạn sẽ tìm ra được một nơi như thế. Nhưng điều chắc chắn rằng bạn sẽ không tìm được ở đấy một vị Thiên Chúa khóc lóc, chảy máu và chịu chết, Đấng đã nhận lấy tội lỗi vào cõi lòng Người, nuốt nó trọn khối, để nó bừng bừng trong dạ cho đến khi cháy tàn mới thôi. Bạn chỉ tìm thấy một Thiên Chúa như thế trong Thánh Hội Công Giáo Rôma. Giáo hội không thối rữa đến tận trái tim vì Chúa Giêsu là trái tim nó”.
Vâng, chính khi chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa với lời tuyên xưng khẳng khái như Phêrô, vị Tông đồ Cả rằng “Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”, đức tin ấy giúp biện chứng cho việc Thiên Chúa có khả năng khơi lên ngọn lửa từ đống tro tàn, Ngài có khả năng biến sự dữ thành sự lành, biến cuộc khổ nạn với thập giá trên đồi Calvariô trở nên Thánh giá cứu đời. Và cũng bởi tin vào một Thiên Chúa duy nhất và quyền năng, chúng ta mới có được sự sống đời đời, sự sống Thiên Chúa trao ban cho con người, như thánh Irênê giáo phụ đã cho biết và được Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 460 trích lại: “Đây là lý do tại sao Ngôi Lời đã làm người, và Con Thiên Chúa đã trở thành Con Người: để con người, qua việc bước vào sự hiệp thông với Ngôi Lời và nhờ đó nhận được quyền làm con Thiên Chúa, có thể trở thành một người con của Thiên Chúa” (Adversus haereses, 3,19,1: PG 7,939; x. GLHTCG, 460).
Lạy Chúa, xin cho con cũng mạnh mẽ trong quyết định của mình khi trở nên một Kitô hữu, khi chọn Chúa làm cùng đích đời con, vì con tin rằng chỉ ở nơi Chúa, con mới có được sự sống đời đời. Amen.
28. Lời Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.
Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.
Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).
Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).
Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.
29. Vừa vừa thôi chứ! – Guy Morin.
Đó là tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa. Hồi nhỏ, khi chúng ta cãi lộn nhau dữ dội, cha mẹ chúng ta hết kiên nhẫn nổi và quát: “vừa vừa thôi chứ!”. Những lời như thể biểu lộ sự phản đối. Người ta cảm thấy bị tấn công bởi những điều thái quá nơi kẻ khác như nói năng, hoạt động, đòi hỏi quá mức. Đây là dấu hiệu cho hay đã tới cùng tận chịu đựng rồi, gần giống như phải chịu những tiếng ồn làm nức tai nhức óc. Trong Tin Mừng, các môn đệ nói một câu tương tự: “Lời này chướng tai quá!”. Các ông bực bội, bị tấn công bởi điều các ông xem như là thái quá trong lời lẽ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế.
Sau diễn từ về Bánh hằng sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài sẽ ban thịt Ngài làm của ăn, nhiều môn đệ thấy những lời này là không thể chịu nổi. Vì, vốn là con ông Giuse, mà Ngài tự xưng mình từ trời xuống. Điều này vượt quá mức chịu đựng. Các ông không dám la hét phản đối, nhưng các ông lẩm bẩm chống lại Ngài. Chúa Giêsu đã đẩy họ đến mức tận cùng của sự chịu đựng. Có một giới hạn cho những gì các ông có thể chấp nhận được.
Chúa Giêsu sẽ phản ứng thế nào? Ngài có giữ vững lập trường hay là Ngài sẽ tìm cách giảm nhẹ lời nói của mình khi bảo rằng người ta đã hiểu lầm Ngài? Câu trả lời của Ngài thật tế nhị: Ngài không rút lại những lời Ngài đã nói, nhưng Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài nhìn xa hơn và cho các ông thấy thái độ cần phải có. Ngài nói về việc Ngài lên trời: “Và nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài ở trước kia thì sao?”. Như thể Ngài muốn nói: “Khi các con nhìn thấy Ta lên Trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa”. Ngài yêu cầu các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. Sau đó, Chúa Giêsu gợi ý cho các ông về cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng vẻ bên ngoài và những tiêu chuẩn của loài người, nhưng theo Thần Khí, tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và sự sống”. Từ những dấu chỉ mà họ đã nhìn thấy: Phép lạ hóa bánh, việc đi trên mặt biển, Chúa Giêsu thúc giục các môn đệ tin lời Ngài cách vô điều kiện. Thật quá tầm mức các ông. Các ông quyết định không đi theo Ngài nữa.
Nhóm Mười Hai vô điều kiện.
“Các con cũng muốn bỏ đi nữa không?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên Nhóm Mười Hai hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi hỏi nơi các ông một quyết định của ý chí, một lời tuyên xưng ý định của các ông. Phêrô nhân danh những anh em khác trả lời một cách vô điều kiện, không đặt một giới hạn nào cho sự gắn bó của mình: “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”. Câu hỏi này là một sự khẳng định mạnh mẽ niềm thán phục của ông đối với Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự lựa chọn nào khác đáng giá cả. Chỉ mình Thầy mới mang lại cho cuộc đời chúng con một ý nghĩa mà thôi”.
Phêrô đưa ra những lý do của việc lựa chọn vô điều kiện này, đó là lời của Chúa Giêsu và căn tính của Ngài. Quả thật, nếu Nhóm Mười Hai gắn bó với Ngài, là vì Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Những môn đệ bỏ đi nhận thấy những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ những lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đối với Nhóm Mười Hai thì ngược hẳn lại. Hơn nữa, nhờ lắng nghe Chúa Giêsu các ông mới nhận ra được căn tính của Ngài, các ông đã nhận ra được Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa: “Về phần chúng con, chúng con tin và chúng con đã biết…”. Đức tin đi trước việc hiểu biết. Các ông tin để hiểu, trong lúc những người bỏ đi muốn hiểu trước đã, vì họ không tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hóa để thi hành một sứ vụ như các ngôn sứ ở Israel, trong lúc những người kia chỉ nhìn thấy nơi Ngài “Con ông Giuse mà chúng tôi biết cha mẹ” (c.42). Đức tin dẫn đưa Nhóm Mười Hai đến chỗ nhận ra ý định của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu.
Trở thành những kẻ vô điều kiện.
Cũng như các môn đệ, chúng ta có thể trải qua thử thách về đức tin. Cuộc sống sẽ mang đến cho ta những thử thách này: “Thất bại cá nhân, bệnh tật, bất công, vấn đề đói kém. Thiên Chúa làm gì vậy? Chúng ta không hiểu và chúng ta bị cám dỗ buông thả hết. Chúa Giêsu nhắc lại với chúng ta “Các con có muốn bỏ đi không?”. Lúc đó chúng ta được mời gọi trở thành những kẻ vô điều kiện của Chúa Giêsu, làm một bước nhảy vọt trong đức tin.
Thánh Thể tưởng niệm Chúa Giêsu trong tư cách là Đấng vô điều kiện của Chúa Cha: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Theo mức độ chúng ta tin vô điều kiện, Thánh Thể cũng tưởng niệm chúng ta nữa.
30. Chọn Chúa là gia nghiệp đời tôi
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?". Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài. Họ thưa với Giôsuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi". Đó là một sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê.
Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng "lời gì mà nghe chói tai quá" và họ quyết định không đi theo.
Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Đó là sự chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời", khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa, chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên, đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.
31. Chúa Nhật 21 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.
Trong thời gian gần đây, nếu anh chị em có dịp đi đến Châu đốc để vía bà, hay đi Cà Mau viếng mộ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Quang cảnh của những nơi đó hết sức tưng bừng náo nhiệt, người tới lui tấp nập. Đi vòng quanh, có nhiều bia tạ ơn, bông hoa, nhan, đèn không bao giờ ngớt. Nhìn lại thì thấy đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi thành phần, đủ mọi tôn giáo. Họ đến đây vì nhu cầu riêng tư của cuộc sống: kẻ đã được đáp ứng, đến để tạ ơn, kẻ khác thì đến van xin. Nhìn lại, tất cả đều vì mối lợi riêng tư cho bản thân, vì cuộc sống riêng của mình.
Tôi suy nghĩ: nếu một người nào đã đi đến đó hai, ba lần mà nhu cầu của họ không được đáp ứng, thử hỏi họ có còn can đảm để đến thăm viếng và cầu xin nữa không. Tất cả chỉ vì nhu cầu của cuộc sống, vì quyền lợi riêng tư. Một khi quyền lợi bị đụng chạm, hay nhu cầu không còn cần thiết nữa thì chắc là họ sẽ không đến đó nữa.
Những người Do Thái, đi theo Chúa Giêsu vì Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ. Ngài cho họ ăn, giảng dạy, nói những lời mới lạ họ thích nghe. Nhưng khi Ngài nói những lời không hợp ý họ, họ liền chống đối và rời xa Ngài. Kể cả những người thân tín, những kẻ được gọi là môn đệ cũng bỏ Ngài. Còn lại nhóm 12, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn và hỏi:" Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?"
"Lạy Thầy, chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Phêrô đại diện cho cả nhóm nói lên như thế. Ông nhìn thấy được sự sống thật trong vị Thầy mà ông đang theo, ông nhìn thấy được sự cần thiết khi có Thầy bên cạnh. Chính vì thế các ông đã theo Thầy cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, các ông đã đạt được sự sống đời đời.
"Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?"
Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế. Không phải chỉ một lần, nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nghe thấy gì đâu để mà trả lời cho Ngài, vì chúng ta đã bỏ đi trước khi nghe Ngài hỏi như thế. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta chán nản thất vọng, không kiên nhẫn đủ để chờ đợi Thiên Chúa ban ơn cho mình. Chúng ta quay ra phiền trách Thiên Chúa, vì Ngài không phục vụ cho nhu cầu riêng tư, phục vụ cho lợi ích cá nhân của mình. Chúng ta cầu xin, đòi hỏi, nhưng ít khi nào suy nghĩ rằng: điều mình cầu xin có thật sự cần thiết và hợp thánh Ý Thiên chúa không? Nếu đó là điều tốt đẹp, thì Thiên Chúa của chúng ta có bị bắt buộc phải vâng lời và thi hành ngay những điều chúng ta đòi hỏi hay không. Thiên Chúa nhìn thấy và Ngài cũng biết trước chúng ta đang nghĩ gì và làm gì. Thế là chúng ta rời bỏ Thiên Chúa của mình vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi, hay đúng hơn là không có một con tim chân thành để theo Ngài.
Có khi nào trong cuộc sống, chúng ta lắng nghe và trả lời như Phêrô: "Chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời". Nói được như thế là khi chúng ta biết để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc sống của mình. Còn phần chúng ta biết lắng nghe và vâng theo những gì Ngài đặt để cho chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta biết chấp nhận và chu toàn cách tốt đẹp hoàn cảnh sống của mình. Đó là sống kề cận bên Chúa và đó cũng là sự sống đích thực mà Thiên chúa ban cho những kẻ thành tâm theo Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và luôn sống kề cận bên Chúa, để xứng đáng là môn đệ trung thành của Ngài.
nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-22082021-chua-nhat-21-thuong-nien-nam-b-loi-ban-su-song.html