"Các con hãy đi giảng dạy muôn dân".
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.
Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Lời Chúa: Mt 22, 15-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?"
Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc.
Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO A
Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 45, 1.4-6; 1Tx. 1,1-5b; Mt. 22, 15-21
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Hãy đi khắp thế gian
(‘Manna’)
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa.
Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân.
Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống.
Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ,
nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ,
khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian,
khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình.
Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi,
sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương...
Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc,
thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn,
đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới
hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng
bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrêxa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ
bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường,
nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi.
Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý
nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen.
Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác
như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari.
Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống.
Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo,
thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
2. Làm cho muôn dân trở thành môn đệ -Mt 28, 16-20
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời, theo Tin Mừng Thánh Mat-thêu là: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”
Ngài không còn ở giữa chúng ta như Em-ma-nu-en nữa, Ngài muốn chúng ta tiếp nối công trình của Ngài “cho đến tận thế.” Đó là lệnh truyền cuối cùng; Nhưng đối với các Tông đồ, đây là lệnh xuất phát. Lệnh này đã được ban trên núi, ở Ga-li-lê, nơi Ngài bắt đầu sứ mệnh cứu thế của Ngài, nơi Ngài ban hiến chương Nước Trời (tám mối phúc thật). Ngài kết thúc sứ mệnh ấy bằng cách sai các môn đệ vào thế giới, tiếp tục và hoàn tất công trình cứu độ của Ngài. Thánh Mat-thêu ghi lại thái độ của các Tông đồ: “Khi thấy Ngài, các ông bái lạy Ngài”, nghĩa là nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa, mặc cho một số người còn hoài nghi.
Chúa Giêsu nói: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Chúng ta không nghe Ngài nói, cũng không được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng lời nói của Ngài thật oai nghiêm! Ngài đứng đó giữa các ông, nhưng oai nghi làm sao! Cao cả tuyệt vời! “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Làm như Ngài không còn thuộc về trần gian này nữa.
Chúng ta có thể nhìn lại nơi đỉnh núi Ta-bo-rê, nơi “Ngài sáng chói như mặt trời”, khiến các môn đệ có mặt phải sấp mình xuống đất, hoảng hồn kinh vía.
Ngài đã sống và đã chết, nhưng giờ đây, Ngài đã sống lại vinh hiển. Ngài là Thiên Chúa hằng sống, đã chiến thắng sự chết và tội lỗi một cách vẻ vang. Ngài còn mang lấy xác phàm, nhưng Ngài đã thuộc về thượng giới, như Ngài đã từng nói với ông Ni-cô-đê-mô và với người Do thái: “Tôi hằng hữu”.
Vậy lệnh truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là lệnh của một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối, chứ không chỉ là lệnh của một người phàm, dù họ là ai.
Chúng ta nghĩ sao?
Chúng ta không hiểu tầm quan trọng của nó, chúng ta xem như một lời tuyên bố của một người nào đó, không quan trọng cho lắm, hay chỉ là cho một số người nào đó có chức phận. Có lẽ lúc nào đó chúng ta cũng chú ý, nhưng không quan tâm cho lắm. Chúng ta thật nhẹ dạ và nông cạn! Đây là một lệnh truyền chứ không là một lời khuyên. Lệnh truyền là phải thi hành không thể bỏ qua… Và lệnh truyền cho mọi người đã tự nguyện chấp nhận là người của Chúa, và hơn nữa là con Chúa.
Các Tông đồ đã hiểu và đã thi hành, tuy rằng không do sức mình mà do Thánh Thần Tình Yêu. Các ngài đã bôn ba khắp mọi miền đất, đã chấp nhận mọi gian khổ để tuân theo, kể cả cái chết.
Thánh Phao-lô, kẻ sinh sau đẻ muộn, cũng đã hiểu và đã hăng say tuân hành, dù phải vượt qua muôn ngàn gian khổ, ngục tù và sau cùng, đã hiến dâng mạng sống, vì lệnh truyền này.
Giáo Hội, hơn hai mươi thế kỷ qua, vẫn tuân hành vì nhận rằng “bản tính của mình là truyền giáo” (Ad Gentes, 1). Giáo Hội không dám bỏ quên lệnh truyền của Thầy mình và cố gắng thi hành đến cùng. Giáo Hội đã tung con cái mình ra khắp muôn phương, trong những vùng đất xa xôi hiểm trở nhất. Những nhà truyền giáo lừng danh như Phan-xi-cô Sa-vi-ê, như cha Ricci, cha Lebbe bên Trung Quốc, và biết bao nhiêu người khác đã vì muốn đem các linh hồn về với Chúa đã không ngần ngại hy sinh tất cả, kể cả mạng sống. Trong số 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam, chúng ta thấy có nhiều giám mục, linh mục, các vị thừa sai ngoại quốc, đã bỏ mình trên miền đất Việt Nam như Thánh Venard, Thánh Đaminh Benares,…
Có lẽ chúng ta không thể so bì với những tay truyền giáo “khổng lồ” ấy, nhưng chúng ta cũng nên tự hỏi: “Tôi có làm gì để truyền giáo trong gia đình tôi, trong làng xóm tôi chưa?”
Lệnh truyền này không chỉ dành cho một thiểu số trong Giáo Hội mà cho mọi người. Là ki-tô hữu cũng là một nhà truyền giáo, chúng ta phải loan truyền cho mọi người Tin Mừng cứu độ của Chúa, vì chúng ta cũng được cứu độ. Chúng ta phải loan truyền tình thương của Chúa, vì chúng ta đã được yêu thương.
Truyền giáo không cần bằng cấp, không cần phương tiện nào cả. Phương tiện, nếu có, chỉ là phụ thuộc. Ngày xưa không có máy tính, không có internet, không có máy móc tinh vi như ngày nay, người ta vẫn truyền giáo. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng khuyến khích dùng mọi phương tiện truyền thông tối tân nhất để truyền giáo. Điều đó rất thích hợp với thời đại kỹ thuật số của chúng ta, nhưng phương tiện nào, dù tinh vi đến đâu cũng không bằng cuộc sống. Một cha sở nhà quê chỉ khuyên giáo dân: “Anh em muốn truyền giáo? Hãy sống cho tốt, hãy sống thật tốt”. Và có lẽ cha sở nhà quê ấy không sai lầm. Chính Đức Phao-lô VI đã nói: “Thời đại này, người ta không thích nghe những thầy dạy, mà chỉ tin vào những nhân chứng, và nếu có nghe những thầy dạy, thì thầy dạy đó phải là nhân chứng”.
Sống thật tốt, đó chỉ mới là điều kiện nhưng chưa đủ, vì những người vô thần cũng có thể sống tốt. Phần chúng ta, là ki-tô hữu, chúng ta cần sống tốt, sống thánh giữa đời và đó cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu nhất.
Công Đồng Vatican II đã ban một sắc lệnh về “hoạt động truyền giáo”. Đức Chân Phước Gioan Phao-lô II luôn khuyến khích việc “Phúc Âm hóa mới”, việc “tái Phúc Âm hóa”. Các Ngài luôn thao thức và kêu gọi toàn thể Giáo Hội phải ra đi, phải loan báo Tin Mừng cứu độ…
Các Ngài tiếp nối công trình và tiếng gọi của Chúa Giêsu. Các ngài, từ Đức Gioan XXIII, Phao-lô VI, Gioan Phao-lô II đến đương kim Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, đã đi khắp thế giới, để làm gì? Để loan báo Tin Mừng, các ngài đi bằng phi cơ, thánh Phao-lô đi bộ, đi thuyền… tất cả chỉ nhắm một mục tiêu: loan báo Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ.
Trong thực trạng hôm nay, chúng ta thấy gì? Thế giới càng ngày càng lún sâu vào làn sóng vô thần… Chúng ta có thể làm gì để thực thi lệnh truyền của Chúa? Chúng ta có cảm thấy rằng, chúng ta có sứ mệnh mang Tin Mừng của Chúa cho mọi người không?
Nhiều nơi trên thế giới, nhất là những nước tân tiến, giàu có, người ta sống như không cần Thiên Chúa. Giàu có, sung túc, người ta chỉ lo hưởng thụ, vui chơi, nên Thiên Chúa trở thành thừa thãi. Nơi khác, Thiên Chúa thẳng thừng bị loại trừ không có đất sống… Vậy, bổn phận của chúng ta phải làm gì?
Đứng trước thế giới vô đạo, chúng ta cần phải làm gì hay chúng ta chỉ khoanh tay đứng nhìn? Chẳng lẽ chúng ta bất lực sao?
Đền thờ của Chúa đang được xây dựng, và vẫn còn xây dựng mãi cho đến tận thế. Chúng ta ngồi nhìn để cho người khác xây, chúng ta không tiếp tay sao? Đóng góp một viên gạch cũng quí. Hãy làm một việc gì đó, nhỏ thôi, cũng hữu ích. Hãy đóng góp một hành vi bác ái, một nụ cười tha thứ, tất cả đều giúp ích cho Đền Thờ Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta được phép đứng ngoài công việc xây dựng Nước Chúa. Rất nhiều người vô danh đã hằng ngày góp phần vào công việc “biến mọi người thành môn đệ”. Chúng ta đừng để cuộc sống chúng ta thành vô dụng khi một hành động “vì yêu” sẽ hữu ích cho Nước Chúa.
Âm thầm hay công khai, chúng ta hãy tiếp tay vào công việc mà Chúa đã trao cho chúng ta.
“Hãy đi !” Đó là mệnh lệnh. Đừng tự nhốt mình trong ngục tù ích kỷ và an phận của mình. Hãy lên đường giữa biển người vô đạo, hãy làm sao cho mọi người biết những gì Chúa đã âm thầm nói trong tâm hồn chúng ta.
Mẹ Tê-rê-xa Calcutta bảo chúng ta hãy “làm dịu cơn khát của Chúa Giêsu”. Ngài đang khao khát các linh hồn. Chúng ta đành lòng để Ngài khao khát mãi sao?
Hãy làm được gì bạn có thể làm để máu Chúa không đổ ra vô ích. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu, từ khi vào nhà dòng không lâu, một ngày nọ, trong sách nguyện ló ra một phần bức ảnh, Tê-rê-xa thấy máu nơi tay Chúa chịu đóng đinh, chị đau đớn và quyết tâm từ đấy, “ở mãi dưới chân thập giá để gom góp máu Chúa và đổ tràn trên các linh hồn”.
Yêu mến Chúa, chúng ta không thể ngồi yên, bao lâu quanh ta còn bao nhiêu linh hồn chưa biết tình yêu Chúa.
Và Chúa hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Lời hứa đó đã được thực hiện khi Ngài sai Thánh Thần đến trên Giáo Hội. Ngài cũng thực hiện lời hứa ấy bằng cách trở nên tấm bánh tình yêu hằng ngày cho chúng ta ăn, để cùng với chúng ta, cứu vớt các linh hồn.
Ăn lấy tấm bánh thần linh này, chúng ta không hành động một mình và cô đơn, nhưng cùng nhau hành động; nhờ đó, chúng ta mới đủ can đảm làm chứng nhân giữa cái xã hội vô đạo đang lao mình vào cái chết…
“Hãy đi ! Này Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
3. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Trong lời mở đầu của Sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, thì Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa, mà là một trong nhiều nhóm người cuối cùng chỉ phục vụ mục đích riêng của họ và qua đi.” (Sứ điệp Truyền giáo 2017).
Thật vậy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15). Vâng lệnh truyền của Thầy chí thánh, các Tông đồ đã ra đi rao giảng Tin mừng ở khắp mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau và cuối cùng đã lấy cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Tiếp nối sứ mệnh của các Tông đồ, Giáo hội ở khắp mọi nơi và qua mọi thời luôn luôn thi hành sứ mệnh truyền giáo. Nhờ nổ lực củaGiáo hội, từ con số 12 lúc ban đầu, hiện nay trên thế giới đã có khoảng 1,2 tỷ người công giáo. Dẫu vậy, số người công giáo vẫn còn quá ít so với số còn lại, chỉ chiếm khoảng 17%. Chính vì vậy, lời mời gọi của Đức Giêsu luôn luôn mang tính thời sự và đòi buộc mọi người kitô hữu phải có trách nhiệm thi hành.Đặc biệt, Đức Giáo Hoàng Phanxicôhy vọngnhiều vào tầng lớp giới trẻ và các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo. Với giới trẻ, Ngài nói: “Người trẻ là niềm hy vọng của sứ vụ truyền giáo. Con Người của Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng mà Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách hiến thân phục vụ nhân loại với lòng can đảm và nhiệt tâm. ‘Có nhiều người trẻ đang cung cấp sự đoàn kết của họ chống lại các sự dữ của thế gian và tham gia các hình thức khác nhau của đấu tranh và hoạt động tình nguyện…. Đẹp thay khi thấy rằng các người trẻ đang là ‘những người rao giảng ngoài đường’, vui sướng đem Chúa Giêsu ra mọi nẻo đường, mọi quảng trường của thành phố, đến mọi ngóc ngách của trái đất!” (ibid., 106). (x. SĐTG 2017, số 8). Với các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo, Ngài nói: “Các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo là một phương tiện quý giá đánh thức trong mọi cộng đồng Kitô hữu một ước ao vượt qua các giới hạn và sự an ninh của mình để rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người. Trong số đó, nhờ một linh đạo truyền giáo sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày, và liên tục cam kết nâng cao ý thức và nhiệt tâm truyền giáo, các người trẻ, người lớn, gia đình, linh mục, giám mục và tu sĩ nam nữ làm việc để phát triển một lòng (tâm hồn) truyền giáo trong mọi người.” (x. SĐTG 2017, số 9).
Vậy, chúng ta phải làm gì để truyền giáo cho có hiệu quả? Ba việc làm thông thường nhưng quan trọng luôn cần phải có khi truyền giáo, đó là: Rao giảng, làm chứng và cầu nguyện. Trong một số bài chia sẻ về chủ đề truyền giáo, tôi đã đề cập kỹ càng về các chủ đề này rồi. Hôm nay, trong khuôn khổ của bài chia sẻ này, dựa vào sứ điệp truyền giáo của Đức Thánh Cha năm 2017, tôi xin được phép gợi ý thêm một số điểm sau đây:
Thứ nhất, đối tượng truyền giáo là tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo hay địa vị. Đặc biệt, đối với những người thiện tâm, họ mong muốn được Tin mừng biến đổi. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh, nhắm đến tất cả mọi người nam nữ có thiện tâm, được dựa trên quyền năng biến đổi của Phúc Âm.” (SĐTG 2017, số 1).Vì thế, trong mọi nơi, mọi lúc, trong các mối tương quan gặp gỡ, chúng ta luôn phải có ý thức truyền giáo.
Thứ hai, nội dung truyền đạt của nhà truyền giáo là Tin mừng. Bởi vì, bởi vì “thế giới rất cần Tin mừng của Chúa Kitô.” (x. SĐTG 2017, số 1). Hãy gieo Tin mừng vào tâm hồn người khác:Đọc Tin mừng cho họ nghe, giảng Tin mừng cho họ hiểu, tặng Tin mừng cho họ đọc, phổ biến Tin mừng bằng mọi cách nhất là qua các phương tiện truyền thông. Khi họ đã nghe, đã hiểu thì chắc chắn họ sẽ sống và được biến đổi. Bởi vì, “Phúc Âm là Tin Mừng tràn đầy niềm vui hay lây, vì nó chứa đựng và ban tặng sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh là Đấng, qua việc ban Thần Khí ban sự sống, trở nên cho chúng ta Con Đường, Sự Thật và Sự Sống” (x. SĐTG 2017, số 1). Đức Thánh Cha Phanxicô còn đưa ra một số bằng chứng về sự biến đổi nhờ Tin mừng, Ngài nói: “Tôi nghĩ đến cử chỉ của một học sinh ở Dinka, người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ một học sinh sắp bị bộ lạc thù nghịch Nuer tàn sát. Tôi nghĩ đến buổi cử hành Thánh Lễ ở Kitgum, bắc Uganda, nơi mà, sau những vụ tàn sát hung bạo bởi một nhóm loạn quân, một vị thừa sai đã làm cho dân chúng lặp lại lời của Chúa Giêsu trên thập giá: ‘Ôi Thiên Chúa của con, ôi Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ con?’ Như một cách diễn tả tiếng khóc than tuyệt vọng của các anh chị em của Chúa Chịu Đóng Đinh. Với dân chúng, buổi cử hành Thánh Lễ ấy là một nguồn an ủi và can đảm khôn lường. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến vô số chứng từ về việc Tin Mừng giúp người ta vượt qua sự hẹp hòi, xung đột, kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa bộ lạc, cùng cổ võ ở khắp mọi nơi, và giữa tất cả mọi người, sự hòa giải, tình huynh đệ và chia sẻ cho nhau như thế nào.”(SĐTG 2017, số 5).
Thứ ba, nhà truyền giáo phải có tấm lòng mục tử, từ đó mới có thể gieo rắc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với mọi người. Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đó có Thiên Chúa. Tình yêu đi liền với tinh thần phục vụ, hy sinh. Đức Giêsu đã nói:“Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13).Chính Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã khẳng định: “Qua Hội Thánh, Đức Kitô tiếp tục sứ vụ của Người như người Samaritanô tốt lành, chăm sóc các vết thương rỉ máu của nhân loại, và như Người Mục Tử Nhân Từ, không ngừng tìm kiếm những kẻ lang thang dọc theo các nẻo đường quanh co chẳng dẫn đến đâu.”(SĐTG 2017, số 5).
Thứ tư, nhà truyền giáo phải biết liều mình đi ra “chỗ nước sâu,” tới các “vùng ngoại vi”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta được thách thức ‘đi ra khỏi vùng an toàn của mình để đến tất cả các vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng.’” (EG, 20). (x. SĐTG 2017, số 6). Chỗ nước sâu ở đây có thể là những vùng sâu vùng xa, các khu nhà ổ chuột, các trại phục hồi nhân phẩm, những nơi mà ít khi hoặc chưa bao giờ người ta được nghe Tin mừng. Chỗ nước sâu ở đây cũng có thể hiểu là nơi những tâm hồn chai đá, khô cứng, tội lỗi… Họ đang “đói khát chân lý và công lý” (x. SĐTG 2017, số 6). Chỗ nước sâu ở đây có thể là những người vô thần, thậm chí là những người đang chống đối Thiên Chúa, chống đối Giáo hội. Đi ra chỗ nước sâu, đi tới vùng ngoại vi có thể gây nguy hiểm cho nhà truyền giáo,nhưng nếu nhà truyền giáo biết “liều mình” như thế chắc chắn sẽ bắt được những “con cá lớn”. Đức Thánh cha nói tiếp: Sứ vụ truyền giáo nhắc nhở cho Hội Thánh rằng Hội Thánh không phải là cùng đích cho chính mình, mà là công cụ khiêm tốn và trung gian của Nước Trời. Một Hội Thánh quy chiếu về chính mình, một Hội Thánh hài lòng với những thành công trần thế, thì không phải là Hội Thánh của Đức Kitô, thân thể bị đóng đinh và vinh hiển của Người. Đó là lý do tại sao chúng ta nên thích "một Hội Thánh bị bầm dập, đau đớn và dơ bẩn bởi vì nó đang ở ngoài đường, chứ không phải một Hội Thánh bệnh hoạn vì bị giam hãm và ràng buộc bởi sự an toàn của mình" (ibid., 49). (SĐTG 2017, số 6).
Cuối cùng, nhà truyền giáo cần noi gương Mẹ Maria: Noi gương Mẹ lên đường mang Chúa đến với mọi người như biến cố Mẹ đi thăm bà Êlizabet (x. Lc 1,39-56); Noi gương Mẹ biết quan tâm giúp đỡ sự thiếu thốn của kẻ khác như biến cố tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2,1-12); Noi gương Mẹ biết can đảm chấp nhận thánh ý Chúa châp nhận hy sinh Con Một vì nhân loại như biến cố trên thập giá (Ga 19,25-27). Đồng thời, chúng ta cũng cần nhờ Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ trên mọi nẻo đường truyền giáo. Đức Thánh Cha nói: “Trong việc thực thi sứ vụ truyền giáo của chúng ta, chúng ta hãy rút cảm hứng từ Mẹ Maria, Mẹ của việc Phúc Âm hóa. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa ở tận đáy đức tin khiêm tốn của Mẹ. Nguyện xin Mẹ Đồng Trinh giúp chúng con nói lên lời ‘xin vâng’ của chính mình, ý thức về nhu cầu cấp bách để làm Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con có lòng nhiệt thành mới trong việc mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự sống, là sự sống đã chiến thắng sự chết. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con để chúng con có thể có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách thức mới ngõ hầu mang lại ơn cứu độ cho mọi người nam nữ.” (SĐTG 2017, số 8).
Nguyện xin Đức Giêsu, “Đấng loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), Đấng tiếp tục sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng về tình yêu của Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. SĐTG 2017, lời mở đầu) hướng dẫn và đồng hành để sứ vụ loan báo Tin mừng của Giáo hội và mỗi người kitô hữu chúng ta mang lại hoa trái dồi dào. Amen.
4. Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian
(Is 2, 1-5; 1 Tm 2, 4-6; Mt 28, 16-20)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời Kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong hành trình đức tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Nhưng Chúa nhật truyền giáo để làm gì?
Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.
Ai phải truyền giáo?
Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân ” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Đây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Đức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài, tình yêu chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thế giới.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay diễn ra vào ngày cuối của THĐGM về gia đình, trong bối cảnh của Năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: “Ngày nay vẫn còn rất nhiều người không nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, sứ mạng ad gentes vẫn còn hết sức cấp bách. Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi tham gia sứ mạng này, vì Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra để “đi ra”… Ngày Thế giới Truyền giáo cũng là dịp để làm bùng cháy lên ước muốn và nghĩa vụ tinh thần của việc hân hoan tham gia vào sứ mạng ad gentes. Các cá nhân đóng góp tiền bạc là một dấu chỉ của sự hiến dâng, trước là cho Chúa và rồi cho đồng loại; bằng cách này, sự đóng góp của cải vật chất có thể là một phương tiện để loan báo Tin Mừng cho nhân loại dựa trên tình thương” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2014).
Thế giới hôm nay có biết bao tin mừng, tin mừng con ra đời, mừng cưới hỏi, thi cử đỗ đạt, tìm được việc làm đã mất, làm ăn phát đạt… tuy nhiên, đó không phải là Tin Mừng viết hoa. TIN MỪNG, thì chỉ có một: là nhận biết (Thiên Chúa yêu thương chúng ta!) Vậy lệnh Chúa truyền vẫn còn khẩn trương: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng”. Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương mọi người và từng người, đồng thời phải bận tâm với những người chưa có đức tin hoặc mất đức tin vì tình yêu là lòng thương xót Chúa thôi thúc.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà niềm nở tiếp đón mọi người; một người mẹ cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
5. Truyền Giáo
"Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?" Lời kết của bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Câu hỏi đó hướng đến một lời mời gọi tích cực, nhưng cũng có thể nói lên một thực trạng tiêu cực của niềm tin không chỉ cho các đồ đệ khi xưa nhưng còn cho chính con người ngày nay.
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em". Sứ mạng truyền giáo loan báo Tin Mừng tình yêu cứu độ mà Chúa Giêsu đã khai mở và thực hiện, Ngài đã truyền lại cho Giáo Hội tiếp tục sứ mạng ấy. Đã 2000 năm qua đi và trong bối cảnh của Chúa nhật cầu nguyện cho việc truyền giáo, cộng đoàn chúng ta qui tụ nơi thánh đường này để cùng nhìn lại sứ mạng Kitô hữu của mình.
Trong sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, Ngài nhấn mạnh đến hai ý nghĩa của việc cử hành ngày quốc tế truyền giáo, đó là: mời gọi canh tân về ý thức truyền giáo, nhắc lại tính cấp bách của hoạt động truyền giáo. Đây là sứ vụ liên quan đến mọi Kitô hữu. Quả vậy, ngay từ ngày được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đã đón nhận sứ mạng tư tế, vương đế và tiên tri. Nói theo lối trình bày của Hiến Chế Anh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium) thì truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại là vì sứ vụ, nghĩa là lý do hiện diện của Giáo Hội là truyền giáo. Và như vậy lệnh truyền của Đức Giêsu về truyền giáo là lệnh truyền cho mỗi Kitô hữu, là bổn phận trách nhiệm của mỗi Kitô hữu.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Rôma viết: "Tất cả những ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?"
Nhìn vào thực tế hôm nay số người Kitô hữu chỉ chiếm một phần năm dân số thế giới. Lục địa Á Châu gần bốn tỷ người mà trong đó người tín hữu chỉ là một con số quá bé nhỏ với 2,7%. Còn trong đất nước chúng ta với dân số hơn 70 triệu trong đó người Công giáo chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 6% (chưa được một phần mười). Đây phải là nỗi thao thức của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cụ thể hơn nhìn vào giáo xứ, vào khu vực địa phương chúng ta đây còn bao nhiêu người chưa được nghe nói về Chúa, về Tin Mừng của Ngài, chưa tin theo Chúa? Lý do nào vậy? Trong đó có trách nhiệm của tôi không? Sẽ không thừa khi nói lên hiện trạng không ít người vẫn còn cho rằng việc truyền giáo là của các Đức Giám mục, Linh mục, Tu sĩ; mà quên rằng chính mình cũng có bổn phận đó. Bên cạnh đó, không thiếu những người Công giáo lý luận: "Ôi thôi, đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành. Và nếu một người ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm ngay thẳng của họ thì dù họ không được rửa tội, họ vẫn có thể được cứu rỗi. Vậy thì tại sao tôi phải mời gọi họ tin vào Tin Mừng cứu độ, mời gọi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội, gia nhập Giáo Hội.
Để trả lời cho lập luận trên, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin xác nhận lại một cách rõ ràng rằng bổn phận truyền giáo của Kitô hữu là cần thiết. Mọi người đều mắc tội nguyên tổ, lương tâm con người có thể sai lầm. Họ vẫn cần nghe Tin Mừng, cần ơn thánh Chúa để có sức mạnh lướt thắng...
Mọi tôn giáo đều có những tia sáng mà chúng ta không được phép coi thường hay dập tắt. Mọi tôn giáo đều là tia sáng khởi đầu của đức tin mà chúng ta mong đợi những tia sáng đó khai triển thành bình minh huy hoàng và dẫn đưa vào ánh sáng rực rỡ của đức khôn ngoan Kitô.
Nói đến truyền giáo, trong suy nghĩ của chúng ta thường là dấn thân làm việc truyền giáo và ai càng làm được nhiều thì người ấy càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Lịch sử Giáo Hội qua từng thời kỳ xuất hiện những gương mặt vĩ đại trong hoạt động truyền giáo mà tiêu biểu là thánh Phanxicô Xavier, một đời bươn chải, lặn lội đem Tin Mừng đến vùng xa xôi. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, ẩn bên trong những hoạt động, động lực cho những hoạt động, kim chỉ nam cho mọi hoạt động ấy là cả một tinh thần cầu nguyện của các nhà truyền giáo cũng như mọi tín hữu. Có thể nói cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nếu thiếu cầu nguyện thì hoạt động chỉ là những thanh la inh ỏi, hời hợt bên ngoài. Thiếu cầu nguyện cũng là thiếu nền tảng giáo lý cho việc rao giảng.
Trong bài đọc 1, sách Xuất hành thuật lại việc Môsê giơ tay cầu nguyện và Giosuê đánh bại quân Amalech. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên thì phần thắng nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy là của Môsê cùng với Môsê: một sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Một hình ảnh minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động trong hoạt động truyền giáo đó là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Chưa từng bước ra ngoài hoạt động truyền giáo, nhưng chỉ bằng hy sinh và cầu nguyện cho các nhà thừa sai trong việc rao giảng Tin Mừng vậy mà thánh nữ đã được tôn phong làm thánh Tiến sĩ Hội thánh, bổn mạng các xứ truyền giáo.
Gần chúng ta hơn có mẹ Têrêsa Calcutta, một người mà cả thế giới đều biết đến với những hoạt động cho tình yêu thương. Mẹ không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng lời nói nhưng mẹ nói về Chúa Giêsu, bày tỏ gương mặt của Ngài bằng chính cuộc sống yêu thương của mẹ. Mẹ đã định nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là: "Một tín hữu Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài".
Truyền giáo chúng ta tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa, một Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, Đấng đã hiến thân để cứu chuộc mọi người. Và truyền giáo là sứ vụ của Giáo Hội và là một nghĩa vụ mà đức bác ái đòi buộc mỗi Kitô hữu phải thực hiện cho anh em đồng loại mình.
Con người ngày nay cần nhân chứng hơn thầy dạy. Và như thế, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà cần thiết là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu đã cô đọng trong giới luật mến Chúa yêu người. Chúng ta thường nói "giữ đạo". Giữ để khỏi mất. Nhưng giữ cũng còn nghĩa là không muốn cho đi. Bước chân truyền giáo không bao giờ được phép "giữ" mà luôn luôn là "cho" đi.
Khi sống yêu thương tôi luôn mở lòng ra để cho đi, để ban tặng. Tình yêu như một nghịch lý: khi tình yêu càng cho đi thì càng được đầy tràn, càng cho nhiều càng được nhiều, trao ban trọn vẹn sẽ nhận lãnh trọn vẹn. Như thế, truyền giáo chính là truyền tình yêu mà chúng ta đã kín múc từ nơi Thiên Chúa và đem trao lại cho anh em mình.
Trong một xã hội mà người tín hữu chỉ là thiểu số thì việc truyền giáo hiện nay chính là quyết tâm sống để người khác nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng về một thứ đạo của tình yêu thương. Mỗi người chúng ta trong khả năng, hoàn cảnh của mình đều có thể truyền giáo vì không ai nghèo đến nỗi không có gì để ban tặng. Như thế sống yêu thương là một hành động truyền giáo thiết thực nhất có thể kín múc được tình yêu Thiên Chúa.
6. Tinh thần Truyền Giáo (Lc 18, 1-8)
(“Với cả tâm tình” - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
"Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?". Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ "sáng danh tôi, tối Danh Chúa". Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. "Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống", đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì" trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động "kiểm soát lợi suất" sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
7. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
(Suy tư nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2008)
SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Từ 82 năm nay, ngày Chúa Nhật giữa tháng 10 dương lịch được chọn làm Ngày thế giới truyền giáo. Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng thường công bố một sứ điệp kêu gọi cộng đoàn Công giáo thế giới hãy suy tư và hành động để tham gia sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Sứ điệp nhân ngày truyền giáo năm 2008 mang chủ đề: "Được mời gọi để trở thành những môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu Kitô". Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô đã nêu rõ tính cách thánh thiêng của sứ mạng truyền giáo, vì đây "là một ân sủng, một ơn gọi xứng hợp và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội" (trích Tông Huấn Loan báo Tin Mừng số 14). Truyền giáo chính là lệnh truyền của Đấng Cứu Thế với các môn đệ trước khi Người về trời. Công cuộc truyền giáo càng trở nên cấp bách hơn nữa trong thời đại hôm nay, khi con người càng ngày càng tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo và những giá trị tâm linh.
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Bí tích này cũng mời gọi chúng ta trở nên môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, qua những cố gắng của bản thân trong cuộc sống mỗi ngày.
Trở nên môn đệ là muốn sống đời nội tâm, thực thi Lời Chúa và gắn bó với Người, tức là nên thánh.
Trở nên tông đồ là mong làm cho nhiều người hiểu biết Chúa và đi theo làm môn đệ Người, tức là truyền giáo.
Môn đệ và tông đồ, hai sứ mạng này có tương quan mật thiết với nhau đến nỗi trở thành một ơn gọi duy nhất. Không thể làm tông đồ nếu trước đó không trở nên môn đệ; cũng không thể là môn đệ đích thực nếu không thao thức làm việc tông đồ.
Truyền giáo là gì?
Chúng ta thường xuyên nghe nói về từ này. Nguyên gốc của từ này là một danh từ tiếng La-tinh Missio, động từ là Mittere. Từ này có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Đức Giêsu chính là Đấng được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người và tạo vật. Chính Đức Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Người trong sứ mạng cao cả này.
Truyền giáo trước hết là "ra đi" khỏi chính con người của mình: chúng ta ai cũng có khuynh hướng ích kỷ, khép kín và coi mình là trung tâm. Chúng ta thường lấy mình làm tiêu chuẩn để phán đoán người khác. Ai không có lối suy nghĩ giống chúng ta thì bị phê bình chỉ trích. "Ra đi" khỏi cái tôi của mình, tức là chấp nhận người khác cùng với ý kiến lập trường của họ, là quảng đại bao dung khi bị xúc phạm. Truyền giáo chính là thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để hòa đồng với anh chị em mình, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận những hy sinh vì ích chung. Các môn đệ đầu tiên, khi nghe Đức Giêsu kêu gọi, đã bỏ mọi sự mà theo Người. Các ông từ bỏ những dự tính nghề nghiệp, từ bỏ môi trường gia đình, làng xóm. Các ông không hề băn khoăn lo lắng cho ngày mai, nhưng sẵn sàng bước theo Thày, vì các ông tin rằng theo Thày sẽ không phải thiệt thòi thất vọng.
Truyền giáo còn là "ra đi" khỏi những định kiến: Cuộc sống này được dệt lên bởi những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Bước ra khỏi những định kiến để đón nhận tha nhân trong tình huynh đệ hài hòa, không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo hay quan điểm xã hội. Một cộng đoàn đức tin gò bó trong quan niệm khắt khe không thể truyền giáo có hiệu quả. Một Giáo Hội dửng dưng với những giá trị trần thế, hoặc khép mình trước những biến cố vui buồn của cuộc sống xã hội chung quanh, sẽ là một Giáo Hội ảm đạm u sầu thay vì hân hoan hy vọng. Một cộng đoàn không dấn thân phục vụ con người sẽ trở nên một thứ ao tù không lối thoát và thiếu sinh khí.
Nhờ hai yếu tố nêu trên, chúng ta tiến tới một điểm cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, truyền giáo chính là kể lại cuộc đời của Đức Giêsu. Câu chuyện về Đức Giêsu đã được kể từ 2000 năm nay mà không lỗi thời. Lời giảng của Đức Giêsu đã được loan báo từ 20 thế kỷ mà vẫn không mất tính thời sự. Cuộc đời Đức Giêsu đã và đang được kể lại một cách phong phú không những chỉ qua sách vở, mà còn qua chính cuộc đời của các tín hữu. Xuyên qua con người của họ, người ta đọc thấy chính cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã cảm thông với người đau khổ, đã chữa lành người bệnh tật, đã phục sinh người chết, đã chúc lành và đã chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn trong ngày cưới. Như vậy, truyền giáo chính là sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa. Trái tim để yêu và đôi mắt để trao gửi tình thân thiện.
Như thế, truyền giáo không buộc phải làm điều gì to tát ồn ào, mà khởi đi từ những gì rất âm thầm bình dị trong cuộc sống. Chính những hành động bình dị đó có thể mang lại những hiệu quả lớn lao, khi chúng ta thực hiện với thao thức truyền giáo.
8. Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm của Lm. Phêrô Huỳnh Thế Vinh)
Tin mừng Mt 28: 16-20: Trong việc loan báo tin mừng, Thiên Chúa cần chất lượng hơn là số lượng. Nhiều tấn muối lạc thì chỉ đáng vứt bỏ ra đường cho người ta chà đạp, còn một hạt muối mặn thì được trân quý vô cùng...
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Thật thà thẳng thắng thường thua thiệt, lọc lừa luồng lách lại lên lương”. Quả thật không lạ gì khi thực tế có những công nhân đứng lên tố cáo sai phạm của các công ty, xí nghiệp. Họ được thắng kiện nhưng rồi họ bị cho... nghỉ việc. Còn những người lương lẹo luồn lách cứ mãi lên lương, lên chức. Cứ như thế, sống thật thà trong xã hội ngày nay như là một cái gì đó xa xỉ, nguy hiểm và thiệt hại. Tiếng nói của lương tâm ngày càng nhẹ ký, lương tâm đấu tranh riết, nói riết cũng không bằng lương tháng.
Sống trong bầu khí như thế, nhân ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, Chúa Giêsu gởi đến mỗi người Kitô hữu chúng ta một sứ mạng hết sức quan trọng và cần thiết: Sứ mạng truyền giáo, làm chứng cho nước trời bằng chính đời sống chứng tá: anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Hay nói cách khác, Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy trở thành muối ướp mặn đời, là ánh sáng chiếu soi trần gian.
Đây là một sứ vụ khó nhưng nó lại là một điều bắt buộc đối với những ai mang danh là Kitô hữu, vì nếu không sống sứ vụ này thì sẽ bị vức bỏ và bị chà đạp, như Lời Chúa đã khẳng định: khi muối lạc đi thì nó đã thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp mà thôi. Hơn nữa, thánh Phaolô đã xác quyết: khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng nước trời.
Là người Kitô hữu thì phải mặn chất chân thật, phải tỏa sáng ánh sáng tin mừng cứu độ. Cho nên, người Kitô hữu không thể sống theo kiểu gian dối của thế gian được, người Kitô hữu không thể thấy người ta sống sao thì tôi sống vậy, hay thấy người ta làm bậy tôi cũng làm theo! Không, là Kitô hữu mang trong mình sứ vụ loan báo tin mừng, chúng ta là muối ướp mặn đời, chứ không phải là muối bị thế gian làm biết chất muối chân thật của mình, làm lu mờ ánh sáng tin mừng nơi mình.
Người ta thường có lập luận: “một con én không làm nên mùa xuân”, một mình sống ngay chính thật thà, một mình sống chất tin mừng cũng chẳng thể thây đổi được gì trong xã hội.
“Một con én không làm nên mùa xuân”, điều này đúng, nhưng nếu không có con én đầu tiên thì sẽ chẳng bao giờ có con én thứ hai, thứ ba, và nhiều con én khác nữa để làm nên mùa xuân. Nếu không có ai dám xung phong là người đầu tiên sống chất tin mừng thì sẽ chẳng bao giờ có người thứ hai.
Nếu nốt nhạc bảo rằng: Một nốt nhạc đâu làm nên ca khúc, thì hẳn sẽ không có bản trường ca.
Nếu viên gạch bảo rằng, một viên gạch đâu xây được bức tường, thì hẳn sẽ không bao giờ có một ngôi nhà.
Nếu hạt lúa bảo rằng một hạt lúa đâu phủ hết ruộng đồng, thì hẳn sẽ không có được mùa gặt.
Và nếu con người cứ bảo rằng một cử chỉ yêu thương thật thà đâu cứu được nhân trần, thì hẳn sẽ không bao giờ có công lý và hòa bình, nhân phẩm và hạnh phúc trên thế gian này.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến,
Trong việc loan báo tin mừng, Thiên Chúa cần chất lượng hơn là số lượng. Nhiều tấn muối lạc thì chỉ đáng vứt bỏ ra đường cho người ta chà đạp, còn một hạt muối mặn thì được trân quý vô cùng.
Sống trong một xã hội có quá nhiều gương xấu như hôi của, hối lộ, tham nhũng, bằng giả, bằng gian, lừa gạt, cướp bóc… Thì con người ngày nay đang thiếu và đang rất cần những chứng nhân sống chất tin mừng của Chúa.
Ngày xưa, trước khi tiêu diệt thành phố Sôđôma sa đọa và tội lỗi, Chúa đã có cuộc thương lượng với Abraham. Chúa phán nếu Abraham tìm được 100 người sống thánh thiện trong thành Sôđôma thì Chúa sẽ tha thứ cho cả thành, tìm hoài không thấy, Abraham quay lại và trả giá với Chúa xuống còn 50, 30, 20, và cuối cùng xuống còn 5 người, và Chúa vẫn hứa vì 5 người đó, Chúa cũng sẽ tha thứ cho cả thành, nhưng Abraham tìm không thấy 5 người thánh thiện trong thành, nên Thành Sôđôma đã bị lửa tiêu diệt muôn đời. Thánh bị tiêu diệt vì thiếu 5 người công chính trong muôn ngàn người tội lỗi.
Và thực trạng thiếu vắng người công chính của thành phô Sôđôma ngày xưa cũng đang diễn ra nơi các thành phố, làng mạc, nơi mỗi giáo xứ, nơi mỗi cộng đoàn và trong từng gia đình ngày nay.
Nơi gia đình thiếu những thành viên dám sống chứng nhân để cứu cả gia đình. Vì thiếu vắng một người cha gương mẫu, một người mẹ hiền từ, hay một người con hiếu thảo nên gia đình bị tan vỡ.
Nơi trường học thiếu vắng những học sinh chăm chỉ, sống trung thực thật thà, nên trường học thiếu vắng đi chất men tin mừng.
Nơi công ty, công sở, nơi phố chợ đang thiếu những người sống ngay chính thật thà, nên đau khổ, khổ đau do sự lừa gạt cướp bóc cứ mãi dâng tràn.
Như ngôi nhà cần đến từng viên gạch, Như bản trường ca cần đến từng nốt nhạc, và như mùa gặt cần đến từng hạt lúa. Thì Thiên Chúa và nhân loại ngày nay cũng đang cần đến từng người chúng ta là những Kitô hữu sống mặn chất muối, và tỏa sáng tin mừng để cứu giúp những người thân trong gia đình mình, và những người xung quanh.
Đó là sứ mạng truyền giáo và loan báo tin mừng mà Chúa gởi đến cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay và Chúa luôn đặt hi vọng và tin tưởng vào từng người chúng ta. Amen.
9. Chúa Nhật Truyền Giáo
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Mỗi năm một lần, giáo hội nhắc nhở con cái mình về vai trò và bổn phận của người Kitô hữu trong cuộc sống ở trần gian, đó là sống và làm chứng nhân cho Tin Mừng, tức là truyền giáo. Vậy Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo như thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, rao giảng, loan truyền... Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm của Chúa Giêsu...Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác hiểu biết, chấp nhận và tin theo. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng vụ Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là "gieo trồng" Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, trở thành anh chị em cùng một niềm tin vào Chúa Giêsu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Vì thế hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Do đó, truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, lương dân, những người chưa biết được biết và yêu mến Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền đạo Chúa cho cả những người Công giáo sống trong một họ đạo, một giáo xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sống còn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách nhưng nhất thiết phải nhớ hai việc là cầu nguyện và sống chứng nhân. Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, đón nhận Lời Chúa. Chúng ta có gương truyền giáo là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, dù ngài không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo nhưng Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Ngài đã sống đời truyền giáo, đã âm thầm cầu nguyện và dâng việc hy sinh cho công cuộc truyền giáo. Sống chứng nhân của mình. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, bác ái, yêu thương, chia sẻ là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì "Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Sống "tử tế" với mọi người là cách truyền giáo. Sống "tử tế" là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết có trước có sau có trên có dưới, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, đó cũng là chúng ta đang truyền giáo vậy.
Truyền giáo là một nhiệm vụ và một đặc ân cho mọi kitô hữu. Chúa Kitô muốn chúng ta đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Cần đến sự quảng đại, hy sinh và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em tình yêu thương của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc Âm hoá mới đó là thực thi lòng mong muốn của Chúa Kitô.
"Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là những người được Chúa Kitô "chiếm đoạt" (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khát khao làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi " cho đến tận cùng trái đất". Chính niềm tin và yêu mến Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những người truyền giáo, những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm sống đức tin, tha thiết bằng lòng yêu mến và dám thực thi Lời Chúa. Đó là cách thế chúng con đang sống đời truyền giáo như Chúa mong muốn. Amen.
10. Ơn gọi Truyền giáo - Lm Đam. Nguyễn Ngọc Long
Cha Alexander De Rohdes, vị thừa sai truyền giáo ở nước Việt Nam từ 1624 đến 1645, sinh trưởng bên quê hương nước Pháp thành Avignon, và là một trong những vị tiên khởi đã sáng tạo tìm ra Chữ Quốc Ngữ cho văn hóa đất nước dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17, viết thuật lại ơn gọi truyền giáo của mình:
“Cùng lúc khi Chúa ban ơn gọi tôi gia nhập Dòng, thì cũng cho tôi quyết định rời bỏ Âu châu để đi Ấn Độ. Đó là lý do chính khiến tôi chọn Dòng này hơn các Dòng khác. Tôi chỉ thích đi tới những miền đất xa xôi tốt đẹp, nơi bao nhiêu linh hồn sa đọa vì thiếu người giảng, và Chúa đã thành công dẫn đưa tôi vào ý định Người đã gợi nơi tôi.“ (Alexander De Rohes, Divers voyages et missions 1653 - Hành trình và truyền gíao, bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, 1994.).
Và trong dòng lịch sử Giáo Hội Công Giáo từ hơn hai ngàn năm luôn hằng có những tâm hồn nghe cảm nhận được tiếng Chúa kêu gọi hy sinh dấn thân rời bỏ quê hương nơi sinh ra đi đến miền vùng đất nước hẻo lánh xa lạ về mọi phương diện, để sống đời truyền giáo giữa con người xa lạ khác biệt về mọi khía cạnh nơi đó.
Họ sống như thế nào ở những nơi đó?
1. Nữ tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm 1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm 1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời ngày 10.08.2017.
Suốt cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi và chữa trị cho họ.
Khả năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là “Mẹ của người phong hủi.“.
Sự hy sinh dấn thân nỗ lực làm việc của nữ tu Ruth Pfau giữa cùng cho người bệnh tật xấu số là muối men là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14). Đó là công việc truyền giáo giữa lòng đời sống xã hội .
2. Mẹ Thánh Têrêxa thành Calcutta nước Ấn Độ sống cống hiến đời mình cho những người có cuộc sống bất hạnh xấu số thiếu thốn lương thực, bệnh tật đau yếu bị khinh miệt kỳ thị, những trẻ em sống lang thang bị bỏ rơi rơi ngoài đường
Mẹ Thánh Teresa sinh trưởng bên nước Albania, trở thành nữ tu Dòng Đức Mẹ bên Anh quốc, nhưng đã tình nguyên dấn thân sang thành phố Calcutta bên Ân Độ làm việc. Nơi đây vị nữ tu Teresa đã thành lập Dòng Những chị em truyền giáo cho tình yêu thương con người.
Suốt dọc đời sống cho tới khi qua đời ngày 05.09.1997, Nữ tu Teresa và Chị em Dòng đã sống trọn đời mình phục vụ cho những người bất hạnh xấu số ở nơi đó.
Mẹ Thánh Teresa và Chị em nữ tu Dòng của mẹ đã làm công việc truyền giáo: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách, con người có nhà ở nương thân, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.
Việc truyền giáo của mẹ Thánh Teresa cùng Dòng của mẹ, và Nữ tu bác sĩ Ruth Pfau tập trung ở nơi cuộc sống ngay giữa con người nghèo khổ cần được giúp đỡ về vật chất cho thể xác và tinh thần.
Công việc truyền giáo của họ mang đến niềm an ủi, niềm hy vọng cho con người., đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật, mà Chúa Giêsu đã rao giảng ( Mt 5, 1- 11)
Thánh Teresa thành Calcutta lúc sinh thời vì những công việc truyền giáo bác ái đã được vinh danh ca ngợi là Mẹ Teresa.
3. Cách đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu sang nước Việt Nam công việc truyền giáo là loan truyền tin mừng phúc âm của Chúa cho con người. Các ngài đã hòa mình chấp nhận cuộc sống xa lạ khác biệt về mọi phương diện, cuộc sống thiếu thốn khổ ải, tù đày rồi bị kết án hành quyết cho tới chết.
Các ngài không chỉ làm công việc rao giảng tin mừng phúc âm đức tin vào Chúa, nhưng còn nỗ lực tìm cách giới thiệu phát triển nếp sống văn minh mới của Âu châu cho con người nữa, mà không loại bỏ hay làm lu mờ phong tục tập quán nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Các ngài đã làm công việc truyền giáo hội nhập văn hóa dân tộc nơi đó.
Chữ Quốc Ngữ là một bằng chứng điển hình cho nền văn hóa hội nhập trong lòng dân tộc đất nước hôm qua hôm nay và ngày mai.
Các nhà thờ cổ kính nghệ thuật văn hóa Âu châu mà các ngài đã có công xây dựng là những di tích lịch sử văn hóa lâu dài cho đất nước xã hội.
Các bài kinh sách, ca vè, những tập tục nếp sống đạo đức… các ngài đã phát triển theo cung cách hội nhập văn hóa cho trở nên có nét đẹp trong sáng vẫn hằng sống động trong nếp sống con người.
“Nhiệm vụ của kitô hữu trong thế giới này là trở thành các thừa sai của niềm hy vọng, mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh, có khả năng tái trao ban nhựa sống cho những gì xem ra đã mất đi vĩnh viễn…
Đức tin, niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là một sự lạc quan; nó là một cái gì khác, hơn nhiều! Nói như thể các tín hữu là những người có một “mảnh trời” hơn nữa ở trên đầu. Điều này thật đẹp! Chúng ta là những người có một mảnh trời hơn nữa ở trên đầu, được đồng hành bởi một sự hiện diện mà ai đó không thể trực giác được.
Như thế nhiệm vụ của các kitô hữu trong thế giới này là mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh có khả năng trả lại nhựa sống cho những gì xem ra đã mất luôn mãi. Khi toàn bầu trời âm u, thì thật là một phúc lành ai biết nói về mặt trời.“ (Đức Giáo Hoàng Phanxico, Giáo lý buổi triều yết ngày thứ tư, 04.10.2017).
11. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
Thưa anh chị em,
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
12. Lên đường truyền giáo - Huệ Minh
Tin mừng Mt 28: 16-20: Ngày hôm nay, Chúa Nhật này được gọi là Khánh Nhật Truyền Giáo. Giáo hội mời gọi chúng ta, ngày hôm nay, mỗi người trong cái hoàn cảnh của mình, trong cái ơn gọi của mình là truyền giáo. Bởi vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo...
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày hôm nay, Chúa Nhật này được gọi là Khánh Nhật Truyền Giáo. Giáo hội mời gọi chúng ta, ngày hôm nay, mỗi người trong cái hoàn cảnh của mình, trong cái ơn gọi của mình là truyền giáo. Bởi vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Truyền Giáo không dành cho các linh mục, tu sĩ. Nhưng Chúa mời gọi tất cả mỗi người chúng ta: trong hoàn cảnh của mình, trong đời sống của mình, chúng ta truyền giáo theo cái cách thức, theo đường lối: miễn sao Đức Kitô được rao giảng mà thôi.
Điểm nổi bật trong các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy: ra đi và đi đến.
Bài đọc thứ I, ngôn sứ Giacaria họa lại một bức tranh đầy ấn tượng rằng là cái cảnh người ngoại giáo níu gấu áo của người Do Thái, và xin: “Chúng tôi đi với các ông, vì chúng tôi nghe nói rằng: Thiên Chúa ở cùng các ông.”
Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã đặt trong lòng nhân loại, cái niềm khát vọng đi tìm Ngài. Thúc đẩy họ đi tìm đến dân tộc Do Thái, và tin rằng: “Chúa của dân này là Chúa tể của vũ hoàn, là Đấng mà họ phải tôn thờ”.
Và qua bài đọc thứ II, chúng ta thấy Tin Mừng được loan truyền không chỉ gói gọn ở đất nước Palestina. Bị bách hại, các Kitô Hữu phải tản mát khắp đất nước La Mã, và chính vì cái sự kiện đó, thay vì bị khống chế là cơ hội mà Tin Mừng được loan báo.
Và ngày hôm nay, kết thúc Tin Mừng theo Thánh Mátthêu. Chúng ta thấy, Chúa Giêsu trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao quyền trên Trời dưới đất cho các ông và Chúa Giêsu mời gọi: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và ChúaThánh Thần.”
Mệnh lệnh truyền giáo đó, chúng ta thấy không gói gọn ở các Tông đồ, nhưng cứ được: loan đi, loan đi, hết người này đến người khác, để minh chứng Thiên Chúa là tình yêu.
Và chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô. Thánh Phêrô, với một cái bài giảng mà đã kéo được 3000 người trở về với Chúa, rất là tuyệt vời. Bởi vì, qua cái cách mà biện luận của Phêrô, Phêrô đã thuyết phục người ta trong niềm tin.
Và chúng ta thấy thánh Phaolô đặc biệt trong cái tâm tình cuộc đời của ngài, có cái hay: “Anh em hãy đi rao giảng trong mọi hoàn cảnh có những lúc thuận tiện.”Chúng ta thấy có những lúc khản cổ, Phaolô đi rao giảng nhưng không ai theo đạo cả! Nhưng rồi cuộc đời của Phaolô chính là minh chứng cho niềm tin, minh chứng cho sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, để sau đó Phaolô đã hi sinh cả cuộc đời của mình để loan báo Tin Mừng.
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Và đặc biệt, tôi đến với anh em bằng lời lẽ rất là bình thường, rất là bình dân. Chứ tôi không đến với anh em bằng những lời lẽ hùng hồn này nọ. Chúng tôi đến với anh em bằng cả cuộc đời của chúng tôi, chúng tôi nói với anh em bằng cả niềm tin của chúng tôi.
Và chúng ta thấy đặc biệt nơi cuộc đời của Thánh Phanxicô. Ngài đã đi hàng ngàn cây số và Ngài đã Rửa tội cho hàng trăm ngàn người. Có thể tính được là một cây số, ngài rửa tội cho một người. Và cuộc đời của thánh Phanxicô phải nói rằng đó là một mẫu gương truyền giáo, và ngài chính là bổn mạng của các xứ truyền giáo. Khi bước chân của Phanxicô đi đến đâu thì ngài loan báo Tin Mừng đến đó! Phải nói rằng khuôn mặt của Phanxicô là một khuôn mặt lớn trong Giáo Hội, đặc biệt về Loan Báo Tin Mừng bằng đời sống của mình, bằng những nẻo đường truyền giáo của mình.
Thế nhưng truyền giáo không chỉ dừng lại, không có khép kín ở trong cái chuyện là phải ra đi, phải lên đường.
Và một khuôn mặt, chúng ta thấy, một Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất là dễ thương! Mới có 24 tuổi đời, nhưng Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong là bổn mạng của các xứ truyền giáo, bởi sao? Bởi vì lẽ, trong cái dòng kín Terêsa sống, có đụng chạm với chị em mình, thế nhưng rồi tất cả Têrêsa đã dâng lên Chúa bằng tất cả tình yêu thương. Tất cả những hy sinh đó, bằng tình yêu thương của mình, mà Têrêxa đã chấp nhận tất cả những khổ đau đó!
Khi thấy chị em giặt đồ hắc ướt vào mặt mình, Têrêsa Hài Đồng Giêsu vẫn mỉm cười, nhưng trong lòng xin dâng lên Chúa tất cả những cay đắng, những đắng đót của cuộc đời. Khi bị chèn ép Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vẫn đón nhận và chấp nhận tất cả! Để hi sinh, để dâng lên cho Chúa.
Và rồi chúng ta nhìn thấy nơi khuôn mặt của Têrêsa Calcutta, với tất cả tấm lòng, mẹ Têrêxa đã băng bó vết thương cho những người bị bỏ rơi, và mẹ Têrêsa đã cố gắng làm cho những con người bị bỏ rơi, những con người đau yếu, những con người bệnh tật đó, được chết trong tư cách là người. Một khuôn mặt truyền giáo rất tuyệt vời! Ngày hôm nay, chúng ta lại được nhìn đến: nơi khuôn mặt của mẹ, một tấm lòng đầy bác ái và yêu thương.
Và chúng ta có thể truyền giáo trong mọi hoàn cảnh.
Có một người lính năm 1945 ở đảo Guam, lính Mỹ. Anh ta mới kể lại câu chuyện rằng:
Khi mà anh ta làm cảnh sát trưởng thì, đêm hôm đó, chiều hôm đó nhóm lính của anh đi hành hương về và dơ bẩn tất cả mọi người đều hăm hở đi tắm, để đi ăn. Riêng có một người Công giáo, anh ta ngồi lại và anh ta đọc kinh và anh ta mới ăn cơm, thì cái viên đội trưởng đó tức quá, mới đạp cái anh này một cái.
Nhưng mà rồi đến sáng hôm sau, thấy lọc cà, lọc cọc lúc 4:30 sáng, ngay đầu giường, thì ra là người lính người Công giáo này đã tỉ mĩ, đã chùi đôi giày cho đội trưởng của mình.
Và đến sáng hôm sau, người đội trưởng đã tức tốc chạy đến cha Tuyên uý để xin: “Xin cho con được rửa tội!”
Cha tuyên úy hỏi: Tại sao vậy? Thì người chỉ huy này mới kể lại: hình ảnh của người lính Sĩ quan Công Giáo anh bị chửi bị đạp đó! nhưng anh vẫn đón nhận và chịu đựng và đó là tấm gương để lo cho người đội trưởng trở về với Chúa của mình, không chút đắn đo suy nghĩ. Bởi vì: qua tấm gương của người lính, anh ta thấy nơi người Công giáo một đời sống rất tuyệt vời!
Bất cứ trong hoàn cảnh nào chúng ta thấy, cách đây 2 năm Đức Thánh Cha Phanxicô phong Chân Phước cho ba mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Chúng ta thấy ngài đề cao về đời sống gia đình. Mẹ của Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu mất sớm, còn lại bố của ngài. Và bố của ngài đã chăm chuốt cho các con và dâng lên Giáo Hội những người con ưu tú, những người con sống trong đời đan tu.
Chúng ta thấy đó, lược qua cái đời sống truyền giáo của Giáo hội. Ngày hôm nay chúng ta thấy đó! Có thể chúng ta sống trong một cái hoàn cảnh của bước chân đi loan báo Tin Mừng, trong hoàn cảnh của 4 bức tường trong tu viện, trong hoàn cảnh của một đời sống gia đình. Nhưng mà liệu rằng chúng ta có sống cái đời sống chứng nhân của chúng ta như cái anh chàng lính Công giáo đó hay không?
Ngày hôm nay, người ta không cần đến thầy dạy nữa! bởi vì thầy dạy thì quá nhiều! Ngày hôm nay, người ta cần chứng nhân, chứng nhân về một tình yêu, về lòng thương xót của Thiên Chúa ở giữa cuộc đời này.
Chúng ta được mời gọi sống Truyền giáo, chúng ta có thể, trong mọi hoàn cảnh của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể nói cho người khác biết rằng: chúng ta có Chúa trong đời chúng ta, bằng một đời sống đượm tình Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày hôm nay người ta nghe nhiều quá! người ta cũng chán, nghe nói nhiều quá người ta cũng chán, bởi vì một cái thực tế mà người ta đang sống. Đó là: một cái xã hội vô cảm.
Khi người này không cần biết tới người kia, và người ta sống bởi cái chủ nghĩa Mặc kê nô và người ta vun vén cho mình thì chúng ta là những người Kitô Hữu, chúng ta lại lội ngược dòng và chúng ta lại được mời gọi làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời này, bằng tình Bác Ái, Yêu Thương của chúng ta.
Nói thì dễ, nhưng làm thì khó lắm! Bởi vì ai trong chúng ta cũng mang trong mình cái ích kỷ, ai cũng mang trong mình cái tôi!
Và được Chúa mời gọi, nếu như chúng ta mở lòng ra, để chúng ta đón nhận Thần Khí của Chúa: “Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng.”
Nếu chúng ta có Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta, thì chúng ta sẵn sàng và chúng ta có đủ sức, để chúng ta bước chân lên đường đi loan báo Tin Mừng như Chúa mời gọi chúng ta.
Vẫn là những con người yếu đuối, vẫn là những con người hạn chế trong cái thân phận làm người, nhưng nếu có ơn Chúa và nhờ Chúa giúp chúng ta, chúng ta sẽ bước chân lên đường loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh sống của mình, trong mọi ngày sống của mình.
Có thể chỉ là một ly nước, có thể chỉ là một bát cơm, có thể chỉ là một ổ bánh mì cho những người nghèo xung quanh chúng ta, hay là có thể chỉ là một lời cầu nguyện chân thành, để cầu nguyện cho tất cả những vị đang truyền giáo.
Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào khó khăn tật nguyền hay là không có thời gian đến với Chúa nhiều, chúng ta vẫn có thể sử dụng bằng đời sống cầu nguyện, đượm tình bác ái, yêu thương của chúng ta, để chúng ta sống làm chứng nhân Tin Mừng của Chúa giữa cuộc đời, và trở thành những người truyền giáo như lòng Chúa mong muốn. Amen.
13. Truyền lửa yêu thương – Lm Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, … dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là truyền lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Kitô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
14. Đi tìm người anh em lưu lạc
(Suy niệm Lễ Truyền giáo của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
NGHĨA VỤ ĐI TÌM NGƯỜI ANH EM LƯU LẠC
Hùng và Cường là hai anh em trong một gia đình hạnh phúc và êm ấm tại một thôn làng nhỏ ở miền Trung. Đời sống an bình bên luỹ tre xanh kéo dài chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra dữ dội khiến gia đình Hùng và Cường phải theo đoàn người sơ tán.
Trên con đường lánh nạn, bom đạn vô tâm đã trút xuống đầu dân lành vô tội, gây nhiều cái chết đau thương. Dưới lằn bom đạn kinh hoàng, ai nấy cắm đầu chạy trối chết và rồi sau đó, khi đến nơi an toàn, cha mẹ của Cường không thấy Cường đâu nữa. Thế là cả ba người – cha, mẹ và Hùng- quay quắt tìm kiếm Cường suốt cả mấy ngày nhưng cũng hoài công. Bị lạc mất con, cha mẹ Cường gặm nhấm nỗi đau buồn suốt ngày nầy qua tháng khác.
Thường ngày, ông bà vẫn nhắc nhở Hùng hãy cố gắng cất bước tìm em: “Con ơi, lòng cha mẹ rất buồn đau, ngồi đứng không yên khi vắng bóng em con trong ngôi nhà nầy. Con đã khôn lớn rồi, con hãy lên đường tìm em về cho cha mẹ.”
Nghe lời cha mẹ nỉ non, Hùng cảm thấy chột dạ, nên cũng dạ dạ vâng vâng nhưng rồi mãi lo vui chơi với bạn bè, nên cũng chẳng cất bước tìm em.
Ngày này qua tháng khác, dù được cha mẹ nhắc nhủ nhiều lần hãy lên đường tìm em, Hùng vẫn dửng dưng, không thiết gì đến hoàn cảnh đứa em lưu lạc, chẳng màng gì đến nỗi đau của cha mẹ già đang đau khổ vì đứa con xa nhà. Cậu cứ mãi lo việc mình, lo vui đùa với chúng bạn, không màng gì đến em. Như thế, Hùng đúng là người vô cảm vô tâm, bất nghĩa với em, bất hiếu với cha mẹ.
Người cha người mẹ trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành. Hùng tượng trưng cho những người con trong gia đình Thiên Chúa. Cường tượng trưng cho những anh chị em còn đang ở ngoài.
Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi người. Ngài yêu thương tất cả không trừ ai và đặc biệt yêu thương những người con lưu lạc. Đã bao lần Ngài van lơn và thúc giục chúng ta hãy đi tìm những đứa em lưu lạc để dẫn đưa em về nhà, nhưng chúng ta vẫn cứ làm ngơ.
Là con cái trong nhà, hằng ngày chúng ta được Thiên Chúa chăm sóc chu đáo. Lời Chúa là thức ăn bổ dưỡng được Chúa trao ban hằng ngày. Chúa lại còn trao ban cả Mình Máu thánh Ngài để bồi bổ, tăng cường sức sống cho chúng ta. Chúa trang điểm chúng ta bằng bao lời khuyên dạy khôn ngoan giúp chúng ta trở thành người có phẩm chất cao đẹp. Chẳng có gì cần thiết cho đời sống tâm linh mà Chúa lại không cung cấp cho chúng ta.
Thế nhưng khi Chúa truyền dạy chúng ta lên đường tìm đứa em lưu lạc, đưa em về sum họp với gia đình và chia sẻ cuộc sống hạnh phúc với mình thì chẳng mấy ai quan tâm.
Như thế, việc loan Tin mừng, giới thiệu Đức Ki-tô cho lương dân và đưa họ về với Chúa là bổn phận phải làm vì đức ái, vì tình huynh đệ. Ai thoái thác là lỗi đức ái đối với anh em mình.
Ngoài ra, tất cả chúng ta, nhờ bí tích Thánh tẩy, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, được trở thành chi thể của Ngài.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ khước tham gia vào công việc hệ trọng nhất của Ngài là Đầu và của Thân Mình Ngài là Hội thánh.
Một chi thể không làm theo mệnh lệnh của đầu là một chi thể tê bại và một chi thể tê bại thì luôn gây cản trở cho hoạt động của toàn thân.
Vậy, lý do thứ hai khiến chúng ta phải tham gia truyền giáo vì đây là đòi buộc tất yếu đối với các chi thể của Chúa Giêsu. Chi thể nào không tham gia vào sứ mạng tối thượng nầy là tự tách mình ra khỏi Đầu là Chúa Giêsu và Thân Mình Ngài là Hội thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
Người anh được vui sống hạnh phúc trong nhà cha mẹ mà không chịu cất bước dẫn đứa em lưu lạc về nhà là người anh bất nghĩa.
Người con không vâng lời cha mẹ dạy hãy tìm kiếm và đưa em về nhà là người con bất hiếu.
Không lẽ chúng con vô tâm vô cảm với các anh chị em lưu lạc của mình mà để mặc họ phải sống trong cảnh xa nhà mãi sao!
Xin cho chúng con, ngay từ hôm nay, quyết tâm lên đường theo lời Chúa mời gọi để dẫn đưa anh chị em mình về sum họp trong nhà Cha thân yêu.
15. Quyền năng từ trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho muôn dân,
và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình,
có tương quan thân thiết với Đấng họ mến tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một lý thuyết,
mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói?
Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng,
hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí,
để xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục vụ những người nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn hoá Việt Nam,
và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam
vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất
đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo, các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ hiểu,
gần gũi với tâm thức của đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết kịch, viết báo...
Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số,
nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
16. Anh em là chứng nhân
(Trích trong ‘Manna’ - Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
"Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô...
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan."
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
17. Truyền giáo là ra đi
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Lời mở đầu của “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền Giáo 2014”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu Kitô. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Kitô Giáo là công việc rất khẩn cấp, mà tất cả mọi thành viên của Giáo hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi vì tự bản tính Giáo hội là truyền giáo: Giáo hội được sinh ra là để “đi ra”.
Thiên Chúa hỏi ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?”. Isaia đã đáp: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8). Isaia ca tụng: “Đẹp thay bước chân người đi khắp vùng đồi núi loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ..." (Is 52,7).
Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi, rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo.Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23), hay ở ngoài trời, ở ngoài đường.Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).
Chúa Giêsu thực hiện những cuộc hành trình liên miên.Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,rồi đến Galilê,dọc theo bờ biển Galilê,và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: Ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum…Ngài ngang qua đồng lúa …Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh của cuộc sống.Các hình ảnh đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng: Cánh huệ mọc ngoài đồng; Đàn chim sẻ đang bay; Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời; Một mẻ cá lớn bên biển hồ; Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá; Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối; Từng tảng đá,từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi; Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho.Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “Sáng đến,Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43). Như thế, quả là suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá.Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật,niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66). Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba, Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi Phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng. Hoàn thành sứ mạng “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Chúa Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi - Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai.Các Tông Đồ là những người được sai đi.
Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
- Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép,không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
- Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.
Chúa Giêsu cũng không dấu giếm họ điều gì cả.Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ người được sai đi luôn xác tín rằng: “Tôi trồng, Apollô tưới, còn Chúa cho mọc lên”.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghỉ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người ra đi mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo. Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy nên chan chưa niềm vui.
Xuyên suốt Sứ điệp Truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nói đến niềm vui Tin Mừng: “Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em…Các môn đệ của Đức Kitô luôn luôn vui mừng khi cảm nhận sự hiện diện của Ngài, khi thi hành ý Ngài và chia sẻ đức tin, đức cậy và đức ái Phúc Âm của mình cho người khác” (Sứ điệp Truyền giáo 2014).
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại. Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
18. Công bình và bác ái
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Chúa Nhật Truyền giáo)
Phải nhìn nhận rằng đến hôm này cái tên của đạo chúng ta: Công giáo thì Chính quyền các cấp nước Việt hiện nay có vẻ miễn cưỡng phải dùng dù không mấy thích. Đã từng một thời gian rất dài, người ta gán ghép cái tên Thiên Chúa giáo cho Công giáo. Người ta không muốn dùng hai từ Công giáo vì Công giáo, hiểu sát nghĩa từ, là đạo chung cho mọi người, không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, hoàn cảnh, địa vị... Công giáo là đạo mời gọi mọi người, mọi nơi, mọi thời, gia nhập để nhận biết Thiên Chúa duy nhất là Đấng sáng tạo nên mọi loài, là Cha của hết mọi người, để mọi người biết sống yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Chính vì thế truyền giáo là sứ vụ nền tảng phát xuất từ căn tính của Kitô hữu. Đã là anh chị em một nhà thì quan tâm đến hạnh phúc của nhau là lẽ tất yếu.
Truyền giáo là một nhu cầu tất yếu. Đã nói đến nhu cầu là không thể thiếu. Cái nhu cầu truyền giáo xuất phát từ yếu tính của Kitô hữu, những con người cảm nhận mình được yêu thương, mình đang hưởng nhận hồng phúc to lớn vượt quá công sức và phận vị của mình. Tốt khoe - xấu che là hệ lụy tất yếu. Khi đã cảm nhận hạnh phúc lơn lao mình lãnh nhận thì không thể không chia sẻ cho tha nhân, nhất là khi ta chân nhận tha nhân chính là anh chị em của mình. Không nỗ lực truyền giáo hay thờ ơ với việc rao giảng Tin mừng là một trong những dấu chỉ nói lên rằng ta chưa thực sự cảm thấy hạnh phúc trong đời làm con cái Chúa. Điều này củng cố lời xác nhận của thánh tông đồ dân ngoại: " Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1 Cor 9,16). Hơn nữa, chímh Chúa Kitô đã minh nhiên phán dạy chúng ta phải truyền giáo (x. Mt 28, 18-20)
Một phương thế rao giảng Tin mừng: làm chứng nhân.
Thánh Phaolô minh định rằng người ta tin là nhờ nghe và người ta nghe được là nhờ có người rao giảng (x. Rm 10,14). Với sự phát triển ngày càng hiện đại của ngành thông tin thì chân lý "trăm nghe không bằng một thấy" đang thực sự chứng nghiệm. Những gì đập vào thị giác xem ra gây hiệu quả mạnh hơn là những gì rót vào thính giác. Một hình ảnh nhiều khi nói lên một sự thật cách thuyết phục hơn là một bài diễn thuyết hùng hồn. Đức Phaolô VI đã từng nhận định: "Ngày nay người ta thích theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì trước hết họ là những chứng nhân". Quả thật cha ông Việt nam chúng ta đã từng xác nhận: "Lời nói gió bay, gương bày lôi kéo".
Nói đến Phật giáo thì người ta nghĩ ngay đến "từ bi - hỉ xả". Nói đến Khổng giáo thì người ta nghĩ ngay đến "Trung dung; Chính danh - chính phận". Nói đến Lão giáo thì người ta nghĩ ngay đến "Vô vi". Nói đến đạo ông bà thì người ta nghĩ ngay đến "tình hiếu đễ"... Nói đến Công giáo thì không thể không nghĩ đến "công bình - bác ái". Chính khi làm nổi bật cái nét riêng của mình thì ta đang quảng bá cái của mình cách hữu hiệu hơn cả. Dĩ nhiên trong công cuộc truyền giáo, chúng ta không thể không chú trọng đến việc rao truyền Lời Chúa, phổ biến Thánh Kinh dưới mọi hình thức, đặc biệt với sự quan tâm của toàn thể Hội Thánh qua Thượng Hội Đồng Giám Mục đang diễn ra với chủ đề "Kinh Thánh". Tuy nhiên, xin được cụ thể hóa việc rao giảng Tin Mừng bằng đời sống chứng nhân là làm chứng cho cái tinh túy của Công giáo là đạo công bình và bác ái.
1. Sống đức công bình trong tình bác ái: Công bình là một trong những nhân đức luân lý nền tảng giúp gìn giữ sự hài hòa, ổn định trong các mối tương quan giữa người với người, giữa người với vạn vật và giữa người với Đấng tạo Thành. Dưới nhãn quan công bình giao hoán thì của ai hãy trả lại cho người ấy. Điều này đòi buộc ta không được phép xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tha nhân, của các tạo vật và của Đấng Tạo Thành. Ta không những không được "lấy của người" mà con không được "ước ao trái phép những gì của người ta" (giới răn thứ 7 và thứ 10).
Luật lệ Cựu ước minh nhiên ghi rõ rằng ta không được ngược đãi người ngoại kiều, khách ngụ cư, không được ức hiếp mẹ góa con côi, không được cho vay ăn lời quá đáng; không đuợc cầm giữ tiền công của người làm thuê qua đêm...(x.Dnl 24,17; Lv 19,13). Tuy nhiên dưới nhãn quan bác ái thì đức công bình đòi hỏi ta phải biết đối xứ với nhau như là anh em đến nỗi khi hái nho thì không được mót những trái rơi vải mà phải để dành cho người nghèo, cũng thế khi gặt lúa cũng phải nghĩ đến người túng cực để ta không lượm mót những gié lúa còn sót hay rơi vải trên đồng (x. Lv 19,10;23,22). Không được phép dừng lại ở việc đối xứ với tha nhân như họ đã làm gì cho ta mà cần phải tiến đến chỗ đối xữ với họ như họ là anh chị em của ta. Có như thế ta mới xứng đáng là con cái Cha trên trời, Đấng cho mưa rơi đều xuống trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt 5,43-48). Với vũ trụ thiên nhiên thì đức công bình đòi hỏi ta phải biết tôn trọng các loài thọ tạo Chúa dựng nên trong sự hài hòa và cân đối của chúng. Hội Thánh khẳng định việc hủy hoại môi sinh là một trọng tội. Khi được trao quyền làm chủ các loài thụ tạo hữu hình thì con người không chỉ quản lý chúng để phục vụ hạnh phúc cho mình và tha nhân mà còn để làm vinh danh Chúa.
2. Sống bác ái trong sự công bình: Sống bác ái là sống yêu thương như Chúa yêu thương, nhờ Chúa yêu thương. Tuy nhiên, sự công bình đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Chúa trước hết và trên hết mọi sự, với hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn (x. Mt 22,37). Đây là một đòi hỏi mang tính tất yếu. Chúng ta không chỉ thờ phượng Thiên Chúa như là Đấng Tạo thành và an bài mọi sự, là Đấng dựng nên chúng ta từ hư vô, mà còn phải yêu mến Người, vì Người là Cha chúng ta. Do đó bổn phận đức ái đối với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải tiên vàn tìm vinh danh Chúa (x. Mt 6,33), nỗ lực làm cho Danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến và ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời (x. Mt 6,9-10).
Trên nền tảng đức ái đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ biết yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Vì yêu thương nhau nên chúng ta không chỉ không làm những gì cho tha nhân điều mà ta không muốn tha nhân làm cho mình mà còn tiến đến chỗ tích cực làm cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình (x. Mt 7,12).
Ngày khánh nhật truyền giáo lại về. Một lần nữa Hội Thánh nhắc nhớ chúng ta nghĩa vụ cao cả và mang tính sống còn của Kitô hữu. Không truyền giáo thì chỉ là Kitô hữu hữu danh vô thực. Không chia sẻ cho tha nhân hạnh phúc mình đang có là một trong những dấu chỉ chứng tỏ rằng ta chưa thực sự cảm nhận hạnh phúc khi được làm con cái Chúa.
19. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
20. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
21. Cách thức truyền giáo
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
22. Truyền giáo là sống chứng nhân
NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
Hằng năm vào tuần lễ gần cuối năm Phụng vụ, Giáo hội nhắc nhở chúng ta dâng Thánh lễ cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thật ra, tự bản chất Giáo hội là truyền giáo. Mỗi thành viên trong Giáo hội đều có trách nhiệm và bổn phận truyền giáo. Bởi đây là lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28, 19).
Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 của chúng ta vừa ra Thông điệp Spe Salvi (Niềm hy vọng Kitô giáo). Ngài muốn các con cái mình hãy thật sự sống niềm tin và hy vọng vào Chúa. Thiết nghĩ khi sống được điều này chính là chúng ta đang truyền giáo cho những anh chị em đang sống xung quanh chúng ta.
"Người sống trong niềm tin và hy vọng là người sống có tương lai, sống như có Thiên Chúa đang ở với mình, người đó chính là những người kitô hữu. Tương lai bảo đảm cho hiện tại của họ, tương lai ảnh hưởng đến hiện tại, có tác động và làm thay đổi đời sống hiện tại" (Thông điệp Spe Salvi số 2 - 3).
Đúng vậy, phân biệt giữa một người sống có niềm tin và hy vọng với một người không chẳng có chút niềm tin và hy vọng nào, chúng ta sẽ thấy cách sống của họ rất khác nhau. Người đàn bà xứ Canana đã chạy hết thầy hết thuốc mà chẳng chữa bệnh cho con mình. Giờ đây bà chỉ còn biết hoàn toàn tin tưởng và hy vọng nơi Chúa Giêsu. Điều đáng nói dù Chúa Giêsu đã thử thách bà rất nặng nhưng bà vẫn không nản chí (Mt 15, 21 - 25). Đức Trinh Nữ Maria - Mẹ của chúng ta, cũng vì tin tưởng và hy vọng nơi Chúa nên Mẹ đã đón nhận cách vui vẻ sứ mạng được trao phó. Mặc dù với sứ mạng ấy Mẹ đã phải đón nhận nhiều khó khăn thử thách.
Ngược lại, người sống chẳng có niềm tin và hy vọng sẽ sống như chẳng có ngày mai. Điển hình cách sống của phần lớn của các bạn trẻ hôm nay. Họ chỉ biết đến có tiền bạc và vật chất đời này. Do đó, họ bất chấp luân thường đạo lý miễn sao có lợi cho họ là được.
Do đâu mà người đàn bà xứ Canaan và Đức Trinh Nữ Maria cũng như nhiều người sống được niềm tin và hy vọng nơi Chúa. Là vì họ đã gặp được và mang Chúa Giêsu trong mình. Chúa Giêsu đã hứa: "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Vì thế, chúng ta sẽ gặp được Chúa trong Thánh lễ và qua những lời dạy của Chúa cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Hãy tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Đó là chúng ta đang truyền giáo.
23. Theo Đạo nhờ gương sáng
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bộ phim Tiểu Sử Thánh Têrêxa thành Lisieux đạo diễn đã chọn nữ diễn viên Lindsay Younce thủ vai Têrêxa. Điều đáng nói là sau khi hoàn thành bộ phim, nữ diễn viên ngoại đạo này đã xin theo đạo Công Giáo.
Cô nói: “Quá trình trở lại đạo công giáo của tôi đã bắt đầu ngay trước lúc tôi khởi sự cuốn phim, tuy nhiên tôi đã đợi cho xong phim rồi mới hòan thành quá trình đó. Tôi nghĩ rằng việc được biết thánh Têrêxa đã dẫn tôi tới nhiều khía cạnh của đức tin công giáo mà tôi chưa được làm quen, đặc biệt là niềm vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Thiên Chúa như một của lễ. Bạn xin cho được đau khổ, bạn thấy vui trong đau khổ và đó có thể là những điều nhỏ mọn mà bạn tiến dâng lên mỗi ngày”.
Điều mà cô cảm phục chính là thái độ sống nhịn nhục và phục vụ ân cần của thánh Têrêxa với nữ tu già Augustine. Một người nữ tu rất khó thương, thế mà thánh nữ vẫn yêu thương và biến hành vi ấy thành của lễ cứu độ trần gian để rồi thánh nữ đã có thể nói: “Nếu có tình yêu thì dù cúi xuống nhặt một cái kim cũng đủ cứu độ thế giới. Và ngài cũng nói: “ơn gọi của ngài là tình yêu”.
Ở đời người ta rất cần gương sáng. Gương sáng của người vợ có thể biến đổi người chồng nghiện ngập sa đọa thay đổi đời sống. Gương sáng của cha mẹ sẽ dẫn dắt con cái đi trong chân thiện mỹ. Gương sáng của người tín hữu có thể biến đổi người lương dân và giúp họ đón nhận tin mừng.
Nữ diễn viên Younce đã được ơn theo đạo Công Giáo nhờ đọc tiểu sử và nhập vai thánh Têrêxa, và có lẽ đời sống của chúng ta nếu sống đúng tinh thần ky-tô hữu là sống cho tình yêu thì chắc chắn sẽ mang về cho Chúa biết bao linh hồn.
Nhưng đáng tiếc, vì cuộc sống phản chứng của chúng ta đã khiến bao người lương dân ngã lòng, thất vọng khi chúng ta sống thiếu công bình, bác ái, yêu thương. Đôi khi chúng ta còn gây nên những bất đồng, khổ đau cho tha nhân như Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo đã từng đại diện cho toàn thể Giáo hội xin lỗi anh em lương dân vì đời sống phản chứng Tin Mừng.
Hôm nay lễ khánh nhật truyền giáo là dịp cho chúng ta xác định ơn gọi của chúng ta là truyền giáo. Giáo hội Chúa Ky-tô thiết lập để sai đi truyền giáo. Người ky-tô hữu là chi thể của Giáo hội cũng phải biết cộng tác vào chương trình truyền giáo theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Mỗi người có thể là tay chân, là môi miệng, là mắt, là tai... đều phải tỏa sáng Tin mừng trong khả năng của mình.
Có thể bạn là người nghèo thì hãy sống khó nghèo, đừng vì nghèo mà sinh đạo tặc hay sống xa lánh Giáo hội. Hãy làm chứng cho thế giới biết rằng cuộc đời chỉ là một hành trình tiến về thiên quốc là nơi không còn đau khổ bởi đói, bởi hận thù chiến tranh, thế nên chúng ta hãy tin tưởng và bước đi trong hoàn cảnh của mình.
Có thể bạn là người giầu có, quyền thế hãy biết tạn dụng ơn huệ Chúa ban để tôn vinh Chúa qua đời sống chia sẻ, cảm thông với những mảnh đời bất hạnh.
Có thể bạn là người bệnh tật, hay già nua hãy dâng nỗi đau phần xác của mìh để cầu nguyện cho Giáo hội, hãy cầu cho Giáo hội của Chúa có nhiều thợ lành nghề để mở mang Nước Chúa.
Có thể bạn là người khỏe mạnh, hãy cảm tạ Chúa bằng chính đời sống dấn thân cho tin mừng tùy theo khả năng của mình.
Người ta nói rằng bạn chỉ có thể làm gương sáng nếu biết đặt tình yêu vào công việc của mình. Không có tình yêu sẽ không có những nghĩa cử đẹp cho đời. Không có tình yêu chúng ta sẽ biến môi trường sống cả mình thành một sa mạc khô cằn. Chỉ có trong tình yêu chúng ta mới hết lòng quan tâm, chia sẻ và làm điều gì đó cho tha nhân.
Ước gì chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, yêu mến công việc của Giáo hội để tùy theo hoàn cảnh chúng ta trở thành chứng nhân cho Nước Chúa. Amen.
24. Nối bước các thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải "thương người như thể thương thân", thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Ky-tô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn", hoặc "làm cho dân ngoại trở về với Chúa"...; song là "mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là "đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa". Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Ky-tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga 20, 21". "Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Ky-tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi.. # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
25. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: "Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi".
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2. Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3. Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
26. Lễ Truyền Giáo - ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
(Bài giảng lễ của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, tại Trung Tâm Mục Vụ GP. Mỹ Tho, vào 16g00 ngày 11.10.2011, ngày Hội Truyền Giáo của Giáo phận) (Dcr 8,20-23 ; Rm 10,9-18 ; Mt 28, 16-20)
Anh chị em quý mến,
1. Hôm nay anh chị em, đáp lại lời kêu gọi của Giáo phận, tụ họp lại đây khá đông đảo, để cùng nhau tuyên xưng đức tin, cử hành mầu nhiệm trọng tâm của đời sống đức tin, nhận lãnh sức mạnh từ trên là Chúa Thánh Thần, và được sai đi loan báo Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Giêsu. Lời Chúa trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay, soi sáng cho chúng ta rất nhiều và rất rõ về ý nghĩa của việc Truyền giáo, còn được gọi là Loan Báo Tin Mừng, hay Phúc Âm Hoá.
2. Trong lịch sử của Giáo hội Công giáo, đã có những giai đoạn nhiều người dấn thân mạnh mẽ trong công việc truyền giáo, không những tại quê hương mình, mà cả tại những nơi xa xôi hẻo lánh, đất khách quê người. Nhờ công lao của các nhà truyền giáo ngoại quốc, mồ hôi, nước mắt và máu của các ngài đã đổ ra trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam, ngày hôm nay mới có chúng ta, có Giáo hội của Chúa Kitô tại Việt Nam, sinh động và sốt sắng.
3. Dù vậy, người ta cũng tranh cãi nhiều về ý nghĩa và giá trị của việc truyền giáo. Và chính những tranh luận này, trong thực tế cũng đã ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội. Có lúc mạnh mẽ hăng say, có khi tựa hồ như đang dừng lại. Để có thái độ đúng đắn và quân bằng về sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội và mọi người Kitô hữu, nên hoàn toàn dựa vào Lời Chúa trong Kinh Thánh và Huấn quyền của Giáo hội.
4. Truyền giáo là gì? Chúng ta làm những gì để được coi là truyền giáo thực sự? Đâu là những nội dung chính yếu của việc truyền giáo?
Truyền giáo trước hết là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu về Tình Yêu của Thiên Chúa, về ý muốn Cứu độ của Thiên Chúa, được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta được tha tội, và thông phần Tình yêu của Thiên Chúa (x. Rm 10, 9-10). Hay nói cách ngắn gọn hơn là rao giảng “Danh Chúa Giêsu Kitô”, để mọi người có thể kêu cầu Danh Người và nhờ đó được cứu thoát (Rm 10, 13). Thư Rôma nhấn mạnh điều này, nói rất rõ ràng và dễ hiểu: người ta chỉ có thể kêu cầu Danh Chúa Giêsu và được cứu rỗi, khi đã tin vào Danh ấy, và chỉ có thể tin nếu đã được nghe giảng, nghe nói về Danh ấy, và chỉ có thể nghe khi có những người được sai đến rao giảng (x.Rm 10, 13-15). Chính vì thế, rao giảng hay loan báo Tin Mừng là bước đầu tiên và quan trọng nhất; vì lý do này mà người ta gọi việc truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.
5. Nội dung thứ hai của công việc truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, và cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Trong đoạn Tin mừng Mát-thêu hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Chỉ trích những cố gắng của các nhà truyền giáo và các Kitô hữu, để có thêm những người tin vào Chúa Kitô, cho “Dân Chúa ngày thêm đông số” là hành vi hoàn toàn đi ngược với ý muốn của Chúa Giêsu đã được chính Chúa minh nhiên bộc lộ.
6. Nội dung quan trọng khác của việc truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Ở đây Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19). Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, vì loài người là những thụ tạo hữu hình, chứ không phải là thiên thần, cần những dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người. Chỉ trích việc làm Phép Rửa cho các dự tòng, cũng hoàn toàn đi ngược với ý muốn của Chúa Giêsu. Chúa còn để lại cho Giáo Hội Bí tích Thánh Thể, luôn được coi là chóp đỉnh và nguồn suối của mọi sinh hoạt truyền giáo.
7. Cuối cùng, công việc Huấn giáo hay dạy Giáo lý cũng là một sinh hoạt cốt yếu trong sứ vụ Truyền Giáo, như chính Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày. Huấn giáo là “dạy cho sống Đạo”, và điều này tối quan trọng trong sứ vụ truyền giáo.
27. Bài Giảng Của ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
1. Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho Giáo hội: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). "Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22).
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.
2. Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau lệnh truyền của Chúa:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ" (Mc 16,15-16).
"Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em" (Mt 28,19-20).
"Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24,46-48).
3. Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
4. Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng đoàn ấy "làm chứng cho Chúa" hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như lời Chúa dạy: "Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).
5. Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập, mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường của những con người khốn khổ..., cả môi trường chính trị nữa.
Chúng ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.
6. Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sơ: sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.
7. Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng, phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chính của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ, miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh Thần: "Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầyngay từ đầu" (Ga 15, 26-27).
8. Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi chúng ta có "ở với Người", gần gũi với Người, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn Ca viết: "Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây" (Hc 35,16).
Hãy làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như Phaolô: "Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàntất, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng" (2 Tm 4,17).
(Bài Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền Giáo - tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
28. Lửa truyền giáo - Đức Cha GB. Bùi Tuần
TRUYỀN GIÁO, MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY
(Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất.
Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình.
Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng.
Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị. Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm. Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.
Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn.
Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm.
Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay.
Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.
Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin
Mừng giữa giai cấp chức quyền.
Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa.
Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ.
Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.
Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức.
Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người.
Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện.
Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá.
Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin. Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài.
Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.
29. Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan
ĐỨC MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.
Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại.
Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.
Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.
Truyền giáo không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.
Không có công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.
Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.
30. Hãy loan báo Tin mừng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
31. Truyền Giáo theo gương Mẹ Têrêsa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1) Cuộc đời
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người. Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2) Truyền giáo
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: "Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày".
Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
32. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
nguon:http://gplongxuyen.org/News