Chúa Nhật 17/04/2022 – Chúa Nhật Phục Sinh Năm C. – Chúa đã sống lại!

Chúa Nhật 17/04/2022 – CHÚA NHẬT PHỤC SINH Năm C. – Chúa đã sống lại!

"Người phải sống lại từ cõi chết".

 

Lời Chúa: Ga 20, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu".

Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong.

Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.

Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

LỄ PHỤC SINH – Năm C

Lời Chúa: Lc 24, 1-12; Cv 10, 34a.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9

 

1. Người đã trỗi dậy rồi-‘Manna’

Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu

chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.

Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy.

Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn,

họ phân vân và bối rối không hiểu.

Là những Kitô hữu ngoan đạo,

chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh,

đến độ coi đó là chuyện tự nhiên.

Chính vì thế ta không cảm được

nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ

vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.

Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị.

Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.

Nếu sứ thần không hiện ra giải thích

thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.

Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một

những gì đã xảy ra ngoài mộ đá,

các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn.

Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía.

Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!

Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).

Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại.

Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.

Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó,

dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần

về cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.

Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên,

vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6),

và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8).

Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).

Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này,

đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).

Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.

Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương.

Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn,

không còn khả năng để hy vọng và vui sống.

"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".

Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh.

Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.

Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ.

Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới.

Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.

Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường.

Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ.

Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.

Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài,

bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.

Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống,

cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.

Gợi Ý Chia Sẻ

Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?

Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,

xin hãy gọi tên chúng con

như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,

xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài

như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,

xin hãy đến và đứng giữa chúng con

như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,

xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con

như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì,

xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,

như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,

để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,

và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

 

2. Ông đã thấy và đã tin--‘Manna’

Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.

Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.

Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.

Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!

Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.

Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được,

chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.

Ai có thể hiểu được trái tim của bà?

Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)

và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).

Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,

trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...

Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.

Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.

Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,

đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).

Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.

Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,

bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.

Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,

những bước chân hối hả vội vàng.

Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,

còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.

Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.

Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.

Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,

nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.

Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:

ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,

ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.

Chúng ta cần có lòng tin

để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,

trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.

Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.

Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.

Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,

trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)

Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,

để cho bà Maria đến thăm viếng,

thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?

Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,

những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.

Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.

Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.

Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.

Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.

Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,

nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?

2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh

nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao,

không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,

sợ thất bại, sợ khổ đau,

sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã phục sinh

nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu

là cái liều chín chắn và có cơ sở.

Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.

Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.

Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi

mang một sức thu hút mãnh liệt

khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:

nhìn tất cả từ trên cao

để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự phục sinh của Chúa

giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người.

Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.

 

3. Mặt trời hé mọc--‘Manna’

Suy Niệm

Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua,

chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa.

Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19, 41).

Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng,

và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu.

Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.

Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai.

Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác.

Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.

Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai.

Tử thần đắc ý vỗ tay reo

vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.

Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm,

như hạt lúa ủ trong lòng đất.

Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình?

Có ai thấy được một mầm non đang nhú?

Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng.

Họ thấp thỏm không ngủ được,

chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.

Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời,

thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ,

với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.

Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm:

"Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?"

Tảng đá to thật là một trở ngại.

Nhưng lạ thay, khi đến nơi,

các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi,

và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ.

Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng:

Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi,

Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.

Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát,

sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.

Không cần phải lăn tảng đá.

Không cần phải xức dầu thơm.

Cửa mộ đã mở toang,

vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống,

Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.

Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.

Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng,

bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ.

Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau.

Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?

Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng

chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào

lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.

Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui,

dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?

Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa,

sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa,

bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa,

niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa,

hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,

Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

 

4. Rao truyền ơn Phục Sinh--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.

Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?

2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?

3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?

4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

 

5. Đường Emmau, Đường Thương Xót--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

(Đan viện Châu Sơn --Đại Lễ Phục sinh Năm Thánh 2016)

(Cv 10, 34a.37-43; 1Cr 5, 6b-8; Lc 24, 13-35)

Lời Chúa hôm nay nói về những con người mới. Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô trở nên người mới sau khi gặp Chúa Phục Sinh. Tin mừng trình bày chi tiết hai môn đệ buồn phiền chán nản đến tuyệt vọng: Bỏ Giê-ru-sa-lem; Bỏ lý tưởng; Bỏ cộng đoàn; Bỏ Chúa. Họ đi vào đêm đen, tâm hồn chìm trong bóng tối, không lối thoát. Họ đang chết. Nhưng, Chúa đã đến. Chúa làm ấm lên cõi lòng băng giá; Chúa làm sáng lên đêm đen; Chúa làm sống lại hi vọng. Họ trở lại: với Chúa, với anh em, với lý tưởng và với sự song.

Chúa Giê-su đã phục sinh các tâm hồn nhờ những phương thuốc thần diệu sau:

1. Chúa phục sinh. Họ chết vì nghĩ rằng Chúa đã chết. Họ sống lại ngay khi biết Chúa sống lại. Nhưng để phục sinh Chúa đã phải trải qua khổ nạn, trải qua cái chết, trải qua nhục nhã, trải qua thất bại.

2. Chúa đi tìm. Con người cô đơn và buồn phiền. Đi trên con đường tăm tối bất định. Họ không thể tìm Chúa nên Chúa đi tìm họ. Chúa đến gặp họ, ngay trên đường họ đi, ngay trong nỗi buồn của họ.

3. Lúc trời đã tối. Buổi tối là lúc nghỉ ngơi. Chẳng ai làm việc buổi tối, nhất là phải ra đường thì rất nguy hiểm. Nhưng Chúa đã lên đường lúc trời tối vì Chúa thương những tâm hồn tăm tối hơn bóng tối.

4. Chúa chia sẻ. Chúa đến chia sẻ những ưu tư lo lắng của họ. “Các anh có chuyện gì mà buồn thế”? Chúa để họ chia sẻ nỗi niềm. Họ được dịp giãi bầy. Chúa lắng nghe. Chúa giải nghĩa Thánh Kinh suốt chặng đường dài mấy giờ đồng hồ.

5. Chúa trở nên người bạn. Từ người xa lạ Chúa đã trở thành thân thiết. Đến nỗi họ không muốn rời xa Chúa nữa, vì Chúa hiểu họ và giúp họ.

Đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa. Lòng Thương Xót nhìn thấu nỗi cô đơn tuyệt vọng; Quan tâm đi tìm những tâm hồn lạc lõng bơ vơ; Chiếu sáng và sưởi ấm giữa đêm đen lạnh lẽo; Cảm thông chia sẻ với những tâm hồn cô đơn; Chữa lành những tâm hồn bị thương tích; Phục sinh những tâm hồn đang chết dần mòn.

Thế giới hôm nay tràn đầy những con người như thế: buồn sầu, tuyệt vọng nhưng chẳng có ai cứu giúp. Vì con người ngày nay quá bận rộn, chỉ chú ý đến bản thân, không có thời giờ cho người khác. Mỗi con người đang trở thành một con đường cô đơn đi về sự chết, cần có Chúa, cần có Lòng Thương Xót để đường Em-mau trở thành đường yêu thương gặp gỡ, đường sự sống. Ta hãy thực hành những gì Chúa đã làm. Đó là:

Hãy đi tìm. Biết bao anh em đang cô đơn lạc lõng giữa ngã ba đường, đang khao khát được gặp gỡ, được chia sẻ.

Hãy khẩn cấp lên đường. Dù giữa đêm khuya. Biết bao người sắp chết đang chờ đợi ta.

Hãy trò chuyện. Hãy lắng nghe. Biết bao nỗi lòng cần được giãi bầy, cần được cảm thông.

Hãy làm bạn. Một người bạn sẵn sàng chia vui sẻ buồn, sẵn sàng hiện diện. Có mặt dù chỉ để cảm thông, chỉ để ăn một bữa cơm, chỉ để nói một câu chuyện, hoặc giản đơn chỉ để ở bên nhau dù không làm được gì.

Nhưng trước hết và trên hết ta hãy phục sinh chính mình. Thánh Phao-lô mời gọi ta hãy chết cho con người cũ để “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” được tỏ hiện. “Đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ”.

Hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Chúa Phục Sinh. Hãy đem Lòng Thương Xót gieo rắc khắp nơi để bất cứ con đường nào ta đi cũng trở thành Đường Em-mau, Đường của Lòng Thương Xót; để bất cứ ai gặp ta cũng gặp được Lòng Thương Xót, gặp được lòng tốt, gặp được sự cảm thông chia sẻ, gặp được một người bạn.

Lạy Chúa, hằng ngày Chúa đi bên cạnh con mà con không nhận biết Chúa. Xin cho con nhận ra Chúa trong những người anh em sống chung với con, đi bên cạnh con, cùng làm việc với con. Amen.

 

6. Ánh sáng và bóng tối--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.

Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.

Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.

Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.

Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.

Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.

Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.

Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.

Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.

Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.

 

7. Sao lại đi tìm người sống giữa kẻ chết?--Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc

(Thánh lễ vọng Phục Sinh tại Nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho)

MỪNG CHÚA PHỤC SINH

Anh chị em rất thân mến,

1. “Chúa đã sống lại thật”, đó là niềm tin của chúng ta, đó là niềm tin của Hội Thánh. Chúng ta hân hoan tuyên xưng đức tin ấy trong Thánh lễ đêm nay.

Nhưng chúng ta tuyên xưng như thế nào, để lòng mọi người rộn rã hân hoan? Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng bừng lên trong bóng tối, bóng tối của tâm hồn còn nhiều tội lỗi của chúng ta, bóng tối của cuộc đời còn đầy những khó khăn và thử thách, bóng tối của xã hội còn tràn ngập những điều xấu xa và bẩn thỉu, bóng tối của thế giới còn bị đe doạ bởi bóng ma chiến tranh và chết chóc?

Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng xoá tan u tối, để mọi xiềng xích bị bẻ gãy và con người được tự do đích thực?

Chúng ta chỉ có thể làm được như vậy với quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần!

2. Chúng ta tuyên xưng trong tư cách của những người đã chịu Phép rửa, được mai táng trong cái chết của Đức Kitô, đang thừa hưởng sự sống mới, và sẽ được cùng sống lại với Người (x. Rm 6, 3-4). Chúa đã chiến thắng các tội ác, chiến thắng thần dữ và sự chết. Sự chết không cầm giữ được Người nữa, không có quyền gì trên Người nữa. Người đã sống lại và không còn chết nữa (x. Rm 6, 9).

Thần dữ và sự chết sẽ không làm gì được chúng ta, vì chúng ta được chia sẻ Thần khí Phục sinh của Chúa, Sức mạnh Phục sinh, Quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa (x Rm 6, 3-5). Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống”. Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu, Ngài sẵn sàng đổi mới mặt địa cầu. Chúa Thánh Thần chính là Quà tặng Chúa Phục sinh ban cho chúng ta.

3. Chúa Phục sinh đầy tràn Thần Khí của Thiên Chúa, đầy tràn Ánh Sáng và Tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Yêu thương, chính là bản chất của Thiên Chúa và cũng là sức mạnh của Thiên Chúa. Điều kỳ diệu nhất mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ, là làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Nơi biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thể hiện tất cả quyền năng, biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Ngài, một tình yêu bất diệt, luôn sinh ra tình yêu. Ngài nói với Chúa Giêsu Phục sinh: “Con là Con của Cha, Hôm nay Cha đã sinh ra Con!” (Lc 3, 23). Sự sống của Chúa Giêsu là sự sống của Chúa Cha, vì Chúa Cha là Thiên Chúa hằng sống. Mọi sự đều qua đi, chỉ có Thiên Chúa là bất diệt, chỉ có Tình yêu của Thiên Chúa là bất diệt! Anh chị em có dám tin như vậy không?

4. Bài Tin mừng Luca tường thuật việc mấy người phụ nữ ái mộ Chúa Giêsu đã đi thăm ngôi mộ của Chúa, mang theo dầu thơm, để xức cho thi hài của Chúa. Đến nơi, họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả (x. Lc 24, 1-3). Đang lúc các bà còn sợ hãi, thì có hai thiên sứ y phục sáng chói đã nói với các bà: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết? Đức Giêsu không còn trong ngôi mộ nữa, Người đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24, 5-6).

“Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết”! Đó là nội dung lời rao giảng của các thánh Tông đồ. Và đó cũng là sứ điệp từ trời! Sứ điệp sẽ được công bố cho mọi người để mọi người tin, và nhờ tin mà được cứu rỗi, được đón nhận Chúa Thánh Thần và được ơn tha tội. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã nói một cách rõ ràng trong thư Rôma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 10).

5. Sự Sống lại của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử, vì đã xảy ra trong lịch sử. Người đã chết thật và đã được chôn cất trong một ngôi mộ, mà ngày nay vẫn còn di tích tại Thánh địa Giêrusalem. Người đã trỗi dậy, ra khỏi mồ, Người đã sống lại thật, đã hiện ra với các Tông đồ, và đã trao sứ mạng “Làm chứng” cho Giáo hội mà các ông là đại diện (x. Lc 2435-48; Mc 16, 9-15; Ga 20, 19-31). Chúa đã sống lại thật, và đã sống lại vĩnh viễn, sự chết không cầm giữ được Người. Người đã chiến thắng sự chết một cách vĩnh viễn (x. Rm 6, 9-10). Chiến thắng tử thần là “chiến thắng lớn nhất”, không còn có chiến thắng nào lớn hơn, bởi vì tử thần là kẻ thù đáng sợ nhất của loài người. Chính vì thế mà Phaolô dám nói một cách khiêu khích với “tử thần”: Tử thần hỡi, chiến thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi nọc độc của ngươi đâu? Tử thần có độc là vì tội lỗi!” (1Cr15, 55).

Nhưng Thiên Chúa đã ban cho ta “Ơn Tha tội” nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

 

8. Đức Giêsu đã Phục Sinh--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu đã phục sinh, thế nhưng không phải mọi người đều biết. Đây không phải là biến cố bình thường, nhưng là biến cố “đức tin”. Những người không sẵn sàng mở rộng tâm hồn, những ký lục biệt phái và thượng tế không sẵn sàng đón nghe sự thật, không thể đón nhận thực tại “vô tiền khoáng hậu” này.

Tin Đức Giêsu phục sinh là điều rất khó

Đức Giêsu khi còn sống, Ngài đã cho một số người chết sống lại, như con gái ông Gairô (Lc.8, 40-56), con trai bà góa thành Naim (Lc.7, 14-15), Lazarô em của Matta và Maria (Ga.11, 43-44). Tuy dù Ngài đã báo trước ba lần rằng “Ngài sẽ chết và sống lại” (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33), nhưng khi Ngài sống lại không có tông đồ nào tin (Mc.16, 9-14) cho tới khi Ngài hiện ra cho các ông.

Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Chúa phục sinh cho tới khi Ngài hiện ra cho ông vào tám ngày sau (Ga.20, 25-29), nhưng cả mười tông đồ khác cũng không tin cho tới khi họ được thấy Chúa vào buổi chiều (Ga.20, 19-24). Các tông đồ đã không tin vào lời các chị phụ nữ làm chứng đã thấy Chúa phục sinh!

Nếu chính các tông đồ, những người thân cận của Đức Giêsu, được báo trước Ngài sẽ sống lại, còn chưa dám tin Ngài sống lại, mãi cho đến khi được thấy Ngài, thì làm sao những ký lục biệt phái và các thượng tế có thể tin Đức Giêsu sống lại được?

Cũng không lạ, nếu con người ngày nay không tin Đức Giêsu sống lại. Đúng hơn không tin “người chết sống lại” mới là chuyện bình thường, còn “Đức Giêsu sống lại” mới là chuyện “bất thường”.

Tin Đức Giêsu sống lại, là một hồng ân vô cùng lớn

“Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga.20, 29). Những người tin vào Đức Giêsu, là những người được chúc phúc. Họ là những người được một ơn lớn mà nhiều khi họ không ý thức. Làm sao tin người chết sống lại được, làm sao tin Đức Giêsu phục sinh được? Ấy thế mà các Kitô hữu tin.

Các Kitô hữu không chỉ gồm những người ít học, nhưng gồm cả những người có học, và hơn nữa có nhiều người thông thái. Họ không tin mù quáng. Họ biết điều họ tin là chuyện rất khó, nhưng họ đã được một ơn để tin. Tạ ơn Chúa vì hồng ân kỳ diệu này.

Thánh Phaolô nói: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần” (1Cor.12, 3). Là Kitô hữu là một hồng ân vô cùng lớn. Tạ ơn Chúa.

Được gì khi Đức Giêsu phục sinh

Nếu Đức Giêsu không sống lại, các tông đồ đã không đi rao giảng, và các ngài đã không phải “tử đạo”, và đã không có Kitô giáo như hôm nay, cũng không có nhiều “anh hùng tử đạo”, cũng không có nhiều người dâng hiến đời mình cho Chúa, cũng không chắc “chúng ta như hiện tại”, có lẽ chúng ta không biết tha thứ và yêu thương!

Nếu Đức Giêsu không sống lại, những lời giảng dạy của Đức Giêsu về chính Ngài như Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), là những điều dối trá, và Ngài là kẻ bịp bợm thời danh.

Còn nếu Đức Giêsu sống lại, nghĩa là những điều Ngài nói là đúng sự thật, nghĩa là Ngài là Đấng có quyền tha tội, Ngài có trước Abraham, Ngài là một với Thiên Chúa Cha, Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha. Ngài là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người. Vì nếu Ngài nói dối, Ngài đâu phải là người của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài.

Và nếu Ngài là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là: Thiên Chúa yêu con người đến độ nhập thể làm người. Đức Giêsu phục sinh, bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn trình bày cho một người “ngoại” lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu sống lại?

2. Đâu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người?

3. Bạn có thể làm gì để giúp một người tin Đức Giêsu phục sinh?

 

9. Đức Giêsu vẫn sống--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).

Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.

Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).

Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.

Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.

Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.

Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.

Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?

2. Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?

 

10. Niềm tin phục sinh--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

Có một cuốn phim, tựa đề là "Đức Giêsu Kitô", đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.

Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì "chết là hết", đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.

Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.

Tuy nhiên biến cố Phục Sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó, Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, trò chuyện, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh, tất cả đều có thật.

Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.

Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.

 

11. Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục Sinh--Lm. Đan Vinh

Tin mừng Ga 20: 1-9: Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất.

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Gioan viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức GIÊSU là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20, 31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan cho thấy Đức GIÊSU thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

CHÚ THÍCH:

- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gioan viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20, 1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28, 1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16, 2); Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24, 1). + Maria Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Maria. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa GIÊSU (x. lc 8, 2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20, 1; Mt 28, 1; Lc 24, 10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19, 25; Mt 27, 56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27, 61; Mc 15, 47).

- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phêrô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phêrô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Maria Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gioan. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Maria Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Maria không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28, 1).

- C 3-4: + Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước: Lý do Gioan chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phêrô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phêrô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.

- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức GIÊSU. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gioan ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phêrô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phêrô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phêrô … vào thẳng trong mộ: Phêrô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.

- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11, 43-44). Điều này cho thấy Đức GIÊSU không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gioan thấy Thầy GIÊSU đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gioan suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức GIÊSU đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức GIÊSU phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gioan và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16, 21; 17, 23; 20, 19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức GIÊSU và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16, 10; Tv 2, 7; Hs 6, 2).

CÂU HỎI:

1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật? 2) Về thời điểm bà Maria Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Maria Mác-đa-la? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai? Tại sao? 5) Qua câu nói với Phêrô và Gioan, bà Maria Mác-đa-la có tin việc Thầy GIÊSU đã phục sinh hay không? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phêrô và Gioan cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào? 7) Tại sao Gioan chạy nhanh hơn Phêrô? 8)Tại sao ông Gioan đến mộ trước Phêrô mà không vào bên trong mộ ngay? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức GIÊSU sống lại?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20, 8).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Ngôi mộ trống của Đức Giêsu:

Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa GIÊSU”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Talpiot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên GIÊSU con ông Giu-se. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người GIÊSU thành Na-gia-rét? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh?

Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên GIÊSU; mười bốn phần trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên GIÊSU con ông Giu-se được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa GIÊSU chỉ là giả tưởng.

Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa.

Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và đang sống.

2) Về sứ vụ rao giảng Tin Mừng Phục Sinh:

Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức GIÊSU đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức GIÊSU rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra?” Người đáp: “Đúng vậy!” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phêrô, Gioan và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi?” Chúa GIÊSU trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.

3) Mầu nhiệm Phục Sinh diễn tả tình thương vô biên của Thiên Chúa:

Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.

Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.

Câu truyện trên đây diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết để mở ra cho con người lối đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là cho con người được hưởng sự sống đời đời. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài vẫn luôn theo duổi và chờ đợi con người đáp lại tình thương của Ngài để được sống với Ngài.

4) Gương can đảm tuyên xưng đức tin:

Một câu chuyện rất cảm động đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.

Một người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của Chúa.

“Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ:

- Chị biết hôm nay là ngày gì không?

Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:

- Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.

Nghe thế tôi tự hỏi:

- Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Lễ của niềm vui và của hy vọng nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã héo úa, khô cằn, còn niềm hy vọng thì ta để lại trong lòng và không dám suy nghĩ tiếp.

Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề:

- Đức Kitô đã sống lại!

Tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời:

- Ngài đã sống lại thật.

Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.

Qua tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không có lò sưởi để qua cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ một con người mà họ cho là cuồng tín sẽ phải gục ngã.

Một tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam chung với chúng tôi. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào:

- Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam, những cái khác không quan trọng gì cho lắm.

Nói xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn ánh lên như dạo nào”.

3. SUY NIỆM:

Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gioan đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:

1) Lòng mến đã thúc bách Maria Mácđala đi tìm Chúa:

Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Maria Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19, 25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27, 61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16, 2). Khi thấy mộ trống, Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan (x. Ga 20, 2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20, 13.15). Maria không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phêrô và Gioan chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Maria lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).

2) Lòng mến đã giúp Gioan nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:

Gioan là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4, 21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17, 1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13, 23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Maria làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19, 27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gioan đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21, 7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gioan chạy nhanh hơn Phêrô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phêrô (x Ga 20, 8).

3) Lòng mến làm Phêrô được tha tội và được trao quyền mục tử:

Phêrô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức GIÊSU trước hết (x. Mt 4, 18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19, 27-29; Lc 18, 28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10, 2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17, 1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8, 51), được ở gần Đức GIÊSU khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26, 37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức GIÊSU có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phêrô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1, 29). Phêrô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Nhờ đức tin đó, Phêrô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16, 17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22, 31-32).

Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16, 22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14, 31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13, 6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26, 33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26, 69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phêrô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4, 18-20). Ông cũng thường được Đức GIÊSU hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17, 24-27). Có lần ông hỏi ý Đức GIÊSU về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18, 21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6, 68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18, 10). Ông đi theo Gioan để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18, 15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phêrô cùng Gioan chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phêrô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20, 8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24, 34; 1 Cr 15, 5). Khi được Gioan quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phêrô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21, 7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21, 15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21, 18-19).

4) Giá trị của đức tin và lòng mến:

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Maria Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gioan nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phêrô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22, 32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20, 11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.

4. THẢO LUẬN:

1) Nơi Đức GIÊSU sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” hay không? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy?

5. LỜI CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.

- Lạy Chúa Giêsu. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

12. Chúa đã sống lại thật ABC--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc  đã xẩy ra nơi Chúa Giêsu: đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang (Bài đọc 1)

 Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại (Bài Tin mừng)

Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người (Bài đọc 2).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Cv 10,34.37-43.

Viên quan bách quản Rôma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu, đã đến xin ông Phêrô làm phép rửa để được gia nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Thánh Phêrô đã nhắc cho ông và gia đình ông niềm tin căn bản này: Đức Giêsu đã phục sinh. Đây là bài giảng đầu tiên mà Phêrô dạy dỗ cho những người tân tòng. Thánh Kinh gọi bài giảng truyền giáo này là Keryma. Lược đồ của mỗi Keryma thường là:

a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.

b) Cái chết của Ngài.

c) Việc Ngài sống lại.

d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.

Tin vào Chúa Kitô phục sinh là một điều kiện tiên quyết phải có vì nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của ta trở nên trống rỗng. Vì thế, sự phục sinh của Đức Giêsu chính là trung tâm của lịch sử nhân loại, là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo.

+ Bài đọc 2: Cl 3,1-4).

Trong bức thư gửi cho tín hữu Côlôssê, thánh Phaolô kêu gọi những ai đã nhờ phép rửa mà được tham dự vào mầu niệm Vượt qua, hãy sống một đời sống tỏa hương thánh thiện: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giói”(Cl 3,1-2).

Các tín hữu đã tin vào Chúa Phục sinh, nhưng chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống. Mặc dầu phải sống giữa những thay đổi của trần gian này, phải chịu vật chất chi phối, nhưng đừng để lòng mình ra nặng nề, hãy hướng lòng trí về trời là quê hương thật. Đức Kitô phục sinh đem đến cho chúng ta  niềm hy vọng trong cuộc sống hiện tại để hướng về cuộc sống mai hậu.

Người tín hữu tìm được ý nghĩa thực của đời sống dưới ánh sáng phục sinh mà họ đang tiến về. Do đó, họ không được thoát ly khỏi cuộc sống đời này với nhiều nghĩa vụ, bao gian nan thử thách; tuy thế, họ đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống trong sự kết hợp với Đức Kitô Phục sinh.

+ Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9.

Trong bài Tin mừng này, thánh Gioan nhắc đến Maria, người tội lỗi, mà Chúa đã trừ cho khỏi bảy qủi. Bà rất yêu mến Chúa. Ngay sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần bà đã ra mộ viếng Chúa, nhưng thấy mộ trống. Bà tức tốc chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết: người ta đã lấy trộm xác Chúa. Ông Phêrô và Gioan đã ra mộ và thấy sự kiện ấy: ngôi mộ trống. Phêrô tỏ ra không hoảng hốt, ông bình tĩnh, xem ra ông đã tin Thầy mình phục sinh rồi.

Thực ra, sự kiện ngôi mộ trống chưa có thể xác quyết được sự kiện Chúa sống lại. Chúng ta còn phải nhờ Kinh Thánh và với đức tin chân thật thì mới có thể tin Chúa đã sống lại. Chính người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng xác Đức Giêsu đã bị lấy trộm đi. Việc Chúa sống lại chỉ là tin vịt do các môn đệ dựng nên. Tuy thế, đối với ông Gioan thì không còn nghi ngờ gì nũa: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20,9).

B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Thành công và thất bại

I. ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI?

Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy:

Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)

Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).

Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).

Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.

Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).

Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).

Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).

Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)

Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).

Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).

Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).

Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).

Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).

Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.

Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói: “Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách.

Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng  như văn hào Corneille đã nói: “Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.

 

II. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.

1. Suy nghĩ của người đời.

Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục:

Nước dưới sông có khi trong khi đục,

Trang anh hùng có khi nhục khi vinh. (Tục ngữ)

Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật: “Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy “ mà hành động thì mới mong thành đạt.

Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp.  Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi. (Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)

Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.

Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: “Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người..., anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.

Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự  cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân  được đến đài vinh quang  (Sđd, trang 27).

Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói: “Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.

Ông Henry Ford cũng khuyên: “Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.

2. Chuyển bại thành thắng.

Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng  chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.

 Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.

Có hai loại thất bại:

- Thất bại khách quan (hay thụ động, tiêu cực).

- Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).

Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận...

Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp: “Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.

- Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.

- Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.

- Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được, lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.

Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: “

“Một ngàn việc tiến,

“Chín trăm chín mươi chín việc lùi, đó là TIẾN BỘ”. (Henri Frédéric AMIEL)

III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.

1. Chúa đã sống lại thật.

Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây đền thờ Giêrusalem  trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.

Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.

Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin.

2. Phải sống theo niềm tin ấy.

Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: “Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem!

a) Có những nghịch lý phải chấp nhận.

Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được  nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.

Trong cuộc sống  hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.

Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).

Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là ø hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến  sáp phải chảy ra và bị đốt thì anh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.

Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: “Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu  là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.

Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi

Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:

Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:

- Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.

Dòng suối giận dữ:

- Nhưng ta có phải là gió đâu?

Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:

- Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.

Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được  tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân  một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng

- Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.

Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:

- Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.

Tiếng nói thì thầm giải thích:

- Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc:

- Vẫn một dòng suối như cũ ư?

Giọng nói giải thích:

- Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.

Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn. (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)

Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây  là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.

b) Chiến đấu không lùi bước.

Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).

Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói:

“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.

Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai  chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.

Truyện: Quên bài kèn rút lui.

Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: “Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.

Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: “Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.

Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolo âtông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:

“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.

 

13. Phục sinh (Lễ ban ngày) Ga 20,1-9—Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

A. Hạt giống...

Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này: Maria Mađalêna, Phêrô và “người môn đệ kia” (tức tông đồ Gioan).

 

- Khi ấy là “sáng sớm khi trời còn tối”: họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.

- “Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”: “địa chỉ” của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (1,38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi “Thầy ở đâu?” lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết “địa chỉ” của Ngài.

- Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều “chạy”: Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan “cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn”. Họ “chạy” để làm chi? Để tìm đến “địa chỉ” Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.

- Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình “môn đệ kia” đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên “đã thấy và đã tin”. Gioan đã tìm được “địa chỉ” của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến “địa chỉ” này (“Thầy về cùng Cha Thầy”: xem Ga 7,33-34 8,21 13,33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.

B.... nẩy mầm.

1. Khi mọi sự quanh ta hầu như tối đen và chỉ có một tia sáng hy vọng còn le lói, thì ta làm gì: đứng đó mà than khóc, hay nhanh chân chạy tới nguồn ánh sáng?

2. Thế giới hôm nay cũng giống như một màn đêm tăm tối: nhiều người không có đức tin, không hy vọng, không yêu thương. Thế nhưng không hẳn tối đen hoàn toàn, vẫn còn một vài tia sáng của đức tin, của hy vọng và của yêu thương. Hãy lạc quan nhận ra những tia sáng đó, hãy chỉ cho mọi người thấy những tia sáng đó và hãy khuyến khích mọi người cùng ta chạy tới.

3. Đoạn Tin Mừng này đã được cải biên thành một vỡ tuồng do một nhóm học sinh công giáo trình diễn. Vỡ tuồng như sau:

- Một học sinh chạy tới hỏi một nhóm bạn học sinh khác: “Chúa Giêsu đâu rồi? Ai đã đem Chúa Giêsu đi đâu rồi?”. Mọi người ngơ ngác, sau đó ai nấy đều lần lượt trả lời “Tôi không có! Tôi không biết!”. Rồi cả nhóm cặm cụi tìm kiếm trong và quanh ngôi mộ của Ngài.

- Từ một góc sân khấu, một học sinh lên tiếng: “Đừng tìm ở đó vô ích. Chúa Giêsu đang ở với mẹ tôi ở nhà tôi đấy. Mỗi khi tôi giúp mẹ một tay thì khuôn mặt rạng rỡ của Chúa Giêsu hiện lên trong nụ cười của mẹ”.

- Từ một góc khác, một học sinh khác cũng lên tiếng: “Chúa Giêsu đang ở trong Nhà thờ đấy. Mỗi khi tôi dự lễ, tôi được nghe Ngài nói trong Tin Mừng và được ấp ủ Ngài trong lòng lúc rước lễ”.

- Từ góc thứ ba, học sinh thứ ba tiếp lời: “Chúa Giêsu ở trong lớp học. Mỗi khi tôi giúp chỉ bài cho một bạn chưa hiểu là tôi gặp Ngài”.

- Phía dưới sân khấu, nhiều khán giả dần dần cũng bị cuốn hút, mỗi người chỉ ra địa chỉ của Chúa Giêsu phục sinh mà họ khám phá được.... (Trích báo Our Family, Lent 1997, Canada).

4. Trước vành móng ngựa, bị can đã tự thú tất cả tội lỗi của mình. Cuộc sống đã không cho phép anh dìm mình mãi trong tội lỗi nữa. Ôi, cũng không thể dửng dưng với cuộc sống còn đầy những ganh ghét và đố kỵ của mình. Chẳng lẽ khi cùng đường bí lối tôi mới dám đối diện với sự thật của chính mình, mới chỗi dậy mà về cùng Cha sao?

Tôi như người ngủ mê cần chỗi dậy để được thấy vinh quang phục sinh của Người.

Lạy Chúa, xin chiếu tỏa vinh quang Chúa trên chúng con. (Epphata)

5. “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối…” (Ga 20,1)

Tôi rời nhà sau cùng, tay cầm bó hoa mới hái trong nhà xứ. Trời vẫn còn mờ tối. Bên kia đường, cạnh thúng bắp luộc đang bốc khói, cô bé đang bó gối chờ khách hàng đầu tiên.

- Này em. Chúa phục sinh gởi cho em cái này.

Tôi chìa bó hoa ra trước.

Ngạc nhiên giây lát, cô bé mỉm cười:

- Hoa đẹp quá, đổi lại anh trái bắp được không?

Ấn bó hoa vào tay cô bé, tôi vội vã bước đi.

Trời bắt đầu rạng sáng, sáng lên trên khuôn mặt của cô bé, và sáng lên con đường tôi đi.

Lạy Chúa, xin ánh sáng của niềm vui phục sinh luôn tỏa sáng trên mọi khuôn mặt và trên đường chúng con đi. (Hosanna)

 

 

 

14. Chúa đã sống lại rồi--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Sợi chỉ đỏ:

Những lời chứng về việc Chúa Giêsu sống lại:

- Bài đọc I (Cv 10, 34a.37-43): Lời chứng của Thánh Phêrô

- Tin Mừng (Ga 20, 1-9): Lời chứng của Thánh Gioan tông đồ

- Bài đọc II (Cl 3, 1-4; hoặc 1 Cr 5, 6-8): Lời chứng của Thánh Phaolô

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Lễ Phục sinh là lễ lớn nhất của năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không phải chỉ cho Ngài mà còn cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận niềm vui to lớn này.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Chúa sống lại có nghĩa là sự thiện chắc chắn chiến thắng sự ác. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.

- Chúa sống có nghĩa là ân sủng chắc chắn chiến thắng tội lỗi. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.

- Chúa sống có nghĩa là tình thương chắc chắn chiến thắng hận thù. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Cv 10, 34.37-43)

Tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, Thánh Phêrô đã tóm lược sứ vụ của Chúa Giêsu. Cao điểm của sứ vụ này là việc Ngài chịu chết và sống lại. Nhưng như thế chưa phải là hết: việc Chúa sống lại có ảnh hưởng đến mọi người: "Ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội". Vì thế các tông đồ phải làm chứng và loan truyền Tin Mừng ấy.

2. Đáp ca (Tv 117)

Ca tụng Thiên Chúa vì tình thương mà làm những việc diệu kỳ, nhất là đã làm cho Chúa Giêsu, "tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường"

3. Tin Mừng (Ga 20, 1-9)

Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này: Maria Mađalêna, Phêrô và "người môn đệ kia" (tức tông đồ Gioan).

- Khi ấy là "sáng sớm khi trời còn tối": họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.

- "Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu": "địa chỉ" của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" (1, 38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi "Thầy ở đâu?" lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết "địa chỉ" của Ngài.

- Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều "chạy": Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan "cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn". Họ "chạy" để làm chi? Để tìm đến "địa chỉ" Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.

- Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình "môn đệ kia" đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên "đã thấy và đã tin". Gioan đã tìm được "địa chỉ" của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến "địa chỉ" này ("Thầy về cùng Cha Thầy": xem Ga 7, 33-34 8, 21 13, 33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.

4. Bài đọc II (Cl 3, 1-4; hoặc 1 Cr 5, 6-8)

Vì được thông phần vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, kitô hữu phải sống một đời sống mới.

IV. GỢI Ý GIẢNG

1. "Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô"

Đức tin của chúng ta thường có tính cách "quy thần", nghĩa là tin có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật; và Thiên Chúa ấy chúng ta chỉ biết được khi linh hồn chúng ta rời khỏi thân xác này. Một đức tin như thế thì vừa lý thuyết vừa tĩnh.

Dưới ánh sáng phục sinh, chúng ta phải làm cho đức tin trở thành sống và động; đồng thời chúng ta phải làm chứng về đức tin sống động ấy cho những người chỉ có một đức tin vừa lý thuyết vừa tĩnh như đã nói trên. Nhưng làm thế nào?

Thưa chúng ta phải tập tin vào Chúa Giêsu Kitô:

- Tin vào Chúa Giêsu Kitô là tin vào Đấng đã chịu nạn chịu chết và sống lại, như Thánh Gioan tông đồ (bài Tin Mừng). Thánh Gioan đã nhìn thấy ngôi mồ trống và đã tin. Khi đó đức tin của Gioan mang một chiều kích mới hẳn: Thiên Chúa của Thánh Kinh không còn là một Thiên Chúa của quá khứ nữa mà đã trở thành "Đức Chúa", "Thiên Chúa của sự sống", luôn hiện diện trong lịch sử. Một Thiên Chúa như thế luôn có ý nghĩa với cuộc đời con người: cho dù Ngài đã chịu nạn chịu chết nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Từ nay đau khổ và chết chóc không phải là những chuyện phi lý nữa. Từ nay chúng ta cứ bước theo Ngài thì sẽ đi qua được mọi khổ đau chết chóc để đến sự sống.

- Tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng là tin vào mầu nhiệm cuộc sống của chính chúng ta: nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta có một sự sống mới, "và sự sống mới ấy hiện đang tiềm tàng với Chúa Giêsu Kitô nơi Thiên Chúa" (Bài đọc II), vì thế chúng ta "hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới".

2. Đi thăm mộ

Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến đấy để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.

- Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.

Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp của mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm Thứ Sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật: Thầy của họ đã chết thật rồi !

Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo "Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại". Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.

- Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên tin mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng phục sinh.

Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự: Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta. (FM)

3. Kỷ nguyên cứu rỗi

Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ...

Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã dưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo:

- Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.

Và ông giải thích:

- Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.

Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thấm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.

***

"Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi" (Lc 23, 5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ "đang "tập họp trong nhà cửa đóng kín, " - trên bờ biển Tibêria. Và Người" vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ "tin vào" Người, " ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.

Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xoá tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.

Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.

Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo?" (Rm 8, 35).

Vì thế,

Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.

Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.

Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết: Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.

Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen. (TP)

4. Mầu nhiệm Vượt qua

Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến phục sinh.

Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ Tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến phục sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Ánh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Ánh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.

Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc:

- Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.

- Ma quỷ không thể nào thắng được Thiên Chúa.

- Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.

Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỷ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.

Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.

Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gởi thư cho họ nói rằng "Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy" (1Pr.1, 3-9).

Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng: "Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa" (Pl.3, 1).

Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.

Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.

Bởi đó từ đêm lễ phục sinh, Giáo hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.

Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.

Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh.

Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.

5. Lăn tảng đá ra khỏi mộ

Khi các phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ băn khoăn tự hỏi "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ Chúa đây?"

Sau một trận cãi vả với cha mình, một người kia không thèm nói chuyện với cha nữa. Nhà của hai cha con chỉ cách nhau một quãng ngắn ngủi, nhưng họ không đến thăm nhau và chẳng hề nói với nhau tiếng nào trong nhiều năm dài. Người mẹ thì đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Do đó người cha phải sống một mình trong cô độc lẻ loi. Thế giới của ông ngày càng thu hẹp lại, bầu trời của ông ngày càng u ám hơn. Tuy ông chưa chết, nhưng có thể nói ông đang bị chôn trong mồ rồi.

Chúng ta ngạc nhiên vì quyền phép Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng chúng ta có biết rằng chính chúng ta cũng có thể làm được như thế không? Có thể lắm chứ. Như người con trong câu chuyện trên. Anh có thể lăn tảng đá ra khỏi nấm mộ của cha anh bằng cách đến thăm ông, nói chuyện với ông. Làm như thế tức là lại mở rộng thế giới của ông và lại làm cho bầu trời cuộc sống của ông trở nên tươi sáng. (FM)

6. Lễ Phục sinh và vấn đề đau khổ

Mừng lễ Phục sinh nhưng chúng ta vẫn còn cảm nhận những đau khổ, đau khổ của bản thân và đau khổ của tha nhân.

Tuy nhiên một yếu tố mới đã phát sinh. Nó không làm đau khổ biến mất, nhưng mang lại cho đau khổ một ý nghĩa và chiếu lên đau khổ một ánh sáng hy vọng.

Mọi sự đã đổi khác rồi, vì Chúa Giêsu vẫn còn sống và nói cho chúng ta nghe những lời bình an.

Ngài đã bẻ gảy quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta hy vọng sự sống muôn đời.

Bởi thế, dù vẫn sống giữa những khổ đau, trong lòng chúng ta đã có một niềm vui âm thầm và một cảm giác bình an sâu lắng.

Lạy Chúa, xin ân sủng Chúa bảo vệ niềm hy vọng này, và làm cho niềm hy vọng ấy được thực hiện trọn vẹn trong Nước Chúa trên trời.

7. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu (+ 407)

Tôi sẽ giải thích cho các bạn thế nào về những sự kín nhiệm? Tôi sẽ công bố thế nào về điều vượt quá mọi ngôn ngữ và mọi trí hiểu? Tôi phải làm thế nào cho các bạn biết về mầu nhiệm Chúa sống lại? Thập giá của Ngài là một mầu nhiệm, và việc Ngài chết 3 ngày cùng với những điều xảy đến cho Ngài đều là mầu nhiệm.

Thật vậy, Ngài đã được sinh ra từ cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ như thế nào, thì Ngài cũng được sống lại từ ngôi mồ đóng kín như thể ấy. Con Một Thiên Chúa đã trở thành con đầu lòng sinh bởi một người mẹ thế nào, thì Chúa Giêsu phục sinh cũng trở thành kẻ sống lại đầu tiên của loài người như thể ấy. Hơn nữa, cũng như việc Ngài sinh ra không làm mất đi sự đồng trinh của Đức Mẹ thế nào, thì việc Ngài sống lại cũng chẳng phá vỡ những dấu ấn của ngôi mồ thế ấy. Tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói về sự sinh ra của Ngài, tôi cũng chẳng biết nói sao về việc Ngài ra khỏi nấm mồ.

"Hãy đến xem nơi Chúa đã nghỉ" (Mt 28, 6), nghĩa là "Hãy đến xem nơi soạn thảo sắc chỉ bảo đảm sự sống lại của bạn. Đó là nơi sự chết bị chôn. Đó là nơi mà một thân xác, một hạt giống không được gieo xuống bởi con người, đã trổ sinh nhiều bông lúa bất tử.

"Hãy đi loan báo cho các anh em Ta là họ phải đến Galilê và gặp Ta ở đấy" (Mt 28, 10), nghĩa là "Hãy đi báo cho các môn đệ của Ta về những điều các người đã được chiêm ngưỡng".

Trên đây là những lời Chúa phán với các phụ nữ. Và ngay bây giờ nữa, bên bờ giếng rửa tội, Chúa vẫn hiện diện vô hình cạnh các tín hữu. Ngài ôm ấp những người mới được rửa tội như ôm ấp những bạn hữu và anh em. Ngài đổ đầy niềm vui và hoan lạc trong tâm hồn họ. Ngài rửa sạch mọi vết nhơ của họ trong dòng nước ân sủng. Ngài xức dầu Thánh Thần cho những người được tái sinh. Chúa trở thành lương thực và người nuôi dưỡng họ. Ngài nói với mọi tín hữu rằng "Hãy ăn bánh bởi trời, hãy uống nước chảy ra từ cạnh sườn của Ta. Các con đang đói, hãy ăn no nê; các con đang khát, hãy uống thỏa lòng"

Ôi lạy Đức Kitô, Thiên Chúa chúng con. Chỉ mình Ngài là Đức Chúa duy nhất, đầy lòng nhân từ yêu thương con người. Cùng với Chúa Cha hoàn toàn vẹn sạch và Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, chúng con xin dâng lên vinh quang và quyền lực, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. Amen.

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô Phục sinh để trở nên nguồn sống mới và chính Người sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã báo Tin mừng cho mấy phụ nữ và các tông đồ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / trở nên những chứng nhân trung thành của Đấng Phục sinh.

2. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và tử thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cởi bỏ con người cũ / và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô Phục sinh.

3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ / và ban Thánh thần cho các ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / để Người tái tạo chúng ta.

4. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đem đến cho những ai tin Người bình an và vui mừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những sứ giả mang bình an / và niềm vui đến cho hết thảy mọi người.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết đau thương và sống lại vinh hiển để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần là Đấng cho chúng ta được tham dự vào sự sống và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Vậy chúng ta hãy kết hợp với Chúa Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha những lời cầu nguyện do chính Chúa Giêsu dạy.

- Sau Kinh Lạy Cha: "…. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Chúa Giêsu phục sinh luôn chúc cho các môn đệ…"

VII. GIẢI TÁN

Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong thế giới. Chúng ta hãy làm chứng cho Ngài, làm chứng về niềm vui và sự bình an của Ngài. Alleluia, alleluia.

 

15. Chúa đã sống lại thật rồi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối" (Ga 20, 1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.

Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy? Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.

Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia! Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?

Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).

Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!

Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).

Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: "Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5, 7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.

Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).

Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thuở. Allêluia!

 

16. Mừng Vui Lên (Lc 24, 1-12)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.

Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” (Lc 24, 4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24, 5). Thấy vậy, hai người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” (Lc 24, 1), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ?” (Lc 24, 2). Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24, 7).

Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1, 8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37, 12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô... Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

 

17. Ông đã thấy và đã tin--Dã Quỳ

Nào ta hãy mừng vui. Chúa đã sống lại thật rồi, Alleluia. Chúa đã chiến thắng tử thần, Alleluia. Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng Lễ Chúa Phục Sinh. Niềm vui mừng này cần được trải dài trong suốt cuộc đời mỗi người Kitô hữu. Tin Mừng Phục Sinh sẽ là Tin loan trên môi miệng và trong cuộc sống của chúng ta. Đó chính là niềm tin vào Chúa Sống Lại không chỉ kiểm chứng qua ngôi mộ trống hay những lần Chúa hiện ra mà qua chính lời nói, hành động của Gioan, Phêrô, của các Tông đồ khác và của chúng ta.

Qua Tin Mừng, chúng ta đã biết trước khi Chúa bị bắt, hành hình và sau khi Chúa chết, các Tông đồ đã sợ hãi, thất vọng, buồn rầu và dường như đó là dấu chấm hết. Cả bầu trời của các ông như đêm đen! Các ông như cũng quên luôn những lời Chúa dặn dò trong các lần tiên báo về cuộc Thương Khó: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều...bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy."(Lc 9, 22) Thế nhưng, giờ đây niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã bừng dậy trong Phêrô và Gioan. Những gì các ông thấy là tảng đã đã lăn ra khỏi cửa mồ, là ngôi mộ trống, khăn liệm và băng vải xếp ngăn nắp. Mặc dù các ông chưa gặp Chúa nhưng dấu chỉ này đã khơi lên trong trí các ông lời Kinh Thánh và chính Lời Chúa đã tiên báo. Tâm hồn các ông sáng lên niềm vui và hy vọng. Niềm tin Phục sinh đã cho các ông sống lại với Chúa. Tất cả sức sống mới của Chúa tuôn tràn trong các ông. Sự can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh trong hăng say của các ông đã minh chứng cho sự Phục sinh vinh hiển của Chúa.(x Cv 2, 14) Từ nay, cuộc đời của các ông chỉ còn sống và chết cho Chúa Kitô Phục Sinh bởi vì các ông "Đã thấy và đã tin" vào Đấng đã chết và sống lại vì các ông.

Hôm nay, theo bước các Tông đồ, cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng là một cuộc dấn thân cho Niềm tin Phục Sinh. Nếu không tin vào Chúa Giêsu Kitô đã Sống Lại, chúng ta không còn phải là Kitô hữu. Niềm tin mà chúng ta tuyên xưng trong Thánh Lễ: "Lạy Chúa Giêsu, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại và chúng con chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang." cũng sẽ là niềm tin mà chúng ta cần sống cách thiết thực trong cuộc sống hằng ngày:

+ Chúa Phục Sinh mời gọi chúng ta sống vui tươi, hy vọng cho dù những khó khăn vẫn còn đó nhưng Chúa luôn đồng hành với chúng ta, Người hiện diện với chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta. Và Người mong chúng ta biết đem niềm vui Phục Sinh đến với những ai đang buồn sầu, đem hy vọng cho những ai đang chán nản mất cậy trông.

+ Chúa Phục Sinh cũng muốn chúng ta nhận ra Chúa hiện diện trong từng anh chị em, nơi những người thân trong chính gia đình mình, nơi người bạn đồng nghiệp, nơi người bán hàng...trong những người ta gặp gỡ trên đường và nhất là trong những người nghèo khổ, đói rách bị gạt ra lề xã hội...Và Chúa mong chúng ta thể hiện bài học yêu thương phục vụ mà cả đời Người đã sống, đã dạy chúng ta, nhất là buổi học cuối cùng Người đã tha thiết nhắn nhủ "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau"(Ga 13, 35) và "...anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em."(Ga 13, 14-15) Khi ta sống yêu thương phục vụ anh em, ta cũng sẽ nhận ra Chúa Phục Sinh trong chính khuôn mặt và đời sống của mình.

+ Chúa Phục Sinh mong chúng ta sống bình an. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh và sự hiện diện của Chúa sẽ là niềm bình an đích thực trong chính chúng ta và sẽ được tỏa lan trong môi trường ta sống. Sau khi Sống Lại, Chúa không nhắc đến những gì là quá khứ như đau khổ, bị hành hạ, sỉ nhục...và Chúa cũng chẳng trách môn đệ hờ hững, kém tin... hay đã bỏ rơi, chối Chúa. Nhưng những gì Người nói và ban cho các ông luôn chỉ là "Bình an cho anh em!" (Ga 20, 19.21) Chúa biết rõ chúng ta yếu hèn, mong manh và hay lo lắng. Chúa biết điều chúng ta cần hơn cả là sự Bình An của chính Chúa. Đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ bình an. Khi bình an, tin tưởng, chúng ta sẽ sống hết tình hết mình vì Chúa và cho anh em.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dùng Thánh Giá và sự Phục Sinh của Chúa để giải thoát chúng con, xin cứu độ chúng con. Xin ban thêm đức tin cho chúng con và mãi đồng hành cùng chúng con để chúng con biết hăng say sống và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh. Amen.

 

18.  Sồng thiện và yêu thương mọi người nhận ra Chúa phục sinh hằng ngày--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Cả bốn Tin Mừng đều ghi nhận biến cố Chúa phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, tức ngày thứ nhất trong tuần. Thánh Gio-an hôm nay kể: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Tại sao bà ta "chạy", mà không đi vì chị thấy ngôi mộ mở và trống hoang! Bà hốt hoảng, thêm vào đó bà chưa gặp Đức Giêsu. Bà chưa tin Chúa phục sinh nên, bà chạy nhanh đi báo tin cho các môn đệ. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. “Bấy giờ, Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin”.

Rõ ràng khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, tác giả Luca nói rõ ràng rằng ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24, 12). Còn Gioan hôm nay nói Phêrô thấy mọi sự trước mắt, và thấy cũng như thấy, không hiểu điều gì đang xảy ra. Gioan kể tiếp còn người môn đệ kia: "ông đã thấy và đã tin". Môn đệ kia là ai? Ông đã thấy những gì và tin ai? Người môn đệ kia đó là Gioan, ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không thấy và chưa tin, ngược lại ông thì thấy và tin. Và Thánh Gioan viết người môn đệ kia, cũng có ý nói với mỗi người chúng ta hãy đặt mình trước ngôi mộ trống ấy để thấy và tin Chúa đã sống lại. Vậy hôm nay, để thấy và tin Chúa đã phục sinh, chúng ta cần phải có đôi mắt của đức tin và con mắt của yêu thương. Vì yêu thương mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì yêu ông là người đầu tiên đã tin Chúa phục sinh trước Phêrô và sau này trên bờ hồ Galilê đã nhận ra Đức Giêsu phục sinh trước Phêrô (Ga 21, 7).

Quả thế, Gioan đã yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu: Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa. Kinh nghiệm cho thấy khi thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù phải xa nhau về thể lý hay đã qua đời. Cho nên, khi còn sống, chúng ta trao nhau hình ảnh chân dung như một vật kỷ niệm để luôn nhớ người mình thương đang ở với mình. Còn khi qua đời thì thờ di ảnh nửa người, vì sao phải thờ nửa người mà không phải chân dung, vì ông bà dạy: “Nhìn mặt mà bắt hình dong”, chỉ cần nhìn mặt là nguyên cả người mình thương đang ở bên mình đồng hành với mình và nhớ lại từng lời nói, hành động của người mình yêu dù đã khuất nhưng vẫn còn ở bên ta. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy những hành động xếp khăn vải và kiểu cách xếp của Ngài khi xưa và ông đã tin. Những lo lắng trần gian như bà Mađalêna cứ mãi đi tìm xác chết nơi kể sống. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tin rằng Chúa Giêsu phục sinh đang hiện diện nơi đây.

Trong hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa phục sinh và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa. Vì chưng, Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới mỗi ngày, như thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).

Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, chúng ta cần phải quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, tội lỗi, thói vô cảm và dững dưng trước nỗi khổ của tha nhân, để mặc lấy con người mới là con người sống thánh thiện, vị tha và yêu thương tha nhân. Vì vậy, trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Một khi luật của Thiên Chúa, luật yêu thương, bị loại bỏ, thì luật mạnh được yếu thua sẽ thắng thế. Tội lỗi tiềm ẩn trong lòng con người (x. Mc 7, 20-23) mang hình dạng của thói tham lam và tìm kiếm an nhàn cách vô độ, thiếu quan tâm đến thiện ích của người khác và thậm chí của chính mình. Nó dẫn đến việc bóc lột thiên nhiên, cả con người lẫn môi trường, do sự thèm muốn vô độ vốn coi mọi ham muốn như một quyền và chẳng sớm thì muộn sẽ hủy diệt tất cả những gì nằm trong tầm tay của nó”. Cho nên, chỉ khi chúng ta sống thiện và yêu thương tha nhân, chúng ta nhận ra Chúa phục sinh luôn ở trong ta, làm cho ta mỗi ngày trở nên giống Chúa trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc đã dạy chúng ta rằng: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3, 1-4).

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, đã bao năm qua, chúng con mừng lễ Chúa phục sinh chỉ như kỷ niệm, một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của chúng con. Vì thế, đã bao năm, chúng con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, chúng con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống thiện và thương yêu hết mọi người để được Chúa phục sinh ở lại trong chúng con hằng ngày. Amen.

 

19. Niềm tin Chúa Phục Sinh đổi mới đời ta--Joshepus Quang Nguyễn

Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Đây là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Qủa thế, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14); và “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15, 17-19).

Ðể hiểu thấu mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta cần dừng lại thật lâu và sâu nơi ngôi mộ trống qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Điều đáng chú ý ở đây ngôi mộ chôn Chúa Giêsu là mới hoàn toàn, chưa chôn cất ai (Ga 19, 41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Ðồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Ðức Giêsu. Ông đã đến gặp chính quyền để xin xác của Thầy mình và tẩm liệm cẩn thận. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mộ. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà chạy về báo cho Phêrô và Gioan, hai ông liền chạy đến mộ, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Tin cái gì? Tin rằng Chúa Giêsu, Thầy mình đã sống lại. Rõ ràng, từ ngôi mộ, từ tối tăm chết chóc và rữa nát, sự sống đã bật dậy, cửa mộ đã mở toang vì ngôi mộ không thể chứa được Ðấng đã Phục sinh.

Quả thật, Chúa Giêsu đã Phục Sinh, Ngài đã sống lại từ cõi chết. Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại phải chết. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Như vậy, sự Phục Sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta. Cho nên, Chúa Giêsu xác quyết: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25-26).

Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Vậy, chúng ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ, có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người của ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai. Đây chính là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho là thói vô cảm toàn cầu hóa. Nếu chúng ta diệt trừ thói vô cảm này, nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới. Vì vậy, Thánh Phaolô nói: “Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 13).

Thánh Phaolô xác tín: “Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4, 24); đồng thời “phải đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình” (Cl 3, 10). Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ tính hư tật xấu và tội lỗi, để mặc lấy con người mới sự sống mới của Chúa Giêsu Kitô phục sinh: sống vị tha, sống yêu thương, sống cho, sống với, và sống vì tha nhân. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.

Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, để Ngài biến đổi chúng ta nên người mới, một đời sống đức tin mới, chúng ta hãy luôn gắn bó với Chúa Giêsu phục sinh trong lúc vui, mọi nơi và mọi hoàn cảnh đồng thời biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi để khiêm nhường sống niềm tin: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại với Chúa phục sinh” một cách quyết liệt và triệt để qua việc sống Lời Chúa hằng ngày. Vì vậy, mừng Chúa sống lại, mỗi người chúng ta cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình để “Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang”.

Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta kính nhớ hôm nay trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta đám sống, dám chết cho Chúa và cho nhau để ngày sau chúng ta cùng phục sinh vinh hiển với Chúa. Allêluia.

 

20. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn

TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA GIÊSU

SẼ MANG LẠI HẠNH PHÚC CHO CHÚNG TA

Chuyện kể rằng ngày 28.3 vừa qua, có một cụ già 70 tuổi ở Mỹ, sau khi điều trị bệnh viêm phổi virút Corona, ông phải thở máy thở trong suốt thời gian điều trị, hôm nay ông khỏi bệnh và ra viện. Khi ra khỏi phòng bệnh, các y bác sĩ đưa ông tờ giấy xuất viện, ông cầm tờ giấy đi ra trước sân bệnh viện mà khóc nức nỡ, mọi người thấy vậy liền hỏi. Sao ông khóc? Ông không có tiền đóng viện phí hả? Hay ông không có con cháu đến đón ông? Ông trả lời: “Không, tôi khóc vì sau hơn 20 ngày tôi thở bằng máy, hôm nay tôi trở bằng khí trời mừng quá mà khóc, tôi khóc vì 70 năm qua tôi thở khí trời này mà tôi không cảm thấy quý nó, biết ơn Thiên Chúa đã trao ban cho con người, tôi không tin thờ Ngài và tạ ơn Ngài mọi ngày tôi có thở tự nhiên được. Tôi khóc vì hôm nay Chúa đã cho tôi được hít lại không khí tự nhiên này. Tạ ơn Chúa”.

Sau bốn mươi ngày chay tịnh, tuần thánh trong âm thầm tĩnh lặng hy sinh và cầu nguyện, hôm nay tiếng vui mừng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Vì Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng việc Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: Ngài đã tắt thở nay được hít thở trở lại, tức Ngài sống lại từ trong kẻ chết? Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả trong bài đọc 2 rằng Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.

Niềm tin vào sự sống lại trước hết chúng ta tin vào chính Chúa Giêsu đã sống lại từ lời chứng thực của các Tông đồ trong ngôi mộ trống hôm nay. Sau đó, chúng ta tin vào Lời Chúa đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của việc sống lại của chúng ta. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã viết: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng Ngài và bước ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là: bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời. Cho nên, trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã nói với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời. Con có tin không? Cô Mátta thưa: “Thưa Thầy con tin” và phép lạ đã xảy ra.

Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay để tìm thấy ở đó niềm tin hy vọng và ủi an cho chúng ta trong thời đại dịch bệnh này. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Tảng đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Ngôi mộ chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài đã giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời.

Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Nếu người không tin Đức Kitô, họ ghi trên bia mộ người chết rằng: Đây là nơi an nghỉ đời đời. Nhưng từ khi Đức Kitô Phục sinh, chúng ta tin vào Ngài thì phải ghi trên bia mộ rằng: Đây là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng. Cho nên, chúng ta thường thấy ghi nơi các nhà để tro cốt tại các nhà thờ dòng chữ: Nhà Vọng Phục Sinh là có ý đó.

Chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Hơn thế nữa, hồn mà trong trắng đơn sơ thật thà thì xác sẽ là thánh và thiện, còn hồn mà đầy gian xảo mưu mô độc ác, gian dâm thì xác sẽ tội lỗi xấu xa. Vì vậy, hồn dự vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác là hạnh phúc đời này và đời sau. Cũng như đức tin, chúng ta tin Chúa mà không bao giờ sống Lời Chúa và tuân giữ các điều răn Chúa dạy thì cũng như có xác mà không hồn, cũng như hít hở không khí mà không biết nó cần và quý cho sự sống cho chúng ta. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay sống lại là đem lại hơi thở là sự sống mới cho chúng ta bởi chúng ta đã chết phần xác phần hồn, chết sự thánh thiện, chết hạnh phúc, niềm hy vọng, sự an ủi và sự sống đời đời vì tội nguyên tổ, vì tội riêng ta phạm. Vậy, hôm nay Chúa sống lại, chúng ta cũng sống lại và sẽ sống lại trong ngày sau hết nếu chúng ta tin vào Chúa, sống và thi hành Lời Chúa. Đúng như Lời Chúa dạy: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của anh em thật là hão huyền”

Đức tin của chúng ta đã không hảo huyền vì Đức Kitô Đức Kitô đã sống lại. Đó là xác quyết của Phêrô, Giacôbê, Gioan… và cả chúng ta là những người đã từng đi theo, đã cùng sống, cùng ăn, cùng ở với Đức Giêsu và cũng tin vào Chúa Giêsu như các thánh Tông đồ xưa. Hôm nay Đức Kitô đang sống và lời rao giảng của Người là sự thật. Và sự thật Đức Giêsu công bố chính là những nẻo đường dẫn tới sự sống, tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, ai bước đi theo Chúa, tin Chúa và sống theo Lời Chúa, chắc chắn sẽ được sống dồi dào và được hạnh phúc, được an ủi, được lành thánh, được giải thoát khổ đau và được chữa lành. Với niềm tin đó, chúng ta tuyên xưng đức tin.

 

21. Gioan thấy và tin--Lm. Trầm Phúc

Hôm nay Giáo Hội vui mừng loan báo cho mọi người tin vui: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI.

Thánh đường rực rỡ hoa đèn diễn tả niềm vui thánh thiện nầy.

Chúng ta có vui không?

Chúng ta vui vì tiếng hát Alleluia vang dội, vì hoa đèn rực rỡ. Nhưng lòng chúng ta có rộn rã vui mừng không?

Niềm vui phục sinh không là niềm vui của tất cả mọi người. Mốt số người đến dự lễ, tâm hồn vẫn giá băng. Niềm vui phục sinh như niềm vui của ai đó, không phải là của họ. Tâm hồn họ xa lạ với bầu không khí hân hoan từng bừng quanh họ. Tại sao?

Vì họ xa lạ với Đấng phục sinh. Họ cảm thấy lạc loài giữa rừng người hân hoan ca hát Alleluia. Vì họ không chịu đóng đinh và chết với Chúa Kitô, họ không phục sinh với Ngài.

Niềm vui phục sinh chỉ dành cho những người đã chịu tử nạn và chết với Chúa Ki-tô mới biết rằng mình đã đi từ cái chết đến sự sống. Có chết đi mới có phục sinh.

Niềm vui phục sinh được khai nguyên từ cái chết: “Con Người phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Nếu hạt lúa mì không thối đi nó vẫn trơ trọi, nhưng nếu nó thối đi, mới sinh nhiều bông hạt”.

Niềm vui phục sinh chỉ dành cho những người tin mãnh liệt vào một Thiên Chúa Tình Yêu, “dám chết cho bạn hữu” và sống lại để cứu vớt họ khỏi cái chết và mang lại sự sống, sự sống đích thực, là sự sống trong Ngài, làm con của Chúa Cha.

Chúng ta có thuộc về những người tin đó không?

Niềm vui phục sinh không phải chỉ là niềm vui bên ngoài: cười nói, ca hát, nhảy múa, … mà là một niềm vui sâu lắng trong tâm hồn, niềm vui của tình yêu, của sự hiệp thông.

Con người hôm nay chỉ tìm vui trong rượu mạnh, trong nhảy múa hát ca nhộn nhịp, trong hưởng thụ vật chất mà tâm hồn buồn chán đến chết được. Càng ca hát càng nhảy múa nhộn nhịp, họ càng cảm thấy tâm hồn trống trải không gì có thể lắp đầy được.

Chúng ta không cần ồn ào nhộn nhịp, niềm vui của chúng ta là tin vào tình yêu không biên giới, tình yêu của Thiên Chúa Tình Yêu.

Tại sao các thánh tử đạo dám liều mạng trong ngục tù, trong khổ hình? Tại sao các tu sĩ tự giam mình trong nếp sống khắc khổ nguyện cầu suốt đời? Phải chăng là họ đã tìm được niềm vui, tìm được tình yêu đích thực và sung mãn?

Phục sinh là đỉnh chóp của tình yêu, là sự toàn thắng của tình yêu: “Ngài đã yêu tôi và đã liều mạng cho tôi”.

Nguồn suối của niềm vui phục sinh là thế đó. Niềm vui trần thế vụt đến rồi vụt đi, để lại cho con người tiếc nuối khôn nguôi và lắm khi là tuyệt vọng: “Bộ mặt thế gian nầy qua đi”.

Niềm vui của Chúa tồn tại qua mọi biến chuyển, mọi đau khổ trần thế.

Niềm vui của Chúa sẽ chiến thắng mọi khổ đau: “Chúng con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”… Thầy đến để niềm vui chúng con được trọn vẹn”.

Chúng ta đã tìm được kho tàng mà trần gian không tìm được. Hạnh phúc của chúng ta là biết rằng Chúa chúng ta đã sống lại và sự chết không còn quyền gì trên Người nữa. Sự sống hôm nay là sống trong Ngài, trong ánh sáng phục sinh của Ngài.

Trần gian, với tất cả những chuỗi dài đe dọa, khổ đau, bệnh tật, gian ác, không thể nào cướp mất niềm vui của chúng ta, vì “chúng ta được chôn táng trong Chúa và sự sống của chúng ta được ẩn giấu trong Ngài”.

Chúng ta thật diễm phúc!

Các Tông đồ không được như chúng ta. Họ phải trải qua một tiến trình đau đớn. Phêrô kinh nghiệm sự yếu đuối và hèn nhát của mình. Các Tông đồ khác lo sợ, chạy trốn. Họ chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết thê thảm của Ngài. Họ phải trải qua sợ sệt, đau khổ, có khi là tuyệt vọng.

Khi Thầy sống lại, họ phải tìm kiếm trong lo âu, trong ánh sáng mù mờ của bình minh còn yếu ớt. Họ phải hoài nghi, bấp bênh…

Maria Macđala, sáng tinh sương, chỉ thấy cái mồ trống và không thấy xác Thầy. Simon Phêrô kiểm chứng chỉ thấy một khăn liệm xếp lại ngăn nắp, nhưng cũng không thấy Thầy. Niềm tin của ông còn chập choạng, mong manh.

Thánh Gioan cho chúng ta thấy: Maria Macđala chạy. Chạy vì hấp tấp, vì sự trầm trọng của biến cố. Phêrô và Gioan cũng chạy. Gioan chạy nhanh hơn. Tại sao phải chạy?

Chúng ta làm gì khi nghe biết nhà chúng ta đang cháy?

Sau cùng, Gioan “đã thấy và đã tin”. Ông thấy một điều (khăn liệm và mồ trống) và ông tin một điều khác: Thầy đã sống lại.

Hôm nay, chúng ta “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.

Biến cố phục sinh vừa là kết thúc một giai đoạn, là công trình cứu độ, vừa là khởi điểm cho một tương lai bất tận: sự sống lại của chúng ta.

Ánh sáng của Chúa phục sinh là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta đang đi trong ánh sáng. Đừng để ánh sáng ấy mờ đi. Đừng để cho hình ảnh của Ngài phai nhòa trong tâm khảm chúng ta.

Đừng để cho niềm vui phục sinh vụt tắt, nhưng hãy giữ cho nó sáng mãi và trở nên niềm hy vọng hướng dẫn cuộc sống hôm nay, thấm sâu vào những công việc tầm thường nhất.

Hãy là nhân chứng đáng tin cậy cho Chúa phục sinh bằng một đời sống bình thường nhưng tươi sáng, nhẹ nhàng, tràn đầy yêu thương. Hãy đem niềm vui phục sinh cho những người không may mắn, những người đang tủi buồn cô đơn, những bệnh nhân không còn hy vọng, những nạn nhân của bất công, hận thù.

Chúa đang hẹn một ngày gặp gỡ trong vinh quang. Vinh quang bắt đầu từ hôm nay trong tin yêu và sẽ kết thúc trong tin yêu.

Nơi bàn thờ hiến tế, cũng Chúa Giêsu đó, Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại trong vinh quang; Đấng trở thành nguồn sống bất diệt cho chúng ta. Ngài đến nuôi dưỡng niềm vui của chúng ta bằng cách cho chúng ta ăn lấy Thịt Máu Ngài “để niềm vui của chúng ta trọn vẹn”.

Hãy tiếp đón Ngài và dành cho Ngài quyền ưu tiên tuyệt đối trong cuộc sống hôm nay của chúng ta. Alleluia.

 

22. Suy niệm canh thức Vượt Qua (Lc 24, 1-12)--Lm. Trầm Phúc

Sau đêm dài u tối và đau khổ, giờ đây là bình minh, với ánh mặt trời yếu ớt và từ từ rực sáng.

Các môn đệ Chúa đang trong cơn thất vọng. Thầy chết rồi, đã an táng Thầy rồi… Chúng ta sẽ ra sao đây? Trong các ông, không có ông nào nhớ lời Thầy: “ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”.

Khi nỗi buồn quá nặng, những lời an ủi cũng chẳng đi đến đâu.

Các bà lo an táng Thầy hôm trước đang chuẩn bị dầu và đi đến mộ ướp xác Thầy cho tươm tất, vì hôm ấy, trời sẫm tối và mọi sự lộn xộn hấp tấp, chẳng đâu vào đâu. Hôm nay nếu họ ướp xác Thầy sẽ dễ dàng hơn.

Không ai nhớ lời Thầy đã nói. Nhưng đến mộ, họ đã thấy gì?

“Tảng đá đã lăn ra khỏi mộ… nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả”. Không ai có thể nghĩ một người chết có thể sống lại. Các bà này cũng thế thôi, họ tưởng rằng họ đang lo cho Ngài, giúp Ngài được an táng một cách tươm tất.

Khi thấy cửa mộ mở toang và không thấy xác Chúa Giêsu nữa, chúng ta nghĩ mấy bà phản ứng như thế nào? Thánh Luca chỉ nói: “Các bà đang phân vân”, nghĩa là chưa biết phải làm gì, thì hai người đàn ông, y phục sáng chói, đã can thiệp: “Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi”, tức là đã sống lại.

Bình minh đã tỏ rạng. Không còn tăm tối u buồn nữa. Nhưng không thể tin được! Sự kiện nầy vượt quá sự tưởng tượng của các bà. Để các bà có thể tin được, hai người kia nhắc: “Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại”.

Bấy giờ các bà mới nhớ, mới bình tĩnh lại và tin.

Phải có thời gian để nối kết dĩ vãng với hiện tại. Chúa Giêsu muốn các tông đồ tin Ngài sống lại trước khi thấy Ngài. Ngài tôn trọng định luật tâm lý con người. Ánh sáng quá chói chang sẽ làm lòa mắt. Ngài hướng dẫn họ từng giai đoạn từ nghi ngờ đến niềm tin, từ cái mộ trống đến gặp gỡ: “ Tại sao lại tìm một người sống trong cõi chết nầy? Hãy nhớ lại những gì Người đã nói hồi ở Galilê”.

Không những nhớ lời nói và cả việc làm: người thanh niên con bà góa thành Nain, sống lại… Em bé con ông Giairô, sống lại… và mới đây Ladarô, chêt bốn ngày, sống lại. Bao nhiêu cuộc sống lại đó không mang một ý nghĩa nào sao? Không gợi lại một ý nghĩa nào trong óc của họ sao?

Có lẽ sau một lúc ngỡ ngàng, các bà đã tin. Họ về tường thuật lại cho các tông đồ, nhưng các ông không tin cho rằng các bà yếu bóng vía, sợ ma và nhiều chuyện. Xã hội Do thái không tôn trọng nữ giới cho lắm. Nhưng Phêrô cần kiểm tra.

Ra mộ, Phêrô đã nhìn thấy. “Ông rất đỗi ngạc nhiên”, thế thôi. Ông đã tin chưa? Luca không nói rõ, nhưng chắc chắn ông đang trên con đường đi đến đích. Niếm tin của ông dần dần rõ nét.

Còn chúng ta?

Niếm tin của chúng ta được hưởng nhờ niềm tin của các Tông đồ, những chứng nhân đích thực của sự phục sinh. Chúng ta không bị chao đão xao xuyến như các ngài. Chúng ta thật diễm phúc! Niềm tin của chúng ta quá dễ dàng, nhưng chính vì thế mà nó không khắc ghi trong chúng ta một ấn tượng nào. Và đó là một nguy cơ. Chúng ta không cần tìm kiếm, vì thế, niềm tin của chúng ta hời hợt, nông cạn, không ảnh hưởng mạnh mẽ trên cuộc sống chúng ta. Phải nhìn nhận rằng chúng ta tin, nhưng niềm tin của chúng ta có thực sự sống động không? Niềm tin đó đã tác động thế nào trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta? Chúng ta có thể là những chứng nhân đáng tin cho Chúa phục sinh không?

Tin vào Chúa phục sinh là một sức mạnh có thể chuyển biến mọi sự: tư tưởng, hành động và mọi thực tại tầm thường nhất của cuộc sống.

Tin vào Chúa phục sinh là tin rằng mình đã phục sinh với Ngài và cuộc sống hôm nay, trong thực tế của mỗi ngày, đều hướng về Ngài, cho Ngài.

Đọc lại những lời của thánh Phaolô, chúng ta thấy Ngài sống với Chúa Giêsu như thế nào? Hoàn toàn xả thân, coi mọi sự là rơm rác, chịu đựng mọi sự gian khổ vì Ngài. Phaolô cũng như chúng ta, không thấy ngôi mộ trống, không chứng kiến Chúa hiện ra, có chăng là trước cửa thành Đamát, nhưng ngài đã tin mãnh liệt đến nỗi liều mất tất cả để đoạt được Chúa Giêsu mà thôi.

Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể giống như các tông đồ hay Phaolô. Tại sao lại không? Chỉ vì chúng ta chưa tin hay tin nửa vời. Chúng ta không giống các ngài trên nhiều phương diện, nhưng niềm tin chỉ là một. Chúa Giêsu đã chết và sống lại cho các ngài cũng như cho chúng ta. Chúng ta cũng được hưởng hồng ân cứu độ như các ngài, sao chúng ta không dám sống cho Chúa? Sao chúng ta còn ham thế gian, chạy theo thế gian với những cái phù phiếm của nó?

Câu hỏi mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta là: con có tin không?

Một khi đã tin rằng Chúa Kitô đã chết và sống lại cho tôi, thì cuộc sống hôm nay phải là một cố gắng liên tục để nhường chỗ cho Chúa sống như Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta nghĩ rằng, Thánh Phaolô là thánh còn tôi, tôi chưa đạt tới đỉnh như Ngài. Đúng, chúng ta chưa như Ngài, nhưng chúng ta có cố gắng không? Chúng ta có thực sự muốn sống với Chúa chúng ta thân thiết gần gũi như thế không?

Chúa Kitô đã sống lại thật, chúng ta không nghi ngờ gì nữa, nhưng chúng ta có thực sự là những người được thoát ách tội lỗi và đang sống làm một với Ngài không? Sự sống lại của Ngài có là một thực tế hiển nhiên qua cuộc sống chúng ta không?

Chúa đã chết và sống lại cho chúng ta, “để niềm vui chúng ta được trọn vẹn”, chúng ta dám cộng tác với Ngài để niềm vui của Ngài được trọn vẹn không?

Ngài chết và sống lại vì yêu thương chúng ta, chúng ta có yêu thương Ngài như Ngài đã yêu thương chúng ta không? Chúng ta không thể yên tâm khi chúng ta chưa đáp lại tình yêu của Ngài. Hãy để cho con tim chúng ta bị ray rứt mãi vì chưa yêu Ngài. Cái ray rứt đó chính là hồng phúc vì nó đưa chúng ta vào tình yêu. Thánh Âutinh đã nói: “Chúa đã tạo nên chúng con cho Chúa và tim chúng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Hôm nay, chúng ta sẽ ăn lấy Chúa và con tim của chúng ta chỉ còn là một với Ngài, thì chớ gì cuộc sống chúng ta cũng sẽ mãi là một với Ngài. Đó là thiên đàng ở trần gian. Chúng ta có biết hạnh phúc của chúng ta không?

 

23. Suy niệm Thứ Bảy Vọng Phục Sinh--Lm. Anthony Trung Thành

Ngày thứ Bảy tuần thánh, Giáo Hội dừng chân trước mộ Chúa Giêsu để suy niệm về cuộc khổ nạn đau thương của Ngài. Chính vì vậy, Giáo Hội gọi ngày thứ Bảy tuần thánh là ngày thầm lặng.

Theo cái nhìn của loài người thì đây là ngày buồn nhất trong năm. Không khí đượm màu tang tóc. Vì Chúa Giêsu đã chết, được an táng trong mồ. Nhưng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo “Sau ba ngày Ngài sẽ sống lại” (x. Mc 8, 31; Mc 9, 31; Mc 10, 33- 34). Vì vậy, Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Chính đêm nay, niềm hy vọng phục sinh đã bừng lên trong toàn thể Giáo Hội. Đức Kitô đã chiến thắng sự chết. Ngài đã sống lại, đó là niềm vui, niềm hy vọng và là nền tảng niềm tin của tất cả mọi người kitô hữu chúng ta. Bởi vì, Giáo Hội đã được khai sinh từ mầu nhiệm trọng đại này, và đó cũng là đích điểm của mọi người kitô hữu chúng ta.

Lễ nghi đêm nay bắt đầu bằng nghi thức thắp nến phục sinh. Toàn thể thế giới nằm trong bóng tối, và đang mong đợi ánh sáng, nhân loại đang trông chờ ơn giải thoát. Chủ tế bắt đầu nghi thức làm phép lửa và thắp lên cây nến phục sinh. Cả nhà thờ đang tối tăm, bổng ánh sáng phục sinh chiếu soi lan toả. Ánh sáng phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô đã sống lại. Chúa Kitô đến xua tan bóng tối tội lỗi, sự chết, sự thất vọng, để đi vào sự sống bất diệt. Trong lời nguyện làm phép lửa, Giáo Hội cầu xin Thiên Chúa cho ngọn lửa khao khát nước trời thiêu đốt tâm hồn các tín hữu và thanh tẩy muôn vàn tội lỗi, để mai sau họ được xứng đáng tham dự ánh sáng ngàn thu.

Trong đêm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta đều cầm nến sáng được thắp từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Chính vì vậy, đời sống của mỗi người chúng ta phải chiếu sáng cho những người xung quanh. Khi đứng cầm nến sáng trong tay, Giáo Hội còn nhắc nhở chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, sẵn sàng để đón chờ Chúa Kitô ngự đến trong ngày chung thẩm.

Trong phần công bố Tin Mừng Phục sinh, Giáo Hội kêu mời mọi người kitô hữu chúng ta “Hãy vui lên”. Vui lên vì Chúa đã khải hoàn. Vui lên vì Chúa đã chiến thắng thần chết. Vui vì:

Đêm cực thánh khử trừ muôn tội vạ,

đêm vạn năng thanh tẩy hết lỗi lầm,

biến tội nhân thành con người công chính,

đem vui mừng cho hồn nặng sầu thương.

Trong phần phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội cho chúng ta đọc 9 bài sách thánh: 7 bài Cựu Ước, 1 bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng. Tất cả các bài đọc hôm nay, giúp chúng ta suy niệm về chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa theo dòng lịch sử từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước. Việc Thiên Chúa yêu thương tạo dựng muôn loài, nhất là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài (Bài đọc I). Đến việc ông Apraham vâng lệnh Chúa sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, chính vì sự vâng phục này mà ông được gọi là “Cha của kẻ tin”. Ông còn được Chúa chúc phúc để trở thành cha của một dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển. Việc sát tế này là hình ảnh tiên báo việc sát tế Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa sau này (Bài đọc II).

Rồi đến sự kiện dân Do Thái đi qua biển đỏ khô chân và được bình an. Đó là hình ảnh của cuộc giải thoát mới do công trình cứu độ của Đức Kitô. Đó cũng là cuộc giải thoát dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ đến vùng tự do (Bài đọc III).

Khi dân Do Thái đang sống trong kiếp lưu đày tại Babilon, vì đã bất trung với Thiên Chúa, nhưng họ đã sám hối nên Chúa lại tha thứ cho họ. Rồi Chúa lấy lòng nhân từ vô biên qui tụ họ lại để họ vui hưởng nền hoà bình lâu dài (Bài đọc IV).

Chính tiên tri Isaia đã loan báo một thời thịnh đạt mà Israel sẽ vui hưởng, thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước vĩnh cửu với những hồng ân mà Ngài đã hứa với Đavít. Chính điều này sẽ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô (Bài đọc V).

Nhưng dân Do Thái đã bỏ Chúa đi tôn thờ thần tượng, phạm đủ thứ tội nên họ bị lưu đày. Tiên tri Êzekiel đã chọ họ biết như vậy. Nhưng rồi Chúa sẽ qui tụ họ về, thanh tẩy họ, ban cho họ một quả tim và một thần trí mới để họ thực thi huấn lệnh Ngài (Bài đọc VI).

Bài đọc Thánh Thư dẫn chúng ta vào ý nghĩa của bí tích Rửa Tội. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta đã chịu Phép Rửa Tội, tức là chúng ta cùng chết với tội và chết cho Chúa Kitô để được sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11).

Đó cũng là mong muốn của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta tuyên thệ lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội trong phần Phụng Vụ Thánh Tẩy. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta được khỏi tội. Cho nên, qua nghi thức này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy hiên ngang dấn thân theo Chúa và trung thành phụng vụ Người. Hãy chết đi cho tội, cho ích kỷ, cho những gì làm cho chúng ta xa Chúa, để luôn sống xứng đáng thân phận làm con Chúa và Giáo Hội.

Cuối cùng, bài Tin Mừng Thánh Luca tường thuật về sự kiện ngôi mộ trống và việc Chúa Phục Sinh hiện ra với bà Maria Mađalêna. Đây là sự kiện đầu tiên và hết sức quan trọng cho niềm tin Phục Sinh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai và cho mỗi người qua mọi thời đại.

Mừng vọng phục sinh đêm nay, chúng ta cảm tạ tình thương bao la của Chúa. Đồng thời để đáp lại tình thương đó chúng ta quyết tâm sống cho Chúa và chết cho tội, để cùng Người sống lại vinh quang. Xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta cử hành trong phần cuối cùng của đêm nay luôn đồng hành, dưỡng nuôi tâm hồn chúng ta trên con đường về với Ngài. Amen.

 

24. Suy niệm Chúa Nhật Phục Sinh--Lm. Anthony Trung Thành

Chúa đã phục sinh. Đó là nền tảng của niềm tin và niềm hy vọng của mỗi người kitô hữu chúng ta.

Thánh Phaolô đã nói rất chí lý rằng: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15, 17-19). Vì thế, Ngài khẳng định rằng: “Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15, 20). Vậy, trong ngày trọng đại hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những bằng chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và cố gắng sống niềm tin đó trong cuộc sống của chúng ta.

1. Niềm tin Phục sinh bắt đầu bằng Ngôi mộ trống

Ngôi mộ trống là yếu tố đầu tiên mà người ta gặp thấy sau khi Chúa Kitô chịu chết và táng xác. Tự nó, đây không phải là một chứng minh trực tiếp. Bởi vì, yếu tố không còn xác Chúa Kitô trong mộ có thể giải thích cách khác (x. Ga 20, 23; Mt 28, 11-15). Dầu vậy, ngôi mộ trống đã là một dấu lạ đối với mọi người. Việc các môn đệ phát hiện sự kiện này đã là bước đầu cho việc nhận ra chính sự kiện Phục sinh: Đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện (x. Lc 24, 3.22-23), rồi của Phêrô (x. Lc 24, 12). “Môn đệ của Chúa Giêsu thương yêu” (Ga 20, 2) khẳng định rằng khi vào trong mộ trống và “phát hiện ra các dải vải còn để đó”, Tin mừng cho biết rằng “Ông đã thấy và đã tin” (x. Ga 20, 8). Điều này giải thích rằng ông đã thừa nhận trong tình trạng ngôi mộ trống là sự thiếu vắng thân xác của Chúa Giêsu không thể là việc của loài người, và Chúa Giêsu đã không chỉ đơn thuần trở lại cuộc sống trần gian như trường hợp ông Lazarô (x. GLHTCG, số 640). Như vậy, qua các dự kiên trên đây cho chúng ta khẳng định rằng: Ngôi mộ trống là bằng chứng Chúa đã Phục sinh.

2. Niềm tin Phục sinh dựa vào những lần hiện ra của Chúa Giêsu

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra nhiều lần, nhiều nơi và với nhiều người. Đặc biệt, Ngài hiện ra với các môn đệ, cùng ăn cùng uống với họ (x. Cv 10, 41). Trước hết, Tin mừng cho biết, Ngài hiện ra với Maria Mađalêna và các phụ nữ khác (x. Ga 20, 11-18). Sau đó, Ngài hiện ra với ông Phêrô, với nhóm Mười Hai, với hai môn đệ đi đường Emmau, với hơn năm trăm người, và với Giacôbê. Thánh Phaolô kể rõ ràng rằng: “Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15, 5-8). Những lần Chúa Giêsu Kitô hiện ra trên đây sau khi Ngài chịu nạn chịu chết trên Thánh giá là bằng chứng cho chúng ta thấy Chúa đã Phục sinh.

3. Niềm tin Phục sinh dựa vào thái độ của các tông đồ và các kitô hữu đầu tiên trước và sau khi Chúa Sống Lại

Sau buổi chiều ngày thứ sáu, một bầu khí u ám, thất vọng nơi các Tông đồ và những người theo Chúa bấy lâu nay. Còn đâu những lời giảng dạy như Đấng có uy quyền (x. Mt 1, 22). Còn đâu những phép lạ như: Phép lạ hoá bánh ra nhiều, gió yên biển lặng, kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại… Những hy vọng nơi Thầy Giêsu đã tan thành mây khói. Họ nghĩ rằng thế là hết. Tất cả đã chấm dứt. Vì vậy, một số trong các môn đệ trở lại nghề cũ, một số khác bỏ trốn về quê…

Thế rồi, sau khi thấy Chúa Phục Sinh, thái độ của họ thay đổi hoàn toàn. Bà Maria Mađalêna vội vã chạy về báo tin cho các Tông đồ. Phêrô và Gioan vội vã ra mồ. Khi thấy mọi sự trong mồ được xếp đặt gọn gàng, Gioan nhớ lại những lời Kinh thánh và ông đã tin. Hai môn đệ đi đường Emmau khi đã gặp Chúa Phục sinh, vội vã trở lại báo tin cho các Tông đồ khác.

Trước đây Phêrô đã nhát gan chối Chúa ba lần, nhưng giờ đây ông đã mạnh dạn rao giảng Tin mừng không biết mệt mỏi, không sợ quyền thế. Chính ông đã khẳng khái nói: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5, 29).

Khi Chúa Phục sinh hiện ra bảo Tôma xỏ ngón tay vào lỗ đinh và cạnh sường Người, ông đã tuyên xưng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”(Ga 20, 28).

Tóm lại, khi nhận ra Chúa Kitô đã sống lại thật, các môn đệ đã mạnh dạn rao giảng Tin mừng và sẵn sàng chết để làm chứng cho niềm tin của mình.

4. Niềm tin Phục sinh giúp gì cho chúng ta

1) Niềm tin Phục sinh giúp chúng ta vượt qua được thử thách, đau khổ:

Dịp Mùa Chay vừa qua, tôi có dành thời gian đi thăm những người già cả, ốm đau, bệnh tật. Tôi gặp một cụ bà đã trên 80 tuổi, nằm liệt giường hơn chục năm nay. Dầu vậy, tôi thấy tâm trạng của cụ luôn điềm tĩnh và bình an. Cụ tâm sự với tôi: “Suốt mười mấy năm qua, nhiều lúc con đau đớn lắm. Nhưng mỗi lần cơn đau hoành hành, con nhìn lên Thánh giá Chúa và tự nhủ mình rằng, Chúa cả trời đất, không có tội lỗi gì mà Ngài còn phải trải qua đau khổ mới tới ngày Phục Sinh. Phần con, là kẻ tội lỗi đáng phải chịu đau khổ trăm ngàn lần nữa. Suy nghĩ như thế, nên con cố gắng chấp nhận đau khổ để ngày sau cùng được phục sinh với Chúa”. Tôi thăm một bệnh nhân khác, đó là một chàng thanh niên 23 tuổi, bị liệt toàn thân do một vụ tai nạn xe máy. Anh vui vẻ kể lại cho tôi nghe vụ tại nạn xảy ra cách đây gần một năm. Tôi hỏi anh: “Từ một thanh niên khoẻ mạnh, bây giờ phải nằm liệt giường như vậy, con cảm thấy như thế nào?” Anh trả lời một cách xác tín rằng: “Chúa gửi thập giá tới thì phải vui lòng vác thôi Cha. Con hy vọng cùng chịu đau khổ với Chúa để ngày sau được gặp Ngài trên Thiên Đàng”. Đúng là câu trả lời của một người có niềm tin thực sự. Niềm tin có Chúa, niềm hy vọng vào sự Phục Sinh.

Thật vậy, nếu chúng ta biết nhìn lên Thánh giá mà nhớ lại rằng: Chính Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua đau khổ, thất bại, đòn vọt, chịu đội mạo gai và chết nhục nhã trên Thánh giá mới bước vào vinh quang Phục sinh. Những lúc đó, ánh sáng Phục Sinh sẽ len lỏi vào cõi lòng của chúng ta. Niềm hy vọng Phục sinh sẽ vụt lên trong tâm hồn của chúng ta, giúp chúng ta vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống.

2) Niềm tin Phục sinh giải thoát chúng ta khỏi tội: Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 1). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là gì nếu không phải là tâm trí luôn hướng về niềm hạnh phúc Thiên Đàng. Khi chúng ta nghĩ tới hạnh phúc Thiên Đàng, nghĩ tới sự sống lại, chắc chắn chúng ta sẽ chống trả được những cơn cám dỗ, tránh xa được những thói hư tật xấu, đam mê tội lỗi. Nếu có sa ngã phạm tội thì nhờ hướng tới hạnh phúc Thiên Đàng mà chúng ta quyết tâm thống hối ăn năn và đi xưng thú tội lỗi của mình để làm hoà cùngThiên Chúa.

3) Niềm tin Phục sinh giúp chúng ta biết sống tha thứ, yêu thương mọi người hơn: Khi chúng ta bị bỏ vạ cáo gian, bị đánh đập, bị ghét bỏ, bị lên án, bị đối xử tệ bạc bất công, chúng ta không phàn nàn kêu trách, không trả thù, trái lại yêu thương, cầu nguyện, lấy ơn đền oán là chúng ta đang hướng tới sự Phục sinh của Chúa.

Như vậy, niềm tin vào sự Phục sinh rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Tin vào sự Phục sinh sẽ giúp chúng ta vượt qua được mọi đau khổ; chống trả được các chước cám dỗ; giải thoát khỏi tội lỗi; dễ dàng chấp nhận những thiệt thòi mà người khác gây nên cho mình. Tin vào sự Phục sinh giúp chúng ta cố gắng sống tốt hơn, tha thứ và yêu thương mọi người hơn.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã từng mời gọi mọi người rằng: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ"(Ga 11, 25). Xin cho mỗi người chúng con luôn xác tín vào sự Phục Sinh của Chúa để sống niềm tin đó ở đời này và ngày sau được Phục sinh với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.

 

25. Chúa Nhật Phục Sinh--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế, bỏ qua Bài Đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ lễ Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư.

Cv 10: 34a, 37-43

Đoạn sách Công Vụ nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh đạo của Giáo Hội, được nêu bật trong đoạn sách Công Vụ nầy.

Cl 3: 1-4

Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Phục Sinh, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.

Ga 20: 1-9

Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, khởi điểm đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.

BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)

Sách Công Vụ được giới thiệu như phần tiếp theo của Tin Mừng Thứ Ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, và cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, một Ki-tô hữu trí thức thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng cũng có thể là một nhân vật hư cấu biểu tượng “người Chúa thương mến” mà bất kỳ tên người Ki-tô hữu nào có thể điền tên mình vào đây.

Thánh Lu-ca mang nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.

Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.

1. Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô:

Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), nay sóng gió đã qua đi. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ lắng dịu nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.

2. Thánh Phê-rô lần đầu tiên đến nhà một người ngoại giáo:

Trong khi thánh Phê-rô đang ở nhà tại Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.

Thánh Phê-rô đến nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm của thế giới ngoại giáo vào dân Chúa, nhưng dần dần lệnh cấm nầy phổ biến và tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.

3. Bài diễn từ của thánh Phê-rô:

Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn từ mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ đã minh chứng cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những người chứng kiến những hành động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là cuộc Phục Sinh của Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã ủy nhiệm họ làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử cả người sống lẫn kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.

Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến độ Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải tuyên xưng biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô phục sinh.

BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)

Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.

1. Lập luận của thánh Phao-lô:

Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.

Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Ki-tô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.

2. Người Ki-tô hữu:

Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).

Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Đây là ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.

TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)

Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn. Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên. Chính kinh nghiệm này đã mở mắt họ và đã khai lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh.

Tiếp đó, vào cũng một ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác vẫn in dấu những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm củng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tận mức nầy cho đến phải hy sinh mạng sống của mình.

1. Ngày thứ nhất trong tuần:

Tin Mừng Gioan dâng hiến cho chúng ta một bài trình thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, một bài trình thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa sâu xa.

Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.

2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:

Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong số các người phụ nữ đã cũng đi với Đức Giê-su và nhóm Mười Hai trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài khắp miền Ga-li-lê (Lc 8: 1-3); “các bà đã chứng kiến” cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giê-su (Lc 23: 49); các bà cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, kiên vững bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25); và “các bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào” (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, các bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói với chúng ta rằng các bà đến mộ “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà thúc đẩy bước chân dạn dĩ của bà ra đi càng sớm chừng nào có thể để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.

Ở đây, Tin Mừng Thứ Tư chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, chính bản văn làm chứng rằng còn có các người phụ nữ khác cùng đi với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20: 2). Thật ra, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28: 1); còn thánh Mác-cô lại kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16: 1), riêng thánh Lu-ca còn kể ra nhiều người phụ nữ hơn nữa (Lc 24: 1). Nhưng trong số những người phụ nữ đó, bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh đầu tiên.

Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó). Bà là người được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh được các sách Tin Mừng tường thuật, và bà cũng là người đầu tiên được Đấng Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ; vì thế, chẳng lạ gì truyền thống Giáo Hội gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, theo kiểu nói tuyệt đối của người Do thái, nghĩa là bà là “người được sai đi tuyệt hảo”.

3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan:

Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình, nhất là cuộc phục sinh của anh La-da-rô, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng nầy.

Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn, vì thế thánh nhân không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng bên ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước tiên. Ở nơi sự kiện này, thánh ký hàm ý rằng thánh Gioan nhận ra quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô. Thật ra, theo Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội sẽ được công bố chỉ sau khi Đấng Phục Sinh gặp gỡ các ông bên bờ hồ Ti-bê-ri-a vào bữa ăn mà chính Ngài đã dọn sẵn cho các ông trong sương mờ sáng sớm (Ga 21: 15-17), tuy nhiên đã được hàm chứa rồi ở nơi cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô khi Ngài long trọng đổi tên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha, tức là Phê-rô” (Ga 1: 42) và ở nơi sự kiện trước ngôi mộ này.

Như vậy, cả hai người đều cùng thấy hiện trường. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.

4. Những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi.

Một mặt, hai ông không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng còn thấy những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này được lập lại đến hai lần (20: 5 và 6-7) đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm và khăn che đầu có lẽ đã bị vất bừa bãi rồi. Thế mà, tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp. Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến việc La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44)? Đức Giê-su hoàn toàn tự do, không còn bị những băng vải liệm buộc chặt thân thể của Ngài, biểu tượng xích xiềng của tử thần. Như vậy, La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn nằm trong vòng kiềm tỏa của tử thần nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi tử thần từ nay không có quyền hành gì trên Chúa Giê-su nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại tử thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ nầy và xao động đến mức thánh nhân đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt quá trình từ “thấy” đến “gắn bó trọn vẹn” với Đấng Phục Sinh.

Ánh sáng niềm tin bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” nầy trước ngôi mộ trống cùng với những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại gọn gàng và xếp riêng ra một nơi. Dù trước đây niềm tin của thánh nhân đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy, tình yêu của thánh nhân đã không hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi bước theo từng bước chân của Thầy lên đến tận đỉnh đồi Sọ và chứng kiến giây phút đau thương sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này giờ đây dẫn đưa thánh nhân đến niềm tin vào sự Phục Sinh của Thầy ngay tức khắc. Cũng chính độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân sẽ là người đầu tiên nhận ra Thầy mình trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương mờ buổi sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên lại tin cái tối đa. Độ nhạy bén của con tim hỗ trợ cho thánh nhân rất nhiều để hiểu biết con người và sự vật. Quả thật, nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của nó mà lý trí không sao hiểu được”.

5. Theo lời Kinh Thánh.

Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, ông cũng cần đến ánh sáng của lý trí: “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết”. Lời này ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng khai lòng mở trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (x. Ga 14: 26; Lc 24: 45).

Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí hai ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Thánh Vịnh 16, vì vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2: 24-31). Quả thật, chúng ta đọc trong Thánh Vịnh 16 những hàng nầy:

“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.

Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty,

không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).

Vì thế, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo.

 

26. Chiến thắng

Thời gian gần đây, tại Việt Nam nhiều nhà thờ đã trưng bày trên cung thánh tượng Chúa Giêsu sống lại hoặc tay cầm thánh giá nhỏ, hoặc lưng tựa vào cây thánh giá lớn. Đó là một sáng kiến gợi ý. Bởi vì sự phục sinh của Đức Kitô không thể tách rời khỏi thập giá. Hơn nữa, nhờ việc Đức Kitô sống lại, cây thánh giá không còn là biểu tượng của sự thất bại, mà đã trở nên dấu chỉ của sự chiến thắng.

Thực vậy, khi các thượng tế và luật sĩ chủ mưu tiêu diệt Đức Kitô bằng bản án thập giá, họ ghét con người Đức Kitô thì ít, mà ghét chủ trương và đường lối của Người thì nhiều. Chủ trương của Người là bác ái. Đường lối của Người là cơi mở, bao dung, để phản ảnh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, là tình yêu giàu lòng thương xót. Chủ trương ấy, đường lối ấy không phù hợp với họ. Hơn nữa, chủ trương ấy, đường lối ấy đã đụng chạm tới cái tôi ích kỷ, hẹp hòi và tự mãn của họ. Đó chính là những động lực thúc đẩy họ tiêu diệt Đức Kitô.

Thiết tưởng trong họ cũng có chúng ta. Vậy chúng ta đừng bao giờ chúng ta quên điều đó. Dù bị kết án oan và dù biết mình có sức thoát khỏi cuộc tử nạn, nhưng Đức Kitô, vì yêu thương, vẫn đễ cho các làn sóng hận thù, ghen ghét vùi dập Người cho đến chết. Kiêu căng và ích kỷ xem ra như đã thắng. Và thập giá bị coi như là dấu ấn thất bại được dành cho Đức Kitô.

Tuy nhiên, không phải là như thế, cái chết trên thập giá không phải là tiếng nói sau cùng. Bởi vì Đức Kitô đã sống lại vinh hiển. Khi sống lại rồi, Đức Kitô không oán thù ai, không phô trương gì cả, Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi đường lối và chủ trương của bác ái, của khiêm nhường, của bao dung, như những tháng năm về trước. Ngài vẫn dạy các môn đệ Ngài hãy sống như Ngài đã dạy và đã làm gương. Bởi vì chỉ tình thương mới có sức cứu độ, chỉ bác ái mới có sức phục sinh.

Như thế, nhờ sự sống lại của Đức Kitô, cây thập giá đã trở nên Tin Mừng, làm chứng cho một tình yêu chiến thắng. Chiến thắng bằng những phấn đấu gay go, dũng cảm và kiên trì chống lại những tội lỗi và những khuynh hướng xấu xa. Chiến thắng bằng những việc làm bác ái, cởi mở, bao dung, thăng tiến có kế hoạch và chấp nhận hy sinh.

Từ mầu nhiệm phục sinh của Ngài, chúng ta đi đến một kết luận quan trọng, đó là kể từ nay, dù là ai, và dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng được Ngài lắng nghe, đón nhận và yêu thương, bởi vì Người là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Người đến để chúng ta có sự sống và được sống dồi dào. Người đã thắp lên trong cõi lòng chúng ta niềm vui mừng và hy vọng, bởi vì thập giá của Người là nguồn ơn cứu độ và cách sống của Ngài là con đường dẫn tới phục sinh. Hãy hân hoan bước theo Người và hãy vui mừng được thuộc về Người. Chính trong chiều hướng đó mà tôi xin cầu chúc cho mỗi người một lễ phục sinh đầy vui mừng và hy vọng với ơn lành và tình yêu thương của Đức Kitô.

 

27. Marathon.

Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy chạy marathon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Marathon, một ngôi làng cách thủ đô Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Miltiade đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.

Từ cây chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, và chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, đã có hai cuộc chạy marathon. Cuộc thứ nhất là của Mađalena. Cuộc thứ hai là của Phêrô và Gioan. Vậy động lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới?

Như chúng ta đã biết: dưới thập giá của Chúa Giêsu lại chính là cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở nên như con rắn đồng mà Maisen đã treo nơi sa mạc, để những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên rắn đồng ấy thì sẽ được chữa lành. Đàng khác, cái chết tự nguyện của Ngài trên thập giá đã trở nên dấu chỉ chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến với Ngài, như lời Ngài xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.

Trở lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu vết của Đấng Phục Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena chạy đến mồ trước tiên khi trời còn tối. Thấy tảng đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô chưa tin gì về Chúa Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất xác Thầy. Cô liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.

Đến lượt hai ông này cùng chạy đến một. Gioan tới trước, nhưng vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô. Khi cả hai cùng vào mộ, liền nhận ra ai đó đã sắp xếp để khăn che đầu ở một nơi. Với trực giác nhạy bén, Gioan hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để các khăn liệm thứ tự như vậy. Gioan đã thấy và đã tin.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta thấy được hình ảnh của Giáo Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh. Giáo Hội ấy gồm những người như Mađalena, Phêrô và Gioan. Đó là những con người rất khác biệt nhau nhưng lại bổ túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa Giêsu. Nếu Mađalena không tới một sớm để thấy mộ trống rồi về loan báo tin ấy cho các tông đồ, thì Giáo Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng giữa những cuộc chạy marathon mà chưa có phản ứng đức tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Giáo Hội vì chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm nhuần lời Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh trên những bước đường của cuộc sống chưa, và nhất là chúng ta đã trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời hay chưa?

 

28. “Bàn Tay” cứu độ--Vọng Phục Sinh của Lm. Inhaxio Trần Ngà

Hàng ngàn hành khách vượt Đại Tây Dương trên một con tàu biển lớn, không may, tàu bị va mạnh vào tảng băng trôi khổng lồ. Tảng băng đâm thủng thân tàu, nước biển tràn vào tàu dữ dội làm cho tàu ngập nước và chìm dần xuống biển.

Hàng ngàn hành khách tìm cách thoát ra khỏi chiếc tàu đang chìm đắm và đang chơi vơi giữa biển khơi giá buốt. Tất cả mọi người đều lo âu hoảng sợ. Người không biết bơi thì sau mươi phút uống nước đầy bụng là chìm. Người biết bơi cũng chỉ cầm cự được mươi tiếng đồng hồ rồi cũng chết, hoặc vì đói mà kiệt sức, hoặc vì nước biển quá lạnh nên phải chết cóng, hoặc vì phải làm mồi cho bầy cá mập háu ăn.

Trong cơn gian nguy đó, nhìn chung quanh chỉ thấy biển cuộn sóng mênh mông, nhìn xuống chỉ thấy nước sâu thăm thẳm, nhìn lên chỉ thấy bầu trời kéo mây đen nghịt. Nhìn chung quanh chỉ thấy bao nhiêu người khác cũng sắp chết đuối như mình.

Biết bám víu vào ai bây giờ? Sớm muộn gì rồi cũng làm mồi cho cá. Biết cậy nhờ ai bây giờ?

Giá như có một bàn tay to lớn mạnh mẽ nào đó từ đám mây đen thò xuống để cho những người sắp chết đuối nắm lấy thì hạnh phúc biết bao!

***

Con người sống trên đời nầy cũng như những người bị đắm tàu đang chơi vơi giữa đại dương đầy sóng gió. Số phận mỗi người chẳng khác gì số phận của người đắm tàu trên đây. Không sớm thì muộn, không nay thì mai, ai nấy đều phải chìm vào biển chết.

Có người phải chết sớm; số phận họ như số phận những người không biết bơi, hì hụp chốc lát rồi chết đuối. Có người được sống lâu hơn, số phận họ như số phận những người biết bơi, nổi lên được một thời gian, nhưng rồi cũng phải đắm chìm trong lòng biển chết.

Trước tình trạng đau thương và bi đát này, con người biết cậy dựa vào đâu? Ai có thể cứu vớt con người khỏi biển chết đang vây bọc tư bề? Tìm đâu ra một điểm tựa vững bền trên cõi đời này?

Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật, tai ương và chết chóc.

Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.

Tựa vào khoa học kỹ thuật tiên tiến ư? Các khoa học gia hàng đầu cũng đã lần lượt lìa đời vì chết chóc và bệnh tật.

Con người cũng không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo, sắp chết đuối như mình.

Vậy thì cần phải có một “Bàn Tay” đầy quyền năng từ trời cao vươn xuống mới có thể cứu vớt loài người đang đắm chìm trong biển chết.

Hạnh phúc cho chúng ta là những người may mắn tìm thấy “Bàn Tay” cứu vớt từ trời cao.

Chúa Giê-su chính là “Bàn Tay” đầy quyền năng của Thiên Chúa Cha từ trời cao vươn xuống để cứu vớt loài người đang chơi vơi giữa lòng biển chết.

Trong đại lễ phục sinh này, chúng ta hãy hân hoan vui mừng khôn xiết vì nhờ cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của mình, Chúa Giê-su trở thành “Bàn Tay” cứu độ, đang chìa ra để cứu vớt mọi người trên khắp thế gian.

Tuy nhiên, chỉ có những ai chấp nhận nắm lấy “Bàn Tay” từ trời này thì người đó mới được cứu độ mà thôi, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người và Ngài không thể cứu vớt những ai không muốn Ngài cứu vớt.

Muốn được cứu vớt khỏi biển chết đời đời thì chúng ta hãy nắm lấy “Bàn Tay” Chúa Giê-su, nghĩa là phải phó dâng đời mình cho Chúa và phải sống theo luật mến Chúa yêu người. Ai không mến Chúa yêu người như Chúa Giê-su truyền dạy, người đó tự xa lìa Chúa, nên không thể được cứu độ.

Lạy Chúa Giê-su phục sinh,

Chúa chính là “Bàn Tay” thần diệu đầy quyền lực của Thiên Chúa Cha từ trời cao vươn tới mọi người sắp đắm chìm trong biển đời đầy sóng gió này.

Xin cho chúng con biết nắm chặt lấy bàn tay cứu độ của Chúa bằng đức tin, bằng lòng mến Chúa yêu người thật thiết tha mạnh mẽ, nhờ đó, chúng con sẽ được cứu thoát khỏi biển chết đau thương và được đưa vào vương quốc hằng sống muôn đời.

 

29. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới--Lm. Ignatiô Trần Ngà

Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.

Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người...

Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.

Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.

Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ."

* * *

Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong... Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.

Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.

Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.

 

30. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?--Lm. Ignatiô Trần Ngà

Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?

Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần... đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.

"Trăm năm còn có gì đâu?

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". (Nguyễn Du).

Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?

Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.

Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.

Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.

Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!

Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.

Phục sinh với Chúa Giêsu

Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giêsu như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ". (Ga 11, 25).

Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.

Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.

Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo Alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm hồn.

 

31. Chúa Phục Sinh là Tin Mừng cho nhân loại--Ngọc Biển

LỄ VỌNG PHỤC SINH (Lc 24, 1-12)

“Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15, 14); hay: “Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15, 19),

Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.

Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.

Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.

1. Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ

Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, sức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác...

Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!

Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại" (Lc 24 5-7).

Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).

Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.

Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.

Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!

Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài...(x. Mt 4, 18-22).

2. Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta

Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.

Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.

Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo... nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.

Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.

Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.

Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.

Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.

Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước...

Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.

 

32.  Đức Giêsu đã sống lại thật và các cuộc đổi đời--Jos. Vinc. Ngọc Biển

Câu nói nổi tiếng của thánh Phaolô đã thể hiện niềm tin tuyệt đối, niềm hy vọng chắc chắn của ngài vào Đức Kitô Phục Sinh, ngài nói: "... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15, 14); "Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Ðức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Ðức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người" (1Cr 15, 17-19). Đúng thế, nếu cả cuộc đời của mỗi chúng ta, sự hy sinh dài lâu cho một con người mà chính người đó lại kết thúc cuộc đời của họ qua cái chết thì quả là một điều vô lý, hão huyền, thua thiệt và dại dột. Tuy nhiên, Đức Giêsu, Đấng mà các môn đệ tin; nhiều người Dothái tin; Giáo Hội tin; và chúng ta tin, Ngài đã chết thật, nhưng Ngài cũng đã sống lại thật.

Như vậy, niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu quả là khôn ngoan và có cơ sở vững vàng. Vậy tại sao biết được Đức Giêsu chết thật, và luận cứ gì làm bảo chứng cho niềm tin Ngài đã sống lại? Việc Ngài chết và đã phục sinh có để lại dấu ấn gì nơi những người tin hay không?

1. Đức Giêsu đã chết?

Đức Giêsu đã chết thật. Đây là lời khẳng định rõ ràng qua các chứng cứ sau:

Cái chết của Ngài là hệ quả của những phiên tòa do những tác động gây sức ép từ phía dân chúng, khiến những nhà lãnh đạo tôn giáo Dothái thời bấy giờ kết án tử Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã bị xử tử theo trình tự như: bị đánh đòn; vác thập giá; bị đóng đinh với hai tên gian phi trên đỉnh đồi Canvê.

Khi họ đóng đinh xong, Đức Giêsu đã chết thật, nên quân lính không đánh dập ống chân Ngài nữa, tuy nhiên để cho chắc ăn, một người lính đã lấy lưỡi đòng đâm cạnh nương long Đức Giêsu, tức thì máu và nước đã vọt ra cho thấy nhát đâm của người lính này đã đâm trúng tim của Đức Giêsu.

Sau đó, có các môn đệ thầm lặng của Ngài như Giuse Arimathia đến xin lĩnh xác Đức Giêsu để táng xác. Philatô đã đồng ý, nhưng ông vẫn phải hỏi lại viên sĩ quan phụ trách thi hành án xem Đức Giêsu đã chết thật chưa? Khi được trả lời là đã chết thật, Philatô mới cho phép tháo xác Đức Giêsu xuống để an táng. Và, họ đã an táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới.

Như vậy, Đức Giêsu đã chết thật. Không thể không tin vào chuyện này được. Tuy nhiên, nếu cái chết là điểm đến, là kết cục, thì nó là chuyện vô lý, không có gì để chúng ta bàn nữa. Nhưng cái chết đã không còn quyền chi đối với Đức Giêsu khi Ngài đã phục sinh.

2. Ngôi mộ bị bỏ trống

Trong kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu: "... ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết". Ngài đã sống lại và đã ra khỏi mồ. Vì thế, sự kiện ngôi mồ trống là điều mà mỗi người chúng ta cần quan tâm.

Tin Mừng cho thấy vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đi ra mồ, khi tới nơi, họ không còn thấy xác Đức Giêsu trong đó nữa. Các bà thì ngỡ ngàng và không hiểu tại sao lại như vậy? Phải chăng Ngài đã phục sinh như lời Ngài đã phán trước? Và thật thế, Thiên Thần đã trấn an các bà, để các bà khỏi hoảng hốt, khiếp đảm và bỡ ngỡ, Thiên Thần nói: "Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. (Mt 28, 5-6).

Còn đối với những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu thì có sẵn những âm mưu từ trước nên đã gán cho sự việc này giả thiết như sau: có thể các môn đệ của ông ấy đến ăn cắp xác Đức Giêsu và phao tin Ngài đã sống lại? Và những Thượng Tế, Kỳ Lão đã cho tiền quân lính để chúng đồng thuận với họ về ý tưởng này.

Tuy nhiên, giả thiết này đưa ra thật không có bằng chứng và đáng ngờ vì những lý do:

- Thứ nhất, khi những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ họ đã nghe biết Đức Giêsu nói là sẽ sống lại, nên họ đã đề phòng cẩn thận, bởi vì nếu không lường trước sự việc, thì không khéo điều đó diễn ra thật thì chẳng khác gì như một cú tát, bát nước lạnh tạt vào mặt những kẻ kết án Đức Giêsu, còn với chính họ, chẳng khác gì tự mình ngửa mặt lên và nhổ nước miếng...?Vì thế, họ đã đặt một đội lính canh tinh nhuệ để trông chừng, phòng chống những rủi ro sẽ sảy ra.

- Thứ hai, nếu gán rằng có kẻ thù ăn cắp xác Đức Giêsu thì lại càng không ổn, vì nếu làm nhưu vậy thì vô hình chung lại là điều kiện tốt cho việc phao tin Đức Giêsu sống lại. Và tỷ lệ thuận là điều có thể xảy ra đối với những người đã từng cảm phục Đức Giêsu lúc Ngài còn sống.

- Thứ ba, điều này rất khó xảy ra vì các Tông đồ phần đông là dân chài lưới, ít học, lại kém tin nữa. Bằng chứng là khi cuộc thương khó của Đức Giêsu đến, các ông đã bỏ trốn, có kẻ còn trút lại cả quần áo để miễn sao thoát thân, rồi Phêrô là Tông đồ trưởng nhưng đã vì lo sợ mà trối cả Thầy mình, rồi sau khi Đức Giêsu chết, họ tụ họp với nhau nhưng cửa đóng then cài vì sợ người Dothái..., tiếp theo là sự thất vọng được lộ rõ trên khuôn mặt của hai môn đệ trên đường Emmau. Như vậy, không có lý do gì mà các môn đệ của Đức Giêsu làm được chuyện này trước một đội lính tinh nhuệ và có bề dày kinh nghiệm...

Như vậy, Đức Giêsu đã sống lại thật và sự kiện ngôi mồ trống là bằng chứng. Đây là dấu chỉ thứ nhất. Dấu chỉ thứ 2 là những lần hiện ra với nhiều người, nhiều nơi và cùng lúc, cũng như những người đó lần lượt nhận ra Ngài với những kỷ niệm và những dấu hiệu mà họ đã biết trước đó.

3. Những cuộc hiện ra

Điều đáng nói và cũng là quan trọng nhất, đó là tất cả những diễn biến qua cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Đức Giêsu đều được Kinh Thánh báo trước. Khi thì qua hình ảnh, dấu chỉ, tiên báo, hay do chính Ngài loan báo với các môn đệ: Thầy "phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Mt 16, 21). Và hôm nay, Ngài đã sống lại, đã hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28, 9-10; Mc 16, 9; Ga 20, 11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emmau (x. Mc 16, 12-13; Lc 24, 13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20, 19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28, 16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).

Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:

Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27); nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20, 16); những hành động Ngài làm (x. Lc 24, 35); hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24, 27.45)...

Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28, 9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24, 15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20, 14;21, 4).

Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi...thì mới không tin mà thôi.

4. Những cuộc đổi đời

Cuối cùng, như trong phần mở đầu đã đề cập đến lời tuyên xưng của thánh Phaolô khi nói: "... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15, 14). Cũng vậy, nếu Đức Giêsu đã không sống lại thì làm sao có những cuộc đổi đời ngay tức khắc như vậy?

Các Tông đồ, là những người nhát đảm sợ sệt, ấy vậy mà sau biến cố phục sinh của Đức Giêsu, các ông đã trở nên mạnh dạn khác thường.

Nếu trước kia họ chỉ là người đi theo Thầy của mình, thì từ ngày Thầy mình phục sinh, các ông đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng bị đóng đinh và đã sống lại để rao giảng chân lý Tin Mừng.

Nếu trước kia, các ông là những người ít học, khô khan, kém hiểu biết, thì sau khi Đức Giêsu phục sinh, các ông đã hiên ngang, hùng hồn, uyên thâm khi rao giảng về Đấng đã bị chính dân mình giết chết.

Nếu việc Đức Giêsu sống lại chỉ là chuyện bịa đặt thì làm gì các ông lại dại dột mà đi phỉnh lừa người khác, trong khi mình còn biết bao chuyện phải lo... và các ông cũng đều biết rằng việc các ông rao giảng về Đức Giêsu, thì đồng nghĩa với việc lãnh nhận sự liên klụy và sẽ có nguy bị giết chết.

Nhưng không! Các ông đã không sợ, bởi vì giờ đây, các ông mới hiểu rõ rằng Đức Giêsu là Chúa; là đường, là sự thật và là sự sống. Nên không có gì tách các ông ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dù là gian truân, thử thách, gươm đao và ngay cả cái chết, bởi vì mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, nên vì Ngài, các ông đành mất hết để được tất cả, và đỉnh cao của cái được đó là đồng hiển trị với Ngài trong Vương Quốc của Ngài.

Rồi trải qua biết bao thế hệ, trên khắp thế giới, có biết bao nhiêu con người đã bất chấp hiểm nguy, rừng thiêng núi độc, hiểm trở trăm bề, nhưng vẫn quyết chí lên đường để đi và đến nhằm loan báo Tin Mừng về một Đức Giêsu đã chết, đã phục sinh hầu cứu chuộc nhân loại..., và nếu cần thiết, các ngài sẵn sàng lấy mạng mình để minh chứng điều mình tin là thật. Các thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta là một điển hình.

Như vậy, không ai và cũng không thể nào kéo dài cả hơn 2000 năn nay với một câu chuyện, một niềm tin vô lý được! Và nếu tồn tại đi chăng nữa thì chúng ta là những kẻ ngu dốt nhất trong thiên hạ vì đã tin vào cái xác chết. Nhưng không! Chúng ta tin vào Đấng đã chết và đã phục sinh, và Đấng ấy có đủ quyền năng để dẫn đưa những ai cùng chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh, vì Ngài đi trước dọn chỗ cho chúng ta.

Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thêm đức tin và vững lòng trông cậy theo Chúa đến cùng để được Ngài cho phục sinh vinh hiển. Amen.

 

33. "Chúa đã sống lại! Halleluya!"--Ngọc Biển

Tin mừng Ga 20, 1-9: Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.

Trong suốt Mùa Chay, nhất là Tuần Thánh, đỉnh cao là đêm Vọng Phục Sinh, Chúng ta được Giáo Hội qua các nghi thức cử hành, mời gọi chúng ta hướng về Quê Trời, cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới là chính Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi để sống xứng đáng là con cái Chúa. Ra khỏi bóng tối để đi vào Ánh Sáng. Những ý nghĩa này, đã được các nghi thức tối hôm qua diễn tả thật rõ nét. Thánh lễ giờ đây, chúng ta được Giáo Hội mời gọi hãy hân hoan hát lên bài ca “Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” và hãy loan tin vui này đến tận cùng trái đất. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta tin? Làm sao chúng ta dám loan truyền Chúa đã sống lại? Dựa vào đâu để xác tín điều đó?

1. Ngôi mộ bị bỏ trống?

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thuật lại sự kiện Chúa Phục Sinh. Bắt đầu từ việc bà Maria Mácđala đi ra mộ, mang theo thuốc thơm để sức xác Chúa. Khi tới nơi, bà ngỡ ngàng vì những gì hiện lên trước mắt bà. Tảng đã khổng lồ đã lăn ra khỏi mồ. Như vậy, theo linh tính, bà biết rằng xác Chúa không còn trong đó. Phải chăng người ta đã mang xác Chúa đi chỗ khác? Có thể là do một hoặc nhiều người đã lấy cắp xác Chúa? Bà liền chạy về báo cho các môn đệ, và Phêrô cùng với Gioan đã chạy tới, nhưng tiến thêm một bước nữa, cả hai ông đều vào và thấy khăn vải quấn người Đức Giêsu cũng như khăn che đầu vẫn còn đó. Một trong hai ông đã tin, đó là Gioan. Sự kiện ngôi mộ trống đã rõ ràng. Chắc chắn không còn xác Đức Giêsu trong đó. Nhưng Chúa đã sống lại hay bị mang đi hoặc bị đánh cắp? Tin Mừng cho chúng ta thấy có những suy nghĩ trái chiều. Maria Mácđala thì cho rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu”. Với các Kinh Sư, Luật Sĩ, Thượng Tế...và những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu, sau khi nghe tin Chúa đã sống lại thì đã dàn dựng một vở kịch nhằm vu khống cho các môn đệ, đồng thời bảo các lính canh thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt28:13-15).

Tuy nhiên việc phao tin là các môn đệ lấy cắp xác Đức Giêsu không khả tín cho lắm vì những lý do:

- Các môn đệ là những người ít học, đơn sơ chất phác. Những người chủ mưu giết Đức Giêsu thì có cả một kế hoạch (x. Mt 27, 62-66; 28, 13-15).

- Khả năng chuyên môn của các môn đệ là chài lưới, thu thuế...Còn đội lính canh giữ Đức Giêsu thì tinh nhuệ và sắc bén (x. Mt 27, 62 - 66).

- Các môn đệ đang trong tình trạng sợ sệt, không thể nào lấy cắp xác Chúa mà vẫn ung dung xếp những giải khăn gọn gàng được (x. Ga 20:18-19).

- Các môn đệ là những người thụ động. Lính canh là những người chủ động...

Như vậy, không có thể bày đặt ra chuyện Chúa đã sống lại để rồi lừa dối được. Gioan đã hiểu điều đó nên ông đã tin.

Tuy nhiên, nếu chỉ có chứng cứ về ngôi mộ trống thì không thuyết phục cho lắm. Sự kiện này chỉ có tính cách khai mở và là dấu chỉ của sự phục sinh mà thôi. Bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều giả thiết trái ngược nhau được đưa ra. Vậy, chúng ta còn dựa vào đâu nữa?

2. Những lần Đức Giêsu hiện ra và những lời Đức Giêsu đã báo trước

Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra với rất nhiều người, có những lúc trong nhà, trên đường, ngoài bãi biển. Trong số những người được Chúa hiện ra, chúng ta gặp những tên tuổi và những nhóm người như: hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28, 9-10; Mc 16, 9; Ga 20, 11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emau (x. Mc 16, 12-13; Lc 24, 13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20, 19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14). v.v…; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28, 16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).

Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:

- Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27);

- Nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20, 16);

- Những hành động Chúa làm (x. Lc 24, 35);

- Hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24, 27.45).

Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28, 9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24, 15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20, 14;21, 4).

Sự kiện Đức Giêsu hiện ra và việc nhận ra Ngài đã được tông đồ Tôma đáp lại cách tuyệt đối sau khi đã sỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn: “lạy Chúa tôi, lạy Chúa của tôi” (Ga 20, 28). Mặt khác, Đức Giêsu còn ra dấu hiệu về việc làm chứng và sứ vụ. Đồng thời, những lần hiện ra, Ngài còn hứa hẹn và loan báo sẽ trao ban Chúa Thánh Thần đến để trợ giúp, đồng hành với các ông trong sứ vụ.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã mở lòng trí các ông, để các ông nhớ lại tất cả những điều đã được báo trước trong Kinh Thánh và chính Ngài đã nói cho các ông trước khi lên Giêrusalem để chịu chết: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21).

Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi...thì mới không tin mà thôi.

Như vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng ghi lại: ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, và hứa sẽ đồng hành với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế qua việc trao ban Chúa Thánh Thần, và điều quan trọng nhất đó là những lần Ngài đã báo trước.

3. Sự kiện Đức Giêsu sống lại và niềm tin của chúng ta

“Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của các tông đồ..., và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội hơn 2000 năm qua, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” (1Cr 15, 19), và niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền, lời rao giảng là vô cớ. Nhưng Ngài đã sống lại và đã phục sinh tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành con người mới: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Đây quả là Tin Mừng, và Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, qua đau khổ là vinh quang. Sự kiện Chúa Phục Sinh, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được Phục Sinh như Ngài.

Giờ đây, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh lại một lần nữa được chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: tôi tin Đức Giêsu [...] Đấng đã “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”. Đây là niền tin của Giáo Hội và của mỗi chúng ta. Chúng ta hãnh diện, tự hào và tuyên xưng đức tin ấy cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội ấy. Amen.

 

34. Ra khỏi mồ

Đại lễ Phục Sinh giúp chúng ta tưởng niệm lại biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại; ngày Chúa sống lại ra khỏi mồ một cách vinh hiển. Biến cố ấy chính là niềm hy vọng, là điểm đến và mong ước của toàn thể nhân loại. nếu Chúa Giêsu không sống lại thì bao nhiêu hy sinh mơ ước của con người ở trần thế này không còn ý nghĩa gì nữa.

Để nói về sự Phục Sinh! là một điều rất khó thuyết phục cho những kẻ cứng tin, hay cho những người chống đối. Cũng còn một số những người tin đó là một biền cố thật sự thì lại cố ý bóp méo hoặc nói sai lệch đi vì một nguyên nhân nào đó, như những tên lính canh chẳng hạn. Còn cuộc sống tân tiến như ngày nay thì họ xem cuộc sống lại mai sau là một cái gì huyền bí giả tưởng. mọi điều ophải được chứng thực bằng mắt thấy tai nghe, bằng những phương pháp mà họ có thể thử nghiệm được thì họ mới tin. Cho dù chúng ta tin hay không thì Thiên Chúa chết và sống lại cũng là một chân lý mà tất cả sự kiện và lịch sử đó đã được xảy ra hơn hai ngàn năm nay. Và trong thực tế cũng có rất nhiều lý chứng xác nhận Đức Giêsu Phục Sinh là sự thật.

Ngôi mồ trống và khăn liệm.

Người đầu tiên nhìn thấy ngôi mồ trống là Maria Madalena, bà đã nhìn vào trong mồ và thấy ngôi mộ trống, mà cho dù ngôi mộ cố trống thì cũng không thể khẳng định là Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng lúc đó bà Madalêna cũng không nghĩ là Chúa đã sống lại thật. Bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là: "người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ". Vật chứng tiếp thao là khăn liệm, một vật chứng rất có giá trị về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, hiện nay vẫn còn được giữ tại nhà thờ thánh Gioan, ở Turin Bắc nước Ý. Bên trong trong mồ các khăn liệm vẫn còn khác với Lazarô khi sống lại "chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn". Khi sống lại Chúa Giêsu không cần đến sự trợ giúp của ai khác, Vì chính Người đã lăn tảng đá đóng kín mồ thề nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thế ấy. Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết của Madalena, cũng như những người cho rằng xác Chúa đã bị đánh cắp. Vì không đời nào người trộm xác lại có thời gian thảnh thơi lột các khăn liệm ra sắp xếp lại cho ngay ngắn rồi mới ôm xác đi. Điều đó thật vô lý.

Như vậy khăn che mặt còn là một dấu chỉ vững chắc cho việc Chúa sống lại. Cũng nhờ dấu chỉ này mà Gioan đã tin Chúa sống lại ngay khi vừa mới bước vào trong mồ. Đây cũng là dấu chỉ cho tất cả những người đang còn nghi ngờ về sự Phục sinh của Chúa. Nếu chúng ta không đích thân thấy Chúa sống lại để tin, thì chúng ta cũng phải biết nhìn vào các dấu chỉ này để tin.

Đời sống chứng nhân.

Đức tin cũa chúng ta chỉ có thể đặt trên nền tảng của các nhân chứng, của những người đã được sống với Chúa. Có thể nói họ là những người gần gũi với Chúa như "hình với bóng". Hằng ngày họ được tiếp cận, gặp gỡ và hiểu Ngài hơn ai hết. Chính họ là những người đã chứng kiến tận mắt và sờ tận tay cuộc khổ nạn, cái chết trên thập giá và sự sống lại của Người, và chứng từ của họ đã được chứng minh bằng chính giá máu, bằng chính cuộc sống của họ. Và như thề, chứng từ của họ là sự thật, vì không bao giờ có ai sẵn sàng chết cho một sự dối trá lừa đảo. Nhất là chứng thực của Thánh Phaolô. Ngày xưa Chúa vẫn là kẻ thù của Chúa, đi bắt đạo khắp nơi. Thế mà bỗng dưng ông thay đổi thái độ, bỏ chức quyền giàu sang, trở thàh thù địch của dòng họ chỉ vì tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Trước đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa Phục Sinh của ông và của các tông đồ, không còn có thể nói rằng chân lý ấy là một sự lường gạt dối trá nữa.

Cuối cùng ta cò thể kết luận: chúa giêsu đã sống lại và không ai có thể chối cãi. Những bằng chứng về sự Phục Sinh rất nhiều hiển nhiên, với hơn hai ngàn năm lịch sử, nếu là một chuyện hoang đường về một người tử tội sống lại sẽ không còn tồn tại như thế.

Lạy Chúa, biến cố Phục Sinh đã thắp lên trong tâm hồn con niềm hy vọng chứa chan, bởi vì nếu trung thành phụng sự Chúa, con cũng sẽ được chia sẻ. được sống lại trong vinh quang với Chúa. Amen.

 

35. Chúa Kitô sống lại, nền tảng của niềm tin Kitô giáo--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong ba ngày qua, chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã chết thật và được mai táng trong mồ ba ngày. Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Kitô Phục Sinh. Đó là một biến cố gây ngạc nhiên, một sự kiện có một không hai trong lịch sử nhân loại và là nền tảng niềm tin của chúng ta.

Thánh Phaolô đã xác tín: "Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng". (1 Cr 15, 14).

Niềm tin của chúng ta căn bản là tin vào Đấng Phục sinh và chúng ta đặt hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa Hằng Sống (1Tm 4, 10). Thánh Agustinô nói rằng: "Lòng tin của Kitô hữu là sự phục sinh của Chúa Kitô. Khi tin Chúa Kitô đã chết thì không có gì là khó khăn cả, kẻ ngoại đạo cũng tin như vậy, và tất cả mọi người cũng đều tin như vậy. Nhưng điều cao cả hơn hết là tin Chúa Kitô đã sống lại thật".

Nhưng tin vào Chúa sống lại không phải là một việc dễ dàng, vì chúng ta vẫn thường nghi ngờ làm sao có chuyện người chết sống lại? Vậy đâu là bằng chứng và nền tảng của niềm tin vào Chúa Kitô đã phục Sinh?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể giải thích sự sống lại của Chúa Kitô như một biến cố lịch sử, nghĩa là biến cố Chúa sống lại là một biến cố đã thực sự xẩy ra.

Những sự kiện sau đây có thể chứng minh sự sống lại của Chúa là có thật:

- Trước hết, Chúa Giêsu đã Chết thật

Bốn Phúc Âm đã kể lại vụ án và cái chết của Chúa xảy ra ngoài thành Giêrusalem là có thật. Chúa đã chết cùng với hai tội nhân và được mai táng trong mồ. Sử gia ngoại giáo là Giusepus cũng nói đến cái chết của ông Giêsu. Nếu Chúa không chết thì làm sao có chuyện phục sinh.

- Sự cứng lòng tin của các tông đồ

Các tông đồ là những người có thật, những người đánh cá đã theo Chúa. Khi thấy Chúa bị bắt và đem đi giết, rồi nhìn thấy Chúa chết trên thập giá, các tông đồ nghĩ rằng mọi sự đã kết thúc và ai nấy bỏ cuộc, trở về nhà mình. Lúc đầu các ông không hề chờ đợi một sự sống lại, họ có tin đâu! Chúa Giêsu phải trách móc họ: "Ôi những kẻ kém lòng tin!" Họ chính là những người lúc đầu có quan niệm là bị Chúa lừa gạt. Nhưng sau đó họ đã tin là có thật. Nếu Chúa không sống lại thì làm sao họ có thể chịu bị bách hại và chịu chết vì Chúa được? Họ được lợi lộc gì khi phải chịu hy sinh như vậy?

- Ngôi Mộ trống cũng là một lời chứng về Chúa Phục Sinh

Chúa được chôn trong một ngôi mộ và việc Chúa chổi dậy và ra khỏi mồ cũng là một bằng chứng. Tin Mừng Luca kể các phụ nữ ra mộ Chúa. Các bà hoảng sợ vì không thấy xác Chúa mà thấy một người thanh niên ngồi bên phải nói rằng: Người đã chổi dậy rồi không còn đây nữa (Lc 16, 6).

- Và một bằng chứng rất quan trọng đó là các lần hiện ra của Chúa Kitô phục Sinh

Chúa hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emaus. Rồi sau hiện ra với các tông đồ và nhiều người khác, Chúa cho Tôma xem các dấu đanh vì ông nghi ngờ.

Chứng tá xưa nhất về Chúa Kitô sống lại là của thánh Phaolô khi Ngài nói: "Tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh, Người đã hiện ra với ông Kê Pha rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số đó phần đông hôm nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến Người cũng hiện ra với ông Giacôbê rồi với tất cả các Tông đồ. Sau hết Người cũng đã hiện ra với tôi là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non" (1Cor 15, 3-8). Những lời này được viết ra vào năm 56 hay 57 sau C.N. Vì Phaolô đã gặp Đấng Phục sinh trên đường đi Đamas để bắt bớ giáo hội vào khoảng năm 35 sau C.N, nghĩa là khoảng 5 năm sau khi Chúa Kitô chết. Vì thế, đó là một chứng nhân lịch sử rất có giá trị.

Những cuộc hiện ra này chứng minh những điều mới mẻ về Chúa Kitô Phục Sinh. Ví dụ không phải ai cũng có thể thấy Chúa được nhưng chỉ những người Chúa cho thấy mới thấy Chúa được mà thôi. Thân thể Chúa hoàn toàn khác biệt với ngày trước. Chúa không còn lệ thuộc vào những định luật vật chất. Chúa đi ra vào mà cửa nhà vẫn đóng kín; cũng như Chúa hiện ra và biến đi.

Đây là những bằng chứng khách quan về sự sống lại của Chúa Kitô. Nhưng biến cố Chúa Phục sinh phải được đón nhận bằng đức tin mà thôi vì lý trí không thể lý giải được tại sao. Cho nên chúng ta cần phải có đức tin để hiểu biết và đón nhận biến cố quan trọng này.

Xin Chúa Kitô phục sinh ban cho chúng ta đức tin mạnh mẽ và vững vàng để chúng ta sống và làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh trong thế giới hôm nay. Amen.

 

36. Niềm tin.

Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?

Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.

Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.

Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.

Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.

Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.

 

37. Chúa Kitô sống lại--Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng Chúa Kitô đã chết và sống lại như các vị thần Osiris, Adonis trong các tôn giáo cổ xưa bên Ai Cập hoặc như Sơn Tinh, Thủy Tinh trong thần thoại Việt Nam? Không phải. Các vị thần nầy chỉ là huyền thoại biểu tượng cho sức sống của thiên nhiên, họ chết đi và sống lại mỗi năm theo mùa. Trái lại, Chúa Kitô là một nhân vật hiện thực, đã chết và sống lại chỉ một lần cho mãi mãi.

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng Người đã chết thực, nhưng hình ảnh Người còn sống động trong tâm hồn tín hữu giống như văn hào Nguyễn Du đối với người Việt, hoặc công chúa Diana đối vối bao nhiêu người mộ mến cô? Không phải. Những người này đâu còn sống nữa, chỉ còn lại tác phẩm hoặc hình ảnh của họ thôi. Trái lại, Chúa Kitô đã chiến thắng cái chết và sống thực sự.

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng sau khi Người chết, Thiên Chúa đã cho Người sống tiếp tục như trước kia, giống như phép lạ xảy ra cho chàng thanh niên ở Naim hoặc ông Ladarô? Không phải. Những người nầy do phép lạ được sống lại, nhưng vẫn mang thân phận con người và sau đó cũng đã chết. Trái lại, Chúa Kitô sống lại có một cuộc sống mới mà cái chết không còn quyền lực gì trên Người nữa.

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng có nghĩa là linh hồn Chúa Kitô rời khỏi xác để về quê trời? Không phải. Bởi vì linh hồn mọi người, ít nhất là các người công chính, sau cái chết cũng đều được như thế. Trái lại, sự sống lại của Chúa Kitô hiển nhiên là một biến cố duy nhất, có một không hai.

Vậy Chúa Kitô sống lại có nghĩa là gì? Có nghĩa là Chúa Giêsu đã bị xử án và chịu tử hình, nay sống lại một cách mới mẻ qua tác động quyền năng của Thiên Chúa. Có nghĩa là biến cố này không chỉ ăn thua đến cá nhân Người: được Thiên Chúa cứu độ; nhưng hơn nữa, Phục Sinh là một biến cố liên quan đến tất cả chúng ta: Chúa Kitô đã chết cho chúng ta và Người đã sống lại đi trước chúng ta. Vì chúng ta thuộc về Người, cho nên Thánh Thần Người ngự trong chúng ta, tác động giúp chúng ta chỗi dậy sau những thất bại hoặc ngã lòng. Vì chúng ta thuộc về Người, cho nên sức sống của Người ở trong chúng ta, sức sống đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu như Người.

Nói đến niềm tin của Giáo Hội trước tiên là nói đến niềm tin của các vị tử đạo.

Trước tiên là những người đã chứng kiến cái chết của Chúa Kitô trên đồi Golgôta, trước kia họ đã đặt một niềm hy vọng lớn lao nơi Người và sau đó họ đã thất vọng khi Người chết: bà Mađalêna, ông Phêrô và các tông đồ. Sự biến đổi lớn lao trong niềm tin của họ đã xảy ra chính ở cuộc gặp gỡ Đấng Phục sinh: Người đến với họ mỗi người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau.

Với những tông đồ nhút nhát sợ sệt, trốn tránh ở Giêrusalem, Người hiện ra cho họ xuyên qua cửa đóng kín;

với những ngư phủ đã trở lại nghề đánh cá cũ vùng Galilêa, Người hiện ra cho họ ở bờ hồ;

với hai môn đệ thất vọng rời Giêrusalem để đi về Emmau, Người hiện ra cho họ trên đường đi;

với người đàn bà đau buồn vì tang tóc, Người hiện ra cách riêng ở khi vườn gần mồ;

với Phaolô, kẻ tiếp tục bắt giết Người, Người hiện ra cho ông như là kẻ "đã yêu thương ông và hiến mạng cho ông". Đấng Phục Sinh đã gặp họ, và, do đó, họ đã biến đổi hoàn toàn.

Họ chứng minh niềm tin Phục sinh đó bằng lời nói, bằng lòng can đảm, bằng chính mạng sống họ, từ thuở đầu tiên, trải qua nhiều thế kỷ mãi cho đến những vị tử đạo ngày nay. Đó là niềm tin Giáo hội cử hành trong ngày lễ hôm nay.

Chúa Kitô luôn tiếp tục đến với mỗi người trong chúng ta, xin Người biến đổi chúng ta nên những chứng nhân của Người.

 

38. Niềm vui thay đổi lòng người

Người ta thường nói: "Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ". Niềm vui sẽ làm cho con ng ười người ta phấn khởi và sống lạc quan hơn. Hơn nữa, niềm vui còn có sức làm thay đổi lòng người. Chúng ta đã qua Mùa chay của năm Phụng vụ 2008 và chúng ta đang cùng với Giáo hội bước sang mùa Phụng vụ mới - mùa Phục sinh. Ðây là mùa vui nhất trong cả năm Phụng vụ. Vui mừng vì Ðấng Cứu Chuộc chúng ta thật sự đã sống lại. Vui mừng vì Thầy của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vui mừng vì ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được sống lại vinh quang như Chúa của mình.

Như chúng ta đã từng học trong giáo lý có hai dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thật sự sống lại: một là ngôi mộ trống với khăn liệm xếp ngay ngắn; hai là Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với nhiều người. Chẳng hạn như với Phêrô, Gioan hay như với Mađalêna.

Có một dấu hiệu khác mà có lẽ chúng ta ít để ý nhưng lại hết sức quan trọng. Ðó là sự thay đổi thái độ của các Tông đồ. Như chúng ta biết khi Chúa Giêsu bị bắt thì các Tông đồ như rắn mất đầu. Các ông chỉ còn biết trốn vào phòng đóng kín cửa mà không dám ra ngoài. Chỉ có Gioan là theo Chúa Giêsu tới cùng. Phêrô chạy theo nhưng khi bị người ta hỏi thì đã vội chối leo lẻo đến 3 lần. Còn các Tông đồ khác thì chẳng ai dám theo. Thế nhưng, Tin mừng phục sinh đã làm thay đổi hẳn thái độ của các ông. Từ những người nhút nhát sợ sệt chuyển sang can đảm, hăng hái đi rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.

Tâm lý thông thường khi có niềm vui thì chúng ta khó mà giữ riêng được cho mình. Chúng ta phải tìm mọi cách để cho nhiều người biết càng tốt. Bởi lẽ, "niềm vui chia sẻ thì nhân đôi còn nổi buồn chia sẻ thì vơi đi một nửa ". Các Tông đồ cũng thế, với Tin mừng phục sinh - một Tin mừng trọng đại các ông không thể ở mãi trong phòng được. Giờ đây các ông đã mạnh dạn mở toang cửa và chia mỗi người một ngã đi loan Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.

Qua Mùa Chay, Chúa và Giáo hội đã cho chúng ta nhìn ra được con người thật của mình: là một thụ tạo yếu đuối không hơn không kém. Dầu vậy chúng ta được chính Ðấng Tạo Hóa yêu thương là dường nào. Bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta cảm thấy vui mừng. Lại nữa Chúa Giêsu còn hứa: "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 3). Cho nên, nếu nh ư Chúa của chúng ta đã phục sinh vinh hiển thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Người. Ðó là niềm tin của người mỗi người tín hữu chúng ta. Là những người tín hữu, chúng ta hãy sống như thế nào để mọi người xung quanh nhận thấy được đạo của chúng ta thật sự là đạo của niềm vui. Một gương mặt nhăn nhó, một lời nói xúc phạm đến danh dự của người khác hay một cử chỉ lừa dối chắc không thể loan báo Tin mừng phục sinh được.

Trong gia đình vợ chồng con cái biết hy sinh, đùm bọc, tha thứ và nhường nhịn nhau.

Trong cùng lối xóm biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Bởi lẽ "Bà con xa không bằng láng giềng gần".

Trong cùng họ đạo sống đoàn kết và lắng nghe nhau.

Khi sống tốt như vậy là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin của mình cũng như đang loan báo Tin mừng Phục sinh.

Nguyện xin niềm vui phục sinh luôn ở mãi với gia đình cũng như từng người chúng ta.

 

39. Đức Kitô sống lại

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.

Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.

Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.

Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.

Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.

Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.

Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.

Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.

Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.

Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.

 

40. Tôi đã thấy Chúa!--Alphonse Marie Trần Bình An

Tour de France thường được xem như là cuộc đua xe đạp khó khăn nhất thế giới mặc dù thật ra địa hình đường đua không đòi hỏi cao hơn hai cuộc đua xe đạp vòng quanh quốc gia khác: Giro d’Italia (Vòng đua nước Ý) và Vuelta a Espana (Vòng đua Tây Ban Nha). Đúng ra chính là các tay đua đã làm cho cuộc đua khó khăn hơn: ở đây người ta đua nhanh hơn, cứng rắn hơn và không nhân nhượng nhiều hơn tất cả các cuộc đua xe đạp khác.

Cuộc đua bắt đầu từ năm 1957 bằng phần gọi là prologue (khởi đầu), phần đua cá nhân tính giờ (khoảng 5 đến 10 km). Trong 20 chặng đua tiếp theo đó, sau mỗi chặng thường có 1 đến 2 ngày nghỉ, nước Pháp được luân phiên chạy vòng theo chiều kim đồng hồ hay ngược lại. Sau vụ tai tiếng về chất kích thích (doping) trong năm 1998, chiều dài tổng cộng được giảm còn vào khoảng 3.500 km. Đường đua và các địa điểm cho từng chặng thay đổi hằng năm, chỉ có đại lộ Champs Élysées ở Paris, địa điểm chấm dứt Tour de France từ năm 1975 là không thay đổi. Một số đèo qua núi cao cũng được đưa vào đường đua hầu như mỗi năm.

Các ngày đầu tiên của Tour de France hầu như lúc nào cũng mang dấu ấn của các chặng đường bằng phẳng miền bắc nước Pháp, thích hợp cho các cuộc so tài ở tốc độ nhanh trước khi kết quả chung cuộc được quyết định trên các vùng núi cao Pyrénées và Alpes. Ngoài ra trong Tour de France còn phải đua tính thời gian cá nhân hai lần và từ năm 2000 lại có đua tính thời gian thời gian đồng đội.

Ngay từ thời kỳ đầu, đường đua đã vượt biên giới nước Pháp trong vài chặng riêng lẻ, từ năm 1954 địa điểm xuất phát cũng được tổ chức trong các nước lân cận không theo một quy luật nhất định (cho đến nay là ở Đức, Tây Ban Nha, Ý các nước thuộc nhóm Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan, Luxembourg), Thuỵ Sĩ, Anh và Ireland. Kế hoạch tổ chức xuất phát Tour de France từ New York hay từ các phần đất nước Pháp ngoài Châu Âu tuy đã có từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn chưa được thực hiện, vì các vấn đề về tiếp vận quá lớn. (Wikipedia)

Cuộc đua Tour de France tranh chiếc áo vàng, cùng tiền thưởng sôi động hằng năm, có thể gợi ý cho Tín hữu Kitô nhớ đến cuộc chạy của quý bà đạo đức, hai môn đệ Phêrô và Gioan, hối hả không kém, cùng chạy ra ngôi mộ trống tìm Chúa Phục Sinh. Tuy chẳng danh lợi, nhưng phần thưởng cực kỳ cao quý. Mỗi người tham gia đều nhận được một phần thưởng riêng, tuỳ theo thành quả đạt được từ tình yêu, tâm hồn nhiệt thành và quyết tâm tích cực.

Trích đoạn Tin Mừng thánh Luca của đêm vọng Phục Sinh, không nhắc đến kết quả mỹ mãn của bà Maria Mắcđala, nhưng các thánh sử Matthêu, Marcô và Gioan đều công bố bà Mắcđala đã được gặp Đức Giêsu sống lại. Vậy bà chính là người đầu tiên được diễm phúc hạnh ngộ với Chúa Phục Sinh. Nhờ đâu bà được diễm phúc như thế?

Lửa mến

Thánh sử Luca chỉ vắn tắt kể về bà Maria Mắcđala và quý bà đạo đức đi viếng mộ. “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn…” (Lc 24, 1-11) Ba thánh sử còn lại đều tường thuật tương tự, nhưng khá chi tiết hơn. Chính xác, thánh sử Máccô còn quả quyết khẳng định: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mắcđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16, 9) Thánh sử Gioan còn đặc biệt dành riêng một trường đoạn tường thuật khá tỉ mỉ cuộc hạnh ngộ: ”…. Bà Maria Mắcđala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20, 11-18)

Sau khi được Đức Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ ám, khỏi những tội lỗi chế ngự, bà Maria Mắcđala hân hoan đón nhận ơn gọi theo Chúa ngay từ Galilê. Hăng say, nhiệt thành, rộng rãi, bà đóng góp của cải, lẫn công sức vào hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Thời gian sau đó, Ngài rảo qua các thành, các làng, mà rao giảng và loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Có nhóm mười hai đi với Ngài, và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỉ dữ cùng đau yếu: Maria gọi là người Mắcđala, có bảy quỉ đã xuất ra khỏi bà và Yoanna vợ của Khuza, viên quản lý của Hêrôđê, và Susanna cùng nhiều bà khác: họ đã lấy của cải của mình mà trợ giúp Ngài.” (Lc 8, 1-3)

Trong khi các môn đệ đồng loạt trốn chạy, bỏ rơi Đức Giêsu cô đơn chịu khổ nạn, bà Maria Mắcđala và các bà đạo đức vẫn âm thầm đồng hành với Người suốt chặng đường thập giá. Cả bốn thánh sử đều ghi tỏ tường bà Măcđala và các bà đứng chứng kiến giây phút sầu thảm trên đỉnh đồi Golgotha. (Mt 27, 55-56; Mc 15, 40-41 & Lc 23, 49) Dưới chân thập giá, ngoài Đức Mẹ Maria và môn đệ Gioan, vẫn không thiếu vắng Maria Mắcđala. (Ga 19, 25)

Rồi bà Maria Mắcđala và các bà cũng tiếp tục hiện diện trong cuộc mai táng Đức Giêsu trong mồ do ông Giôxếp chủ trì tẩm liệm, với “chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương”. (Mt 17, 57-61; Mc 15, 42-47; Lc 23, 50-55). “Cùng đi với ông Giôxếp có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày Sabát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.” (Lc 23, 55-56)

Chỉ có thể lý giải vì lửa mến hừng hực, nồng nàn, mãnh liệt, bà Maria Mắcđala mới có thể trung thành, kiên trì theo Chúa từ Galilê đến tận đỉnh Golgotha. Chẳng lo ngại tính mạng, chẳng sợ bạo lực quân dữ, lẫn cơn say máu của giới lãnh đạo tôn giáo và quần chúng điên cuồng, bà Maria Mắcđala và quý bà đấm ngực, đau đớn, khóc lóc than thở, đều can đảm đồng hành với Chúa chịu khổ hình, đến tận Núi Sọ. “Ði theo Ngài, có đám dân đông đảo cùng phụ nữ: các bà này đấm ngực và khóc than Ngài.” (Lc 23, 27)

Tình yêu còn thêm đậm đà ngát hương từ bình dầu thơm, mang ra mộ vào sáng sớm tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần. Thánh Luca có lẽ muốn diễn tả lửa mến rất nồng thắm, thuần khiết, tinh tuyền và bền vững của bà Maria Mắcđala dành cho Đức Giêsu.

Niềm tin

"Làm sao các ngươi đi tìm Ðấng sống giữa những người chết? Ngài không có đây, nhưng đã sống lại. Các ngươi hãy nhớ lại Ngài đã nói làm sao với các ngươi, khi còn ở Galilê, rằng: "Con người phải bị nộp trong tay những người tội lỗi, bị đóng đinh thập giá, và sống lại ngày thứ ba." Lời thiên sứ phán dạy, mặc khải trực tiếp mầu nhiệm Phục Sinh cho bà Maria Mắcđala và những người đi cùng.

Đồng thời thiên sứ trao cho họ trách nhiệm làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh. Nhờ tình yêu Chúa dẫn dắt, họ sớm được vinh dự đón nhận hồng ân tin cậy vào Lời Chúa. “Và họ đã nhớ lại các lời của Ngài.” Vội vàng trở về, Bà Maria Mắcđala đã thành chứng nhân, Tông đồ cho các Tông đồ (Apostola Apostolorum). “Ði thăm mộ về, họ đã nói lại hết các điều đó cho nhóm Mười một, và các kẻ khác hết thảy, Ðó là các bà Maria người Mắcđala, Gioanna, và Maria mẹ của Giacôbê. Và các bà khác làm một với họ, đều nói các điều đó với các tông đồ. Nhưng trước mắt các tông đồ, các lời nói ấy có vẻ là lời nói sảng, và họ không tin các bà.”(Lc 24, 9-11)

Tiếc thay, các đấng còn nặng nề thành kiến, kỳ thị, phân biệt giới tính, không hề tin họ. Bất ngờ cuộc đua marathon xảy ra tự phát giữa các ông Phêrô, Gioan và bà Maria Mắcđala. ”Nhưng Phêrô chỗi dậy chạy đến mồ. Cúi mình nhìn vào, ông thấy chỉ có những dải vải mà thôi. Và ông lui về nhà, kinh ngạc về sự đã xảy ra.” (Lc 24, 12)

Hạnh ngộ

Chung cuộc, chỉ có ông Gioan“đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 8) Còn ông Phêrô vốn thủ lãnh, thì chỉ dám dè dặt ghi nhận sự kiện nóng bỏng ngôi mộ trống, cùng băng vải và khăn che đầu đã cẩn thận sắp xếp lại. “Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.” (Ga 20, 10)

Chỉ còn lại kiên trì một mình bà Maria Mắcđala, nước mắt giọt vắn giọt dài, vừa thống hối tội lỗi mình, vừa thương nhớ Đức Giêsu, lẫn hy vọng trông cậy. “Bà Maria Mắcđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ.” (Ga 20, 11) Bà lại thấy hai thiên thần mặc áo trắng xoá. “Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu. Nói xong, bà quay lại và thấy Ðức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Ðức Giêsu. Ðức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” (Ga 20, 13-15)

Trước lửa mến nồng nàn, tuyệt đỉnh yêu thương, Đức Giêsu không thể nào nhẫn tâm làm ngơ, chẳng nỡ từ chối lòng khao khát cháy bỏng. Bà Maria Mắcđala liền được diễm phúc hạnh ngộ, được Người thương yêu đáp lại, gọi đích danh. “Ðức Giêsu gọi bà: "Maria!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni!"nghĩa là “Lạy Thầy, ” Ðức Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: 'Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20, 16-17)

Tình yêu dẫn đến niềm tin, rồi niềm tin dẫn đến cậy trông, hy vọng và tình yêu đáp lại. Bà Maria Mắcđala đã chân thành yêu Chúa, hoàn toàn tin Lời Chúa và đã hạnh phúc gặp được Chúa Phục Sinh. Bà đã nghe, đã sống trọn vẹn Tin Mừng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11, 9-10)

“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh hằng sống, Chúa đang hiện diện bên con, đang ẩn giấu trong anh chị em tha nhân. Xin Chúa mở mắt, mở tai, mở tâm hồn chúng con, để chúng con hạnh phúc như bà Maria Mắcđala, được gặp Chúa, nhìn thấy Chúa, cũng như lắng nghe được tiếng Chúa luôn mời gọi chúng con mãi đi theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, suốt đời Mẹ đồng hành cùng Chúa, nhất là trong mầu nhiệm thương khó và Phục Sinh. Xin Mẹ san sẻ, thương ban cho chúng con tình yêu Mẹ dành cho Con Mẹ, để tâm hồn chúng con bùng lên, nóng hổi lửa mến, niềm tin, đức cậy, để luôn được hạnh ngộ cùng Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.

 

41. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh--Alphonse Marie Trần Bình An

Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.

Nẻo đường của ông Phêrô

Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa. Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó. Vẫn hăng hái và nhiệt thành. Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.

Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ. Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiết thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa. (ĐGM Fulton Sheen)

Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển. Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá. Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới bên phải mạn thuyền. Tức thời trúng thật đậm. Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.

Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại. Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.

Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn. Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi. Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?

Nẻo đường của ông Gioan

Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (Ga 20, 5) Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt. (Mc 14, 51) Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong. (Ga 18, 16). Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.

Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến. Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này. Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh? Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng? Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?

Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi… Ông đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 7- 8)

Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc. Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.

Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn. Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.

Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa. Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra dón nhận hay không? Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối?

Nẻo đường của bà Maria Mácđala

Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3). Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo. Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn. Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu. (Ga 19, 25), Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ. (Lc 24, 55)

Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài. Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra. Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.

Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh. Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng. Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện. Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn. Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại. (Ga 20, 16)

Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian. “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20, 17)

Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han. Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.

Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài. (Đường Hy Vọng, 964)

Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-17042022-chua-nhat-phuc-sinh-nam-c-chua-da-song-lai.html