"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Lời Chúa: Lc 6, 17. 20-26
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật.
Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói:
"Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy.
Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười.
Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương.
Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế. "
Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi.
Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát.
Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc.
Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
SUY NIỆM
1. Hạnh phúc thật - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.
Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.
Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?
Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.
Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.
Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.
Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.
Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?
Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.
Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!
Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.
Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.
Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa mà thôi.
2. Sẽ được đáp đền – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến cùng. Nhân loại hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Vậy mà sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói? Không lẽ Chúa Giêsu lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?
Tất nhiên là không. Chúa Giêsu muốn cho mọi người được hạnh phúc và no đủ. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy xin Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày và chính Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và dư dật cho những người đi theo Chúa vào nơi hoang vắng hôm xưa được ăn no.
Thế thì tại sao Chúa Giêsu lại nói: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát"?
Ðể hiểu rõ lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy đọc cho kỹ câu văn: Bấy giờ "Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó... là những kẻ bây giờ phải đói... bây giờ đang khóc..."
Thánh Luca ghi rõ: "Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói..." Vậy thì đây là những lời Ðức Giêsu trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giêsu.
Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới... ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên nghèo thiếu vì Tin Mừng và vì Chúa Giêsu. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giêsu trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.
Trước đây, với nghề chài lưới trên một vùng biển vốn nhiều tôm cá, các môn đệ Chúa Giêsu không biết đói khát là gì. Thế mà từ ngày lang bạt theo Chúa Giêsu rày đây mai đó để loan báo Tin Mừng, các ngài phải chịu cảnh bữa đói bữa no. Có lần các môn đệ khi đi qua đồng lúa, phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói (Mt 12,1). Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng quảng đại ắt sẽ bù đắp cho họ dư đầy. "Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng".
Rồi cũng theo dòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu nói: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế".
Như vậy, nói tóm lại, các môn đệ sẽ được dư đầy hồng phúc vì các ngài đã chịu nghèo đói, thua thiệt vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng của Ngài. Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn.
Ðại thi hào Tagore người Ấn độ có một bài thơ minh hoạ cho chân lý nầy:
"Tôi đang đi hành khất hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ; lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy là ai!
Hy vọng trong tôi giang cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.
Xe ngừng nơi tôi đứng. Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người lại chìa bàn tay phải ra mà nói: Có gì cho ta không?
A ha, gớm chưa lời thử lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một người hành khất tầm thường! Bối rối, tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé nhất đưa cho người.
Nhưng, ngạc nhiên xiết bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền đất, tôi lại thấy giữa đống của bố thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé. Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã có tấm lòng dám cho người tất cả những gì là của riêng tôi!"
Người ăn xin trên đây đã vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho đức vua, thì giờ đây, ông đã được một túi đầy những hạt bằng vàng!
Các môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giêsu và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, trống không vì Chúa Giêsu, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.
Nếu hôm nay, chúng ta không bủn xỉn như gã ăn xin trên đây, nhưng biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ... của chúng ta cho Thiên Chúa và cho việc loan báo Tin Mừng như các môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, chúng ta cũng sẽ là những người được Thiên Chúa ban cho dư đầy phúc lộc mai sau và đối tượng của những lời chúc phúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là hôm nay cũng chính là chúng ta.
3. Giáo lý của Tân Ước
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Các Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự truyền giáo. Người từ giã gia đình để đi vào xã hội (tiệc cưới Cana, Chúa Nhật II). Người đến hội đường Nadarét tự giới thiệu là vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa gửi đến (Chúa Nhật III). Kẻ đồng hương phủ nhận Người (Chúa Nhật IV) khiến chúng ta thấy trước công việc của Người rồi sẽ đi tới đâu. Nhưng Ðức Giêsu đã chọn các tông đồ để sứ mạng của Người được đảm bảo trong tương lai (Chúa Nhật V). Hôm nay (Chúa Nhật VI) bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy chính nội dung giáo lý của Người, cũng là giáo huấn trường tồn trong Hội Thánh. Nó đã được chuẩn bị trong Cựu Ước, như bài sách Giêrêmia có thể cho chúng ta thấy. Và nó chỉ có thể được tin theo nếu chắc chắn ở việc Ðức Giêsu đã sống lại để trở thành người đi trước chúng ta vào hạnh phúc trường sinh.
Bài thư Phaolô hôm nay ngắn nhưng rất quan trọng. Chúng ta hãy suy niệm Lời Chúa để nhận ra những bài học rất hiện đại cho đời sống con người.
1. Sự khôn ngoan của Cựu Ước
Giêrêmia là một tiên tri. Ông là một trong bốn tiên tri lớn còn lại một văn phẩm. Ở đây lời lẽ của ông không có vẻ "tiên tri" bao nhiêu. Ðành rằng vẫn có công thức mà các tiên tri vẫn dùng để khai ngôn: "Lời Chúa phán như thế này". Nhưng sau đó tác giả đã sử dụng lối văn khôn ngoan, đưa ra ý kiến phải ăn ở thế nào cho được hạnh phúc và khỏi bất hạnh.
Thực ra thì lối văn này không phải là không bao giờ được các tiên tri dùng. Môsê vẫn dùng nó khi vạch ra cho con cái Israen thấy rằng họ luôn luôn đứng trước hai con đường: một đường dẫn đến sự sống và một đường dẫn đến sự chết. Người ta được tự do lựa chọn một trong hai con đường ấy. Cũng là hai con đường hạnh phúc và vô phúc. Lối văn tiên tri thường không mặc hình thức trình bày gẫy gọn ấy... Nó thường phong phú và tâm tình hơn. Nhưng cuối cùng nó thôi thúc người ta phải lựa chọn giữa đường dẫn tới sự sống và đường đưa tới sự chết. Ðoạn tiên tri Giêrêmia hôm nay là một khúc nằm trong toàn bộ tác phẩm mang tên ông. Nó mặc hình thức lối văn khôn ngoan, nhưng vẫn giữ giọng tiên tri, vì nó bắt đầu với những câu tuyên án mà các tiên tri vẫn phải nói để sửa sai và phá đổ.
Giêrêmia loan báo tai họa cho kẻ tin tưởng vào người đời và trở lòng đối với Chúa. Ông có nhắm cụ thể vào ai không, hay chỉ nêu lên những lẽ khôn ngoan ngàn đời? Chắc chắn nhiều người nghe ông nói thời bấy giờ, đã giật mình và khó chịu. Họ cảm thấy bị nhắm thật sự. Vì ở thời Giêrêmia con cái Israen đang sa sút lòng đạo đức. Nhất là bậc vua Sêđêcias (597-586 trước CN). Nhà vua không chịu nghe lời tiên tri. Cứ ăn ở theo xác thịt. Rồi thấy roi Chúa bắt đầu quất lên, thay vì thống hối ăn năn trở về với Người, ông đi tìm sức mạnh nơi các liên minh quân sự. Ông không đang trở lòng với Chúa và tin tưởng vào phàm nhân sao? Ông bỏ chỗ cậy dựa vào Thiên Chúa cao cả, để cầu cứu với những con người xác thịt. Và không riêng gì Sêđêcias. Hầu hết hàng đầu mục dân bấy giờ đều như vậy. Chính sách của Israen bấy giờ là coi thường đường lối của Chúa và tin tưởng ở mọi tổ chức loài người.
Giêrêmia đến làm sứ mạng tiên tri... Ông nguyền rủa chính sách ấy. Ông loan báo tai họa sẽ ập đến trên những kẻ bỏ Chúa như vậy. Họ sẽ như cỏ cây nơi sa mạc, làm sao có được hạnh phúc? Nắng sẽ thiêu, đất sẽ đốt, cỏ sẽ rụi. Khác hẳn với con người đặt tin tưởng vào Chúa. Họ như cây trồng bên bờ suối. Rễ sẽ mát, lá sẽ tươi, trái sẽ nhiều. Ðó là những hình ảnh quen thuộc mà Kinh Thánh vẫn dùng để mô tả định mệnh của kẻ dữ, người lành. Giêrêmia lặp lại những hình ảnh ấy để khẳng định niềm tin của mình và kêu gọi mọi người trở về với Chúa.
Ðó chỉ là sáo ngữ hay là những lời chân thật? Chúng ta biết Sêđêcias đã kết thúc cuộc đời thảm hại như thế nào: ông bị bắt, bị khoét mắt, bị dẫn đi lưu đày và con cái ông đã bị tàn sát thảm thương (Gr 39,1-10).
Giêrêmia đã không thấy trước hoàn toàn như vậy đâu. Nhưng ông thâm tín về chung cuộc bi đát của những kẻ bất trung với Chúa. Ông nói lên những lời khôn ngoan và tiên tri cho mọi người và mọi thời. Chẳng bao giờ những lời này mất giá trị. Nhưng chúng ta cũng có những giáo huấn rõ ràng và đầy đủ hơn nữa. Chính Ðức Giêsu đã đến dạy chúng ta. Và thánh Luca đã ghi lại cho Hội Thánh trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Giáo lý của Tân Ước
Ðức Giêsu bấy giờ ở trên núi xuống... Người vừa qua một đêm cầu nguyện cùng Chúa Cha... Và sáng ngày, Người đã gọi 12 môn đệ lại và đặt họ làm tông đồ. Bấy giờ Người xuống khỏi núi, không những có đoàn 12 và nhiều môn đệ khác đi theo, mà còn có rất đông dân chúng đang đứng chờ ở một chỗ đất bằng và rộng. Họ từ khắp nơi kéo đến, như muốn đươc chia sẻ những gì mà Ðức Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người khi ở trên núi. Quả vậy, thánh Mátthêu nói rằng Ðức Giêsu đã giảng về các Phúc thật khi ở trên núi và bài giảng đó được mệnh danh là bài giảng trên núi. Nó lại kê khai 8 điều phúc hứa cho những người nghe Lời Chúa, nên được gọi là bài giảng 8 mối phúc thật. Ở đây chúng ta chỉ thấy có 4 điều phúc và thấy Ðức Giêsu đã tuyên bố những điều này ở một chỗ đất bằng phẳng và rộng. Là vì thánh Luca là tác giả có tinh thần phổ quát, muốn cho hết mọi dân tộc được chia sẻ tin mừng cứu độ. Chỗ đất bằng và rộng gợi lên mặt biển bao la mà tác giả đã nhiều lần vượt qua với thánh Phaolô để mang tin mừng đến cho các dân tộc. Hôm nay các dân tộc cũng hiện diện chỗ đất bằng và rộng này vì có đông đoàn lũ từ Giêrusalem và nhiều tỉnh kéo đến.
Chắc chắn không phải Luca đã bớt xén bài giảng của Ðức Giêsu, khiến 8 mối phúc thật chỉ còn có 4. Chúng ta phải nói rằng cả thánh Luca và thánh Mátthêu đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Chúa qua trung gian một bản văn đã có trước bản văn của các ngài. Bản văn này ghi 4 điều phúc cho kẻ nghèo, kẻ đói, kẻ khóc, và kẻ bị bắt bớ vì đạo. Mátthêu và Luca cũng chép lại cả 4, nhưng cả hai muốn quảng diễn thêm. Mátthêu thì phân 4 thành 8; còn Luca thì nhân 4 với 2, tức là dùng thêm hình thức tiêu cực, nghĩa là sau khi nói đến 4 điều phúc, Luca nói đến 4 điều vô phúc cho những kẻ mâu thuẫn với 4 hạng người nghèo, đói, khóc lóc, và bị ghét bỏ, thì bốn điều vô phúc lại đe dọa những kẻ giàu, no, cười cợt và được tâng bốc. Như vậy, thể văn của Luca gần với lối văn khôn ngoan như chúng ta nhìn thấy trong bài sách Giêrêmia. Ở đây chúng ta cũng đã thấy có 2 phần: đoạn trước nói về số phận những kẻ bỏ Chúa để chạy theo thế gian. Ðịnh mệnh của họ ngược hẳn với tương lai của những người đặt hết tin tưởng vào Chúa, được trình bày ở đoạn sau. Nhưng chúng ta hãy thôi nói về hình thức văn chương, để tập trung suy nghĩ vào tư tưởng của bài Tin Mừng hôm nay.
Luca là một y sĩ và là tác giả của lòng Chúa thương xót nhân loại. Ngay từ câu đầu tiên, chúng ta đã nhìn thấy một lòng thương xót rất cụ thể. Luca viết rằng: Chúa phán: Phúc cho những kẻ khó nghèo; chứ không nói như Mátthêu: Phúc cho những kẻ có tinh thần nghèo khó. Có thể nói được rằng, theo Luca, khi ấy Ðức Giêsu nhìn vào môn đồ và tuyên bố như trên. Lời của ngài có tính cách rất chân thật vì các môn đệ kia thật sự đã khó nghèo... Và khi ghi lại Lời Chúa, Luca cũng thấy trước mắt chỉ có những kẻ nghèo khó đã tin vào Phúc Âm và đang làm nên Hội Thánh của Chúa ở trần gian. Nói cách khác theo Luca, Chúa tuyên bố những người nghèo khó trong xã hội là những người có phúc. Còn những người giàu có, chính là những hạng vô phúc.
Và như vậy Luca tỏ ra trung thực với truyền thống các tiên tri trong Cựu Ước. Vì các ngài luôn loan báo những kẻ nghèo khó sẽ được rao giảng Tin Mừng. Nay Ðức Giêsu mang Tin Mừng đến; những người có phúc nhận lãnh chính là những thành phần nghèo khó trong xã hội. Chính Người cũng đã sinh ra giữa đám người này. Họ là những người đầu tiên được loan báo ơn cứu độ đã đến, khi sứ thần Thiên Chúa hiện ra với mục đồng trong đêm Chúa Giáng Sinh, Nhiều lần Người khẳng định Tin Mừng và của cải không thể đi với nhau, vì nhất thiết họ sẽ mê của và bỏ Chúa, hoặc ngược lại người ta sẽ đi theo Chúa và bỏ hết mọi sự.
Ðặc biệt nhất trong sách Luca có câu chuyện người phú hộ và Lazarô, một kẻ ăn mày ngồi ở ngoài cửa nhà ông (16,19-32). Không phải người giàu có ác tâm gì với Lazarô. Nhưng khi hai người chết, số phận đã đảo ngược hẳn lại. Lazarô được đưa vào cung lòng Abraham, còn người phú hộ phải ở nơi đau đớn. Lý do chỉ vì xưa kia ông đã sung sướng và Lazarô đã khổ; bây giờ Lazarô được an ủi và ông phải đau đớn. Dĩ nhiên chúng ta không nên cắt nghĩa một cách máy móc. Nhưng phải thành thật công nhận rằng Kinh Thánh vẫn có truyền thống chiếu cố những thành phần nghèo khó trong xã hội và thường phủ nhận nếp sống của những người giàu sang.
Sách Tin Mừng của Luca lại càng rõ rệt về vấn đề này (xem 16,13; 18,22.25; 12,30; 8,14...) Có thể vì như sách ấy viết ở đầu, tác giả đã tra cứu kỹ lưỡng về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và thấy rõ thái độ ưu ái của Người đối với thành phần nghèo khổ trong xã hội. Và cũng có thể vì yêu mến Hội Thánh và thấy Hội Thánh gồm toàn những thành phần khổ sở nhất trong xã hội, tác giả thâm tín quả thật Nước Trời là của những kẻ nghèo khó.
Một bằng chứng nữa về việc tác giả Luca đã hiểu những con người nghèo khó đây một cách cụ thể là cách người trình bày các mối phúc thật sau. Khác với bản văn có trước mà Người với thánh Mátthêu đã sử dụng để viết lại bài giảng của Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay đã đổi chỗ nói về những con người đói ăn lên trước những con người khóc lóc. Và như vậy những con người nghèo khổ trước hết là những con người bây giờ túng đói. Họ sẽ được no đầy ở đời sau; nhưng bây giờ Nước Trời cũng đã là của họ rồi vì họ là thành phần những người nghèo khó. Ngược lại, những kẻ bây giờ no đủ sau này sẽ bị đói khát, như người phú hộ nọ.
Nhưng trong truyền thống của Thánh Kinh, những kẻ nghèo khó không những phải túng đói mà còn gặp rất nhiều đau khổ khác ở đời. Hiện tại họ phải khóc lóc; nhưng phúc cho họ vì họ sẽ được vui cười. Còn những kẻ bây gờ vui cười, sau này sẽ phải ưu phiền khóc lóc. Có thể nói ba mối phúc đầu làm thành một bộ và chủ yếu nhắm tới hạng người khổ sở trong xã hội mà Kinh Thánh gọi chung là những người nghèo khó. Họ sẽ được rao gaỉng Tin Mừng cho ở đời này và sẽ được bù lại ở đời sau... Nhưng khi đã lãnh nhận Tin Mừng, họ phải cẩn thận. Nếu họ bị ghét bỏ vì danh Chúa; thì họ có phúc vì họ sẽ giống các tiên tri thật. Còn nếu họ được khen lao, họ sẽ như các tiên tri giả.
Chúng ta có thể nghĩ rằng, ở đây tác giả Luca cũng đã diễn tả Lời Chúa cho một hoàn cảnh rất cụ thể. Chúa đã nói trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ vì Tin Mừng... Nhưng khi Luca viết sách, có lẽ các cơn bắt đạo chưa mãnh liệt hoặc đã lặng xuống. Ngược lại, đâu đâu người ta theo Chúa cũng bị kỳ thị và gặp khó khăn. Do đó tác giả không nói đến bắt bớ mà chỉ diễn tả ý tưởng bị ghét bỏ. Và như vậy chúng ta lại có dịp phải hiểu sách Luca trong hoàn cảnh cụ thể của Hội Thánh.
Dân Chúa bấy giờ, như sách Công Vụ các Tông Ðồ cho thấy là cộng đoàn bác ái đến nỗi không còn ai nghĩ của mình có là của riêng mình nữa, nhưng đã đem chia sẻ hết cho nhau để không còn ai túng thiếu. Tuy lòng bác ái đã bắt đầu sa sút khi những kẻ muốn giữ một phần của cải lại cho mình, như vợ chồng Anania... Luca thấy rõ tiền của thật là bất lương (16,9). Người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được (16,13). Thế nên phúc cho người nghèo khó vì nước Thiên Chúa là của họ.
Nhưng dân Chúa bấy giờ cũng đang gặp khó khăn với người Do Thái, nên phúc cho họ khi bị kỳ thị vì danh Chúa. Họ đang đóng vai trò của các tiên tri thật ở giữa dân được tuyển chọn. Sự khôn ngoan của Cựu Ước vì thế nay đã thuộc về họ. Họ hãy tin tưởng vào Chúa.
3. Niềm tin của chúng ta
Hoàn cảnh của chúng ta hiện nay ở trong Hội Thánh dĩ nhiên đã khác với thời thánh Luca. Nhưng những nét tả trên đây của Người về Hội Thánh vẫn còn nhiều giá trị. Mọi nơi, Tin Mừng Nước Trời vẫn đến với những người nghèo khó và những người theo Chúa thường bị ghét bỏ... Chúng ta không mong nhận được bù đắp và phần thưởng ở đời này, vì đúng như lời thánh Phaolô hôm nay nói: Nếu chúng ta đặt mối hy vọng vào Ðức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong tất cả thế gian. Không, vì chúng ta tuyên xưng Ðức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, thì chúng ta cũng chắc chắn rằng những kẻ chết trong Người cũng sẽ sống lại.
Tuy nhiên ngay ở trần gian này, mỗi khi cử hành phụng vụ Thánh Thể, hơn bao giờ hết, chúng ta lại thấy được ở trong Nước Trời. Và đó không phải là một hạnh phúc nhỏ đâu... Nói cách khác, đời sống Kitô hữu hiện nay của chúng ta đang thể hiện những lời Luca đã viết và đã được sự khôn ngoan của các tiên tri ngày xưa báo trước. Về mặt xã hội chúng ta là những thành phần khó nghèo và đang phải phấn đấu nhiều, nhưng hiện nay nhờ mầu nhiệm Ðức Giêsu Phục Sinh, không những chúng ta được an ủi vì đang ở trong Nước Trời, nhưng hơn nữa, chúng ta còn nắm vững niềm tin về hạnh phúc bất diệt sau này, khi những kẻ chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại cho sự sống muôn đời. Và không nói gì xa, cộng đoàn phụng vụ chúng ta đang ở đây lúc này, là gì sánh với xã hội loài người? Nhưng ai trong chúng ta không đang cảm thấy được hạnh phúc tràn trề vì đang được tiếp xúc, được vây quanh, được ở trong Nước Trời của Tin Mừng cứu độ? Và mầu nhiệm Nước Trời cử hành bây giờ không là bảo chứng cho việc sống lại mai ngày và hạnh phúc trường cửu sao? Do đó chúng ta hãy yêu mến phụng vụ, hãy cử hành thánh lễ sốt sắng đầy niềm tin, để luôn luôn trong cuộc sống hằng ngày chúng ta vẫn nhớ mình đang có hạnh phúc Nước Trời và sự sống muôn đời nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết. Chúng ta hãy đứng lên tuyên xưng niềm tin ấy.
4. Phúc cho người nghèo khó
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn nầy có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau: 1 - Bốn mối phúc (6:20-23); 2 - Bốn lời chúc dữ (6:24-26). Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20). Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho...” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho...” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.
Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptōchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).
Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoō) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.
Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có. Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).
Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào. Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24). Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).
Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).
5. Phó thác nơi Thiên Chúa
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Ông Arafat, nguyên lãnh tụ phong trào giải phóng Palestin, lúc ông còn sống đã là người đầu tiên nhiệt liệt ủng hộ cựu tổng thống độc tài Saddam Hussein của Irak, bởi vì ông tin chắc rằng chuyến này, nhân dân Palestin cũng sẽ giành lại được quyền tự quyết. Nhưng sau khi Irak bại trận, ông Arafat và nhân dân Palestin lại bị bỏ rơi, và họ mới vỡ lẽ ra là mình cũng chỉ là một thứ chiêu bài chính trị được ông Saddam hoan hô nhằm phục vụ cho mưu toan của Irak trong ván cờ phức tạp khi đánh ở vùng Trung Ðông.
Biết tin vào ai, và biết cậy vào ai trong thế giới chỉ biết trọng kim tiền và khinh dể công lý, các quyền tự do căn bản của những con người này? Bởi vì các quốc gia, các phe nhóm, các lực lượng ý thức hệ, kinh tế, chính trị, xã hội hùa nhau đó nếu không còn lợi lộc gì thì trong nháy mắt họ quay lưng trở mặt lại với nhau.
Các bài đọc phụng vụ hôm nay cống hiến cho chúng ta một lời giải đáp. Có lúc người nghèo khó chỉ phó thác nơi Thiên Chúa chớ không cậy dựa nơi sức mạnh vật chất và khả năng của loài người mau tàn lụi và hay hư nát. Giáo huấn của tiên tri Giêrêmia đoạn 17,5-8 viết cũng là điều thánh vịnh 146 và 40 khuyên nhủ chúng ta: "Con đừng cậy dựa nơi vua chúa và kẻ quyền quí, vì loài người không thể cứu được con. Phúc cho ai được Chúa nhà Giacóp trợ lực. Phúc cho ai hy vọng nơi Chúa và không về phe với kẻ kiêu căng cũng không chạy theo sự dối trá". Thánh vịnh 1 cũng đưa ra cùng lời khuyên nhủ như trên và rất giống giáo huấn của tiên tri Giêrêmia: "Khốn cho những ai cậy dựa nơi con người". Tức là cậy dựa nơi những phường tội lỗi gian ác, vì chúng có quyền cao chức trọng và giàu có, tiền rừng bạc bể đến đâu đi nữa chúng cũng không thể cứu chính mình và cứu được ai.
Sức lực con người là bao, cuộc đời con người là mấy? Có kẻ quyền quý nào mà lại không phải chết và tan biến thối rữa đâu? Con người tự bản tính thường hay ích kỷ hẹp hòi và ham danh lợi, thấy quyền cao chức trọng và của cải, nó thường tới mức họ quên hết mọi điều cao đẹp khác. Do đó, cậy dựa vào con người quả thật là thái độ khờ dại. Khi con người tự cậy dựa nơi mình và khép kín với Thiên Chúa và tha nhân, nó cố trở nên khô cằn và chết đi, nó giống như cây me mọc trong hoang địa khô cằn và chết héo. Do đó, các lời tiên tri Giêrêmia tố cáo dân Israel hồi thế kỷ thứ VII trước Tây lịch, cũng còn rất là thời sự đối với con người sống trong thế giới ngày nay, là một thế giới chủ trương lấy con người làm thước đo mọi sự. Tám mối Phúc thật và Lời Chúa Giêsu đe dọa những người giàu có như tường thuật trong Phúc Âm thánh Luca, đoạn 6, cũng là mời gọi chúng ta đừng lấy tâm thức của thế giới con người làm mẫu mực cuộc sống nhưng hãy lấy cái nhìn của Thiên Chúa.
Bốn mối Phúc thật và bốn lời chúc dữ trong Phúc Âm thánh Luca. Mối phúc thật là một kiểu hành văn quen thuộc của nền văn chương tiên tri và nền văn chương khôn ngoan, loan báo một niềm vui trong hiện tại hay trong tương lai. Nó cũng không phải là một lời cầu chúc mà là một khẳng định, một lời cam kết long trọng được tuyên bố với chính quyền bính và sức mạnh của Thiên Chúa, Ðấng luôn hoạt động trong lịch sử loài người để thực hiện sự công chính của Ngài. Các mối phúc thật của Chúa Giêsu công bố đảo lộn mọi giá trị trong tâm thức và kiểu cách nhìn bình thường của con người, bởi vì chúng diễn tả một cuộc cách mạng nội tâm sâu xa, có năng lực biến đổi hoàn cảnh sống bên ngoài của thế giới loài người. Chúa Giêsu không chúc lành hay chúc dữ cho một số cảnh sống nghèo. Tự chúng sự giàu có và của cải vật chất không phải là những gì đáng khinh rẻ, bởi vì chúng cũng được Thiên Chúa tạo thành, giúp con người sống sung túc và hạnh phúc. Một khi con người coi chúng như là một giá trị tuyệt đối, tôn chúng lên địa vị của Thiên Chúa và quỳ thờ lạy chúng, thì khi đó, của cải đáng chúc dữ và khốn cho những người thờ lạy chúng. Bởi vì khi đó của cải vật chất khiến cho con người khép kín ơn trời, cuộc sống của mình trong một chút hạnh phúc bé nhỏ, hạn hẹp mau qua của thế giới vật chất này, mà quên đi cuộc sống đích thật mà Thiên Chúa cống hiến cho mình. Của cải khi đó đáng chúc dữ vì nó khiến cho chúng ta đóng chặt, khép kín cửa nhà và cánh cửa tâm lòng mình trước những người anh em túng thiếu, khổ đau, quên Chúa, xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu của mình.
Cũng thế, sự nghèo nàn và các khổ đau trong cuộc sống con người tự chúng là những gì đáng ghê sợ, vì chúng hủy hoại hạnh phúc của con người, do đó cần phải cố gắng bài trừ chúng trước hết bằng cách loại trừ các nguyên nhân gây ra chúng. Thật ra, Chúa Giêsu không đề cao sức tàn phá tiêu cực đó của nghèo đói và khổ đau. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ơn cứu độ Ngài đem đến cho con người là ơn cứu độ toàn vẹn, đem lại của ăn và sức khỏe cho thân xác cũng như cho linh hồn. Ðó là ý nghĩa các phép lạ nuôi dân và chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Nhưng trái lại, Chúa Giêsu cũng coi nghèo đói và khổ đau cũng là ân phước, vì chúng có thể giúp con người hồi tâm ăn năn hối cải, rộng mở tâm lòng để hiểu biết và đón nhận tình thương sâu xa của Thiên Chúa và ký thác nơi Ngài. Khi tuyên bố: Phúc cho những người nghèo hèn, đói khát, khóc lóc và khổ đau vì bị người đời hất bỏ, Chúa Giêsu không muốn trói buộc con người trong tình trạng nghèo nàn và khổ đau, mà Ngài muốn cho họ hiểu rằng, ngay cả khi phải sống trong những hoàn cảnh tiêu cực ấy, như hậu quả của bất công xã hội, ngay cả cái chết của con người họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và vẫn có thể rộng mở tâm lòng đón nhận ơn cứu độ Ngài ban.
Cái nghèo đói và khổ đau vật chất là cái nghèo đói và khổ đau có phước, vì nhờ đó con người được gặp gỡ Thiên Chúa và được ơn cứu độ. Nói tóm lại, người giàu có không phải vì giàu mà bị án phạt; người nghèo khó và khổ đau không phải vì nghèo khó và khổ đau mà được trọng thưởng. Giàu cũng như nghèo, ai cũng phải nỗ lực sống Tin Mừng yêu thương, chia sẻ đại đồng của Chúa để được cuộc sống đời đời.
Ðó cũng là điều thánh Phaolô nhắc nhủ chúng ta trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, chương 15: Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh phải giúp chúng ta chết đi cho những kiểu cách suy tư hành xử cũ của con người trần gian. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh phải trao ban cho chúng ta một tâm thức mới, một kiểu cách suy tư lý luận mới, một cái nhìn mới, một nếp sống mới đặt nền tảng trên Tin Mừng Phục sinh và trên các mối phúc thật. Nói cách khác, khi tuyên xưng lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh là chúng ta chấp nhận nhìn mọi sự với chính đôi con mắt của Thiên Chúa và sống theo các nấc thang giá trị Tin Mừng của Chúa. Tin vào Chúa Kitô Phục sinh cũng có nghĩa là biết lấy các giá trị đó làm mẫu mực và nền tảng cho cuộc sống gia đình và xã hội.
6. Giáo hội bị bách hại
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc đầy đủ bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. “Tiền bạc là chìa khóa mở cửa vào cuộc sống hạnh phúc.” “Có tiền mua tiên cũng được!” Số người mua xổ số càng ngày càng đông, vì muốn giàu có mau chóng và được sống hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến , giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo). Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số trúng. Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền. Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, thường được gọi “Tám Mối Phúc Thật”, Chúa Giêsu có vẻ như đã đi ngược đời, nói đến hạnh phúc không phải cho người giầu có, quyền thế, ăn no mặc ấm… nhưng là cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ, bệnh tật, bị bách hại, phỉ báng, đánh đập tàn nhẫn (như những Giáo sĩ, Giáo dân đang bị bách hại tại Việt Nam, Mã Lai , Trung Quốc, Bắc Hàn, ở Trung Đông và Phi Châu… chẳng hạn). Quả thật là ngược đời hết sức! Nhưng trong Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã soi sáng cho chúng ta biết, qua tiên tri Giêrêmia: con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Những người đó được sống hạnh phúc thật. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rể sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái!”
Chúa Giêsu Kitô, Thày Chí Thánh của chúng ta, đã không mở đường hạnh phúc cho chúng ta bằng sự giàu sang, quyền qúy; nhưng bằng cuộc sống nghèo khó của chính Ngài, và trong thời gian đi rao giảng Phúc Âm Tình thương, lo cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, lại thường xuyên bị chống đối, ghét bỏ, thù hận. Cuối cùng lại chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, sỉ nhục và chết trên Thập Giá, táng xuống mồ, rồi mới sống lại và về Trời để mở đường hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Nếu chúng ta không tuyệt đối tin tưởng như vậy; nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời này mà thôi; nếu chúng ta chỉ đặt hạnh phúc vào sự giàu sang, quyền quý và tự do mọi sự ở đời này, thì chúng ta sẽ là những kẻ vô phúc nhất thiên hạ! (Như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay).
Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,
Không theo đường lối những tội nhân,
Không ngồi chung với những kẻ khinh bỉ người khác;
Nhưng vui thỏa trong lề luật Chúa,
Và suy ngẫm luật Chúa đêm ngày.
Họ như cây trồng bên bờ suối nước,
Trổ sinh hoa trai đúng mùa,
Lá cây không bao giờ tàn úa,
Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
Kẻ gian ác không được như vậy,
Họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi!
Phúc thay người đặt niềm tin cậy nơi Chúa;
Vì Chúa canh giữ đường người công chính,
Con đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
(Bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 1)
Theo đường lối của Chúa, Giáo Hội cũng chỉ lo rao giảng Tin Mừng hạnh phúc thật cho mọi người, giúp đỡ người bệnh hoạn, người đang ở các trại phong cùi (như ở Việt Nam hiện nay), mở mang văn hóa cho các dân tộc, loan truyền ơn cứu độ, con đường đưa đến hạnh phúc thật đời đời. Nhưng như Chúa Giêsu Kitô, trong mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội cũng luôn bị bách hại, phỉ báng, lăng nhục. Tuy nhiên, từ những Hoàng Đế Rôma tàn bạo như Neron đến các bạo chúa thời nay như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông v.v… tất cả đều đã trở về với cát bụi, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn trường tồn và phát triển.
Theo mệnh lệnh của Chúa, chúng ta hãy: “Yêu thương mọi người, làm ơn cho những ai ghét bỏ chúng ta, chúc lành cho những người nguyền rủa chúng ta, và cầu nguyện cho những người vu khống cho chúng ta những điều gian ác.” (Lc. 6,27…). Đó là con đường yêu thương, con đường đưa đến hạnh phúc thật trong cuôc sống đời đời.
7. Hạnh phúc đích thực
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và đời sau lại được hạnh phúc vĩnh viễn bên cạnh Ngài. Bởi thế loài người luôn khát khao hạnh phúc. Thế nhưng hình như ở đời này hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều; và có thứ ta tưởng là hạnh phúc nhưng thực ra lại là bất hạnh.
Hôm nay Chúa sẽ dạy ta biết thế nào là hạnh phúc thật, và làm thế nào để có được hạnh phúc thật ấy.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con thường chỉ biết tìm hạnh phúc trần gian mà lơ là với hạnh phúc muôn đời.
Chúng con thường chỉ tìm hạnh phúc ích kỷ cho bản thân mà không quan tâm xây dựng hạnh phúc cho tha nhân.
Chúng con chưa thực sự tin vào những mối phúc thật mà Chúa công bố.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 17,5-8)
Ngôn sứ Giêrêmia giới thiệu hai con đường: một dẫn đến hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh:
Con đường dẫn đến hạnh phúc là đặt niềm tin nơi Chúa. Ngôn sứ diễn tả hạnh phúc ấy bằng những hình ảnh thiên nhiên cho dễ hiểu: Người đặt niềm tin vào Chúa là người đi trên con đường có nước, có bóng cây, có hoa trái...
Con đường đưa tới bất hạnh là đặt niềm tin nơi người đời. Người đi trên con đường ấy chỉ gặp sa mạc khô nóng, đồng khô cỏ cháy, đất mặn, không bóng mát...
2. Đáp ca (Tv 1)
Tiêu chuẩn hạnh phúc và bất hạnh theo ngôn sứ Giêrêmia là đặt niềm tin nơi Thiên Chúa hay loài người. Còn theo tác giả Thánh vịnh 1 thì đó là sống theo Luật Chúa hay là đi theo quân gian ác.
3. Tin Mừng (Lc 6,17-26)
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là Bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trước đông đảo dân chúng (bài giảng thứ nhất ở quê hương Nadarét, Lc 4,16-30, chỉ giảng cho đồng hương Ngài nghe).
Bài giảng này có những điểm giống và những điểm khác với bài giảng trên núi trong Tin Mừng Matthêu: Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,12-16.20) (Chủ đề phụ)
Người dân Côrintô chịu ảnh hưởng triết lý hy lạp nên không tin có việc kẻ chết sống lại.
Để giúp tín hữu mình tin vào giáo lý ấy. Thánh Phaolô đưa nhiều lập luận:
Nếu kẻ chết không thể sống lại thì tại sao Đức Kitô đã chết mà đã sống lại? Nói cách khác, việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng rõ ràng về việc kẻ chết sống lại.
Đức Kitô không chỉ có khả năng làm cho bản thân Ngài sống lại, mà còn có thể làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được sống lại như Ngài.
Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hạnh phúc đích thực
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận dịch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc, tình cảnh trong các dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New York quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà còn tình nguyện khoác áo blouse trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
***
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả, kèm theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản dề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát và kẻ no đầy. Đó!à hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin Mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin Mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào Nước Trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ "khốn cho người giàu có" khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiện và cùng đích, giữa điều kiện vật chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33). Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Chỉ "Khốn cho người giàu có" khi họ không ý thức rằng họ lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Họ mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không còn thấy rằng của cải cá nhân là do của cải tập thể đem lại, họ cũng không nhận ra rằng họ đã thừa hưởng một kho tàng lý tưởng và các tiến bộ mà người đang sống cũng như kẻ đã chết góp phần tạo nên. Họ nghĩ rằng mình có thể sống sung túc trong thế giới nhỏ bé chật hẹp mà họ là trọng tâm. Họ là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dù có ý thức hay không, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người quen biết cũng như người chưa quen biết. Vậy chúng ta phải trả món nợ ấy ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: Cho kẻ đói ăn, cho người trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau yếu. Nói như Martin Luttler King: "Chúng ta có thể cất giữ số thực phẩm dư thừa của chúng ta trong các bao tử trống rỗng của hàng triệu con cái Thiên Chúa, khi mỗi tối họ phải lên giường nằm ngủ mà không có gì để ăn".
Dưới con mắt Chúa, làm giầu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khoá lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Hạnh phúc đích thực không nằm nơi của cải, hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chính là sự mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: "Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh".
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em, và với chính mình, như lời Thánh Phaolô: "Lương tâm rôi không trách cứ tôi điều gì".
Một tác giả có viết: "Trong hạnh phúc có mầm đau khổ. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi và nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu?
Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Chúa Giêsu lại cho là hạnh phúc.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực.
Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bi sỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật.
Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giàu lên khi chịu nghèo, no thoả lúc đói khát, vui cười khi lệ rơi, và hân hoan lúc bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm niềm hạnh phúc của Nước Trời.
***
Lạy Chúa, hạnh phúc đích thực chính là có một lương tâm an bình, một con tim biết chia sẻ và một khối óc luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn đắm chìm trong hạnh phúc được làm con cái Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Hạnh phúc hiện tại của người nghèo
Etienne Charpentier viết:
"Bài giảng trên núi trong Mátthêu và bài giảng trên cánh đồng của Luca mở đầu bằng những lời chúc phúc. Nghĩa là sứ điệp của Chúa Giêsu chủ yếu là loan báo hạnh phúc. Nhưng loan báo cho ai, và như thế nào?
Phải đau đớn nhận rằng các lời chúc phúc ấy đã bị hiểu sai và bị lợi dụng làm một thứ thuốc phiện nhằm ru ngủ nỗi khổ đau và sự nổi loạn của những người nghèo. Người ta muốn hiểu chúng như sau: "Hỡi những người nghèo, các người hạnh phúc lắm vì các người được Thiên Chúa yêu thương... vậy cứ tiếp tục nghèo đi! Hãy chấp nhận thân phận của các người, rồi một nào đó ở trên trời các người sẽ được hạnh phúc". Nhưng thực ra Chúa Giêsu nói ngược hẳn lại: "Hỡi những người nghèo, chúng con hạnh phúc, vì từ nay chúng con không còn nghèo nữa, vì Nước Thiên Chúa là của anh em". (Pour lire le Nouveau Testament)
Chúa Giêsu không hứa sẽ ban hạnh phúc cho người nghèo, Ngài loan báo cho người nghèo biết là họ đang hạnh phúc. Lý do hạnh phúc của họ là tuy họ không có nhiều tiền bạc của cải, nhưng họ có Nước Thiên Chúa: "Nước Thiên Chúa là của anh em".
Có Nước Thiên Chúa là có tất cả. "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?"
* 3. Nghịch lý
Người ta thường nói "nghèo khổ", nghĩa là cái nghèo và cái khổ đi đôi với nhau; đã nghèo thì tất nhiên khổ. Thế mà Chúa Giêsu lại nói "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo". Hình như Chúa Giêsu muốn đảo ngược kiểu nói "nghèo khổ" thành "nghèo phúc". Thật là nghịch lý!
Nhưng chuyện nghịch lý không phải là không có trên đời. Thông thường ai cũng muốn một cuộc sống sang giàu. Thế nhưng có những người lại đi tìm một cuộc sống nghèo: chẳng hạn như các nho gia cởi áo từ quan, rời bỏ nếp sống tiện nghi nơi thành thị để tìm nếp sống thanh đạm giữa thiên nhiên; hay thánh Phanxicô Assisi là con nhà giàu nhưng từ bỏ tất cả để sống nghèo, lại còn lập cả một huynh đoàn quy tụ những người muốn sống nghèo như ngài; hay ngày nay những tu sĩ với lời khấn trọn đời sống nghèo nàn. Những con người đó không phải điên khùng mà hoàn toàn sáng suốt. Quyết định sống nghèo của họ không phải do bốc đồng nhất thời mà là kết quả của một thời gian dài suy nghĩ chọn lựa. Sự chọn lựa ngược đời của họ khiến ta phải suy nghĩ vì chắc hẳn họ đã nghiệm ra có nhiều điều hay trong cái nghèo nên họ mới chọn lựa như vậy.
Dĩ nhiên cái nghèo mà họ chọn lựa không phải là tình trạng túng thiếu: không đến nỗi phải chết đói, chết khát, chết lạnh, mà chỉ cần tối thiểu để ăn, để uống, để mặc. "Tri túc, tiện túc": biết đủ thì đủ.
Vì chỉ cần tối thiểu như thế nên lòng họ không bị giao động vì những ham muốn có thêm. "Túi tham không đáy": lòng ham muốn sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên cứ giao động hoài.
Không tham muốn thêm mà cũng không sợ bị mất, nên người nghèo như thế rất bình tâm, nhờ đó có thể ăn ngon, ngủ yên.
Người nghèo không kiêu căng, không khoe của, không khinh miệt người khác.
Người nghèo không cậy dựa vào tiền bạc của cải nên dễ cậy dựa vào Chúa hơn.
Có thể người nghèo bị người đời khinh ghét, nhưng bù lại, họ được Thiên Chúa yêu thương che chở.
* 4. Những mối phúc của tấm lòng
Phúc thay ai có lòng thanh sạch, họ sẽ được thấy Chúa.
Phúc thay ai có lòng khiêm tốn, họ sẽ tìm được sự ngơi nghỉ cho linh hồn.
Phúc thay ai có lòng ấm áp, họ sẽ tỏa chiếu lòng tốt ra chung quanh.
Phúc thay ai làm việc với tấm lòng, họ sẽ tìm gặp niềm vui trong công việc.
Phúc thay ai không ngã lòng, họ sẽ tìm được nghị lực để kiên trì.
Và phúc thay ai đặt lòng mình vào Nước Thiên Chúa, mọi điều khác sẽ được ban cho họ. (FM)
* 5. Nghèo mà giàu
Khi Chúa Giêsu nói "Phúc cho những người nghèo", Ngài không chúc phúc cho sự túng thiếu và bần cùng đâu, vì túng thiếu và bần cùng là những điều xấu.
Điều được chúc phúc chính là sự cậy trông vào Chúa. Ai cậy trông vào những gì thuộc về loài người thì sẽ bị thất vọng, còn ai cậy trông vào Chúa sẽ chẳng thất vọng bao giờ. Chỉ một mình Chúa mới có thể đong đầy những chỗ trống của chúng ta. Chỉ một mình Ngài mới có thể thỏa mãn những đói khát của chúng ta.
Người giàu thường hay cậy dựa vào tiền bạc của cải của họ. Đối với họ, chỉ có đời này là quan trọng, còn đời sau hay là Chúa đều là quá xa vời. Trái lại người nghèo thì tự nhiên dễ hướng về Chúa, cuộc sống càng cơ cực khó khăn thì họ càng cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Mà ai cậy dựa vào Chúa thì sẽ được Ngài phù hộ chở che.
Khi người nghèo nhận được một điều gì đó, dù rất tầm thường, họ cũng lấy làm sung sướng và biết ơn.
Một hôm, một người nghèo đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Người ăn xin chìa tay xin tiền. Người nghèo này bối rối đáp: "Xin lỗi, tôi chẳng có gì cho bạn, vì tôi cũng nghèo như bạn". Người ăn xin nói: "Xin cám ơn vì món quà bạn đã cho tôi". Người nghèo ngạc nhiên họi lại: "Tại sao bạn cám ơn tôi? Tôi có cho bạn cái gì đâu". Người ăn mày nói tiếp: "Bạn đã cho tôi sự nghèo nàn, lòng chân thành và sự tin cậy của bạn".
Đối với Chúa, chúng ta đều nghèo. Nhưng dù nghèo, chúng ta cũng có những món quà cho Chúa, đó là lòng chân thành, sự cậy trông và chính sự nghèo nàn của chúng ta. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Tìm lại hạnh phúc
Tại văn phòng của một cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: "Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi "sự" nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên". Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
"Chồng tôi đã chết, cách nay ba tháng. Con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc".
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
b/ Người hạnh phúc nhất
Nhà vua bị bịnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bịnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo!
c/ Bí quyết sống vui
Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chốn nương thân. Cùng với tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa là Đấng ban hạnh phúc thật sự cho mọi người, chúng ta tha thiết nguyện xin:
1. Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình sống lời Chúa dạy / đặc biệt là sống theo tinh thần Tám mối phúc thật / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh xác tín rằng / sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy.
2. Trên thế giới ngày nay / người nghèo vẫn chiếm đa số / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các dân tộc được phát triển / để mọi người đều được hạnh phúc ấm no.
3. Là con người / ai cũng mong muốn được hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / qua việc chia sẻ tình thương và cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.
4. Mọi thực tại ở trần gian này đều chóng qua / không có gì tồn tại mãi mãi ngoài một mình Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn nhớ đến chân lý căn bản này / để đừng bao giờ quá bám víu vào của cải vật chất, nhưng biết hướng tâm hồn lên cùng Chúa / là nguồn hạnh phúc của hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con chỉ trở nên người Kitô hữu chân chính khi chúng con sống lời Chúa. Xin cho chúng con biết yêu mến và sống theo Lời Chúa dạy trong Kinh thánh, để nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc thật sự trong đời sống thường ngày. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tất cả những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta xin trong Kinh lạy Cha đều nhằm đem đến cho chúng ta hạnh phúc đích thực. Vậy chúng ta hãy hướng lòng lên Cha trên trời và sốt sắng đọc lời kinh Chúa dạy.
VII. Giải tán
Hôm nay Chúa đã dạy chúng ta biết đâu là hạnh phúc thật và đâu là hạnh phúc giả trá chóng qua. Ước chi tuần này chúng ta sẽ khôn ngoan, biết tìm kiếm hạnh phúc chân thật vững bền.
8. Giúp đỡ
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 2.11.1994 có đăng bài viết về cô Vương Ngọc Sương, một người tàn tật, phải ngồi xe lăn mà còn mở lớp học tình thương cho trẻ em nghèo. Và hơn thế nữa, còn sử dụng căn nhà bé nhỏ của mình để chăm sóc một số bệnh nhân tàn tật giống như cô.
Câu chuyện xảy ra vào năm 1985, trong một tai nạn cô bị chấn thương cột sống, khiến cho đôi chân mất dần cảm giác. Chồng cô kiên nhẫn thăm nuôi cô được sáu tháng rồi biệt tăm, để lại cho người vợ tàn tật hai đứa con nhỏ. Giữa cảnh túng quẫn, cô được một người mẹ nuôi bên Pháp giúp đỡ. Điều đáng thán phục đó là cô đã vận dụng số tiền nhận được để phục vụ những người tàn tật và trẻ em nghèo túng.
Có một ông bố mà những đứa con đã được cô nhận nuôi, sau khi đến thăm cô đã phải bật khóc và nói:
- Tôi còn nguyên vẹn như thế này mà đã hư hỏng, trong khi chị tật nguyền lại phải lãnh hết việc nuôi dạy các con tôi.
Và từ đó ông cố gắng chừa bỏ tật nghiện rượu là nguyên nhân gây nên những đổ vỡ trong gia đình ông. Chính mẹ nuôi của cô ở Pháp cũng viết thư và cho biết:
- Mấy người Pháp đến Việt Nam thăm cô nay trở về cũng tỏ ra là những người sốt sắng sống đạo khác hẳn trước. Riêng phần mình, cô đã không ngần ngại thú nhận: trước kia cô đã từng dửng dưng với những khổ đau của người khác và đã từng làm mất lòng Chúa. Chính nhờ sự tàn tật mà cô được hoán cải. Cô vui vẻ đón nhận mọi điều Chúa cho xảy ra nơi thân xác cô cũng như nơi môi trường cô đang sống.
Từ mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy: việc làm của cô là một phản ảnh trung thực cho lời giảng và việc làm của Chúa. Thực vậy Thiên Chúa đã chiếu cố đến hoàn cảnh của từng người. Ngài không chỉ loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, mà còn là hiện thân của Tin Mừng đó. Bởi lẽ, vì yêu thương, Ngài đã xuống thế làm người, trở nên anh em với hết mọi người. Do đó, không một đau khổ nào chúng ta phải chịu mà không đụng tới lòng thương xót và chương trình cứu nhân độ thế do chính Ngài thực hiện. Ngài đã nghiệm thấy cái đói của một bà goá. Ngài đã chữa lành mọi kẻ phong cùi, bất luận họ là người Syria hay là người Do Thái. Vì thế mới có sự kiện đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi, tuốn đến nghe Ngài giảng và để Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Đồng thời Ngài cũng muốn chúng ta biểu lộ lòng thương xót với anh em bằng những hành động cụ thể, bởi vì khi chúng ta giúp đỡ anh em là chúng ta giúp đỡ cho Chúa. Nhờ đó mà chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời:
- Các con hãy có lòng nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ.
Bởi đó, hãy giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo khổ, để nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm hạnh phúc dạt dào như lời Ngài đã phán:
- Phúc cho những ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương.
9. Niềm hạnh phúc
Phúc cho người đặt niềm tin tưởng vào Chúa.
Như dân Do thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm mới được đặt chân vào miền đất hứa, chúng ta cũng là những người đang dấn bước. Cuộc đời là hành trình. Trần gian là sa mạc. Đất hứa là Nước trời. Đúng thế, mỗi ngày sống phải là một bước tiến tới niềm đất Chúa đã hứa ban là Nước trời, là niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Và như vậy, đối với chúng ta cuộc sống không phải là một sự phi lý đáng nôn mửa, hay buồn chán và tuyệt vọng, nhưng là một giai đoạn quan trọng để thanh luyện, để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho niềm hạnh phúc vĩnh hằng mai sau. Vì thế, chết không phải là hết, nhưng là thời điểm chúng ta được sinh cho cuộc sống đời đời, là khung cửa hẹp qua đó chúng ta được tiến vào nhà Cha.
Đó là niền tin tưởng và hy vọng của chúng ta. Người Kitô hữu không bi quan yếm thế, nhưng nhìn rõ và đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Chính niềm tin tưởng và hy vọng vào cuộc sống mai sau đã thắp sáng những năm tháng hiện tại của chúng ta.
Thế nhưng, ai là người sẽ làm cho mơ ước của chúng ta trở thành sự thật, cho tin tưởng và hy vọng của chúng ta không tan theo mây khói? Ai là người sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy? Ai là người đáng cho chúng ta đặt trót niên tin tưởng và hy vọng?
Trước hết, có phải là chính bản thân chúng ta hay không?
Tục ngữ Tây phương đã bảo:
- Vouloir c’est pouvoir, muốn là được.
Hay như một nhân vật trong cuốn phim “Chiếc lều của chú Tom” đã nói:
- Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Tin vào mình là điều kiện cần thiết giúp chúng ta đạt tới thành công. Đứng trước một việc khó khăn, nếu chúng ta dứt khoát muốn lướt thắng, thì đã giải quyết được một nửa.
Tuy nhiên, sụ tự tin không phải là điều kiện ắt có và đủ để đem lại thành công và hạnh phúc. Kinh nghiệm cho chúng ta hay:
- Ước mơ thì rất nhiều mà thực tế lại chẳng được bao nhiêu.
Sở dĩ như vậy là vì cái khó bó cái khôn, lực bất tòng tâm, những ước mơ của chúng ta, nhất là ước mơ về hạnh phúc, và đặc biệt là hạnh phúc vĩnh cửu, vốn thường ở ngoài khả năng và tầm tay của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình bất lực đối với chính bản thân mình.
Con người chúng ta là một bí mật mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng hiểu nổi. Vui đấy rồi lại buồn đấy. Chúng ta cũng chẳng biết mình muốn gì và mình là người như thế nào? Hơn nữa, bản thân chúng ta giống như con ngựa chứng bất kham,chúng ta không thể điều khiển nổi mình nữa và nhiều lúc đã phải đầu hàng trước những cám dỗ, những thôi thúc của tội lỗi, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm.
Đằng khác, chúng ta còn bất lực đối với những hoàn cảnh, những sự việc xảy ra chung quanh chúng ta. Thực vậy, cho dù chúng ta đã làm lụng vất vả, những do thời tiết bất ổn, mưa không thuận, nắng không hòa, thành thử mùa màng vẫn thất thu như thường.
Sau cùng, nhiều lúc chúng ta cảm thấy bất lực trong việc tạo dưng hạnh phúc. Thực vậy, dù chúng ta đã cố gắng rất nhiều, thế mà cuộc đời vẫn chìm ngập trong khổ đau vì khổ đau vốn dĩ là một cái gì gắn liền với thân phận con người và trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm với của chúng ta như người xưa đã bảo:
- Đời có vui sao chẳng cười khì.
Bởi đó, bản thân chúng ta không phải là nơi để chúng ta đại niềm tin tưởng và hy vọng.
Thứ đến, có phải là những người sống chung quanh chúng ta hay không?
Người khác đối với chúng ta cũng là một bí mật khó có thể hiểu thấu, như tục ngữ đã bảo:
- Sông sâu còn có người dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
Hơn thế nữa, trong giao tiếp và liên hệ, chúng ta thấy người khác thường hay đóng kịch và giả dối đối với chúng ta và nếu không sáng suốt và cảnh giác, chúng ta rất dễ bị lừa gạt. Trước mặt họ ca tụng chúng ta, nhưng sau lưng họ lại chửi bới chúng ta hay toan tính những ý đồ mờ ám và thâm độc theo kiểu:
- Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
- Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Nhiều khi chỉ vì những lợi lộc nhỏ nhen mà họ sẵn sẵn sàng bán đứng chúng ta hay nỡ dứt tình và phản bội chúng ta khiến chúng ta phải ngao ngán thốt lên:
- Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc, bạc như vôi.
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Cho dù họ là người quyền thế và thành thực yêu thương chúng ta chăng nữa, thì họ vẫn bất lực trong việc mưu tìm hạnh phúc cho chúng ta. Thực vậy, bản thân họ cũng phải cúi đầu chấp nhận đau khổ như một lá bài định mệnh và nhiều khi chính họ lại là nguyên nhân gây nên những đau khổ cho chúng ta. Biết bao nhiêu bậc cha mẹ đã phải cay đắng vì những đứa con mình đã mang nặng đẻ đau. Biết bao nhiêu người vợ đã phải bẽ bàng về sự phản bội của người chồng mà mình rất mực yêu thương. Và như thế, người khác cũng không phải là nơi để chúng ta đặt niềm tin tưởng và hy vọng.
Riêng với chúng ta, chỉ mình Thiên Chúa mới là nơi cho chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng và hy vọng, bởi vì Ngài là Đấng luôn yêu thương chúng ta, luôn mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc. Hơn thế nữa, Ngài còn là Đấng chân thật, không hề lừa dối chúng ta như lời Ngài đã phán:
- Ta là đường, là sự thật và là sự sống.
Tất cả những lời Ngài đã hứa, thì Ngài đã, đang và sẽ còn thực hiện cho chúng ta. Sau cùng, Ngài là Đấng quyền năng, chỉ mình Ngài mới có thể thực hiện được những điều Ngài muốn.
Chúa là phần sản nghiệp của chúng ta. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta tới đồng cỏ Nước trời. Hãy đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông nơi Ngài. Và Ngài sẽ trở thành niềm hy vọng thắp sáng cuộc đời chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, với tình yêu thương chân thành của một người Cha, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng con và với quyền năng của một vị Thiên Chúa tối cao, Chúa dư khả năng thực hiện bất cứ những gì chúng con kêu xin. Chính vì thế, chúng con luôn tin tưởng, cậy trông và hy vọng vào Chúa. Xin Chúa hãy nâng đỡ chúng con trên vạn nẻo đường đời, để nhờ đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng con luôn trung thành và gắn bó cùng Chúa.
10. Nghèo vì Nước Trời - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quý như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hy vọng cho những người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về anh em”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm bạn hữu?
2. Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào? Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
3. So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Tesexa, bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
4. Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?
11. Hạnh phúc đích thật - Achille Degeest
Bài giảng của Chúa về tám mối phúc thật, từ xưa đến nay là đề tài cho không biết bao nhiêu thiên chú giải. Chúng ta lắng nghe cha De Gradmaison: “Người ta rất dè dặt thận trọng khi bàn đến những điều kỳ diệu ấy. Phải có được sự tế nhị thiêng liêng của một Phanxicô thành Assisi, mà cuộc đời và tinh thần nói đúng ra là một bản chú giải tuyệt tác nhất về bài giảng trên núi. Ai là người ít nhất chẳng thấy rằng những lời giảng dạy về hạnh phúc thật bắt nguồn từ sự lựa chọn phải có giữa phục vụ Thiên Chúa và phục vụ thế gian, những lời khuyên ấy cho ta nhìn suốt tới đỉnh cao nhất con đường từ bỏ và phó thác trong niềm hiếu thảo, con đường ấy kết thúc cách hoàn toàn kín đáo ở điều mãi mãi cần thiết cho mọi người: Thiên Chúa phải được phục vụ trước hết”.
Một khía cạnh khác được bản văn gợi lên: Nhãn quan Thiên Chúa khác nhãn quan chúng ta khi xét về nhân loại. Sự kính nể của thế gian dành cho ai? Ai là người được lưu danh trong lịch sử? Thiên Chúa nhớ rõ tên tuổi kẻ nghèo hèn, kẻ bé mọn nhất, kẻ túng thiếu, kẻ bị khinh miệt. Với những kẻ ấy, Thiên Chúa dành cho lòng từ ái của Người, ban cho họ hạnh phúc vĩnh cửu. Tại sao thế? Bởi vì bước đường lữ thứ của họ dưới thế này không vương mắc chướng ngại tiền của và kiêu ngạo.
1) Phải chăng có một sự mâu thuẫn giữa những thực tại khắc nghiệt của đời sống và tình yêu của Thiên Chúa bao phủ kẻ nghèo? Phải chăng Thiên Chúa cần áp đặt công lý trên trái đất? Đó là một câu hỏi đặt sai. Thật vậy, căn bản của hạnh phúc nói đến trong Phúc Âm không ở một tầm mức thuần tuý xã hội. Phúc Âm không phải là không biết đến cơ cấu xã hội, nhưng nếu muốn thay đổi chúng thì Phúc Âm không chỉ đề xướng một cuộc đấu tranh trực tiếp mà chỉ hô hào đem sức sinh động vào trong những cơ cấu ấy. Thiên Chúa là Đấng công chính vô cùng nên Người không thể nào sử dụng sự tranh chấp giữa loài người như một phương tiện thực thi công lý.
Người ta sẽ không hiểu được, không dùng được Phúc Âm nếu không chấp nhận rằng sự thành toàn chung cục của công lý và hạnh phúc chỉ hiện thực trong Nước của Cha. Tất nhiên, tất cả chúng ta phải phấn đấu cho công lý, nhưng với những phương tiện của Phúc Âm và phải vượt quá những viễn ảnh thuần tuý thế gian, bởi vì tính chất cứu cánh của Phúc Âm nâng cao chúng ta khỏi tầm mức thế gian.
2) Bằng cách nào phân biệt tiên tri thật với tiên tri giả? Tiên tri thật thường bị phỉ báng, bị gạt ra ngoài, bị bách hại vì liên hệ sinh động với Đức Kitô. Trái lại tiên tri giả thường được kính trọng, gặt hái nhiều thành công, được khen ngợi về khéo xử thế, vì có những ý tưởng thật “hấp dẫn”, vì học thức cao, đôi khi vì giàu sang. Thế giới chúng ta rất xứng đáng tiêu biểu cho thế giới khắp mọi thời đại. Tiên tri thật ngày nay quy hướng mọi sự về Đức Kitô. Một triết thuyết khá thiển cận muốn coi thời đại hiện nay là thời tiền lịch sử. Lịch sử thì theo như người ta nói hứa hẹn “những ngày mai tưng bừng ca hát”. Nhưng chính Đức Kitô sống ngày xưa, bây giờ và trong tương lai, giúp chúng ta ổn định hiện tại, sống thời buổi hiện tại bằng cách đem đến cho hiện tại một giá trị và ý nghĩa của nó. Bởi vậy, chúng ta hãy cố gắng đem vào thế giới hiện tại một nền công lý và một niềm thương yêu phát xuất từ một lịch sử thần thánh và sẽ thành toàn khi nào tới tận cùng lịch sử thần thánh ấy. Những ngôn sứ đích thật duy nhất là những ai quyết tâm rao giảng: Đức Kitô là nguồn mạch và thành toàn của mọi công lý, mọi tình thương.
12. Hạnh phúc
Người ta thường so sánh hạnh phúc đích thực với chiếc áo lót của một người chăn chiên. Chuyện được kể như sau:
Một vị vua nọ có tất cả mọi sự, nhưng không bao giờ cảm thấy được hạnh phúc. Ngày kia có một người khuyên nhà vua hãy mặc cho kỳ được chiếc áo lót của người hạnh phúc nhất trần gian. Quân lính đã được sai đi khắp nơi để tìm cho bằng được con người ấy, họ đi săn lùng khắp nơi mà vẫn không tìm được người hạnh phúc ấy. Cuối cùng họ bắt gặp một người chăn chiên đang đứng giữa mưa gió mà vẫn ngân nga ca hát. Hẳn người này phải là con người hạnh phúc nhất trần gian. Nghĩ như thế nên họ mới xông đến lột áo người chăn chiên ra. Thế nhưng than ôi, người chăn chiên nghèo đến nỗi không có nổi một chiếc áo lót trên người.
Người chăn chiên nghèo trong câu chuyện trên đây phải chăng là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Bởi vì, chỉ nơi Ngài chúng ta mới thấy được “hạnh phúc đi đôi với nghèo khó”. Hơn nữa, chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là con người hạnh phúc nhất trên trần gian này. Là lời của Thiên Chúa nói với con người, Chúa Giêsu đã đạt đến sự thống nhất trọn vẹn giữa lời nói và cuộc sống. Chúa Giêsu chỉ rao giảng những gì Ngài đã sống và Ngài luôn sống đúng những gì Ngài rao giảng.
Rao giảng Tin mừng cho con người, Chúa Giêsu cũng chính là Tin mừng được loan báo cho con người. kêu gọi con người sống hạnh phúc, Chúa Giêsu hẳn phải là một con người hoàn toàn hạnh phúc. Thế nhưng, đâu là hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu rao giảng cho chúng ta? Ngài đã sinh ra nghèo khó, lớn lên trong khó nghèo, sống nghèo và chết cũng nghèo. Không những Chúa Giêsu muốn chia sẻ đến tận cùng kếp sống con người,nhưng qua cuộc sống nghèo hèn ấy Ngài còn muốn nói với chúng ta rằng: Của cải đích thực của con người chính là Thiên Chúa. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu. Không những sống nghèo, Chúa Giêsu còn sống với những người nghèo hèn, Ngài ăn uống với những người nghèo hèn, ngồi đồng bàn với những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề.
Qua cuộc sống chia sẻ ấy, Chúa Giêsu hẳn muốn nói với chúng ta rằng: hạnh phúc đích thực của con người chính là sống cho Thiên Chúa qua tha nhân. Con người chỉ có thể tìm thấy được qua ý nghĩa của cuộc sống khi nó biết sống tình liên đới, khi nó biết chia sẻ với tha nhân. Cái đẹp trên Thập giá của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của cuộc sống cho tha nhân. Dưới con mắt của người đời thì cái chết ấy là một thất bại ê chề, nhưng với Chúa Giêsu thì cái chết đó đã biến thành nguồn ân phúc: “Phúc cho các ngươi khi người ta thù ghét, trục xuất, phỉ báng các ngươi và loại trừ các ngươi như những kẻ bất lương, nhưng phần thưởng các ngươi thật lớn ở trên trời”.
Một đời sống tiêu hao vì người khác, một cuộc đời sống trọn cho tha nhân, đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói về cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu và Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa mới được nghe Chúa Giêsu công bố cũng chính là chương trình sống của Ngài.
Chương trình sống ấy Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta như chính Hiến Chương Nước Trời mà Ngài đã rao giảng. Hãy sống như Ngài, hãy hành động như Ngài, hãy cư xử như Ngài. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói ới chúng ta qua bản Hiến Chương Nước Trời của Ngài. Sống như Ngài tức là sống trọn vẹn cho tha nhân. Xét cho cùng thì nghèo khó không phải là sống trong cảnh bần cùng thiếu thốn. Tinh thần nghèo khó của Chúa Giêsu không hẳn đã biến cuộc sống của chúng ta thành một trại tế bần mà trái lại, Ngài kêu gọi con được ống xứng với phẩm giá của nó trong thể xác cũng như trong tinh thần nghèo khó đích thực mà Chúa Giêsu muốn rao giảng qua cuộc sống của Ngài, đó là sống tự do và trao ban trọn vẹn cho tha nhân. Lòng tham nào cũng là một thứ nô lệ đối với của cải trần thế, trái lại tự do đích thực chính lá thoát sự kềm tỏa của cải để có thể chia sẻ và rao ban đến tận cùng. Chúa Giêsu đã để lại khuôn vàng thước ngọc mà hánh Phaolô đã ghi lại như sau: “Cho thì có phúc hơn là nhận”.
Niềm hạnh phúc trao ban ấy Chúa Giêsu cũng muốn lập lại cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, Ngài tiếp tục lý tưởng khó nghèo của Ngài khi trao ban trọn vẹn cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, đó là lý tưởng của Ngài và lẽ sống của Ngài. Nhận lãnh sự sống của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để sống theo lý tưởng ấy. Và như Ngài đã hứa trong “Tám Mối Phúc Thật”, nếu chúng ta sống lý tưởng trao ban ấy chúng ta sẽ cảm nếm được niềm hạnh phúc đích thực ngay trên trần gian này.
13. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Có 150 Thánh Vịnh trong Thánh Kinh, một trong những Thánh Vịnh đó là hình thức chúng ta thưa đáp sau bài đọc đầu tiên vào mỗi Chúa Nhật. Thánh Vịnh dành cho ngày hôm nay là Thánh Vịnh đầu tiên, Thánh Vịnh ấy được đặt trong 149 bài đọc, bắt đầu cho 149 bài Thánh Vịnh kia. Lời thứ nhất của bài Thánh Vịnh đầu tiên này là”hạnh phúc”.
Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc. Một từ khác chỉ về sự hạnh phúc trong Thánh Kinh là ”chúc phúc”. Chúng ta được hạnh phúc khi chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc. Thánh Vịnh tuyên bố rằng để được chúc phúc là được giống như cây trồng bên suối nước trong, được sinh hoa quả bốn mùa và lá của nó không bao giờ tàn úa, hình ảnh này đề nghị một sức mạnh to lớn và sự sống mãnh liệt.
Chúng ta sẽ được hạnh phúc với sức mạnh và sự sống của Thiên Chúa nếu chúng ta theo đường lối mà Chúa đã chỉ định cho chúng ta, tiên tri Giêrêmia đã giúp chúng ta hiểu con đường này là: “Phúc cho những người tin tưởng vào Chúa, những ai hy vọng vào Ngài”. Chúa tiết lộ hình ảnh đó trong Thánh Vịnh đầu tiên khi nói về một người tin tưởng vào Chúa và những người hy vọng vào Ngài thì giống như cây trồng bên suối nước trong.
Chúng ta biết rằng nước thì cần thiết cho sự sống. Sau cơn mưa xuân đầu mùa những cây cỏ thì xanh tươi mơn mởn sự sống. Nhưng trong nắng hạn vào mùa hè mọi vật lớn lên đều trở nên vàng úa và trơ trọi, không có gì ngạc nhiên khi bí tích phép rửa đã dùng biểu hiệu nước trong phép rửa tội mà chúng ta lãnh nhận đầu tiên trong sự sống của Thiên Chúa, đặc ân của ân sủng thần linh, là bắt đầu thông dự vào hạnh phúc của Người.
Nếu không có một sự tuôn trào nước sự sống đời đời của Thiên Chúa thì đời sống của chúng ta có thể trở nên vàng úa và trơ trọi. Không có ân sủng Thiên Chúa chúng ta có thể trở thành không hạnh phúc. Nguồn mạch chính yếu ân sủng tươi mát của Thiên Chúa là Thánh Lễ. Trong suốt lúc cử hành Thánh Lễ, chúng ta nghe lời của Chúa tuyên bố trong Thánh Kinh và trong bài giảng. Lời Chúa đã nuôi dưỡng đức tin của chúng ta. Thứ hai là chính Thánh Thể, Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta. Không có gì có thể thay thế được Lời Chúa và Thánh Thể. Chúng ta đã được nuôi dưỡng vào mỗi ngày Chúa Nhật bởi Lời và Bí tích. Chúng đi cùng với nhau. Lời làm phong phú đức tin của chúng ta còn Thánh Thể ban cho chúng ta sức mạnh như chúng ta cần để sống và thực hiện đức tin của chúng ta.
Chúng ta tin rằng chúng ta biết hạnh phúc là gì, nhưng thực tại của nó thì khác hẳn. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng hoàn cảnh của chúng ta thì xa vời với điều mang lại hạnh phúc nhưng Thiên Chúa đã có những cách khác để nhìn xem sự vật. Đó là lý do vì sao Thiên Chúa đã cho chúng ta những mối phúc và chúng là những nghịch lý. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng đối nghịch với những gì mà những mối phúc đó nói là sự thật nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Phúc cho những kẻ đói ăn, phúc cho những kẻ khóc lóc”.
Chúng ta có thể hạnh phúc khi chúng ta nghèo khổ, khi sự nghèo khổ làm cho chúng ta quay đầu về với Thiên Chúa và tin tưởng vào Người. Chúng ta có thể được hạnh phúc khi chúng ta đói khát nếu chúng ta cho phép sự đói khát của chúng ta làm cho chúng ta khao khát Thiên Chúa và ao ước Người tràn đầy sự trống rỗng nơi trái tim chứ không chỉ nơi bao tử của mình. Chúng ta có thể được hạnh phúc khi chúng ta khóc lóc, nếu những đau thương của chúng ta đặt trọng tâm vào sự thất bại và sẵn sàng làm theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi sự.
Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc. Hãy yêu mến Thiên Chúa và theo con đường sự sống của Ngài là con đường duy nhất để được hạnh phúc, một hạnh phúc thật.
14. Các mối phúc, lời hứa thành hiện thực
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu công bố các mối phúc. Cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều ghi lại bài giảng này, nhưng mỗi người lại có một lối viết riêng, rất độc đáo và có tính bổ sung cho nhau nhằm cung cấp cho các độc giả Kitô hữu những bài học cụ thể trong đời sống đức tin.
1. Các mối phúc theo Tin Mừng:
Các mối phúc của Tin Mừng thánh Luca ghi lại hướng trực tiếp đến những người nghèo, những hoàn cảnh đáng thương vì thiếu cơm ăn áo mặc, những người thấp cổ bé miệng bị xã hội bạc đãi, những nạn nhân của bất công. Họ lại được Thiên Chúa yêu thương, hứa ban hạnh phúc Nước Trời. Có thể nói Tin Mừng Luca là Tin Mừng của người nghèo, cái nhìn của Luca là suốt cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Ngài luôn ưu tiên dành chỗ cho người nghèo. Bên cạnh đó, các mối phúc theo Tin Mừng Mátthêu lại mang nặng tính luân lý hơn. Khi nói đến người nghèo, Matthêu cho thấy con người được vào Nước Trời không phải là những người ở trong tình trạng thiếu thốn phương tiện vật chất, nhưng lại do tình trạng sở hữu. Thánh sử Mátthêu nhấn mạnh đến những cơn đói khát tinh thần của con người, đói khát công lý, bác ái và hòa bình viên mãn.
Tóm lại cả hai thánh sử đều muốn khẳng định rằng: Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo trong các mối phúc không phải là thiên đàng trong thế giới tương lai đang đến. Những thực tại Nước Trời được xem như là những giá trị bền vững như công bình, bác ái, liên đới. Đó là Nước Trời mà suốt cả cuộc đời người Kitô hữu luôn kiếm tìm và xây dựng.
2. Phúc cho người nghèo khó:
Đối với Chúa Giêsu, nghèo hay giàu không phải là cái tội. Của cải, danh vọng và chức quyền tự nó không có gì trái ngược với Tin Mừng. Nhưng Chúa Giêsu trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng luôn cảnh cáo những thái độ làm cho con người trở thành nô lệ. Một cuộc sống nghèo túng có thể là cạm bẫy, những sinh hoạt hằng ngày có thể biến con người thành ngu dại, chỉ biết nhìn thấy miếng cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa cùng đích của đời người. Một cuộc sống thiếu thốn vật chất dễ nảy sinh những tật xấu như chúng ta thường nói với nhau “Bần cùng sinh đạo tặc”.
Ngoài ra, sự giàu có cũng có thể là sợi dây trói buộc lòng quảng đại của con người, phát sinh tính ích kỷ và biến cuộc sống trở thành khép kín. Khi công bố các mối phúc Chúa Giêsu không khuyến khích một thái độ sống vô lo, thiếu trách nhiệm hay phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi. Vì đó cũng không phải là thái độ đích thực mà Tin Mừng muốn dạy chúng ta.
Trong bài đọc 1 hôm nay, qua miệng Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa muốn nói rằng: Ai cũng cần phải lớn lên trong trách nhiệm và tự do. Nhưng không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa. Hơn bất cứ ai, Ngài chính là điểm tựa vững chãi của đời người. Bởi đó chúng ta đừng đi tìm kiếm điều gì khác ngoài Ngài, đừng cậy dựa vào sức riêng của mình mà rời xa Thiên Chúa. Chính khi biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người sẽ tìm được hạnh phúc đích thực. Đó là bí quyết hạnh phúc Chúa muốn truyền lại cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Tất cả chúng ta điều là những người nghèo của Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng giàu sang phú quí vô cùng, chúng ta đâu có gì để mà tự hào khoe khoang, nếu chúng ta có gì cũng đều là của Chúa ban cho mà thôi. Chính vì thế chúng ta hãy tin tưởng ở Chúa, hãy tìm đến với Ngài để được Ngài ban cho hạnh phúc. Thực tế cho thấy, ngày nay trong khi con người đi tìm kiếm lợi lộc trần thế họ dễ có nguy cơ tách cuộc đời mình ra khỏi Chúa và chỉ phụ thuộc vào vật chất. Suốt cả cuộc đời con người luôn tìm kiếm giàu sang, danh tiếng, chức quyền nhưng họ đâu có biết đi tìm chính Thiên Chúa là nguồn mạch của tất cả mọi sự.
3. Nước Trời, nước tình yêu:
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã sống nghèo, Ngài đứng về phía những người nghèo, tuy nhiên Ngài không lấy việc san bằng xã hội làm mục tiêu tranh đấu. Ngài chỉ luôn nhắc nhở con người rằng: Giá trị đích thực của mỗi người không phải là những gì nó có mà là do cái nó là, có nghĩa là chỉ có tình yêu mới làm nên giá trị đích thực của con người mà thôi.
Theo các mối phúc của Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu không hứa hẹn một thiên đàng ngay tại trần thế này, Ngài cũng không loan báo một Nước Trời xa lạ với trần thế. Thực ra Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo thiết yếu là nước tình yêu, nước của liên đới và chia sẻ.
Chính khi biết sống yêu thương, công bình, bác ái trong đời sống chúng ta mới hiểu được Nước Trời là gì. Khi biết tận hưởng niềm hân hoan, hòa bình chúng ta mới khám phá ra thế nào là niềm hạnh phúc đích thực. Và khi được quyền sống, được quyền thể hiện và phát triển phẩm giá của mình một cách trọn vẹn nhất thì chính lúc đó các mối phúc Thiên Chúa ban, qua Chúa Giêsu sẽ trở thành hiện thực.
Như vậy các mối phúc không phải là một lời hứa hão, không phải là chuyện ảo tưởng, viễn vông,nhưng là một sự thật hiển nhiên, điều sẽ đến với mỗi người, rất gần gũi với chúng ta, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”.
Lạy Chúa Giêsu. Khi công bố các mối phúc Chúa hứa ban Nước Trời cho những người nghèo khó, Chúa mời gọi chúng con sống tinh thần khó nghèo là biết tận dụng những gì Chúa ban để sinh lợi ích cho mọi người, chứ không bo bo giữ cho riêng mình. Xin cho chúng con biết yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo, những người đang cần chúng con giúp đỡ, những nạn nhân của bất công xã hội để chúng con được Chúa yêu thương chúc phúc và hừa ban Nước Trời. Amen.
15. Ai là người hạnh phúc
Con người khát vọng hạnh phúc và bằng mọi cách đạt tới hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc? Hạnh phúc tuỳ thuộc những yếu tố nào? Mọi người không đồng ý kiến với nhau. Trong một cuộc thăm dò ở Pháp, 90% người được hỏi ý kiến cho rằng yếu tố cấu tạo nên hạnh phúc là: sức khoẻ, 80% cho là tình yêu, 75% cho là tự do, 60% cho là công lý, 63% cho là việc làm và 52% cho là tiền của. Vì thế, con người tự hỏi: đâu là hạnh phúc thật và đâu là con đường chắc chắn nhất, ngắn nhất để đạt tới hạnh phúc?
Là Kitô hữu, chúng ta tìm kiếm thứ hạnh phúc nào? Và phải làm gì để đạt tới hạnh phúc thật? Câu trả lời tìm thấy trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là: “Phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh” (Bđ. 1), dù sống hay chết vẫn một niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh (Bđ. 2) thì chắc chắn “Nước Trời sẽ là của họ” (Bài Tin Mừng).
Theo quan niệm của Cựu Ước được diễn tả qua bài đọc 1 (Gr 17,5-8) thì người biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa là người hạnh phúc. Ngôn sứ Giêrêmia đã quả quyết: Hạnh phúc thật chỉ có thể phát xuất từ niềm tín thác vào Chúa mà thôi. Giêrêmia đã dùng những hình ảnh cây trái để quảng diễn ý tưởng ấy: Ai dựa vào mình thì tự khép lại trong sự mong manh của mình, và sẽ khô héo như bụi cây trong sa mạc; còn ai trung thành hướng về Chúa, sẽ đâm rễ tận nguồn mạch sự sống và trở thành cây xanh tốt, đầy hoa trái.
Hoặc theo quan niệm của Thánh Phaolô ở bài đọc 2 (1Cr 15,12.16-20) thì ai sống gắn bó đời mình với Chúa Kitô chết và sống lại là người hạnh phúc. Vì dù sống, dù chết, người ấy vẫn thuộc về Chúa và nhờ đó luôn được hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Còn đối với Chúa Giêsu, qua Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay, Ngài công bố bốn mối phúc là: nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị ngược đãi. Đối lại với bốn mối phúc là bốn mối hoạ: giàu có, no nê, vui cười và được ca tụng. Đói và khóc là hậu quả và biểu hiện cụ thể nhất của cái nghèo. Bụng đói vì không có gì ăn. Tâm hồn đau khổ vì không có ai để an ủi, chỉ còn biết lấy tiếng khóc để làm vơi nỗi khổ của mình. Còn người giàu thì bụng no. họ khổ thì họ lại có trăm ngàn thứ để đánh đổi, để lấp đầy. Hai hình ảnh tương phản: người nghèo đói và khóc lóc, người giàu có no và vui cười.
Hình ảnh người phú hộ và ông Lagiarô nghèo đói đã minh hoạ điều này: người phú hộ mặc lụa là gấm vóc, ngày nào cũng yến tiệc linh đình. Còn Lagiarô nghèo đói, ngồi chờ bố thí ngoài cổng, không ai ngó ngàng, không ai bênh vực, những con chó đến liếm vết mụn nhọt trên người Lagiarô là tột đỉnh nỗi khổ của ông. Cuối cùng, lúc chết, chúng ta mới thấy hạnh phúc thật ở đâu và ai là người hạnh phúc, ai là người vô phúc?
Người đời thường đặt hạnh phúc vào trong những cái có: có tiền của, có vợ đẹp, có con khôn, có địa vị, có nhà cửa, có bạn bè sang trọng phú quý… Nhưng để có được những cái đó, nhiều khi chúng ta làm cho nhiều người khác mất đi cái họ đang có, hay là bớt cái có của người khác đi, và do đó, gây tranh chấp, hận thù, và kết quả là mình khổ và người khác càng khổ hơn. Ai cũng khao khát hạnh phúc cho mình và vì hạnh phúc của mình, nên nhiều khi cố ý hay vô tình gây đau khổ, làm mất hạnh phúc của kẻ khác. Điều đó cũng giống như khi chúng ta tìm cách kéo hết phần chăn đắp về mình, thì chỉ mình ta được ấm, nhưng người bên cạnh tất nhiên sẽ bị lạnh. Trong một bàn ăn mà ta chỉ nghĩ đến mình, thì thế nào cũng có người bị thiệt, bởi đó mà cha ông ta dạy: “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Trong một cơ quan, xí nghiệp, nếu những người lãnh đạo chỉ lo cho lợi lộc cá nhân, thì tất nhiên những người khác phải chịu thiệt thòi. Trong một nước, nếu những người cầm quyền chỉ lo vun quén cho bản thân, cho gia đình và bạn bè mình, thì toàn thể nhân dân khó có thể được ấm no hạnh phúc.
Trong một lá thư cám ơn và tâm tình đầu xuân, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã nói đến hiện trạng đời sống xã hội của đất nước chúng ta: “Nhờ công cuộc đổi mới, nền kinh tế của nước nhà đang trên đà phát triển mạnh: nhiều người ăn nên làm ra, thậm chí trở thành triệu phú, tỷ phú; hàng tiêu dùng có chất lượng cao tràn ngập thị trường… lúa gạo chẳng những đủ ăn mà còn thừa để xuất cảng vào hàng thứ ba thế giới. Nhưng những thành tựu đáng phấn khởi đó không che mắt được chúng ta trước những mặt trái phũ phàng của nền kinh tế thị trường: đồng tiền trở thành thước đo của mọi giá trị, hưởng thụ vật chất trở thành lý tưởng của cuộc sống, và kết quả là khoảng cách giữa một thiểu số giàu có và đại bộ phận nghèo túng ngày càng lớn…”.
Thưa anh chị em, tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu công bố hôm nay trong bản Hiến Chương Nước Trời phải được hiểu theo nghĩa một sự nghèo khó vì Nước Trời, một sự quên mình vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của mọi người. Chúa Giêsu không chủ trương nghèo khó để mà nghèo khó, nghĩa là Ngài không coi nghèo khó là một giá trị, một lý tưởng. Ngài không bao giờ tán đồng cuộc sống khốn khổ trong những căn nhà tồi tàn ở các khu nhà ổ chuột nơi các thành phố ngày nay cũng như nơi các đô thị thời đại của ngài. Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu muốn nói là tinh thần không cậy dựa vào tiền của, quyền lực, mà chỉ biết đặt trọn niềm tin cậy vào Chúa. Phúc cho anh em là những người nhận thức rằng không thể tìm hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải vật chất, mà bằng cách đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Đó chính là tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật chất. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới thấy cảnh nghèo khổ của anh em. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới dễ cảm thông và chia sẻ cho tha nhân.
Chân lý của Lời Chúa và thực tế cũng dạy chúng ta rằng hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi mỗi người đừng sống vì mình và cho mình, mà phải sống vì tha nhân và cho tha nhân. Phải biết hy sinh những lợi ích riêng nhỏ bé để mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể: gia đình có hoà thuận an vui thì mỗi người trong gia đình mới được hạnh phúc; xã hội có an ninh trật tự và thịnh vượng thì mỗi gia đình mới thực sự được bảo đảm về công ăn việc làm và được ấm no hạnh phúc. Cũng vậy, thế giới có hoà bình thì các dân tộc mới có thể phát triển và đạt tới sự thịnh vượng bền lâu.
Mỗi người hãy quên mình đi, quên lợi ích riêng tư, không tìm cách để có thêm, có nhiều, bằng cách bóc lột kẻ khác hay bớt phần kẻ khác. Hãy sống hiền hoà với mọi người, sẵn sàng chịu đau khổ vì tha nhân, luôn luôn biết xót thương người, luôn luôn có lòng trong sạch và ngay thẳng, sống hoà thuận với mọi người và làm cho mọi người được hoà thuận với nhau, sẵn sàng chịu hy sinh vì chính đạo, vì Nước Trời. Mỗi người phải là niềm vui, là hạnh phúc cho kẻ khác, bởi vì hạnh phúc thực sự của chúng ta là chính con người, cũng như đau khổ của chúng ta cũng chính là con người. Hạnh phúc hệ tại ở một cuộc sống hoà hợp giữa ta và người khác, và sự hoà hợp đó đòi hỏi ta phải tôn trọng nhân vị và quyền lợi của người khác, chấp nhận và yêu thương người khác như chính bản thân.
Chúng ta hãy thiết tha cầu xin cho mọi Kitô hữu biết noi gương Chúa Kitô sống hoà mình với mọi người, biết lấy hạnh phúc của mọi người làm hạnh phúc của chính mình để tạo nên hạnh phúc đích thực cho bản thân và cho mọi người.
16. Thế giới của các mối phúc - McCarthy
Suy Niệm 1. SỰ TỈNH THỨC TÂM LINH
Đức Kitô đã đặt con người đối diện với một chọn lựa căn bản: sống theo những giá trị của thế gian (theo đuổi tiền bạc, lạc thú, sự nổi danh, quyền lực, địa vị) hoặc sống theo những giá trị của Nước Trời (sự nghèo khó tâm linh, sự trong sạch của tâm hồn, khả năng bày tỏ lòng thương xót, chịu đựng đau khổ vì công lý…).
Trong cuốn truyện The Forst Circle, Salzhenisyn kể lại câu chuyện của một nhà ngoại giao tên Innokenty. Trong suốt thời kỳ Staline cầm quyền, Innokenty và vợ ông, Dottie, sống một cuộc sống được ưu đãi. Ở mỗi nhiệm sở ông được gởi đến, một căn nhà đầy đủ những đồ dùng hoang phí đang chờ đợi họ. Và họ xum xoe thoả mãn. Họ có mọi thứ họ muốn, và vào một thời kỳ mà Thế Chiến II tàn phá khắp nơi. Nhưng không có một tiếng thở dài lo âu nào của thế giới làm động lòng họ.
Tuy nhiên, trong năm thứ sáu của cuộc hôn nhân của họ, Innokenty bắt đầu có cảm giác bất ổn về mọi vật chất. Cảm giác ấy làm ông bối rối và lo sợ. Ông có tất cả nhưng ông thiếu một điều gì đó. Cả người vợ yêu quý Dottie cũng trở thành một người xa lạ với ông. Cách sống xu thời làm ông lúng túng. Ở đâu, người ta cũng giống nhau và ở đâu, người ta cũng nhảy cẫng lên và nâng ly chúc tụng người Stalin mà trong thâm tâm họ sợ hãi và khinh miệt.
Một ngày kia, ông bắt đầu xem kỹ những bức thư và sách vở mà người mẹ quá cố của ông để lại. Khi đọc những bức thư ấy, ông đã khám phá ra một bảng giá trị hoàn toàn trái ngược với những giá trị của tầng lớp xã hội trong đó có ông.
Những giá trị của mẹ ông bắt đầu làm ông thức tỉnh. Trong các bức thư của bà, bà nói về những điều như lòng thương xót, chân lý, lòng nhân hậu, v.v… Và rồi ông đọc đến một đoạn thư lạ lùng này: “Điều quý giá nhất trong thế giới này là luôn ý thức rằng mình không được dự phần vào sự bất công”.
Bỗng nhiên, ông khám phá điều mà đời sống ông còn thiếu. Và trong nhiều ngày đêm, ông đã tiếp tục ngồi đó để hít thở những giá trị của thế giới mẹ ông như một người hít thở không khí trong lành. Ông khám phá một phương thế mới để nhìn và phán đoán đời sống. Cho tới lúc đó, triết lý sống của ông là chúng ta chỉ sống có một lần. Đem chính mình để phục vụ người khác là hoàn toàn điên rồ. Giờ đây, ông hiểu rõ một sự thật khác: chúng ta chỉ có một lương tâm và nếu lương tâm trở nên què quặt thì đời sống coi như đánh mất không gì bù đắp lại.
Bà mẹ ông có một bác sĩ đứng tuổi là người điều trị căn bệnh cho bà trước khi bà mất. Một ngày kia, ông này sắp lên đường sang Pari nơi đó ông định trao cho Phương Tây một số bí mật về y khoa bởi vì ông cho rằng thế giới có quyền biết những bí mật ấy. Nhưng một cái bẫy đã được giăng ra để bắt ông bác sĩ. Innokenty biết được điều đó. Ông tìm cách gọi điện cho ông bác sĩ. Nhưng cuộc gọi ấy đã bị theo dõi và Innokenty bị bắt.
Innokenty đã biết giàu sang như thế nào. Khi bạn giàu có tiếng tăm, bạn là một thành viên của một nhóm được kính trọng, và thật sự bạn không bao giờ bị đàn áp. Một cuộc gọi điện thoại là một quyết định. Nhưng giờ đây ông đánh mất việc làm, địa vị, sức khoẻ, và mất cả vợ mình, ông khám phá sự nghèo khó có ý nghĩa gì. Nghèo khó là không có bạn bè và không có sự an toàn.
Tuy nhiên Innokenty đã tìm được một kho tàng và ông biết điều đó. Ông có kinh nghiệm về sự thức tỉnh tâm linh. Và như Kahlil Gibran đã nói: “Sự tỉnh thức tâm linh là điều quan trọng nhất trong đời sống; nó là mục đích duy nhất của bản thân chúng ta”.
Có bao nhiêu Kitô hữu có thể nói được rằng mình sống theo những giá trị các mối Phúc thật? Trong những sự việc tác động trực tiếp đến với chúng ta –việc làm, xe cộ, tiện nghi, nhà ở, tương lai của con cái- chúng ta không sống như mọi người đó sao? Ngày nay các môn đệ của Đức Giêsu thường sống trong tiện nghi sang trọng trong khi nhiều người còn sống trong cảnh khốn cùng.
Của cải và tiện nghi sau cùng rồi cũng để chúng ta lại trong sự trống vắng của tinh thần. Chỉ khi sống bằng những giá trị của Tin Mừng, khát vọng sâu xa nhất của chúng ta mới được thoả mãn. Để hiểu biết các mối Phúc Thật, chúng ta cần một sự thức tỉnh tâm linh.
Suy Niệm 2. NGHÈO KHÓ NHƯNG LẠI GIÀU CÓ TRONG ĐỨC TIN VÀ PHÓ THÁC.
Ở trung tâm của Bài đọc hôm nay là chủ đề về sự tín thác vào Thiên Chúa. Bài đọc 1 đối chiếu số phận của những người tin tưởng vào Thiên Chúa. Những người tin tưởng và con người như cây gai cằn cỗi trong sa mạc; trong khi những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng gần dòng sông nhiều nước.
Tín thác vào Thiên Chúa là trông cậy nơi Người vốn là suối nguồn sức sống. Những người tín thác vào Thiên Chúa là những người nghèo được Thiên Chúa chúc phúc trong các mối Phúc thật (Tin Mừng).
Khi Đức Giêsu nói: “Phúc cho những người nghèo khó”, Người đã không chúc phúc cho sự đói khát và khốn cùng. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc là lòng trông cậy, tín nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm của họ vào Thiên Chúa sẽ không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thoả mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
Thánh Giacôbê nói rằng những người nghèo khó đối với thế gian này sẽ được Thiên Chúa làm cho giàu có trong đức tin (2,1-5). Bất cứ ai thực thi tác vụ trong đôi ba năm đều có thể xác nhận chân lý ấy.
Những người giàu có xu hướng dựa vào của cải họ có. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi, và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Trái lại, những người nghèo có xu hướng tự nhiên quay về với Thiên Chúa. Đối với họ, mọi nguy cơ và khó khăn của đời sống làm cho Thiên Chúa và đời sau gần gũi và hiện thực.
Sự nghèo khó ấy tự nó không phải là điều tốt. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn hơn và luôn bị đe doạ, nó cũng trở nên phong phú hơn bởi lẽ khi chúng ta càng ít mong đợi thì những điều tốt lành của đời sống càng trở thành những ân huệ bất ngờ mà chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đó là lý do Đức Giêsu nói; “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Một ngày kia một người nghèo đi dọc theo một con đường, tình cờ ông gặp một người ăn mày đến xin ông bố thí. Xấu hổ vì không có gì để bố thí, người nghèo đáp: “Tiếc thật, nhưng tôi cũng nghèo như anh thôi”.
Khi nghe nói điều đó, người ăn mày nói: “Cám ơn bạn, vì món quà của bạn”.
Không hiểu người ăn mày muốn nói điều gì, người nghèo hỏi: “Tại sao ông cám ơn tôi? Tôi có cho ông cái gì đâu”.
“Ồ có chứ”, người ăn mày đáp: “Ông cho tôi sự lương thiện của ông, sự nghèo khó của ông và lòng tín thác của ông”.
Thiên Chúa không nghèo, nhưng chúng ta nghèo. Thế mà chúng ta có cái để cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể cho Người sự lương thiện, nghèo khó và lòng tín thác của chúng ta.
17. Người nghèo, có phúc
Một Linh Mục quản xứ lấy làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông cho có điện. Có điện rồi, nhà thờ sáng lên rồi, thì trông cho có người đi lễ, vì ai nấy đều ở nhà xem ti vi- ti vi mới sắm, nhờ có điện. Không chỉ ở các thành phố, mà ngay ở các giáo xứ vùng quê hôm nay, cũng đã bắt đầu ít người đi lễ, đi đến nhà thờ, đọc kinh, cầu nguyện. Mỗi lễ sáng lễ tối có khi được năm bảy chục người, chỉ toàn là ông bà già…Có ông già than thở: “Ngày ấy nghèo khổ biết bao nhiêu, mà người đông như kiến tổ; chừ làm ra giàu ra có, nghe chuông đổ, ngủ khò”. “Hồi còn nghèo còn khổ, nửa củ khoai sùng cũng chia nhau, chừ ra giàu ra có, nhà ai cũng xây rào”. “Hồi còn nghèo còn khổ, không thấy họ cãi nhau, chừ ra giàu ra có, nghe chén đĩa lào xào”
Nghèo hay giàu, phúc hay họa, đồng ý là, tùy thuộc vào cách sử dụng của cải vật chất trần gian, nhưng thực tế nguy cơ nghiêng hẳn về sự giàu có. Vì sự giàu có có thể mua được tất cả thực tại trần gian, và khả năng mua được những giá trị vĩnh cửu cũng không kém, nhưng chỉ tiếc là, người ta có chấp nhận mua những thực tại chỉ thấy được bằng con mắt đức tin: lòng bác ái thật- lòng bác ái vì yêu người như mến Chúa, lòng bác ái vô vị lợi.
Chúa chúc phúc cho những người bây giờ đang nghèo, đang đói, đang đau khổ khóc lóc, đang bị sỉ vả, bị khinh khi xem thường…
Tôi không tìm cách để dành cái “hơn” cho người nghèo, vì Chúa đã nói là “phúc”. Mà cái phúc ấy, không dễ chấp nhận tí nào, nếu không nhìn vào cuộc đời của Chúa và của trần gian mà suy gẩm. Sinh trong máng chiên lừa, con ông Giuse thợ mộc mà giàu có gì đâu? Nhưng thật ra là một người giàu, một Thiên Chúa uy quyền, cao sang và thượng trí… Chính Ngài chấp nhận cuộc sống nghèo hèn, để từ thân phận nghèo hèn thấp bé ấy cho chúng ta biết con đường về với sự Giàu Có của Thiên Chúa, về với Thiên Chúa Giàu có. Nhìn vào những mảnh đời được cho là bất hạnh, nhưng ai tìm thấy được vẻ cao sang tuyệt vời trong họ. Một anh chạy xe ôm, nằm trên chính chiếc xe của mình, bên vỉa hè dưới chân khách sạn, ngủ bình an một giấc tới bình minh. Một người hành khất, dốc túi tiền ngày qua kiếm được, ngước lên tạ ơn Phật, tạ ơn Trời, lăn ra gầm cầu “hò kéo gỗ”. Mấy người ở nhà quê, sau một ngày đẫm bùn trên ruộng, về nhà, nghe những ngọn lúa đang cười trong đêm, tôi mừng, tạ ơn, ngủ”. Như thế, không hẳn là người nghèo không đau khổ đâu, nhưng “em đã quen đau khổ rồi, đã quen nợ nần rồi, đã quen bị khinh bỉ rồi, đã quen cay đắng cuộc đời rồi” và “đau khổ làm gia vị cuộc đời em thơm ngát”.
Vâng, những đau khổ của người nghèo là loại thuốc ướp tẩm xác cao cấp nhất, mà người giàu chưa chắc có được. Loại thuốc ướp tẩm thân xác Chúa Giêsu Tử nạn và Chúa Giêsu Phục Sinh. Ấy vậy, Chúa đã bảo mà:“Nước Thiên Chúa” sẽ thuộc về những người nghèo. Họ sẽ được no thỏa. Họ sẽ được vui cười. Họ sẽ được phần thưởng.
Hơn thế nữa, người nghèo của Thiên Chúa được nhắc nhiều trong kinh thánh, với ý nghĩa là người biết mình “hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa”: Lý trí, sự thông hiểu, tâm hồn và thân xác… tất cả cuộc sống con người là của Thiên Chúa ban cho, không có gì là của riêng mình, không có gì để khoe khoang tự phụ- kể cả sự giàu có. Vì thế “tinh thần nghèo khó” là hương hoa thiêng liêng của một tâm hồn, trong đó, “đức khiêm nhường” chiếm vị trí số một. Kế đến là lòng “tri ân”. Chỉ có người có tinh thần nghèo khó, mới xác tín được “tất cả là hồng ân” để mà “tri ân”.
Chúng ta cùng nhìn lại “sự nghèo khó” và “tinh thần nghèo khó” của chính mình, để chọn lựa cho mình một giá trị siêu việt nhất.
18. Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc
(Suy niệm của Ngọc Biển SSP)
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
19. Hạnh phúc
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận địch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc,tình cảm trong dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New Work quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà tòn tình nguyện khoác áo blou trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán gét, khai trừ, sỉ vả, kèo theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản đề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát vả kẻ no đầy. Đó là hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin mừng muốn một tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào nước trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Đức Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiên và cùng đích, giữa điều kiện vận chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phượng tiện.
Chỉ “Khốn cho người giàu có” khi họ không ý thức rằng họ lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Họ mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không còn thấy rằng của cải cá nhân là do của cải tập thể đem lại, họ cũng không nhận ra rằng họ đã thừa hưởng một kho tàng ý tưởng và các tiến bộ mà người đang sống cũng như kẻ đã chết góp phần tạo nên. Họ nghĩ rằng mình có thể sống sung túc trong thế giới nhỏ bé chật hẹp mà họ là trọng tâm. Họ là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dù có ý thức hay không, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người quen biết cũng như người chưa quen biết. Vậy chúng ta phải trả món nợ ấy ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: Cho kẻ đói ăn, cho g trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau yếu. Nói như Martin Luther King: “chúng ta có thể cất giữ số thực phẩm dư thừa của chúng ta trong các bao tử trống rỗng của hàng triệu con cái Thiên Chúa, khi mỗi tối họ phải lên giường nằm ngủ mà không có gì để ăn”.
Dưới con mắt Chúa, làm giâu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhăm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khóa lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi ma chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Hạnh phúc đích thực không năm nơi của cải, hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chính là sữ mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: “Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh”.
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyề uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em, và với chính mình, như lời Thành Phaolô: “Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”.
20. Được chúc phúc
Hiện nay, có những chiến sĩ đang đấu tranh cho hòa bình, cho tự do, cho chân lý, cho công bình, cho hạnh phúc của người khác. Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay xem ra có vẻ trái ngược với những ước mong của người đời. Để sống hạnh phúc, con người phải giàu có, phải đoàn kết yêu thương nhau. Đang khi đó, lời chúc phúc của Chúa Giêsu xem ra có vè lạc lõng, không hợp thời: Phúc cho các ngơi là những người nghèo khó! Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát! PHúc cho các ngươi là kẻ bây giờ khóc lóc! Phúc cho các ngươi là những kẻ bị bách hại vì tin vào Chúa…!
Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, tôi thấy lời giảng dạy của Chúa hôm nay có một ý nghĩa rất sâu xa. Trước hết, những lời giảng dạy này chỉ cho ta con đường hy vọng và hạnh phúc chân thật. Vì như chúng ta biết sau những biến cố đau thương trong lịch sử, toàn dân Do Thái khát vọng một đấng cứu thế tới, giải thoát dân khỏi ách thống trị ngoại bang, dẫn dân tới thịnh vượng và vinh quang. Chúa Giêsu, đấng cứu thế đã đến; nhưng chương trình cứu chuộc của Ngài hoàn toàn khác biệt với những điều dân Do Thái mong đợi. Do đó, nếu những lời dạy trong Phúc Âm hôm nay có khó nghe đối với cử tọa, thì nó cũng đạt được mục đích lỗi kéo chúng ta khỏi những hy vọng hão huyền!
Lời Chúa luôn là ánh sáng. Là chân lý. Ai có tâm hồn nghèo khó, ắt sẽ không làm nô lệ tiền của. – Có tâm hồn đói khát cự công chính, chịu đau khổ, hiểu lầm vì muốn sống theo đức tin; bị bách hại và xỉ nhục vì danh Chúa…Đó là những con đường hẹp, những chặng đường thánh giá dẫn ta tới vinh quang Nước Trời. Đó là những chông gai, sỏi đá trên con đườnh dẫn tới vui mừng và hy vọng. Thật vậy, chỉ có hạnh phúc thật sự sau khi đã trải qua khó khăn đau khổ. Trước khi Chúa sống lại vinh quang, Chúa đã phải trải qua chặng đường thập giá đau thương.
Chuyện kể rằng có một nông dân nước Anh, đã vượt đồi băng đèo lội suối tới niềm đất xa xôi tìm kim cương. Người ta ta bảo những hạt kim cương thường lẫn trong những viên đá cuội nơi dòng suối. Người nông dân ngày nào cũng bới đào, tìm kiếm. Số viên đá cuội ông loại ra đã tới viên thứ 999.999. Chỉ còn 1 viên nữa tròn một triệu. Nhưng ông nản chí không nhặt nữa, vì nghĩ rằng: dầu có nhặt cũng vô ích. Người bạn đồng hành vói ông khuyên ông nên cố gắp một lần nữa, trước khi về nhà. Ông tìm bới dưới dòng suối được viên đá cuội. Viên đá này rất nặng. Càng lau chùi, viên đá càng trong sáng. Và ông đã khám phá ra đó là một khối kim cương. Ông đem bán khối kim cương ấy cho một tiệm kim hoàn ở Luân Đôn với giá 2.000.000 mỹ kim. Ông đã trở nên tỉ phú.
Người đời thường bảo “Không vào hang hàm sao bắt được cọp?” Không theo Chúa Giêsu trên con đường khổ giá làm sao có sống lại lại vinh quang.
Các thánh tông đồ, Thánh Phanxicô thành Assise, thánh Vincent de Paul, cha thánh Damien và Maximilien de Kolbe…Các ngài được Giáo Hội tôn kính và các ngài đã dám hy sinh mạng sống cho những kẻ ngèo khổ, xấu số.
21. Hạnh phúc
Quốc vương Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc giàu có nhất thế giới trong suốt 49 năm vào khoảng thế kỷ 10. Lợi tức của nhà vua lên tới 336 triệu mỹ kim. Nhà vua có 6321 bà vợ được tuyển chọn trong số những thiếu nữ sinh đẹp nhất của vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản của nhà vua trị giá khoàng 3 tỷ mỹ kim. Ấy thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn như sau: “Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh vọng này, tôi đã đếm được những người tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14 ngày mà thôi”.
Qua câu chuyện này, chúng ta tự hỏi: Hạnh phúc là gì? Trước khi giải đáp vấn nạn này, chúng ta phải công nhận rằng: nói đến hạnh phúc là đề cập đến một vấn đề sống còn của con người vì đã là người đúng nghĩa thì không thể sống mà không tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Vì thế, cho dù có sử dụng phương tiện khác nhau bao nhiêu đi nữa thì mọi người đều nhắm tới cái đích duy nhất ấy, cho dù bất cứ cử động nhỏ nhặt nào của con người cũng không ngoài mục tiêu hướng tới cái đối tượng ấy. Vậy đã rõ hạnh phúc là động cơ thúc đẩy cong người hành động, là hy vọng quyến rũ con người cố gắng phấn đấu.
Thế những từ ngàn xưa cho đến ngày nay, đã có biết bao nhiêu thánh nhân, quân tử, hiền triết, bác học cố công tìm cách giải đáp cách thức để nhận ra đâu là hạnh phúc và làm thế nào để chiếm đoạt được nó. Nhưng rồi kết quả chẳng đến đâu vì không đáp ứng nỗi khát vọng thâm sâu của con người. Trước tình trạng nan giải đó, người thời nay, nhất là giới trẻ, muốn đả phá và chng đối lại tất cả với mục đích thoát khoải những ràng buộc của xã hội, những luật lệ tôn giáo để sống cho riêng mình. Và họ vẫn vô vọng.
Như thế, phải chăng hạnh phúc không có? Và phải chăng những thứ như tiền tài, danh vọng, lạc thú mà con người mơ ước theo đuổi chỉ là một thứ bọt trong bể khổ, một thứ bèo trong bến mê, một thứ ảo ảnh lừa dối? Vậy trước nỗi khát vọng vô bờ và sự bất lực của con người khi tìm kiếm hạnh phúc có ý nghĩa gì.
Điều đó chứng tỏ rằng từ xa xưa con người đã được hưởng một niềm hạnh phúc thực sự, nhưng vì lầm lỗi đã đánh mất nên bây giờ chỉ còn lại cái bóng mờ, trống rống của nó trong tâm hồn. Do đó, con người ngày nay ra sức lấp đầy cái lỗ hổng này bằng tất cả những gì họ tưởng tượng ra, nhưng vẫn thảm bại.
May mắn thay có một Đấng vừa là con người để kinh nghiệm, nhận thức được nỗi khát khao tìm kiếm hạnh phúc của con người, vừa là Thiên Chúa có đủ khả năng và giải phát giúp con người đạt được hạnh phúc đích thực. Đó là Đức Giêsu Kitô mà trong bài phúc âm hôm nay để long trọng công bố những nguyên tắc căn bản để giúp con người tìm ra hạnh phúc.
Nhưng qua những nguyên tắc mà Chúa công bố, nếu đặt dưới lăng kính của những quan niệm xưa nay của nhân loại, hình như chúng đảo ngược mọi giá trị, đánh đổ mọi pháo đài mà con người cố gắng xây dựng cho đời mình và là bản án cáo chung của mọi lý tưởng, thần tượng mà bấy lâu nay con người tin tưởng. Và cũng đừng lầm tưởng rằng tình trạng hạnh phúc mà Chúa công bố là khổ sở, nghèo đói, khờ khạo, nhu nhược…trái lại Chúa coi chúng ta như là những nguyên nhân làm cho con người thoái hóa, cần phải loại bỏ.
Vậy, theo lời Chúa dạy, thì hạnh phúc chính là tình trạng của con người dù biết mình nghèo, thiếu thốn, khổ đau mà vẫn cố gắng làm việc vui vẻ, trong sáng, chăm chỉ vì luôn tín thác vào sụ quan phóng nhân ái của Chúa; là tình trạng của người dù có gặp gian nan thử thách vẫn kiên trung luôn ý thức mình là cn Chúa. Nói khác đi, điều làm cho con người dễ dàng đón nhận hạnh phúc Thiên đàng, chính là sự tự do của người nghèo khó: nghĩa là khi chịu đựng các thăng trầm bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống, nghèo khó ý thức rằng chỉ có cuộc sống đời sau mới thỏa mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn con người. Và cả nhu ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì tình yêu Chúa thì Ngài sẽ đền bù cho họ niềm hoan lạc đích thực đời này lẫn đời sau.
Tóm lại, hạnh phúc không gì khác là luôn có Chúa ở cùng vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được nỗi khát vọng sâu xa của con người. Và khi cảm nhận được tình yêu lớn lao của Ngài đổ tràn trong tâm hồn thì mọi sự khác đêu trở nên vô nghĩa.
22. Mối phúc thật
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những kẻ đang nghèo khó, phúc cho những kẻ đang đói khát, phúc cho những kẻ đang khóc lóc kêu van, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo. Đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ đang nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ đang bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Được lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
23. Mối phúc thật
Có một nhóm học giả Nhật Bản thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi vấn đề. Trong những lần gặp gỡ đó, họ thường đem những món trà quí giá và đắt tiền nhất ra để thưởng thức. Khi đến lượt chuẩn bị cuộc gặp gỡ, người cao niên nhất trong nhóm đã biến tuần trà thành những nghi thức vô cùng trang trọng: ông sử dụng bình trà cổ xưa và quí giá nhất của gia đình, ông lựa lọc và nâng niu từng cọng trà trước khi cho vào bình. Mọi người khen lấy khen để mùi vị thơm ngon của thứ trà mà họ cho từng được thưởng thức. Ai cũng hỏi cho biết cách ướp và nghệ thuật của ông, người cao niên mỉm cười nói như sau:
- Trà mà quí vị cho là hảo hạng đây thật ra chỉ là thứ mà người làm công trong nông trại của tôi uống mỗi ngày. Những điều tuyệt diệu trong cuộc sống không đắt đỏ cũng không khó tìm.
Nỗi khao khát vô biên về hạnh phúc là một thách đố triền miên cho con người, hoặc là con người bằng lòng với hiện tại và tìm thấy hạnh phúc đích thực trong cái mình đang có, hoặc con người sẽ mải mê chạy theo ảo ảnh về của cải, danh vọng, quyền thế. Chúa Giêsu đến để đặt lại tất cả đúng bậc thang giá trị của chúng. Ngài nói rằng quyền bính không phải là để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Ngài nói rằng tiền của không phải là cứu cánh của cuộc đời, nhưng là phương tiện giúp con người sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Chúa Giêsu không đến để bần cùng hóa nhân loại. Sự giải phóng Ngài mang lại là sự giải phóng toàn diện. Con người được no cơm ấm áo, đó cũng chính là thể hiện của chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Tiền của, quyền bính chỉ là phương tiện giúp con người sống ơn gọi làm người và tìm được hạnh phúc ngay từ cuộc sống này.
Cùng đích của cuộc đời, gia nghiệp duy nhất mà con người phải tìm kiếm là chính Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với con người khi chọn cuộc sống khó nghèo. Ngài quả thực là mẫu mực của con người hạnh phúc đích thực. Sống nghèo khó, Chúa Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa; sống nghèo khó, Ngài cũng hoàn toàn thuộc về tha nhân. Kết hiệp với Thiên Chúa và sống trọn cho tha nhân, đó là bí quyết Chúa Giêsu đã sống và Ngài muốn truyền lại cho con người. Bí quyết đó cũng là đón nhận và sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại. Bí quyết đó cũng là chấp nhận mọi bất trắc, thất bại, khổ đau với niềm tín thác và tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Có như thế, con người sẽ không còn nhọc công để tìm theo những ảo ảnh của hạnh phúc, nhưng sẽ hưởng nếm được hạnh phúc ngay trong từng biến cố và sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày. Những điều tuyệt diệu trong đời sống quả thật không đắt tiền cũng không khó tìm là như thế đó.
24. Ai là người hạnh phúc?
(Suy niệm của T.s. Trần Quang Huy Khanh)
Thiên Chúa dựng nên con người và muốn cho con người được hạnh phúc. Không những hạnh phúc ở đời này mà con hạnh phúc đời sau nữa. Đó là mục đích sự xuất hiện của con người trên cõi trần này. Chúng ta dám khẳng định điều này, vì Chúa chính là người cha nhân lành. Ngài dậy chúng ta kêu cầu với Ngài: “Lậy Cha chúng con ở trên trời”. Và điều này làm cho chúng ta an tâm. Chúng ta không thể gọi Ngài là cha được, nếu như Ngài không nhân lành. Quỷ thần – cha của gian đối, khốn nạn, và bất hạnh - chỉ được chúng ta nhắc đến như một thụ tạo ghê sợ và khốn nạn: “Đồ quỷ sứ!” Không ai gọi quỷ thần là cha mình bao giờ.
Như vậy hành trình con người là một cuộc sống có yếu tố và hoàn cảnh hạnh phúc. Và cuộc đời con người cũng là những chuỗi ngày vừa tìm cầu, vừa sống trong hạnh phúc. Nhưng rồi tại sao phần đông nhân loại vẫn không có hạnh phúc và hạnh phúc vẫn là một cái gì hoang tưởng, vượt khỏi tầm tay của nhiều người?! Thưa vì quan niệm về hạnh phúc của con người khác với quan niệm về hạnh phúc của Thượng Đế. Hạnh phúc của ngài là: nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bắt bớ, trù dập, và chối bỏ. Ngài nói:
“Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi sẽ hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời” (Luc 6: 20-23).
Còn hạnh phúc đối với con người thì sao? Giầu có dư giả, ăn nhậu phủ phê, cười nói thoải mái, và được người đời trọng dụng, ca tụng. Nhưng khổ nỗi, những cái đó lại là những cái xem như Chúa không mấy ưa thích:
“Khốn cho các ngươi là những người giầu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là những kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu, khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả” (Lc 6:24-26).
Như vậy có nghĩa là gì? Tại sao Thiên Chúa cứ làm ngược lại những gì con người ưa thích và tìm kiếm? Tại sao nghèo mà là hạnh phúc và giầu thì bất hạnh. Tại thiếu ăn, thiếu mặc là hạnh phúc, mà dư ăn, dư mặc lại là bất hạnh. Tại sao khóc lóc, buồn rầu là hạnh phúc, mà vui vẻ thoải mái là bất hạnh. Và tại sao bị người khác chê bai, chà đạp là hạnh phúc, còn được người đời trọng vọng, sùng bái lại là bất hạnh???
Câu trả lời là vì Chúa muốn con người được hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đời đời. Còn con người lại muốn hạnh phúc giả tạo, hạnh phúc nhất thời. Đó là lý do cha con bất đồng. Và đó là lý do cha con không hòa thuận được với nhau. Cũng như người cha trần thế muốn con mình tìm hạnh phúc qua việc học hỏi, trau dồi kiến thức và nghề nghiệp. Vì đấy là con đường mở ra cho tương lai con cái. Và đấy là một thứ đầu tư tốt nhất vào tương lai. Ngược lại, đa số con cái lại muốn tìm hạnh phúc bằng rong chơi, lãng phí tuổi trẻ, và bằng những giây phút thỏai mái hiện tại. Sự khác biệt và bất đồng là ở đó.
Ngoài ra, nếu để ý và suy ngắm cẩn thận chúng ta không thấy Thiên Chúa vô lý và khắt khe khi lên án những cái mà con người cho là hạnh phúc mà lại chúc phúc cho những cái mà con người cho là bất hạnh. Thiên Chúa biết rõ, nếu không có những thử thách đó, con người sẽ không bao giờ nghĩ đến đời đời, và nghĩ đến hạnh phúc bất diệt trên quê trời. Ngược lại, con người sẽ bị chôn bám vào thế gian này, bị ràng buộc với những cái mau qua, chóng hết, để rồi lãng phí thời giờ và cơ hội để tạo cho mình một đời sống hạnh phúc thật.
Thật vậy, Thiên Chúa đâu có ngớ ngẩn đến nỗi cho rằng nghèo hèn, đói khát, khóc than, và bị chê ghét là những hạnh phúc bao giờ. Và ngài cũng đâu khờ khạo đến độ coi nghèo khổ, đói rách, đau thương và bị trù dập là những niềm hạnh phúc đâu! Phải đi sâu vào cái ý nghĩa thâm thúy của lời ngài, và cái tâm tình của ngài mới khám phá ra được ý nghĩa và những niềm vui hạnh phúc cũng như bất hạnh ấy.
Ngài khẳng định người nghèo sẽ được hạnh phúc và kẻ giầu sẽ bất hạnh. Trước hết, cái nghèo ở đây không hẳn là nghèo tiền của vật chất, mà là một tâm hồn khiêm tốn, đơn sở và bình dị. Một tâm hồn luôn luôn sẵn sàng như một biển sâu để tình yêu của ngài đổ tràn đầy. Sự nghèo nàn này hiển nhiên đem con người lại gần đến Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Ngược lại, sự giầu có mà ngài đề cập đến lại chính là sự giầu có của trần gian, một thứ giầu có làm mê mẩn và chôn bám lòng người vào vật chất. Nó là sự giầu có khiến con người quên mất Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc thật. Những cuộc tranh chấp, chộp giật táng tận lương tâm đưa đến chém giết, thủ tiêu nhau của những kẻ tham nhũng, lường gạt, tham lam mới thấy rằng sự nghèo, sự đói khát chưa hẳn là một bất hạnh. Họ đã trở thành những kẻ thiếu thốn tình yêu và thiếu thốn lòng nhân ái. Giầu như vậy chưa phải là hạnh phúc.
Ngài nói người đói khát hạnh phúc và người no thỏa bất hạnh. Đây cũng là một lối so sánh giữa cái đói khát công chính, đói khát thánh thiện, với cái no thỏa phủ phê của cơm bánh, của dục vọng và đam mê. Một bên đem lại cho lòng người sự nhẹ nhàng, thanh thoát và bay bổng, một bên kéo ghì con người xuống vũng bùn nhơ nhớp của bản năng và của thế giới mau qua. Đói chân lý, đói điều thiện hảo, đói công bằng, đói tình thương là cái đói hạnh phúc. No cơm bánh, no rượu chè, no dục vọng là thứ no làm mờ lòa con mắt tâm linh. No như vậy không hẳn là cái no đem con người đến hạnh phúc.
Ngài chúc phúc cho những người đang phải khóc thương, và nguyền rủa những kẻ giờ đây đang cười nói vui vẻ. Khóc than, thống hối về tội lỗi của riêng mình và của nhân loại là sự khóc thương đem đến nguồn an ủi thiêng liêng. Khóc thương cho số phận con người lạc xa chân thiện mỹ là một sự khóc thương mở rộng chân trời hạnh phúc. Ngược lại, cười nói, sung sướng trên sự đau khổ của anh chị em mình là những nụ cười man rợ, những thái độ đáng nguyền rủa không những trước mặt Thiên Chúa mà còn ngay cả với con người. Làm sao ta có thể vui vẻ, hạnh phúc, và vui cười khi hành khổ, xúc phạm, và chà đạp nhân phẩm và thể xác anh chị em mình được! Làm sao một người mẹ, một người cha lại có thể vui cười hả hê khi đang tâm giết chết một đứa con trong bụng mình! Làm sao một người y sỹ lại có thể cười vui hả hê nhận đồng tiền thù lao vì đã phá thai cho một người! Làm sao một người lại có thể vui sướng, cười nói khi thu về những đồng tiền do việc cung cấp ma túy, hoặc cướp giật của người khác! Đấy chẳng phải là những nụ cười, những tiếng cười vô phúc và đáng nguyền rủa lắm sao.
Và sau cùng, phúc cho những ai bị bắt bớ, bị chà đạp, và bị trù dập. Sao Chúa lại cho những cái khốn nạn mà ai cũng sợ hãi này là hạnh phúc. Và sao ngài lại từ chối và coi rẻ sự vinh quang phú quý và danh vọng đời này vậy? Hẳn là ngài có lý do. Để được coi là có công lênh và đáng thưởng, nhất là phần thưởng của Nước Trời, đương nhiên phải có chiến đấu, phải có cơ hội lập công. Và đây là những dịp mà ngài mở ra để con người có thể chiếm hữu được phần thưởng ấy. Ngược lại, những kẻ ngày đêm tìm kiếm vinh quang trần thế, họ cũng phải đau khổ, và vất vả lắm thế nên đâu còn giờ mà nghĩ đến hạnh phúc vĩnh cửu. Mà có nghĩ tới, chưa chắc họ dám đánh đổi cái mà họ đang có với cái mà Thiên Chúa hứa sẽ ban cho họ. Những kẻ đang nắm quyền chà đạp tự do, chà đạp nhân phẩm và chà đạp nhân quyền tại Việt Nam và một số quốc gia độc tài khác trên thế giới cũng vất vả và gian truân lắm, nhưng đó là cái giá mà họ mua lấy sự giầu sang, quyền lực trần thế. Sẵn lòng mất Thiên Đàng, mất phúc được làm con Chúa, mất đời đời vì một chút vinh quang chóng qua như vậy có phải là một bất hạnh lớn lao không?!!!
“Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương” (x. Luc 6: 20-23). Nếu vậy, bạn và tôi quả thật là những người hạnh phúc nhất đời. Chúng ta có đủ những lý do để được hạnh phúc. Chúng ta đang sống trong môi trường hạnh phúc. Bởi vì chúng ta là những người nghèo, những kẻ giờ đây đang sống trong cảnh đói, khát, lầm than. Hãy vui mừng và ngẩn đầu lên, vì Chúa đã chúc phúc cho chúng ta rồi. Chính ngài cũng đã sống và chấp nhận như vậy từ hang Bêlêm đến nhà Nagiaréth và trên thập giá ở núi Sọ.
25. Con đường dẫn tới hạnh phúc
Có thể vì quen thuộc quá nên chúng ta không nhận ra tính chất cách mạng của những lời giảng dạy này. Đó là một loạt những trái bom, mỗi câu là một lời thách thức. Các lời đó có tác dụng như điện lực, nó không phải chỉ là những ngôi sao im lặng, nhưng là những tia sáng chớp loè theo sau bằng những tiếng sấm bỡ ngỡ và kinh ngạc! Đúng ra đây là những tiêu chuẩn thông thường bị đảo ngược. Những người mà Chúa Giêsu kể là có phúc thì thế gian cho là vô phúc, và những người Chúa Giêsu coi là vô phúc thì thế gian lại coi là có phúc. Thử tưởng tượng rằng gặp một người nghèo túng mà lại bảo họ rằng: bạn có phúc quá! Và gặp một người giàu có lại bảo họ rằng: khổ cho bạn quá! Nói như thế chẳng khác nào tuyên bố rằng giá trị của trần gian đã cáo chung, chẳng còn gì nữa.
Vậy đâu là chìa khoá của việc đó, chìa khoá năm trong câu 24. tại đây Chúa Giêsu phán: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có vì các ngươi đã được phần thưởng của mình rồi!” Chúa Giêsu dùng từ “được” ở đây là chữ thường dùng khi nhận đủ số tiền trả cho một món hàng. Chúa Giêsu có ý nói rằng: “Nếu các ngươi đặt cả tâm hồn và nghị lực để tìm kiếm điều thế gian yêu chuộng, các ngươi sẽ được những điều đó, nhưng đó là tất cả những gì các ngươi sẽ được. Theo cách nói mạnh mẽ ngày nay thì quả các bạn đã thành đạt rồi đó.
Câu chuyện ông nhà giàu với Ladarô nghèo khó minh hoạ ý tưởng này. Bước sang ngưỡng cửa đời sau, bị đau khổ, nhà phú hộ xin được giúp đỡ thì nhận được câu trả lời của cụ tổ Áp-ra-ham: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi!” Phần phước ấy là: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.” (Lc16,25.19). Chỉ lưu tâm đến trần gian này, đầu tư tất cả vào đó, thì thật phải lẽ phần phúc cũng sẽ chấm dứt tại đây. Câu chuyện này cũng được hoạ lại qua câu chuyện phú nông “Người giàu kia trúng mùa, thu hoạch hoa lợi dư dật, kho lúa quá đầy, không còn chỗ chứa thêm, ông phải suy tính mãi. Cuối cùng ông quyết định: “Được rồi, ta sẽ phá nhà kho cũ, xây kho mới lớn hơn, như thế sẽ có đủ chỗ chứa tất cả của cải, hoa lợi. Xong xuôi, ta sẽ tự nhủ: của cải này có thể tiêu dùng trong hàng chục năm. Thôi, ta hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi!” Nhưng Thiên Chúa bảo: “Ngươi thật dại dột! Tối nay ngươi qua đời, của cải dành dụm đó để cho ai?”
Và Chúa Giêsu kết luận: “Người nào lo làm giàu dưới trần gian nhưng nghèo nàn trên Nước Trời cũng dại dột như thế.”
Nhưng trên một phương diện khác, nếu các bạn dùng hết tâm hồn và nghị lực để sống trung thành với Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu, các bạn sẽ gặp đủ thứ rầy rà, rắc rối. Đối với các tiêu chuẩn trần gian thì bạn vô phúc, nhưng thành quả của bạn đang đến, và khi nó đến, bạn sẽ có được vui mừng đời đời. “Nếu thế ghen ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó, nhưng vì anh em không thuộc về thế gian nên thế gian ghét anh em! Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (Ga 15,18-20) “Nếu ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14,27).
Tại đây chúng ta phải đối diện với một sự lựa chọn đời đời, đó là một sự lựa chọn quyết liệt và liên tục mãi cho đến khi chấm dứt cuộc đời. Chúng ta muốn chọn con đường dễ dãi, con đường đưa đến thú vui và lợi lộc ngay trước mắt? Hay chúng ta chọn con đường khó khăn, chỉ thấy đơn đau trước mắt? Chúng ta có bám víu lấy lạc thú và lợi lộc hiện tại? Hay chúng ta muốn dấn thân và hy sinh những điều đó vì những của quý báu hơn? Chúng ta chú tâm vào những phần thưởng của thế gian này hay chú tâm vào Chúa Cứu Thế. Nếu chúng ta chấp nhận đường lối của thế gian thì phải lìa bỏ những giá trị của Chúa Cứu Thế, ngược lại nếu chọn Chúa Giêsu thì bạn không thể không khước từ giá trị của trần gian.
Chúa Giêsu biết chắc chắn con đường nào dẫn tới hạnh phúc. Có người đã nhận xét: “Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ ba điều: Ho sẽ hoàn toàn không khiếp sợ, hạnh phúc cách vô lý và luôn luôn gặp khó khăn.” Chính Chúa Giêsu dạy rằng sự vui thoả thiên thượng sẽ thường bù gấp bội cho những đau khổ trần gian. Thánh Phaolô cũng nói: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4,17). Lời thách thức của các phúc lành ấy là: chúng ta muốn hạnh phúc theo đường lối của Thiên Chúa hay đường lối của thế gian? Và chắc chắn chọn gì được nấy!
Nguồn: http://gplongxuyen.org