Chúa Nhật 12/09/2021 – CHÚA NHẬT TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B. – Đấng Kitô chịu đau khổ.

Chúa Nhật 12/09/2021 – CHÚA NHẬT TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B. – Đấng Kitô chịu đau khổ.

"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".

 

Lời Chúa: Mc 8, 27-35

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê.

Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?"

Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.

Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.

Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".

Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN  B

Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35

 

1. Anh em bảo Thầy là ai?

(Trích trong ‘Manna’)

"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"

Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ

sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14),

sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.

Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi

sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài,

đã cầu nguyện và tham dự các bí tích...

"Còn anh, anh bảo Thầy là ai?"

Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.

Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.

Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm,

kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu.

Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.

Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng

để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.

Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.

Chúng ta chỉ mon men đến gần,

nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.

Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.

Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ.

Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.

Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài

để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.

"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa".

Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.

Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: "Thầy là Đức Kitô",

và hơn Phêrô: "Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa".

Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi

mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.

Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi,

Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.

Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.

Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối,

tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?

Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật,

tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?

Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt,

tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?

"Người ta bảo Thầy là ai?"

Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.

Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.

Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.

Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở,

nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.

Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.

Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.

Đức Giêsu đã nói: "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).

Chúng ta ao ước nói: "Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu".

Gợi Ý Chia Sẻ

"Đức Giêsu là ai?" Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.

Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con,

nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc

mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,

và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,

xin nhắc con nhớ rằng

trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,

xin nhắc con nhớ rằng

trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố

vì biết rằng cuối cùng chiến thắng

thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

 

2. Tưởng lầm

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ?

Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.

Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?

2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?

3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?

4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?

 

3. Thí mạng cùi

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

ĐGM. Louis Désiré Maigret là Vị Đai Diện Tông Tòa (Vicar Apostolic) tại Hawaii, nhận thấy nhu cầu cần một vị chủ chăn thường trú tại Trại Cư Trú dành cho người phong, nhưng Ngài ngại ngùng không dám ”nhân danh Đức Vâng Lời” để chỉ định, và bắt buộc một Linh Mục nào, chấp nhận “án tử hình”. Ngài muốn các vị chủ chăn tình nguyện cho việc tông đồ cao cả này.

Sau khi cầu nguyện tại Nhà Thờ Thánh Antôn, tại Đảo Maui, thì có bốn Linh Mục sẵn sàng tình nguyện thay phiên nhau lần lượt đi giúp Trại Phong Hủi. Cha Damien tình nguyện đi xung phong, ngày10 tháng 5/1873. Ngài còn tình nguyện ở lại luôn tại Trại để chăm sóc 816 bệnh nhân cà hồn và xác, không phân biệt tín ngưỡng. Năm đó, Cha Damien, mới 33 tuổi, và ngài được tiếng là “khoẻ như voi.”

Vào năm 1875, tự tay Ngài đã xây cất được sáu nhà Nguyện nhỏ, chăm nom y tế cho các bệnh nhân. Ngài đi từng nhà băng bó, phát thuốc và dạy cách giữ vệ sinh.. Tự tay đóng được 2000 quan tài, và tự mình chôn cất bệnh nhân trong “Vườn Kẻ Chết.” Ngài từ chối tước hiệu do chính quyền Hawaii ban tặng và tiền lương 10.000USD, vì cho rằng “can thiệp” vào việc Tông Đồ của ngài. Nhưng ngài vui lòng nhận những vật liệu do chính quyền cung cấp để xây một nhà riêng dành cho nam thanh niên và một cư xá cho nữ.

Vào năm 1876, Cha Damien, đã nhận thấy những vết khô trên da thịt, cảm thấy sốt nóng nơi chân, và mất hẳn cảm giác, khi đổ nước sôi trên chân trái, Ngài đã sống nhiều năm, tự chứng kiến cái chết đến với các bệnh nhân. Ngài không sợ chết đến, cũng không ngần ngại chấp nhận cái chết.

Ngày Chúa Nhật đầu tháng 6, năm 1885, Cha Damien dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Philomena do chính ngài đã xây cất. Sau khi đọc bài Phúc Âm, ngài quay về các bệnh nhân, và không nói những lời chào thưa như mọi khi: “Anh Chị Em thân mến,”nhưng ngài tuyên bố một câu làm rung động khắp Nhà Thờ và chấn động cả thế giới: ”Chúng Ta, những Bệnh Nhân Phong Hủi” (WE LEPERS)

Và ngày 15 tháng tư, năm 1889, lúc 8 giờ sáng, ngài tắt hơi thở cuối cùng, thọ 49 tuổi, nét mặt vẫn tươi vui ”như em bé đi ngủ” (*). Ngày 11 tháng 10, 2009, Đức Giáo Hoàng Bêneditô XVI, tại Đại Thánh Đường Thánh Phêrô, Roma, đã Phong Thánh cho Cha DAMIEN và bốn Vị Thánh khác.

Như vậy, Thánh Damien đã toàn tâm toàn ý theo chân Chúa, hoàn toàn tuân thù và vâng phục Lời Chúa: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8, 35)

Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiết lộ về thân phận Chúa Giêsu, cùng điều kiện theo Người. Tuy chỉ vỏn vẹn 9 câu, nhưng có đến 3 thái độ của Chúa đối với Tông đồ Phêrô, các môn đệ và dân chúng. Chúa đã tỏ ra vui mừng, tức giận và ôn tồn khoan dung.

1- Chúa khen

Chúa Giêsu lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô mau mắn trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29) Chúa liền vui mừng khen ngợi: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17) Liền theo lời khen, Chúa giải thích vì sao Tông đồ Phêrô lại nói rất đúng về Người. Đó chính là nhờ Đức Chúa Cha mặc khải riêng cho Phêrô điều huyền nhiệm đó.

2- Chúa la

Nhân vì điều mặc khải ấy, Chúa Giêsu thân mật loan báo cuộc khổ nạn sắp đến của Người, để các Tông đồ cùng hiệp thông chia sẻ. Nào dè, Tông đồ Phêrô quá sức nhiệt tình thương mến Thầy, liền kín đáo kéo Thầy ra can ngăn, phiền trách Người: “Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.” (Mt 16, 22) Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ đang dõi mắt trông theo, liền công khai la mắng Phêrô: Vade retro Satana! Satan xéo ngay đi!

Lời can ngăn chí tình thầy trò mà bị mắng nhiếc quá nặng lời. Bởi vì Chúa đồng hóa lời can ngăn đó, như lời cám dỗ của Satan trước đây trong hoang mạc, hòng phá hỏng công trình cứu thế. Do vậy, Chúa mới giận dữ, xung thiên nộ khí. Vô tình, ý ngay lành của Tông đồ Phêrô lại trùng khớp với ý đồ của Satan. Với cái nhìn thiển cận, với cái tâm hạn hẹp, loài người làm sao hiểu thấu nổi Thánh Ý cao cả.

3- Chúa dạy

Chúa vẫn biết tấm lòng thành của Tông đồ Phêrô, vẫn luôn yêu mến Thầy. Chẳng qua, Phêrô vẫn chưa hiểu thấu đáo sứ vụ của Người. Hơn nữa, theo tính xác thịt tự nhiên, thì ai mà chẳng ham sống, sợ chết. Nhất là cái chết ấy còn liên lụy đến bản thân mình, đến các môn đệ.

Chính vì thế, Chúa Giêsu mới ôn tồn giảng dạy cho các môn đệ và muôn dân về điều kiện theo Chúa. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34 – 35) Các Thánh Tông đồ sau này đều liều mạng sống vì Chúa để làm chứng nhân Tình Yêu.

Gần đây, Thánh Damien cũng thế, sẵn sàng đánh đổi cuộc đời vì Chúa và Tin Mừng. Ngài đã thí mạng cùi phục vụ tha nhân, không chút ngần ngại e dè. Mạng sống con người tuy cao quý, vì do Chúa tạo dựng, nhưng nếu phục vụ cho mục đích cao cả vì Chúa, thì trở nên phương tiện tốt lành để đổi lấy đời sau vinh phúc. Bằng không, chỉ lo phụng dưỡng tôn thờ cái bụng như Thánh Phaolô đã nói, thì cái thân xác rồi cũng dần hao mòn, chết đi và mục nát theo dòng thời gian, nào khác bị phung cùi hủy hoại.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ đam mê, từ bỏ tội lỗi, để sống theo Thánh Ý, theo Tin Mừng, để con khỏi bị Chúa khước từ, xua đuổi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn mãi đồng hành với con trên nẻo Đường Hy Vọng, để con cùng Mẹ, với Mẹ và nhờ Mẹ, vác thập giá theo chân Chúa trọn đời. Amen.

(*) Lm Đường Thi http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2010/01/03/nam-linh-muc-guong-hy-sinh/

 

4. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh , thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: "Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người" (Augustino, Enarr in Ps 90).

Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8,) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8,) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

 

5. Nhận biết Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

1) Nhận biết Đức Kitô

Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: "Chúa Giêsu là ai?" Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi: "Các con bảo Thầy là ai? " Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.

Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.

• Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;

• Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc song;

• Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;

• Người làm cho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;

• Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;

• Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện, Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loại cả xác lẫn hồn.

Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa "làm", chúng ta đi đến kết luận: "Người là Đấng Mêssia" (tiếng Hy lạp là: Đức Kitô)". Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, "Người ta bảo Thầy là ai?" Phần lớn trả lời "người làm việc " không hơn không kém các tiên tri trước Người. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai? " Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời: "Thầy là Đức Kitô! " Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một "sinh vật phải chết", cái chết của Chúa "gắn" liền với Thập giá; Người "giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc" của sự chết.

Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa: "Thầy là Đức Kitô". Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại" mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết: "Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ", Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.

Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.

Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như "chìa khóa" Chúa dùng để mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác "chìa khóa" nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô "chìa khóa" Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để "cởi trói" những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ "ràng buộc" họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.

2) Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh

Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.

Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn: Cả cuộc đời Người là một lời "xin vâng" không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời "từ chối" luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu: để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngai vàng của Người là cây Thập giá.

Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một: "Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo", vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.

Quả thật, Thánh giá là "hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại" (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.

Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu "hy sinh". Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen.

 

6. Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

 

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8,) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8,) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.

 

7. Số phận của Đức Yêsu -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

Căn tính của Đức Yêsu

Sau bao nhiêu lời giảng dạy và phép lạ đã thực hiện nơi người Do Thái, Đức Yêsu muốn biết dân chúng nghĩ sao về Ngài. Ngài hỏi các tông đồ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các tông đồ trả lời: “người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, người khác bảo là Elia, và người khác nữa thì nói thầy là một tiên tri nào đó”.

Đức Yêsu muốn biết lập trường quan điểm của các tông đồ: “còn các anh em, anh em nói thầy là ai?” Phêrô đã mau mắn đại diện các tông đồ trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Theo Đức Yêsu, Phêrô biết điều này không phải do tự sức con người của Phêrô, nhưng do được Thiên Chúa mặc khải.

Lời tuyên xưng của Phêrô có nghĩa gì? Từ ngữ “Kitô”, được dịch theo âm bởi chữ Hylạp “Khristos” (tiếng Anh và Pháp dịch là Christ), và rồi chữ “Khristos” tiếng Hylạp là dịch theo nghĩa chữ Massiah tiếng Dothái, có nghĩa được xức dầu. Từ ngữ “Con Thiên Chúa” cũng được dùng trong Cựu Ước; có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn những người công chính, các vị vua và ngay cả các thiên thần. Ngày nay các kitô-hữu đều nhận mình là con Thiên Chúa.

Từ ngữ “Con Thiên Chúa”, hiểu như người được Thiên Chúa sinh ra và đồng bản tính với Thiên Chúa, thì chỉ có Đức Yêsu. Tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa, là tuyên xưng “Đức Yêsu là Thiên Chúa”. Điều này người ta chỉ nhận biết sau khi Đức Yêsu phục sinh, và các tông đồ là những người đầu tiên nhận biết điều này.

Trước khi biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, thì chữ “con Thiên Chúa” theo người Do Thái chỉ có nghĩa là người đặc biệt, người luôn làm theo ý Thiên Chúa, người được Thiên Chúa yêu thương. Thế nhưng cho dù các Tin Mừng đề cập đến Đức Yêsu trước khi Ngài phục sinh, nhưng tất cả các Tin Mừng lại được viết sau biến cố Đức Yêsu phục sinh, sau khi các tông đồ đã nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, nên các nhà chú giải có khuynh hướng giải thích lời tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa của Phêrô như lời tuyên xưng thần tính của Đức Yêsu.

Đức Yêsu đã cấm các tông đồ loan báo điều các ông được mặc khải “Ngài là Đức Kitô”. Sở dĩ vậy vì dân chúng thời đó lại hiểu “Đức Kitô” theo một nghĩa khác. Trong lịch sử dân Do Thái, khi dân bị khốn khổ bị hà hiếp bị áp bức bởi dân tộc khác như thời ở bên Ai Cập, thời các thẩm phán, thời lưu đày, thì Thiên Chúa đã sai các vị “kitô” tới để giải phóng dân, chẳng hạn Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng dân khỏi Ai cập, sai các thẩm phán như Samson, Đêborah, và thời lưu đày đã sai Kyrô (Ys.45, 1) v.v.. Chính vì vậy Đức Yêsu không muốn các tông đồ nói điều này ra, vì như vậy, dân chúng sẽ tưởng Ngài là một vị “Kitô” chính trị, đến để giải phóng dân Do Thái khỏi bị người Roma đô hộ.

Đức Yêsu là ai? Phêrô đã đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng được xức dầu, được Thiên Chúa sai đến với con người, Thầy là Con Thiên Chúa. Thế còn đối với tôi, Đức Yêsu là ai?

Số phận của Đức Yêsu và số phận của tôi

Đức Yêsu đã bị bắt, bị đánh đập hành hạ, bị giết...!

Đức Yêsu, là Đấng Kitô, là Đấng thánh của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế mà Ngài bị khốn khổ như vậy sao? Ngài phải bị như vậy sao? Tại sao Ngài chấp nhận điều đó?

Ở vào địa vị của tôi, tôi sẽ làm gì? Tôi có hành xử như Ngài không?

Điều kiện để theo Đức Yêsu

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi.” Tôi tớ không lớn hơn chủ. Tôi tớ được bằng thầy là khá lắm rồi. Tôi thật sự có muốn làm môn đệ của Đức Yêsu không? Nếu tôi muốn làm môn đệ của Đức Yêsu, tôi có sẵn sàng chấp nhận số phận của Đức Yêsu là số phận của tôi không? Tôi có sẵn sàng chấp nhận thập giá mình không? Thập giá mình, là những giới hạn của con người tôi, những điều tôi không muốn về tôi nhưng tôi vẫn vậy, tôi có sẵn sàng chấp nhận, và sẵn sàng cậy dựa vào Thiên Chúa để Ngài làm tất cả cho tôi, để Ngài là tất cả cho tôi không?

Cách thế của Đức Yêsu là tự hủy, là chấp nhận con người, chịu đựng cả sự lạm dụng tự do của con người nữa. Ngài chỉ muốn dùng tình yêu để đánh động lòng người để họ nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, để họ trở về với Thiên Chúa, để họ nên giống Thiên Chúa, để họ là con Thiên Chúa thật sự.

Chúng ta là con Thiên Chúa, khi chúng ta suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương, con Thiên Chúa cũng phải sống yêu thương; Thiên Chúa nhân hậu và tha thứ, con Thiên Chúa cũng phải biết nhân hậu và tha thứ; Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc, con Thiên Chúa cũng muốn con người, và cụ thể là những người sống quanh mình được hạnh phúc.

Tôi có sẵn sàng chấp nhận con người của tôi, thập giá hằng ngày của tôi để bước theo Ngài không?

 

8. Tin và theo

Tin trước tiên là tin ở một con người. Không chỉ là biết con người đó là ai, biết một cách chung chung, khách quan theo lý lịch hay qua một sự điều tra có tính cách khoa học, mà chính là biết được người đó là gì đối với chính bản thân và cuộc đời của mình. Như thế, tin đích thực không chỉ là thái độ của trí óc mà còn là thái độ của con tim.

Trong lòng tin của người Kitô hữu, con người đó chính là Chúa Giêsu. Vì thế, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hỏi các tông đồ phải bình luận những điều Ngài giảng dạy đúng hay sai, cũng như nói lại những gì các ông đã thu hoạch được trong giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta thấy Ngài yêu cầu các ông nói lên chính Ngài là ai. Các ông đã lặp lại ý kiến của các người khác về Ngài, nhưng Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ, Ngài còn đòi các ông phải tự mình trả lời câu hỏi Ngài là ai.

Tin đối với người Kitô hữu, chính là tự đặt mình vào trong mối quan hệ với Đức Kitô và hành động theo những đòi hỏi của mối quan hệ này. Lòng tin của người Kitô hữu bao hàm một sự gắn bó với Đức Kitô như con đường của sự thật, của sự sống, bao hàm việc đi theo Ngài, dù phải ngang qua đau khổ và thập giá. Con đường Chúa Giêsu đã đi vốn là con đường thập giá. Như thế, chưa có thể gọi được là tin đích thực nếu như chưa có một sự biến đổi trong cuộc sống, chưa có những hành động kèm theo điều chúng ta tuyên xưng.

Phêrô đã bị quở trách một cách nặng nề, bởi vì, mặc dầu ông đã tuyên xưng đúng Thầy của mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, nhưng chẳng những đã không đi theo Thầy, mà còn muốn ngăn cản Thầy đi con đường của Thầy. Chỉ có thái độ sống hay hành động mới chứng thực cho sự chân thật của lòng tin.

Miệng nói mà chân tay không làm theo thì đúng là kẻ giả hình. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài gọi họ là những mả tô vôi. Nói một đàng, làm một nẻo, thì đúng là kẻ gian dối. Có những người rao giảng sự ưu tiên cho người nghèo, nhưng trong thái độ thì lại trọng người giàu, đi với người giàu, làm theo người giàu, và coi nhẹ người nghèo. Có kẻ lập luận thì xem ra tiến bộ lắm, nhưng hành động thì lại đầy tính cách bảo thủ, cha chú, độc đoán.

Những trường hợp như thế là một kinh nghiệm thường ngày của chúng ta và phải là một lời cảnh cáo đối với mọi người. Một Phêrô cản ngăn Thầy mình đi Giêrusalem ngay sau khi tuyên xưng lòng tin nơi Thầy như đang còn tiềm ẩn trong thẳm sâu cõi lòng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.

 

9. Nói và làm

Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.

Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.

Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.

Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.

Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.

Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:

Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.

Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.

 

10. Về phần con, con bảo Thầy là ai? -- Lm. Ignatiô Trần Ngà

Hôm ấy, "Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27-28)

Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.

Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29)

Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: "Về phần con, Thầy là ai đối với con?"

Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ."

Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: "Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác."

Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: "Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người... Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!"

Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: "dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta." (Mc 7,6)

Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.

Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một "Đức Kitô vinh thắng" chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một "Đức Kitô nhẫn nhục" hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại." (Mc 8,31)

Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. "Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình."

Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.

Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:

"Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý". (Thư gửi bà Von Vizine)

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:

Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.

Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.

 

11. Người ta bảo Thầy là ai? -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu". Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.

Quyển sách "cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu" mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.

Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.

Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.

Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.

Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.

Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.

Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.

Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình...

Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.

Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.

Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?

Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.

 

12. Con người ngày nay nói Đức Giêsu là ai? -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Những nhà đạo đức hôm nay dường như không bằng lòng với cách suy nghĩ và hành động của đa số các bạn trẻ về tôn giáo. Bởi vì cách biểu hiện hành vi thờ phượng của họ có vẻ phàm tục nhiều hơn là thánh thiêng.

Nếu hỏi họ lý do nào bạn tới Nhà Thờ và Chùa Chiền, ta sẽ nhận được nhiều câu trả lời đại loại như: “đi nhà thờ, chùa để gặp gỡ nhiều người, đi lễ để có dịp mặc áo mới, tích cực một chút là đến nhà thờ thấy tâm bình an hơn". Ngược lại có người lại bảo theo đạo là tại tâm. Đi lễ đi chùa không quan trọng mà quan yếu là sống tốt là được . . .Họ cho rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng. Và theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật...

Có một lần nói chuyện với một người bạn, tôi hỏi: “Theo bạn, tôn giáo nào tốt nhất?”.

Tôi nghĩ bạn ấy sẽ nói: “Thiên Chúa giáo” là tốt nhất. Nhưng anh bạn ấy trả lời: “Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Quả thực, một tôn giáo tốt là phải biến các môn sinh thành những con người biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.

Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và cũng là hỏi từng người chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chứ không ép buộc. Nhưng đã tin theo Ngài thì phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.

Đây là đòi hỏi của Tin mừng nhưng lại vượt sức của con người, nếu không có ơn Chúa thì con người sẽ khó có thể vượt qua những đòi hỏi gắt gao này. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: “ai bước đi theo Thầy sẽ không phải chết đời đời”. Đây là điều để các ngài dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ngài đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển noi quê trời.

Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?

Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Xin cho những người tin vào Chúa biết sống biểu lộ niềm tin của mình qua đời sống công bình, bác ái và yêu thương. Amen.

 

13. Tình bạn là mãi mãi -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thành ngữ Việt Nam có câu: "Giàu vì bạn, sang vì vợ". Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. Con người ai cũng cần một người bạn tri kỷ để có thể chia sẻ vui buồn có nhau, và nhất là để giúp nhau vượt qua khó khăn. Một người bạn chân thành không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.

Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh 10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4 ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.

Tình bạn chân thật thì luôn có nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì, như ai đó đã nói:

“Lẽ nào vay mà không trả?

Sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình.”

Các môn đệ năm xưa đi theo Chúa. Chắc chắn các ngài đã được Chúa yêu thương đùm bọc. Chúa Giêsu còn coi các môn đệ là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ. Các môn đệ đã được cùng chia sẻ niềm vui hạnh phúc với Chúa trong những lúc thành công trên đường truyền giáo.

Hôm nay, Chúa đòi các ông thể hiện tình bạn với Chúa không phải lúc Chúa được tung hô khi hóa bánh ra nhiều, hay khi cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chúa đòi các môn đệ thể hiện tình bạn trên chặng đường thập giá để tới Núi Sọ. Chúa bảo rằng: “Ai muốn theo Thầy, thì phải vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy”. Khi dám theo Chúa trên con đường thập giá thì Chúa sẽ ban phần thưởng sự sống đời đời cho họ. “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống”.

Nhưng xem ra tình bạn chân thành với Chúa chẳng mấy ai! Khi Chúa đi vào vườn cây Dầu đã chịu cảnh cô đơn một mình. Các bạn bè Chúa vẫn ngủ mê. Khi Chúa bị bắt trói thì các môn đệ mạnh ai nấy chạy. Khi Chúa bị dẫn vào dinh Cai-pha thì Phê-rô trối Chúa 3 lần. Khi Chúa vác thập giá lên Núi Sọ chỉ còn một mình Gioan bước theo xa xa.

Xem ra tình bạn với Chúa chỉ có khi nhận được ân huệ của Ngài. Tình người thật hay thay trắng đổi đen. Thế nên, cuộc đời vẫn còn đó những người tôn thờ Chúa khi giầu sang, khi làm ăn thịnh vượng nhưng rồi họ bỏ Chúa khi làm ăn thất bại nợ nần. Cuộc đời vẫn còn đó những người theo Chúa chỉ để mong được sống sung sướng, và rời xa Chúa khi mộng ước của họ không thành.

Xem ra Chúa Giêsu vẫn cô đơn trong dòng đời hôm nay. Ngài rất cần một người bạn tri kỷ như Gioan để đứng bên Chúa khi khó khăn. Ngài vẫn cần sự đồng cảm như Madalena để đi theo Chúa trên đường thập giá.

Ước mong mỗi người chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách sống, cách nghĩ của mình với Chúa. Hãy đến với Chúa không phải vì bổng lộc mà vì tin tưởng vào quyền năng của Chúa để phó thác cho Chúa. Hãy ở lại bên Chúa dầu cuộc sống còn nhiều những khó khăn. Hãy vác thập giá theo Chúa dầu thiệt thòi đời nay nhưng Chúa sẽ ban thưởng cho ta bằng nhiều cách khác nhau, nhất là hạnh phúc thiên đường. Amen.

 

14. Đức Kitô.

Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.

Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.

Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.

Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.

Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.

 

15. Tuyên xưng Thiên Chúa tình thương trong đời sống

Môn đệ theo Chúa Giêsu được tuyển chọn đặc biệt, được yêu thương cách riêng. Các ông đã đi theo Chúa Giêsu nên đã từng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến nhiều phép lạ... Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu cho các ông làm bài kiểm tra, để tỏ ra lòng tin, mến mức độ nào đối với Chúa Giêsu.

Thoạt tiên, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò xem người khác nói về Ngài như thế nào? Ngài hỏi họ "người ta bảo Con Người là ai?". Nhiều ý kiến khác nhau: "Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó" (Mc 8, 28). Như thế, dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi Con Người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng điều quan trọng không chỉ biết đúng mà còn phải biết đủ về Chúa Giêsu nữa: "Ngài chính là Con Thiên Chúa thật làm người thật".

Dân chúng đã nhận định về Chúa Giêsu như thế. Bây giờ đến lượt các tông đồ, Chúa Giêsu muốn các ông trả lời cách xác tín về Ngài và về sứ vụ của Ngài nên Ngài hỏi: "Các con nói Thầy là ai?". Đứng trước câu hỏi này, các ông không ngỡ ngàng lắm vì họ đã sống với Ngài lâu rồi, thấy nhiều phép lạ rồi, nghe giảng nhiều rồi. Đây là dịp để các ông bày tỏ niềm tin vào Ngài thôi. Vì thế, Phêrô thay mặt anh em trả lời với Chúa Giêsu: "Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống" (Mc 8, 29). Câu trả lời này của Phêrô làm cho Chúa Giêsu rất hài lòng. Phải, Thầy là Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo, mà muôn dân đợi trông. Thật thế, chính những người bệnh tật được Ngài chữa lành, người chết được ngài cho sống lại, kẻ tôi lỗi được ngài tha thứ và ban bình an, niềm hạnh phúc thật sự, hết mọi người được nghe loan báo...Tất cả những dữ kiện đó há chẳng phải của Đấng Thiên Sai, chẳng phải được ban trong thời Thiên Chúa cứu độ mà các tiên tri loan báo (x. Lc 4, 18 - 24). Không những Ngài trao ban cho họ sự sống thể lý, vật chất mà Ngài còn trao ban cho họ chính sự sống của Ngài, sự sống thần linh, sự sống đời đời, sự sống mà chỉ có Thiên chúa là chủ tể sự sống mới có và trao ban được mà thôi. Quả thật người Do Thái thời Chúa Giêsu quá hạnh phúc vì chứng kiến và thừa hưởng tình thương, ân sủng và ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách tỏ tường. Chính vì thế mà Phêrô tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống"

Đến lượt chúng ta, ngày nay Chúa Giêsu đang cần chúng ta trả lời, trả lời Ngài là ai trong đời sống hằng ngày sống giữa anh chị em chúng ta? Hẳn thật đây là câu hỏi giúp chúng ta kiểm điểm niềm tin và thái độ sống của mình. Có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Và chúng ta đáp trả lại như thế nào?. Hơn nữa, cách sống của chúng ta có làm người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không? Chúng ta đã thật sự sống vai trò của người môn đệ, của người thụ ơn Thiên Chúa. Chúng ta có dám rao giảng và can đảm làm chứng có Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này, trong bản thân mỗi người chúng ta chưa? Chúng ta có thật sự sống trao ban tình thương mà chúng ta đã nhận lãnh hết từ ơn này đến ơn khác của Thiên Chúa chưa? Thật thế, sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, chúng ta hãy thể hiện cho người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không, là người được Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hãy can dảm và sẵn sàng yêu thương như Chúa yêu bởi vì chúng ta nhìn nhận rằng: tất cả những gì tôi có đều nhờ bởi ơn Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin mạnh mẽ vào Ngài và can đảm sống chứng nhân về tình yêu thương của Ngài giữa đời trong cuộc sống chúng con đang hiện diện với mọi người. Amen.

 

16. Đau khổ.

Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.

Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.

Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.

Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.

Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.

Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.

Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.

Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.

Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.

 

17. Con Người là ai? - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Trong bài Tin mừng này, thánh Marcô trình bày cho ta thấy có ba mức độ nhận biết về Đức Giêsu.

1. Mức độ của dân chúng: Họ nhận thấy Đức Giêsu là một tiên tri như Gioan tẩy giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri hay Ngôn sứ là người được Thiên Chúa trao cho một nhiệm vụ, tuyên bố một việc gì sẽ xảy ra, một điều gì về Thiên Chúa, hay một sự gì Chúa sẽ làm cho dân, cho loài người. Để nhận biết đó là vị tiên tri của Thiên Chúa, Chúa thường cho ông có quyền làm một ít việc lạ lùng như chữa bệnh, khiến mưa nắng … Vì thế, người ta đến với tiên tri để nghe lời Chúa thì ít, để xin chữa bệnh, xin ơn cứu con, cứu mình khỏi tai họa thì nhiều. Cũng thế, chúng ta nghe lời Chúa thì ít, mà xin ơn này ơn kia thì nhiều.

Dân chúng coi Đức Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Người để cầu khấn hơn là tin lời Người. Họ xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại, như vậy, họ đến với Đức Giêsu vì ích lợi cho họ, không vì theo Chúa. Họ ích kỷ, vị kỷ, không có lòng vị tha, xả kỷ. Họ giống như kẻ theo đạo kiếm gạo mà ăn, cầu lợi, cầu phúc. Không được lợi, được phúc là chán, rồi bỏ đạo.

Những kẻ như thế, không thể nhận ra Người là Đấng Kitô.

2. Mức độ thứ hai của các môn đệ nhận biết về Đức Giêsu: Khi Đức Giêsu hỏi: “Các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Trước cộng đồng hội đường Nagiareth, Đức Giêsu đã xác nhận lời ngôn sứ Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc. 4, 18. xem Is. 11 và 61, 1-2 và 1V. 19, 16). Đức Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Người siêu việt, sự việc Người đã lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv. 11 và 12).

Phêrô và các môn đệ đã nhiễm lây quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế, nên khi thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ hai môn đệ Gioan và Giacôbê đến xin cho con mình: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Người ra và can ngăn Người đừng dại dột thế. Đức Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 22-23).

3. Mức độ thứ ba nhận biết về Đức Kitô: Chính Đức Giêsu đã dạy các môn đệ nhận biết về Đức Kitô ở mức độ này: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại. Người nói rõ điều đó và không úp mở”.

Đó là sứ mệnh cốt yếu của Đức Kitô: Hy sinh khiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga. 3, 16-18. 15, 13).

Chỉ có con đường hy sinh như thế mới chứng tỏ tình yêu vô cùng quảng đại và vị tha, mới cho ta thấy được Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Còn những con đường cầu lợi, cầu danh, cầu vinh trần gian chỉ là giả dối, ích kỷ, hẹp hòi. Cho nên, không lạ gì, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta phải tin vào con đường tình yêu hy sinh xả thân đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

Đó là thứ “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Không một thánh nhân nào mà không để cho Thánh Thần nung nấu. Không một vĩ nhân nào mà không trải qua gian nan.

Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm thấm thía thánh giá của Đức Kitô trên đỉnh đồi Canvê, nhờ thế các ông đã vác thập giá của mình cho đến hơi thở cuối cùng trên đỉnh đồi Vatican.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã trả lời cho con biết: Người là Đức Kitô đã hy sinh chịu đau khổ, chịu chết vì con. Xin cho con biết trả lời cho Chúa: Con là Kitô hữu đang vác thập giá mình mà theo Chúa, chứ không phải là thứ môn đệ chỉ xin ngồi bên tả, bên hữu, chỉ đòi vinh quang cầu lợi, cầu phúc, cầu cứu mạng sống mình mà chẳng biết hy sinh chút nào! Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận biết Người là ngôn sứ để con lắng nghe lời Chúa, chứ không phải để cầu lợi, cầu phúc. Người là vua để cai trị lòng con, chứ không để xin địa vị danh vọng. Người là Đức Kitô chịu chết trên thánh giá, để con được vác thập giá theo Chúa, chứ không để cứu mạng con ở đời này.

 

18. Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa nào? -- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Đã đến lúc Chúa Giêsu cần làm một cuộc thăm dò dư luận (kiểu mini bỏ túi) để biết quan điểm của dân chúng và đặc biệt là của các môn đệ thân tín về căn tính đích thực của Ngài. Dân chúng xem ra còn hoài nghi nên có nhiều ý kiến trái ngược.

Một số người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả. Dựa vào đâu mà họ quả quyết như thế? Họ dựa vào sự kiện Chúa Giêsu cũng làm phép rửa và cũng kêu gọi người ta sám hối như Gioan. Câu trả lời của họ đúng hay sai? Chỉ đúng 1/4.

Một số khác lại nghĩ rằng Chúa Giêsu là Êlia. Tại sao lại là Êlia? Chúa Giêsu có điểm nào giống Êlia? Vì Chúa Giêsu cũng là người hay làm phép lạ như Êlia đã từng làm. Lời khẳng định của họ đúng hay sai? Đúng nhưng cũng chỉ mới đúng 1/4.

Một số khác nữa lại khẳng định Chúa Giêsu là một ngôn sứ đại loại như bất kỳ một ngôn sứ nào khác. Vì sao? Vì họ thấy Chúa Giêsu cũng nói lời của Thiên Chúa, nói nhân danh Giavê Thiên Chúa mà thôi. Khẳng định này cũng chỉ đúng có 1/4.

Đến đây thì Chúa Giêsu muốn nghe một ý kiến khác, ý kiến của chính các môn đệ là những mgười đã từng sống gần gũi thân mật với Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ tuyên xưng cách mạnh mẽ và dứt khoát rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu chờ đợi từ lâu, và cũng là câu trả lời làm hài lòng Ngài nhất.

Tuy nhiên xét cho cùng thì câu trả lời này cũng chỉ đúng 1/2, tức là mới chỉ đúng một nửa. Đúng về mặt danh xưng, tức là tước hiệu của Đức Giêsu: Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đấng Kitô nghĩa là Đấng thiên sai đến để hoàn tất lịch sử mà mọi người trông đợi. Nếu chỉ dựa vào khía cạnh này mà cho điểm, có lẽ Phêrô sẽ được điểm tuyệt đối, điểm 10/10.

Còn hiểu về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu thì Phêrô bị lãnh điểm zêrô. Vì ông đã hiểu sai hoàn toàn về cách thức cứu thế, về phương thế cứu độ mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Trong tâm thức của Phêrô và của đại đa số dân chúng thì họ vẫn mong đợi một Đấng Cứu Thế uy nghi ngự giá mây trời mà đến như sứ ngôn Đaniel đã loan báo. Họ vẫn trông chờ một Đấng Thiên Sai Vua theo kiểu trần thế, đấng đến làm cách mạng lật đổ ách thống trị của Rôma và tái lập một Israael hùng cường. Nói khác đi, họ vẫn còn quan niệm một Đấng Mêsia đến để thống trị hơn là để phục vụ.

Đâu là lý chứng khẳng định Phêrô đã sai về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu? Lý chứng đó là Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách khi ông căn ngăn Chúa về con đường cứu thế mà Ngài sẽ đi. Chúa Giêsu quở trách ông là Satan. Ngài cũng điểm chỉ cho Phêrô thấy rằng tư tưởng của ông là tư tưởng của người trần mắt thịt chứ không phải là của Thiên Chúa.

Thế thì con đường cứu thế mà Chúa Giêsu sẽ đi là con đường nào? Đó là con đường đau khổ, con đường thập giá: "Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại". Đó là con đường của người tôi trung mà ngôn sứ Isaia đã loan báo như chúng ta vừa nghe trong bài đọc I. Đó là con đường phục vụ, con đường hiến dâng: "Ta đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người". Con đường đó cũng là con đường mà tất cả những ai muốn theo Ngài sẽ phải đi: "Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo"...

Hôm nay Đức Kitô đối với tôi là ai? Phải chăng Ngài chỉ là một thần tượng như bao thần tượng khác, hay khá hơn Ngài chỉ là một siêu nhân? Nếu tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất đã đi con đường thập giá tử nạn, con đường hi sinh phục vụ, thì tôi cũng phải đi con đường ấy. Vậy tôi đã chọn lựa con đường mà Chúa Giêsu đã đi hay chưa? Và nếu tôi đã dứt khoát lựa chọn rồi, thế thì tôi đã can đảm bước theo Ngài chưa hay còn chần chừ e sợ?

 

19. Chúa Nhật 24 Thường Niên.

Anh chị em thân mến

Có một đoàn lữ hành đặt biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẵng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bổng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàn thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vát Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.

"Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?" Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" -- "Thầy là Đức Kitô". Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Oâng cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Oâng theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".

Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.

Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.

Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mĩm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất". Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.

Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.

 

20. Đau khổ --Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Đây là một điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn theo Chúa. Và ai muốn theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là vác thập giá. Vác thập giá nghĩa là thế nào?

Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: "Đời là thung lũng nước mắt". Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.

Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hít-le đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia.

Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.

Vấn đề đau khổ, ai sẻ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: "Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp". Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn ngườichết. Bản án còn vang lên: "Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi". Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.

Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: " Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo". Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: "Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

 

21. Đức Kitô là ai? Tôi là ai?

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Nhóm 12, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến lúc Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thư nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất thôi.

Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.

Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.

Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20/07/1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?”, và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.

Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong qua khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.

Câu hỏi thứ hai, đối mọi người, tôi là ai? Trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo hoàng Gio-an XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.

Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?

Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ với bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.

 

22. Nói không với chính mình - AM Trần Bình An

“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi:

- Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)?

- Tôi thưa: Có.

- Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?

- Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.

- Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.

- Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi.

Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:

- Tôi không được phép nói.

Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng:

- Ông có tôn trọng chính quyền không?

- Có - luật đạo chúng tôi dạy điều ấy.

Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.

Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng "chính quyền" không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi 'có tôn trọng luật pháp không', thì tôi thưa khác".

- Ông thưa khác thế nào?

- Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.

- Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên:

- Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng:

- Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không?

Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng:

- Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.

Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng:

- Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?

Tôi cũng dằn từng tiếng:

- Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.

- Thế nào là không hợp với lương tâm?

Tôi ví dụ:

- Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.

Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…" (trích Hồi Ký của Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Phần Ba)

Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi: “"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” Theo nhà chú giải Kinh Thánh, William Barclay, thì nguyên cụm chữ “từ bỏ mình” có thể được hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong nguyên văn là “hãy nói không với chính mình.” Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Đức cố Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã can đảm, khẳng khái nói không với chính ngài, để bảo vệ Tin Mừng được nguyên vẹn và thánh thiện tinh tuyền.

Nói không với bản thân

Kẻ nội thù trong mỗi người mới chính là kẻ thù dữ dội, khắc nghiệt nhất, hung hăng, ngoan cố nhất. Người ta có thể dễ dàng đánh thắng kẻ thù bên ngoài, nhưng lại dễ dàng chịu thua kẻ nội thù, đặc công ẩn náu ngay trong tâm can, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình.

Bản năng sinh tồn chính là một kẻ nội thù, dễ dàng nghiễm nhiên trở thành ông chủ thân xác, chi phối hoàn toàn mọi hoạt động tinh thần, tình cảm lẫn hành vi ứng xử, giao tiếp thường nhật. Nếu không bị hạn chế quyền lực, thì kẻ nội thù này luôn tăng trưởng ngày thêm mạnh mẽ, hung bạo. Được voi đòi tiên. Chẳng bao giờ ngừng đòi hỏi được phục vụ. Bản năng bất chấp đạo lý, luật lệ. Vị kỷ, vị lợi, vô cảm với tha nhân đau khổ, đói khát, bệnh hoạn, cùng cực. Ăn no rồi đòi ăn ngon, có áo mặc rồi đòi mặc đẹp. Có nhà rồi đòi biệt thự xa hoa. Dứt khoát nói không với thân xác hưởng thụ, cũng như nói không với những dục vọng thấp hèn.

Đức Giêsu khuyên đừng quá nặng lòng với nhu cầu căn bản, mà hãy phó thác vào Chúa Quan Phòng, để sống công chính, tìm đến Nước Chúa: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 31-33)

Nói không với cám dỗ

Hai cám dỗ thông thường và phổ biến nhất trong cuộc đời mỗi người là tiền và tình, đã khiến bao người khốn đốn, lao đao quỵ ngã. Đức Giêsu đã ân cần cảnh báo và khuyên nhủ mọi người hãy dứt khoát nói không với đam mê tiền của: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó, sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12, 20-21)

Người cũng thật gay gắt nói không với tình: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. “ (Mt 5, 29-30)

Nói không với đời

Với đời, ai cũng muốn tìm kiếm danh phận, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Nhưng Đức Giêsu khuyên ai muốn theo Người, thì hãy nói không với những phù vân nhất thời chóng qua, như bóng câu qua cửa sổ, như bóng mây qua thềm. Với Người, quyền hành lãnh đạo không phải để lạm dụng, vụ lợi cho mình, cho gia đình, thân nhân mình, mà để phục vụ mọi người: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".(Mc 9, 35)

Nói không với đời là không bon chen, đua đòi, chạy theo những giá trị nhất thời của thế gian, mà dám lội ngược dòng, quyết vâng theo Bát Phúc của Đức Giêsu: “Nghèo khó, hiền lành, đau khổ, thiện tâm, bác ái, trong sạch, nhân hòa và chịu bách hại.”

“Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta hãy…(Mt 10, 38) Đường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở.” (Đường Hy Vọng, số 63)

Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội, chúng con được trở thành con chiên của Chúa, được phúc nhận biết Chúa, được nghe Chúa dạy bảo và mời gọi qua Tin Mừng, nhưng chúng con còn quá nặng nề xác thịt, còn mãi vương vấn, đắm đuối theo thế gian. Xin ban cho chúng con yêu mến Chúa tha thiết nồng nàn hơn, để có thể từ bỏ mình, vác thập giá, mà quyết tâm theo Chúa đến cùng.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con can đảm, dám nói không với chính mình, để noi theo gương Mẹ, thân thưa hai chữ “Xin Vâng”, đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.

 

23. Vác thập giá theo Chúa

(Suy niệm của Thiên Quang, SSS)

Ông bà chúng ta vẫn thường nói “Hạnh phúc thì ít ỏi, đau khổ thì triền miên, đã vậy khi hạnh phúc tới đâu có ai biết mà đón nhận, chỉ đến khi qua rồi thì mới biết đó là hạnh phúc!"

Đối với các kitô hữu thì được nhắc nhở “Ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy”, hay một cách rõ nét hơn khi muốn đạt tới đỉnh vinh quang thì Chúa đã nhấn mạnh “Ai muốn theo Ta, thì phải vác thập giá mình mà theo”…

Điều nhấn mạnh này thật là rõ nét khi ta nhìn lại trường hợp của Thánh Phêrô, sau khi ngài được Chúa Giêsu trao quyền lãnh đạo Giáo Hội, ngài thắc mắc về trường hợp của thánh Gioan, Chúa liền trả lời “Sự việc đó có can gì đến anh, phần anh, anh hãy theo Thầy”

Quả thật, đúng là như vậy, một vòng tròn của cuộc đời mỗi người dù được diễn ra như thế nào thì cũng phải đi qua cái ải đã sắp sẵn “sinh , bệnh, lão, tử..”, mới nhìn sơ qua là ta đã thấy bóng dáng của thập giá rồi! đâu có gì là thảnh thơi, là vinh quang đâu? Vì thế mới có chuyện “người giầu cũng khóc!”

Do đó, phong ba bão táp hoành hành con người là một chuyện đương nhiên, chẳng có gì lấy làm lạ. Biết vậy, để khi ta đối diện với mọi mặt của cuộc đời ta có thái độ gì?, vì điều quan trọng không phải là tìm cách loại bỏ chúng, mà là cách ta phản ứng, đối phó với chúng?

Chính vì vậy, ta đừng có vội mừng khi ta thoát được gánh nặng quá ghê gớm này! Hay nghĩ rằng đời ta bắt đầu lên hương khi thoát được cái nạn khổ cực ấy! Không đâu, khổ nạn của thập giá mà đời ta phải vác vẫn còn đó, và chúng mãi theo ta cho tới khi chết như Đức Giêsu ngày xưa ở trên Núi Sọ

Để cuộc đời của ta đạt được sự hoàn hảo trọn vẹn, ta đừng quên là từng bước đường qua đi trong mọi hoàn cảnh đều là những bài học quý báu giúp ta vững bước trên đường tương lai, có điều là bài học đó được ta trả giá như thế nào, càng đắt thì càng đau thì càng nhớ mãi, nhớ hoài. Nên nhớ trong cuộc đời này không có gì là không có giá của nó!

Bởi vậy, cho dù trong cuộc sống có gặp phải đau thương, khốn khó, gian nan muôn trùng… ta đừng có than vắn thở dài, hay thất vọng, để đi đến chỗ đầu hàng, bỏ cuộc, khoanh tay nhìn cuộc đời lặng lẽ trôi qua!!! Trái lại, chính những lúc ấy, ta luôn nhìn lên cao cậy nhờ vào ơn trợ lực của Chúa mà cố gắng, can đảm mạnh mẽ vác thập giá đời mình cho tới núi Sọ cùng với Đức Giêsu Đấng Cứu Độ, và cắm thập giá của mình bên cạnh thánh giá của Ngài, để rồi ta hy vọng được lãnh nhận phần phúc cao cả vô biên của Đức Giêsu như tên trộm lành, như viên sỹ quan ngoại giáo… ngày xa xưa ấy.

 

24. Thần tượng của ta là ai? – Lm. Anmai, CSsR

Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa thần tượng.

Người thích đá banh thì chọn cho mình người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong cõi đời này.

Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người ta tưởng.

Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.

Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về Thầy: "Người ta nói Thầy là ai?". Các môn đệ đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó". Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: "Thầy là Đấng Kitô".

Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.

Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.

Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".

Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:

Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,

còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.

Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,

giơ má cho người ta giật râu.

Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.

Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.

Ai tranh tụng với tôi?

Cùng nhau ta hầu toà!

Ai muốn kiện cáo tôi?

Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

ai còn dám kết tội?

Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.

Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải ở môi miệng nhưng ở hành động: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.

Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ dừng lại ở lời tuyên tín.

Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng. Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.

Những lời yêu thương, những lời trao nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.

Và với con người bất nhất đó, chúng ta cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn...

Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân thôi.

Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình. Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.

Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.

 

25. Tin và vác thập giá theo Đức Kitô -- Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng

Tin Mừng Mc 8: 27-35  Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho đời người. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Chúa, vì Tin mừng thì cứu được mạng sống.

Mầu nhiệm Thương khó là mầu nhiệm khó hiểu nhất, một mầu nhiệm tạo nên nghịch lý cho đời người. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Chúa, vì Tin mừng thì cứu được mạng sống. Tin vào Đức Kitô thì dễ, nhưng bước theo Người trên đường Thương khó thì lại không dễ dàng. Cuộc đời Kitô hữu được mời gọi thông phần vào cuộc Thương khó Tử nạn của Đức Kitô để rồi được chung hưởng vinh quang Phục sinh với Người.

I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 8,27-35.

Bản văn Tin mừng được chọn đọc ghi lại lời tuyên xưng của Phêrô, lần loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và những chỉ dụ về điều kiện phải có để theo Người. Đây là đoạn văn chiếm một vị trí quan trọng trong Tin mừng theo Marcô, được dùng làm bản lề cho hai phần của toàn bộ tác phẩm: Phần I: 1,14-15 đến 8,26, trình bày dưới nhiều hình thức sự kiện bí mật về Đấng Mêsia ; Phần II: từ 8,27 đến 15 39, trình bày mạc khải cũng như giải thích về bí mật ấy.

1. Lời tuyên tín của Phêrô (8,27): "Thầy là Đấng Kitô": Việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ về sự hiểu biết Người của quần chúng không phải vì Người không biết họ nghĩ gì về Người, nhưng đây là đường lối, cách thức giáo dục của Chúa Giêsu để dẫn dắt các ông đến mạc khải: Người là Đấng Mêsia, Đấng Kitô. Người hỏi trực tiếp các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?". Phêrô thay mặt các bạn trả lời, một câu trả lời vượt xa sự hiểu biết của dân chúng. Điều dân chúng hiểu biết về Chúa Giêsu không phải là sai, nhưng chưa đầy đủ, họ chỉ nhận ra được tính cách siêu việt nơi con người Giêsu Nadarét, chứ chưa thể biết rõ Người là Đấng Kitô. Lời tuyên tín của Phêrô bộc lộ niềm tin căn bản của các ông, của Giáo hội sơ khai, dẫu rằng khi tuyên xưng điều này chính bản thân Phêrô cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Kitô, cũng như con đường Thương khó Chúa Giêsu thực hiện. Vì thế, ngay sau đó ông đã ngăn cản Chúa khi nghe Người loan báo về cuộc khổ nạn.

2. Lời loan báo về cuộc khổ nạn: Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Người. Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu, Thầy mình là Đấng Kitô, nhưng ông chưa hiểu rõ, hiểu hết ý nghĩa của danh xưng Kitô. Ngược với niềm trông đợi của loài người và của dân Do Thái, Đấng Kitô không chỉ là một vị vua quyền thế, nhưng cũng là một con người khiêm nhu tự hạ và đau khổ. Người đến từ Thiên Chúa nhưng lại hòa mình vào trong lòng nhân loại mang lấy những khía cạnh đen tối nhất của kiếp nhân sinh: bị bỏ rơi, đau khổ, chịu nhục mạ, bất công… và kết thúc là cái chết. Lời tuyên xưng của Phêrô và của mọi Kitô hữu sau này không phải là sai, đó là công thức hoàn toàn chính xác, nhưng tự thân người tuyên xưng chưa xác tín rõ ràng tước vị Kitô cũng bao hàm đau khổ, nhục nhã và sự chết. Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn để bổ túc cái nhìn, niềm tin của các môn đệ về Người. Đó là đường lối thánh ý của Chúa Cha muốn như thế, và Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục. Do đó, khi Phêrô ngăn cản Chúa, thực chất là bị ma quỷ xúi giục để lôi kéo Người không thi hành thánh ý Chúa Cha, như chúng đã rắp tâm làm điều này khi cám dỗ Người vào lúc Người bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa Giêsu khiển trách Phêrô đã bị Satan lôi kéo cám dỗ: "Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa mà chỉ biết việc loài người".

3. Những chỉ dụ về các điều kiện theo Chúa Giêsu: Lời mời gọi từ bỏ, vác thập giá và thí mạng sống là một lời mời gọi đầy nghịch lý, thậm chí là vô lý nếu chỉ xét trên bình diện con người. Nhưng trên bình diện đức tin và trong mầu nhiệm vượt qua lại là điều hoàn toàn xác đáng. Trước hết phải từ bỏ mình, nghĩa là tự ghét mình (tc. Lc 14,26 ; Ga 12,25). Từ bỏ mình cách cụ thể là liều mất mạng sống của mình đi vì Chúa, vì Tin mừng. Điều kiện thứ hai là vác thập giá mình theo Chúa, nghĩa đen là tự mình vác dụng cụ khổ hình dành cho mình đến pháp trường, con đường đến pháp trường như thế bao gồm tất cả mọi đau khổ, nhục nhã, bất công và sự loại trừ ra khỏi cộng đồng với án tử. Như thế, Chúa Giêsu mời gọi theo Người tiến về nơi xử tử. Trong ý nghĩa ấy, đó là việc thông phần, chia sẻ, tham dự vào cuộc Thương khó của Người. Những ai dám chết theo Người như thế sẽ là người chiếm hữu được sự sống vĩnh cửu: Ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống của mình.

II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:

Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta chân dung Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến cứu chuộc nhân loại bằng con đường khổ giá. Vì tình yêu, Người đã dám hiến thân chết cho nhân loại được sống. Tin vào Người là Đấng Kitô thì niềm tin ấy phải được cụ thể hóa thành hành động can đảm dấn thân bước theo Người trên hành trình Thương khó. Đời sống Kitô hữu hôm nay là họa ảnh của Chúa Giêsu, Đấng Kitô chịu đóng đinh cho con người, cho thế giới nhận biết Người. Càng dấn thân vác thập giá theo Người, can đảm đón nhận mọi thử thách, khổ đau với đức tin mạnh mẽ thì cuộc đời Kitô hữu càng phác họa rõ nét chân dung Đấng Kitô mình tôn thờ.

III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:

1. Tin là lời mời gọi khám phá Chúa Giêsu:

Dân chúng với cái nhìn đơn sơ, hạn hẹp của mình chỉ có thể nhận ra tích cách siêu việt của Chúa Giêsu qua những lời giảng dạy như đấng có uy quyền, qua việc chữa lành và xua trừ ma quỷ của Người như Gioan Tẩy giả, như Êlia hay một Tiên tri nào đó. Họ không thể đi xa hơn nhận thức này để chân nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ mà họ đang chờ mong. Các môn đệ, đại diện là Phêrô có sự hiểu biết cao hơn, xác tín Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thế nhưng sự hiểu biết của các ông cũng vẫn còn nông cạn, chưa đầy đủ. Vì thế, dân chúng theo Chúa Giêsu cũng chỉ muốn nhắm đến những lợi ích cá nhân của họ. Còn các môn đệ cũng vì chưa hiểu rõ hết tước hiệu Kitô các ông tuyên tín, nên cũng không thể hiểu nổi mạc khải về cuộc Khổ nạn, cho nên các ông sợ hãi trước lời loan báo của Chúa, để rồi ngăn cản Chúa. Tin vào Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những nhận định, hiểu biết chung chung, thuộc lòng một vài công thức định tín, nhưng đòi hỏi phải nỗ lực tìm hiểu khám phá về Người. Càng hiểu rõ về Người, niềm tin càng xác tín, càng xác tín càng mạnh mẽ theo Người.

2. Tin là lời mời gọi dấn thân vác thập giá theo Chúa Giêsu:

Đỉnh cao của niền tim là việc đáp trả lời mời gọi từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa Giêsu. Tin không chỉ là nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô trong tâm trí, hay là một lời tuyên xưng ngoài môi miệng. Đức tin đòi hỏi phải có việc làm. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Tin cũng không chỉ dừng lại ở việc noi gương Người sống tình bác ái huynh đệ. Nhưng đức tin đòi hỏi một điều quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Đó là bước đi theo Người, sống như Người đã sống, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Chúa đã đi vào hành trình Thương khó, đời Kitô hữu cũng phải chấp nhận thập giá, chấp nhận đi vào con đường ấy. Để đi đến cùng sứ mạng của mình, Chúa Giêsu đã phải từ bỏ tất cả. Người từ bỏ tất cả để đạt được đến Đấng là tất cả, tức là Thiên Chúa Cha. Đó là con đường tất yếu cho những ai muốn sống và đạt đến hạnh phúc đích thực.

IV. LỜI CẦU CHUNG:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương muốn cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu Kitô đã vâng lời Chúa Cha chấp nhận con đường khổ nạn. Trong niềm tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

1. "Thánh Phêrô đã thay mặt cho các Tông đồ tuyên xưng vào Chúa Giêsu: 'Thầy là Đấng Kitô". Chúng ta cùng cầu nguyện cho gia sản đức tin các Tông đồ để lại trong Giáo hội luôn được gìn giữ tinh tuyền và phát triển mạnh mẽ qua đời sống loan báo Tin mừng của toàn thể Giáo hội.

2. "Người ta bảo Thầy là ai?". Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em đang thành tâm thiện chí đi tìm Chúa, những anh chị em dự tòng và tất cả những ai đang khao khát tìm kiếm sống một cuộc đời chính trực được thỏa ước nguyện và nhất là được gặp gỡ chính Chúa là nguồn mạch sự sống và chân lý.

3. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống và thể hiện niềm tin của mình bằng một cuộc sống dấn thân vì hạnh phúc tha nhân, bằng lòng can đảm đón nhận hy sinh, thử thách và đau khổ trong cuộc sống với thái độ tin yêu, hy vọng và phó thác cho Chúa.

Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa đã muốn Chúa Giêsu cứu độ chúng con bằng thập giá và qua Người mời gọi chúng con lãnh nhận ơn cứu độ cũng bằng con đường thập giá. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con đủ sức vác thập giá đời mình theo Chúa Giêsu Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

26. Thầy là ai? – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." (Mc 8, 29).

Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).

Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.

Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.

Thầy là ai? Chúa Giêsu phán: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: "Tôi là bánh từ trời xuống." (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.

Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.

Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.

Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.

Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.

Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.

 

27. Tin theo Đức Kitô -(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP

Đức Giêsu là ai? Đây là câu hỏi được đặt ra nơi người Do thái thời Chúa Giêsu, và ngày nay người ta vẫn tiếp tục lặp lại câu hỏi ấy. Thậm chí có người phủ nhận con người lịch sử của Đức Giêsu và coi đó chỉ là một con người huyền thoại.

Ngày xưa, người Do thái coi Đức Giêsu chỉ là một vị tiên tri có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Elia hay một tiên tri nào đó. Riêng ông Phêrô biết con người thật của Đức Giêsu, ông đã tuyên xưng Ngài là "Đấng Kitô". Tuy thế, đối với ông, Đấng Kitô có tính cách trần tục, Đấng Kitô vinh hiển, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu.

Nhưng Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô, không phải là Đấng Kitô vinh hiển theo kiểu thế gian, mang mầu sắc chính trị, mà là Đấng Kitô bị đau khổ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Tiếp đó Đức Giêsu tuyên bố lập trường của Ngài cho các môn đệ và dân chúng: nếu ai muốn theo làm môn đệ Ngài thì phải thi hành hai điều kiện, đó là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày.

Vậy chúng ta phải theo Đấng Kitô nào? Đấng Kitô vinh hiển hay Đấng Kitô bị đau khổ? Nếu muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chọn Đấng Kitô bị đau khổ và đi theo đường lối của Ngài, đó là đường khổ giá, nhưng đường đó sẽ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ và được thừa hưởng Nước Trời vinh quang.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 50,5-9a.

Đây là đoạn văn được gọi là "Bài ca thứ ba" của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ đau khổ. Đoạn văn này được viết phỏng theo kiểu những lời tâm sự của Giêrêmia.

Người Tôi Trung tự nhận là môn đệ của Giavê, có sứ mạng đem những lời Thiên Chúa truyền cho ông mà loan báo và dạy dỗ. Sứ mạng ấy khiến người ta ghen ghét, ngược đãi dưới nhiều hình thức, nhưng một nguồn sức mạnh mãnh liệt nâng đỡ ông thi hành nhiệm vụ. Ông đã thắng vượt sự buồn lo đó bằng một lòng tín thác không lay chuyển vì ông tin tưởng rằng Thiên Chúa không ngừng đến cứu giúp ông.

Người Tôi Tớ này được hiểu là Đức Kitô, một người Tôi Tớ tuyệt hảo nhất. Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã đặt niềm tín thác nơi Chúa Cha. Từ đó, Ngài đã được sức mạnh phi thường trong tâm hồn. Thật là mẫu gương sáng ngời cho chúng ta, các môn đệ của Ngài.

+ Bài đọc 2: Gc 2, 14-18.

Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói về những đòi hỏi của đức tin trong hành động. Ngài khẳng định: “Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết". Cả đức tin lẫn hành động đều cần thiết và luôn phải đi đôi với nhau, không thể tách rời .

Ngài còn đưa ra một mẫu gương sống bác ái huynh đệ để định nghĩa và dẫn giải về đức tin sống động. Điều đó muốn nói rằng: giá trị của đức tin chúng ta tùy thuộc ở mức độ bác ái đối với mọi người anh em của chúng ta.

+ Bài Tin Mừng: Mc 8,27-35.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần:

1. Đức Giêsu muốn các môn đệ phản ảnh cho Ngài biết dư luận của dân chúng về Ngài là ai? Các môn đệ cho biết: theo dư luận quần chúng thì Ngài là một tiên tri, một đại tiên tri có quyền làm được những dấu lạ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cho Nhóm 12: “Thầy là Đấng Kitô".

2. Sau đó, Đức Giêsu tiết lộ cho các ông biết về cuộc khổ nạn của Ngài: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại". Ông Phêrô, tuy công nhận Ngài là Đấng Messia, nhưng niềm tin này mới là tạm thời: nó không chấp nhận Đấng Messia phải chịu đóng đinh. Các ông không thể hiểu nổi.

Trước sự bỡ ngỡ của Nhóm 12, Đức Giêsu đã khẳng định với tính cách quyết liệt: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Theo Đức Kitô bị đóng đinh

I. ĐỨC KITÔ LÀ AI?

Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ta ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi: Giêsu Kitô, ông là ai? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách … nói về Chúa Giêsu.

1. Bối cảnh việc tuyên xưng.

Thánh Marcô kể: bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan sẽ chảy xuống phía nam. Người ta gọi nơi này là Cêsarêa của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Cêsarê, tức là tên của hoàng đế La mã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.

Ngoài ra, Chúa Giêsu sắp kết thúc việc rao giảng ở Galilê, nay mai sẽ lên đường đi Giêrusalem, chặng đường cuối cùng kết thúc ở đồi Calvê, trong khúc quanh này, đã đến lúc Chúa phải sửa soạn giai đoạn chót cho các Tông đồ.

Có lẽ vì vậy Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ xem ý kiến của quần chúng và của các ông về Ngài như thế nào. Ngài muốn biết ý kiến của các ông, sau đó Ngài mới tiết lộ cho các ông về con người thật của Ngài.

2. Theo dư luận quần chúng.

Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai"? Các ông đáp liền: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó"(Mc 8,28),

Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Elia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri: họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.

3. Theo ý kiến các môn đệ.

Chúa Giêsu lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai"? Ông Phêrô tức khắc trả lời: “Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,29).

Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ Nhóm này.

Tước vị "Christos" "Messiah trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi để đến " hoàn tất lịch sử". Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.

Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thưở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 va 12).

4. Theo sự tiết lộ của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại"(Mc 8,31).

Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào"(Ga 3,16-18)

II. TIN THEO ĐỨC KITÔ.

1. Theo Đức Kitô nào đây?

Sau đó, Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy"(Mc 8,34-35).

Chúa Giêsu bảo ai muốn theo Ngài vì Ngài là Đấng Kitô, nhưng phải theo Đấng Kitô nào? Theo Đấng Kitô vinh hiển như người Do thái thường quan niệm hay Đáng Kitô đau khổ như Người mới tiết lộ?

Trở lại bài đọc 1, ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ nào đó, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là ngươi tôi tớ ấy.

Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường Thánh giá: ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.

Truyện: Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.

Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.

Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras:

- Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?

Barras trả lời:

- Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật, đồng chí cố sống lại đi.

2. Những điều kiện để theo Chúa.

Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Hai điều kiện này xem ra ít ỏi như khó ăn lắm.

a) Phải từ bỏ chính mình.

Từ bỏ chính mình để nhận lấy Thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.

Ngoài ra, việc từ bỏ chính mình, đứng về phương diện triết học ngày nay, thì là một sự "tha hoá, vong thân", mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hoá nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời.

Lý tưởng mà thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hoá" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị "tha hoá". Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).

b) Vác thập giá mình.

Thập giá, theo Tin mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.

Như vậy, kiểu nói "vác thập giá mình" có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, "vác thập giá mình" cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.

c) Chấp nhận đau khổ trong đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật giáo chủ trương? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.

Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.

Truyện: Nữ thủ tướng Golda Meir

Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: "Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại ích lợi cho mình hơn.

Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).

3. Đường đưa tới vinh quang

Chúng ta thấy dòng Mến Thánh giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa: “Per crucem ad lucem": qua thập giá tới vinh quang. Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày thứ sáu tuần thánh mới tiến tới ngày Chúa nhật Phục sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo Phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.

Thập giá không còn là cái gì ghê rợn mà là vinh quang. Chúng ta thường hát: “Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát".

Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta "sợ" thập giá, người ta "ngại" hy sinh, người ta "tránh" từ bỏ… Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói: “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử": không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?

Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata: “Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.

Truyện: Cưa bớt thập giá.

Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo.

Suốt ngày anh ca cẩm, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác.

Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.

Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mươi phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.

Thi sĩ Robert Browning Hamilton tóm tắt tinh thần bài Tin mừng hôm nay bằng những lời sau:

"Tôi bước đi một dặm đường với Nữ thần Lạc Thú,

Nàng vuốt ve tôi đủ điều,

nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan tí nào qua những điều nàng nói.

"Tôi lại bước đi một dặm với Nữ thần Đau Khổ,

Nàng chả nói với tôi lời nào,

Nhưng tôi lại học được biết bao điều

Khi nàng bước đi bên cạnh tôi…".

 

28. Suy niệm của Lm. Anfonso

Tin Mừng Mc 8: 27-35  Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới vùng đất của dân ngoại, tới làng nhỏ miền Cêsarea Philiphê để tránh đám đông dân chúng. Người muốn biết xem dân chúng hiểu thế nào về Người...

Suy niệm

Sống trong xã hội, chắc hẳn chúng ta sẽ ít nhiều nghe những lời từ công chúng bàn tán về kẻ này người nọ trong khu xóm, tại giáo xứ, nơi công sở… Và trước những lời đồn đại ấy, liệu chúng ta có nhận định riêng cho mình không, hay cũng dễ bị tác động từ dư luận.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới vùng đất của dân ngoại, tới làng nhỏ miền Cêsarea Philiphê để tránh đám đông dân chúng. Người muốn biết xem dân chúng hiểu thế nào về Người. Theo các môn đệ thuật lại, người dân có cái nhìn còn mơ hồ về Chúa Giêsu: “Họ nói Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là Êlia, có kẻ nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó…” Và trong tình thầy trò, Chúa Giêsu cũng muốn chất vấn các môn đệ cách chân thành về lập trường riêng, về cảm nhận nơi cõi lòng của họ: “Thế còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Simon Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô”. Qua lời tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, Phêrô cùng với anh em tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa Cha đã hứa, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và toàn dân mong đợi. Tuy nhiên, tuyên xưng đức tin mà thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu còn cần các ông thể hiện đức tin của mình bằng hành động, vì Người không muốn các môn đệ hiểu sai sứ mệnh của Người.

Y như rằng, mặc dầu tin, các môn đệ vẫn còn hiểu nhầm sứ mệnh của Chúa Giêsu như dân chúng hiểu và mong đợi Đấng Cứu Thế sẽ đem tới cho dân Do Thái sự tự do, một nền chính trị mới khỏi cách đô hộ La mã. Cho nên lời tiên tri Isaia trong bài đọc I loan báo: “Tôi đưa lưng cho kẻ đánh tôi và đưa má cho kẻ giật râu” không dễ được các môn đệ cũng như người Do Thái đón nhận. Vì vậy, Chúa Giêsu cần thanh lọc suy nghĩ của các môn đệ để họ đón nhận sứ mạng của Thầy mình trong tư cách người Tôi Tớ khiêm hạ. Nhờ đó, các môn đệ sẵn sàng chấp nhận việc Đấng Cứu Thế hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, bị bắt và chịu khổ nạn thập giá.

Phản ứng của Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra để can ngăn Thầy đừng theo con đường ấy lại nói lên rằng Phêrô muốn Chúa làm theo ý ông hơn là để các môn đệ sống theo ý Chúa. Vì thế mà Chúa đã nghiêm khắc trách mắng Phêrô: “Satan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Việc ngăn cản Chúa Giêsu đi con đường Chúa Cha đã chọn là suy nghĩ của người đời, toan tính của ma quỷ. Chúa Giêsu muốn Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình. Môn đệ là người vâng lời Thầy, bước đi theo sau Thầy, đừng “cầm đèn chạy trước ôtô”. Đó cũng là một thách đố cho người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Việc tin theo Chúa phải là một quyết định hoàn toàn tự do của mỗi người. Và một khi đã tin theo Chúa thì cũng phải chấp nhận đi kèm điều kiện vác thập giá mình mà bước theo Chúa.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi này với mỗi người chúng ta: “Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?” Ngài có phải là vị Thẩm phán khắt khe luôn xét nét xem tôi sai lỗi chỗ nào để phạt không? Ngài có phải là một ông tiên với chiếc bị sẵn sàng cho đủ thứ tôi cần khi tôi chạy tới cầu xin? Hay Ngài đơn giản chỉ là một người hành khất xin tôi bố thí cho Ngài chút thời giờ nhãn rỗi của tôi, để khi nào tôi rảnh thì tôi tới dâng Thánh lễ.

Chúng ta tin Chúa là Đấng Cứu chuộc chúng ta, nhưng niềm tin ấy chỉ trọn vẹn khi chúng ta dám bỏ mình, và vác thập giá mình mà bước theo Chúa mỗi ngày. Vâng, chính những đau khổ trong đời sẽ tôi luyện con người chúng ta thành người khiêm nhường, cảm thông hơn và giúp chúng ta có điều kiện tập nên thánh nhờ việc vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa Giêsu, không có con đường dễ giải nào để được ơn cứu độ ngoài con đường của thập giá. Xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng con để chúng con cũng tập sống theo ý Chúa. Xin Chúa cũng nâng đỡ chúng con, giúp chúng con biết nhận ra rằng qua khổ đau của bước chân người môn đệ, chúng con lại được Ngài an ủi, bởi vào những đêm khuya tăm tối, chúng con sẽ dễ thấy được những ánh sao sáng trên bầu trời. Amen.

 

29. Con đường của Thầy -- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

Con đường tiến lên phía trước

So với các tác giả Nhất Lãm khác, trình thuật về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô tại Xê-da-rê do thánh Mác-cô biên soạn khá vắn gọn. Bản văn này có thể đuợc giải thích theo nhiều điểm khác nhau. Dưới đây là ba điểm.

* Con đường đức tin

Thánh Mác-cô kể lại câu chuyện xảy ra ở bên kia sông Gio-đan không nhằm xác định về nơi chốn cho bằng về ý nghĩa thần học. Đây là một “nơi khác” ngoài môi trường Giu-đa giáo, và tại đây, lần đầu tiên, Đức Giêsu được nhìn nhận như Đấng Mêsia. Trong đất Do thái, việc mặc khải này chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối đời của Đức Giêsu: trước tòa Cai-pha (x.Mc 14,61-62).

Câu hỏi về lai lịch của Đức Giêsu không do thiên hạ hay các môn đệ nêu ra, nhưng do chính Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ như một con đường dọn sẵn: khởi đầu từ những ý kiến của dân chúng và cuối cùng là câu trả lời của các môn đệ.

Đến cuối bản văn, Đức Giêsu phác họa hình ảnh người môn đệ như một người luôn tiến bước, một người đi theo Đức Kitô.

Quả vậy người ta không thể diễn tả lòng tin của mình, không thể nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nếu như người ta cứ ở một chỗ, cứ yên vị trong sự an toàn chắc chắn với những ý tưởng có sẵn của mình.

Đức Kitô chỉ đến với những người “ đang tiến bước ”, và người Kitô hữu được mời gọi “ đi theo ” Đức Kitô đang bước đi, Đức Kitô sống động chứ không ở yên một chỗ.

* “Thầy là Đấng Mêsia”

Lòng tin vào Đức Kitô không phải là một thứ chủ nghĩa thủ cựu. Các môn đệ không được lấy điều người ta nói làm đủ, chính Đức Kitô cũng không muốn như thế; các môn đệ của Đức Kitô phải có một xác tín riêng về Thầy mình. Một tổng hợp những kiến thức về Đức Giêsu không bao giờ có thể thay được sự hiểu biết cá nhân về Người, bởi vì hiểu biết cũng là không ngừng chia sẻ thân phận của Người, tức là từ bỏ sự sống mình và đi theo Người đến tận thập giá.

Đàng khác, nhận định của dân chúng về Đức Giêsu không hoàn toàn sai, nhưng không đầy đủ. Nhận định này không diễn tả tính cách siêu việt của con người Đức Giêsu. Các quan niệm Cựu Ước không trình bày đủ về lai lịch của Đức Giêsu. Người vượt lên trên tất cả những điều đó.

Chính vì vậy, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi với các môn đệ: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu đòi hỏi một quan niệm đúng đắn, một sự chuyển hóa chứ không phải chỉ là lặp lại một hiểu biết hay một cái gì có sẵn.

Ông Phêrô đã làm điều ấy. Điều ông nói, nhân danh các môn đệ, vượt hẳn quan niệm của quần chúng, và cả chính ông cũng chưa hiểu được toàn bộ ý nghĩa. Đối với một người Do thái như ông, Đấng Mêsia hằng được trông đợi không hề có chút nào như Đức Giêsu. “Đấng tái lập vương quốc Ít-ra-en” sẽ không thể là con người bị loại bỏ này, sẽ không thể là con người lúc nào cũng lang thang trên các nẻo đường.

Dù vậy, ông Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhờ đức tin, ông chấp nhận sự sai biệt giữa ý tưởng ông đang có và thực tại đang diễn ra.

* “Xa-tan, lui lại đàng sau”

Cũng với tư cách phát ngôn viên của các môn đệ, ông Phêrô đã phản ứng trước những lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương khó. Ông kéo Đức Giêsu ra một nơi như muốn che chở cho Người. Với vẻ trịch thượng, ông trách Thầy, coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi đầu óc Thầy tư tuởng cuồng điên về cuộc khổ nạn.

Trong câu chuyện này, người ta nhận ra một trong những cám dỗ cơ bản thường thấy nơi con người: hành quyền trên Thiên Chúa. Đức Giêsu vừa mô tả con đường duy nhất dẫn đến sự sống, ông Phêrô đã trách Người … đã ngăn cản con đường Người phải đi.

Làm như thế, ông đã tự cho mình có quyền trên Đức Giêsu, ông vượt lên trước Người để chỉ cho Người thấy theo ý ông, đâu là con đường tốt nhất.

Thế nhưng, trên con đường tiến đến Nước Trời, người ta “ không đi trước ” Đức Kitô, người ta “đi theo” Người. Do đó, Đức Giêsu quay về phía các môn đệ và tái lập vị thế. Không phải Thầy đi theo các môn đệ, nhưng môn đệ phải theo Thầy. Đức Giêsu không chấp nhận một điều đình nào cả. Con đường thập giá là con đường duy nhất dẫn đến sự sống, con đường Chúa Chúa đã định. Ngăn cản Đức Kitô, không cho Người đi con đường đó tức là xúi giục Người bất phục thánh ý Chúa Cha: công việc này chỉ có thể là của Xa-tan, tên đã muốn lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường đó khi Người bắt đầu cuộc đời công khai (x. Mc 1,12-13).

Có lẽ ông Phêrô chỉ nghĩ Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo quan điểm loài người nên đã trách Người. Ông chưa hiểu hết ý nghĩa của lời tuyên xưng ông vừa thốt lên, cũng như lời ngăn cản ông đưa ra. Dù vậy, Đức Giêsu cũng muốn cho thấy Thập giá là con đường cứu độ, Người sẽ đi, đi đến cùng, và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Người, muốn đi theo Người, cũng phải buớc đi trên con đường ấy.

Đặt tên cho Người

Trở lại với lời tuyên xưng của ông Phêrô.

Khi một đứa trẻ sinh ra, cha mẹ của em sẽ đặt cho em một tên gọi. Một thời gian sau, chính em bé sẽ đặt cho cha mẹ em một tên gọi và tên gọi này sẽ thay thế mọi tên gọi khác. Tên gọi đó sẽ là “ ba ” là “ má ”.

Gọi như thế, em bé làm cho cha mẹ em thay đổi, đem lại cho cha mẹ em một chiều kích mới: là “ ba ”, là “ má ”.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cũng gần giống như thế.

Khởi đầu, ông Phêrô đem lại cho Đức Giêsu một tên gọi: “ Thầy là Đấng Kitô ”. Mặc dù ông chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói này, nhưng ít ra, cứ dựa theo truyền thống Do thái, tên gọi ông vừa đọc lên về Đức Giêsu cũng đã có một chiều kích quan trọng. Đặc biệt gọi tên cũng là làm cho hiện hữu.

Về phần mình, Đức Kitô đặt tên cho các môn đệ bằng cách mô tả điều sắp xảy ra để làm cho một người trở thành Con Thiên Chúa: trải qua cái chết và sinh ra trong một đời sống mới.

Điều này quả là có tính cốt yếu vì nó xác định rõ bản chất những tương quan Thiên Chúa muốn nối kết con người và con người phải có đối với Thiên Chúa.

Đức Giêsu có thể tự mình tuyên bố: Tôi là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Và ngược lại, Nhóm Mười Hai cũng có thể nói: Chúng tôi làm điều này điều nọ, chúng tôi tin, vì vậy chúng tôi là những môn đệ. Mỗi bên tự đặt tên cho mình và buộc người khác phải tôn trọng.

Đức Giêsu đã không xử sự như thế. Người dần dần nêu ra các câu hỏi để rồi chính các môn đệ nói lên mặc khải sâu xa nhất về Người. Tuy vậy, Người vẫn phải giải thích cho các ông nội dung của mặc khải ấy, hay là con đường Đức Kitô sẽ trải qua để đem lại ơn cứu độ cho Ít-ra-en và mọi người.

Như vậy, chính Đức Giêsu có sáng kiến, nhưng Người không áp đặt. Người đưa các môn đệ qua con đường của sự thông tri, nhìn nhận trong tình yêu. Nhờ được Thần Khí soi sáng, con người đặt cho Thiên Chúa tên gọi, một tên gọi chính xác. Thiên Chúa khiêm tốn biết bao!

Về phần chúng ta, mỗi người cũng phải đặt tên cho Đức Giêsu; mỗi người phải có ý kiến riêng của mình về Đức Giêsu Kitô. Thế nhưng, hình như chúng ta có khuynh hướng đặt cho Người một tên gọi giống như chúng ta. chúng ta vẫn muốn lặp lại “ điều thiên hạ nói về Đức Giêsu ”. Điều này có nghĩa là chúng ta muốn Người đi theo chúng ta hơn là chúng ta đi theo Người, hay ít ra, chúng ta không muốn chia sẻ cuộc sống của Người, không dám từ bỏ mình để đi trên con đường Người đã đi.

Và rồi, chúng ta có sẵn sàng để Người đặt tên cho chúng ta không? Chúng ta có dám chấp nhận đổi khác đi khi khám phá ra tên gọi đích thực của mình? Chúng ta có dám để Đức Kitô làm cho chúng ta sinh ra trong sự sống Người ban cho chúng ta, tức là trong sự sống của Người?

 

30. Đường yêu thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nói nôm na rằng Chúa vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc. Vậy thì cớ sao Chúa Kitô lại khẳng định rằng ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người? (x.Mc 8,34). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Những người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này mà vô tình tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp. Dù kết án Kitô giáo nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.

Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém, là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá, như thế người cha trên mọi người, là Đấng trọn hảo chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái (x.Lc 11,9-13; 12,32). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người?

Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi và rồi được thông chia cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.

Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực mà chính là dữ kiện hay điều kiện ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hình ảnh hạt lúa mì chịu mục nát đi để nẩy mầm, thành cây, đơm bông, kết hạt, thì mới thực sự là chính nó khi thể hiện ý nghĩa hiện hữu của nó (x. Ga 12,24). Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng vẫn là khập khiễng, nghĩa là còn hạn chế. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng (x. Lc 4,18-19).

"Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết" (Gc 2, 17). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về... Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.

 

31. Suy niệm của Đaminh M. Cao Tấn Tĩnh, BVL

MẶT TRÁI CỦA CHÚA KITÔ CHÍNH LÀ CHÂN DUNG CỦA NGƯỜI

Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm B tuần này, theo Phúc Âm Marcô, không phải là bài Phúc Âm tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm tuần trước. Bởi vì, ngay sau bài Phúc Âm tuần trước Thánh Ký Marcô trình thuật về biến cố Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ hai, về men gương mù gương xấu của nhóm Pharisiêu và về phép lạ chữa lành người mù ở Bethsaida. Bài Phúc Âm tuần này cho thấy mạc khải về chính bản thân nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, vị đã kêu gọi Nhóm 12 Tông Đồ, tỏ mình riêng cho các vị và dạy dỗ các vị hơn quần chúng. Chúng ta nên để ý ở đây là Chúa Giêsu không biến hình trên núi rồi mới tỏ cho các tông đồ biết mạc khải cốt lõi nhưng đầy kinh hoàng đối với các vị này, một biến cố biến hình, trái lại, theo Phúc Âm Thánh Marcô, chỉ xẩy ra ngay sau mạc khải này. Chúng ta đã biết là Chúa Giêsu, trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm, đã tỏ cho các tông đồ biết về mầu nhiệm Đức Kitô Vượt Qua tất cả là 3 lần, và lần đầu tiên xẩy ra trước biến cố Người biến hình trên núi cao. Thế nhưng, vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng trước con mắt các tông đồ, bởi thế, Chúa Giêsu đã phải thăm dò xem khả năng chịu đựng của các tông đồ tới đâu, bằng cách hỏi các vị xem dân chúng nghĩ về Người ra sao, nhất là tâm tưởng của chính các vị xác tín về Người như thế nào, sau bao ngày tháng các vị được ở bên Người, được nghe lời Người nói, được thấy việc Người làm v.v. Nếu các vị trả lời trật lấc, hay không đúng là bao, hoặc chẳng khác gì câu trả lời của dân chúng, chắc Chúa Giêsu đã không tỏ mình ra hay chưa dám tỏ mình ra hoàn toàn cho các vị đâu. Bằng không, thay vì có lợi cho các vị thì chỉ gây thêm bất lợi cho các vị mà thôi, làm cho một số nữa hay hầu như tất cả bỏ đi, như nhóm môn đệ sau khi nghe Bài Giảng về Bánh Hằng Sống cách đây ba tuần.

Thật vậy, lời tuyên xưng của các tông đồ, qua vị tông đồ Phêrô đại diện, “Thày là Đức Kitô!”, là Đấng Thiên Sai, đã cho thấy các tông đồ quả thật đã nhận biết Thày của các vị thực sự là Đấng nào, thực tại của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là gì, đúng như Người muốn tỏ ra, muốn chứng thực chẳng những cho dân Do Thái mà còn cho cả Dân Ngoại nhất là các Tông Đồ thấy, những lần chứng thực được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại trong toàn bộ Phúc Âm của ngài, đến nỗi, mầu nhiệm Đấng Thiên Sai này và mầu nhiệm Vượt Qua của Người không thể tách rời nhau trong Phúc Âm Thánh Gioan. Với dân Do Thái: “Bao giờ quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ biết Tôi là ai” (Jn 8:28); với Tổng Trấn Philatô: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đến thế gian đó là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37); với các tông đồ: “vì họ mà Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19).

Thế nhưng, trong tâm can của các vị tông đồ, sự thật “Thày là Đức Kitô“ đây mới chỉ là một hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống chứ chưa thành cây vĩ đại (x Mt 13:31-33). Bởi đó, hạt cải này vẫn chịu sự chi phối bởi môi trường được gieo xuống. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần tới sẽ cho chúng ta thấy rõ căn nguyên tại sao các vị tông đồ đã tỏ ra thái độ hoàn toàn mâu thuẫn nơi vị đại diện của mình là Thánh Phêrô, vị đã vừa tuyên xưng chân lý “Thày là Đức Kitô” liền bị Thày quở trách hết sức thậm tệ: “Hãy xéo đi khỏi mặt Ta, đồ Satan, Ngươi chẳng phán đoán theo kiểu cách của Thiên Chúa gì cả mà chỉ theo kiểu cách của loài người thôi”. Cũng khó mà trách các vị tông đồ được, vì các vị bấy giờ chỉ mới được tới đó, trình độ đức tin của họ mới chỉ có thế thôi. Đó là lý do có lần các vị đã phải lên tiếng “xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5).

Đúng vậy, Chúa Giêsu đã lợi dụng một trường hợp để tăng thêm đức tin cho các tông đồ môn đệ của Người, thành phần được Người tuyển chọn để sau này làm chứng cho Người. Những lần Ngài làm tăng thêm đức tin cho các vị, điển hình nhất là lần họ gặp phong ba bão táp trên biển hồ song Người đã ra tay cứu các vị (x Lk 8:22-25), hay lần các vị đánh cá thâu đêm mà chẳng bắt được gì theo kinh nghiệm nghề nghiệp đầy mình của các vị, song chỉ vì vâng lơiøi Người mà các vị đã bắt được những mẻ cá lạ lùng (x Lk 5:5-11). Tuy nhiên, đức tin của các vị dầu sao cũng mới chỉ biết mặt phải của Thày mình, ở chỗ chỉ biết được Thày của các vị đầy quyền năng, có thể chữa lành các thứ bệnh nạn tật nguyền, có quyền trên các thần ô uế, có quyền trên cả thiên nhiên vạn vật v.v., chứ chưa biết mặt trái của “Thày là Đức Kitô”, một Đức Kitô khổ nạn và tử giá rồi mới được vinh quang, một Đức Kitô đầy quyền năng nhưng không thể thoát khỏi bàn tay lông lá của loài người, không thể tự mình xuống khỏi thập giá.

Tiếc thay, chính mặt trái này của Đức Kitô mới thật là chân dung của Người, chân dung của môt Đấng Thiên Sai thực sự, tức của một người tôi tớ được tiên tri Isaia nói tới (42:1), một người tôi tớ cùng khổ cũng được vị tiên tri này diễn tả trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật tuần này, của một vai trò thừa hành, của một vai trò thừa sai, vai trò đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Việc “Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập giá” (Phil 2:8) chính “là để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) Người được Cha sai, Người chính là Đấng Thiên Sai, Cha là Đấng đã sai Người, Cha Người là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3) đúng như Ngài đã mạc khải cho dân Do Thái trong suốt Lịch Sử Cứu Độ Cựu Ước của họ, một mạc khải đã được hé mở từ cuộc thần hiển ở bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi để Ngài tỏ đích danh của Ngài là “hiện hữu” cho Moisen (x Ex 3:14), “hiện hữu” ở chỗ “chân thật duy nhất”, ở chỗ trước sau như một, nghĩa là một khi Ngài đã tự động hứa những gì với cha ông tổ phụ họ là Abraham, Isaac và Giacóp thì Ngài sẽ thực hiện đúng ý như vậy nơi giòng dõi của các vị (x Acts 13:32-33), dù dân của Ngài đã muôn vàn lần bội hứa, đã không ngớt lỗi phạm lề luật thánh của Ngài, đã đáng bị Ngài tận diệt ngay từ đầu (x Ex 32:10).

Chính vì chân dung của Đức Kitô, của Đấng Thiên Sai không phải ở mặt phải với đầy những quyền năng, mà là ở mặt trái đầy tuân phục, đau khổ và tủi nhục, mà thành phần được Người tuyển chọn, thành phần muốn đáp lại lời Người mời gọi, thành phần muốn thực sự trở thành môn đệ của Người, muốn theo Người cho tới cùng, “đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4), như Mẹ Maria “đứng bên thập giá” (Jn 19:25), cần phải thực hiện những gì Người đã nói với chẳng những với các tông đồ mà còn cả với dân chúng ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “Ai muốn theo Tôi họ phải chối bỏ chính bản thân mình, vác thập giá của mình mà theo Tôi. Ai muốn giữ sự sống mình thì sẽ đánh mất sự sống, còn ai mất sự sống mình vì Tôi và vì phúc âm thì sẽ giữ được sự sống”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Giacôbê đã nhấn mạnh đến việc thực hành những gì mình tuyên xưng. Phải chăng những lời khuyên này của vị tông đồ Giacôbê đã phản ảnh cảm nghiệm của ngài từ bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, từ việc các tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô” bằng môi miệng song trên thực tế đã sống mâu thuẫn với sự thật các vị tuyên xưng, mâu thuẫn đến nỗi đã đi đến chỗ phản nộp Người nơi tông đồ Giuđa Ích-Ca, đến chỗ “tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50) khi “Đức Kitô” bị bắt trong vườn Cây Dầu, hay thậm chí đã đi tới chỗ trắng trợn chối bỏ Người ba lần nơi chính cửa miệng của người tông đồ tuyên xưng “Thày là Đức Kitô”, và đến nỗi đã phủ nhận Người khi Người từ trong kẻ chết sống lại đúng như Người đã báo trước (x Lk 24:37; Jn 20:25). Chính vì con người chỉ tìm kiếm bộ mặt phải của Chúa Kitô, và sợ đụng đầu với bộ mặt trái của Người, một bộ mặt bị khạc nhổ như tiên tri Isaia trong bài đọc một tiên báo, mà họ hãy coi chừng kẻo sẽ gặp toàn là Kitô giả xuất hiện để lừa đảo nhiều người (x Mt 24:24).

 

32. Con Thiên Chúa – Lm. Minh Vận, CRM

Văn hào Charles Lamb sống ở Anh Quốc 200 năm trước đây. Suốt 30 năm, ông chỉ là một viên thư ký tầm thường trong một xưởng đóng tầu. Thế mà ông đã trở nên một văn hào nổi tiếng vì những bài trào phúng thanh nhã, duyên dáng và nhất là ông có một tình yêu thương hiếm có đối với gia đình và bạn bè của ông. Một buổi chiều nọ, các bạn hữu hội họp tại nhà ông để thảo luận về văn chương. Một người trong nhóm đặt câu hỏi: "Chúng ta sẽ nghĩ sao, nếu Dant, tác giả của vở hài kịch Divine Comedy, sẽ bước vào phòng họp của chúng ta chiều này?" Một người khác lại tiếp lời: "Giả thử Shakespeare tới họp với chúng ta bây giờ thì sao?" Ông Charles Lamb vội vàng trả lời: "Tôi sẽ giang hai tay vui mừng nồng hậu đón tiếp vị "Vua" của các nhà tư tưởng danh tiếng đó". Cuối cùng, một người khác đặt giả thiết: "Vậy giả như Chúa Kitô bước vào phòng họp này thì chúng ta có thái độ nào?" Văn Hào Charles Lamb nghe vậy, vội nghiêm nét mặt trả lời: "Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều cung kính quì xuống tôn thờ Ngài".

Tại sao văn hào Charles Lamb lại phát biểu tư tưởng đặc biệt này? Tại vì giữa Chúa Kitô và các vĩ nhân của lịch sử nhân loại có sự khác biệt vô cùng: Chúa Kitô là Thiên Chúa đáng tôn kính sùng mộ, còn các vĩ nhân kia, dầu sao cũng chỉ là con người phàm như bất cứ ai trên trần gian này.

I. NGÀI LÀ MỘT VĨ NHÂN SIÊU VIỆT

Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Marcô tường thuật câu truyện trao đổi giữa Chúa Kitô và các môn đệ Ngài, đang trên đường tiến về miền Xêsarê Philipphê. Chúa hỏi các môn đệ cho biết, người ta đã nghĩ thế nào về Ngài.

Qua lời đối đáp của các môn đệ, cho chúng ta thấy quan niệm của người Do Thái đương thời, thì Ngài Chính là Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu nay sống lại. Có những người lại cho rằng, Ngài là tiên tri Elia đã xuất hiện; những kẻ khác lại cho rằng, cùng lắm thì Ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như bất cứ tiên tri nào khác.

Với những quan niệm của người thời nay: Có những người tôn Ngài là một vị quân tử, một nhà hiền triết, giống như các triết gia Hy Lạp Aristote hay Socrate chẳng hạn. Có những người sùng mộ hơn thì lại cho Ngài là một vĩ nhân, một nhà lập đạo, một lãnh tụ tôn giáo như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử hoặc như Thích Ca Mâu Ni, ông tổ Phật Giáo; Ngô Văn Chiêu, ông tổ Cao Đài Giáo; Huỳnh Phú Sổ, ông tổ Phật Giáo Hòa Hảo; Đỗ Hữu Thuần, ông tổ Pháp Lý Vô Vi hay ông Đạo Dừa chẳng hạn... Rồi có người lại coi Ngài là thần tượng của giới trẻ, ông tổ của giới Hippi; hoặc hơn nữa, Ngài là một siêu nhiên cao cả có quyền năng trong lời nói và trong hành động.

II. NGÀI LÀ ĐỨC KITÔ CON THIÊN CHÚA

Sau khi nghe các môn đệ thuật lại ý kiến của các người Do Thái nghĩ về Chúa, Chúa mới hỏi lại các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Thánh Phêrô đã lên tiếng đại diện cho các môn đệ tuyên xưng rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!".

Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia Thiên Chúa sai đến trần gian, để truyền bá giáo thuyết và huấn lệnh của Thiên Chúa, như phương thế cứu độ trần gian. Nhưng Ngài không phải là Đấng Thiên Sai theo quan niệm sai lầm của người Do Thái, vì họ chỉ chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền về phương diện chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ đế quốc Roma, cũng giống như quan niệm tầm thường của các môn đệ của Ngài lúc ban đầu, họ đã thường tranh luận với nhau xem ai trong nhóm họ, sẽ làm lớn trong "Nội Các" tương lai của Thầy.

Thực ra, Đức Kitô là chính Đấng Thiên Sai được mệnh danh là Người Tôi Tớ Thống Khổ của Thiên Chúa, như bài sách tiên tri Isaia chúng ta vừa nghe đã tiên báo. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc hình tôi đòi giống như người phàm, Ngài đã hủy mình đi, lãnh nhận mọi án lệnh như một tội nhân, Ngài đã tự nguyện hiến dâng bản thân làm lễ vật hy sinh, chịu chết để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, hầu cứu độ nhân loại.

Sau khi nghe Chúa nói về những thống khổ Ngài sẽ chịu, bị các trưởng tế, kỳ lão, luật sĩ chối bỏ và giết chết. Phêrô đã kéo Ngài lui ra và can ngăn Ngài, Ngài đã nặng lời quở trách ông: "Satan, hãy lui đi, con không biết việc của Thiên Chúa, mà chỉ biết việc của loài người". Những lời đó đã đánh tan quan niệm sai lầm của các môn đệ, làm cho các ông được hiểu biết đúng về Ngài, để niềm tin của các ông thêm vững mạnh, thêm xác tín hơn. Do đó, Thánh Phêrô đã đại diện các môn đệ cao lời tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!".

III. CÒN CHÚNG CON, CHÚNG CON LÀ AI

Cùng với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Đó là lời tuyên xưng đã được Chúa chấp nhận và hài lòng. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải trở nên chứng nhân và sống niềm tin chúng ta vừa tuyên xưng, bằng cách chúng ta hãy chân thành đáp lại lời Chúa có thể hỏi chúng ta: "Còn chúng con, chúng con là ai?"

Chúng ta là Kitô Hữu, là người thuộc về Chúa Kitô, là môn đệ của Chúa, là con Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô. Vậy chúng ta đã thực trở nên chứng nhân của Chúa bằng cuộc sống cho niềm tin đó, xứng với danh nghĩa diễm phúc chúng ta là Môn Đệ, là con Thiên Chúa chưa?

Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nên con Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải nên giống Chúa: "Các con hãy học cùng Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu". Điều kiện để nên môn đệ của Chúa: "Ai muốn theo Cha, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Cha". Và: "Ai không từ bỏ chính mình, không vác thập giá mình, không thể làm môn đệ Cha được"

Kết Luận

Với lòng tôn kính và sùng mộ, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, là Thiên Chúa thật, chúng ta hết lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Ngài. Nhưng để chứng minh lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa xứng đáng, Chúa đòi chúng ta hãy sống xứng đáng với danh nghĩa diễm phúc là môn đệ, là con Thiên Chúa, bằng cách cố gắng mô phỏng đời sống thánh thiện của Chúa Kitô ngay trên trần gian này.

 

33. Thánh Giá là gì?

(Suy niệm của Br. Thiện Mỹ, CRM)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta vác Thánh Giá mình mà theo Chúa, nhưng Thánh Giá là gì?

Nhiều người xem Thánh Giá như một đơn vị kinh tế để xác định giầu nghèo. Thánh Giá bằng vàng thì quí hơn Thánh Giá bằng gỗ. Và Thánh Giá bằng vàng cũng còn tuỳ to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người giầu có Thánh Giá bằng vàng đã đành, kẻ nghèo túng cũng tìm mọi cách để sắm cho được Thánh Giá vàng để khoe với mọi người rằng mình “chẳng thua kém gì ai”. Dĩ nhiên người môn đệ đích thực của Đức Kitô không nhìn Thánh Giá như đơn vị kinh tế để khoe khoang như thế.

Người khác lại dùng Thánh Giá để xuống đường. Họ vác Thập Giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng đòi biểu tình, để đòi đóng đinh kẻ khác. Thánh Giá bị lợi dụng để tranh giành ảnh hưởng, để tiêu diệt kẻ thù, thay vì đem sự sống, đem bình an hạnh phúc đến cho mọi người, kể cả kẻ thù của mình.

Ý nghĩa đích thực của Thánh Giá cần tìm thấy ở giáo huấn của Chúa Giêsu, hoặc nhìn thấy chính Đức Giêsu chịu treo trên Thập Giá để thực hiện ơn Cứu Chuộc cho con người. Người Kitô hữu đích thực vác Thập Giá đi theo Đức Kitô vì yêu mến Ngài, chứ không phải lợi lộc trần thế. Trước khi đi sâu vào mầu nhiệm Thập Giá chúng ta tìm hiểu ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay:

Khi ấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đang trên đường đi tới các làng, xã vùng Cêsarê, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo thầy là Gioan Tẩy giả, người thì nói là Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Rõ ràng là dân chúng đã thấy Chúa Giêsu là nhân vật của Thiên sứ, nhưng họ vẫn chưa tỏ tường hẳn về Ngài. Mà “vô tri thì bất mộ”, họ chưa nhận ra được dung nhan cứu thế của Đức Kitô thì làm sao họ có thể thấu đáo được mầu nhiệm Thập Giá của Ngài. Riêng ông Phêrô thấy được Con Thiên Chúa xuất thân từ gia đình thợ mộc nghèo nàn là một ơn rất đặc biệt…. Lúc đó Chúa Giêsu thấy niềm tin của Phêrô, Ngài liền bắt đầu mở chìa khóa cửa trời và tỏ cho các môn đệ biết mầu nhiệm sinh ơn cứu độ, Ngài cho các ông biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết và sau ba ngày Ngài sống lại. Rồi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ Đấng Mêsia với sự đau khổ và sự chết mà Ngài đang khẳng định với các môn đệ. Đó là những điều khó tin khó hiểu, vì suốt đời họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêsia bách chiến bách thắng, thế mà giờ đây họ lại được nghe những điều trái ngược:

Suốt quá trình cuộc sống, người Do Thái chẳng khi nào quên được họ là tuyển dân của Chúa theo ý nghĩa hết sức đặc biệt, họ trông mong được một địa vị cao cả trong thế gian. Họ luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavit. Họ mơ ước một ngày kia có một vua khác thuộc dòng dõi Đavit sẽ khiến họ trở thành vĩ đại trong lịch sử công chính và thế lực. Thế nhưng thời gian trôi qua, mơ ước của họ thật đáng thương hại. Họ bị lưu đầy sang A-sy-ry, người Babilon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do Thái đem về nước làm tù binh. Rồi họ còn bị làm tôi cho người Ba Tư, Hy Lạp, sau đó là người La Mã. Thế là họ chẳng chinh phục được ai, cho nên có một giòng tư tưởng khác nảy sinh, họ càng ngay càng mơ ước về một tương lai khi Thiên Chúa can thiệp lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, họ mong quyền năng Thiên Chúa sẽ làm những gì mà khả năng con người đành bó tay, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần dân, một siêu nhân xuất hiện trong lịch sử để tái tao thế giới và cuối cùng báo thù cho tuyển dân của Thiên Chúa… Lúc đó các dân nước khác sẽ liên minh với nhau để chống lại nhà vô địch của Thiên Chúa. Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Hiền giả Phi-lô bảo rằng “Đấng Mêsia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tai hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt.

Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêsia vốn ngự trị trong tâm trí người Do Thái, họ cũng đang chờ đợi thành Giêrusalem mới sẽ được làm lại, dân Do Thái đã bị tản mát khắp thế giới sẽ được gom về thành phố Giêrusalem mới, lời cầu nguyện hằng ngày của người Do Thái là: “Xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tản mát của chúng tôi khắp bốn phương trời lại”. Còn cao vọng hơn thế nữa, dân Do Thái tin là xứ Palestine sẽ là trung tâm thế giới và cả thế gian sẽ qui phục nó…. Chính vì những lý do đó, nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối, ngăn cản Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại quở trách đuổi Phêrô như xưa Chúa đã đuổi Satan cám dỗ Chúa trong thời kỳ chay tịnh 40 ngày ở sa mạc (Mt.4,10). Ngày trước Chúa nói với Satan là “phải thờ phượng Chúa”, còn bây giờ Chúa nói với các môn đệ và quần chúng rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mình mà theo Ta”. Đây là điều ngược hẳn với mơ ước trần gian.

Thập Giá khi mà Chúa báo trước thì Phêrô đã can gián Ngài. Thập Giá khi mà Phêrô theo Chúa vào sân tiền đình của thượng tế Caipha, Phêrô đã chối Chúa, còn các môn đệ khác đã bỏ chạy đi nơi khác hết. Thế mà Chúa lại mời gọi mọi người vác lấy. Ngài mời gọi con người lựa chọn chứ không bắt buộc. Nếu biết Đức Kitô là ai, hẳn chúng ta cũng biết Thập Giá là gì. Nếu vui lòng vác Thập Giá, Thập Giá sẽ đưa dẫn chúng ta vào Nước Trời. Thập Giá đắng cay sẽ cho chúng ta hương vị ngọt bùi của Thiên Đàng.

Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta xác tín hơn về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu treo trên Thập Giá; để biết bỏ mình, biết chia sẻ với tha nhân hơn là hưởng thụ; biết phục vụ mọi người hơn là thích thống trị; biết phân phát hơn là lãnh nhận. Càng theo theo sát bước chân Chúa chúng ta càng phải chịu hao mòn, chịu mất mát và thậm chí phải chịu chết để được sống vinh hiển đời đời với Đức Kitô. Chúa đã say mê vác Thập Giá, chúng ta là môn sinh của Ngài cũng phải hân hoan bước theo Ngài lên đồi Canvê. Vì nếu cùng chết với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài. Và nếu chia sẻ đau khổ của Chúa, chúng ta cũng được chung phần vinh quang của Người.

 

34. Qua Thập giá đến vinh quang.

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)

Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm trở của một đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu hiện thân nơi ba đệ tử của ông: Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng. Ba người học trò này là biểu tượng của ba nết xấu mà vị thiền sư phải vượt qua để đạt đến chính quả. Đó là lòng kiêu căng, sự đam mê nhục dục và tính lười biếng.

Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ cuộc hành trình theo Đức Giêsu của các môn đệ. Trong cuộc hành trình này, điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện duy nhất Chúa Giêsu nêu ra như một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Lời mời gọi ấy quả rất nhức nhối và mang tính quyết liệt gửi trao đến tất cả chúng ta.

Per Crucem (Qua Thập giá).

“Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. Đây là điều tâm niệm mà các nữ tu Mến Thánh giá vẫn lập đi lập lại mỗi ngày. Nhưng không phải chỉ các nữ tu, mà tất cả mọi Kitô hữu đều phải chọn và sống linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin của mình. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cũng khẳng quyết với xác tín sâu xa: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là sự điên rồ” (1 Cor 1, 22). Thánh Marcô kể lại, khi Đức Giêsu khải thị cho các học trò về viễn ảnh Thập giá, các tông đồ, đặc biệt Phêrô đã cản ngăn Ngài. Điều này dễ hiểu. Họ không thể chấp nhận một tương lai u ám như thế. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ làm thủ lãnh một vương quốc đầy oai hùng, tại sao lại có thể bị giết chết và bị treo thân giống như một tên cướp? Phêrô can ngăn là điều rất hợp lý theo suy luận tự nhiên. Vì vậy, Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Trở lại với bối cảnh xã hội ngày xưa, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều Chúa muốn nói. Trong xã hội Do thái thời bấy giờ, dân chúng sống dưới chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Đế quốc dùng án tử hình thập giá đối với các tội phạm ghê tởm nhất. Đây là hình phạt man rợ và kinh hoàng mà đế quốc chỉ áp dụng cho cư dân ở các nước thuộc địa, còn công dân Rôma được miễn. Tên tử tội sẽ bị treo lên cao, tay chân bị đóng chặt, ngực dãn ra và rất khó thở. Phạm nhân vừa đau đớn, vừa phải chịu đói chịu khát, phơi nắng phơi sương cho đến chết. Người nào khỏe nhất cũng chỉ cầm cự được hai ngày. Sau khi chết, xác của họ không được chôn trong lòng đất, để mặt đất khỏi bị nhiễm uế do tội lỗi ghê tởm của họ. Chim trời sẽ đến rúc rỉa thân xác ấy cho đến khi không còn lại gì. Đối với người Do thái, đây là một sự xúc phạm, đồng thời hình phạt ấy cũng nói lên tính dã man và sự miệt thị của đế quốc đối với các nước nhược tiểu.

Cũng tương tự như thế, Hy Lạp ngày xưa có rất nhiều triết gia nổi tiếng như Socrates, Aristote, Diogène.. Người dân say mê triết học để tìm sự khôn ngoan cho cuộc sống mình. Họ chủ trương phải sống cho thật ý nghĩa và giá trị. Cái chết thập giá của những phạm nhân đối với họ quả là một sự điên rồ, vì nó kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cuộc sống của họ coi như bị vất bỏ hoàn toàn.

Đây là não trạng của dân Do Thái và dân Hy Lạp thời Chúa Giêsu khi họ nhìn vào hình phạt khổ giá. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết xem ra vô lý tột độ như thế. Ngài chết như một tên tử tội đốn mạt nhất bị xã hội ruồng bỏ và coi khinh. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội, đón nhận một cái chết man rợ nhất, nhục nhã nhất và cũng bi thương nhất.

Vì thế, chẳng lạ gì Phêrô đứng ra can ngăn Chúa ngay tức khắc theo phản xạ tự nhiên. Phêrô không hiểu, đúng hơn ông chưa hiểu thế nào là mầu nhiệm Thập giá. Lời gọi mời của Chúa Giêsu “Ai muốn theo tôi, phải bỏ mình vác Thập giá mình mà theo”, vừa mang tính thách đố quyết liệt, vừa gợi mở một cuộc hành trình theo Chúa trong niềm tin tuyệt đối, tức là “cuộc hành trình đi vào một vùng tối tăm đầy ánh sáng” (tư tưởng của Thánh Grêgoriô thành Nyssê).

Ad Lucem (Đến vinh quang)

Nhưng, cái chết trên Thập giá của Đức Giêsu không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc cuộc sống 33 năm dương thế của Ngài một cách vô nghĩa. Ngài là một con người rất con người, đã đi qua cái chết, nhưng Ngài vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, Đấng hằng sống và không bao giờ chết. Đức Giêsu đã chọn Thập giá để khai mở cho con người chân trời ơn cứu độ qua sự phục sinh vinh thắng. Không có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết của một tên tử tội bị xã hội loại trừ. Không có cái chết nào bị thương và tức tưởi cho bằng cái chết của một đấng hay thi ân, lại bị con người phản bội và đối xử tàn khốc. Không có cái chết nào ai oán cho bằng cái chết của Đấng Công chính lại bị xét xử bất công và quá phũ phàng. Đức Giêsu đã chết trong cô đơn và bị ruồng bỏ hoàn toàn. Các học trò thân tín nhất cũng tháo chạy. Ngay cả Chúa Cha dường như cũng hắt hủi, đến độ Ngài phải não lòng thốt lên: “Cha ơi, sao Cha lại bỏ con?”

Nhưng Thập giá và mầu nhiệm tự hủy chính là con đường dẫn đến sự sống. Nghịch lý của Thập giá mà Chúa Giêsu gọi mời hôm nay được diễn bày nơi chính cái chết bi thương của Ngài: Qua sự chết đến sự sống, qua bóng tối của tử thần chúng ta mới có thể đi vào miền ánh sáng phục sinh vinh quang. Per crucem ad lucem.

Nghịch lý của Thập giá luôn là một mầu nhiệm khó hiểu. Chỉ khi Đức Giêsu từ cõi chết chỗi dậy, các học trò của Ngài mới dần hiểu ra và sẵn sàng lao vào con đường xem ra rất tối tăm ấy. Ánh vinh quang Phục sinh đã làm sáng lên chân trời đức tin mà trước kia vẫn còn mù tối nơi tâm hồn các tông đồ. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã tiếp cận trực tiếp với Đấng sống lại và con mắt đức tin của họ đã mở toang. Ngay cả Tôma Dydimô vẫn bị mang tiếng oan uổng là cứng tin, cũng đã hoàn toàn quy thuận khi Đức Giêsu hiện đến. Ông không cần xỏ tay vào lỗ đinh, cũng chẳng cần sờ chạm đến vết đinh nơi thân thể Chúa. Chính cặp mắt Đức Giêsu đã xoáy sâu vào tận tâm hồn ông, đem đến cho ông một luồng sáng mới, thắp lên ngọn lửa đức tin nơi ông. Bấy giờ các tông đồ mới hiểu ra cách tường tận những điều Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo tôi”.

In hoc signo (Cứ dấu này)

Vào năm 326, Vua Constantinô, hoàng đế Rôma đã có một thị kiến nhìn thấy hình Thập giá trên bầu trời với hàng chữ “In hoc signo vinceris” (cứ dấu này ngươi sẽ chiến thắng). Ông đã chiến thắng và đã tin. Vua Constantinô đã trở thành một tín hữu, bắt đầu giai đoạn hoàng kim của Kitô giáo ở Âu châu. Cũng vậy, Thánh giá chính là dấu hiệu để người ta có thể nhận ra những ai thuộc về Đức Giêsu. Người ta thấy hình tượng Thánh giá ở khắp nơi, trên nóc các nhà thờ, giữa gian cung thánh, trên bàn thờ mỗi gia đình, trên các phần mộ của người công giáo tại các nghĩa trang.., bởi vì cứ dấu này (in hoc signo), người ta nhận ra ai là môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thật.

Tuy nhiên, khi nói về Thập giá, chúng ta thường nghĩ ngay đến những đau khổ. Không phải đơn thuần chỉ như thế. Thánh giá của Chúa Giêsu trước hết và trên hết là dấu chỉ của tình yêu. “In hoc signo”, cứ dấu này người ta sẽ khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được biểu tỏ tuyệt vời như thế nào. Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa tròn đầy nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Qua Thập giá, chúng ta học được bài học rất căn bản về tình yêu Thiên Chúa ngỏ trao. Tình yêu ấy đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Thánh Têrêsa Hài đồng đã học được bài học căn bản này. Khi nằm trên giường bệnh, Chị thánh luôn mỉm cười, để qua những đau khổ nhỏ bé, chị dần tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu cao cả cùng với Chúa Giêsu. Một lần mẹ Agnès hỏi chị: “Sao sáng nay em vui vẻ thế?”. Têrêsa trả lời “Em rất vui vì hôm nay em được lãnh nhận 2 sự khó nho nhỏ để yêu Chúa Giêsu. Không có gì vui sướng cho bằng đón nhận những sự khó cỏn con như vậy”. Ngài nói tiếp: “Những khổ đau ấy chẳng dữ dằn gì đâu. Em chịu được tới mức nào, bạn tình Giêsu gởi đến cho em tới mức đó, em chẳng bao giờ lo lắng về điều ấy cả”. Cuộc đời của Chị thánh là cuộc đời chứa chan niềm vui và an bình, tựa như những cánh hồng lan tỏa mùi hương êm dịu, nhưng ẩn sâu bên dưới đầy những gai nhọn của Thập giá. Thập giá Chúa Giêsu chính là dấu chứng (signum) bày tỏ tình yêu và quyền lực vô song của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh nữ đã tóm kết cuộc đời mình qua một định thức đơn giản: “Ơn gọi của tôi chính là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi là sống sung mãn tình yêu nơi Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu”

Kết luận: Những con chim ẩn mình chờ chết

Đây là tên bộ phim được trình chiếu rộng rãi trên đài truyền hình thành phố vào những năm thập niên 90. Ở đây, chúng ta không đề cập đến nội dung hư cấu của bộ phim hay đích nhắm mà soạn giả muốn nói đến. Tôi chỉ vay mượn giai thoại về loài chim gai (thornbird), được bộ phim chọn làm tựa đề, để quy chiếu và tóm kết sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

Có một loài chim hót rất hay và chỉ hót duy nhất một lần trong đời. Trước khi chết, theo bản năng, nó bay vút lên cao, lượn mình vi vu giữa bầu trời mênh mông rồi lao nhanh xuống đất, cắm đầu vào một bụi gai và giẫy chết ở đó. Gai nhọn đâm nát khiến máu chảy tung tóe, thân xác nó tả tơi và dập nát. Trong đau đớn, nó sẽ cất lên tiếng hót, một giọng hót vừa ai oán vừa hùng vĩ, vừa cao vút nhẹ nhàng, vừa trầm buồn đến não nuột. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, nó hót vang. Giọng hót ấy thật tuyệt vời và thánh thót. Đó chính là tiếng hót của “những con chim ẩn mình chờ chết” (les oiseaux se cachent pour mourir). Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng sẽ cứu được mạng sống ấy”. Con đường theo Đức Kitô trên hành trình Thập giá cũng chính là con đường dẫn đến cái chết. Nhưng đây không phải là cái chết vô nghĩa, mà xuyên qua cái chết ấy chúng ta sẽ hát lên một bản hùng ca tuyệt vời, một bài ca chiến thắng khải hoàn vang dội. Đó chính là bài ca mà Đức Giêsu, thầy của chúng ta đã cất lên qua sự Phục sinh vinh thắng của Ngài. Có hát lên bài ca này, chúng ta mới cảm thấu được tình yêu Thiên Chúa, và tiếp tục dấn bước theo lời gọi mời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay.

 

35. Người Tôi Tớ đau khổ -(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

"Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,33)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Ðức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh cho chúng ta và cho mọi người.

II. Gợi ý sám hối

Vì sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu toàn bổn phận.

Vì chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng, thậm chí còn kêu trách Chúa.

Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Is 50,5-9a)

Trong phần II sách Isaia, còn gọi là Ðệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4 49,1-6 50,4-9 và 52,13-53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ ba.

Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.

Người Tôi Tớ này là ai? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Ðấng Messia. Ðức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này: Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.

2. Ðáp ca (Tv 114)

Tâm tình của người tín hữu trung kiên: dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.

3. Tin Mừng (Mc 8,27-35)

Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần:

a/ Ðức Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh: có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12: "Thầy là Ðức Kitô".

b/ Sau đó Ðức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.

- Các câu 33-35 "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo"

. "Ai muốn theo tôi" nghĩa là ai muốn làm môn đệ Ðức Giêsu ("đi theo" ai là làm môn đệ cho người đó)

. "Từ bỏ chính mình": xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Ðức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Ðức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hóa" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị "tha hóa". Nay cố gắng trở nên giống Ðức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.

. "Vác thập giá mình": Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Ðón nhận những khổ cực của mình, cũng như Ðức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, "vác thập giá mình" nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 35 giải thích câu 34: "Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi...". Như thế "vác thập giá" có nghĩa là "liều mất mạng sống", hay nói nôm na là "liều mạng" vì Chúa.

4. Bài đọc II (Gc 2,14-18) (Chủ đề phụ)

Thánh Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với nhau: "Ðức tin mà không có hành động thì là đức tin chết".

IV. Gợi ý giảng

* 1. Giêsu là ai?

Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Ðức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.

Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Ðức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.

Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:

. Quyển "The last temptation" (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.

Ðó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.

Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Ðức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.

. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển "Quo vadis": quyển truyện này lấy khung cảnh thời Hoàng Ðế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Ðó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của Hoàng Ðế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Ðức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Ðức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi "Quo vadis", tiếng Latinh nghĩa là "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Ðức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh." Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Ðức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.

Ðó là câu trả lời: Thầy là Ðức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!

Ðức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Ðức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá... Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời".

Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi "Giêsu là ai?" Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô "Thầy là Ðức Kitô" thì chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.

* 2. Từ bỏ chính mình

Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Ðỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.

- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?

- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?

- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.

- Ðược, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.

- Bằng mọi giá chị ạ.

- Bằng giá sinh mạng?

- Kể cả sinh mạng em.

- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Ðiều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

*

Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Ðó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34). Ðây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.

Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.

Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.

Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Ðấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".

*

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.

Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

3. Hai loại đức tin

Có hai loại đức tin: Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ, thầy cô... Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng; Loại thứ hai là tin vì mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin cá nhân.

Người có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức tin: cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan truyền đức tin cho người khác.

Người có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.

Người hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại: vừa do thừa hưởng từ những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.

Bởi thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Ðức Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta nghĩ Thầy là ai?" Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu nhận được từ người khác. Nhưng Ðức Giêsu còn hỏi tiếp "Phần chúng con, chúng con nghĩ Thầy là ai?" Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.

Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)

4. Ðức tin và việc làm

Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.

Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.

Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.

Cho nên Thánh Giacôbê nói: "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết".

Hoa trái của cầu nguyện là đức tin

Hoa trái của đức tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Và hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)

5. Nhận ra Ðức Giêsu

Nhận ra Ðức Giêsu là Kitô

Trước khi Ðức Giêsu đặt câu hỏi: "Anh em bảo Thầy là ai?", Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18; 8,17.21). Ðức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Ðức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này: "Anh em bảo Thầy là ai?" Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Ðức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: "Thầy là Ðức Kitô." Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Ðức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng: một Ðức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Ðức Kitô đó không phải là Ðức Kitô Giêsu.

Ðức Kitô: Con Người chịu đau khổ

Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Ðức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Ðây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Ðức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Ðức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Ðức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Ðó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Ðức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng "để cho Ngài phải thấy sự hư nát" (Tv 16,10 bản LXX). Ðức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.

Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Ðức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Ðức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Ðức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Ðức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông: "Satan, hãy lui lại sau Ta". Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Ðức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông: "Hãy đi sau Ta". Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Ðức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. "Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người." Ðức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. "Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người." (1C 1,25)

Thân phận của người môn đệ

Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. "Nếu ai muốn đi sau Ta". Ði sau Ðức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Ðức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Ðức Giêsu. Còn bây giờ, điều Ðức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.

Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Ðức Giêsu. Như thế Ðức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Ðức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn - Phục Sinh của Ðức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. "Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn." (Ga 21,18). Ðức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Ðức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ðức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Ðức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).

Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Ðức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Ðiều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản... để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.

Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời; đó cũng là đường mà mọi người phải đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:

1. Xin cho các vị chủ chăn và mọi con chiên trong Hội thánh không lùi bước trước khó khăn gian khổ / nhưng luôn trung thành bước đi theo Ðức Giêsu trên đường thập giá.

2. Xin cho các nhà cầm quyền và dân chúng trong các nước chậm tiến, kém phát triển / biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách / để xây dựng đất nước theo công lý và hòa bình.

3. Xin cho mọi người đang gặp khổ nạn / biết liên kết với cuộc khổ nạn của Ðức Giêsu Kitô / để tìm thấy ý nghĩa và niềm hy vọng cho cuộc sống.

4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta là môn đệ Chúa / biết trung thành đi theo Chúa / và sẵn sàng liều mạng sống vì Chúa và vì Tin mừng của Người.

Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị.

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Thánh Kinh nói "Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung". Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau. Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.

- Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.

VII. Giải tán

Thánh lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo".

 

36. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.

1. Đức tin của người Tôi trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)

Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?

Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.

Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ “đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là “Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.

Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.

2. Đức tin vào Chúa Kitô của người môn đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)

Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô”, Chúa Giêsu cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.

Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu “bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.

Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.

3. Đức tin không có hành động là đức tin chết (bài đọc Tân Ước – Giacôbê 2:14-18)

Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.

Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.

4. Sống đức tin

Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.

Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?

Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

 

37. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

Trong một tuần lễ sinh hoạt học hỏi và huấn luyện của các anh chị Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể từ các Xứ Đoàn gửi về. Ngày cuối chúng tôi được tham dự một buổi viễn du ngoài xã hội: đi thăm một viện dưỡng lão người già tại thung lũng Valley d'Amoure. Trong viện có chừng 60 bệnh nhân đủ mọi hạng người: già khớ đến, mù, đui, điếc, què và những bệnh nhân ngồi xe lăn. Chúng tôi đến thăm viện từ sáng sớm, nhiều người còn đang ngủ, nên nhận xét được rất nhiều: Có bà già co quắp chân tay, nằm èo ẹt trên giường còn xông mùi nước tiểu nồng nặc. Có cụ già gù và điếc ngồi trên xe lăn, hướng mắt nhìn ra cửa chính. Cụ là người già nhất và cô đơn nhất, ngày ngày cụ ra ngồi chỗ cửa chính để ngóng con trai vào thăm nom. Trong gian nhà chơi trống rỗng vài ba ông bà già ngồi chụm quanh bàn chơi cờ tây, lâu lâu mới được nụ cười thích thú. Trong một căn phòng kê đủ 3 chỗ ngủ, một thiếu nữ trạc độ 20 tuổi, cụt hai chân, đang quấn trong chăn, miệng ngồm ngoàm nhai bữa điểm tâm sáng. Phòng bên cạnh là một bà già đứng tuổi đang dương đôi mắt mờ mờ nhìn sát màn ảnh Tivi mầu. Bà mở cho máy kêu oang oang phát ra cửa. Đi phòng nào cũng ngửi thấy mùi hôi ban sáng, khiến tôi bị nôn mữa, phải chạy ra ngoài để lấy không khí. Chúng tôi giúp đỡ họ làm sạch vệ sinh ban sáng rồi tụ họp họ lại nhà hội để làm văn nghệ mua vui cho họ. Một buổi sáng hôm đó, chúng tôi đã làm cho biết bao guôm mặt rạng rỡ nụ cười. Ngay chính chúng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và sung sướng.

Câu chuyện trên đây thật thích hơp với bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn phải khổ nhiều". Chúa còn phải đau khổ nhiều khi nhìn đến nỗi khổ của dân chúng, đặc biệt là những kẻ khốn cùng. Trên thế giới này biết bao người tàn tật, bệnh hoạn về thể xác, già cả, khổ đau về tinh thần.... Cần được giúp đỡ, cần phải phục vụ . Làm cho họ chính là làm cho mình sung sướng vì họ là hình ảnh của Chúa hiện diện nơi đám dân nghèo. Chúa còn nói: "Những gì ngươi làm cho một anh em nghèo khổ là làm cho chính Ta" (Mt. 25:40).

Lạy Chúa, xin cho con thấu hiểu điều này là: Biết phục vụ người khác mới tìm được hạnh phúc thật.

 

38. Chúa Giêsu là ai đối với tôi?

Giả như có một ngày, chúng ta nhận được một cú điện thoại bảo chúng ta tới một địa điểm nào đó và gặp một người như mô tả qua điện thoại để nhận một món quà lớn. Luùc ñoù chúng ta sẽ suy nghĩ và đắn đo nhiều. Bởi lẽ, chỉ qua điện thoại làm sao sự tin tưởng của chúng ta trọn vẹn được.

Ðúng vậy, ông bà chúng ta có nói vô tri bất mộ nghĩa là không biết thì không thể tin được. Ðoạn tin mừng hôm nay cho thấy sau một thời gian Chúa Giêsu công khai ra đi rao giảng, hôm nay Người muốn xem dư luận biết mình là ai. "Người hỏi các môn đệ: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." (Mc 8, 27b 28).

Ðó là cái nhìn của những người ngoài. Giờ đây Chúa Giêsu trắc nghiệm cái nhìn của các môn đệ thân tín của mình "Người lại hỏi các ông: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Phê-rô trả lời: Thầy là Ðấng Kitô." (Mc 8, 29)

Chúa Giêsu chính là Ðấng Kitô của Thiên Chúa Giavê - một Ðấng Kitô tôi tớ. Chính tiên tri Isaia đã loan báo về Người trong bài đọc 1: ÐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ". (Is 50, 6)

Chúa Giêsu đến trần gian hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa Cha. Ý định hoàn tất tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Do đó, Chúa Giêsu một mực vâng theo thánh ý nhiệm mầu của Cha. Ðể từ đó con người được đón nhận trọn vẹn ơn cứu chuộc.

Thánh Phêrô cũng như các Tông đồ mặc dù tuyên xưng Chúa Giêsu đúng như Người là nhưng các ông chưa cảm nghiệm thật sự về Người. Chỉ sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông mới cảm nhận sâu sắc về Người. Cho nên, các ông dám liều mình vì Chúa và vì Tin mừng.

Có nhiều mức độ để biết về một ai đó. Trong đó cái biết trong tim là mức độ cao nhất. Cái biết đó sẽ làm thay đổi cách sống của con người ta. Cái biết đó sẽ làm cho người ta bạo dạn hơn. Cái biết đó sẽ là cho người ta tin tưởng và dấn thân trọn vẹn hơn. Có thể từ lâu chúng ta chưa thật sự biết Chúa Giêsu đến mức độ này nên cuộc sống của mình vẫn chưa được biến đổi nhiều. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta mỗi ngày được biết Người bằng chính con tim của mình. Nhờ đó, đời sống đức tin của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn.

 

39. Từ bỏ chính mình – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Đỏ". Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: "Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

- Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.

- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?

- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?

- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.

- Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.

- Bằng mọi giá chị ạ.

- Bằng giá sinh mạng?

- Kể cả sinh mạng em.

- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

***

Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình" (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.

Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể "được cả" mà cũng có thể "ngã về không". Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.

Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.

Nhưng "Từ bỏ chính mình" không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

"Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống" (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì "Ai biết chết thì sẽ biết sống".

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.

Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).

 

40. Thầy là Đấng Kitô

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

“Thầy là Đấng Kitô”, là lời tuyên xưng của thánh Phêrô khi Chúa Giêsu hỏi: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?”. Chúng ta có biết lời tuyên xưng của Phêrô quan trọng như thế nào không?

Chúng ta đã nghe lời tuyên xưng này quá nhiều lần đến nỗi dường như nó là lời nói của một ai đó. Nhưng thật ra, đó chính là lời mà chúng ta phải tuyên xưng hằng ngày. Một khi tuyên xưng như thế, chúng ta cảm thấy thế nào? Ngài là ai đối với chúng ta?

Hôm nay, Người cũng hỏi chúng ta: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?”

“Thầy là Đấng Kitô”.

Vậy, Đấng Kitô là ai?

Từ Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu. Xức dầu nghĩa là gì?

Đây là một nghi thức trong Cựu Ước để phong vương cho các vua Israen. Tiên tri Samuen đã xức dầu tấn phong cho vua Saun, và người được xức dầu là người được Chúa chọn được tràn đầy Thần khí Chúa để thi hành một sứ vụ Chúa trao. Đavít cũng được tiên tri Samuen xức dầu để thay thế vua Saun đã không tuân lệnh Chúa và bị Chúa bỏ rơi.

Thời gian sau các vua, nghi thức này cũng được áp dụng cho các vị thượng tế. Những người được Chúa xức dầu, vua hay thượng tế, đều là những người được tuyển chọn để thi hành những gì Chúa truyền để hướng dẫn dân Chúa đi đúng đường lối Chúa.

Sau thời lưu đày, nhất là dưới ách nô lệ của Rôma, dân Do Thái khao khát được tự do. Đã hiểu từ Kitô như một Đấng giải phóng dân tộc, một vị vua trong dòng tộc Đavít, sẽ biến nước Israen thành một cường quốc và bá chủ hoàn cầu.

Chúa Giêsu đến trong một hoàn cảnh khá phức tạp, khi dân Do Thái đang mong chờ một vị cứu tinh trần thế. Khi Ngài hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người trong hoang địa, dân chúng tưởng như đã gặp được vị cứu tinh họ mong muốn và muốn tôn Ngài làm vua.

Theo thánh Gioan, dư luận của đa số dân Do Thái đã xem Ngài là Đấng Kitô (xem Ga 3,41), là Con Vua Đavít.

Chúa Giêsu tỏ ra rất dè dặt khi dân chúng hồ hỡi loan hô Ngài khi trông thấy những phép lạ Ngài làm. Nhiều lần Ngài đã ra lệnh không cho ai biết về phép lạ, vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu sai về Ngài, xem Ngài như một vị cứu tinh trần thế.

Ngài tìm hết mọi cách để thanh tẩy quan niệm sai lầm ấy. Ngài chỉ bày tỏ cho một vài người xét ra là cần thiết, như người đàn bà Samari. Bà ấy nói với Ngài: “Thưa Ngài, tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.

Chỉ một lần duy nhất, Ngài để họ tung hô Ngài là Con Vua Đavít khi dân chúng rước Ngài vào Giêrusalem.

Hôm nay, chúng ta nghe nhắc lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, nhưng sau đó, Ngài cho các môn đệ thấy rằng Đức Kitô không là một vị anh hùng dân tộc, một vị vua oai hùng mà là một người sẽ bị hành hạ, bị giết chết. Thánh Maccô lại thêm một câu chú thích: “Ngài nói rõ điều đó không úp mở”.

Phêrô trực tính, không thể chấp nhận những lời Thầy nói, ông phản đối riêng với Thầy. Ông đã từng chứng kiến những phép lạ Thầy làm, ông đã từng nghe những lời ca tụng của dân chúng, và chính ông đã nghe từ miệng Thầy những lời khẳng định rõ ràng:

“Ta là ánh sáng thế gian”.

Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”.

Ta là đường, là sự thật và là sự sống”…

Vậy làm sao Thầy có thể thất bại như thế được! Làm sao người ta có thể giết Thầy?

Chúa Giêsu phản ứng một cách hết sức bất ngờ và mạnh mẽ: “Satan! Hãy lui ra! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”.

Con đường của Ngài là đau khổ và chết. Cái chết của Ngài không phải là một tai nạn, cũng không là một thất bại mà là một sứ mệnh, sứ mệnh của Đấng Thiên Sai, đến để “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”.

Chúng ta giống như Phêrô, muốn chiếm chỗ nhất, muốn thành công trong xã hội. Tinh thần đắc thắng đã trở thành động lực cho những hoạt động của chúng ta. Mục tiêu của chúng ta nhiều khi chỉ làm sáng danh ta hơn là làm sáng danh Chúa. Như thế, tất cả chỉ là cơn gió thoảng qua. Có cái gì đó không trọn vẹn, không trong sáng trong hướng đi của chúng ta: “tư tưởng của anh không đúng với tư tưởng của Thiên Chúa…”

Chúng ta cần trở về với tinh thần khiêm nhu và hy sinh của Chúa Giêsu. Kết quả của mọi hoạt động là do Chúa, chúng ta chỉ là dụng cụ thô hèn. Chúng ta luôn ước muốn làm điều lớn lao nhưng quên rằng chúng ta mong manh, nhỏ bé. Ngài dạy chúng ta “bỏ mình”. Đó là con đường giải thoát giúp chúng ta nhẹ nhàng bước đi “theo Ngài”.

Ngài bước đi nhẹ nhàng, không vướng mắc, không nặng nề. Ngài đã bước vào trần gian như một con người nghèo nàn nhất, không nơi nương thân. Lớn lên trong sự nghèo khó, tự do. Đăng trình rao giảng Tin Mừng, tay không, “không có nơi tựa đầu”. Chết trần trụi trên thập giá, đỉnh cao của đời Ngài.

Ngài đã yêu trọn vẹn, và chết trong yêu thương.

Ngài mời gọi chúng ta tự giải phóng mình khỏi mọi ràng buộc để đi về phía trước, trong thanh thản, trong hiến dâng. Yêu cho đến chết.

Bỏ mình không dễ, nhưng ai dám bước vào con đường này mới thấy mình tự do, mới thấy đời đáng sống và cái chết sẽ không còn là đe dọa mà là thành đạt.

Vậy, lời tuyên xưng của Phêrô quan trọng như thế nào?

Đó là cuộc sống của chúng ta, là nền tảng hạnh phúc, là phần gia nghiệp của chúng ta. Ngoài Chúa, chúng ta gặt hái được gì ở trần gian này?

Chúng ta đang ước mơ gì trong cuộc sống? Tiền bạc, của cải, danh vọng?

Nhiều người đã toại nguyện ở trần gian. Tiền bạc dồi dào xài ba đời không hết. Danh vọng có, nhưng cái chết vẫn là một hiểm họa không tránh khỏi. Bệnh tật và tuổi già cũng là những tai họa làm héo hắt cuộc sống. Những người giàu nhất thế giới vẫn bị hành hạ và chết vì bệnh ung thư.

Chỉ có Chúa Giêsu mới làm cho cuộc đời chúng ta sáng lên một niềm hy vọng không tàn phai trước những khốn khổ và cái chết.

Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta sinh lực cần thiết để chọn con đường khổ giá để đạt tới vinh quang tối hậu. Ngài chấp nhận đau khổ và cái chết vì Ngài biết “ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Cuộc chiến của chúng ta hôm nay cũng như cuộc chiến của Ngài. Chúng ta phải nhận lấy thân phận cát bụi với tất cả gánh nặng của nó, nhưng chúng ta không mãi là cát bụi vì chúng ta dám tin vào Ngài, chúng ta sẽ sống lại với Ngài. Nếu cuộc sống chúng ta đi vào bế tắt là trở về với cát bụi, với hư vô thì cuộc đời có đáng sống không? Ý nghĩa gì khi lao lực suốt cả cuộc đời để rồi đi về hư vô? Những khó nhọc của chúng ta suốt một đời chỉ gặt hái được hư không và thêm vào đó là sự khốn nạn đời đời thì quả là vô nghĩa.

Con người hôm nay yêu thích sự vô nghĩa đó vì họ không có ai để bám, không có gì để tin. Họ không có niềm hy vọng nào khác.

Chúng ta tin vào Chúa và chính Chúa sẽ là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Hãy tạ ơn không ngừng vì niềm tin Chúa ban.

Hôm nay, nơi bàn thờ, Ngài đến với chúng ta qua hình ảnh một tấm bánh, nhưng trong sự nhỏ hèn tột đỉnh đó, Ngài là niềm hy vọng vô bờ cho chúng ta, là lẽ sống duy nhất. Không có gì đáng cho chúng ta ước mơ. Chỉ có Ngài thôi.

 

41. Những viên ngọc giả - Lm Gioan B. M.

Truyện kể rằng vua Chosroes nước Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống của mình. Sau khi bình phục, vua triệu tập các cận thần và hỏi họ: "Trẫm muốn biết những gì các khanh đang chờ đợi nơi trẫm. Các khanh có nghĩ rằng trẫm là một quân vương tốt không? Đừng sợ, cứ nói lên hết sự thật, trẫm sẽ thưởng cho mỗi người một viên ngọc quí". Thế là các quan thay nhau lên tiếng ca ngợi vua. Người nào cũng tìm những lời tốt đẹp nhất khen lao tâng bốc vua. Khi đến lượt Elim, vốn là một người khôn ngoan và chính trực, ông tâu: "Thưa bệ hạ, thiết tưởng thần nên giữ thinh lặng thì hơn, vì sự thật không thể mua bằng tiền bạc". Vua tuyên bố: "Được. Trẫm sẽ không thưởng cho ngươi vật gì cả. Nào, hãy nói những gì khanh đang suy nghĩ trong lòng". Elim thưa: "Tâu bệ hạ, vì bệ hạ muốn biết những điều hạ thần đang nghĩ trong lòng. Hạ thần nghĩ rằng bệ hạ cũng chỉ là người như mọi người khác, cũng có những lầm lỗi và tật xấu. Nhưng những lầm lỗi và tật xấu ấy lại đè nặng trên dân chúng vì siêu cao thuế nặng... Thần nghĩ rằng bệ hạ đã tiêu xài quá nhiều để tổ chức tiệc tùng, để xây cất dinh thự, và nhất là để theo đuổi chiến tranh".

Nghe những lời ấy, nét mặt vua bỗng trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Rồi vua sai tặng cho các cận thần mỗi người một viên ngọc như đã hứa. Riêng Elim thì được bổ nhiệm lên chức tể tướng. Ngày hôm sau, các quan nịnh bợ trở lại triều đình tâu vua: "Tâu bệ hạ, kẻ nào bán ngọc qúi cho bệ hạ đáng phải treo cổ. Những viên ngọc ấy toàn là ngọc giả". Bấy giờ vua lên tiếng: "Trẫm biết đó toàn là ngọc gỉả, cũng như những lời tâng bốc giả dối của các ngươi".

Tin mừng theo Thánh Marcô cũng tường thuật Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông lần lượt thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Gỉa, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác thì nói đó là một tiên tri" (27-28). Nhưng Chúa Giêsu chưa hài lòng về những câu trả lời đó, Ngài đã thấu rõ lòng các ông thế nào rồi chẳng cần phải nói ra, nhưng để các ông khám phá Ngài là ai trong cuộc sống các ông, nên Ngài hỏi tiếp: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô" (29). Vì được trời cao mạc khải nên Phêrô đã trả lời đúng. Tuy nhiên trong thâm tâm của Phêrô và các môn đệ cũng như người Do thái thời đó đều mong ước một Đấng Kitô đến để giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị của Rôma, làm cho nước Israel nên cường thịnh. Một Đức Kitô họ nặn ra theo ý họ hơn là một Đức Kitô do Thiên Chúa Cha sai đến. Vì thế khi Chúa hé mở cho các môn đệ thấy Ngài lên Giêrusalem và phải chịu đau khổ nhiều, phải chết đi rồi sống lại, Phêrô đã kéo Ngài ra ngoài can ngăn.

Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ xưa, Ngài cũng muốn hỏi từng người chúng ta hôm nay. Chúng ta không thể chỉ trả lời theo như điều chúng ta học biết trong sách vở hay nghe người khác nói. Nếu như thế, chúng ta theo Chúa chỉ mới hời hợt mà thôi. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhận thức Ngài là ai, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vậy để trả lời đúng, chúng ta phải sống như Ngài đã sống. Chúng ta phải Kitô hoá đời sống mình, nghĩa là phải cố gắng tập nhìn bằng mắt Chúa, nghe bằng tai Chúa, nói năng bằng miệng Chúa, hành động bằng tay Chúa, suy tưởng và phán đoán bằng tâm trí Chúa. Nói cách khác, phải xin Chúa cho tinh thần Ngài thấm nhập vào mọi hành vi cử chỉ của chúng ta. Thế nhưng để nên giống Chúa Kitô chúng ta phải siêng năng chiêm ngắm cuộc đời Chúa Kitô Đấng đã tận hiến mình trọn vẹn cho Cha, hoàn toàn vâng phục Cha đến nỗi sẵn sàng chết và chết trên thập gía để làm trọn ý Cha.

Lạy Cha, chúng con nài xin Cha, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, xin ban tràn đầy Thánh Thần cho mỗi người chúng con, để soi sang và hướng dẫn lòng trí chúng con luôn theo sát gương Chúa Kitô Con Cha, để chúng con bắt chước Người mọi giây phút trong cuộc sống, hầu chúng con thực đáng gọi là Kitô hữu, là người bạn thân của Chúa Kitô Con Cha. Nếu không, chúng con cũng chỉ là những kẻ nịnh bợ gỉa dối. Rốt cuộc, có lẽ Chúa cũng chỉ thưởng cho chúng con những viên ngọc giả.

 

42. Thầy là Đấng Kitô – Lm. Đặng Quang Tiến

Đoạn 8:27-35 được đặt ở vị trí bước ngoặt trong tin mừng theo Marcô. Trong phần đầu của tin mừng nầy (1:14-8:26), Marcô đã trình bày Chúa Giêsu, Đấng đầy quyền năng trong giảng dạy và hành động. Điều nầy dẫn đến kết luận giữa dân chúng là Người được công nhận như là Đấng Kitô; và cũng chỉ từ lúc nầy Người mới cho biết sự thương khó của Người. Như thế, đoạn 8:27-35 có thể được xem như là kết luận của phần thứ nhất của tin mừng nầy, và cũng là dẫn nhập của phần thứ hai (8:27-16:80), nói đến hành trình lên Giêrusalem (8:27-10:52), những hoạt động ở đó (11:1; 13:37); và cuộc thương khó, cái chết và phục sinh tại Giêrusalem (14:1; 16:8).

Đoạn 8:27-35 được chia thành ba: 1- Câu hỏi của Chúa Giêsu về căn tính của Người (8:27-30); 2- Tiên báo lần thứ nhất về định mệnh của Chúa Giêsu (8:31-33); 3- Điều kiện và mục đích của việc theo Người (8:34-35; đúng hơn, phần nầy kéo dài đến câu 9:1). Sau đoạn tra hỏi và khẳng định về căn tính của Chúa Giêsu (8:27-30), đoạn 8:31-33 liên kết xét theo chủ đề rất chặt chẽ với đoạn 8:34-9:1và được trình bày cách đối xứng với đoạn ấy: định mệnh của Chúa Giêsu trong lời tiên báo của Người (8:31-32a) trở nên định mệnh tất yếu cho những ai muốn theo Người (8:34-37); trong khi, hành vi phản đối của Phêrô trước lời tiên báo ấy (8:32b-33) dẫn đến giáo huấn của Người cho những ai muốn chối bỏ Người (8:38-9:1).

Ngay khởi đầu tin mừng, Marcô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (1:1). Tước hiệu “Đấng Kitô” nầy chỉ xuất hiện trong phần thứ hai của tin mừng (8:29; 9:41; 12:35; 13:21; 14:61; 15:32); trong khi, ở phần thứ nhất cũng có những cách gọi khác liên quan đến căn tính của Người như “Con Yêu Dấu” (1:11), “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1:24), “Con Thiên Chúa” (3:11), “Con của Thiên Chúa tối cao” (5:7). Hơn nữa, cách nói “Ngài/Ông là”, ở ngôi thứ hai, trong câu hỏi hoặc câu khẳng định, chỉ được dùng để bàn đến căn tính của Người (1:11; 3:11; 8:29; 14:61; 15:2). “Đấng Kitô” (tiếng hy lạp, christos), hay “Đấng Messia” (tiếng do thái, mashiah) nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Xức dầu là hành vi quyết định trong việc tôn vương (x. 1Sam 10:1; 1V 1:39). Do đó, Đấng Kitô là vua (15:32). Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định địa vị và quyền năng của Người khi được hỏi về căn tính “Đấng Kitô” của Người (x. 14:61-62). Với dân chúng, Người được cho là một trong các ngôn sứ (8:28). Nhưng thật ra, Người là vị vua duy nhất (x. 12:1-12).

Sự phản đối của chính Phêrô (8:32), những thắc mắc và chế diễu của những người lãnh đạo của người do thái (14:61) và của Philatô (15:2.9.12.18) chứng tỏ tâm thức của họ lúc ấy không thể chấp nhận đấng được gọi là vua của họ có thể chịu số phận khổ đau theo như lời tiên báo của Chúa Giêsu (8:31). Điều đáng chú ý là Phêrô và Chúa Giêsu đã trách mắng lẫn nhau (8:32.33)! Động từ “trách mắng” (epitimaò), ngoài ý nghĩa “ra lệnh” (3:12; 8:30), được dùng trong lời Chúa Giêsu trách mắng các thần ô uế (1:25; 9:25), sóng gió đe dọa (4:39). Khi trách mắng, Người tự đặt mình như là đối thủ của những quyền lực xấu ấy. Lý do Phêrô trách mắng Chúa Giêsu là vì Người đã nói đến điều mà ông không từng nghĩ đến; trong khi Người trách mắng lại ông, cũng vì ông đã không nghĩ tưởng như Người (8:33). Hai bên đã trở thành đối thủ không mong muốn của nhau. Tuy nhiên, lời trách mắng của Chúa Giêsu sắc bén một cách riêng. Một đàng, Người ra lệnh Phêrô đi lui đàng sau Người; nghĩa là trở về lại vị trí của người môn đệ là đi theo sau Người (x. 1:17.20; 8:34), chứ không phải đứng trước để chỉ đường cho Thầy mình. Đàng khác, Người gọi ông là “Satan” nghĩa là “đối thủ” của Thiên Chúa (x. Dân số 22:22, 32; Zac 3:1–2; Gióp 1:6–9, 12; 2:1–7; 1 Niên sử 21:1), vì ông cản trở hành trình của Người. Như thế, Chúa Giêsu đã được công nhận là Đấng Kitô, nhưng theo cách nghĩ tưởng trần thế.

Làm môn đệ của Chúa Giêsu thì phải đi theo sau Người. Đi trước Người sẽ trở thành đối thủ và cản trở công việc của Người. Làm môn đệ của Người cần học và chấp nhận Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh và phải chuẩn bị đối diện số phận như Người (x. 1Cr 1,23).

 

43. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson

Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.” Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.

Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”

Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình.”

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.

 

44. Satan, hãy lui lại đàng sau Ta

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Mc 8: 27-35  Cũng như Phêrô, chúng ta muốn chận Chúa lại, không cho Chúa tiếp tục cuộc hành trình “kỳ quặc” về Giêrusalem. Chúng ta muốn “dạy” Chúa lối đường nên đi.

Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi: Anh em bảo Thầy là ai?

Ngài đã từng làm nhiều phép lạ:

- Hóa bánh ra nhiều (Mc 6,30-44;8,1-10)

- Đi trên mặt biển (Mc 6,45-52)

- Chữa người câm điếc (Mc 7,31-37)

- Chữa người mù (Mc 8,22-26)

- Trừ quỷ cho một bé gái (Mc 7,24-30)

Chúa Giêsu đã dần dần chuẩn bị mọi người cho câu hỏi của ngài: Anh em bảo Thầy là ai?

Thế mà dân chúng, người thì cho là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì cho là Elia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó (Mc 8,28). Cũng may, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã trả lời: Thầy là Đấng Kitô (Mc 8,29). Phêrô đã trả lời đúng, nhưng hình ảnh về một Đức Kitô của Phêrô cũng không khác với quan niệm của đám đông: một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, bách chiến bách thắng, nên khi Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn, đã làm cho Phêrô choáng váng. Không biết ông nói gì với Chúa, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình thương yêu chân thành. Phêrô muốn dẫn đường cho Chúa, nhưng Chúa lại muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông là một môn đệ, môn đệ tất nhiên phải đi sau sư phụ.

Cũng như Phêrô, nhiều khi chúng ta muốn chỉ cho Chúa phương cách cứu thế, chứ làm theo kiểu của Chúa thì e rằng chẳng còn ai tin và Ngài sẽ thất bại ê chề.

Cũng như Phêrô, chúng ta muốn chận Chúa lại, không cho Chúa tiếp tục cuộc hành trình “kỳ quặc” về Giêrusalem. Chúng ta muốn “dạy” Chúa lối đường nên đi. Chúng ta muốn Chúa rút bớt điều kiện cho mọi người cảm thấy nhẹ nhàng; cung cấp bánh ăn, của cải vật chất dư đầy cho người ta theo đông; làm nhiều phép lạ cho dân chúng phấn khởi, thích thú. Nhưng Chúa Giêsu quát lên: “Hỡi Satan, hãy lui lại đàng sau Ta.” (Mc 8,33)

Có hai lần trong đời mình, Chúa Giêsu đã dùng chữ “Satan”. Một lần với tên Cám Dỗ trong hoang địa và lần này với Phêrô. Satan đối nghịch với Thiên Chúa. Satan làm đảo lộn trật tự thế giới. Satan phá hoại chương trình của Thiên Chúa nơi con người. Thế nên lời quở mắng “Satan” là lời khiển trách nặng nề nhất.

Nhưng nếu để ý chúng ta sẽ thấy: trong lần quở mắng tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu bảo nó “hãy cút đi”, Ngài không còn muốn thấy mặt nó nữa; nhưng khi khiển trách Phêrô, Chúa Giêsu lại nói “hãy lui lại đàng sau Ta”. Như thế Chúa Giêsu vẫn cho người môn đệ cơ hội hoán đổi hướng nhìn và cách đi. Thay vì đi trước và chỉ lối cho Chúa, Phêrô phải tiến bước sau Ngài.

Satan không thể bước theo Chúa vì bản chất kiêu ngạo của nó. Nhưng chúng ta, dù bao lần lầm lỡ, dù nhiều khi sống theo ý mình, hay từng chạy theo tiếng gọi của ma quỉ, chúng ta vẫn được ban cho cơ hội làm lại cuộc hành trình của người môn đệ Đức Giêsu, dẫu biết rằng không môn đệ chân chính nào lại không phải mang thập giá: “Ai muốn theoTa, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình và theo Ta” (Mt 16,24).

Quả thật, đây là bài học khó nhất trong các bài học mà Chúa Giêsu muốn hướng dẫn cho các môn đệ. Quả thế, các ông tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, nhưng là Đấng Kitô phải chịu trải qua cuộc khổ nạn rồi mới tới vinh quang. Đó là con đường Chúa Giêsu phải đi, là con đường Chúa Cha muốn Chúa đi, nên Người không muốn tránh né.

Quả thật, một bài học không dễ chấp nhận. Chính vì vậy, không phải vô tình, trước khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Marcô đã đưa sự kiện Chúa chữa người mù thành Giêricô. Có lẽ Marcô muốn nói rằng cho tới lúc này, các môn đệ vẫn mù và muốn cho các môn đệ và cả chúng ta hãy nhìn vào người mù thành Giêricô này.

Quả thế, đứng trước con đường Chúa đi là con đường thập giá, có lẽ mỗi người chúng ta cũng mù một cách nào đó. Chúng ta xin Chúa Giêsu mở mắt chúng ta như đã mở mắt cho người mù thành Giêricô. Chúa hỏi người mù: anh muốn tôi làm gì cho anh. Anh mù đáp: Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.(Mc 10,51). Khi anh nhìn thấy thì anh đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10,53). Điều đó nói lên rằng, người mù đã trở nên môn đệ của Chúa vì anh đang theo Chúa trên con đường Chúa đi, tức là con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến núi Sọ, con đường khổ giá.

Và cũng như người mù, thánh Phêrô, sau lời khiển trách của Thầy, đã trở lại vị trí của mình: ông không đòi Chúa theo ý mình, song là vâng theo ý Chúa; ông không dẫn đường cho Chúa nhưng là bước theo dấu chân Chúa. Cao điểm của sự “đi theo” này là việc Phêrô chịu đóng đinh trên thập giá vì Đức Kitô vào năm 69 AD.

 

45. Vác Thánh Giá theo Chúa

MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu

1. Từ bỏ ước muốn của mình

Có đôi vợ chồng sinh được cháu trai. Đây là con cầu con khẩn, vì hai vợ chồng sống với nhau từ lâu mà không có con. Họ rất sốt sắng thờ phượng Chúa, luôn cầu xin Chúa cho đứa con nối giòng. Chúa nhậm lời cho bà vợ mang thai. Họ ước mong sinh được đứa con trai khôi ngô tuấn tú.

Đến ngày sinh, rủi thay người vợ sinh ra đứa con trai có tật tay phải. Người cha ôm con mà khóc nức nở … Thân nhân bạn hữu đến thăm, thấy thế không biếtnói sao cho hợp tình hợp lý, phải chia vui hay chia buồn. Nhưng cha mẹ đứa bé khuyết tật đã làm cho họ bỡ ngỡ thán phục. Họ nói, “Vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc điều chúng tôi hằng mong ước. Hiện chúng tôi đã có đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ là thương yêu nuôi dưỡng nó, vì đã khuyết tật hay gì nữa, nó vẫn là con của chúng tôi.”

2. Từ bỏ chính mình

William Oscar Wilde kể huyền thoại “Họa mi và bông hồng đỏ.” Một hôm giữa mùa hè, con hoạ mi nghe lời chàng trai bên cửa sổ, “Nếu em không kiếm được mộ tbông hồng đỏ để anh cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ phải xa anh mãi mãi.”

Họa mi hiểu rõ lời của chàng trai, nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ giữa nắng cháy mùa hạ này? Nhưng nếu không tìm được thì người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không thể chịu nổ icảnh bi thương đó, nên đến nài nỉ cây bông hồng, “Chị hồng ơi, chị làm ơn giúp cho em một bông hồng đỏ.”

- Họa mi em, giữa nắng cháy mùa hạ này, làm sao chị có hoa hồng đỏ cho em?

- Chị có phép mầu nào chị cố gắng nở cho em mộ tbông thôi.

- Nhưng họa mi ơi, muốn có phép mầu, phải có máu đỏ và sinh mạng.

- Em sẵn long bằng mọi giá chị ạ.

- Vậy em hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ.

Họa mi đã đ ổđến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.

3. Ngọc không dũa không sáng

Khổng Tử nói, Ngọc không dũa không sáng, người không chịu thử thách không thể hoàn thiện.” Trong cuốn sách “Tôi tin” có câu chuyện sau đây đã xảy đến cho ông James du Pont lúc ông mới lên 7 tuổi. Một đêm đang khi ngủ say, bỗng James thức giấc. Cậu thấy mẹ đang ngồi khóc. Đây là lần đầu cậu thấy mẹ khóc. Và cha cậu ngồi bên an ủi. Cậu thuật lại

- Lúc đó cha mẹ tôi đau buồn quá nên quên tôi đang có mặt bên cạnh. Và khi mọi việc được giải quyết êm đẹp, biến cố đã xảy ra đêm đó vẫn lưu lại trong tâm trí tôi. Và tôi nhớ mãi lời cha tôi nói để an ủi mẹ tôi, “Cuộc đời không phải chỉ toàn là hoa hồng.”

4. Hành động củ thể

Một ẩn sĩ trẻ được linh sư dẫn đến ngồi ở cổng làng, chào hỏi mọi người qua lại và mọi người cũng đáp trả niềm nở.

Ngày nọ có một người không để ý đến sự có mặt của thầy trò, mặc cho hai tu sĩ ngã đầu chào, người đó vẫn thinh lặng đi qua. Thấy thế, vị tu sĩ trẻ bực tức, nên linh sư giải thích:

- Con đừng thắc mắc làm chi. Có thể ông ta điếc hoặc quá bận việc.

Nhưng vị ẩn sĩ trẻ không bằng lòng vói lời giải thích đó. Thầy cả quyết người đó thiếu giáo dục, thiếu lễ độ.

Rồi một hôm người đàn ông đó cũng đi ngang qua trước mựt hai ẩn sĩ và cũng vẫn không đáp lại lời chào hỏi. Bỗng ông ta trợt chân té ngã, hai ẩn sĩ vội chạy đến đỡ dậy thì thấy hai túi áo rộng lớn của ông chứa đầy những viên đá cụi. Và hai thầy trò đã đưa ông về tận nhà thì được người vợ cho biết:

- Từ nhiều năm nay, ngày nào chồng tôi cũng đến bờ sông nhặt những viên đá cụi về xây đền thờ thần của chúng tôi, vì không muốn cho ai biết, nên chồng tôi cố giấu những viên đã đó trong người.

***

Câu chuyện trên có thể minh hoạ cho lời thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”.

Và thánh nhân nói tiếp: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2,15-16).

Phải chăng thánh Giacôbê muốn nói với chúng ta: “Một đức tin không có hành động cụ thể của bác ái là một đức tin chết” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).

5. Bỏ mọi sự theo Thầy

Trong tác phẩm: "Người nghèo của Chúa", có câu chuyện về thánh Phanxicô Adxidi:

Tôi và bạn tôi đến một thành phố nhỏ. Bạn của tôi chính là bạn thân với thánh Phanxicô Axidi từ thuở nhỏ. Tình cờ gặp lại thánh nhân, anh ta mừng rỡ chạy đến ôm ngài và hỏi:

- Anh Phanxicô! Ai đã khiến anh ra nông nỗi này?

- Chúa đã làm giúp tôi.

Bạn tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Bao nhiêu đồ dùng sang trọng của anh, bao nhiêu áo quần đẹp đẽ của anh, cả cái lông chim đỏ gắn trên mũ của anh thở nào, sao mất hết cả rồi? Và mấy chiếc nhẫn vàng trên tay anh nữa?

- Satan đã cho tôi, Tôi trả lại cho nó.

Bạn tôi nhìn từ đầu đến chân vị thánh. Anh không thể tưởng tượng được người bạn hào hoa phong nhã ngày nào của anh, bây giờ mũ cũng không còn, giày dép cũng không. Cảm xúc đến rơi lệ, anh hỏi:

- Nầy anh Phanxicô, anh từ đâu đến?

- Từ một thế giới khác.

Chính thánh Phanxicô Axidi đã thực hiện Lời Chúa Giêsu trong Tin mừng Luca 14, 25-33 "bỏ hết mọi sự theo Thầy" làm môn đệ của Chúa.

***

Giai thoại trên đây gợi lên cho chúng ta suy nghĩ về hạnh phúc đích thật của con người. Xem ra con người dõi theo cái bóng hạnh phúc hơn là chính hạnh phúc. Có người không hạnh phúc nằm trong giàu sang; có người lấy danh vọng làm hạnh phúc; có người tìm kiếm hạnh phúc trong lạc thú. Nhưng kinh nghiệm cho thấy; tất cả chỉ là ảo ảnh. Tiền bạc, quyền bính, danh vọng, lạc thú, cuối cùng rồi chỉ làm cho con người thất vọng chán nản ê-chề.

Là Đấng đã đặt trong trái tim con người hạnh phúc, nên chỉ có Thiên Chúa mới chỉ cho con người biết đâu là hạnh phúc đích thực. Chính Chúa Giêsu là hiện thân của niềm hạnh phúc đích thực đó. Và Người chính là con người duy nhất trên trần gian đã đạt được nguồn hạnh phúc đích thực đó. Người dạy cho chúng ta biết: hạnh phúc đích thực không tìm được trong tiền tài, danh vọng, lạc thú, chức quyền, Sống hạnh phúc là sống như Chúa Giêsu, là sống một cuộc sống hy sinh bỏ mình, vác thập giá hàng ngày: là sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và tha nhân". (theo "Phút cầu nguyện cuối ngày" tập II)

6.Theo chúa là từ bỏ

Bức tranh “tiệc ly” của Chúa Giê su là một trong những tác phẩm danh tiếng của họa sĩ Leo Narđô de Vinci. Nhân vật chính là Đức Giê su và các tông đồ bao quanh.

Khi đem bức tranhnầy ra triển lãm, nhà danh họa đứng nép trong gốc phòng quan sát các người đến xem. Ông hết sức ngạc nhiên thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt Đức Giêsu, mà là một cánh hoa nhỏ ông vẽ trong một gốc của bức tranh. Ông cảm thấy hối hận vì đã vẽ thêm cánh hoa đó, khiến mọingười không chú ý đến trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đức Giêsu. Ông liền dùng cọ bôi bỏ cánh hoa ấy. Ngay ngày hôm sau, mọi người đến xem tranh đều chăm chú dán mắt vào điểm trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đấng Cứu Thế.

***

Theo Chúa là đặt Người vào trọng tâm của cuộc sống, là nhìn thấy Người trong mọi sự.

Chúa Giêsu không chỉ là một bậc thầy vạch đường cho người khác đi, nhưng chính Người là con đường duy nhất. Mọi người phải đi theo Người đến cõi phúc bất diệt. Như thế có nghĩa là phải từ bỏ tất cả để đi theo Người. Với các môn đệ đầu tiên, Người chỉ bảo “hãy theo Ta” là họ bỏ mọi sự theo Người. Bỏ tất cả đi theo Chúa, đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.

Theo Chúa là tin rằng Người đang sống và sống thiết thực trong cuộc sống chúng ta. Do đó, kẻ theo Người phải luôn tỉnh thức nhận ra Người trong tất cả mọi sự và trong từng giây phút của cuộc sống. Và đi theo Chúa cũng có nghĩa là phải sống thế nào để mọi người nhìn vào đều nhận được gương mặt Cứu thế của Người. Một cuộc sống như thế chắc hẳn đòi hỏi nhiều hy sinh từ bỏ, như nhà danh hoạ Vinci phải xóa bỏ cánh hoa đẹp trong bức tranh để cho mọi người chú ý đến gương mặt Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ phải sẵn sàng tháo gỡ và vứt bỏ những gì còn vướng mắc, và phải vứt bỏ dứt khoát, để chỉ để cho Chúa và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Người qua chính cuộc sống của mình.

(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).

 

46. Đấng Kitô

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

Sau khi Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã ra hình phạt cho hai ông bà (A-Dong và Evà); đó là tội Nguyên Tổ, nhưng Thiên Chúa cũng hứa sẽ sai một Đấng Cứu Độ đến để chuộc tội và ban ơn Cứu rỗi cho nhân loại (Sáng Thế 3: 15). Đấng được Thiên Chúa hứa sẽ sai đến người Do Thái gọi là "Messiah" (có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu), dịch sang tiếng Hy Lạp "Christos", chuyển âm sang tiếng Anh và tiếng Pháp là "Christ' và sang tiếng Việt Nam là "Kitô". Chính Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Đấng Kitô (Matcô 14: 61-62).

Sở dĩ người Do Thái gọi "Đấng Chúa Hứa" là "Đấng Được Xức Dầu" là vì theo truyền thống Do Thái, các vua được xức dầu phong vương (1Samuel 10:1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (Xuất Hành: 29:7). Người Do Thái quan niệm Đấng Kitô là vị "Vua" trong tương lai. Ngài sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Daniel 9: 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang.

Nhưng Đấng Kitô đã đến trần gian trong khó nghèo. Ngài đã sinh bởi lòng Đức Trinh Nữ Maria (Luca 2: 10-11), và Ngài được đặt tên là Giêsu như lời Sứ Thần nói với Đức Maria (Luca 1: 31) và Thánh Giuse (Matthêu 1:21). Như vậy, Đấng mà "muôn dân mong đợi" đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giêsu, cùng với danh hiệu Kitô ghép lại thành Giêsu Kitô.

Qua Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 8: 27-35) chúng ta thấy người Do Thái thời Chúa Giêsu chưa nhận ra Ngài chính là "Đấng Kitô" Thiên Chúa sai đến, nên người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êli, người thì bảo là một trong các Tiên Tri..." Chính vua Herôđê cũng cho Ngài là "Gioan Tẩy Giả ta đã giết, nay đã sống lại (Matcô 6:16). Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi các Tông đồ, thì Phêrô đã đại diện anh em xác quyết "Thày là Đấng Kitô!". Xác quyết như vậy tỏ ra Phêrô và các Tông đồ đã nhận biết được Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô "mà muôn dân mong đợi". Tuy nhiên, Phêrô và các Tông đồ chưa hiểu được là "Đấng Kitô sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại..." (Matcô 8:31) Chính tiên tri Isaia cũng đã tiên báo trước về những đau khổ Đấng Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại như trong Bài Đọc I hôm nay (Isaia 50: 5-9). Vì chưa hiểu được quan niệm "Đấng Kitô Đau Khổ", nên khi nghe Chúa Giêsu nói như vậy, Phêrô "đã can ngăn Chúa Giêsu" và Chúa Giêsu đã quở mắng ông: "vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người!" Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dạy cho các Môn đệ bài học thực tế: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày mà theo Ta..."

Bài học "Đấng Kitô Đau Khổ" là bài học Chúa dạy các môn đệ, nhưng cũng là bài học Chúa dạy chúng ta nữa là các tín hữu muốn bước theo Thày Chí Thánh: "Đấng Kitô phải chịu nhiều đau khổ và chết đi rồi mới sống lại trong vinh quang." Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống và thực hành đức tin của chúng ta như Thánh Giacôbê đã nhắn nhủ chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 2: 14-18). Xin cho chúng ta biết can đảm chịu mọi đau khổ trong cuộc sống theo Thánh Ý Chúa, vì "chỉ khi chúng ta biết chịu đau khổ với Chúa Kitô, chúng ta mới được chung hưởng vinh quang với Ngài" (Rôma 8: 17). Mỗi khi phải chịu những đau khổ nặng nề xảy ra cho chúng ta hoặc gia đình chúng ta, chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để thêm can đảm và sức mạnh hầu tiếp tục "vác thánh giá theo chân Chúa!" Đồng thời cũng biết nhận ra những đau khổ của bao người chung quanh chúng ta "không đủ cơm ăn áo mặc" để biết "chia sẻ cơm áo cho những người thiếu thốn" ấy.

Xin Mẹ Maria đã luôn sống trong cuộc đời đau khổ, nhất là giờ phút dưới chân Thánh Giá, an ủi, nâng đỡ chúng ta. Xin các Thánh, nhất là các Thánh tử Đạo Việt Nam, tất cả đều đã "can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa" cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn sẵn sàng "can đảm chịu mọi đau khổ hàng ngày cho nên." Trong "Năm Linh Mục" chúng ta cũng nhớ cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục, các chủ chăn cũng luôn biết suy ngắm những sự đau khổ của Chúa Giêsu để can đảm âm thầm chịu mọi đau khổ hằng ngày trong cuộc đời tận hiến phục vụ Chúa và nhân loại.

 

47. Mầu nhiệm cứu độ

(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước Theo’)

“Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là “tuyên xưng niềm tin” (c 29) và “Mầu nhiệm Tử nạn” (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.

Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của thánh Giacôbê ở đoạn(Gc 2, 14-18): “Đức tin và Hành Động”. Qủa thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân “tin vào Người” (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.

Hành động của Thiên Chúa thì không phải hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì “…tin trong lòng thì được công chính, còn tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Như vậy, muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là “Tin” và “thực thi” niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về “Đức Tin và Hành động” như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?… cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. (Gc 2,14.17).

Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để minh chứng “Lời” của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời” (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.

Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như lời Isaia đã nói: “Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ” (Is 50,6). Một Đấng cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng nề: “Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”. (Mc 8, 33b).

Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu thực tế.

Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.

 

48. Suy niệm của Maurice Brouard.

KHÓ NHỌC THAY KHI LÀM CHO

NHỮNG KẺ CHÂN THÀNH VỠ MỘNG!

Khởi hành.

Một cô bé mười hai tuổi bơi lội rất giỏi, thầy giáo của cô nhận thấy cô có triển vọng rất lớn cho thế vận hội Montréal. Khi trở về nhà cô đã vội nói với mẹ dự tính của mình. Bà vạch ra cho cô một bức tranh rất thực tế, thậm chí rất u ám về những đòi hỏi vô cùng khắc nghiệt của việc chuẩn bị cho một cuộc thi đấu như thế. Ngoài việc học mà cô không thể lơ là được, cô phải tập dượt gắt gao sáu ngày mỗi tuần trong bốn năm, những giao tiếp xã hội hầu như không còn nữa, lại không chắc chắn thành công, thêm với những mệt nhọc… Mẹ cô để cô tự do quyết định, sau khi cố gắng vạch cho cô thấy những ảo tưởng của cô.

Dẹp đi những ảo tưởng của những người chân thành: đó là điều mà thánh Marcô muốn làm trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, và trước hết ngài muốn nhắn nhủ các Kitô hữu thành Roma. Thánh Marcô cảm hứng từ lối ứng xử của Chúa Giêsu với các môn đệ.

1. Chúa Giêsu tìm cách dẹp ảo tưởng của những kẻ muốn theo Ngài.

Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông. Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”

Vậy là Chúa Giêsu tìm cách dẹp đi ảo tưởng của những kẻ chân thành, nhưng Ngài không thành công. Chỉ đến ngày lễ Thánh Thần hiện xuống các tông đồ của Ngài mới sáng mắt ra.

2. Thánh Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu thành Roma.

Biết rằng các Kitô hữu thành Roma xao xuyến trước những cuộc bách hại nổi lên chống họ và “một số sẵn sàng chối rằng họ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô để khỏi chết”, thánh Marcô phản ứng cách mạnh mẽ. Ai muốn trở nên môn đệ Chúa Kitô thì phải giống như Ngài. Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu ngỡ ngàng vì thấy mình phải đương đầu với những cuộc bách hại.

3. Một Kitô hữu không ảo tưởng: Đức Cha Romero.

Tháng ba năm 1980, chúng ta có một chứng tá lẫy lừng từ Châu Mỹ La Tinh. Bất chấp những nguy hiểm đến tính mạng, Đức tổng Giám mục San Salvador, Đức Cha Romero, đã dám nhân danh Tin Mừng tố cáo những bất công trong xứ sở của ngài. Sau đó ngài đã bị ám sát trong nhà thờ lúc đang cử hành Thánh lễ. Đó là một Kitô hữu không ảo tưởng.

Câu hỏi.

Chúng ta nghĩ gì về Chúa Giêsu? Chúng ta chẳng sống trong ảo tưởng khi cho rằng có được sự sống đời đời là điều dễ dàng ư?

Lời Chúa và Thánh Thể.

Khi cử hành Bí tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh. Thầy chí ái của chúng ta đã hiến dâng mạng sống cho Cha Ngài vì yêu mến Cha và vì ơn cứu độ của tất cả mọi người. Ta hãy cử hành Thánh lễ trong tinh thần phục vụ đó, và sẵn sàng chấp nhận hy sinh theo gương Ngài.

 

49. Đời sống đời đời thì chắc chắn – Charles E. Miller.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Một bé gái bảy tuổi đã lái một máy bay xuyên qua đất nước, đi theo có cha của bé và một người huấn luyện viên bay. Cuộc bay kết thúc bằng một tai nạn. Nhiều người trẻ đã quyết định trèo lên một ngọn núi cao nhất khi họ đi du lịch mặc dù họ không có kinh nghiệm. Một tảng đá bất chợt bị sút ra, một người đã bị trượt xuống và kéo tất cả cùng chết. Động cơ thúc đẩy người ta liều lĩnh đó là gì? Để lướt thắng sợ hãi, để vượt lên phía trước những nguy hiểm qua những cuộc phiêu lưu nguy hiểm? Đối với một đứa bé gái, Jessica Dubroff và cha của cô bé, họ đã làm như thế để nhận một phần thưởng. Đối với những người leo núi, điều đó là niềm tự hào của sự chinh phục. Đôi khi những người tìm kiếm cảm giác thì đổ cho định mệnh. Họ nói rằng cần có sự liều lĩnh bất cứ khi nào anh lái một chiếc xe hơi và như vậy chúng ta sẽ không phải lo lắng về sự may rủi, để sống một đời sống thật tràn đầy.

Chúa Giêsu không phải là một người tin vào định mệnh, nhưng Ngài biết cuộc sống của Ngài sẽ chấm dứt thế nào. Đó là kế hoạch của Cha Ngài muốn cho Ngài sẽ chết trên thánh giá, không phải để Ngài nhận một phần thưởng như ước ao nồng nhiệt của bố Jessica, nhưng là Người có thể mang lại cho chúng ta món quà sự sống đời đời. Người biết rằng sứ vụ của Người giống như các tiên tri có trước Người, sẽ phải chịu sự giận dữ của kẻ thù và những kẻ thù đó mạnh mẽ đủ để kết án tử Người, Người sẵn lòng trèo lên núi Calvario để giang cánh tay của mình trên thánh giá, để âu yếm tất cả chúng ta trong tình yêu thần linh của Người. Cái chết của Người không phải là một tai họa nhưng là hoàn thành sứ vụ của Ngài trên mặt đất này. Đó là một cuộc chinh phục vĩ đại trên tội lỗi và cái chết đời đời.

Không có sự liều lĩnh nơi Chúa Giêsu, liều lĩnh có nghĩa là một cơ hội của sự tổn hại hay sự chết. Chúa Giêsu đã chết là một điều chắc chắn. Khi thánh Phêrô với chủ ý tốt nhất đã cố gắng ngăn cản Người đừng theo con đường thánh giá, Chúa Giêsu đã đáp lời một cách mạnh mẽ: Người đã nói với Phêrô rằng ông không được xét đoán theo loài người nhưng là theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, cái chết của Con Người thì thật cần thiết cho sự cứu độ của chúng ta.

Chúng ta có thể cảm thấy rằng có một sự liều lĩnh khi theo Chúa Giêsu, nhưng không phải vậy. Đó là một sự chắc chắn. Nếu chúng ta theo Người cách trung thành, chúng ta sẽ nghe Người dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.

Thánh giá trong cuộc sống của chúng ta không thể trở thành một bi kịch. Điều đó sẽ không chinh phục được sự chú ý của cả nước như chuyến bay của Jessica Dubroff đã làm, nó có liên hệ đến việc thách đố, nó cũng không liên quan tới nỗi say mê của những người leo núi. Nhưng quan trọng hơn thánh giá không mang đến một bi kịch. Nó không có nghĩa là một tai họa. Thay vào đó, mang thánh giá đối với chúng ta là theo ý muốn của Thiên Chúa mà Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh giá có nghĩa là sống trong sự hợp nhất với Chúa Giêsu, điều đó có nghĩa là chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu và cái chết của Người, Đấng sẽ ban cho chúng ta những đặc ân của Cha, là hạnh phúc đời đời của Người và Thánh Thần trên thiên đàng. Chúng ta sẽ không sợ thánh giá. Thánh giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đó là con đường thật sự để sống một đời sống viên mãn.

 

50. Nói không với chính mình

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi:

- Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)?

- Tôi thưa: Có.

- Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?

- Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.

- Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.

- Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi.

Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:

- Tôi không được phép nói.

Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng:

- Ông có tôn trọng chính quyền không?

- Có - luật đạo chúng tôi dạy điều ấy.

Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.

Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng "chính quyền" không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi 'có tôn trọng luật pháp không', thì tôi thưa khác".

- Ông thưa khác thế nào?

- Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.

- Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên:

- Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng:

- Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không?

Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng:

- Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.

Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng:

- Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?

Tôi cũng dằn từng tiếng:

- Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.

- Thế nào là không hợp với lương tâm?

Tôi ví dụ:

- Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.

Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…" (trích Hồi Ký của Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Phần Ba)

Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi: “"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” Theo nhà chú giải Kinh Thánh, William Barclay, thì nguyên cụm chữ “từ bỏ mình” có thể được hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong nguyên văn là “hãy nói không với chính mình.” Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Đức cố Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã can đảm, khẳng khái nói không với chính ngài, để bảo vệ Tin Mừng được nguyên vẹn và thánh thiện tinh tuyền.

Nói không với bản thân

Kẻ nội thù trong mỗi người mới chính là kẻ thù dữ dội, khắc nghiệt nhất, hung hăng, ngoan cố nhất. Người ta có thể dễ dàng đánh thắng kẻ thù bên ngoài, nhưng lại dễ dàng chịu thua kẻ nội thù, đặc công ẩn náu ngay trong tâm can, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình.

Bản năng sinh tồn chính là một kẻ nội thù, dễ dàng nghiễm nhiên trở thành ông chủ thân xác, chi phối hoàn toàn mọi hoạt động tinh thần, tình cảm lẫn hành vi ứng xử, giao tiếp thường nhật. Nếu không bị hạn chế quyền lực, thì kẻ nội thù này luôn tăng trưởng ngày thêm mạnh mẽ, hung bạo. Được voi đòi tiên. Chẳng bao giờ ngừng đòi hỏi được phục vụ. Bản năng bất chấp đạo lý, luật lệ. Vị kỷ, vị lợi, vô cảm với tha nhân đau khổ, đói khát, bệnh hoạn, cùng cực. Ăn no rồi đòi ăn ngon, có áo mặc rồi đòi mặc đẹp. Có nhà rồi đòi biệt thự xa hoa. Dứt khoát nói không với thân xác hưởng thụ, cũng như nói không với những dục vọng thấp hèn.

Đức Giêsu khuyên đừng quá nặng lòng với nhu cầu căn bản, mà hãy phó thác vào Chúa Quan Phòng, để sống công chính, tìm đến Nước Chúa: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 31-33)

Nói không với cám dỗ

Hai cám dỗ thông thường và phổ biến nhất trong cuộc đời mỗi người là tiền và tình, đã khiến bao người khốn đốn, lao đao quỵ ngã. Đức Giêsu đã ân cần cảnh báo và khuyên nhủ mọi người hãy dứt khoát nói không với đam mê tiền của: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó, sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12, 20-21)

Người cũng thật gay gắt nói không với tình: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. “ (Mt 5, 29-30)

Nói không với đời

Với đời, ai cũng muốn tìm kiếm danh phận, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Nhưng Đức Giêsu khuyên ai muốn theo Người, thì hãy nói không với những phù vân nhất thời chóng qua, như bóng câu qua cửa sổ, như bóng mây qua thềm. Với Người, quyền hành lãnh đạo không phải để lạm dụng, vụ lợi cho mình, cho gia đình, thân nhân mình, mà để phục vụ mọi người: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".(Mc 9, 35)

Nói không với đời là không bon chen, đua đòi, chạy theo những giá trị nhất thời của thế gian, mà dám lội ngược dòng, quyết vâng theo Bát Phúc của Đức Giêsu: “Nghèo khó, hiền lành, đau khổ, thiện tâm, bác ái, trong sạch, nhân hòa và chịu bách hại.”

“Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta hãy… (Mt 10, 38) Đường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở.” (Đường Hy Vọng, số 63)

Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội, chúng con được trở thành con chiên của Chúa, được phúc nhận biết Chúa, được nghe Chúa dạy bảo và mời gọi qua Tin Mừng, nhưng chúng con còn quá nặng nề xác thịt, còn mãi vương vấn, đắm đuối theo thế gian. Xin ban cho chúng con yêu mến Chúa tha thiết nồng nàn hơn, để có thể từ bỏ mình, vác thập giá, mà quyết tâm theo Chúa đến cùng.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con can đảm, dám nói không với chính mình, để noi theo gương Mẹ, thân thưa hai chữ “Xin Vâng”, đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-12092021-chua-nhat-tuan-24-thuong-nien-nam-b-dang-kito-chiu-dau-kho.html