Chúa Nhật 10/05/2020 – Chúa Nhật tuần 5 PHỤC SINH năm A. – Con đường Giê-su.

Chúa Nhật 10/05/2020 – Chúa Nhật tuần 5 PHỤC SINH năm A. – Con đường Giê-su.

"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

 

Lời Chúa: Ga 14, 1-12

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi".

Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"

Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người".

Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con".

Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm.

Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv 6,1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14,1-12

 

1. Xin cho chúng con thấy Chúa Cha

(‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)

Suy Niệm

Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8).

Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người,

những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa,

Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau:

Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh...

Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt,

muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người

khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.

Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng,

Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ.

Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói:

"Ai biết Thầy là biết Cha" (14,7) "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (14,9)

vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(14,10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10).

Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự.

Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa,

đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.

Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô,

là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng:

"Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô."

Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.

"Xin cho chúng con thấy Chúa Cha"

Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.

Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối;

Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha:

"Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (14,6).

Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu.

"Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,

để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12).

Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu,

kể cả những ai không biết Ngài - tuy không do lỗi của họ -

nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh,

sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến.

Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.

Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.

Khi đi vào Con Đường Giêsu,

chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt khiến bạn chọn theo?

2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.

 

2. Xao xuyến

Lòng các con đừng xao xuyến.

Mặc dù Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta như thế, nhưng nhìn vào đời sống chúng ta cảm thấy có rất nhiều băn khoăn lo lắng. Trước hết chúng ta băn khoăn lo lắng về tiền bạc. Phải lo cho mình, cho gia đình mình có đủ những phương tiện sinh sống, phải tiết kiệm phòng khi nghèo túng, tai ương bệnh hoạn. Đó là sự khôn ngoan của người biết lo xa. Tuy nhiên không nên lo lắng thái quá, vì trời sinh voi sinh cỏ. Chim trời không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói, hoa cỏ đồng nội không dệt không may, mà áo cẩm bào của Salomon vẫn chẳng thế nào sánh nổi. Hơn nữa, lời Chúa còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ: Hãy tìm kiếm Nước Trời trước đã còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau.

Tiếp đến chúng ta băn khoăn lo lắng về địa vị và danh vọng. Khi chưa có địa vị, chúng ta bon chen tìm đủ mọi cách để tìm kiếm cho mình chỗ đứng ngoài xã hội. Khi đã có rồi, chúng ta lo gây phe cánh, để duy trì chức vị đó. Nhưng chúng ta nên nhớ danh vọng chính là của đồng lần thiên hạ tiêu chung, nay thuộc về ta và mai thuộc về người. Hơn nữa, như lời Chúa đã phán: Ai đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Gieo gió thì gặt bão. Một khi đã có những hành vi tội ác, thì lương tâm sẽ bị cắn rứt, và công lý sẽ lên án phạt.

Nhưng có lẽ cái làm cho chúng ta băn khoăn lo lắng nhất chính là sự chết. Thực vậy, đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết ở trước  mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Nếu như thế thì băn khoăn lo lắng mà làm chi. Thực sự, chúng ta không lo mình sẽ phải chết, nhưng lo về những điều xảy ra sau khi chết, chẳng hạn như sợ bị Chúa phán xét, sợ hậu quả không hay do đời sống tội lỗi và bê bối. Đây mới là nỗi băn khoăn và lo lắng chính đáng. Tuy nhiên, để khỏi băn khoăn lo lắng thì ngay từ giờ, chúng ta hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Szécheny người Hung Gia Lợi và là một nhân vật nổi danh. Ngày kia ông đang tắm trên bờ biển thì thình lình bị sóng cuốn đi. Ông ra sức bơi, hai tay chống cự nhưng sóng gió cứ đẩy ông vào chỗ nước xoáy. Trong lúc thất vọng và tưởng rằng mình sẽ bị cuốn trôi, ông nghĩ rằng mình mới xưng tội và rước lễ, và ông cảm thấy an tâm ra sức chống đỡ và sau cùng đã thoát nạn.

Trái lại biết bao người tội lỗi, không giục lòng ăn năn, đã thực sự hoảng sợ khi tử thần đến gõ và đã chết một cách bàng hoàng kinh hãi. Hãy tin tưởng vào Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, thực hiện bác ái yêu thương, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta sẽ không còn băn khoăn lo lắng.

 

3. Con Đường Giêsu

Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con đường ở ngoại ô thành phố Saigon. Con đường ấy, một đầu là biểu ngữ giăng ngang khai trương phòng vật lý trị liệu, một kiểu mãi dâm trá hình. Còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng, làm nhà riêng của ông giám đốc Xacogiva, người đã từng biển thủ công quỹ. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Thế nhưng, đã 20 thế kỷ trôi qua, trong Giáo Hội chúng ta biết có một con đường luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài bằng tin yêu để vươn lên tới sự sống bất diệt. Con đường ấy thắp sáng niềm hy vọng và dẫn tới quê hương Nước Trời. Con đường dẫn tới vĩnh cửu. Đó là con đường mang tên Giêsu.

Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.

Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.

Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.

 

4. Dọn chỗ cho anh em - Huệ Minh

Nhiều lần nhiều lúc không muốn nói ra hay ngại nói nhưng con người cảm thấy bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu.

Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.

“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.

Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là Giêsu. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới của cuộc đời người Kitô hữu, cuộc đời của những ai tin vào Ngài.

Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường).

Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta... Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống... Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi...

Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ

“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến!

Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.

Chúa Giê-su đã hứa rằng: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.

Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống và sống dồi dào.

Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang kêu gọi mọi người hãy đi vào con đường của Ngài để tìm được sự thật và sự sống. Chúng ta đừng chạy theo thế gian vì nó sẽ hư đi với những đam mê của nó, nhưng hãy cố gắng đi vào con đường hẹp của Chúa. Chúng ta hãy mở Thánh Kinh ra, chúng ta sẽ tìm thấy Chúa và tìm ra con đường mình phải đi.

 

5. Xao xuyến

Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm sao tôi có thể sợ hãi đang khi ba tôi là người điều khiển con tàu. Cũng thế trong một cuộc động đất, người ta thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả lời: Thiên Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi những sự tốt đẹp nhất.

Từ hai mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay với lời khuyên nhủ của Chúa: Các con đừng xao xuyến. Băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất của con người. Có ai trong chúng ta đã không từng bị băn khoăn, xao xuyến và lo lắng?

Các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Chúa Giêsu. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng. Phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, tất cả những điều ấy đã làm cho các ông lo lắng và xao xuyến.

Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến: Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ.

Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức và xót thương, cũng đã lo lắng và xao xuyến. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với chúng ta.

Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy.

Chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta.

 

6. Hãy tin tưởng vào Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến - 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.

Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.

Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.

Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ... Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.

Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như "Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện"  gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.

- Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên - Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.

Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: " Thầy đi để dọn chỗ cho các con " (Ga 14, 2), và sau đó " Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó " (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: ": " Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? " (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: "" Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy  "(Ga 14, 6).

"Chỗ" mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi "nhà Cha"; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: " Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha"(Ga 14,12).

Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: " Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? "Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó " (Ga 14, 2).

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?

Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền...

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

 

7. Đường Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)

2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?

3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?

 

8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Sống trong xã hội tiến bộ như hôm nay, để đi đến một địa chỉ nào đó, có rất nhiều con đường để lựa chọn. Có con đường rộng. Có con đường hẹp. Có con đường khó đi. Có con đường dễ đi. Có con đường cong. Có con đường thẳng. Có con đường gồ ghề sỏi đá. Có con đường bằng phẳng. Có con đường ngắn. Có con đường dài…Nhưng chắc chắn trong muôn vàn con đường đó sẽ có một con đường thuận tiện hơn cả, sẽ dẫn tới đích nhanh nhất.

Đích đến của mỗi Kitô hữu chúng ta là Thiên Đàng. Để tới Thiên Đàng cũng có nhiều con đường đi, nhưng con đường thuận tiện hơn cả và dẫn tới Thiên Đàng nhanh nhất đó là con đường Giêsu.

Thật vậy, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sau khi yên ủi các môn đệ: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”(Ga 14,1), Đức Giêsu cho các ông biết: Trên Thiên Đàng “có nhiều chỗ ở” và Ngài muốn cho các ông tới đó, vì Ngài “đi trước để dọn chỗ,” rồi Ngài “sẽ trở lại đón các ông…vì Thầy đi đâu các ông đã biết đường rồi.” (x. Ga 14, 2-4).

Vậy, đường của Đức Giêsu đi là con đường nào? Chính những người thân cận của Đức Giêsu vẫn còn vu vơ, chưa biết. Tôma là hiện thân của con người thực dụng, ông muốn biết một cách chính xác những gì ông chưa hiểu. Chính vì thế, ông mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” (Ga 14,5). Cám ơn Thánh Tôma, vì nhờ ông mà chúng ta có được một câu trả lời hết sức quan trọng của Đức Giêsu: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người” (Ga 14, 6). Như vậy, chính Đức Giêsu là đường đi, muốn tới Chúa Cha, muốn tới Thiên Đàng, thì cần phải đi trên con đường Giêsu. Nhưng con đường Giêsu là con đường nào? Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 30 năm đời sống ẩn dật: khiêm nhường, hy sinh phục vụ, vâng lời Đức Mẹ và Thánh Giuse, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Ngài…Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 3 năm đời sống công khai: rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, tha thứ tội lỗi, tuyển chọn và huấn luyện các Tông đồ, thiết lập Giáo hôi, thiết lập các Bí tích, chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá để cứu độ thế gian.

Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải theo vết chân Ngài. Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải thực hiện giáo huấn của Ngài. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được ghi lại trong các cuốn Tin mừng. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được cô đọng trong 10 điều răn, tóm lại trong hai điều này là mến Chúa và yêu người.

Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của Đức Maria, nghĩa là biết sống phó thác, khiêm nhường, phục vụ. Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của các Thánh. Nhưng mỗi thánh cũng có một con đường để đi: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đi con đường thơ ấu thiêng liêng; Thánh Đamiêng đã đi con đường phục vụ người cùi; Thánh Phanxicô Xaviê đã đi con đường truyền giáo; Thánh Têrêxa Caculta đã đi theo con đường phục vụ người nghèo; Thánh Maria Goretti đã đi con đường tha thứ cho kẻ thù; các thánh Tử đạo đã đi con đường đau khổ…Nhưng tất cả các con đường đó đều được Đức Giêsu vạch ra. Chính vì thế, hãy đến với Đức Giêsu, chúng ta sẽ chọn một con đường thích hợp cho mình để tới tới Chúa Cha, để về Thiên Đàng.

Bài đọc I, trích sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết một số sinh hoạt của Giáo hội thời sơ khai (x. Cv 6,1-7). Khi số tín hữu ngày càng đông, các tông đồ không thể đáp ứng hết mọi công việc phục vụ nên đã mời gọi một số người cộng tác, đây là sự xuất hiện đầu tiên của chức phó tế trong Giáo hội. Chắc chắn ngoài 7 vị phó tế ra còn có nhiều người giúp đỡ các ông trong những lãnh vực khác. Sự phân chia các công việc này là mô hình đẹp cho các cộng đoàn giáo xứ hôm nay. Thật vậy, trong các giáo xứ, cha xứ là người chủ chăn được Giáo hội giao phó để coi sóc đoàn chiên. Nhưng một mình cha xứ không thể đảm đương hết tất cả các công việc. Vì thế, để cha xứ chu toàn bổn phận của mình cần có nhiều người cộng tác như: Cha phó, thầy Phó tế, chủng sinh, các Sr…Đặc biệt, trong giáo xứ luôn có Hội đồng mục vụ Giáo xứ, là cánh tay nối dài của cha xứ. Ngoài ra, trong giáo xứ còn có các ban ngành đoàn thể như: Ban Phụng Vụ, Ban Giáo lý, Ban Gia Trưởng, Ban Hiền Mẫu, Ban Giới Trẻ, Ban Phụ Lão và các hội đoàn khác. Tất cả các ban ngành được thành lập nhằm giúp đỡ Cha xứ hoàn thành trách nhiệm của mình. Nếu mỗi người trong cương vị của mình biết chu toàn bổn phận, trách nhiệm, thiết nghĩ đó cũng là con đường nên thánh. Con đường đến được với Chúa Cha, con đường dẫn tới Thiên Đàng.

Một con đường khác nữa để đến với Chúa Cha, đến với Thiên đàng, đó là con đường mà Thánh Phêrô đã vạch ra trong bài đọc II (x. 1 Pr 2, 4-9). Thật vậy, Thánh Phêrô cho chúng ta biết phẩm giá cao quý của người Kitô hữu, đó là “dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa.” Nhưng để gìn giữ phẩm giá cao quý đó, Ngài nhắc nhở chúng ta phải chu toàn bổn phận của mình như những viên đá sống động được tham dự vào viên đá tảng là chính Đức Giêsu, để xây dựng tòa nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Ngoài ra, mỗi Kitô hữu cũng phải biết “rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.”

Tóm lại, Đức Giêsu là con đường để mỗi người chúng ta đi và ai đi theo con đường của Ngài vạch ra chắc chắn sẽ tới được Chúa Cha, tới được cùng đích của mình là Nước Thiên Đàng. Nguyện xin Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống giúp mỗi người chúng ta biết đi theo con đường của Ngài vạch ra, hầu tất cả mỗi người chúng ta được nên thánh. Amen.

 

9. Đường đi có Chúa

Thưa anh chị em,

Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao biết đường mà đi theo Chúa: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Như vậy chính Chúa Giêsu là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, là ơn cứu độ duy nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho trần gian, là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc viên mãn; bởi vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy chính là thiên đàng.

Vậy làm sao chúng ta có thể đi trên con đường là Chúa Giêsu hay làm sao chúng ta có Chúa đi cùng trong cuộc hành trình đời người của mình?

Như chúng ta đã biết mọi con đường đều dẫn đến một nơi nào đó, dù đó là đường mòn, đường đất, đường nhựa hay đường sông, đường biển. Không có đường thì không thể đi đến nơi mình muốn được. Và để thực hiện chuyến đi, chúng ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe máy, đi máy bay, đi bằng ghe, tàu..v.v..

Chúa Giêsu hôm nay chỉ cho chúng ta biết Ngài chính là con đường dẫn ta tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là hình ảnh Chúa Cha trong thế gian. Chính vì vậy, Người cũng là sự sống, nguồn thông ban ơn Thần Khí, là chính sự sống của Thiên Chúa cho những ai lớn lên trong Người là các kẻ tin. Cho nên Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha mà không sai lầm. Có Chúa Kitô là có Thiên Chúa, mà Thiên Chúa ở đâu thì thiên đàng, hạnh phúc thật cũng ở đấy.

Xác định được như thế, chúng ta tự vấn xem mình đang đi trên con đường nào: con đường của Chúa hay con đường riêng của chúng ta, vắng bóng Thiên Chúa.

Có con đường đam mê những thú vui trần thế, lo tìm thú vui xác thịt, sống chỉ để thỏa mãn những khát vọng nhục dục, những nhu cầu ích kỷ của chính mình, không bận tâm đến tha nhân và những lý tưởng cao đẹp.

Có con đường chỉ mong kiếm tìm những lợi lộc trần thế. Cuộc sống chạy theo những gì là có lợi cho mình. Lợi thì làm, không lợi thì thôi. Bế tắc. Bởi vì con con người còn có niềm vui lớn hơn, khi sống cho những giá trị tâm linh.

Có con đường chỉ biết giành giật chổ đứng trong xã hội. Mục đích chỉ là sống sao cho hơn người, được người đời trọng vọng, ca tụng..hay cho rằng con người có khả năng giải quyết mọi sự, mà quên rằng tất cả đều là ơn ban của Thiên Chúa. Sức người có hạn. Cuộc sống mỏng dòn. Con người không thể tự mãn về chính mình được.

Con đường có Chúa là con đường chăm chăm hướng về Chúa là mục đích đời mình. Sống vâng phục tin tưởng như Abrahma, như Mẹ Maria. Cùng đồng hành với Chúa như hai môn đệ Emmau. Sống như "thấy Đấng vô hình" đang hiện diện bên mình.

Để con đường cuộc đời chúng ta luôn luôn có Chúa, cần liên lỉ cầu nguyện xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Cần năng chạy đến các Bí tích để hưởng nhờ ơn trợ lực nâng đỡ của Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể, để có Chúa trong tâm hồn.

Lạy Chúa, cuộc đời có Chúa cùng đi, con an tâm vui bước!

 

10. Nhà Cha Thầy - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Trong những ngày lễ lớn, người ta thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ. Họ thuộc mọi thành phần: già trẻ lớn bé, không phân biệt giai cấp, chủng tộc. Họ đến nhà thờ từ muôn nẻo đường: từ xa lộ tối tân trong những nơi phồn hoa đô thị, đến những con đường mòn sỏi đá, gập ghềnh, quanh co, chạy qua những thung lũng, núi đồi hay trên những lối đi thôn dã lầy lội trơn trượt. Dù đi trên những con đường khác nhau cũng đều dẫn tới con đường duy nhất là con đường Giêsu, để về nhà Chúa Cha.

“Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”, nhà Cha Thầy rộng lớn không biên giới, được xây trên đá tảng kiên cố, bền vững là chính Đức Giêsu Kitô Phục sinh (1Pr. 2, 4). Nhà Cha Thầy không phải là nhà Davit, không ai được chiếm hữu cho một dòng họ sang trọng nào, cho một dân riêng nào. Nhà Cha Thầy rộng mở cho mọi tầng lớp nhân dân, cho mọi dân tộc, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, nô lệ hay tự do, khỏe mạnh hay tàng tật. Nhà Cha Thầy không thu hẹp vào phần đất nào, ranh giới nào, dù Samari hay Giuđa, Do thái hay Hy lạp. Nhà Cha Thầy rộng dài, cao sâu, lan tràn mọi lãnh thổ, thấm tận vào lòng mọi dân tộc.

Xưa Giêrôbôam và Rôbôam đã chia rẽ nhau thống trị nhà Israel và Giuđa, chúng đã lợi dụng Thiên Chúa để củng cố ngai vàng của mình, Thiên Chúa đã phán với Giêrôbôam: “Này tế đàn của ngươi sẽ vỡ tan tành, tàn tro tế lễ của ngươi sẽ đổ xuống (1V. 13, 3). Phần nhà Giuđa, sau này Đức Giêsu cũng phải khóc thương Giêrusalem vì “đã biến nhà Cha Thầy thành chợ búa, hang trộm cướp để trục lợi” (Ga. 2, 16 ; Lc. 19, 39-46 và 21, 5).

Con người lúc nào cũng mang đầy tham vọng, lợi dụng nhà Cha Thầy để mưu cầu danh vọng cá nhân, dòng họ, xứ sở, địa phương mình. Vì thế “những kiến trúc vĩ đại hào nhoáng của loài người sẽ bị thay thế” (Mc. 13, 1-4). Đức Giêsu sẽ xây lại một Đền thờ mới cho Cha Người, đó là chính thân thể Người từ cõi chết sống lại (Ga. 2, 19-22). Từ Đền thờ mới này Êgiêkiel đã được thị kiến: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được sạch và được sống” (Êz. 47, 8-9). Đó chính là “trời mới, đất mới, Giêrusalem mới, là nhà Thiên Chúa ở với dân Người, Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt chúng sinh. Chết sẽ không còn nữa, phiền muộn, kêu gào, khổ nhọc sẽ không có nữa, vì điều cũ đã qua rồi (Kh. 21, 3-4).

Nhà Cha Thầy cũng là đền thờ Chúa Thánh Thần dược xây bằng những viên đá sống động do chính Thiên Chúa tuyển chọn, là những người tin Đức Kitô. Người làm cho họ thành một dân thánh, dân tư tế dâng lên những lễ vật đẹp lòng Cha và đi loan truyền công trình vĩ đại của Cha Thầy (Bài đọc II).

Vậy nhà Cha Thầy vừa là Đền thờ sống động của Thánh Thần vừa là Thân thể Phục sinh vinh quang của Thầy có những chi thể được gắn bó, được sống lại với Thầy, vừa là trời mới đất mới của Cha Thầy ngự trị. Cho nên con đường về nhà Cha Thầy cũng chính là Thầy: “Thầy là Đường”, đường dẫn về nhà Cha Thầy, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.

Lạy Cha, Cha đã thương yêu chúng con quá bội, đã cho Con Cha là đường dẫn tới Cha, đã cử Con Cha là kiến trúc sư xây dựng nhà Cha cho chúng con, đã trao mọi quyền năng cho Con Cha, để Người dọn chỗ cho chúng con, để Người đem chúng con về với Cha hằng sống, trong tình thương yêu chúng con muôn đời.

 

11. Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu

(Suy niệm của Daniel J. Harrington. SJ. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).

Vào phần 2 mùa Phục sinh, những câu hỏi chính được đặt ra cho mọi người: “Làm sao lưu giữ được những kỷ niệm sống động về Đức Giêsu? - Làm sao để những công việc Đức Giêsu đã thực hiện và khơi mào trước đây, được tiếp nối sau khi Ngài chết và trở về với Chúa Cha?”. Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta hãy trở về với những chỉ dẫn nơi bài huấn từ của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly mà Thánh Gioan đã ghi lại (Ga 14,17). Bối cảnh của bài diễn từ này nằm trong bữa tối cuối cùng với các môn đệ, trước khi Chúa Giêsu thọ nạn. Đức Giêsu đã nhắn gửi những học trò thân thiết của mình, cách thức lưu giữ những kỷ niệm về Ngài và thực hiện sứ mạng Ngài trao phó. Những chỉ huấn này vẫn  thức thời và luôn mang tính thời sự cho Giáo hội trong mọi thời đại, đặc biệt cho chúng ta ngày hôm nay.

Khởi đầu bài diễn từ, Đức Giêsu và các môn đệ đã trò chuyện với nhau. Trong mẩu đối thoại đó, Ngài đưa ra một khẳng quyết. Một môn đệ  đã bình phẩm,  hiểu sai điều  Chúa giáo huấn.Vì thế, Chúa  Giêsu đã nói những lời dạy bảo rõ nét hơn và tích cựu hơn về chính Ngài.

Trong bài Tin Mừng hôm nay trích trong Gioan chương 14, Đức Giêsu thoạt đầu nói về việc đi dọn chỗ cho các môn đệ, và chỉ cho các ông đâu là lối đường đưa họ đến  đó. Tôma cắt ngang và hỏi Chúa, “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi”. Đức Giêsu trả lời, chỗ đó chính là tình trạng “chúng ta được sống với Chúa Cha”, và “Ngài chính là con đường đi, là sự thật và là sự sống”.

Rồi đến lượt Philip,  Ông ta nói với Chúa là hãy cho họ thấy Chúa Cha, và điều đó cũng đủ rồi. Điều này không giản đơn, có gì đó xem ra có vẻ ngô nghê và hơi khó chịu. Tuy nhiên, yêu cầu của Philip đã khiến đức Giêsu truyền đạt cho các học trò của mình nhãn quan sâu xa nhất và thâm thúy nhất được diễn đạt trong suốt Tin mừng của Thánh Gioan. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Sứ điệp mà Gioan nhắm tới, là trình bày Đức Giêsu vừa như là người khải thị về Chúa Cha, vừa là hiện thân của chính Chúa Cha. Nếu ta muốn biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa nghĩ gì, và Thiên Chúa muốn gì nơi ta, chúng ta phải đến với đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha.

Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa được gởi trao cho con người, nên những gì chúng ta biết và nhớ về Ngài, sẽ trở nên rất quý báu. Bởi lẽ khi chúng ta biết  Đức Giêsu là chúng ta biết  Chúa Cha. Đối với chúng ta là những kẻ tin, cũng như đối với toàn thế Hội Thánh, việc cần thiết phải làm là lưu giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu cho thật sống động. Chúng ta làm được điều đó, bằng việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, bằng việc cùng nhau cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ đến đức Giêsu, bằng việc thực hành những truyền thống đức tin của Hội Thánh, và cùng nhau sống theo những chỉ dạy khôn ngoan của chính Ngài. Những kỷ niệm về đức Giêsu sẽ đưa dẫn chúng ta hướng về giá trị cao quý của cuộc sống làm người, sẽ giúp chúng ta loại trừ những hành vi sai trái, sẽ làm cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của một tình yêu vị kỷ, biết yêu thương cả những kẻ thù, sẽ công bố cho mọi người biết rằng chết không phải là hết, và sẽ giúp chúng ta xác tín rằng trong Đức Giêsu, tình yêu và sự sống sẽ chiến thắng hận thù và cái chết.

Giữ mãi kỷ niệm về đức Giêsu cho thật sống động, là một thách đố lớn nhất cho chúng ta trong mùa Phục sinh. Về vấn đề này, Giáo hội  với những định chế của mình đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng. Bài đọc ngày hôm nay trong sách Công vụ tông đồ chương 6, cho chúng ta thấy được các Kitô hữu buổi sơ khai đã áp dụng những định chế cụ thể. Trường hợp các bà góa trong xã hội theo văn hóa Hy Lạp ngày xưa thời giáo hội sơ khai, là một ví dụ. Để giải quyết, nhóm 12 tông đồ đã chỉ định 7 người Hy Lạp (có lẽ là phó tế?) để chăm sóc cho họ và cho những người khác. Sự kiện này cho thấy Giáo hội ban đầu đã thiết định những quy chế để áp dụng, và Giáo hội vẫn giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu cách sống động. Kết quả là Lời của Chúa vẫn tiếp tục được tỏa rộng.

Trong thân thể mầu nhiệm đức Kitô, chúng ta được chuyển giao để thủ đắc một căn tính mới và một phẩm giá mới. Các Kitô hữu gốc dân ngoại, được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn bị coi như là nhửng người bị gạt ra bên ngoài, trên phương diện chính trị và xã hội. Nhưng Thánh Phêrô đã mặc cho họ một tước hiệu ấn tượng nhất như tước hiệu dành cho dân Israel thời cựu ước. Qua phép rửa nhân danh Đức Giêsu, họ trở thành “ Một dân được tuyển chọn, thuộc hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, là dân riêng của Chúa”. Công việc của họ bây giờ là làm chứng tá về đức Giêsu, như một viên đá sống động, bị con người loại bỏ nhưng được tuyển chọn và trở nên quý giá trong con mắt của Thiên Chúa. Những con người đã một thời lưu lạc chẳng còn dân tộc, nay đã là dân của Thiên Chúa. Họ kết liên với nhau để cho mọi người biết cách thức Thiên Chúa đã kêu gọi họ thoát khỏi vùng tối tăm đến nơi đầy ánh sánh huy hoàng như thế nào.

Giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu một cách sinh động là bổn phận của mọi Kitô hữu và của cả Hội Thánh. Nếu chúng ta thật sự tin rằng Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, chúng ta sẽ biết khám phá ra những cách thức mới mẻ và đầy sáng tạo để lưu giữ mãi những kỷ niệm sống động về Ngài. Nếu chúng ta thật sự tin rằng “Ai thấy và nghe Đức Giêsu, chính là nghe và xem thấy Chúa Cha”, thì việc lưu tồn những kỷ niệm sống động về Ngài sẽ là một công việc quan hệ nhất và ý nghĩa nhất mà mỗi người chúng ta có thể và phải đem ra thực hành.

 

12. Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật

Nếu so với truớc đây khoảng vài thập niên thì ngày nay chúng ta đi đây đi đó dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, đường đi ngày càng được mở rộng và thông thoáng hơn. Phương tiện di chuyển cũng đa dạng và phong phú hơn. Thậm chí, người ta có thể lên cung trăng hoặc nhiều hành tinh khác. Dầu vậy, có một con đường mà con người đành phải bó tay. Ðó là con đường dẫn tới sự sống thật.

Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành dẫn đoàn chiên của mình tìm lại sự sống. Hôm nay, Giáo hội tiếp tục cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu với ý nghĩa Người chính là đường dẫn tới sự sống thật.

Chúng ta biết, ý định ngàn đời của Thiên Chúa Cha là muốn cho tất cả con người được sống dồi dào. Thiên Chúa cũng biết là tự sức mình, con người chúng ta không thể nào tìm lại sự sống đã bị đánh mất. Do đó, chỉ có Ðấng từ Thiên Chúa mà đến mới có đủ sức đưa ta trở về tình trạng ấy. Ðấng ấy chính là Chúa Giêsu - Con Một Chí Ái của Ng ười.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ cách riêng là với Thánh Tôma cũng như cho mỗi người chúng ta: "Thầy là đ ường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14, 6). Trên hết mọi sự Thiên Chúa luôn luôn muốn cho con ng ười chúng ta được sống và sống dồi dào. "Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào " (Ga 10, 10); " Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người " (Mc 10, 45); "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31-32). Nhờ ăn năn sám hối mà những người tội lỗi mới mong được sống.

Như thế, nếu muốn có sự sống thật thì không cách nào khác chúng ta cần phải đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Vì chính Người là Ðấng dẫn đường và cũng chính là con đường dẫn đến Chúa Cha - Ðấng là nguồn sống thật của chúng ta. Chúa Giêsu đã mời gọi Nicôđêmô và chúng ta: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời ". (Ga 3, 14-15).

 

13. Suy niệm của GKGĐ Giáo phận Phú Cường

SUY NIỆM

Mỗi Thánh lễ là dịp nhắc nhớ chúng ta không bao giờ được quên chân lý này là “tuy ở giữa thế giới này nhưng chúng ta lại thuộc về một cộng đoàn dân thánh’, ‘dân được Thiên Chúa tuyển chọn’”. Đây là một vinh dự, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì xin hãy đến với Chúa Giêsu trong Thánh lễ, để Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.

Nhìn lại các tông đồ ngày xưa, các ông đã sống với Chúa Giêsu nhiêu năm, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Chúa đã thực hiện. Rồi các tông đồ cũng được nghe những lời giảng dạy, những hướng dẫn riêng để chuẩn bị cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, Tôma lại nói với Chúa Giêsu: "Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi". Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã đi theo bao nhiêu năm nay là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, bởi vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu nói và làm đã không có được ảnh hưởng đến ông.

Trước thái độ của các tông đồ, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... Ai thấy Thầy là xem thấy Cha". Điều đó khẳng định cho chúng ta rằng:

Chúa Giêsu chính là con đường, con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa thật. Đó là con đường thập giá. Và chúng ta phải đi trên con đường đó mới đến được với Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là sự thật, sự thật của ơn cứu độ, sự thật của lòng thương xót. Chính vì Chúa là sự thật nên Chúa không ngần ngại nói lên sự dối trá của thế gian, để làm rõ nên chân lý tình yêu của mình.

Chúa Giêsu là sự sống. Trong suốt cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đem sự sống đến cho mọi người, cách riêng là người nghèo, người cô đơn, người bệnh tật, người tội lỗi, người chết và nhất là chính Chúa đã sống lại để hủy diệt nộc độc của sự chết và minh chứng rằng: Chúa chính là sự sống đời đời.

Khi nói lên tất cả như thế, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ rằng: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc.

Cứ tưởng như câu chuyện của các tông đồ ngày xưa đã đi vào quá khứ và chỉ còn là một hoài niệm nào đó. Vậy mà nhìn lại, nó vẫn còn là một câu chuyện rất thời sự của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta.

Cũng như các tông đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi đó làm chúng ta cảm thấy khổ sở. Biết bao nhiêu lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với những người chung quanh và thường hay hỏi tại sao mình không được như người khác, tại sao mình không được tốt hơn...

Nếu chúng ta biết trân trọng và chu toàn tốt trách nhiệm của mình; biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc, thì những lúc đó, chúng ta như đứa bé được nói đến trong bài viết đã biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho người khác và cho mình. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính mình.

Rất ước mong chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống trong lòng của mình mỗi khi tham dự Thánh lễ cũng như khi về cuộc sống hiện tại. Để nhờ đó, chúng ta sẽ có thêm sức mạnh và tâm hồn mãi luôn được bình an để hoàn tất cuộc hành trình về nhà Chúa. Amen.

 

14. Con đường sự sống

Có người cho rằng tiền quí nhất, có người cho rằng tình yêu quí nhất hoặc quyền lực, danh vọng quí nhất... Nhưng theo tôi, cái quí nhất chính là sự sống, cho dù có tất cả mọi thứ nhưng khổ nỗi mình đang mắc chứng bệnh ung thư giai đọan cuối thì sao? Chắc chắn sự sống là quí nhất.

Người ta làm tất cả mọi việc chỉ để sống. Nhưng rất tiếc sự sống ở đời này lại quá ngắn ngủi. Vì thế, vua Tần Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử, vì ông ta muốn có sự sống đời đời. Hôm nay Chúa Giêsu bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu và hạnh phúc, nếu chúng ta đi trên con đường của Chúa, vì Chúa là đường dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Đối với các nhà thám hiểm, các hoa tiêu, các phi công thì vấn đề phương hướng rất quan trọng! Đi đúng đường, đúng hướng là có hy vọng tới đích, đi lạc đường là nguy hiểm đến tính mạng của mình và của bao nhiêu người khác nữa.

Năm 1989 chiếc phi cơ hàng không dân dụng của Nam Triều Tiên lạc đường vào lãnh thổ Liên Xô. Hậu quả, máy bay bị bắn hạ làm mọi người chết hết. Có đi đúng đường, đúng hướng mới về đích an toàn. Đường dẫn đến sự sống đời đời chỉ có một. Ai tìm được là sống, ai lạc đường sẽ mất sự sống.

Con đường của Chúa đi không trải bằng những thảm hồng và nhung lụa, nhưng là con đường thập giá, đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ. Thường thì ai ai cũng muốn chọn cho mình con đường dễ đi của hưởng thụ, sung sướng cho bản thân, nhưng lại bất chấp mọi điều gian ác, tội lỗi. Người ta sợ đi trên con đường của Chúa vì phải hy sinh và từ bỏ.

Sự sống trường sinh mà Chúa ban cho ta phát xuất từ tình yêu và cái chết đau thương trên thập giá. Thập giá và sự phục sinh không tách rời nhau nhưng gắn liền với nhau. Có con đường thập giá thì mới có con đường phục sinh vinh quang. "Sống là chết mà chết là sống". Sống là từng ngày chết đi con người cũ tội lỗi để trở thành con người mới trong Chúa. Cái chết từng phần mà mỗi ngày chúng ta gọi là hy sinh chính là điều kiện để đạt đến sự sống đời đời. Đó là sự sống của chính Chúa. Nếu Đức Kitô đã chết và đã sống lại thì chúng ta cũng sẽ chết và sống lại với Ngài.

Trong một xã hội hưởng thụ như ngày nay, cái lợi trước mắt vẫn hơn, vinh hoa phú quí, tiền của, tình dục, dang vọng đang cung ứng cho mình thì mình cứ hưởng thụ, tương lai hậu xét. Nhiều người còn nghĩ rằng; chắc gì có tương lai, có đời sau. Nếu không có đời sau thì những phấn đấu nỗ lực của con người thật vô nghĩa và đáng thương, rốt cuộc rồi cũng chết như con vật sao? Không, chính Chúa Giêsu sống lại là niềm tin và là con đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Khi chết rồi chúng ta được gì chứ? Tiền của chăng? danh vọng chăng? Tất cả mọi sự đều là phù vân. Chỉ có chúa là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời thôi. "ngay trong đêm nay người ta lấy linh hồn ngươi thì tất cả những của cải ngươi tích trữ sẽ về tay ai".

Là người kitô hữu, tôi tin rằng có Chúa Giêsu là đường dẫn tôi đến sự sống đời đời, vậy niềm tin này thúc bách tôi có thái dộ sống thích hợp hơn, hãy coi ngày hôm nay là ngày cuối đời. Cuộc sống đời này vẫn tốt đẹp và hạnh phúc nhưng nó không phải là điểm dừng của chúng ta. Đời sau có được hạnh phúc trên thiên đàng hay phải trầm luân trong hỏa ngục là tùy cách sống hiện tại của mọi người.

Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy bám lấy Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Để được như vậy chúng ta nên áp dụng phương châm sau đây: tạo vật nào đưa chúng ta đến với chúa thì chúng ta sử dụng, ngược lại tạo vật nào ngăn cản chúng ta đến với chúa thì ta không dùng nó"

Thế thì để có một cuộc sống trường sinh bất diệt chúng ta cần phải làm gì? Tôi thiết nghĩ chẳng có cách nào hơn là chúng ta phải sống theo đường lối của Chúa dạy: đó là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa qua việc giữ những điều Chúa dạy, siêng năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích...Yêu người được thể hiện qua cuộc sống hằng ngày yêu thương người nghèo đó là điều kiện để chúng ta được sự sống đời đời.

Chúa không cần chúng ta làm những việc to tát, nhưng là những việc rất nhỏ, tầm thường với một tình yêu chân thành.

Lạy Đức Kitô phục sinh, Ngài là đường để con bước đi, là sự thật để con tín thác, là sự sống để con no thỏa, và là điểm hẹn để con gặp gỡ trong niềm vui muôn đời.

Tin vào sự phục sinh của Chúa cũng chính là tin vào sự phục sinh của con, để con không quản ngại trên đường thập giá, không nao núng dấn thân cho sự thật, không sợ chết đi cho sự sống. Amen.

 

15. Đức Giêsu: Dung nhan của Thiên Chúa Cha

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Sách xuât hành tường thuật việc Ông Môsê xin được thấy tôn nhan Thiên Chúa. Chúa liền nói với ông: "Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống."(Xh 33, 20), thế mà hôm nay qua Đức Giêsu Thiên Chúa đã tỏ tôn nhan Ngài cho chúng ta: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Khi tạo dựng con người Thiên Chúa muốn con người làm bạn, nên Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và sách thế đã diễn tả mối tương quan bằng hữu giữa Thiên Chúa với con người qua việc Thiên Chúa  đi dạo trong vườn cây Eden và nói chuyện với con người, thế nhưng mối tương giao này gẫy đổ khi con người phạm tội, và tự con người lánh trốn Thanh nhan “Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa” (St 3, 8), không những con người chạy trốn Thanh nhan, nhưng chính tội cũng làm cho con người không còn có khả năng chiêm ngưỡng Tôn Nhan.

Kể từ khi bị đuổi ra khỏi mối tương giao bằng hữu, con người không thể nào nhìn thấy được Chúa. Nhưng vì là Cha nhân ái, Thiên Chúa luôn mong ước được gần gũi với con cái, lòng thương xót của Chúa luôn thôi thúc Ngài đến với con người, gặp gỡ con người, và tỏ cho con người biết Ngài luôn yêu thương họ. Vì yêu thương Ngài đã sai con chí ái đến với con người, và với sáng kiến bởi tình yêu nhiệm lạ, Con Thiên Chúa đã mạc lấy thân xác con người để biểu tỏ tôn nhan trong cách thế mà con người có thể nhìn thấy. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” một lần nữa minh định điều Chúa Giêsu đã mạc khải: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này.” (số 1).

Một cuộc tỏ bày tôn nhan quá ư nhiệm mầu. Tại sao Thiên Chúa hành động như thế? Thưa bởi vì quá yêu thương con người nên Thiên Chúa đã quay lại chống đói chính mình”, nói như Đức Benđíctô XVI. Phải, Ngài đã quay lại chống đối với điều Ngài đã làm, đó là đuổi con người ra khỏi Tôn Nhan, nay Ngài lại cho con người nhìn thấy Dung nhan, Ngài đã luận phạt con người, nay Ngài lại ra tay cứu vớt con người, Ngài đã loại trừ con người nay lại giao hoà với con người bằng chính cái chết của Người Con dấu ái. Vâng, vì là Thiên Chúa tình yêu nên Ngài không báo giờ bỏ rơi công trình do tay Ngài tạo thành.

Tinh yêu Thiên Chúa là thế đấy, nhưng con người vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tỏ ra cao ngạo, và chẳng nhận ra Tôn Nhan Chúa qua Người Con, Đức Giêsu Kitô. Ngay từ những thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội có nhiều người đã không nhận ra Đức Kitô là dung mạo của Chúa Cha, và chỉ coi Người như là “người con nuôi” của Thiên Chúa. Họ không nhận ra bởi quá dựa vào lý luận của lý trí con  người mà không để cho Thần Khí Chúa can thiệp. Rồi trôi theo dòng lịch sử của nhân loại, tinh thần thế  tục ngày càng lan toả trong lối sống, càng ngày người ta càng bóp méo dung nhan của Đức Kitô, để rồi coi Người đơn giản như một lãnh tụ khởi nghĩa nhằm giải phóng dân tộc, chống lại Đế Quốc Roma, hoặc Đức Kitô chỉ như một Rabbi trình bày giáo huấn về đối nhân xử thế như Khổng Tử, Lão giáo, hoặc Phật Thích Ca. Và để loại trừ bản tính Thiên Chúa ra biến mất nơi con người Đức Kitô, người ta tô vẽ Người chỉ còn là một con người bình thường như bao người khác qua những bộ phim mang tính phỉ báng như “cơn cám dỗ cuối cùng của Giêsu”, hay “Mật mã da Vinci”.

Không nhận ra tôn nhân Thiên Chúa nơi con người Đức Kitô, cũng có nghĩa là không nhận ra tình thương và lòng thương xót của Ngài, nên con người mãi mê lầm trong bóng tối của sự chết. Thế giới luôn tràn ngập hận thù, con người càng ngày càng trở nên vô cảm nỗi khổ của người khác, giết chóc, hãm hiếp, buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức, cướp bóc… và cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an.

Để tìm lại niềm vui của cuộc sống và bình an trong xã hội không gì khác ngoài việc tìm  đến vàdung mạo của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Nói như Đức Phanxicô: “Tình yêu Thiên Chúa giờ đây trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Bản thân Người không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót’’ Dung mạo long thương xót số 8).

Lạy Chúa Giêsu, còn gì hạnh phúc hơn khi được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, bởi từ đó chúng con thấu hiểu Chúa yêu thương chúng con là dường nào. Xin cho chúng con cũng trở thành dung mạo của Chúa để qua đó người ta nhận ra tình thương Chúa,  họ nhận được ơn cứu độ . Amen.

 

16. Suy niệm của Barbara E. Reid

(Barbara E. Reid, nữ tu Đa Minh, giáo sư môn Tân Ước tại Đại học Công giáo ở Chicago. Bà cũng là trưởng khoa và là phó viện trưởng tại trường đại học này. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Tâm hồn anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Thầy” (Ga 14,1)

Có nhiều người được phú ban khả năng đặc biệt. Đó là, họ vẫn giữ được bộ dạng thanh thản, an bình, ngay cả trong những thời điểm khốn khó nhất. Họ không có vẻ căng thẳng hay cảm thấy phiền toái, dù bên trong họ vẫn phải đắng lòng gánh lấy những bầm dập và nghiệt ngã. Không phải chỉ vì họ là những con người lạc quan, biết nhìn ra những khía cạnh tích cực trong mọi trạng huống. Cũng không phải vì họ biết khôn khéo giải quyết sự việc khi nhìn vào những khổ đau hoặc bất công người khác phải gánh chịu  sau đó được minh oan. Nhưng trên hết, niềm vui sẽ được hiện lộ ra bên ngoài rõ ràng khi họ biết nhìn thực tại bằng một cặp mắt cắm sâu trong niềm hy vọng,  và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Họ có thể biểu tỏ trạng huống tâm hồn họ theo cách thức sâu xa mà Đức Giêsu đã khuyến mời các môn đệ thực hành trong bài Tin Mừng hôm nay: “ Tâm hồn anh em đừng xao xuyến”. Bạn có bao giờ gặp những con người như vậy không? Hay có thể chính bạn là con người như thế?

Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ khuyên mời các học trò của mình hãy để tâm hồn của họ tĩnh lặng, đừng lo lắng, nhưng Ngài còn vạch dẫn cho họ cách thái để đạt được điều ấy. Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong bữa tiệc ly, các môn đệ có nhiều lý do khiến họ lo âu, buồn sầu. Đức Giêsu  nói với họ về viễn cảnh sẽ đi xa, xa thật xa, sẽ bị trao nộp, và sẽ bị phản bội bởi hai người bạn thân tín nhất. Các môn đệ nhốn nháo hỏi nhau, Ngài sẽ đi xa, nhưng đi đâu? Làm sao họ biết con đường Ngài đi để có thể cùng đi với Ngài. Tin mừng Marcô đề cập đến vấn đề “ Ai” sẽ là người phản bội (2,7 ; 4,41 ; 8,29). Nhưng trong Tin mừng Gioan, trọng tâm của khúc mắc là chuyện đó xảy ra “ ở đâu”. Người môn đệ được Đức Giêsu trao quyền hành lớn nhất tức Phêrô, muốn biết “ Thầy ở đâu” (Ga 1,38). Đức Giêsu biết Ngài từ đâu đến và sẽ đi về đâu, nhưng những kẻ thù của Ngài không biết (Ga 7,27 ;8,14 ;9,29). Trước tòa án, Philatô tra hỏi, muốn biết Chúa Giêsu từ đâu đến (19,9). Khi đến ngôi mộ trống, Maria Madalêna cũng bộc bạch sự lo lắng “ Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Jn 20,2 ;20,13).

Xuyên suốt Tin mừng của Thánh Gioan, ý niệm “ ở đâu” không mang ý nghĩa một nơi chốn không gian, nhưng là trạng huống con người kết hợp sâu xa với Đức Giêsu, trong đó họ được nghỉ ngơi trong Chúa và tin vào Ngài. Đức Giêsu cũng muốn những kẻ tiếp bước theo Ngài sống theo cách thức mà Ngài đã sống, là luôn kết hợp với Chúa Cha, như Ngài đã nói “ Cũng như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng vui hưởng được ở trong Cha, và ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Có lần Đức Giêsu còn minh giải thêm “ Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và  Ngài còn cắt nghĩa rõ hơn “ Thầy đi để dọn chỗ cho anh em” (Ga 14,2). Nhiều Kitô hữu phác vẽ một viễn cảnh về một nơi ở trên trời, nơi Đức Kitô đã chuẩn bị sẵn môt “căn hộ năm sao” cho những ai trung thành bước theo Ngài. Nơi ở mà Chúa Giêsu nói đến không phải vậy, nhưng chính là tình trạng kết hợp sâu xa với Ngài. Đó vừa là một thực tại hiện sinh, vừa là một động thái sâu xa hướng về sự viên toàn vào thời cánh chung.

Đây không phải là điều chúng ta dễ dàng lãnh hội được, cũng không phải là một cuộc hành trình giản đơn. Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, có một điều khá đơn giản: Đức Giêsu chính là con đường đi. Trong Tin mừng Gioan, Thánh Tôma luôn là đại biểu cho những người hay chất vấn và nghi ngờ, đã lên tiếng “ Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi?” (câu 5) Không biết đường đi, là một cách biểu lộ dễ nhất của một người muốn đứng ngoài cuộc. Philip đã đưa ra một chiến thuật khác để đối kháng “ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con (câu 8)”. Ông ta bày tỏ ước muốn chỉ cần nhìn thấy Đấng mời gọi chúng ta sống kết hợp sâu tận với Ngài, thế thôi, giống như chỉ cần nhìn thấy căn phòng khách sạn rẻ tiền đã trang bị sẵn đồ đạc để ta đến trú ngụ, không cần điều gì khác. Dù chúng ta không biết cách thâm nhập vào cõi lòng đầy an bình của Thiên Chúa, nhưng chúng ta đã gặp được Đức Giêsu, thấy được vẻ thần linh, kín nhiệm của Thiên Chúa nơi Ngài. Tin Ngài và dấn bước theo Ngài, ngay cả khi trực diện cái chết, tâm hồn chúng ta sẽ trở nên tĩnh lặng và an bình, không còn xao xuyến, giống như một đứa bé thơ chẳng lo âu, đang ngủ yên trong vòng tay của mẹ nó (Tv 131,2)

 

17. Cuộc đời là một chuyến đi

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến vô tận. Chuyến đi nào cũng có thể gặp người ta yêu nhưng cũng có thể phải chia tay và bỏ họ lại phía sau. Chuyến đi nào cũng có niềm vui nhưng cũng có những chuyến đi mang lại nỗi buồn. Vui buồn lẫn lộn trong kiếp người cũng tùy thuộc vào chuyến đi mang theo mục đích gì? Mục đích chuyến đi sẽ quyết định về sự vui buồn trong hành trình của chúng ta.

Càng đi, ta lại càng thêm dẻo dai. Như một lực sĩ, càng chạy, ta càng mềm dẻo để có thể dấn thân vào một chuyến đi mới, vào những cuộc chiến đấu mới. Đi càng nhiều thì đời càng cho ta thêm kinh nghiệm. Thế nhưng, có khi càng đi, con người lại càng thêm buồn đau hơn! Vì thất bại nên thất vọng. Vì không như ý muốn nên chán nản...

Tựu trung trong cuộc đời chúng ta có ba chuyến đi:

1/ Những chuyến đi thể lý:

Đó là những chuyến đi theo nhu cầu tự nhiên của một người bình thường. Nhu cầu công việc. Nhu cầu về thăm quê hương. Nhu cầu thăm nom cha mẹ và anh chị em trong gia đình... Đây là những chuyến đi của bổn phận nhưng đòi hỏi chúng ta vượt lên sự ngại ngùng, lười biếng để dấn thân về phía trước.

2/ Những chuyến đi nhân ái

Có những chuyến đi không phải của bổn phận mà là của tình người chia sẻ, hiệp thông với tha nhân. Có chuyến đi đến với người nghèo để cho họ bữa ăn, hay đến với người bất hạnh để ủi an nâng đỡ họ. Mỗi năm giáo xứ chúng tôi vẫn có chuyến đi thăm người nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh như Cao Nguyên hay Miền Trung khô cằn. Nhìn nét mặt hân hoan của họ khi nhận quà mà lòng mình cũng hân hoan. Lúc đó mới thấy chuyến đi mình thật ý nghĩa.

3/ Những chuyến đi tâm linh

Sự sống con người không dừng lại ở những chuyến đi thể lý hay nhân ái mà còn có chuyến đi về với cội nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người. Chuyến đi này xuyên suốt trong những chuyến đi thể lý hay nhân ái. Chính chuyến đi này làm cho những gánh nặng, những khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. Ai đã từng đau khổ hay mang gánh nặng nề nếu biết hướng lòng về chuyến đi cùng đích sẽ cảm thấy nhẹ vơi, bình an. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Sau thập giá là vinh quang.

Chúa Giê-su đã từng thực hiện chuyến đi ấy trong suốt cuộc đời Ngài luôn hướng về Chúa Cha, luôn sống trong chờ đợi “Giờ” mà Chúa Cha đã định cho Ngài. Ngài đã sống trọn vẹn một hành trình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho dầu đó là thập giá đau thương, Ngài vẫn đón nhận trong niềm tín thác nơi Cha.

Sau cuộc hành trình đầy thương khó, Ngài đã về Trời để lãnh triều thiên vinh quang. Ngài đã bước qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh.

Hôm nay Ngài bảo: “Ngài về cùng Chúa Cha”. “Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Ngài mong rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nhưng để có thể ở bên Ngài trong Nước Cha Ngài, chúng ta cũng phải đi trên con đường Ngài đã đi. Con đường của thập giá tiến tới vinh quang. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong sự chia sẻ trách nhiệm với tha nhân. Thập giá trong những hy sinh phục vụ đồng loại. Nhất là thập giá trong hy sinh từ bỏ những quyến luyến tội lỗi, những đam mê lầm lạc để sống theo thánh ý Chúa.

Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha. Amen.

 

18. Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)

I. Dẫn vào

Bài Tin Mừng Ga 14,1-12 hôm nay là bài thứ nhất trong ba bài giảng sau Tiệc Ly được thánh Gioan trình bày kế tiếp nhau. Bắt đầu bằng việc Đức Giêsu ra đi để dọn chỗ cho các môn đệ, rồi Người sẽ trở lại đem các môn đệ đến với Người, để Người ở đâu, các môn đệ cũng ở đó (cc. 1-3) và điểm đến là mặc khải về sự duy nhất Cha-Con (cc. 7-11). Con đường mà cộng đoàn các môn đệ phải đi theo, là chính Đức Giêsu vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống (cc 4-6). Các môn đệ đi trên con đường đó với điều kiện duy nhất là lòng tin, một thực tại có sức mạnh lớn lao (c. 12)

II. Đức Giêsu, con đường đến cùng Chúa Cha

Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã nói lời từ biệt để về cùng Chúa Cha. Đã khiến cho các môn đệ hoang mang, lo sợ, xao xuyến. Trong suốt ba năm gắn bó với Thầy và chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống, Thầy là chỗ dựa, là cuộc sống, là con đường tương lai. Tất cả cuộc sống, hướng đi tương lai nay bơ vơ không biết đi về đâu… Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng bồn chồn, lo lắng, ưu phiền của các môn đệ. Người nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Như thế, Người kêu gọi các môn đệ xây dựng cuộc sống trên nền tảng vững chắc không lay chuyển trong Thiên Chúa và trong chính Người.

Sở dĩ, Người kêu gọi hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Người, đó là bởi vì Người và Chúa Cha là một (10,30-38; 14,11-20; 17,21-23). Như Người đã quả quyết: “Ai tin vào tôi thì không phải tin vào tôi, nhưng tin vào Đấng đã sai tôi” (Ga 12,44). Bây giờ Người đi về cùng Đấng ấy, nhằm đưa các môn đệ đến chỗ nên một với Người. Đó là cuộc trở về nhà của Chúa Cha như Người nói: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Sau khi trấn an các môn đệ, Đức Giêsu nói về con đường đưa các ông đến cùng Chúa Cha. Người nói với các môn đệ: “‘Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi’. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi?’ (cc. 4-5). Đức Giêsu trả lời: ‘Chính Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’” (c. 6).

Đức Giêsu chính là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Con đường này đưa đến Chúa Cha, và đây là con đường duy nhất bởi vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (14,6). Đến với Đức Giêsu đồng nghĩa với tin vào Đức Giêsu. Như thế “Đến cùng Chúa Cha” là tin vào Chúa Cha. Và Đức Giêsu là con đường nghĩa là trung gian dẫn thiên hạ đến với Chúa Cha, làm cho thiên hạ tin vào Chúa Cha.

Đức Giêsu tự ví mình với con đường, vì con đường là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa và tin tưởng vào Người, dân Israel đã ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới đất hứa. Do đó, con đường là tượng trưng cho cuộc xuất hành (x. Đnl 1,30-39). Một khi đã vào đất hứa, dân Israel cũng phải ăn ở theo đường Chúa dạy bảo thì mới được phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong luật Môsê. Do đó, con đường còn là tượng trưng cho luật Môsê.

Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Ngài qua trung gian Đức Giêsu, vị trung gian tuyệt hảo và sau hết. Do đó, con đường vẫn còn là tượng trưng, nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là con đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,30; Mt 16,24; Lc 8,23).

Đức Giêsu là con đường dẫn đưa “vượt qua” từ đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống. Tất cả được tiên báo trước bằng hình ảnh con đường nối liền giữa trời và đất như giấc mơ tổ phụ Giacóp, ông thấy chiếc thang từ đất chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống (x.St 28,12), và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).

Đức Giêsu là con đường vì Người là chân lý. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do Thái giáo thì chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, ngày xưa được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ. Nhưng ngày nay chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng chúng ta có thể nói: Đức Giêsu và chân lý Ngài mặc khải là một, vì khác với Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể, và vì thế, Ngài là lời tuyệt hảo của Chúa Cha, là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Chúa Giêsu (Ga 17,8-12).

Thật vậy, Đức Giêsu là sự thật, sự thật về một Thiên Chúa tình yêu (x. 1Ga 4,8) hay chạnh lòng thương, và giàu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con Người: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32). Cho nên thánh Augustinô đã cắt nghĩa căn nguyên sự bối rối của các tông đồ: “Các ông đã không biết kho tàng sự thật mà chính mình đang sở hữu”.

Đức Giêsu cũng là sự sống. Muốn có đời sống vĩnh cửu, loài  người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa dạy bảo qua trung gian Con Một của Người là Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa, Đức Giêsu không chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ: Ngài chính là lời tuyệt hảo của Thiên Chúa. Vì thế, chẳng có gì lạ khi Người là sự sống.

Đức Giêsu là sự sống, sự sống vĩnh hằng, sự sống ấy ngay trong cung lòng Chúa Cha (x. Ga 6,5a). Như Ngài đã tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Sự sống này được ban cho những người tin vào Người: “Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời”.

Đích điểm của con đường là Chúa Cha. Nhưng Chúa Cha hiện diện nơi Chúa Giêsu. Các môn đệ đã từng biết Đức Giêsu, và vì thế họ cùng biết Chúa Cha nơi Người. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (c.7). Lúc ấy, ông Philipphê mới xin được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Thánh nhân đã nói lên khát vọng sâu xa của loài người mà chưa bao giờ đạt được. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng xem thấy Người là xem thấy Chúa Cha. Tuy nhiên, con người chỉ xem thấy Chúa Cha, không phải bằng cặp mắt Người phàm, mà bằng cặp mắt đức tin qua việc Đức Giêsu nói và việc Ngài làm, vì Chúa Cha ở trong Người và thực hiện công trình của Người qua Chúa con (14,10b). Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô giải thích: “Lời xin của Philipphê không gây ngạc nhiên, bởi vì, được nhìn thấy Chúa Cha là cùng đích của mọi ước muốn và hành động của chúng ta thì không còn gì, làm cho chúng ta mãn nguyện hơn, như lời Thánh Vịnh: “Nhìn thấy dung nhan Chúa, lòng con khấp khởi mừng vui”.

III. Người tín hữu sống Tin Mừng hôm nay như thế nào?

Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu. Ngài chính là con đường, nghĩa là ai tin vào Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình cuộc đời của mình.

Thực vậy, trên thế giới không thiếu gì những con đường nổi tiếng, những xa lộ, những con đường siêu tốc. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến điểm hẹn. Nhưng trong cõi rộng mênh mông của cuộc đời, nhiều khi hành trình của chúng ta bị lạc hướng, nhiều khi chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn dừng chân, vì những chống đối, hiểu lầm, ghen ghét, kết án cứ bám chặt lấy cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, có một con đường được mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tình yêu để vươn lên sự sống; con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là “con đường mang tên Giêsu”.

Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả niềm tin gắn bó với Chúa Giêsu, để được sống và sống dồi dào do ân ban của Ngài, và để nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả tình yêu và phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường phục vụ và yêu thương. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.

Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta. Amen.

 

19. Niềm tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Chúa Giêsu đã hứa rằng: "Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.

Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: "Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.

Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo mẹ". Đứa bé lại nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.

Vâng câu nói: "Con hãy tin theo Mẹ" của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.

Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là "nhân chi sơ tính bản thiện". Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: "Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa".

Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.

Là người kytô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.

 

20. Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Trong cuộc sống con người, những băn khoăn về cội nguồn của con người, những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, những thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối hằng bao thế kỷ mà chưa có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba đường không biết phải đi về đâu.

Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cội nguồn của Người là Chúa Cha, ý nghĩa cuộc sống của Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích của Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Con đường ấy có tên là GIÊSU. Con đường ấy chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường dẫn chúng ta tới đích.

Mười năm về trước, một lần từ Bình Dương về Long Khánh. Trên đường đi tôi thấy một bảng chỉ dẫn Bình Dương - Biên Hòa 30 km. Tôi yên tâm cứ thế mà đi. Đi được khoảng một tiếng đồng hồ, tự nhiên tôi có cảm tưởng là sao hôm nay con đường này lạ quá và tôi đã dừng xe lại hỏi một người bên đường từ đây đến Biên Hòa còn bao xa?

Và tôi hốt hoảng với câu trả lời: còn 30 cây số nữa.

Bình Dương cách Biên Hòa 30 cây số. Đi cả một tiếng đồng hồ mà vẫn còn 30 cây số.

Tôi bắt đầu lo lắng, vì hai bên đường toàn cây cao su vắng lặng, không một bóng người.

Làm sao đây? Rủi hư xe hoặc hết xăng thì như thế nào đây?

Với cảm nghiệm này, tôi mới thấy tầm mức quan trọng của Lời Chúa hôm nay:

“Ta là con đường, là sự thật và là sự sống".

Con đường chính là cái giúp chúng ta đến nơi mà chúng ta mong đợi. Con đường càng tốt, càng đưa chúng ta tới đích nhanh. Con đường càng sáng sủa, càng giúp chúng ta nhận định chính xác điểm đến của chúng ta. Dĩ nhiên, nếu con đường vòng vèo sẽ làm chúng ta mất nhiều thời giờ và lâu tới đích hơn.

Chúa Giêsu là con đường, con đường thật, con đường chân chính dẫn đến Chúa Cha.

Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Người là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta.

Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Người mới là con đường  đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Người vì chính Người đã khẳng định với chúng ta: ”Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).

Một  hình ảnh khác về con đường: chú ruồi với con đường

Hôm ấy là một ngày cuối tháng Bảy bình thường như mọi ngày. Tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh ẩn giữa rừng thông và lắng nghe những âm thanh tuyệt vọng của trận chiến sinh tử đang diễn ra cách chỗ tôi ngồi một vài bước chân. Đó là một chú ruồi nhỏ đang dốc chút sức lực cuối cùng để vượt qua tấm kính của cửa sổ. Những nỗ lực điên cuồng không mang lại chút hy vọng nào. Càng cố gắng, nó càng mau kiệt sức. Thật vô ích khi chú ruồi cứ nhất định muốn phá vỡ tấm kính bằng sức lực nhỏ bé của mình.

Cuối cùng, chú ruồi phải chịu số phận bi đát. Nó kiệt sức và gục chết trên bậu cửa. Chỉ cách mười bước chân thôi, cánh cửa đang rộng mở. Chỉ mất mười giây đồng hồ để bay đến đó, và con vật bé nhỏ này sẽ ra được với thế giới bên ngoài mà nó đang tìm kiếm. Chỉ cần một phần nhỏ sức lực đã bỏ phí, nó đã có thể thoát khỏi chiếc bẫy mà nó tự áp đặt cho mình, nhưng nó đã không làm thế. Nó đã chết một cách thê thảm.

Và một hình ảnh khác: chú ong đất với con đường

Khi chúng ta nhốt một con ong đất vào một chiếc lọ thủy tinh, chúng ta thấy chú ong cứ luẩn quẩn ở đáy lọ và tìm cách thoát ra ngoài bằng con đường ở đáy lọ, đang khi đó, nắp lọ mở rộng, nhưng nó không bao giờ nghĩ tới. Chúng ta nhiều khi cũng như chú ong đất, chỉ loay hoay tìm hướng ra từ mặt đất, không thể hướng lên cao, nên chúng ta phải nhờ Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu giúp chúng ta hướng lên, hướng lên cao tới tầm mức của một con người và tầm mức của một con Chúa.

Chính Chúa Giêsu là người mở đường đồng thời cũng là chính con đường dẫn chúng ta đến Chúa Cha. Phải, chính Chúa Giêsu, Người đã đến từ Chúa Cha, nay Người trở về cùng Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã khai mở.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng và tín thác vào Lời Chúa như trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống.” Amen.

 

21. Nhà Cha – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào ‘shelter’ chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.

Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.

Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.

Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.

Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.

Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.

Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.

 

22. Đường Giêsu, Đường con đi

(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)

Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.

1. Đường hy vọng tin yêu.

Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bửa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.

Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn luyến hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bổng dưng lật ngữa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!

“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.

Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến”. Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.

2. Đường mang tên Giêsu.

“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.

Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi?- Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).

Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn. Người hằng sống hằng trị muôn đời.

Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.

3. Đường con đi.

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.

Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lí tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lí tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lí tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chổ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghĩ ngơi trong Ngài”.

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.

Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi”.

 

23. Chúa Nhật 5 Phục Sinh

NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY

1. Tìm hiểu: 3 điều:

a/ Thiên đàng có nhiều chỗ

b/ Thầy là Đường đi...

c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

- Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ

Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện "Bé không đi học, lớn lên làm đại úy".

- Câu 14,6 Thầy là đường đi...

Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.

- Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.

Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?

Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.

2. Suy niệm:

Truyện: Đi tìm minh chủ

Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.

- Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.

- Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.

- Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.

Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.

Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.

Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: " Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!

Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: "Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.

Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.

Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:

a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.

b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.

c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.

1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:

"Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.

Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.

Nhưng nếu có người nói: "Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó", người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.

Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.

2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.

Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.

Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.

Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: "Ta là sự thật". Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.

3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.

Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.

Thế nên Chúa nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?" (Mt 16,26)

3. Chúa muốn tôi làm gì?

- Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ". Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: " Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy".

- Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu "bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,

Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,

Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.

 

24. Con đường hạnh phúc

Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ nghĩ Cà Mau sẽ rất xa, mình phải ngồi trên xe lâu lắm mới tới. Đúng như tôi suy nghĩ. Cuộc hành trình về Cà mau của chúng tôi rất vất vả. Sáng sớm chúng tôi đã đón được chuyến xe tốc hành về Cà Mau. Tuy đường từ Cần Thơ về Cà Mau có nhiều chỗ "ổ gà" thậm chí cũng có rất nhiều "ổ voi", nhưng cũng không thấm vào đâu so với sức trẻ của chúng tôi. Chúng tôi hãnh diện là những người khỏe, trẻ không sợ gian khó, nhưng chúng tôi cũng phải chùn bước khi thấy con đường từ Cà Mau về nhà bạn tôi. Từ Cà Mau vào phải đi qua hai chiếc đò, và đi bộ thêm hai giờ đồng hồ trên đường đất nhỏ với bốn chiếc cầu khỉ mới đến được nhà bạn tôi. Trong đoàn chúng tôi có tất cả sáu người, nhưng khi ngồi xe đến Cà Mau, thì đã có ba người không đi nổi nữa phải ở lại. Còn lại ba người tuy rất ngán ngẫm về con đường phía trước, nhưng vẫn phải đi vì không còn con đường nào dẫn về nhà bạn tôi được. Cuối cùng chúng tôi quyết tâm đi với hy vọng cũng sẽ tới và tâm niệm trong đầu "ai bền đỗ đến cùng người đó sẽ được rỗi". Cuối cùng chúng tôi đã tới. Thật là vui mừng và sung sướng vì chúng tôi đã đi đến đích cách thành công.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta biết như một lệnh truyền độc nhất không thể huỷ bỏ "Thầy là đường". Có thể lúc Chúa Giêsu nói Tôma vẫn chưa thể hiểu hết câu nói của Người. Ông còn đang mơ tưởng đến một quê hương nào đó, vì ông thuộc mẫu người thực nghiệm, muốn tay sờ, mắt thấy, tai nghe... Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định chỉ cần nhìn vào Người, vì Người là con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Trong thực tế thì "đường" đã có sẵn và có từ muôn đời, nhưng người ta lại không muốn đi, có người thi lại không chịu nghe lời hướng dẫn để rồi bị đi lạc như Giuđa Iscariô. Có người đã đi đúng đường, đã tìm được sự hướng dẫn đích thực, nhưng lại bị lôi kéo bởi những con đường giả tạo, phù phiếm...để rồi bị lạc đường và bị lún sâu vào vũng lầy bóng tối, xa cách sự sáng mãi mãi.

Trên đường về thăm nhà bạn tôi, cũng chỉ có ba người về đến đích, còn ba người phải tạm chia tay hay nói đúng hơn là bỏ cuộc. Tượng tự những người lữ hành về quê trời cũng vậy, tất cả đều đang đi, nhưng cũng có người vì bị một lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà phải ở lại, đành bỏ cuộc. Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy". Đi theo Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Nếu đường đã có sẵn mà chúng ta không chịu đi thì không bao giờ về đến đích. Đức Giêsu chính là con Đường và là Người dẫn đường, nhưng nếu chúng ta chán nản chúng ta không chịu đi thì Ngài cũng đành "bó tay", vì Ngài luôn cho ta có một sự tự do để lựa chọn.

Còn những người về đích, không phải họ là những người may mắn, mà là những người đã đi đúng đường, với nỗ lực bản thân vượt qua được những trở ngại trước mắt để về đến đích bình an.

Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta vẫn chưa đạt tới đích, tất cả chúng ta đều đang đi, trên quãng đường này chắc chắn có rất nhiều chông gai thử thách, cám dỗ mời mọc... nó sẽ thật nguy hiểm cho đời sống đạo của chúng ta. Có rất nhiều ngã và lối rẽ, nếu ta không thức tỉnh, nếu ta không vững vàng, ta sẽ bị sụp bẫy của kẻ thù mà đi lạc hướng, đi vào con đường của bóng tối và sự chết.

Lạy Chúa, xin cho con xác tín chỉ có Chúa mới là con đường nhanh nhất, và chắc chắn nhất dẫn chúng con về với Chúa Cha. Amen.

 

25. Ra đi & Trở về

Đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu ra đi và trở về. Hẳn nhiên chúng ta thấy vấn đề đặt ra là Chúa Giêsu đi đâu và trở về đâu? Sứ mạng của Ngài là gì?

Chúa Giêsu là Thiên Chúa, từ nơi Chúa Cha mà đến trần gian trong thân phận xác phàm nhưng không mất bản tính Thiên Chúa nơi mình. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ mạng của Ngài là "Cứu Thế", Vị Cứu Tinh không chỉ cho dân Do thái mà còn cho toàn thể nhân loại, cho cả vũ trụ vạn vật vì tất cả vũ trụ vạn vật được sinh ra nhờ Người và trong Người (x. Cl 1, 16).

Một trong những sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng chỉ rõ "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14 ,9) vì  "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(Ga 14,10). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần gũi, dễ yêu thương. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó mật thiết lạ lùng đến nỗi Chúa Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14,7). Như thế, Lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (Ga 14,10).

Cuộc đời Chúa Giêsu phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả và Hằng Hữu đã có thể trở thành con người thấp hèn, đơn sơ như em bé nơi máng cỏ Belem, sinh sống nơi làng Nadarét, giao tiếp với người thu thuế, người tội lỗi,...cuối cùng phải chết khổ nhục trên thập giá. Điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách lạ thường như thế.  

Không ai thấyThiên Chúa  bao giờ (Ga 1,18). Tuy nhiên, chúng ta có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, thấy sự hiện diện đầy kỳ diệu và huyền nhiệm trong vũ trụ này. "Ai thấy Thầy là thấy Cha", điều này cho chúng ta một xác quyết mạnh mẽ hơn, một niềm tin vững chắc hơn khi chúng ta tiếp cận Lời Chúa, chúng ta đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta lãnh nhận các bí tích và ân sủng tràn lan của Thiên Chúa ban qua Hội Thánh của Người cho chúng ta. Đó là con đường, là cơ hội, là cách thức nhận biết Thiên Chúa để củng cố và nâng đỡ đời sống đức tin của chúng ta.

"Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. "Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12). Hơn nữa, hằng ngày chúng ta có thể gặp Chúa nơi tha nhân, nơi những người nghèo khổ, nơi những người bị bỏ rơi,...(x Mt 28) hay nơi những người sống và thi hành ý muốn của Thiên Chúa...

Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Ngài còn mạc khải chính Ngài cho chúng ta biết: "Ta là Đường, là Sự thật và là sự sống". Nơi Chúa Giêsu Kitô có sự sống đời đời, có niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài đã mạc khải về con đường đó và Ngài cũng chính là con đường mà ta có thể bước theo để được hưởng ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài mạc khải là lời chân lý, không sai lạc, không hề lừa dối ai bao giờ. Đi trong đường lối Ngài là ta đang đi trong Sự Thật, đi trong đường lối Ngài là ta được đi trong tình thương và ân sủng của Ngài. Đi theo Ngài ta có được sự sống đời đời. Ở trong Lời Ngài, ta sẽ gặp được bình an. Bước đi theo Ngài ta sẽ được hạnh phúc đời đời. Đó chẳng phải là  khao khát của chúng ta, khao khát của biết bao người, của những người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh hiệu... Như thế, con người đang muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, với Đấng là Đường là Sự Thật và là sự sống đời đời, con người muốn cảm nghiệm và đi sâu vào mối tương quan, vào mối hiệp thông thâm sâu với Đấng Tạo Hóa ấy.  Phần của Thiên Chúa, Ngài đã đáp lại khát vọng, Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta và cũng chính Ngài là Đấng khơi lên và giúp con người biết khát vọng và muốn tìm về cội nguồn của mình, tìm về Đấng đã yêu thương, sáng tạo và quan phòng chăm sóc.

Sau khi đã sống trọn sứ mạng yêu thương tự hiến, Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh. Ngài cũng muốn chúng ta đi theo Ngài mà về nơi đó. Chúa Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Là Kitô hữu, chúng ta can đảm bước đi theo Chúa, chúng ta hãy gạt bỏ những gì không phù hợp với đời sống của người Kitô hữu, đi trên con đường Chúa chỉ dẫn. Con đường mà Chúa Giêsu đã đi là con đường mà Thiên Chúa muốn, là con đường vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, là con đường đón nhận đau khổ, chết và phục sinh như Chúa Giêsu. Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao để có thể nói được rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô."  Nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân vì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa để chúng ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18, 5; 25, 40.45; Lc 10, 16). Ngài muốn ta yêu thương họ bằng trái tim của ta, phục vụ họ bằng đôi tay của ta.  

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được tình thương mà Chúa dành cho chúng con để chúng con đón nhận và đáp lại tình yêu đó, cho chúng con luôn trung thành bước theo Chúa như Chúa hằng khao khát và mạc khải cho chúng con. Amen.

 

26. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Lễ Vượt Qua là một đại lễ đầy vui mừng, vì tưởng niệm cuộc vượt qua của dân Do Thái, thoát ách nô lệ Ai Cập. Thế nhưng trong nhà tiệc ly, bầu không khí không vui và nặng nề, vì Chúa Giêsu đã nói đến nhiều vấn đề nghiêm trọng. Ngài muốn biến bữa tiệc này thành một cuộc giả từ, vì giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Trước khi vào bàn ăn, Ngài đã lấy nước rửa chân cho các môn đệ và ban cho họ điều răn mới của Ngài. Sau đó, Ngài cho họ biết rằng, đêm nay, một người trong nhóm sẽ nộp Ngài, và Phêrô tỏ ra hào hùng khi tuyên bố rằng con sẽ thí mạng con vì Thầy. Nhưng Chúa báo cho ông biết rằng, đêm nay ông sẽ chối Thầy ba lần. Vì thế họ phân vân, lo ngại. Và cũng vì thế, Ngài bảo họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.

Không xao xuyến sao được khi Thầy báo Thầy sẽ ra đi. Đi đâu? Tôma nhạy cảm đã thắc mắc: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?” Thầy đi đâu? Đi dọn chỗ cho anh em. Dọn chỗ là gì? Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rằng Chúa ra đi là để chuẩn bị những gì cần thiết cho chúng ta để Thầy ở đâu, anh em sẽ ở đó với Thầy. Ngài ra đi để ban Thánh Thần cho chúng ta, để Thánh Thần dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn.

Nhờ câu hỏi của Tôma, Chúa mạc khải một điều mới lạ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Muốn đi đến một nơi nào đó, chúng ta cần đi đúng đường, nếu không chúng ta sẽ lạc lối và chẳng đi đến đâu. Chúng ta đang đi về đâu? Về với Chúa Cha là nguồn hạnh phúc duy nhất của chúng ta, vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Ngài mới là hạnh phúc của chúng ta thôi. Chúng ta cần xác tín mạnh mẽ điều này. Dù thế gian có hứa hẹn với chúng ta những gì đi nữa, bộ mặt thế gian này sẽ qua đi,  nhưng Chúa vẫn còn. Con đường là Ngài, là những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Ngài là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, là phản ánh huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Nhiều lần, Chúa đã bảo chúng ta: “Hãy theo Ta”. Theo Ngài là con đường duy nhất, không có con đường nào dẫn chúng ta đến Chúa Cha cả.

Ngài cũng là sự thật và là sự sống. Chúng ta không thể định nghĩa một cách chính xác hai từ này, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng, sự thật là một điều bất biến. Những gì thay đổi không thể là sự thật. Và Sự Thật và Sự Sống chính là Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết rằng, Ngài là Thiên Chúa. Ngài được sai đến là để làm chứng cho sự thật, tức là làm chứng cho Thiên Chúa. Vì thế Chúa cũng nói: “Nếu anh em biết Thầy thì anh em cũng biết Cha Thầy”. Philipphê nài xin: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”. Nhờ lời thỉnh cầu của ông, Chúa Giêsu lại mạc khải thêm một chân lý mới: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói: “Cha Thầy với Thầy là một”. Có cách nào nói rõ hơn nữa không? Trước khi bước vào tử nạn, Ngài muốn cho các môn đệ biết rõ về Ngài, về mối liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha. Ngài là hiện thân của Chúa Cha. Ngài đến trần gian là để mạc khải Chúa Cha là nguồn sống và hạnh phúc của con người. Ngài nói những gì Chúa Cha bảo Ngài nói, Ngài làm những gì Chúa Cha bảo Ngài làm. Vì thế, Ngài đòi buộc: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chỉ cần tin thôi: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những gì Thầy làm, người ấy còn làm những việc lớn hơn nữa”. Và đúng thế, từ bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu thế hệ Kitô hữu, là những người đã tin, đã làm cho Giáo Hội trở thành một cộng đoàn lớn mạnh trên khắp thế giới.

Đức tin chính là điều kiện tất yếu để chúng ta trở thành dụng cụ cho Chúa, cho tình yêu Chúa lớn mạnh trong tâm hồn mọi người. Đức tin là nguồn sống giúp chúng ta thi hành những gì Chúa muốn, như Chúa Giêsu đã làm những gì Chúa Cha muốn Ngài làm. Muốn có được đức tin như thế, chúng ta cần cầu xin và bền vững cầu xin, vì đức tin là một hồng ân chứ không là kết quả của nỗ lực của chúng ta. Chúng ta noi gương Chúa Giêsu là luôn tuân theo ý Cha trên trời, làm những gì Cha mong ước. Chúng ta không xao xuyến như các môn đệ vì Chúa đã hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta vững tin rằng Ngài luôn luôn hiện diện nơi bàn thờ hiến tế, khi chúng ta làm những gì Ngài căn dặn để nhớ đến Ngài. Ngài hứa sẽ cho chúng ta ở với Ngài, thì hôm nay, Ngài đến ở với chúng ta, trong xương thịt chúng ta, hoạt động với chúng ta, yêu thương với chúng ta, đau khổ với chúng ta và thánh hóa mọi gánh nặng trần thế của chúng ta. Tình thương của Ngài không hao hụt và ngược lại, trở thành sự sung mãn cho chúng ta. Nếu không có Ngài, cuộc sống chúng ta sẽ ra sao? Và chúng ta sẽ đi về đâu? Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta đến hạnh phúc đời đời. Ở lại trong tình yêu của Ngài như Ngài ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, đó là niềm hạnh phúc lớn lao cho chúng ta, chúng ta có hiểu được không?

Mặc dù Ngài đến với chúng ta qua hình thức rất nhỏ bé và khiêm tốn, một tấm bánh thôi, nhưng, tấm bánh đó là sự sống, sự sống không tàn phai, vì đó là Thiên Chúa Tình Yêu.

 

27. Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh

Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)

Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.

Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:

- “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2)

Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”

Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)

Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)

Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…

Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA

Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.

Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như  Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…

Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.

Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”

Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.

Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.

Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?

Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.

CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.

Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.

Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.

Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.

Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.

Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.

Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.

Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.

Câu hỏi:

1. Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?

2. Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?

3. Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?

 

28. Chọn lựa con đường

Anh chị em thân mến.

Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế, bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước, sau đó nó mới dùng phần còn lại.

Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ không bao giờ nhận được.

Các Tông Đồ sống với Chúa Giêsu bao nhiêu năm trời, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Ngài đã thực hiện. Các ông còn được nghe những lời giảng dạy riêng cho các ông để hướng dẫn cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, các ông lại thốt lên qua miệng của Tôma: "Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi". Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã theo bao nhiêu năm trời đây là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu không ảnh hưởng đến ông.

Chúa Giêsu bảo các ông "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... Ai thấy Thầy là xem Thấy Cha". Ngài muốn nói với các ông: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc. Một học giả nói rằng: "Con người luôn nuối tiếc quá khứ, mơ ước đến tương lai, nhưng lại hờ hững với hiện tại". Cái hiện tại là kết quả của quá khứ, là đường để đi đến tương lai, nhưng con người thường quên nó đi.

Các Tông đồ ngày xưa đã như thế, nhưng các ông được dạy bảo, nhắc nhở và các ông đã biết sống trở lại cho tốt. Câu chuyện của ngày xưa, tưởng đã đi vào quá khứ, nhưng nó vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta. Cũng như các Tông Đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi, mơ ước những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi, những mơ ước đó nó làm khổ chúng ta trong cuộc sống. Biết bao lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với người chung quanh và thường hay hỏi tại sao tôi không được như người khác, tại sao tôi không được tốt hơn... Những lần như thế, chúng ta đang đi trên con đường của các tông đồ khi xưa. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta lời nói khi xưa "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống... ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha". Những khi đó chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc mà mình đang có, cảm nhận được hồng ân Chúa bao bọc chúng ta không? Nếu chúng ta biết trân trọng hiện tại và chu toàn trách nhiệm mình cho tốt: trách nhiệm của một con người mà Thiên Chúa đã đặt để trong xã hội, trách nhiệm của một người Công Giáo. Cụ thể hơn là trách nhiệm của một người cha, người mẹ trong gia đình, chúng ta có làm gương tốt, có dạy dỗ con cái theo thánh ý Chúa không? Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc.

Đó là chúng ta như đứa trẻ biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho mình và cho người khác. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính chúng ta.

 

29. Hai chân lý Đức Tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An - Giêrusalem 13.5.2014)

Chúng tôi đang ở Giêrusalem. Đoàn hành hương gồm 38 người (9 linh mục và 29 giáo dân) đi từ Việt Nam qua Ai cập đến Israel và sẽ qua Giocđan rồi trở về với hành trình 14 ngày.

Đi hành hương theo dấu chân Chúa Giêsu với tâm tình tạ ơn và cảm mến. Mỗi nơi đến, chúng tôi đều dành thời giờ đọc phúc âm và cầu nguyện, hát thánh ca. Nhờ đó mỗi người càng thêm xác tín những chân lý đức tin.

Đọc Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh trong bầu khí cầu nguyện tại Đất Thánh, tôi suy niệm về lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Hai thánh Tông đồ Tôma và Philípphê đã hỏi Chúa hai câu và Chúa đã mạc khải hai chân lý thật quan trọng:

- Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

- Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.

Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con. Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14, 9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(Ga 14, 10).

Trải qua bao thời, con người kiếm tìm con đường dẫn đến chân lý và sự sống thật. Đã có biết bao nhiêu suy tư siêu hình học, triết học, thần học, tôn giáo, chiêm niệm, thần bí và khoa học… tìm kiếm sự thật về vũ trụ chung quanh và về cuộc sống con người. Bao nhiêu chất xám đã đầu tư để đi tìm nguồn sự sống và cùng đích của cuộc sống. Dù đã cố gắng hết mình con người vẫn còn bế tắc trong nhiều lĩnh vực của sự thật và sự sống.

Cách đây trên hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã xuất hiện mặc khải cho con người con đường đi đến chân, thiện, mỹ. Ngài mở ra nhân loại con đường: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

1. Thầy là Đường

Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo ơn cứu độ. Gioan kêu gọi mọi người hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Để đón nhận Đấng Cứu Thế, mọi người phải chuẩn bị sám hối, cải đổi đời sống và mở rộng tâm hồn.

Thường khi đón chào một vị Vua, Hoàng đế hay Nữ hoàng, người ta chỉ cần sửa sang lối đi, quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đón chào trong tiếng kèn tiếng trống náo nhiệt, hân hoan vui vẻ. Đón nhận Đức Chúa hoàn toàn khác biệt, Gioan gióng lên lời mời gọi: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Mc 1,3). Chúa cần đi lối thẳng thắn nơi tâm hồn. Con đường Chúa đi là con đường dẫn tới đời sống nội tâm bên trong. Con đường Chúa đi là con đường khiêm tốn và yêu thương.

Chúa là con đường dẫn tới sự sống. Ngài giới thiệu cho các môn đệ con đường dẫn tới Nhà Cha: Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi (Ga 14,4). Con đường Chúa đi không phải là con đường thênh thang rộng mở và không phải là con đường trần thế vinh quang. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ, hy sinh. Con đường Chúa đi là con đường lên dốc đồi Calvariô để chịu nạn và chịu chết.

Chúa Giêsu là con đường tiến lên. Các môn đệ còn nhiều thắc mắc về đường đi nước bước của Chúa. Tâm tư các tông đồ còn đang mong mỏi một con đường vinh hoa phú quý. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Các Tông đồ không biết con đường nào Chúa sẽ đi. Không ai mong muốn con đường thập giá, con đường khổ đau, chết chóc. Chúa đã từng bước dẫn dắt các Tông đồ qua con đường sự chết để vào con đường sự sống. Qua con đường nhỏ hẹp để bước vào cõi sống hạnh phúc trường sinh.

2. Thầy là Sự Thật

Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều ảnh hưởng của mê lầm và dối trá. Các nhà lãnh đạo quốc gia không dám nói hết sự thật. Các cấp lãnh đạo tôn giáo đôi khi cũng sợ nói sự thật. Các nhà giáo dục cũng không muốn đặt vấn đề sự thật trong các ngành nghề. Các bậc bề trên, phụ huynh và người hướng dẫn cũng che dấu sự thật. Vì nói sự thật thì có khi mất lòng, mất danh dự, mất uy tín, mất địa vị, mất công ăn việc làm và mất chính mình. Chúng ta sợ sự thật của gia đình, của con cái, của cha mẹ, của nhân viên, của các cộng tác viên và của chính mình bị phơi bầy và tỏ lộ. Có khi vì sự thật liên quan đến miếng cơm manh áo và tiếng tăm địa vị. Mấy ai can đảm nói hết sự thật.

Chúa Giêsu là Sự Thật. Chúa thấu tỏ lòng người. Chúa hiểu thấu được lòng con người nghĩ gì và muốn gì. Nhiều người nghe Chúa giảng đã phải thốt lên: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20,21). Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình những lầm lỗi và cách hành xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ chỉ thích được ưa chuộng những hình thức xuất hiện bên ngoài, giả dạng và khoe khoang. Họ ngại bước vào đời sống nội tâm vì sợ nhìn thấy mặt trái của đời sống mình. Vì sống theo sự thật là sống trong ánh sáng: Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (Ga 3,21).

Chúa Giêsu là con đường dẫn tới sự thật. Nghĩ thật, nói thật và rao giảng sự thật. Con người Chúa Giêsu là con người trong sáng và chân thật tuyệt đối. Ngài ra giảng dạy công khai và minh chứng cụ thể qua các việc làm. Ngài giảng dạy chân lý và áp dụng lời giảng trong cuộc sống mình. Còn chúng ta đôi khi nói một đàng, làm một nẻo. Ngôn hành bất nhất. Chúng ta muốn có sự thật nhưng không thực hành sự thật. Sự dối trá cứ len lỏi ràng buộc chúng ta vào những mê lạc tự vệ, cố chấp, ương ngạnh và sống giả hình.

Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Chúa Giêsu nói với những người Do thái rằng: Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông (Ga 8,32). Sự thật thì đơn sơ chân thành ví như tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Tâm hồn chân thật thì thanh thoát và không lệ thuộc vào những tranh đua hơn thua ở đời. Khi so sánh hơn thiệt và đua đòi cuộc sống dễ dẫn chúng ta đến những sự giấu giếm, giả trá, lừa lọc và dối gian. Người đời thường nói rằng: Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu thì hiểu thấu lòng con người hơn ai hết. Chúa biết những ý nghĩ thầm kín của người đời. Chúa thường yêu và cầu nguyện cho các môn đệ được thành tín chân thật: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật (Ga 17,17).

3. Thầy là Sự Sống

Chúa Giêsu là nguồn sự sống và là bánh trường sinh. Chúa phán: Tôi là bánh trường sinh (Ga 6,48). Chính nhờ Người, với Người và trong Người, Thiên Chúa Cha đã tác tạo muôn loài. Chúa Giêsu là đầu và là cùng đích của các loài thụ tạo. Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,4). Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu mến đã xác tín rằng: “Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). Chúa Giêsu là chủ thể có quyền trên vũ trụ vạn vật và uy quyền trên sự sống và sự chết.

Sự sống mà Chúa sẽ ban là sự sống thật. Con đường dẫn vào sự sống là chu toàn lề luật và các giới răn. Đức Giêsu đáp: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Chúa Giêsu căn dặn chúng ta rằng đừng quá lo lắng cho cuộc sống tạm bợ này. Ngày tháng sẽ trôi qua, tuổi đời sẽ chồng chất và sự chết sẽ đến. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm nước trời, mọi sự khác Người sẽ ban thêm cho. Vì sự sống hay chết đều nằm trong sự quan phòng của Chúa. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12,22-23).

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã đi vào sự sống vĩnh cửu. Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người, chúng ta sẽ tìm được câu giải đáp cho thân phận con người. Thiên Chúa tạo dựng loài người là muốn cho tất cả mọi người được chung hưởng niềm hạnh phúc viên mãn.

Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật. Người là sự thật đưa dẫn đến sự sống đời đời và sự sống thật là con đường kết hợp mật thiết với Đấng Tạo Thành. Chúa Giêsu trở thành trung tâm cốt lõi cho tất cả mọi suy tư tìm kiếm nguồn chân lý, sự thánh thiện và sự hoàn hảo tuyệt mỹ.

Lạy Chúa, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Xin Chúa dẫn dắt chúng con theo đường chân lý của Chúa để chúng con được hưởng niềm vui sự sống muôn đời.

 

30. Đường về Nhà Cha

Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn "Đôi Mắt" của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu chuyện "nực cười nhưng chẳng dám cười". Anh kể rằng: "Tôi kể cho anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: 'Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi'... Anh ta bảo: 'Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ'. Đại khái như thế chứ không hoàn toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo...".

Tình huống của anh Hoàng đôi khi chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta "hỏi cũng bằng không". Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy nói: "Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi".

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tâm trạng âu lo của các Tông đồ khi biết mình sắp phải đơn độc. Trong Bữa Tiệc Ly, khi được biết Thầy không còn ở với mình nữa, các Tông đồ đã hết sức hoang mang và xao xuyến. Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các ông nên Người đã trấn an, đồng thời hé mở cho các ông thấy việc ra đi của Người hoàn toàn cần thiết và có lợi cho các ông: "Anh em đừng xao xuyến!... vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em". Tôma vẫn chưa yên tâm vì chưa biết làm sao đi đến đó được. Ông hỏi Thầy: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?". Chúa Giêsu không chỉ đường bằng cách đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói: "Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".

Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ rõ mục đích của cuộc hành trình đời người là về với Thiên Chúa là Cha; và trong cuộc hành trình đó, chính Chúa Giêsu vừa là con đường, vừa là người dẫn đường cho mọi người.

Thật vậy, bước vào cuộc trần nầy là chúng ta bước vào một cuộc hành trình, hành trình hướng về Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Nhưng con đường đến với Thiên Chúa không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu ta tự mình dò dẫm bước đi thì rất dễ lạc mất phương hướng, rất dễ rơi vào trạng thái lo âu chán nản rồi mất cả niềm hy vọng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dọn đường dẫn lối cho ta. Đi trên con đường Giêsu, ta không bao giờ sợ lạc lối. Trên con đường Giêsu, ta không đi lẻ loi một mình mà có Chúa Giêsu dẫn bước ta đi, có những anh chị em cùng đồng hành với ta.

Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoà cùng cộng đoàn Dân Chúa, vững tâm tiến bước dưới sự dẫn dắt của vị thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô. Hãy tin tưởng ta có một mái nhà vĩnh cửu để hướng về, nơi đó ta sẽ có một cuộc sống thật, một cuộc sống hạnh phúc đời đời.

 

31. Đường tình yêu

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là môn đệ mà Ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:

- Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có điều gì thắc mắc về nhữnglời ta đã cùng con thảo luận?

Thầy Tăng Tử đáp:

- Bạch Thầy, Thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời Thầy đã chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.

Đức Khổng Tử mới nói:

- Này Tăng tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta không biết!

*** 

Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận mình không biết gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là đường. Trước khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định: “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua thầy” (Ga 14,6).

Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương Thiên đàng.

Đức Giêsu chính là sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta (Ga 8,32)

Đức Giêsu chính là Sự Sống. sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời.

Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “mọi con đường đều dẫn tới Roma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách công vụ tông đồ viết: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh chị em, và tận tình yêu thương con người.

Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng chịu khổ vì danh Đức Giêsu.

Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn đẹp cao thượng. Với tình yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang Nước Trời. Amen.

 

32. Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những lời của Chúa Giêsu trước lúc ra đi về Trời. Sắp từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi " xuyến xao", vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết ; và có lẽ họ lo cho sự sống của chính mình. Chúa Giêsu trấn an họ: " Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14, 1). Người mời gọi họ hãy tin vào Thiên Chúa là Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tin vào Người, Người cũng sẽ cứu họ vượt qua dòng nước của sự chết. Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông là mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.

"Thầy đi để dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 2). Lời nói trên biểu lộ ý nghĩa cứu độ của Chúa Giêsu. Người ra đi để chuẩn bị chỗ cho các ông và xin Chúa Cha ban cho mỗi người một chỗ trong nhà của Chúa Cha. Vì yêu thương, nên Người muốn, Người ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Người.

Dường như Chúa Giêsu muốn gợi ý khiến Tôma thắc mắc khi nói: " Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi " (Ga 14, 4). Đường nào, và đi đâu các ông nào có hay, khiến Tôma phản ứng: " Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? " (Ga 14, 5). Đó là lý do để Người khẳng định: " Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống " (Ga 14, 6). Ai bước đi trên con đường Giêsu, thì sẽ được về cùng Chúa Cha, vì Người chính là đường đi. Không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục đích cuối cùng của đời người, ngoài con đường Giêsu, Người đã tuyên bố: " Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy " (Ga 14, 6).

Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ơ trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Thương, và ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người, với sứ mạng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi và khỏi chết đời đời, nay Người trở về nhà Cha sau một hành trình dài. Người cảm thấy hạnh phúc biết bao khi được trở về " nhà Cha "! Niềm vui ngập tràn trước lúc lên đường, hạnh phúc và niềm vui ấy cần được chia sẻ. Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà " Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta " (Ga 20 , 17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha.

Đối với Philipphê, chỉ cần thầy Chúa Cha là đã đủ rồi, nên ông thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con" (Ga 14, 8). Thêm một cơ hội để Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa Cha, Người nói: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? (Ga 14, 8-10).

Đúng theo những lời Đức Kitô đã nói với Philípphê, việc " thấy Chúa Cha" việc thấy Thiên Chúa trong đức tin - đạt được trong sự gặp gỡ lòng thương xót của Ngài một cấp độ đơn sơ và chân thật nội tâm giống như cấp độ chúng ta nhận ra trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15, 11s).

"Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha " (Ga 14, 9). Tất cả những gì làm thành việc " thấy " Đức Kitô trong đức tin sống động và trong lời giảng dạy của Giáo Hội đều đưa chúng ta lại gần việc " thấy Chúa Cha " trong sự thánh thiện của lòng Ngài thương xót. Trích Thông điệp " Thiên Chúa Đấng giầu lòng thương xót số 13 ".

Ở chỗ khác Chúa Giêsu nói, " Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, Ta và Cha là Một" (Ga 10 , 30). Thật lôgích để nói rằng " ai thấy Thầy là xem thấy Cha " ; nghĩa là ai đón nhận Lời Chúa Con trong đức tin, thì cũng biết Chúa Cha mà Chúa Giêsu mạc khải rõ khuôn mặt đích thực.

Vượt qua ngưỡng cửa này, những người tin được hứa: " Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn " (Ga 14, 12). Mỗi người chúng ta có ơn gọi mạc khải khía cạnh sự dịu dàng vô biên của Chúa Cha, " Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người " (1 Pr 2, 9) đây là cách chúng ta trở nên " những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng," được xây dựng trên "nền tảng" là chính Chúa Kitô.

Như các môn đệ sau ngày Lễ Ngũ Tuần, " đầy đức tin và Chúa Thánh Thần " họ là " dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa " (1 Pr 2, 5), có trách nhiệm loan báo cho mọi người biết Chúa Giêsu là con đường chân chính, Người sẽ dẫn đưa chúng ta sự sống đời đời. Thiên Chúa nhắc lại cho chúng ta và tất cả những người mà chúng ta được sai đến: " Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn " (Ga 15 , 11).

Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

 

33. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.

Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?

Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."

Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Philípphê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha".

Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha...

Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.

* * *

Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: "Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội." Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.

* * *

Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.

Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.

Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.

Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi... Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.

Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.

Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.

Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.

Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.

Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói "Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu."

Cậu thanh niên thưa lại: "Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?"

Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"

Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"

Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.

Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.

 

34. Khát vọng đời thường

Trong đời sống đức tin của người Công giáo, hình ảnh mà chúng ta có về Thiên Chúa là rất quan trọng. Bởi lẽ, tuỳ như hình ảnh mà mình nuôi dưỡng về Thiên Chúa như thế nào, thì mình sẽ xây dựng đời sống đạo đức của mình như thế.

1. Hình ảnh con người có về Thiên Chúa trong Cựu ước:

Nhìn lại lịch sử dân Do thái qua những trang Kinh Thánh thời Cựu Ước, chúng ta thấy được rằng: đối với họ,Thiên Chúa còn là một vị thần quá xa vời, mặc dầu họ vẫn cảm nhận được rằng Ngài rất yêu thương họ, luôn bảo vệ họ và ở với họ trong mọi biến cố quan trọng của đời sống. Vì thế, tâm tình của họ dành cho Thiên Chúa là sợ hãi hơn là yêu mến. Họ sợ Thiên Chúa vì: "có ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn được sống bao giờ". Chẳng hạn Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa." (Tl13,22), hay Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng." (St 32,31), nên họ sợ nhìn thấy Thiên Chúa và sợ gặp Thiên Chúa lắm. Những hình ảnh ấy nếu không được giải thích cho tận tường có thể sẽ làm méo mó khuôn mặt đích thực về Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vẫn chấp nhận cho con người tô vẽ về Ngài với những điều chưa đúng đắn ấy để dần dần Ngài sẽ dẫn đưa họ tới sự thật về Ngài khi đến giờ Ngài đã định.

2. Khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô:

Đến thời Tân Ước, thời của Chúa Giêsu Kitô đến làm người và sống với con người, thì mọi mặc khải rõ ràng và chuẩn mực về Thiên Chúa được trình bày cho con người. Đức Giêsu đã âu yếm gọi Thiên Chúa là Cha và dạy cho con người biết nhìn về Thiên Chúa như người Cha đích thực của mình; một sự thật vượt quá suy nghĩ và tưởng tượng của con người. Ngài không ngừng nói về Thiên Chúa Cha cho con người qua những dụ ngôn "người cha nhân hậu", "ông chủ thương xót tên đầy tớ"... Thiên Chúa là một người cha hết mực yêu thương con người dù Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng và là Thiên Chúa sáng tạo mọi loài.

3. Khát vọng của con người về Thiên Chúa:

Các môn đệ của Đức Giêsu ao ước được nhìn thấy Cha lắm. Do đó, Philipphê đã không bỏ qua cơ hội xin Đức Giêsu cho mình và anh em được nhìn thấy Thiên Chúa Cha khi Ngài nói về Thiên Chúa Cha cho họ "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".

Khát vọng của Philipphê và của các tông đồ cũng là khát vọng của biết bao con người trên thế gian này, những con người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên gọi khác nhau: Đấng tối cao, Đấng Tạo thành, Thượng Đế... Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn cảm nghiệm và tương quan với Đấng Tạo hoá. Khát vọng ấy suy cho cùng là chính đáng, là khôn ngoan. Bởi lẽ, con người nào mà không muốn biết mặt, không muốn nhìn thấy và sớ mó đến cha của mình bao giờ, nhất là người cha ấy lại là Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi niềm của con người nên Ngài đã đáp lại khát vọng ấy khi cho Con Một của Ngài làm người và ở giữa chúng ta. Để qua Đức Giêsu Kitô, chúng ta được gặp gỡ Chúa với chính Thiên Chúa, được diện kiến mặt đối mặt với Ngài, một Thiên Chúa dễ gần, dễ thấy, dễ quen, dễ cảm thông với con người. Như vậy, Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng hay vô phương thấu đạt nữa. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hiện diện cách khiêm hạ với con người. Nhưng điều này con người không dễ chấp nhận nếu không được Thiên Chúa ban ơn đức tin cho họ. Đức Giêsu đã nói "Ai thấy Thầy là thấy Cha" vì "Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha" (Ga 14,10) và Ngài còn mạnh dạn khẳng định "Cha và Tôi là một". Đây là một sự gắn bó và kết hiệp cách lạ lùng giữa Đức Giêsu và Cha của Ngài và cũng là Thiên Chúa của chúng ta.

Sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha đạt tới sự trọn vẹn để giờ đây lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Chúa Cha. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu được Cha chiếm ngự. Đức Giêsu trở nên một tấm gương trong suốt phản chiếu trái tim và khuôn mặt của Thiên Chúa: đầy lòng nhân ái và hết mực bao dung với hết mọi người "Ai thấy Thầy là thấy Cha".

Sứ mạng của mỗi người chúng ta là hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Chúng ta hãy cố gắng sao cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên trong suốt khỏi những lớp bụi mờ của lòng ích kỷ, ghen tương, hận thù, để người khác nhìn thấy được Đức Giêsu trong chúng ta. Sứ mạng của người Kitô hữu là trở nên một Chúa Kitô khác cho con người hôm nay, là phấn đấu để nói lên rằng: "Ai biết tôi là biết Đức Giêsu. Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu" và như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa vậy.

Jack là một công nhân khai thác đá. Anh tuy ít học, nhưng lại có một đời sống rất tất lành. Anh gần gũi, cảm thông và chia sẻ với mọi người trong những công việc nặng nhọc hay nhẹ nhàng. Không ai thấy sự nóng nảy, cáu gắt trên khuôn mặt của anh bao giờ, dù có những lúc anh làm việc rất vất vả... Một người bạn của anh hỏi anh: "Này Jack, tại sao anh đối xử tốt với mọi người như vậy?". Anh đơn sơ trả lời rằng: "vì Chúa dạy tôi như vậy đó". Bạn anh lại tiếp tục hỏi anh: "Chúa của anh ra sao?" Anh quá bối rối trước câu hỏi này vì anh không phải biết trình bày Chúa của mình như thế nào để cho bạn anh hiểu đây. Nhưng sau một phút ngập ngừng, anh trả lời với bạn của anh rằng: "Chúa tôi giống như tôi vậy nè". Người bạn của Jack nghe vậy quá xúc động và nói với anh rằng: "Vậy thì tôi xin tin vào Chúa của anh". Vài ngày sau, người ta thấy Jack dẫn người bạn của mình đến một ngôi nhà thờ gần đó để người ấy được gia nhập vào đạo và trở thành Kitô hữu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng khao khát trở thành hình ảnh của Đức Giêsu và của Thiên Chúa Cha trong cuộc đời mình bằng một đời sống yêu thương phục vụ và hy sinh vì anh em đồng loại, để mọi người nhận ra được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và để cho Danh Ngài được cả sáng khắp mọi nơi. Amen.

 

35. Con đường Giêsu

Cái trớ trêu của các môn đệ Chúa là các Ngài đã sống với Chúa một thời gian đủ để nhận, hiểu và biết Chúa, nhưng các Ngài vẫn tỏ ra thật ngớ ngẩn khi Chúa nói: "... Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?".

Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta hiểu được rằng Lời của Chúa thường ví cuộc đời như một cuộc hành trình. Từ lúc Ađam và Evà trốn Chúa tới Nôe và cả đại gia đình của ông xuống tàu, Abraham cùng gia đình ra đi tới một vùng đất thật xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và Hài Nhi Giêsu sang đất Ai Cập, và cả một cuộc đời di chuyển rầy đây mai đó của Chúa Giêsu. Những hình ảnh này diễn tả cuộc hành trình đức tin không ngừng của người Kitô hữu. Đời con người là một cuộc hải hành, là một cuộc hành trình không ngừng. Sinh ra, lớn lên với tất cả tranh dành để sống, rồi tuổi già đến, tất cả đều cho con người thấy cuộc đời ở trần gian chỉ là tạm bợ mà thôi. Chúa Giêsu đã cho ta thấy chính Ngài đã trải qua cuộc đời này bằng biết bao nhiêu cuộc hành trình: Chúa sinh ra trong cuộc hành trình, cha mẹ Ngài trở về quê khai lại sổ nhân danh, Ngài vừa sinh ra đã được cha mẹ vội vàng đưa đi lánh nạn bên Ai Cập. Năm 12 tuổi, Chúa cũng lạc mất trong một cuộc hành trình về Giêrusalem mừng lễ. Những năm rao giảng, Ngài đi không mệt mỏi khắp vùng Palestina và các vùng phụ cân. Cuối cuộc hành trình của đời sống trần thế của Ngài là Giêrusalem và đồi Canvê. Qua cả một cuộc đời hành trình, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống ". Tuyên bố như vậy, Chúa Giêsu muốn nói lên một sự thực: '' Ai tin vào Ngài và đi theo Ngài " sẽ không bao giờ bị trệch hướng trong cuộc hành trình đức tin dài lâu của mình.

Thánh Gioan Phaolô II cũng đã từng nói về Đức Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, vào ngày 16.10.1978 tại Quảng Trường thánh Phêrô: " Tôi trình diện với hết thảy anh chị em để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, lòng trông cậy và tín thác của chúng ta nơi Đức Mẹ Chúa Kitô và nơi Giáo Hội, và cũng là để lại - khởi hành trên con đường lịch sử là con đường Công Giáo tông truyền". Thánh Gioan Phaolô II đã đặt Triều Đại Giáo Hoàng của Ngài dưới lá cờ phù hộ đặc biệt của Đức Mẹ Maria. Cả triều đại của Chân Phước Gioan Phaolô là một cuộc hành trình. Bởi vì, nói cho cùng tất cuộc đời trần thế là một cuộc hành trình đức tin liên lỉ. Thánh Tôma lúc đó vẫn chưa hiểu lời của Chúa Giêsu nói. Do đó, Tôma đã thưa với Chúa: "... chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường". Thánh Tôma làm sao biết được Chúa Giêsu tự nhận là đường. Con đường tình yêu, con đường mở ra hạnh phúc. Con đường hy vọng, con đường tin yêu, con đường cứu độ. Con đường ấy có tên Giêsu. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, bởi vì Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài đến trần gian là để hướng dẫn con người về với Thiên Chúa Cha, đạt được hạnh phúc đích thực và được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Chúa Kitô, chúng ta tìm được con đường và được mời gọi vươn cao lên mãi, vươn lên không ngừng. Càng mặc lấy Đức Kitô, chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa lời của thánh Phaolô tông đồ: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi".

Con người là con đường dẫn tới Thiên Chúa. Nên, dù chưa thấy Nhan Thánh Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Con người đến với Chúa bằng một tương quan thân mật Cha-Con. Chúa dạy chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa trong suốt cuộc sống trần thế của chúng ta. Có Chúa, chúng ta sẽ hiên ngang vững bước và như thánh Phaolô trong thư Philíp đã nói: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi ". Có Chúa chúng ta sẽ không cô đơn vì Chúa đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ". Chính vì thế, cuộc hành trình đức tin của chúng ta sẽ không vô ích bởi vì chắc chúng ta đang tìm hạnh phúc nghĩa là tìm thông hiệp với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng, là đường, là sự thật, xin hướng dẫn chúng con để chúng con lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa và sau cõi đời này, chúng con được về quê trời với Chúa. Amen.

 

36. Con đường mang tên Giêsu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành công việc chỉnh đổi tên đường trên địa bàn toàn thành phố. Bởi vì trong hơn 1000 con đường của thành phố có khoảng 100 con đường trùng tên và hơn 300 con đường mang số. Đợt đổi tên này sẽ đặt tên mới cho các con đường trên. Ngoài ra, một số nhân vật lịch sử trước kia có tên đường, nhưng đã bị huỷ bỏ, nay có thể sẽ được phục hồi, như gần đây đã phục hồi tên đường cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.

Tới đây, dự kiến sẽ có con đường mang tên Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Con đường TGM. Nguyễn Văn Bình sẽ thay thế đường Nguyễn Hâu, nối liền đường Hai Bà Trưng với bên hông Nhà Thờ Chính Toà và Công Xã Paris với công viên Nữ Vương Hoà Bình trước mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Đức Bà.

Có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng, không thể thay đổi được, từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội chúng ta ai cũng biết, đó là con đường mang tên Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Trả lời cho ông Tôma, đồng thời Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn Cứu Độ, và tên gọi con đường ấy chính là Ngài.

Ngài là Đường Sự Thật, bởi Ngài là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống giáo điều, nhưng là toàn thể cuộc sống, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra con đường Sự Thật này. Tổng trấn Philatô, giữa phiên toà dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự thật là gì?”. Chúa Giêsu không trả lời. Vì hỏi là đã trả lời rồi: Sự thật hiện thân chính là Ngài đang đứng đó. “Ta là Sự Thật”.

Ngài là Đường Sự Sống, bởi vì Ngài là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là sự sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn Cứu Độ. Ngài thông ban sự sống cho mọi sinh linh và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với sự sống của Thiên Chúa. Ngài chịu chết để nhân loại được sống và Ngài sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng sự sống Ngài là vĩnh cửu thường tồn. Ngài hằng sống hằng trị muôn đời.

Ngài là Đường dẫn tới Nhà Cha, bởi vì Ngài và Cha là một. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Vẫn là một từ ngàn xưa và mãi mãi là một tới ngàn sau. Chính Ngài quả quyết: “Con đường dẫn đến Chúa Cha chính là Thầy”. “Không ai đến được Cha mà không qua Thầy”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Cho nên đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại, tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào đường Sự Thật và Sự Sống.

Thưa anh chị em,

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cất bước lên đường theo Ngài. Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thoát vừa thanh thản của đời nhân đức, chính là “hát lên khúc ca mới trên con đường mới” (Thánh Augustinô). Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa” (Bài đọc 2).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chỗ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ hôm nay trên bước đường lữ thứ của Hội Thánh giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con đẻ cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hoà phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ Bàn Thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành đặt chân mình trong dấu chân Chúa Giêsu. Và cũng có thể hiểu được rằng: “Con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II), là đối tượng mà Giáo Hội yêu mến và phục vụ đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu đã sống. Đó chính là tốc độ mới của tình yêu chan hoà phục vụ trên Con Đường Giêsu hôm nay.

Anh chị em thân mến,

Nếu mai ngày thành phố chúng ta có một con đường mang tên Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình bên cạnh Nhà Thờ Chính Toà thì đó là điều chính đáng. Vì Đức Tổng Giám Mục luôn đặt từng bước chân của Ngài vào đúng vết chân của Chúa Giêsu trên dòng lịch sử dân tộc và thế giới, với niềm xác tín rằng: bước theo dấu chân Ngài là sẽ gặp được niềm vui xum họp đông đủ với mọi người anh em trong Nhà Cha chúng ta trên trời.

Con Đường mang tên Giêsu hôm nay là Con Người sống động đang hiện diện ở đây, trong Thánh lễ này. Ngài lấy Lời Ngài làm ánh sáng chiếu soi Chân Lý và lấy Mình Máu Ngài làm lương thực dưỡng nuôi sự sống. Như thế, Thánh lễ phải là đỉnh cao của lời tuyên xưng: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, đồng thời là khởi điểm cho hành trình chung bước với Chúa Giêsu trên đường yêu thương phục vụ.

 

37. Bước về nhà Cha

Ai cũng hiểu về đến Nhà Cha mới là một thành công thật sự cho mọi nổ lực của những người theo Chúa. Nhà Cha được hiểu đó chính là Thiên đàng, nơi con người được sống trong hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Đường trần gian đi đã khó, đường về Thiên đàng thì lại càng khó hơn. Đường trần gian có những bóng mờ, thì đường về thiên đàng cũng có khi mịt lối vì những quyến luyến trần gian làm khuất mắt con người. Nếu nói đường đời có nhiều ngã rẽ thì đường nhà Cha chỉ có một lối mòn nhưng khó ai chịu đi đúng hướng. Nhiều người đã tự ý đi theo lối đi của riêng mình.

"Thầy là đường là sự thật và là sự sống" (Ga14,6). Lời Chúa Giêsu như vừa tự giới thiệu về mình, vừa như muốn hối thúc nhiều người hãy đến với Ngài. Chính Ngài sẽ đứng ra dẫn lối, đồng thời Ngài cũng là lối đi duy nhất dẫn về Chúa Cha. "Thầy đi Thầy dọn chỗ cho anh em" (Ga14,2). Đường về nhà Cha có nhiều cách đi. Thành công của kẻ lữ hành là phải đến nơi mình định tới.

Đường đi một mình

Mỗi người phải tự quyết định ngay từ ban đầu, đi hay không đi. Sự quyết định nói lên sự tự do chọn lựa và một trách nhiệm về số phận của mình. Chúa kêu gọi từng cá nhân theo Ngài, dó đó mỗi người phải có lời đáp trả cách riêng tư. Tuy nhiên, cho dù vai trò cá nhân được đề cao đến đâu đi nữa thì con đường đi một mình là con đường nguy hiểm: Mệt lã không ai nâng đỡ; lạc hướng không kẻ chỉ đường; buồn phiền không người an ủi. Nếu biết thế, dại gì ta đi một mình trong khi ta có quyền chọn lựa những cách đi khác: Đồng hành với Chúa và với anh chị em.

Đồng hành với anh chị em

"Và tôi vẫn nhớ hoài một loài cây sống gần nhau thân mới thẳng..." Lời hát như nhắc nhớ con người sống giữa mọi người cần có sự nâng đỡ của người khác để mình được lớn lên. Một sự lớn lên theo đường hướng tốt đẹp. Cây được thẳng là nhờ những cây khác mọc xung quanh mình. Người sống với người cũng rất cần sự nâng đỡ nhau như thế. Hôm nay tôi ngã có người nâng đỡ tôi. Và đến lượt tôi cũng có trách nhiệm để nâng đỡ kẻ khác khi họ cần đến.

Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài không chọn duy nhất một "đệ tử ruột" để truyền hết "bí kiếp võ công" cho riêng kẻ ấy. Không, Ngài đã chọn nhiều tông đồ và sai đi "Cứ dấu này mà người ta nhận các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau". Ngài muốn môn đệ của mình phải sống với nhau bằng sợi dây yêu thương không thể tách rời.

Trong tập suy niệm "Đường Đi Một Mình", Cha Nguyễn Tầm Thường có nhắc đến câu chuyện về những người lữ hành trong trận bão tuyết. Người thứ nhất đi đầu và bị ngã quỵ trong cơn bão. Người thứ hai đi ngang qua cúi nhìn rồi bỏ đi. Người thứ ba đi đên thấy và vác kể xấu số đã quỵ ngã ấy. Ông cố chống tuyết, ôm người ngất xỉu trên vai. Đến ngôi làng, người ta thấy xác của người thứ hai chết trên đường. Rõ ràng cái chết bí ẩn không phải vì do cái giá lạnh của tuyết nhưng nằm ẩn kín trong tim của mỗi con người. Người thứ ba còn bước đi nỗi bởi vì khi vác kẻ xấu số trên vai, hơi ấm của họ đã truyền sang nhau nên cả hai còn sống sót. Bấy giờ ông hiểu, có những con đường không thể tự mình đi.

Đồng hành với Chúa Giêsu

Người tông đồ dù cho tự mình có đứng vững ở mức nào, dù bản thân có được sự nâng đỡ của người khác ra sao thì tự bản thân người ấy không thể đến với vinh quang Thiên Chúa được. Tự bản chất có một hố sâu ngăn cách thế giới trên cao và thế giới ta đang sống. Thế giới trên cao không phải là điều gì quá mơ hồ khiến con người không thể vươn tới. Tôma thì coi việc trở về với Cha là điều gì rất bí nhiệm, rất mong manh.

Chúa Giêsu đã tự nói "Thầy là Đường... ai thấy Thầy là xem thấy Cha" (Ga14, 6.9). Chúa Giêsu chính là con đường độc nhất dẫn tới nơi duy nhất. Tiếc rằng có nhiều người đã không dám đón nhận con đường ấy. Có nhiều người quá chú ý đến những chi tiết phụ tuỳ. Họ chỉ nghĩ đến những chuyện trước mắt như thiếu phụ Samaria chỉ biết nghĩ đến nguồn nước tươi mát vọt lên từ dòng suối (Ga 4,11-15) mà không nghĩ tới Đấng đang ở trước mặt bà. Họ giống như người Do thái chỉ ớong chờ vào bánh manna mà không màng chi đến Bánh Hằng Sống mà Người đem lại (Ga6, 33).

Đường về nhà cha xem ra đã quá rõ ràng mà không bị bí lối. Chính Chúa Giêsu đã khai mở con đường. Duy chỉ một con đường mà chính Ngài là người dẫn đường và cũng chính Ngài là con đường. Ai theo Người, cùng đi với Người sẽ không hề bị lạc lối bao giờ.

Tâm nguyện

Lạy Chúa đường đời còn nhiều ngã rẽ, khiến con dễ lầm lạc. Xin cho con luôn bước đi trong lối bước duy nhất của Ngài. Đường gian trần còn nhiều bóng mát mời gọi. Xin cho con đừng vì thế mà dừng lại quá lâu nhưng luôn hăng hái tiến về nhà Cha. Vì nhà Cha là nơi hạnh phúc thật mà chúng con kiếm tìm.

 

38. Trong Chúa Kitô

ĐIỀU KHÔNG THỂ ĐƯỢC ĐÃ CÓ THỂ ĐƯỢC TRONG CHÚA KITÔ

Đoạn này diễn tả cách gián tiếp điểm độc đáo và thâm sâu nhất của cuộc sống Kitô hữu, đồng thời tóm tắt sứ điệp của Phúc Âm theo thánh Gioan. Nó thuộc về toàn bộ lời dạy của Chúa Giêsu nhằm cắt nghĩa về chính thân thế Ngài. Qua đó, Ngài cũng trình bày cho chúng ta rõ Ngài là gì đối với chúng ta và chúng ta phải làm gì đối với Ngài. Chúa Giêsu là người đích thật, giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Đồng thời Ngài thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến mức giữa Ngài và Chúa Cha có sự duy nhất và đồng nhất về hữu thể, hiện hữu và bản tính. Đối với chúng ta, Ngài là mặc khải chính xác về Chúa Cha, tỏ bầy cá vị, lời nói, hành động của Chúa Cha. Liên kết với Chúa Giêsu là chúng ta liên kết với Chúa Cha. Đối với Ngài, chúng ta là những kẻ Chúa Cha đã ban cho và Ngài muốn rằng Ngài ở đâu chúng ta cũng được ở đấy với Ngài.

Ngài cầu nguyện và hành động để cho chúng ta được chia phần trong Ngài vào sự sống Chúa Cha thông ban. Ở đây chúng ta đứng trước một mầu nhiệm trí khôn không thấu suốt, nhưng cởi mở đón nhận sự dấn thân linh hoạt do đức tin thúc đẩy. Mọi trang của Phúc Âm thánh Gioan đều gợi ra những suy niệm bất tận. Khi đọc qua đoạn văn ngày hôm nay, chúng ta hãy dừng lại đây đó, như khi đi đường chúng ta thấy một phong cảnh mở rộng, làm cho tâm hồn chúng ta cũng như chân trời sáng ngời lên.

1) Tâm hồn các con thôi đừng bối rối. Các con tin nơi Thiên Chúa thì cũng hãy tin nơi Ta.

Điều này có nghĩa là trọng tâm của đức tin chúng ta chính là Ngài, con người Ngài, sứ điệp Ngài. Người ta có thể thắc mắc: làm sao Chúa Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một ai khác? Ở đây chúng ta chạm đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào thời gian và không gian, chịu các giới hạn nhân loại. Con Thiên Chúa, tuy vẫn còn chức phẩm mình, đã như thể tự thu hẹp theo kích thước của thực tại nhân loại. Chúa Giêsu muốn nói: Con người hữu hình của Ngài dễ cho chúng ta đặt lòng tin sống động hơn Thiên Chúa vô hình. Nhờ tin vào Ngài, Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là ước nguyện thâm sâu nhất của con người bị đau khổ dày vò. Lòng tin sống động vào Chúa Giêsu Kitô và qua đó sự quy thuận Chúa Cha chẳng khiến sự bối rối xa lìa chúng ta, mang lại cho chúng ta an bình, vui mừng, sức mạnh sao?

2) Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

Trong cuộc sống của con người vô thần, đường là một hệ thống tư tưởng hay một minh triết sự thật, là một chọn lựa trong số các ý kiến; sự sống là một hoạt động; một tình yêu mong manh, thường là một sự chịu đựng.

Đối với người theo Đức Kitô, sự dấn thân là một thông hiệp mở ra những lối bất khả. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu tìm thấy đường đi, lối thoát vượt qua biên giới của một thế giới khép kín vô vọng. Hơn nữa con đường ấy, chính Đức Kitô, là một lời mời gọi cất bước, tiến tới, đi lên không ngừng. Nơi Đức Kitô, người Kitô hữu khám phá được sự đáp ứng cho nhu cầu kỳ lạ của con người, là cảm thấy cần nương tựa vào một chân lý chắc chắn, nhưng còn để rộng chỗ cho việc tìm tòi. Hơn thế nữa, việc chắc chắn đã tìm thấy kích thích sự tìm tòi. Ngươi đã không tìm kiếm Ta nếu ngươi đã không gặp Ta rồi. Chân lý sống động không bao giờ là một sở hữu, nhưng cho người ta sự đảm bảo chân thực. Càng gặp Chúa Giêsu, càng tìm biết Ngài. Cần xác định, biết Đức Kitô trước hết là sống bởi Ngài. Khi sống bởi Đức Kitô, các thực tại tự nhiên của cuộc sống có thay đổi không? Không. Người Kitô hữu có một hoạt động nhân loại và thực tế như mọi người, nhưng hoạt động ấy có được một linh hồn. Có một cách suy nghĩ, chọn lựa mục đích, gặp gỡ người khác… do sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc sống. Chúng ta có biết ngạc nhiên về việc trong Đức Kitô điều bất khả thi đã được biến thành điều khả thi hay không?

 

39. Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Nguyễn Đức Vinh)

Khung cảnh của bài tin mừng hôm nay thật đầm ấm. Đó là một buổi nói chuyện, chia sẻ và giáo huấn của Đức Giêsu cho các Tông đồ trong bầu khí thật thân thương, tràn đầy tình mến. Buổi nói chuyện hôm nay diễn ra trong tình yêu của Chúa Giêsu và sự tích cực của các Tông đồ.

Khởi đầu bài tin mừng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến! Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.

Không ai sống mãi ở đời này, đó là chân lý mà Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta. Chân lý này không chỉ được người Kitô hữu đón nhận mà được cả nhân loại đón nhận vì thực tế cuộc sống cho thấy như vậy (mọi người đều phải chết). Ra khỏi cuộc đời này, con người trở về với Thiên Chúa là nơi mình phát xuất ra. Sự trở về đó diễn tả cho chúng ta thấy sự cần thiết của ‘con đường’, vì không có đường đi thì làm sao mà trở về?

Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường). Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.

Lời Chúa Giêsu nói và sự khẳng định của Ngài đã cho chúng ta ‘chân lý sống’, khiến chúng ta an tâm vì đã tìm được ‘con đường’ để đi, tìm được ‘sự thật’ để sống, tìm được sự sống vĩnh cửu mai sau là đích điểm chúng ta hướng đến. Tất cả những thao thức và tìm kiếm của con người cho một con đường để đi, cho một sự thật để sống đều có nơi con người Giêsu. Từ đó, chúng ta có thể nói được rằng: có Chúa là có tất cả: ‘con đường, sự thật và sự sống’; ngược lại, thiếu vắng Giêsu trong đời, con người chỉ còn bóng tối và sự trống rỗng.

Lạy Chúa, với Lời Chúa dạy hôm nay, tự vấn lại chính mình; chúng con nhận ra mình đang sống đầy sợ hãi trước những thách đố của cuộc đời: những thách đố có sức làm cho chúng con ngã gục, thất vọng và xao xuyến. Xin Chúa ban ơn thánh và giúp chúng con luôn biết đáp lại lời Chúa mời gọi: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Xin Chúa nâng đỡ và ban Thánh Thần để chúng con luôn tin nhận Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của đời chúng con. Amen.

 

40. Ai biết Thầy là biết Chúa Cha

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, thiết tưởng lời thỉnh cầu của ông Philipphê cũng đồng thời diễn tả ước nguyện sâu xa của chính tôi, cũng như của nhiều tín hữu khác qua mọi thời đại. Như biết bao người ‘có đạo’ khác, tôi vẫn đinh ninh rằng mình thật sự tin có Thiên Chúa, và mình có trách nhiệm phải nói, phải chứng minh, phải thuyết phục để mọi người cùng tin rằng thật sự có Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Thế nhưng thú thật, khi làm công việc đó tôi thấy mình cần phải là một triết gia, một nhà lý luận hơn là một tín hữu; đồng thời cũng nhận ra rằng, cho dầu có học hành thông minh tới mấy tôi cũng chẳng thuyết phục được mấy người. Nhiều người trong chúng ta đã từng có lần tự vấn: có thật tôi biết, tôi tin cách xác thực Thiên Chúa, như thể tôi đã tận mắt thấy Ngài? Trong thâm tâm biết bao người trong chúng ta vẫn thầm ấp ủ mộng ước một ngày nào đó mình sẽ được ‘thấy’ Thiên Chúa, qua một phép lạ nhãn tiền chẳng hạn, khi Ngài tỏ lộ cách công khai quyền năng và thượng trí khôn ngoan của Ngài.

Cũng thế đối với các môn đệ, cụ thể hai ông Tôma và Philipphê. Biết sâu hơn về Thiên Chúa là ước vọng chính đáng, đồng thời cũng là mục đích của việc các ông đi theo Thầy Giêsu. Chắc chắn các ông đã từng được nghe Thầy nói nhiều về Chúa Cha; tuy nhiên giữa những gì Đức Giêsu trình bày và ý niệm các ông có về Đức Chúa Cựu Ước xem ra chẳng mấy ăn khớp với nhau. Trong thâm tâm các ông vẫn mơ ước một ngày nào đó Đức Giêsu tỏ cho các ông được thấy Chúa Cha trong uy quyền sáng láng, như hình ảnh các ông vẫn có về Ngài. Chỉ như thế các ông mới cảm thấy toại nguyện: “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”

Đức Giêsu tỏ thái độ vô cùng kinh ngạc trước lời thỉnh nguyện này của các ông: “Tại sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” Quả thật Người ngạc nhiên vì vẫn yên trí rằng sự hiện diện trần thế của Người hiển nhiên là để mạc khải Chúa Cha, rằng Người chính là Lời của Cha. Người coi như minh nhiên việc các môn đệ phải hiểu được điều căn bản đó. Vậy mà các ông vẫn hoàn toàn mù tịt! “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà… anh chưa biết thầy ư? Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.

Giai thoại trên cho thấy: có nhiều cách để một người tin hoặc biết về Thiên Chúa. Sơ đẳng nhất là người ta mơ hồ biết rằng có Thiên Chúa; sau đó người ta có thể biết thêm một vài yếu tính của Ngài như Ngài tự hữu, Ngài tạo dựng trời đất, Ngài quyền năng, thông minh, thánh thiện vô cùng… Đầu óc suy luận của con người có thể tiến tới một niềm tin, hay hiểu biết về Thiên Chúa đại loại như thế. Thế nhưng có một thứ ‘biết’ khác, thứ biết mà Kinh Thánh quen sử dụng, biết trong tương quan sống động và mật thiết mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp mới có được. Thứ biết này cần một tiếp súc, hay ít ra một cầu nối, và như thế thì chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu, Đấng từ cung lòng Thiên Chúa mà đến, mới có thể cho biết được. “Không ai đã lên trời (để mà thật sự hiểu biết được Thiên Chúa), ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3, 13). Thiên Chúa mà người Kitô hữu tin khác xa một trời một vực với Thiên Chúa của triết học, hay của các tôn giáo khác. Vì thế cho nên, dầu không phủ nhận những khái niệm về Thiên Chúa của người Do Thái đương thời, Đức Giêsu, bằng lời giảng dạy, nhưng nhất là bằng chính cuộc sống và cái chết thập giá của Người, đã tỏ lộ cho các môn đệ thấy một Thiên Chúa vô cùng độc đáo: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một… Ngài không lên án thế gian… nhưng muốn thế gian được cứu độ” (Ga 3, 16-17).

Trong cụ thể, một linh mục như tôi đã bao giờ được ‘thấy’ Thiên Chúa chưa? Hay ít ra tôi đã ‘hiểu biết’ về Ngài như thế nào, cái biết chi phối cuộc sống tôi và làm nền tảng cho những gì tôi trình bày cho giáo dân trong hướng dẫn mục vụ? Rất có thể hình ảnh và hiểu biết tôi có về Thiên Chúa, sau bao năm tu học, vẫn quá nặng tính triết học hay Cựu Ước, chứ chưa phải thực sự là diện mạo mà Đức Giêsu cố tâm trình bày? Tôi vẫn thấy một Đức Chúa hùng mạnh, thưởng phạt công minh vừa dễ hiểu lại vừa thiết thực hơn, nhất là trong việc giữ cho các giáo dân làm lành lánh dữ...; thậm chí đôi lúc tôi còn dám đối kháng chính Đức Giêsu với Cha Ngài khi khảng định cái chết của Người trên thập giá là để làm nguôi cơn thịnh nộ công thẳng của Chúa Cha?! Cái lô-gic hạ đẳng rất nhân cách hóa đó đã bị Đức Giêsu thẳng thắn gạt bỏ, vì nó phá vỡ nội dung Tin Mừng của sứ điệp cứu chuộc của Người: Người và Chúa Cha chỉ là một, không thể bị chia cắt. “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hay tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Khi khảng định Thiên Chúa là Đấng từ bi và giầu lòng thương xót, chúng ta không ngụ ý chỉ nói riêng về Đức Giêsu, Đấng đã chết trên thập giá để cứu độ chún ta. Cái chết đó là một khảng định hùng hồn: chính Thiên Chúa, toàn bộ Thiên Chúa (Cha, Con và Thánh Thần), là giầu lòng thương xót. Ta nghe biết điều đó qua những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi đã thấy điều đó trong cái chết thập giá tự hiến của Người, và ta gọi điều đó là Tin Mừng, là niềm tin cất khỏi chúng ta mọi mối sợ hãi, kể cả trong trường hợp ta có lỗi phạm và sa ngã vào những tội tày trời nhất. Thấy và biết một Thiên Chúa như thế sẽ làm cho toàn bộ đời sống ta trở thành một niềm vui bất tận, cho dầu vẫn tồn tại nơi bản thân ta những yếu đuối và thất bại nặng nề. Tông đồ Phao-lô, trong chương 5 thư gửi các tín hữu Rô-ma, khảng định với chúng ta rằng: niềm tin Kitô hữu chính yếu hệ tại ở điều này.

Như thế, là Kitô hữu, tôi không cần cầu xin được thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu đã cho tôi được thấy rồi đó. Người cho tôi được thấy tỏ tường bộ mặt thật của Thiên Chúa qua chính Thập Giá của Người!

Lạy Chúa từ nhân, kể từ lần được thoáng gặp Chúa qua biến cố chết lâm sàng tại Mongolia cuối năm 2007, con mới thực sự được‘thấy’ Chúa, trước hết như một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót. Lẽ ra con đã phải nhận biết điều này từ lâu trước, khi con từng học giáo lý và thần học. Tạ ơn Chúa đã cho con được ‘thấy’ Chúa Cha là như thế. Con cầu xin để tất cả các Kitô hữu đều cùng con cảm nghiệm được Thiên Chúa là như thế, để niềm vui của chúng con được nên trọn vẹn, và để chúng con vui mừng lên đường loan báo Tin Mừng về một Thiên Chúa yêu thương cứu độ cho mọi người. Amen.

nguon:http://gplongxuyen.org/News