Chúa Nhật 10/02/2019 – Chúa Nhật 5 Thường Niên năm C. – Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên.

Chúa Nhật 10/02/2019 – Chúa Nhật 5 Thường Niên năm C. – Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên.

"Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".

 

Lời Chúa: Lc 5, 1-11

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá". Ông Simon thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới". Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.

Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi". Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta". Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

 

SUY NIỆM

1. Chinh phục người khác

- Đừng sợ, từ nay các con sẽ là những kẻ chinh phục người ta.

Chúa Giêsu vừa mới truyền dạy Phêrô như thế, tuy nhiên qua đó, chúng ta có thể rút ra một bài học quí giá.

Vào một buổi sáng, đang khi các môn đệ giặt lưới, Chúa Giêsu xuống thuyền và đứng đó giảng dạy cho đám đông. Khi đã kết thúc, Ngài bảo Phêrô: - Con hãy ra khơi và thả lưới.

Đây là một lệnh truyên vô lý dưới mắt Phêrô. Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, lớn lên tại Nagiarét, kiếm ăn bằng nghề thợ mộc, không phải là người sống bên sóng nước nơi biển hồ Giênêgiarét, nên chẳng có chút kinh nghiệm nào về chài lưới.

Còn Phêrô, với mười mấy năm lăn lộn trong nghề, ông biết rất rõ: ra khơi và thả lưới giữa ban ngày ban mặt như thế này, thì chẳng hy vọng chút nào. Hơn nữa, suốt cả một đêm Phêrô và các bạn đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào. Nếu ra khơi vào lúc này, thì chỉ chuốc lấy mệt mỏi vào thân mà thôi. Đúng là dạ tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ muốn thử thách vị thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, xem Phêrô có biết vâng lời và tin tưởng vào Ngài hay không ?

Sau một lúc do dự, Phêrô đã lấy lại bình tĩnh vì biết rằng đây là lệnh truyền của Chúa, cho nên phải thi hành mà chẳng cần đặt điều kiện hay đưa ra những câu hỏi và thắc mắc. Nghĩ vậy, Phêrô đã thưa lên cùng Chúa: - Lạy Thày, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì cả, nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ ra khơi và thả lưới.

Phần thưởng lớn lao cho niềm tin tưởng ấy là gì ? Đó là một mẻ cá thật bất ngờ đến nỗi cả hai ghe phải chở đầy, mà theo lẽ tự nhiên sẽ chỉ là một mẻ lưới luống công vô ích. Trước sự kiện lạ lùng ấy, Phêrô đã quì xuống và thưa lên cùng Chúa: - Lạy Thày, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.

Phép lạ này đã để lại một dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Phêrô và đã chuẩn bị cho sứ mạng tương lai của ông trong Giáo Hội. Đúng thế, Phêrô sẽ không còn thả lưới trên mặt biển hồ nữa, nhưng cùng với các bạn đồng nghiệp, ông sẽ ra đi chinh phục thế gian về cho Chúa Giêsu, như lời Ngài truyền dạy: - Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta.

Nhưng để chu toàn một bổn phận, một trách nhiệm cao cả và nặng nề như thế,  Phêrô phải có một lòng khiêm tốn và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa:

- Hãy chuẩn bị cho một sứ mạng siêu việt ở ngoài tầm tay và khả năng của con. Hơn một lần con đã thất bại, đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào. Con hãy ý thức sự yếu đuối của con, nhưng đồng thời phải can đảm và tin tưởng vào Ta. Ta sẽ ở bên con. Ta là ai thì con đã biết. Ta là Thiên Chúa quyền năng. Ta là Đấng cả đất trời và muôn loài đều phải vâng phục. Ta sẽ chúc lành cho những cố gắng của con, nhờ đó con sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.

Chính phép lạ này, một lần nữa đã xảy ra cho cuộc đời của Phêrô. Thực vậy, tự bản chất, Phêrô chỉ là một người thuyền chài quê mùa, dốt nát và nhát đảm. Thế nhưng, Phêrô đã vâng lời Chúa, lên đường truyền giáo và đã đem về cho Chúa một mẻ cá lạ lùng, đó là những tâm hồn tin vào Phúc âm. Chắc chắn Phêrô đã nhiều lần suy nghĩ về bài học thấm thía này, nhất là vào những năm tháng cuối đời.

Đúng thế, Phêrô đã tới Rôma vào thời bạo vương Nêron, giữa lúc cơn bách hại đang nổi lên như cuồng phong vũ bão. Ông đã bị bắt, bị tống giam và sau cùng bị đóng đanh vào thập giá, đầu ngược xuống đất trên ngọn đồi Vatican. Thế nhưng, ngày hôm nay trên phần mộ của ông, một ngôi đền thờ nguy nga và lộng lẫy nhất đã được xây dựng và mang tên ông: Đền thờ thánh Phêrô.

Bài học của Phêrô cũng là bài học của mỗi người chúng ta: hãy kiên nhân và tin tưởng vào Chúa. Đứng trước những thất bại đắng cay, nhiều người đã phàn nàn và kêu trách Chúa, để rồi đi tới chỗ tuyệt vọng, vì họ nghĩ rằng Chúa đã ngoảnh mặt làm ngơ, thậm chí còn bịt tai không còn nghe tiếng họ kêu xin. Thế nhưng, họ đã lầm. Hãy bình tĩnh và tự vấn lương tâm xem: chúng ta đã hành động một mình hay là đã hành động với Chúa ?  Tự sức riêng, chúng ta sẽ chuốc lấy thất bại như lời Chúa đã phán: - Không có Thày, các con chẳng làm gì được.

Hãy biết bắt đầu lại trong niềm cậy trông vào Chúa, nhất là trong lãnh vực hoạt động tông đồ.

Thực vậy, sứ mạng tông đồ là sứ mạng chung của mọi người tín hữu, bởi vì đã là phần tử của Giáo Hội, chúng ta có bổn phận làm cho nhiệm thể Đức Kitô được phát triển và lớn lên. Tuy nhiên, phương pháp tuyệt diệu nhất bảo đảm cho những thành quả tốt đẹp, chính là kiên nhẫn và tin tưởng vào Chúa.

Đúng thế, tục ngữ Việt Nam đã nói:

- Có công mài sắt, có ngày nên kim.

- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.

- Chớ thấy sóng cả mà lo,

  Sóng thời mặc sóng, chèo cho có chừng.

Sự kiên nhẫn chính là một bí quyết dẫn tới thành công. Một Augustinô đã trở lại nhờ vào đâu, nếu không phải nhờ vào những lời cầu nguyện liên tục và những giọt nước mắt khổ đau của người mẹ hiền là thánh nữ Monica.

Cùng với sự kiên nhẫn, chúng ta hãy đặt trót niền tin tưởng cậy trông vào Chúa. Chúng ta hãy ý thức mình chỉ là một đầy tớ vô dụng, một dụng cụ tầm thường, chính Chúa mới là Đấng làm nên kết quả. Một Saulô hung dữ, thế mà chỉ trong nháy mắt, Chúa biến đổi để trở nên một Phaolô nhiệt thành, một vị tông đồ dân ngoai.

Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trờ nên một vị tông đồ, một kẻ chinh phục người khác về cho Chúa Giêsu, miễn là chúng ta biết kiên nhẫn và tin tưởng và Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, đã hai ngàn năm trôi qua, thế mà vẫn còn biết bao nhiêu người chưa được đón nhận tin mừng của Chúa. Và như vậy, lệnh truyền của Chúa ngày xưa vẫn còn vang vọng bên tai chúng con: hay ra khơi và thả lưới. Xin cho mỗi người chúng con, bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bà đức tin của Giáo Hội.

 

2. Vâng lời Thầy con thả lưới - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, dù chưa biết gì về đạo Thiên Chúa, thế mà đã có những lời nguyện thành khẩn trông cậy trời:

“Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đút bếp”.

Lời van xin đơn sơ mộc mạc đó đã nói lên sự bất lực của mình và nhận ra quyền phép vô cùng của Thiên Chúa, đã tỏ bày lòng thành khẩn của mình và nhận biết lòng thương xót vô biên ban ơn giáng phúc của Thiên Chúa. Quyền phép và tình thương của Thiên Chúa đã làm ra mưa, ra nước, ra ruộng, ra rơm. Giới hạn khả năng của con người ở chỗ biết cầy, biết uống, biết ăn, biết lấy rơm đút bếp.

Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại, những thứ căn bản, những thứ nguồn gốc sinh sự sống cho muôn loài muôn vật. Con người phải biết trông cậy, nương nhờ, tham gia, khai triển để làm ăn, nuôi dưỡng và phát triển sinh sống sao cho đáng lãnh ơn trời, chứ đừng phung phí, phá hoại.

Phaolô trước khi trở lại ông đã hăng hái phá hoại, bắt bớ những kẻ khác. Nhưng nhờ ơn Chúa, ông trở lại đạo Chúa, ông đã tham gia vào công trình cứu độ của Chúa, đã làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác, nhưng ông đã thú nhận “thật ra không phải tôi, mà là ơn Chúa nơi tôi”, ông cũng nói: “Tôi gieo, anh em tưới và Thiên Chúa cho mọc lên!”

Isaia cũng nhận vô tài bất lực trước Thiên Chúa: “Thánh! chí Thánh! ngàn trùng chí thánh, Chúa tể càn khôn, cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Ông đã thốt ra: “Khốn thân tôi, chết tôi rồi! Tôi là người môi miệng ô uế”. Nhưng nhờ than hồng là lửa tình thương của Chúa, ơn Thánh thần của Chúa đã thanh tẩy ông, ông đã được sạch, được sai đi làm tiên tri và ông đã mau mắn xin vâng: “Có con đây, xin Chúa sai con đi”.

Đặc biệt hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta đưa mắt nhìn con thuyền Phêrô với cánh buồm no gió căng phồng lướt sóng, xa dần rồi mất hút giữa biển cả bao la. Phêrô sống với cái nghề vô danh, đầy may rủi và luôn phải vật lộn với giông tố nguy hiểm. Vô danh vì công việc nặng nhọc giữa biển khơi, không ai biết tới. May rủi vì chẳng bao giờ nắm chắc kết quả, thất bát thường xuyên, dù cố gắng vật lộn với nghề nghiệp. Con thuyền lại luôn tròng trành trên sóng nước, bảo tố. Mạng sống con người quá mong manh. Phêrô dầu kiên cường, hăng hái, lạc quan chống đỡ, nhiều lúc phải chán nản, thất vọng thở dài: Suốt đêm kéo lưới cực khổ chẳng được gì!

Đang lúc buồn phiền mệt nhọc đó, Đức Giêsu lại còn đến cậy nhờ lên thuyền để giảng cho dân chúng đông nghẹt đứng trên bờ. Tuy nhiên, Phêrô không quản ngại rước Người lên thuyền. Giảng xong, Người cũng không để Phêrô nghỉ ngơi, lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới bắt cá. Dầu cực nhọc và biết rõ Thầy chẳng bao giờ làm người chài lưới. Còn ông rất rành nghề. Thế mà ông chỉ nói: “Thưa Thầy, suốt đêm chúng con vất vả kéo lưới chẳng được gì; nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Thật lạ lùng trước lòng tin của Phêrô vào Thầy! chính nhờ đức tin đó, Phêrô đã hiến nhà mình làm trung tâm truyền giáo cho thành phố Caphanaum, và các miền lân cận. Người đã ban cho ông một trung tâm truyền giáo vĩ đại là đế quốc Rôma. Ông đã hiến cho Chúa con thuyền bé nhỏ mong manh. Người đã ban cho ông con tầu Giáo Hội vững chắc dù sức hùng satan vẫy vùng như vũ bão, cũng phải đầu hàng. Ông đã hiến cho Chúa nghề đánh cá, Người đã làm cho ông nên ngư ông trên biển cả trần gian. Ông đã hiến cho Chúa trót cả mạng sống, Người đã ban cho ông được đời sống vinh quang muôn đời. Ông đã hiến tất cả cái tạm thời và ông đã được tất cả cái trường tồn vô cùng. Ông đã hiến cái nhỏ bé trần gian và ông đã được chìa khóa vĩ đại trên trời. Nhờ vâng lời Thầy, ông đã được tất cả.

Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên” - “Nhờ thầy mới được làm thầy”. Loài người với nhau, còn phải cần nhau, nhờ nhau như thế mới nên người. Huống chi loài người với Thiên Chúa, Đấng làm nên mình, dựng nên vũ trụ vạn vật, thì loài người phải cần, phải nhờ, phải cầu khẩn Thiên Chúa biết chừng nào! Thế mà, có kẻ đã cả gan tuyên bố như Nietzsche: Thiên Chúa đã chết rồi, thay trời làm mưa, để họ tự tôn mình lên làm Chúa, làm chủ, để làm mưa, làm gió, tung hoành phá hoại khắp nơi. May thay những hạng đó đã chết rồi!

Nếu biết nhận ra mình quá bé nhỏ, quá bất lực để chạy đến cầu khẩn, vâng theo Thiên Chúa, thì họ đã được cứu sống muôn đời.

Thiên tài vĩ đại bậc nhất nhân loại như Newton hơn cả Descartes, Einstein, thế mà ông chỉ dám nói: “Tôi chỉ là một em bé chơi đùa trên bờ biển và thỉnh thoảng nhặt được một hòn sỏi nhẵn hơn, hoặc một vỏ sò đẹp hơn những cái người ta thường tìm thấy, trong khi đó biển chân lý mênh mông trải ra trước mắt nó, vẫn hoàn toàn bí mật, chưa hề bị xâm phạm”. Càng khiêm tốn, ông càng được thế nhân tôn vinh và nhớ ơn, nên trên bia mộ ông được khắc ghi câu: “Let men rejoice that so great a glory of the human race has appeared”: Loài người hãy hân hoan rằng một vinh quang lớn lao bậc ấy của nhân loại đã xuất hiện” (Nguyễn hiến Lê: Gương Hy Sinh – tr. 7).

Isaia cũng đã kêu lên: Khốn thân tôi, chết tôi rồi và được Thiên Chúa cho làm tiên tri vĩ đại. Phaolô đã thú nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong các tông đồ” và đã được ơn Chúa giúp cho làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác. Phêrô đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu và van xin: “Lạy Thầy, xin tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”. Và đã vâng lời Thầy đi thả lưới được muôn linh hồn về cho Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con hết lòng khiêm tốn vâng lời Chúa ra khơi biển đời để thả lưới, cho lưới con được đầy bạn hữu biết khẩn cầu và tôn vinh Chúa. Amen.

 

3. Dám một lần nữa

Có những người đã xả thân nhiều cho Giáo Hội hay cho giáo xứ hoặc để cung cấp một nền giáo dục tốt nhất cho con cái họ, và sau nhiều năm cố gắng họ đã thất vọng, chua xót và ngã lòng. Họ có cảm tưởng như đã làm việc luống công. Họ không thấy xuất hiện những hoa quả tốt đẹp mà lẽ ra công việc của họ phải làm nảy sinh. Và thậm chí thường là điều trái ngược đã xảy ra ! những gì họ đã rất vất vả xây dựng đều sụp đổ; những gì tốt nhất họ đã cho con cái họ, thì chúng ta lại vứt bỏ đi.

Phải, những con người mà hôm qua đầy hăng say phấn khởi thì nay lại ủ rũ, buồn sầu ! và có lẽ chúng ta cũng thuộc vào số những người ấy. Vậy thì chúng ta hẵy chăm chú nghe lời kinh thánh nói với chúng ta hôm và để cho những lời ấy thấm sâu vào lòng chúng ta. Những lời này có thể gây nên niềm phấn khởi hoặc thoa dịu cõi lòng và trợ giúp chúng ta nhiều.

Sự mệt mỏi của thánh Phêrô.

Không khó khăn gì nếu chúng ta muốn nhận ra một chút kinh nghiệm bản thân trong kinh nghiệm mà thánh Phêrô tông đồ đã trải qua. Suốt đêm ông thả lưới. Hàng chục và hàng chục lần ông đã quăng lưới xuống hồ, nhưng không được gì cả. Không bắt được một con cá nào.

Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đọc đi đọc lại cũng những cử chỉ đó, làm đi làm lại cũng những cố gắng đó, nói đi nói lại những lời đó, mà không bao giờ đạt được những điều mình muốn. Không lạ gì sau bao nhêu cố gắng chẳng mang lại kết quả chúng ta kiệt sức rồi và sự mệt mỏi đã xâm chiếm chúng ta hoàn toàn. Không còn chút hy vọng nào nữa.

Tuy nhiê , vì chính Chúa Giêsu yêu cầu, nên một lần nữa Phêrô lại ra khơi thả lưới. Một lần nữa ông làm điều mà ông không muốn làm chút nào cả. Và chính lần đó đã đem lại kết quả. Lưới đầy muốn rách.

Ta hãy nhớ bài học này: những gì tự sức mình chúng ta không làm được, thì chúng ta có thể làm được  với sự cộng tác của Chúa. Thường thường, khi con người mệt nhọc nhất, họ họ sắp hỏ cuộc, thì Chúa xuất hiện và ban ơn can đảm cần thiết đẩ một lần nữa họ tiếp tục công việc.

Sự đổi mới của ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô.

Sau khi xem xét ngắn gọn kinh nghiệm của thánh Phêrô, ta hãy xem kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô tông đồ. Nó rất đáng cho chúng ta quan tâm tìm hiểu. Isaia rất thành thật tuyên bố: “Lạy Chúa, cong không thể nói nhân danh Chúa được. Con không xứng đáng làm ngôn sứ của Chúa”. Thánh Phaolô cũng Không kém thành thật khi người viết: “Tôi là kẻ rốt trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng được gọi là tông đồ…Thậm chí tôi là một đứa sinh non”.

Ta biết điều gì sẽ xảy ra cho hay vị này. Cả hai đều được ơn của Chúa thanh tẩy và biến đổi. Cả hai sẽ trở thành những chứng nhân xuất sắc của Thiên Chúa.

Nơi đây nữa có một bài học ta cần đón nhận: dù chúng ta là ai, bất chấp những giới hạn và yếu đuối của chúng ta, chúng ta vẫn là quí báu trước mắt Thiên Chúa, va dều có thể được ân sủng của Ngài biến đổi.

Thánh Phaolô nói: “Những gì tôi đã trở thành, chính là nhờ ơn Chúa mà tôi được như vậy”. Isaia sẽ trả lời Thiên Chúa khi Ngài đang tự hỏi sẽ sai ai đi làm sứ igả cho Ngài: “Lạy Chúa, xin hãy sai con, con sẽ là sứ giả của Chúa”. Thánh Phaolô và Isaia, hai con người được đổi mới.

Những biến cố có ý nghĩa đối với chúng ta.

Nếu xem những biến cố này như là những biến cố đã qua, không có ý nghĩa cụ thể đối với chúng ta thì đó là sai lầm. Trái lại, nếu những biến cố ấy được nhắc lại cho chúng ta là vì chúng soi sáng con đường của chúng ta hôm nay.

Nếu, như thánh Phêrô, chúng ta dám một lần nữa thả lưới xuống hồ… Nếu, như ngôn sứ Isaia và thánh Pholô, chúng ta quay về Chúa và tin tưởng nơi Ngài, thì không gì – thật sự không gì – ngăn cản chúng ta có được kinh nghiệm giống như các Ngài. vì Thiên Chúa không thay đổi. Ân sủng mà trước kia Ngài đã ban cho vẫn là một ơn luôn luôn được ban lại cho người nào một lần nữa….Ơn này sẽ dcban lại cho người nào một lần nữa lại thả lưới…Người nào để cho Ngài gặp gỡ và biến đổi. Ta chớ nghi ngờ: kinh nghiệm cảu Thánh Phêrô, của thánh Phaolô, của ngôn sứ Isaia có thể là kinh nghiệm của chúng ta.

 

4. Chúa gọi các Tông Ðồ

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Tiếp tục chương trình của những Chúa nhật mở đầu mùa Thường Niên day dỗ chúng ta về những bước đầu trong cuộc đời truyền đạo của Chúa Giêsu, bài Tin Mừng Luca hôm nay nói đến việc Chúa chọn những tông đồ đầu tiên. Bài Cựu Ước được dùng để báo trước vấn đề này là đoạn sách Isaia kể lại việc Chúa gọi nhà tiên tri. Các tông đồ ngày nay ở trong Hội Thánh tiếp nối công việc của những người được Chúa chọn trong Cựu Ước cũng như Tân Ước.

Thế nên bài Thánh Thư nói họ phải rao giảng giáo lý nào cho trung thành với truyền thống. Như vậy, Chúa nhật hôm nay đáng gọi là ngày ơn gọi. Chúng ta xem Chúa đã gọi chúng ta như thế nào để chúng ta biết phải sống thế nào cho xứng đáng với ơn gọi ấy.

1. Chúa gọi Isaia

Chúng ta đều biết những câu đầu chương VI sách Isaia. Nhà tiên tri kể lại ơn gọi của mình. Năm ấy Ôzya, vị vua thứ 10 của Israen mới thăng hà. Ðó là điềm không tốt cho quốc gia này. Vì Ôzya, cũng có tên là Azarias, là một vị vua đạo đức. Dưới triều đại ông, Israen không những thái bình, mà còn ghi vào lịch sử một số chiến thắng. Ông thăng hà, có nghĩa là thời vận Israen bắt đầu thay đổi. Sách Isaia nói đến thế lực của Assyria phương bắc đang dần dần kéo xuống gần bờ cõi Israen. Người ta run sợ trước kỵ binh và tên nỏ. Nhưng chính những lúc ấy, Chúa lại tỏ ra thương dân lạ lùng. Người sai đến cho họ những người sẽ nói nhân danh Người.

Isaia được ơn gọi vào năm ấy, năm 740 trước Ðức Giêsu ra đời. Ông đang ở trong đền thờ. Bỗng dưng ông thấy Chúa hiện ra ngự trên ngai, có áo choàng phủ khắp đền thờ. Lại có những Sêraphim chầu hầu. Và có tiếng tung hô: "Thánh, thánh, thánh, Chúa các đạo binh, khắp đất đầy tràn vinh quang Người". Rồi mộng cửa rung rinh, nhà nghi ngút khói.

Có thật Isaia đã thấy như vậy không? Hay đây là những nét tả đầy tính cách thần học? Dù sao quang cảnh này cũng có nhiều ý nghĩa. Trung thành với truyền thống không bao giờ dám mô tả chính Thiên Chúa, - vì mắt phàm thấy sao được long nhan Người? ở đây tác giả nói đến những sự chung quanh Thiên Chúa hơn là diễn tả chính Người. Việc Người ngự trên ngai và có áo choàng trải khắp đền thờ chứng tỏ Người là vị hoàng đế cao cả, làm cho những kẻ đang sợ danh tướng của vua Assyria đến, được an tâm bình tĩnh lại. Và việc có các Sêraphim chầu hầu quanh ngai còn nói lên hơn nữa rằng Chúa trổi vượt hơn các thần dân xâm lược. Là vì ở Assyria người ta sợ hãi sùng bái các Sêraphim, đang khi ở đây chúng chỉ đáng bậc tôi tớ.

Và khác với thần thánh ở Assyria chỉ là những ngẫu tượng kính nhi viễn chi, tức là phải sợ hãi tôn thờ để khỏi bị oán trả, Thiên Chúa của Isaia trải vinh quang Người khắp cả mặt đất. Và tuy là Ðấng Thánh và ngàn trùng chí thánh, siêu việt ngàn lần đối với tạo vật... Người là Ðấng Thiên Chúa ở liền với các đạo quân của dân Người, và Người can thiệp vào lịch sử để mặt đất đầy vinh quang Người.

Hôm nay Người hiện ra với Isaia khác nào hôm Người ngự xuống trên núi Sinai: Có đất động và mây khói phủ đầy.

Tự nhiên Isaia phải sợ. Nhưng đây là một sự sợ tinh thần, khác hẳn sự sợ nô lệ. Isaia thấy Ðấng Thánh chiếu cố đến mình. Ông thấy mình bất xứng. Sự sợ của ông nói lên ý thức tội lỗi của con người ở giữa dân tội lỗi. Ông cầu cứu ơn cứu độ. Và ông đã được nhận lời. Vị thần sứ đã gắp một cục than hồng trên bàn thờ hương đi đến thanh tẩy môi miệng ông để xóa tội lỗi và biến môi miệng ấy nên xứng đáng cho việc rao giảng Lời Chúa.

Viết lại những dòng chữ này, Isaia khẳng định những quan điểm thần học sâu xa của ông. Mọi người đều là phàm nhân và tội lỗi, không thể cáng đáng những công việc thánh thiện, trước khi được thanh tẩy bằng chính ơn của Chúa, chứ không phải bằng nỗ lực và sự nghiệp của mình.

Có thể vì ý thức đã được thanh tẩy, Isaia chấp nhận ngay đề nghị của Chúa để đi làm tiên tri. Nhưng cũng có thể vì đứng trước một vị hoàng đế cao cả đến nỗi các Sêraphim cũng phải ngoan ngoãn chầu hầu, ai mà dám không mau lẹ thi hành ý muốn của Người.

Dù sao Isaia cũng đã hân hoan lãnh nhận sứ mạng tiên tri vì tất cả quang cảnh ông vừa thấy đầy khích lệ cứu độ. Israen không còn phải lo quân xâm lược nữa. Thiên Chúa là hoàng đế cao cả, siêu việt vượt hẳn vua chúa Assyria. Người điều khiển cả các Sêraphim của nước ấy. Người thánh thiện thật nhưng không ở xa dân. Người sẽ làm cho mặt đất đầy vinh quang Người. Và trước hết Người sẽ thanh tẩy, xóa bỏ tội lỗi cho chúng ta, để chúng ta nên tông đồ tiên tri rao giảng tin mừng cho các dân tộc.

Như vậy, bài sách Isaia rất nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên phụng vụ hôm nay cũng chỉ dùng để đưa chúng ta vào bài Tin Mừng. Vì ở đây sẽ có những sự thực cụ thể hơn và nhất là có tầm mức phổ cập và luôn luôn hiện đại. Chúng ta hãy xem.

2. Chúa Gọi Các Tông Ðồ

Thánh Luca không xác định hôm ấy là ngày nào. Có lẽ tính cách "không có thời gian" rõ rệt này thuận lợi hơn để nói đến những công việc luôn có giá trị hiện đại.

Tác giả thoạt tiên cho chúng ta thấy một quang cảnh khác hẳn với những gì Isaia đã nhìn thấy. Ở đây là bờ hồ Giênêzaret chứ không phải là tại đền thờ Giêrusalem. Quang cảnh cởi mở này hợp với tinh thần truyền giáo và công giáo của sách Phúc âm Luca hơn. Nhưng tuy ở trên bờ hồ, Ðức Giêsu vẫn không thiếu vẻ oai phong cao cả, vì quần chúng xán lại bên Người và chăm chú muốn nghe Lời Người dạy dỗ... Người thấy có hai chiếc thuyền bỏ neo gần đó. Không một người nào ở trên hai chiếc thuyền ấy vì những người đánh cá đã xuống cả rồi và đang giặt lưới.

Ðó là hình ảnh những cái ngai đang còn trống. Ðức Giêsu lên chiếc thuyền thuộc về Phêrô và truyền đẩy ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống phán dạy quần chúng đang đứng trên bờ.

Rõ ràng Luca muốn cho những bức họa có phần oai phong như lại sống động. Một Ðức Giêsu ngồi một mình trên thuyền nhìn xuống quần chúng dưới bờ mà phán dạy họ những điều cao cả, cũng có Ðấng "Thánh" đang can thiệp vào thế gian. Chúng ta có thể nói Chúa trong điện thờ mà Isaia đã nhìn thấy, nay đang ở giữa loài người. Người ở gần chúng ta mà vẫn không mất vẻ siêu vời, Người muốn đem tinh thần và sức mạnh thần linh của Người vào thế gian.

Người bảo Phêrô: "Hãy chèo ra khơi thả lưới mà bắt cá". Làm sao ông có thể không vâng lời? Chúng ta có thể thấy ông đã tức khắc sửa soạn hành trang. Nhưng đồng thời ông đã thành thật thưa: Ðêm vừa rồi ông không bắt được gì cả, nhưng Thầy đã dạy, ông xin làm theo. Phản ứng của ông rất thành khẩn. Nó vừa nói lên đức vâng lời và niềm tin tưởng, lại vừa báo trước và làm nổi bật phép lạ sắp xảy ra. Cả đêm đã đánh không được cá, huống nữa là lúc này, trời đã sáng.

Thế mà vì lệnh truyền, lưới của Phêrô đã đầy cá, sắp nứt ra rồi. Ông không kéo nổi và phải gọi đồng bạn ở cái thuyền kia đến giúp.

Từ trước đến giờ, Luca chỉ nói đến Giêsu và Phêrô. Tác giả muốn đề cao vai trò của vị tông đồ này ở trong Hội Thánh. Phêrô được ưu tiên trong cái nhìn của Chúa. Sau đó ông mới gọi đồng bạn là Gioan và Giacôbê ở thuyền kia đến giúp.

Thấy mẻ cá lạ lùng này, họ đâm kinh sợ con người đã truyền lệnh cho họ. Phêrô liền bắt chước Isaia, quỳ mọp xuống trước mặt Người, xưng thú thân phận tội lỗi chẳng dám đứng trước long nhan. Nhưng Chúa ôn tồn bảo: "Ðừng sợ, từ nay hãy đi lưới các linh hồn". Người đã gọi các tông đồ một cách cụ thể hơn Chúa gọi Isaia ngày trước. Các ông sẽ đi làm công việc của các ông vừa làm, nhưng trên bình diện khác. Và công việc của các ông đã được báo trước sẽ kết quả lạ lùng như các ông vừa thấy cá đua nhau chạy vào lưới các ông.

Chúng ta hãy tạ ơn Chúa. Người đã làm những việc cao cả trong cuộc đời của Isaia. Nhưng nơi các tông đồ của đạo mới, Người còn tỏ ra uy quyền và mạnh hơn biết bao. Không những nơi Ðức Kitô, Thiên Chúa đã đến với loài người và ở giữa chúng ta, cụ thể hơn khi Người bày tỏ vinh quang cho Isaia nơi đền thánh, Người còn gọi Phêrô và các tông đồ để Hội Thánh làm cho vinh quang của Người trải ra trên khắp địa cầu.

Tác giả Luca thật ra đã muốn nói lên những điều ấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Người viết lại câu chuyện Chúa gọi Phêrô sau khi Ðức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Khi ấy đã là thời đại của Hội Thánh. Do đó câu chuyện Người kể nhất thiết phải mang các tính chất Kitô học và Giáo hội học. Ðức Giêsu đã là vua và là Chúa. Hội Thánh đã có Phêrô đứng đầu. Và công cuộc truyền giáo của các tông đồ đang mang lại nhiều kết quả. Nhưng tất cả đã khởi sự ngay khi Ðức Kitô còn tại thế.

Ðưa các hình ảnh về phục sinh đặt lên khoảng thời gian Ðức Giêsu mới xuất thân giảng đạo, tác giả Luca khiến chúng ta tin tưởng nhiều hơn về Hội Thánh hiện nay. Bề ngoài đời sống Hội Thánh như không có gì lạ lùng, nhưng cũng như cuộc đời trần gian của Chúa Cứu Thế, đây chẳng phải là lúc đang chứa chấp nhiều thành quả phong phú trong tương lai sao? Gioan chỉ kể chuyện về mẻ cá lạ sau phục sinh, Luca đặt lên trước phục sinh để đảm bảo thành công rực rỡ cho ơn gọi của các tông đồ và của Hội Thánh. Ta sẽ sống ơn gọi này thế nào?

3. Thi Hành Sứ Mạng Kitô Giáo

Muốn hiểu đoạn thư Phaolô hôm nay, chúng ta cần biết rằng nhiều người trong cộng đoàn Côrintô hồi ấy không tin lắm vào mầu nhiệm xác thịt sau này sẽ sống lại. Họ sống trong nền văn minh Hy Lạp vốn coi rẻ thân xác. Nhiều lý thuyết thời ấy quan niệm thân thế là tù ngục giam hãm linh hồn. Người ta phải mong có ngày ra khỏi chốn tối tăm ấy để được lên nơi tinh thần... Nhiều khi chúng ta không mặc nhiên nghĩ như vậy sao?

Nhưng đó là suy nghĩ rất tai hại, sai hẳn với tin mừng cứu độ. Thánh Phaolô nhắc lại cho người Côrintô biết: Nếu nghĩ như vậy thì đã theo đạo một cách vô ích. Chúng ta không những tin Chúa đã chịu chết, mà đặc biệt hơn, chúng ta tin Người đã sống lại. Có phục sinh, Người mới ban ơn cứu độ, chứ nếu cứ chết mãi thì hỏi Người cứu được ai? Tin điều Chúa sống lại vì thế là nền tảng và khởi điểm của đức tin trong Hội Thánh. Hội Thánh nắm vững niềm tin này vì mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh phù hợp với Sách Thánh; vì Phêrô và đoàn 12 tông đồ đã được nhìn thấy Chúa sống lại; vì cả cộng đoàn tín hữu đã được xem thấy Chúa Phục sinh hiện ra.

Cuối cùng chính Phaolô cũng được Người tỏ mình ra ở trên đường Ðamas. Nhưng dù là Phaolô, Giacôbê, hay Phêrô, mọi tông đồ trong Hội Thánh chỉ có một giáo lý. Ðó là Ðức Giêsu đã chết vì tội lỗi của chúng ta như lời Sách Thánh dạy và Người cũng đã sống lại theo như lời Kinh Thánh nói, để chúng ta có đức tin và được ơn cứu độ.

Thành ra ơn gọi của chúng ta là niềm tin vào Ðức Giêsu tử nạn phục sinh. Ðó là Tin Mừng cứu độ mọi người. Nó phải hướng dẫn đời sống chúng ta. Chúng ta không được bi quan về tương lai, như thể sẽ có sự chết mãi mãi. Ngược lại chúng ta phải lạc quan mạnh mẽ vì sẽ có sự sống lại cho ngay cả thân xác yếu đuối này. Sống niềm tin này một cách cụ thể, chúng ta sẽ trung thành tiếp nối truyền thống của Hội Thánh không những từ thời các tông đồ mà có thể nói ngay từ thời các tiên tri. Isaia trong bài đọc một hôm nay chẳng hạn đã nhìn thấy ơn gọi của mình rất lạc quan trong tình hình đáng run sợ của đất nước. Luca khẳng định ơn gọi của các tông đồ nhất định đem lại thành công như mẻ cá lạ lùng. Phaolô kêu gọi chúng ta hãy nhớ mình là tín hữu khi tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô chịu chết và sống lại. Người Công Giáo phải lạc quan phấn khởi. Dân Chúa phải rao truyền mầu nhiệm Chúa Phục Sinh.

Ở nhà thờ này, chúng ta vẫn làm như thế. Khi cử hành Thánh Lễ chúng ta hân hoan tuyên xưng việc Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta tin rằng thánh lễ ban sự sống mới cho tâm hồn. Thế thì chúng ta hãy ra về đi vào xã hội với niềm tin mạnh mẽ và ơn phục sinh mà Thánh Thể đã đặt vào lòng ta để đổi mới cuộc đời, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, nhìn thấy tương lai hấp dẫn lạ thường. Xin Chúa thêm niềm tin cho chúng ta.

 

5. Bất lực

Đang đi bên này sông, tình cờ nhìn thấy một người bạn thân lâu năm không gặp, đang đứng ở bên kia sông, bấy giờ chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin thưa rằng chúng ta làm mọi việc có thể, nào gọi to, nào vẫy tay, nào kiếm một cái xuồng để qua sông. Thế nhưng có một điều chúng ta lại không làm đó là nhảy xuống sông để bơi qua bờ bên kia, vì làm như thế chúng ta sẽ bị cho là điên khùng.

Tuy nhiên, điều điên khùng này chính thánh Phêrô đã làm. Phúc Âm kể lại, khi nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, thánh Phêrô cũng đã nhảy xuống nước mà tiến lại với Chúa Giêsu. Có lẽ lúc bấy giờ thánh Phêrô cũng đã thầm nghĩ: Điều Thầy đã làm thì tại sao tôi lại không làm được. Nhưng rồi ông bắt đầu nghi ngờ và bị chìm dần xuống mặt nước. Bấy giờ ông bèn van xin Chúa giúp đỡ. Chính trong cái bối cảnh này mà chúng ta nhận thấy Phêrô cần phải sửa chữa cái thói tự cao tự đại, quá ỷ vào sức riêng của mình. Ông cần phải ý thức được những giới hạn của mình, cũng như những khả năng nhỏ bé và những bất lực của mình để nhờ đó mà khiêm nhường hơn.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã dùng chiến thuật đó để răn dạy Phêrô. Sau một đêm vất vả chẳng bắt được một con cá nào, thế mà giữa ban ngày ban mặt Chúa Giêsu lại truyền cho ông phải thả lưới, và rồi sau đó một mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Sau mẻ cá lạ lùng ấy Phêrô đã thú nhận sự bất lực của mình: Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.

Với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa chờ mong chúng ta thú nhận sự bất lực, sự hạn hẹp của mình, để rồi tin tưởng và phó thác cho Ngài, cũng như để Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Và đó chính là cái nền tảng để xây dựng đức tin.

Thế nhưng con người thời nay, đã hành động một cách khác hẳn. Với những thành công của khoa học, với những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật, người ta muốn lên ngôi bá chủ và không còn lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Người ta không còn muốn cầu nguyện vì tưởng rằng sẽ không bao giờ còn cần đến một sự trợ giúp từ trời cao.

Thế nhưng nếu suy nghĩ cho chín chắn, chúng ta nhận thấy rằng: Khoa học càng tiến bộ thì lãnh vực của nó càng mở rộng, tưởng chừng như vô tận. Hơn nữa dù kỹ thuật có tân kỳ thì những sơ hở và trục trặc vẫn có thể xảy ra. Chỉ sơ hở một chút là sẽ tiêu ma cả một công trình nghiên cứu, như trường hợp đã xảy ra cho phi thuyền “Schalenger” của Mỹ, đã thiêu sống cả một phi hành đoàn gồm 6 người.

Đứng trước không gian vô tận, đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, đứng trước những sự trục trặc của kỹ thuật, chúng ta mới nghiệm ra rằng: Tài năng con người thật nhỏ nhoi và có nhiều lãnh vực dường như con người cũng phải bó tay chưa khám phá ra nổi. Để rồi trong cố gắng, chúng ta vẫn phải khiêm nhường, nhờ đó mà chúng ta sẽ nhận được những sự trợ giúp của Thiên Chúa.

 

6. Thành quả vàng son – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?

Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì".

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: "Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?"

***

Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.

Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: "Vì lời Thầy con sẽ thả lưới" (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi" (Lc 5,8).

Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.

Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.

"Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.

Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy: "Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới", nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.

Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: "Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn" (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy sai con". Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô: "Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta" (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.

Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã "bỏ mọi sự mà đi theo Người" (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.

Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.

***

Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.

Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen.

 

7. Được mời gọi để loan báo Tin Mừng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Franco là một kịch sĩ người Italia nổi tiếng. Suốt 40 năm lão luyện trong nghề, ông đã đặt hàng trăm vở kịch thành phim được chiếu trên màn ảnh truyền hình nhà nước, từ năm 1980 đến nay ông đã dùng để rao giảng Lời Chúa. Franco đi khắp các thành phố và xứ đạo Italia, vào các nhà tù hay tham dự đại hội ca múa dân tộc để trình diễn Phúc Âm. Ông dùng mọi nhân tố kịch nghệ để đạo diễn Tin Mừng, chẳng hạn 16 chương Phúc Âm thánh Marcô được ông diễn xuất thành 96 cảnh. Ước mong duy nhất của ông là dùng kịch nghệ để loan báo Lời Chúa. Trong số bạn bè và người thân, có kẻ chế nhạo ông là người mất trí, nhưng cũng có nhiều người khuyến khích ông trong sáng kiến mới này, và đã có hàng trăm ngàn người được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ qua hình thức nghệ thuật đó. Ông tâm sự: "Tôi thật may mắn được tin vào Chúa Giêsu và có Ngài làm bạn đường trong đời. Không có Chúa Giêsu, cuộc đời thật là nhạt nhẽo vô vị. Và chính lòng tin đã giúp tôi nảy ra sáng kiến lấy Ngài làm đề tài diễn xuất. Trong bao nhiêu năm cuộc đời nghệ sĩ, tôi đã chỉ nói và diễn xuất những gì người khác biết. Nhưng từ 10 năm nay, tôi đã lựa chọn việc thông truyền cho khán thính giả lịch sử nhất thế giới, đó là Phúc Âm kể lại cuộc đời Chúa Cứu Thế".

Là Kitô hữu, mỗi người trong chúng ta cũng được mời gọi dùng các tài năng và cuộc sống của mình để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa, đó là sứ điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa Nhật hôm nay. Ba bài đọc giới thiệu với chúng ta ba ơn gọi khác nhau. Ơn gọi của tiên tri Isaia, thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp.

Isaia 6 lồng khung ơn gọi của ông trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, để khiển trách dân Do Thái sống trong tội lỗi và bất trung với Thiên Chúa. Ngài can thiệp bằng cách mời gọi Isaia trở thành sứ giả ra đi rao giảng Lời Ngài, giúp dân Israel hoán cải, dẫn đưa họ về với Chúa. Tiên tri chẳng những là người thấy trước tương lai nhưng còn là phát ngôn viên của Chúa, là sứ giả mang sứ điệp của Thiên Chúa xuống cho loài người. Ơn gọi đổi đời của Isaia xảy ra trong khung cảnh lúc cử hành phụng tự ở đền thờ Giêrusalem, ông được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa bằng các giác quan của mình. Isaia trông thấy Thiên Chúa ngự trị trên tòa vinh quang. Tòa cao là hình ảnh diễn tả xa cách con người ở trần gian hư hỏng tội lỗi này. Isaia còn được nghe tiếng của các thiên thần hát tung hô Thiên Chúa. "Thánh, Thánh, Thánh". Ba lần thánh là kiểu cách diễn tả sự vẹn toàn siêu việt và thánh thiện của Ngài. Trước sự thánh thiện cao cả tuyệt đối của Thiên Chúa, Isaia nhận thức ra thân phận yếu hèn tội lỗi bất xứng của mình. Xác tín con người tội lỗi không thể xem thấy Thiên Chúa, nếu trông thấy Người, con người sẽ phải chết. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng thường diễn tả tội lỗi của con người bằng cách nêu bật sự kiện Thiên Chúa Abraham cứu độ con người, bởi vì Ngài là Đấng duy nhất có thể biến đổi và thánh hóa con người. Để hiện thực điều đó, Thiên Chúa chọn lửa dùng thiêu đốt của lễ trên bàn thờ để thanh tẩy tội lỗi của Isaia, tạo dựng một tâm hồn mới. Ơn gọi của Isaia đã phát sinh trong khung cảnh của một đền thờ, giữa bầu khí trật tự trong lúc nguyện cầu thinh lặng trước mặt Chúa. Sự lựa chọn của ông là kết quả của một sự tự do, tươi vui, hăng hái nhưng là một quyết định liều lĩnh, bởi vì nó dẫn đưa Isaia vào một cuộc đối thoại đổi đời, một cuộc phiêu lưu mạo hiểm với những hệ lụy không lường được.

Thánh Luca đoạn 5 kể lại ơn gọi của thánh Phêrô và các bạn chài đồng nghiệp. Trong tường thuật, thánh sử Luca không cố ý nhấn mạnh đến phép lạ mẻ lưới nhiều cá cho bằng nêu bật kết quả mà Lời Chúa có thể tác động trong thế giới và ngay tâm lòng con người. Do đó, mọi nhân tố của bài tường thuật đều mang một ý nghĩa lệnh lạc. Hồ Giênêsareth mênh mông dài 21 cây số, ngang 12 cây số, và sâu 45 thước diễn tả thế giới này. Lời Chúa là cái lưới đánh cá, Phêrô và các bạn chài và tất cả những ai có nhiệm vụ rao truyền Lời Chúa. Một đêm vất vả mỏi mệt và thái độ chán nản của Phêrô với các bạn chài đồng nghiệp diễn tả các đặc thái sinh hoạt của Giáo Hội cũng như các động tác các thừa tác viên Lời Chúa. Mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên coi mình là trung tâm điểm, là nhân vật chính trong công tác rao truyền Tin Mừng, mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên chỉ cậy dựa trên sức lực của mình, trên các phương diện tài chính, trên các con số, các nhân lực, làm thế các thừa tác viên Lời Chúa sẽ không được gì. Trừ khi nào biết có thái độ khiêm tốn, vâng lời, phó thác hoàn toàn nơi sức mạnh Lời Chúa và để cho Chúa chủ động hướng dẫn mọi sự, thì Giáo Hội và các thừa tác viên Lời Chúa mới được một mẻ lưới đầy cá.

Đối với tâm lòng của mỗi người, Lời Chúa có sức mạnh biến đổi toàn cuộc sống đó là điều đã xảy ra cho Phêrô. Phêrô lại chèo thuyền ra khơi thả lưới. Sự kết quả nghe Lời Chúa, Phêrô và các bạn đồng nghiệp nhận ra mình là người yếu hèn và tội lỗi. Chúa Giêsu chỉ chờ có thế và kêu mời các ông trở thành cộng sự viên của Ngài trong công tác loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới. Phêrô và các bạn đồng nghiệp đã gặp gỡ Chúa Giêsu ngay trong khung cảnh cuộc sống thường ngày của họ và các sinh hoạt nghề nghiệp, qua biến cố của nếp sống thường nhật, Chúa Giêsu kêu gọi họ trong chính khung cảnh và tình trạng sống vật chất và tinh thần hạn hẹp ấy của cuộc đời họ. Chúng ta tất cả cũng có thể gặp gỡ Chúa ở khắp mọi nơi và trong mọi lúc của cuộc đời chúng ta. Và mỗi một cuộc gặp gỡ sâu đậm thật sự với Chúa Giêsu và Lời Ngài có tác dụng biến đổi tâm lòng của cuộc sống chúng ta để trở thành những nhà truyền giáo. Vấn đề là chúng ta biết thái độ của thánh Phêrô hay không? "Vâng lời Thầy con thả lưới".

Thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô đoạn 15, thánh Phaolô truyền lại cho giáo hữu Côrintô kinh Tin Kính của cộng đoàn Kitô tiên khởi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết để đền bù tội lỗi cho loài người. Đấng đã bị chôn trong mồ và ngày thứ ba sẽ sống lại như lời Thánh Kinh. Thánh nhân cũng ghi lại những lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra cho các tông đồ, cho thánh Giacôbê, thủ lãnh của cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem và cho năm trăm môn đệ của cộng đoàn Kitô hiện thời. Và sau cùng, Chúa Kitô Phục sinh cũng đã hiện ra với thánh nhân trên đường Đamas, nghĩa là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh là một kinh nghiệm sống động chớ không phải là một chuyện trừu tượng không chứng cớ. Kẻ sinh sau đẻ muộn thánh Phaolô, các biến cố đổi đời và ơn gọi của ngài là một cuộc tái sinh, bất ngờ gặp gỡ, không thể tưởng tượng được đối với một người chẳng những đã không tin vào Chúa Kitô mà lại còn bắt bớ thù ghét Chúa nữa. Trên con đường lòng tin, thánh nhân giống như một bào thai bị phá hoại và phải chết xa lòng mẹ. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với Chúa Kitô Phục sinh chẳng những đã trao ban cho thánh nhân cuộc sống mới trong ơn thánh, và còn cho thánh nhân trở thành tông đồ nhận lãnh từ Chúa Giêsu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Ngài cho muôn dân nữa. Ơn gọi Kitô là ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đổi đời đối với Chúa Kitô Phục sinh. Những cuộc gặp gỡ ấy Chúa Kitô Phục sinh trao ban cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Ngài, và loan báo Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người. Nhưng chúng ta có sẵn lòng nhận và ra đi như tiên tri Isaia, như thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp của ngài hay không?

 

8. Lòng thương xót Chúa biến đổi con người

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chủ đề nổi bật hơn cả trong Chúa nhật thứ V mùa Thường niên là "ơn gọi". Chúa gọi Isaia (x. Is 6, 1-2a. 3,8), Phêrô (x. Lc 5,1-11) và Phaolô (1Cr 15,1-11). Cả ba đều thú nhận mình bất xứng, nhưng họ đã tin tưởng vào lòng thương xót và tha thứ, nhất là quyền năng của ơn thánh Chúa và sự đáp trả cách quảng đại của con người. Quả là lòng xót thương của Thiên Chúa biến đổi con người.

Chúa gọi Isaia

Trong một thị kiến uy nghi, Isaia cảm thấy mình hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa ba lần Thánh, khiến ông hoảng sợ và nhận ra sự vô phúc, bất xứng của chính mình. Nhưng một Thiên Thần Sốt Mến đã cầm cục than cháy đỏ thanh tẩy môi miệng ông, đồng thời xóa bỏ tội lỗi của ông: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha" (Is 6,7). Thế rồi ông cảm thấy sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi, và thưa: "Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con" (x. Is 6,8). Sự thứ tha và lòng quảng đại của Thiên Chúa đã biến đổi Isaia thành đại ngôn sứ của Thiên Chúa.

Chúa gọi Phêrô

Tâm trạng trên cũng xảy ra trong câu chuyện mẻ cá lạ lùng được Luca thuật lại. Chúa Giêsu bước xuống thuyền của Simon, rồi ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng, có Simon ở bên để giữ cho thuyền khỏi tròng trành, còn Chúa Giêsu thì cố gắng giảng dạy đám đông. Về phương diện thể lý, Simon gần Chúa hơn, ông nghe Chúa rõ lời Chúa và lời Chúa thấm nhập vào ông. Vừa giảng xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá" (Lc 5,4). Phản ứng của Simon là: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc 5,8). Lời Chúa Giêsu tác động mạnh lên Phêrô, đặt ông vào tình thế phải thả lưới bắt cá tiếp, dù kinh nghiệm ngư phủ là không thể. Phêrô tin vào lời Chúa Giêsu, đức tin được nuôi dưỡng bằng tình Thầy trò, đức tin tái tạo cái mới và tôn vinh khả năng của con người. Ông tin Chúa, nên bắt được một mẻ đầy cá.

Bảo Phêrô: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu", là Chúa muốn ông bước ra ngoài sự toàn, thói quen, chắc chắn, "và thả lưới bắt cá". Ðứng trước sự lạ lùng ấy, Simon Phêrô đã không ôm choàng lấy Chúa Giêsu để bầy tỏ lòng biết ơn vì thu lượm được nhiều cá quá sức mong đợi. Nhưng, theo như thánh sử Luca ghi lại, ông đã quỳ xuống trước mặt Người và thưa: "Lạy Chúa, xin tránh xa con đi, bởi vì con là một kẻ tội lỗi"(Lc 5,8). Chúa trấn an: "Ðừng sợ:từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta" (Lc 5,10); ông đã từ bỏ tất cả để đi theo Người.

Chúa Giêsu thật nhân lành! Phêrô, kẻ chài lưới, được Chúa gọi và trở nên nhà hùng biện đáng được ca ngợi nếu ông hiểu được công việc chài lưới người. Đó là tại sao thánh Phaolô gửi cho các tín hữu tiên khởi và nói: "Hãy coi đến, hỡi anh em, việc anh em được kêu gọi! Hẳn không có mấy người khôn ngoan xét theo xác thịt, không mấy người quyền thế, không mấy người tôn quí. Nhưng chính những điều thế gian coi là điên rồ, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc hạng khôn ngoan; và những điều thế gian coi là yếu đuối, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ.Những điều thế gian cho là ti tiện, là không đáng kể, thì Thiên Chúa đã chọn, những điều không không, để hủy ra không những điều có" (1Cr 1,26-28).

Vì nếu Chúa Giêsu chọn người hùng biện trước, người ấy có thể nói, "Tôi đã được chọn vì tài hùng biện của tôi" Nếu Chúa chọn làm một thượng nghị sĩ, thượng nghị sĩ có thể nói, "Tôi được chọn vì cấp bậc của mình". Sau cùng, nếu Chúa chọn một hoàng đế, hoàng đế có thể nói, "Tôi được chọn vì khả năng của mình".

Chúa gọi Phaolô

Phaolô, khi nhớ lại rằng mình đã từng là một kẻ bách hại Giáo hội, ông thú nhận mình không xứng đáng được gọi làm tông đồ, nhưng ông nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu Phục Sinh đã thương xót ông và đã thực hiện nơi ông những điều kỳ diệu, và bất chấp con người có giới hạn của ông, Chúa còn trao cho ông nhiệm vụ và vinh dự được loan truyền Tin Mừng (x. 1Cr 15,8-10). Há chẳng phải lòng thương xót Chúa biến đổi con người ông sao?

Kinh nghiệm cuộc đời

Trong cả ba kinh nghiệm kể trên, chứng tỏ con người dù nghèo nàn và bất xứng, giới hạn và tội lỗi, kể cả mỏng dòn. Nhưng nếu gặp được Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng xót thương và tha thứ, Chúa sẽ biến đổi con người. Isaia, Phêrô và Phaolô đã làm gương cho tất cả những ai được Chúa gọi thì hãy nhìn vào Chúa và lòng khoan nhân của Người, để thay lòng đổi dạ và hân hoan từ bỏ tất cả mọi sự vì Người.

Đây là lúc chúng ta kiên định và tin tưởng vào Lời hứa của Đấng đã không bao giờ bỏ chúng ta mồ côi. "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới"(Lc 5,5). Câu trả lời của Phêrô tương tự như lời của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: "Người bào gì thì phải làm theo" (Ga 2,5). Phải tin tưởng và thi hành thánh ý Chúa, nỗ lực của chúng ta mới hữu ích. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô thật đơn giản nhưng sâu sắc, chúng ta có thể lấy làm của riêng của mình: giữa nơi sóng cả ba đào trong một thế giới tội lỗi, chúng ta đấu tranh và lội ngược dòng, tìm cách để loan báo Tin Mừng cách tốt nhất.

Mượn lời Phêrô chúng ta thưa Chúa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi" (Lc 5,8). Thánh Irênê nói: ai nhận thức được bản chất tội lỗi của mình, thì người ấy có khả năng nhận biết tình trạng tạo vật của mình nữa. Chỉ có những người như Phêrô, mới chấp nhận những giới hạn của chính mình và nhận những thành quả tông đồ của mình. Chúa đã kêu gọi các Tông Đồ để trở thành kẻ lưới người, nhưng ngư dân đích thực chính là Chúa: trò giỏi không chỉ giỏi chài, mà còn bắt cá người giỏi. Điều này chỉ có hậu nếu chúng ta liều bỏ tất cả để theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, chúng con phó thác đời chúng con cho Mẹ. Xin Mẹ gợi lên nơi mỗi người chúng con lòng ước muốn đáp lại "Xin Vâng" với Chúa trong niềm hân hoan vui sướng. Amen.

 

9. Mau mắn đáp lời Chúa gọi

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

"Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài"

(Lc 5,11)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Từ Chúa nhật đầu mùa Thường niên, chúng ta đã từng bước đi theo hành trình sứ vụ của Chúa Giêsu. Hôm nay Phụng vụ dẫn chúng ta tới lúc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan. Điểm đáng chú ý trong chuyện này là các ông đã mau mắn bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa.

Ngày hôm nay Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng Ngài và hãy mau mắn đi theo Ngài.

II. Gợi ý sám hối

Vì mải mê lo những công việc thế tục, chúng ta đã phớt lờ đi những lần Chúa lên tiếng kêu gọi chúng ta.

Có nhiều thứ chúng ta quá quyến luyến nên không thể từ bỏ mặc dù biết là nó xấu.

Cũng như thánh Phêrô ngày xưa, giờ đây chúng ta hãy khiêm tốn thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi".

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Is 6,1-8)

Tường thuật ơn gọi của Isaia. Chúng ta hãy để ý đến tâm trạng và phản ứng của ông:

Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong Đền thờ. Qua những hiện tượng đặc biệt như cảnh các thiên thần tung hô, các cửa đền thờ rung chuyển, đền thờ nghi ngút khói v.v. Isaia, biết là có Thiên Chúa đang hiện diện.

Cảm giác đầu tiên của Isaia là thấy mình quá tội lỗi khi đứng trước Thiên Chúa thánh thiện.

Nhưng khi Thiên Chúa sai một thiên thần thanh tẩy Isaia và sau đó mời gọi ông làm ngôn sứ, thì Isaia đã mạnh dạn đáp lời.

2. Đáp ca (Tv 137)

Đây là bài ca được hát trong đền thờ, "giữa chư vị thiên thần, con đàn ca kính Chúa". Thánh vịnh này rất hợp với tâm tình của Isaia khi được Chúa kêu gọi.

3. Tin Mừng (Lc 5,1-11)

Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22:

Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.

Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nễ lời Ngài nên ông thả lưới.

Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.

Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.

4. Bài đọc II (1 Cr 15,1-11)

Nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm tông đồ.

Để trả lời họ, Phaolô nói rằng tất cả những gì ông rao giảng đều là những gì ông đã lãnh nhận từ giáo huấn của Chúa Giêsu. Phaolô cũng chứng mình rằng chính Chúa Giêsu đã chọn ông như đã chọn các tông đồ khác.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Chúa gọi

Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu được rất nhiều điều về ơn gọi.

a/ Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa kêu gọi con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được "thấy" Chúa và được Ngài "gọi" (bài đọc I). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được gọi (bài đọc II). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin Mừng). Đúng như lời Chúa Giêsu nói: "Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con".

b/ Có khi ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đặc biệt với Chúa. Cuộc gặp gỡ đặc biệt làm nẩy sinh một cảm nghiệm sâu sắc. Rồi cảm nghiệm sâu sắc cuốn hút con người vào một tương quan thân thiết mới mẻ với Chúa. Như trường hợp của Isaia, ông vẫn biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và mạnh mẽ hơn các thần khác. Nhưng hôm ấy trong Đền thờ ông biết thêm rằng Ngài là Đấng hoàn toàn khác, là Đấng thánh gấp 3 lần. Điều đó khiến ông xúc động mạnh. Ông diễn tả cảm xúc mạnh mẽ ấy qua những hình ảnh các trụ của đền thờ rung chuyển và khói tỏa mịt mù khắp Đền thờ. Còn Phaolô thì mô tả việc Chúa gọi ông đột ngột như "một đứa trẻ sinh non" trước khi đủ ngày đủ tháng. Phần Phêrô, mẻ cá lạ làm ông chợt nhận ra Chúa Giêsu không phải chỉ là con người mà còn là Đức Chúa, đồng thời ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Ông đã thốt lên "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".

c/ Nhưng nhiều khi Chúa gọi con người trong những hoàn cảnh rất bình thường. Như Phêrô và các bạn khi ấy đang làm công việc thường ngày là đánh cá. Hoàn cảnh thì bình thường, nhưng ý nghĩa lại đặc biệt: nó khiến con người khám phá một chân lý quan trọng, nó thôi thúc con người làm một cuộc lựa chọn mới mẻ chuyển hướng cả cuộc đời. Hôm đó Phêrô và các bạn đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa Giêsu.

Dù gặp Chúa trong hoàn cảnh đặc biệt hay trong cuộc sống bình thường, hễ gặp được Chúa thì cuộc đời chắc chắn sẽ biến đổi.

* 2. Bất xứng và tín nhiệm

Ba bài tường thuật ơn gọi hôm nay đều có những nét giống nhau:

Tất cả những người được gọi đều cảm thấy bất xứng: Isaia thốt lên "Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế"; Phaolô tự nhận "Tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa"; Phêrô thì sấp mình xuống dưới chân Chúa Giêsu "Lạy Chúa xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi".

Nhưng tất cả đều được Thiên Chúa tín nhiệm: Isaia được trao sứ mạng ngôn sứ; Phêrô được chọn làm tông đồ; Phaolô được sai đi làm tông đồ cho lương dân.

Dù biết mình bất xứng mà Thiên Chúa vẫn tín nhiệm, nên các ngài đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng được trao phó: Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa "Dạ con đây, xin sai con đi"; Phêrô "đưa thuyền vào bờ rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài"; Phaolô dám khoe "Tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi".

* 3. Thành quả vàng son

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?

Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì".

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: "Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?"

***

Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.

Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: "Vì lời Thầy con sẽ thả lưới" (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi" (Lc 5,8).

Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.

Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.

"Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.

Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy: "Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới", nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.

Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: "Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn" (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy sai con". Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô: "Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta" (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.

Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã "bỏ mọi sự mà đi theo Người " (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.

Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.

***

Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.

Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc)

* 4. Thất bại và thành công

Phêrô và các bạn "đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Chán nản, mỏi mệt, các ông không đánh cá nữa và đi giặt lưới.

Cho dù đã làm hết sức mình nhưng con người vẫn có thể gặp thất bại. Người học sinh luyện thi rất chăm chỉ, nhưng rồi thi rớt. Vận động viên thể thao cố gắng chơi hết sức mình, vậy mà lại thua. Cha mẹ đã làm tất cả để giáo dục con nên người tốt, nhưng nó lại làm người xấu. Hầu hết chúng ta đều có khi gặp thất bại như thế.

Khi Phêrô và các bạn bị thất bại, Chúa Giêsu có thể trách các ông "Các anh đã hành nghề bao nhiêu năm trời rồi, thế sao đánh lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào hết vậy?" Nhưng Ngài đã không trách. Tại sao? Vì Ngài thông cảm với các ông. Đã cố gắng hết mình rồi mà vẫn thất bại, điều đó đã làm các ông đau khổ lắm rồi. Không cần trách móc để các ông càng đau khổ thêm. Thất bại đã là một vết thương, không cần sát muối vào cho nó càng xót xa thêm.

Điều người ta cần khi bị thất bại là có ai đó vẫn tin mình, an ủi mình và khuyến khích mình vươn lên. "Thất bại không phải là ngã quỵ, mà là không chịu vươn lên".

Vả lại, thành công là gì? Thành công không phải là tất cả. Ta có thể thành công cãi thắng một cuộc tranh luận, nhưng rồi bị mất một người bạn. Ta có thể thành công trong cuộc tranh dành một địa vị cao hơn, nhưng sau đó các mối tương quan với đồng nghiệp trở thành lạnh nhạt hơn. Hương vị của ly rượu thành công có thể rất ngọt ngào ngây ngất ngay lúc đó, nhưng về sau hầu hết đều cạn dần và cuối cùng là trống rỗng.

Chúa Giêsu không trách Phêrô và các bạn, nhưng Ngài không cho các ông cứ ở đó mãi để gậm nhấm nỗi chua cay. Ngài kích thích họ làm lại: "Hãy chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá".

Emerson nói rằng mỗi người chúng ta đều có một tiềm năng to lớn, giống như một căn phòng, một vòi nước chưa bao giờ được mở ra. Cần có ai đó chỉ cho ta biết tiềm năng đó và khuyến khích chúng ta mở ra: "Hãy chèo ra chỗ nước sâu".

Chúa Giêsu biết Phêrô yếu đuối tội lỗi, nhưng Ngài cũng biết ông có khả năng làm được những việc to lớn. Ngài không kích thích chỗ yếu đuối tội lỗi của ông, nhưng kích thích đúng vào tiềm năng của ông. Nhờ được kích thích, các ông đã thả lưới bắt được nhiều cá. Sau đó các ông còn hăng hái bỏ mọi sự để theo Ngài thả lưới bắt người.

Con người thường thất bại. Nhưng con người cần có người tin tưởng và khuyến khích để lại vươn lên, vì "Từ thành công đền thất bại chỉ là một bước. Nhưng từ thất bại đến thành công là cả một con đường dài" (Yiddish) (FM)

* 5. "Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới"

Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô "Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá", có lẽ ông đã vặn lại "Bộ anh khùng hả? Anh muốn cho tôi thành trò cười cho các bạn chài khác sao? Đã thả lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng".

Nhưng vì người nói câu đó là Chúa Giêsu nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của mình "Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả", nhưng liền sau đó thì vâng lời "Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới". Đối với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời của những người khác, vì nó có uy tín mà lời của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo, thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng phải vâng theo.

Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.

Chúa Giêsu chẳng những bảo ông thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia xẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có đức tính gì mà được Chúa Giêsu mời gọi như thế? Đức tính thứ nhất và quan trọng nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là Tin vào Lời Ngài. Đức tính thứ hai là Khiêm tốn.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay không chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn "Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta".

Mọi kitô hữu chúng ta cũng đều được Chúa gọi như Phêrô. Và điều quan trọng nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta là tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. (FM)

* 6. Một bước khởi đầu tốt đẹp

Isaia, Phaolô và Phêrô là những gương mặt trung tâm của các bài đọc hôm nay. Cả ba đều đã làm được những việc trọng đại cho Chúa. Tuy nhiên cả ba, ai cũng mang mặc cảm thấp hèn, coi mình là người yếu kém. Các ngài không tự mình tiến lên phía trước, nhưng được Chúa mời gọi tiến lên. Các ngài đáp lại tiếng Chúa gọi một cách miễn cưỡng vì biết mình không xứng đáng.

Bước đi đầu tiên với nhận thức về thân phận bất xứng của mình, xét theo phương diện đạo đức, đó là một bước khởi đầu rất tốt. Người nào quá tự tin tiến về phía trước thì thường làm hại hơn là làm tốt, vì người đó dựa vào khả năng của mình và tìm kiếm vinh dự cho mình. Kiêu căng và tự phụ chỉ là cát, mà xây nhà trên cát thì sẽ sụp đổ thôi.

Ngược lại, khi ta gặp người nào biết sợ, biết lo thì ta có thể tin tưởng người đó. Thánh Phaolô nói một câu rất nghịch lý: "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10). Nghịch lý nhưng rất có lý, bởi vì khi Ngài biết mình yếu thì Ngài tìm về Chúa, và chính sức mạnh của Chúa làm cho Ngài mạnh.

Khi ta biết mình yếu, Chúa sẽ thêm sức cho ta. Khi ta biết mình trống rỗng, Chúa sẽ đong đầy cho ta. Khi ta biết mình nghèo nàn, Chúa sẽ làm giàu cho ta. Khi đó ta sẽ có thể làm được công việc của Ngài, và Ngài sẽ hoàn thành trong ta những điều ta không làm nổi.

Khiêm tốn là một bước khởi đầu tốt. Nhưng không phải vì thế mà ta cứ khăng khăng chối từ. Như thế chỉ là hèn nhát, lười biếng và ích kỷ. Cứ như thế thì ta không thể cứu nổi mình, càng không thể cứu ai khác. Isaia nói rằng môi miệng ông ô uế, nhưng Chúa đã sai thiên thần lấy than hồng thanh tẩy miệng ông. Phêrô xin Chúa lánh xa ông, nhưng Chúa gọi ông chia xẻ sứ mạng của Ngài. Chúa không chê bỏ người tội lỗi, trái lại Ngài đến với những kẻ tội lỗi, để cứu họ, và để mời họ hợp tác cứu những người tội lỗi khác. Chúa giúp những người tội lỗi đi bước đầu.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn để nhận biết sự yếu đuối của mình. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta vượt lên sự yếu đuối ấy. Rồi chúng ta hãy mạnh dạn làm theo Lời Ngài dạy bảo. Khi đó chúng ta sẽ vui mừng cảm nhận được như Phaolô là "khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (FM)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, vì yêu thương mà Chúa đã chọn chúng ta làm người Kitô hữu, làm tông đồ của Chúa. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh là Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tuôn đổ ơn Thánh thần xuống trên Hội thánh / để Hội thánh ngày càng được tinh tuyền / vững mạnh / và phát triển không ngừng.

2. Hằng năm / thiên tai vẫn hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho mưa thuận gió hòa / để mọi người được sống trong cảnh an cư lạc nghiệp.

3. Chúa Giêsu bảo thánh Phêrô: / Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho những anh chị em đã từ bỏ mọi sự mà dấn thân theo Chúa hiểu rằng / nếu vâng theo thánh ý Chúa / họ sẽ thu được những kết quả bất ngờ.

4. Đời sống đức tin của người Kitô hữu / không chỉ giới hạn trong việc đọc kinh / tham dự thánh lễ / lãnh nhận các bí tích ở nhà thờ / mà còn phải thể hiện ngoài xã hội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin của mình / bằng đời sống bác ái yêu thương đối với hết thảy mọi người.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi chúng con từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa. Xin cho tất cả chúng con luôn cố gắng thực hiện lời mời gọi quan trọng ngày. Chúng con cầu xin...

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu mang Tin Mừng cứu độ cho loài người. Chúa Giêsu lại kêu mời chúng ta chia xẻ sứ mạng ấy. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha.

VII. Giải tán

"Hãy ra khơi thả lưới". Đó là lời Chúa mời gọi chúng ta. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại như Phêrô xưa. Chúc anh chị em ra đi bình an.

 

10. Hãy chèo ra chỗ nước sâu – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Tại sao Chúa Giêsu chọn bốn môn đệ đầu tiên trong hàng ngũ những người đánh cá? Ngài có dụng ý gì chăng? Phải chăng tiêu chí đầu tiên cần cứu xét để tuyển chọn tông đồ là phải dạn dày sương gió, phải sẵn sàng xông xáo giữa biển đời đầy bão tố cuồng phong?

Có lẽ chính vì đã quen chịu nhọc nhằn trên biển cả, nhiều phen đối đầu với bão táp, thách thức với cuồng phong mà Simon và các bạn chài của anh đã "lọt vào mắt xanh" của Chúa Giêsu.

Nhưng trước khi kêu gọi Phêrô và các bạn chài của anh dấn bước vào công cuộc loan báo Tin Mừng đầy gian khổ, Chúa Giêsu muốn dạy cho các anh bài học vỡ lòng. Ngài truyền cho các anh chèo ra chỗ nước sâu...

Dù mệt mỏi và chán nản vì phải lao nhọc suốt đêm mà chẳng được tích sự gì, các anh vẫn vâng lời Chúa Giêsu để ra khơi, để chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Nhờ đó, các anh đã trúng một mẻ cá rất tuyệt vời. Qua đó, các anh học được bài học đầu tiên: Muốn bắt được nhiều 'tôm cá', thì hãy vâng lệnh Chúa chèo thuyền ra 'chỗ nước sâu'.

Cuộc ra khơi của Chúa Giêsu

Ngự trên ngai trời mà cứu thế, mà phán dạy loài người, hay ít ra, dùng các tiên tri mà phán dạy, thì 'đỡ khổ' hơn nhiều. Nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã không làm như thế.

Ngài đã rời bỏ bờ bến an toàn và đầy đủ tiện nghi, đã bỏ hết mọi sự lại đằng sau để ra khơi. "Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân". (Philíp 2, 6-7)

Ngài phải mạo hiểm đến chỗ nước sâu nhất: sinh ra trong máng cỏ thấp hèn, đến ngụ nhờ nhà người tội lỗi, hoà mình với những người tội lỗi để xin nhận phép rửa bên bờ sông Gio-đan, chịu chết đau thương tủi nhục giữa những tên gian phi, chịu mai táng trong mồ...

Rồi, thay vì yên vị trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mà giảng dạy hoặc ít ra ngồi giảng trong các hội đường vào các ngày sa bát như các ráp-bi Do Thái, Chúa Giêsu đã xông xáo vào khắp hang cùng ngõ hẽm để loan Tin Mừng: trên triền núi, giữa đồng hoang, bên bờ giếng, bên bãi biển, bờ hồ...

Cuộc ra khơi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Noi gương Chúa Giêsu, vị đại diện của Ngài là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu vừa nguy hiểm. Qua 26 năm trong triều đại giáo hoàng, Ngài đã thực hiện 104 chuyến công du ngoài nước Ý và 146 chuyến công du trong nước Ý (không tính Rô-ma), thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền Thờ Hồi Giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.

Tính ra, Ngài đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.

Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những 'miền đất thánh' của Phật giáo, Án giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng ngài đang bị hăm doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy, những nơi sóng gió... mà không hề biết sợ là gì, miễn là Tin Mừng được loan báo.

Nối gót Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II, vị Giáo Hoàng đương kim Bênêđictô, cuối tháng 11 năm 2006 vừa qua đã thực hiện chuyến viếng thăm Thổ-nhĩ-kỳ đang lúc tại đây đang nổi lên làn sóng chống đối ngài mãnh liệt và nhiều người quá khích hăm doạ sẽ giết ngài bằng mọi giá khiến cho nhiều người hết sức quan ngại.

Hội Thánh đang mời gọi chúng ta ra khơi

Trong tông thư Novo Millennio Ineute được công bố vào ngày kết thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phaolô II khẩn thiết kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy 'Chèo ra chỗ sâu' (Lc 5, 4) để thả lưới, vì 'một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt Hội Thánh như là một biển cả mà chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa' (số 58)

Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam triều yết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân chuyến đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 22-1-2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời gọi Giáo Hội Việt Nam hãy ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: 'Giáo Hội Việt Nam được mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức quan tâm rao giảng Tin Mừng và truyền giáo...'

Thủ lãnh của chúng ta là Chúa Giêsu đã dấn thân vào chỗ nước sâu như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng như Bênêđictô đã anh dũng ra khơi như thế... thì với tư cách là thân mình của Đức Kitô, chúng ta không còn chọn lựa nào khác là cùng chèo ra chỗ nước sâu với Chúa Kitô, cùng ra khơi với Hội Thánh.

Lạy Chúa, con xin thú lỗi với Chúa là con chỉ muốn bám chặt đất bằng cho yên ổn và chẳng hề muốn ra khơi, vì ra khơi thì nhọc nhằn quá, phải hy sinh nhiều thứ quá mà đời sống lại rất đỗi bấp bênh và dẫy đầy nguy hiểm.

Ước gì cuộc 'ra khơi' vĩ đại của Chúa sẽ là một nhắc nhở không ngừng để con noi theo mà dấn bước.

Ước gì tấm gương chèo ra chỗ nước sâu đầy hiểm nguy sóng gió của Đức Thánh Cha là một thôi thúc liên tục thúc giục con lên đường đến với anh em con.

 

11. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Những ngày cuối năm, thông thường các Sr. các Thầy đã khấn trọn đời trong năm qua được về quê nghỉ tết và dâng lễ tạ ơn.

Năm nay, Giáo xứ chúng ta vinh dự có 5 thánh lễ tạ ơn cho 3 Sr. và 2 Thầy. Đây là niềm vui cho Giáo xứ, gia đình và đặc biệt là niềm vui cho bản thân các tân vĩnh khấn. Trong lời cám ơn sau lễ, hầu hết các tân khấn sinh đều bày tỏ tâm tình của mình về tình thương cao cả của Thiên Chúa trước sự bất xứng của thân phận con người.

1. Ơn gọi là một huyền nhiệm

Thật vậy, ơn gọi nói chung và nhất là ơn gọi đi tu là một huyền nhiệm. Ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”(x. Ga 15,16). Thiên Chúa luôn đi bước trước để tuyển chọn con người. Cụm từ “hãy theo Ta” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh. Thiên Chúa chọn Isaia làm tiên tri. Thiên Chúa chọn Phaolô làm Tông đồ dân ngoại. Thiên Chúa chọn Phêrô làm kẻ chài lưới người. Thiên Chúa chọn tôi, chọn anh chị em làm việc nọ việc kia. Mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi để giao trách nhiệm tuỳ hoàn cảnh và địa vị của mình.

2. Trước Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy bất xứng

Nhưng, đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy bất xứng.

Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, trước nhan Thiên Chúa ba lần Thánh, tiên tri Isaia đã tự nhận mình là kẻ bất xứng, ông thốt lên rằng: "Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh"(Is 6,5).

Bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô cũng đã nhận mình là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông đồ. Ngài cho mình là kẻ bất xứng không đáng làm Tông đồ, Ngài nói: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông đồ, và không xứng đáng được gọi là Tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa”(1Cr 15,9).

Bài Tin mừng Thánh Luca kể lại, sau khi thấy mẻ cá lạ lùng, Phêrô cảm thấy mình tội lỗi, không xứng đáng đứng gần Chúa. Ngài đã thốt lên với Chúa Giêsu rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi"(Lc 5,8).

Đối với chúng ta, chắc chắn ai cũng cảm thấy bất xứng, vì không ai hoàn hảo.

3. Thiên Chúa biến sự bất xứng thành khí cụ của Ngài

Thiên Chúa đã làm cho Isaia trở thành một tiên tri, Thần Sốt Mến đã nói với Isaia rằng: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha"(Is 6,7). Và khi nghe tiếng Chúa phán: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?"(Is 6,8). Isaia đã mạnh dạn thưa với Chúa rằng: “Này con đây, xin hãy sai con”(Is 6,8). Isaia đã trở thành một tiên tri lớn, một tiên tri vĩ đại trong thời Cựu Ước.

Thiên Chúa cũng đã biến Phaolô từ một người bắt bớ Giáo Hội trở thành vị Tông đồ dân ngoại. Chính thánh Phaolô đã nói: “Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi”(1Cr 15,10).

Còn Phêrô, từ một người làm nghề đánh cá, Chúa đã biến ông thành một Tông đồ đánh bắt các linh hồn. Từ một người đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, trở thành người làm đầu Hội Thánh, vị Giáo Hoàng đầu tiên. Thật là kỳ diệu. Thiên Chúa biến sự bất xứng của con người thành khí cụ của Ngài. Đối với Ngài, “Không có gì mà Ngài không làm được”(Lc 1,37).

4. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người

Thánh Augustinô nói một câu rất nổi tiếng: “Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con”. Mặc dầu, Thiên Chúa ban ơn để biến đổi con người từ bất xứng trở thành khí cụ hữu hiệu của Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn cần sự cộng tác của con người. Khi nghe Thiên Chúa mời gọi, Isaia đã sẵn sàng đáp trả và dấn thân trong sứ mạng tiên tri.

Cũng vậy, sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”(Cv 22,10). Sau đó, Phaolô đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa: Lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy bởi ông Anania. Cố gắng hoà nhập với các Tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi. Đặc biệt, Phaolô đã dùng khả năng và cống hiến sức lực của mình để loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Có thể tóm tắt sự cộng tác của Ngài với ơn Chúa qua chính lời Ngài kể trong thư 2 Côrintô sau đây: “… Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).

Với Thánh Phêrô, mặc dầu đang yên bề gia thất, nghề nghiệp ổn định...Nhưng Ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ngài đi theo Chúa trong suốt thời gian ba năm, được Chúa huấn luyện, uốn nắn. Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó đã ăn năn khóc lóc, hối hận về hành động của mình. Trước khi đặt làm đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô ba lần, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đã không ngần ngại thưa lên rằng: “Lạy Thầy, con yêu mến Thầy”(x. Ga 21, 15-19). Phêrô đã thực sự yêu mến Chúa hết lòng hết sức, Ngài cống hiến hết mình vì sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội thuở ban đầu.

5. Với chúng ta hôm nay

Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta cũng là những người bất xứng, tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa thương mời gọi chúng ta gia nhập Giáo hội. Dầu là linh mục, tu sỹ hay giáo dân, chúng ta phải biết cộng tác với ơn Chúa để chu toàn bổn phận của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa giao cho chúng ta sứ mạng tư tế, vương đế và ngôn sứ. Chúa mời gọi chúng ta đóng góp phần mình trong công cuộc xây dựng và phát triển Giáo Hội. Mỗi chúng ta có trách nhiệm Phúc Âm đời sống chính mình, Phúc Âm hoá đời sống gia đình, Phúc Âm hoá đời sống xã hội, để qua chúng ta mọi người sẽ biết và tin yêu Chúa. Đặc biệt, đối với mỗi người giáo dân, sống giữa lòng xã hội và thế giới, Công Đồng Vaticanô II đã dạy rằng: “ …Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian” (LG, số 33)

Lạy Chúa, con có thể thưa với Chúa như tiên tri Isaia, như Phaolô hay như Phêrô. Vì con cảm thấy mình yếu kém hơn nhiều so với các Ngài. Nhưng tin tưởng vào Chúa, con mạnh dạn dùng khả năng và những gì Chúa ban cho con để phục vụ Chúa và Giáo hội. Xin Chúa luôn đồng hành và giúp đỡ con. Amen.

 

12. Lợi ích của vâng lời - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người ta vẫn thường nói: "sau đêm dài là ánh bình minh". Cuộc đời không phải lúc nào cũng tối tăm. Có những lúc tưởng như vô vọng nhưng dịp may lại đến với chúng ta. Có những lúc tưởng như không còn lối thoát nhưng bàn tay kỳ diệu của Đấng Tạo hoá đã kịp thời mở lối cho chúng ta.

Lời Chúa hôm nay kể về một câu chuyện rất đời thường của những người dân nghèo thuyền chài miền Galilêa. Họ vật vã với sóng gió biển cả suốt đêm. Họ luôn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy. Thế nhưng lưới vẫn nhẹ, thuyền vẫn rỗng vì chẳng bắt được con cá nào. Ánh bình minh hôm nay không đem lại cho họ niềm vui. Niềm hân hoan của ngày mới không đến với họ. Họ thất vọng nhiều hơn vui. Một đêm vất vả chẳng được gì là dấu chỉ cho một ngày cơm bữa no bữa đói. Lòng buồn vời vợi. Họ ngồi giặt lưới trong tâm trạng nặng trĩu những âu lo. Thuyền lứơi của họ xem ra đã vô dụng. Bỗng dưng Thầy Giêsu lại muốn sử dụng chiếc thuyền của họ. Chúa mượn thuyền của Phêrô. Con thuyền mà Phêrô tưởng chừng như chẳng giúp ích gì cho ông. Thuyền đánh cá nhưng có được con cá nào đâu? Chúa mượn thuyền Phêrô không phải để đánh cá mà dùng làm phương tiện rao giảng tin mừng. Cuối đoạn tin mừng Chúa lại mượn luôn con người Phêrô làm kẻ chuyên lo chài lưới người.

Xem ra những thất bại trong cuộc đời luôn là cơ hội để chúng ta thay đổi cuộc sống. Vì Thất bại là mẹ thành công. Thất bại để hiểu rõ sự thật, để hiểu rõ con người và lượng giá sức người cho phù hợp với khả năng để tiến tới thành công. Phêrô đã thay đổi phận số đời mình từ ngày ông cho Chúa mượn chiếc thuyền làm phượng tiện rao giảng Tin mừng. Từ ngày Phêrô vâng lời Thầy Giêsu chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá xem ra đã thay đổi mọi suy nghĩ của Phêrô. Phêrô từ đó đã đi theo Chúa. Phêrô từ đó càng hiểu hơn về giá trị của vâng lời. Vâng lời Thầy là tin tưởng hoàn toàn vào Thầy. Vâng lời là nhìn nhận sự yếu kém bất toàn của mình để làm theo lời Thầy chí thánh mà có lần ông đã tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa". Vâng lời Thầy là làm tất cả những gì Thầy muốn Phêrô làm. Phêrô đã thành công khi vâng lời thầy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Ông đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một mình Phêrô không mang về hết phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp. Mẻ cá này là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.

Vâng, những thất bại trong cuộc đời. Những cay đắng trong cuộc sống đôi khi thật cần thiết để hoàn thiện con người chúng ta. Có những người suốt đời gặp toàn điều may lành có lẽ họ không cảm thấy sự bất toàn của mình để khiêm tốn sống đúng với con người thật của mình. Vì "biết người biết ta trăm trận trăm thắng". Không biết rõ mình nên khó có thể đứng vững trước nguy nan, trước sóng gió cuộc đời. Khi con người biết rõ giới hạn của mình là lúc con người sống khiêm tốn để cần sự trợ giúp của tha nhân, nhất là của Thiên Chúa.

Nhà bác học Archimède đã từng nói: "Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên". Kinh nghiệm cho thấy: cho dù phiến đá đồ sộ to lớn mấy chăng nữa! nếu đòn bẩy có điểm tựa sẽ dễ dàng lăn tảng đá rời khỏi vị vị. Archimède đã dựa vào kinh nghiệm rất đời thường để xác tín điều đó. Ở đời cũng vậy, có nhiều việc tưởng chừng như sẽ bỏ dở dang, thế nhưng nhờ ơn trời và sự trợ giúp của nhiều người công việc đã tiếp diễn thật tốt đẹp, ngoài sức tưởng tượng. Và đôi khi cũng có nhiều ngừơi xem ra bất tài vô dụng nhưng họ vẫn thành công khiến chúng ta sững sờ ngạc nhiên. Sự thành công đến với họ không do tài trí của họ mà do sự trợ giúp của những người thân, của đồng nghiệp. Và trên hết đó chính là ơn ban của Chúa dành cho những ai biết tin tưởng cậy trông vào Chúa. Simon Phêrô đã dựa vào Lời Chúa mà ông đã bắt được một mẻ cá thật kỳ diệu. Các tông đồ đã dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người yếu hèn như khí cụ của Chúa.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen.

 

13. Muôn sự nhờ Trời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự.

Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Hoa tàn mà lại thêm tươi

Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa

Quả thực, “Trời còn để có hôm nay”  để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưngsau  những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào... Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.

Ngày xưa có người hỏi Socrates: “Ông là người có học vấn uyên thâm, ông có biết khoảng cách giữa trời và đất là bao nhiêu không?”

Socrates trả lời: “Khoảng 1 mét”.

Người đó không tin nói:“Thưa ông, ngoài trẻ sơ sinh ra, chúng ta ai cũng cao hơn 1m, nếu độ cao giữa trời và đất chỉ có 1m, thì chẳng phải chúng ta đã đâm vào bầu trời rồi hay sao?”

Socrates tiếp tục nói: “Đúng, ai mà chả cao hơn 1m, nếu muốn nổi bật giữa trời đất, thì phải biết cách cúi đầu”.

Hóa ra con người cần phải học cúi đầu. Cúi đầu để thấy mình không bằng ai. Cúi đầu để thấy con người mình thật hạn hẹp cần đến sự trợ giúp của Trời cao. Cúi đầu để thấy rằng mình cần sự trợ giúp của anh em. Cúi đầu để thấy mọi sự đều là ân ban của Trời mà biết sống cảm mến tri ân.

Phê-rô và các bạn chài năm xưa đã thấy quyền năng Chúa nhờ biết cúi đầu. Cúi đầu để vâng lời Thầy mà chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Họ đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một thuyền không mang về hết mà phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp.

Mẻ cá này cũng là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã nhờ ơn Chúa thánh Thần mà mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.

Các tông đồ cũng dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người vốn dĩ bất toàn vẫn làm nên những chuyện phi thường.

Cuộc đời luôn đưa đến biết bao khó khăn thử thách. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy bước đi trong niềm tín thác nơi Chúa. Chính Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Chính Chúa sẽ dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Nơi Thiên Chúa không gì mà Ngài không làm được. Ngài có đủ quyền năng để hoàn tất chương trình của chúng ta.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc, nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen.

 

14. Chúa gọi - Ta đáp trả

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Nếu mỗi một Chúa Nhật đều có một chủ đề để làm nổi bật lên ý nghĩa của Phụng Vụ được cử hành, thì Chúa Nhật hôm nay, chủ đề chính đó là nói về ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng.

Tuy nhiên, để trở thành một ơn gọi, cần phải có tương quan hai chiều, đó là: Chúa gọi và lời đáp trả của mỗi người. Nhưng để một ơn gọi có giá trị trước mặt Chúa, con người cần phải có một sự cảm nghiệm sâu sắc về tình yêu giữa Thiên Chúa và bản thân.

Đây chính là mẫu số chung cho các ơn gọi mà Phụng Vụ hôm nay đề cấp đến.

1. Ơn gọi của Isaia và các Tông đồ

Trong bài đọc I, chúng ta thấy việc Chúa chọn và gọi tiên tri Isaia qua việc Người tỏ cho ông thấy vinh quang chói lòa trong đền thờ.

Trước cảnh huy hoàng và tráng lệ đó, ông nhận ra Thiên Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện, toàn năng, trong khi ấy, Isaia là một người tội lỗi, bất xứng! Nhưng khi được Thiên Chúa thanh tẩy, khiến ông trở nên trong sạch..., rồi người gọi ông trở nên tiên tri cho Người, ông đã mau mắn đáp lại trong sự tin tưởng và đầy quyết tâm: “Có con đây, xin Chúa sai con đi” (Is 6,8).

Sang bài đọc II, thánh Phaolô trình thuật hành trình rao giảng của ngài bị nhiều người chống đối, chê bai đủ điều và cho rằng ngài không xứng đáng để trở thành Tông đồ. Phaolô không chối cãi, không đôi co hay tìm cách kháng chế, nhưng ngược lại, ngài đã luôn nhận mình là con người thấp hèn vì đã bắt bớ, hành hạ Giáo Hội một thời, hơn nữa lại được chọn và gọi sau hết so với các Tông đồ, nên bản thân chỉ như là đứa trẻ sinh non...

Nhưng nhờ ân sủng và tình thương của Thiên Chúa, nên ngài đã trở nên vị Tông đồ lừng danh về mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh.

Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ đầu tiên trong bối cảnh mẻ cá lạ nơi bờ biển.

Khởi đi từ việc Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon để làm chỗ đứng giảng dạy, rồi tiếp theo là lệnh truyền thả lưới bên phải mạn thuyền, và cuối cùng là một mẻ cá lạ!

Đứng trước những sự trùng khớp và nhiệm mầu như vậy, Simon đã sụp lạy dưới chân Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Thấy vậy, Đức Giêsu đã phán bảo các ông: “Đừng sợ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.

2. Sứ điệp Lời Chúa

Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp Lời Chúa toát lên một điểm chung, đó là: Chúa gọi và chọn những người Chúa muốn. Mọi ơn gọi đều phát xuất từ Chúa do tình thương của Người. Điều quan trọng, con người phải ý thức rằng: mình chẳng là gì trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa yêu thương và tuyển chọn. Phần còn lại, đó là đương sự cảm nghiệm được tình thương của Chúa và mau mắn đáp lại là thôi.

Chúa không chọn ai khi người đó còn đang trong tình trạng kiêu ngạo, vì thế, Người chỉ gọi và chọn những ai có một tấm lòng khiêm nhường thẳm sâu và cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình.

Mặt khác, qua phép lạ mẻ cá lạ, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy:

Trước quyền năng của Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được! Mẻ cá lạ đã minh chứng cho chúng ta thấy điều đó, đồng thời cũng cho thấy sự bất lực, giới hạn của con người, vì thế, con người có làm được việc gì là hoàn toàn dựa vào ơn Chúa.

Cá đầy thuyền là hình ảnh tiên báo về một Giáo Hội rộng khắp nơi nơi và sứ mạng loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất của người môn đệ.

Sự dứt khoát từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa của các môn đệ cho ta thấy: người môn đệ của Chúa, muốn theo Chúa thì phải dứt khoát từ bỏ những ràng buộc như tiền bạc, danh vọng, chức nghiệp và ý riêng để đi theo và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Như vậy, Chúa chọn và gọi ai thì Người sẽ cho họ cảm nghiệm được Ngài là Đấng quyền năng, yêu thương và con người là bất xứng, để những người được gọi sẽ đi từ ngỡ ngàng đến vâng phục; từ vâng phục đến niềm tin và rồi ý thức mình chẳng là gì vì bất xứng, nên chỉ là dụng cụ Chúa dùng để ra đi thi hành sứ vụ của Người mà thôi!

3. Ơn gọi của chúng ta và lời đáp trả

Từ ơn gọi của các tiên tri, đến ơn gọi của các Tông đồ và cuối cùng là ơn gọi của mỗi người chúng ta.

Câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Isaia, Phaolô, Phêrô và các bạn trong các bài đọc hôm nay, cũng là mẫu số chung cho ơn gọi của mỗi người.

Ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa chọn để trở thành Kitô hữu, thành môn đệ của Ngài và nhất là trở nên chứng nhân của lòng thương xót mà chính mình đã cảm nghiệm.

Ơn gọi đó là ơn gọi phổ quát cho hết mọi người, vì thế, sứ mạng loan báo Tin mừng không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, mà là cho hết thảy những ai đã trở thành Kitô hữu.

Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, hay nhiều khi đùn đẩy và coi như một gánh nặng, lại có khi thi hành nhưng kiêu ngạo và tự phụ...!

Tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với chúng ta là những người tin và đi theo Chúa cũng như chung chia sứ mạng với Ngài.

Thái độ cần có đối với mỗi người, đó là: khiêm nhường, ý thức mình bất xứng nhưng được Chúa thương, sẵn sàng để Người biến đổi như tiên tri Isaia, Phaolô, Phêrô...

Thiết nghĩ, với ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được tất cả. Archimède đã khẳng định: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên”.

Điểm tựa của chúng ta là chính Đức Giêsu, nếu chúng ta tựa vào Ngài, chúng ta sẽ làm được mọi chuyện. Chúng ta mặc lấy Ngài, chúng ta sẽ có sức hút lạ thường, chẳng khác gì các môn đệ bắt được một mẻ cá lạ!

Mong sao mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đều ý thức được trách nhiệm, bổn phận cao quý của mình là trở nên sứ giả cho Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!

Ước gì mỗi người biết chu toàn trách vụ trong lòng mến, để nhờ sự quảng đại dấn thân của mỗi người, chúng ta sẽ làm cho nhiều người nhận biết Chúa và tin theo Ngài để được sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu, ngày nay vẫn còn quá nhiều người chưa tin hay không biết đến Chúa. Xin Chúa ban cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội được nhiều người quan tâm, quảng đại và dấn thân để ra đi loan báo Tin Mừng cứu rỗi cho anh chị em chưa biết đến Chúa. Amen.

 

15. Được gọi cộng tác với Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Các bài đọc trong thánh lễ Chúa Nhật hôm nay đều đề cập đến ơn gọi. Tiên tri Isaia đã được thấy Thiên Chúa và cảm nhận thân phận nhơ uế của mình. Thiên Chúa đã xá tội bằng thanh tẩy đôi môi nhơ uế của Ysaya với than hồng nơi bàn thờ. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaia đã lên tiếng đáp lời: “Dạ, con đây, xin hãy sai con”. Thiên Chúa cần con người, và Isaia đã sẵn sàng đáp trả.

Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô trở nên thợ lưới người sau khi Phêrô nhận ra mình tội lỗi bất xứng ở bên Đức Giêsu: “Lạy thầy, xin xa tôi ra vì tôi là kẻ tội lỗi”: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người”. Chèo thuyền vào bờ, Phêrô và các bạn đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu. Phêrô và các bạn đã quảng đại bỏ tất cả để theo Đức Giêsu.

Phaolô đã từng giữ áo cho những người Do Thái ném đá Stephen (Cv.7, 58); ông cũng tán thành việc giết Stephen (Cv.8, 1). Tuy nhiên, trên đường đi Đamas để bắt các Kitô hữu đem về Giêrusalem trị tội, Phaolô đã được ơn trở lại. Từ đó, Phaolô là khí cụ đặc biệt Thiên Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô: “Thưa anh em, trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta… Người đã trỗi dậy và đã hiện ra với Kêpha và với nhóm mười hai” (1Cr. 15, 3-5).

Cả ba người được gọi trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều đã là tội nhân hoặc đã ý thức mình là tội nhân. Chính Thiên Chúa đã tha thứ tội cho họ, và gọi họ cộng tác với Ngài. Được Thiên Chúa mời gọi cộng tác, là vinh dự đặc biệt cho những ai đã từng phạm tội chống cưỡng Ngài. Và rồi ngay cả khi đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa mà vẫn còn vấp ngã, thì Thiên Chúa vẫn tiếp tục trung thành mời gọi con người vươn lên. Điều này cũng đúng đối với các người theo Chúa, đặc biệt như các tông đồ. Dù đã là môn đệ, Phêrô cũng có lúc chối Thầy (Mc.14, 71), và có lúc chưa can đảm sống như mình phải sống (Gl.2, 11-14). Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi những người Ngài mời gọi, cho du họ giới hạn khiếm khuyết. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn yêu thương và liên lỉ mời gọi con người cho dù họ bất trung.

Kitô hữu cũng là những người đã được Thiên Chúa mời gọi. Ngài mời gọi con người hãy sống như con cái Thiên Chúa, trở thành tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy yêu thương mọi người, để mỗi người cảm được Thiên Chúa yêu thương qua những người sống xung quanh mình.

Người đời thường tìm tiền tài, danh vọng, địa vị. Thiên Chúa mời gọi con người trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao nhiêu người nghèo cần sự giúp đỡ của người khác. Ngày nay Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng Ngài mong những người nghèo hôm nay nhận được tấm bánh từ tay anh chị em mình. Những ân nhân của người nghèo thực sự là đại diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho họ ăn và giúp họ những gì họ cần thiết qua trung gian những ân nhân này. Thiên Chúa hiện diện với tôi qua anh chị em. Phần tôi, tôi được mời gọi để trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.

Nhiều người tưởng rằng tiền của, địa vị, danh vọng chức quyền, sự thỏa mãn về thể xác làm cho người ta hạnh phúc, nên họ đã đi tìm những điều đó. Nhưng nếu biết quan sát và nhận định, họ sẽ thấy tiền bạc, danh vọng chức quyền địa vị, thỏa mãn vật chất, không làm con người được hạnh phúc đích thực. Chính khi giúp đỡ tha nhân, khi yêu thương vượt qua chính mình, khi hy sinh để giúp đỡ người khác, con người tìm được hạnh phúc thực. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng về điều này. Phục vụ làm con người hạnh phúc.

Kitô hữu được mời gọi để làm vua. Không nô lệ vật chất, làm chủ, tự do với tất cả để chỉ có Thiên Chúa là nhất đối với mình; đó là nét vua mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người. Ai thua thì bị làm nô lệ. Thiên Chúa không muốn con người nô lệ cho xác thịt, cho vật chất; Ngài mời gọi con người vượt lên, chiến thắng, làm chủ làm vua. Thiên Chúa mời gọi con người trở nên người tự do thật sự.

Kitô hữu được mời gọi để trở thành tiên tri. Tiên tri là người của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa cho con người hôm nay. Nói cho người khác biết Đức Giêsu đã phục sinh, Ngài là người của Thiên Chúa, Ngài thuộc về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Một khi con người nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng và chính yếu bắng chính cuộc sống của mình. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh bằng niềm tin và cách sống thấm nhuần đức tin của mình. Kitô hữu không phải là người không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống, cũng không phải là người không bị cám dỗ; Kitô hữu là người chia sẻ thân phận con người như bất cứ ai khác, nhưng vẫn có thái độ và cách hành xử khác với những người có lối sống không theo Tin Mừng. Kitô hữu được mời gọi sống vui và phó thác trong mọi hoàn cảnh vì họ biết Thiên Chúa yêu thương họ, và thế gian này không có giá trị tuyệt đối.

Kitô hữu được mời gọi để trở thành tư tế của Thiên Chúa, người đại diện con người tôn thờ Thiên Chúa. Cầu nguyện, dâng chính con người mình lên Thiên Chúa, là thái độ tôn thờ Thiên Chúa đích thực. Cầu nguyện phải là chính sức sống và hạnh phúc của con người. Được đại diện con người dâng lên Thiên Chúa lễ tế là chính con người mình, là một hạnh phúc của Kitô hữu. Chính khi kết hiệp với Thiên Chúa, con người được hạnh phúc đích thực.

Thiên Chúa mời gọi con người, đặc biệt là Kitô hữu, làm cho thế giới này vui hơn tươi hơn đẹp hơn, làm cho con người ngày hôm nay tin tưởng vào nhau hơn, sống vui và hạnh phúc với nhau hơn. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Xin cho Kitô hữu ý thức sứ mạng của mình, và cảm nghiệm hạnh phúc khi thực hiện sứ mạng này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn, nơi con người Đức Giêsu có gì đặc biệt không? Ơn gọi của Đức Giêsu là gì? Sứ mạng của Đức Giêsu là gì?

2. Thiên Chúa có mời gọi bạn đặc biệt điều gì không? Thiên Chúa muốn bạn sống như thế nào? Thiên Chúa mời gọi bạn làm gì cho Thiên Chúa và con người ngày nay?

 

16. Yếu đuối và sức mạnh

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An - Viết theo “Bài giảng Tĩnh Tâm Linh Mục GP Phan Thiết năm 2010”, ĐGM. Giuse Võ Đức Minh).

Đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn sứ lớn trong Cựu ước, ta sẽ thấy các ngài luôn ý thức sự thấp hèn bất xứng của mình.

- Môisen: người chăn cừu cho nhạc phụ Yethrô. Có một lần ông lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ: Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Bị cuốn hút trong khung cảnh hùng vĩ ấy, ông chạy đến để nhìn xem. Khi ông tới gần, một tiếng nói uy nghiêm từ bụi gai tuyên phán: Chớ lại gần, cởi dép ra vì đất ngươi đang đứng là Đất Thánh. Rồi Chúa gọi Môisen nhưng ông ngại ngùng thoái thác: “Lạy Chúa, tôi là ai mà dám đối đầu với Pharaon …Từ xưa tới giờ, tôi đâu có lợi khẩu, tôi chỉ là một đứa nói cà lăm… Vì thế, lạy Chúa, Chúa muốn chọn ai thì chọn, sai ai thì sai, nhưng xin tha cho tôi” (Xh 3,11;4,13). Chúa thuyết phục Môisen “cứ yên tâm! Ta sẽ ở với ngươi, cho ngươi làm phép lạ, tài ăn nói và cho cả Aaron nói thay ngươi”. Môisen đã nhận lời nhưng vẫn run sợ sứ vụ cao cả Chúa trao.

- Isaia đã kể lại ơn gọi của mình: Trong một thị kiến đã nhìn thấy Đức Chúa trong một khung cảnh huy hoàng của Đền thờ. Các Thiên Thần tung hô “Thánh! Thánh! Thánh! ĐỨC CHÚA đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”.Tôi thốt lên với tất cả nổi kinh sợ: “Khốn cho tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là ĐỨC CHÚA các đạo binh!”. Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than vào ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội”. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán; “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “dạ con đây, xin sai con đi” (Is 6,1-8).

- Giêrêmia cũng kể về việc Chúa gọi ông: Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: “ Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho dân”. Nhưng tôi thưa: “Ôi! Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Rồi ĐỨC CHÚA giơ tay chạm vào miệng tôi và phán: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng.” (Gr 1,4-10).

Các Ngôn sứ luôn có tâm trạng kinh hãi đến run sợ trước sứ vụ Thiên Chúa trao. Tại sao phải kinh khiếp và run sợ như vậy? Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình.Ý thức khoảng cách ấy làm cho con người ta run sợ.

Và trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại, ngư phủ Simon run sợ, cảm nhận sự thấp hèn trước Thiên Chúa chí thánh. Thấy mẻ cá lạ lùng, Simon Phêrô đã sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! ” (Lc 5,8). Chúa đã chọn Phêrô: Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. Thế rồi: Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Từ ngày theo Chúa, cuộc đời của Phêrô có nhiều sôi nổi, có nhiều lỗi lầm, nhiều va vấp và nhiều yếu đuối. Cho đến khi xác tín ba lần: “Thưa Thầy, thầy biết là con yêu mến Thầy” thì bình minh đã rửa tội quá khứ để rồi Phêrô viết nên một thiên anh hùng ca cho Giáo hội sơ khai, rao giảng, làm chứng và chết cho Chúa Giêsu.

Thánh Phêrô làm nghề chài lưới (x. Mt 4,18), tên là Simon, con ông Gioan và là anh em với Anrê (x. Ga 1,40.42). Sinh tại Bétxaiđa (x. Ga 1,44), nhưng thường trú tại Caphácnaum (x. Mc 1,29). Ong đã có gia đình riêng và Tin Mừng nói đến mẹ vợ của ông (x. Lc 4,38). Simon được Đức Giêsu đổi tên thành Phêrô (x. Mt 16,18), và được đặt làm đầu của Nhóm 12 Tông Đồ (x. Mt 10,2). Ong thường đại diện các tông đồ lên tiếng trả lời các câu hỏi của Đức Giêsu (x. Lc 5,3-10; Ga 6,68). Phêrô đã sai lỗi chối Thầy ba lần (x. Mc 14,30) và nhiều lần khác bị Đức Giêsu quở trách vì đã có quan điểm lệch lạc về chương trình cứu thế của Đức Giêsu (x. Mt 16,23; Ga 13,8-10). Nhưng ông đã khiêm tốn hồi tâm sám hối (x. Mt 26,69-75), và đã tuyên xưng lòng yêu mến Thầy, nên đã được tha tội và còn được trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Tại thành Xêdarê Philipphê, Simon đã tuyên xưng đức tin và đã được Đức Giêsu đổi tên thành Phêrô và còn được trao tối thượng quyền (x. Mt 16,18-19). Ông cũng được Đức Giêsu hứa sẽ cầu nguyện để ông luôn kiên vững đức tin để chu toàn nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Ong là một trong ba môn đệ thân tín được xem Người biến hình (x. Mt 17,1), chứng kiến phép lạ một bé gái mới chết được sống lại (x. Mc 5,37) và có mặt khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,37). Trong ngày Chúa Phục Sinh, Phêrô và Gioan đã cùng nhau chạy ra mồ khi nghe Maria Mácđala báo tin xác Thầy bị đánh cắp (x. Ga 20,1-9). Phêrô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra cách riêng (x. Lc 24,34). Sau khi Chúa về trời, Phêrô có mặt trong nhà tiệc ly để xin Chúa Thánh Thần hiện xuống (x. Cv 1,14). Trong những ngày ấy, Phêrô tổ chức cuộc tuyển chọn Mátthia bổ xung vào Nhóm Mười Hai thay chỗ của Giuđa phản bội (x. Cv 1,26).Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi được ơn Thánh Thần, Phêrô đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng (x. Cv 2,14-36). Nhờ Thánh Thần tác động mà người nghe dù thuộc nhiều dân tộc và ngôn ngữ khác nhau, vẫn hiểu được bài giảng của Phêrô giống như được nghe bằng tiếng mẹ đẻ của mình (Cv 2,5-8). Ngày hôm ấy đã có tới 3.000 người xin theo đạo. Họ được chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội và nhận ân huệ là Thánh Thần (x. Cv 2,37-38.41). từ đây, Phêrô lãnh đạo cộng đoàn Giêrusalem mới thành hình. Ông rảo khắp nơi để đi thăm các giáo đoàn như tại Lốt (x. Cv 9,32), làm nhiều phép lạ (x. Cv 9,33-35.40-41). Ong là người đầu tiên đã làm phép Rửa cho gia đình Conêliô ngoại giáo mà không bắt họ phải chịu phép Cắt Bì trước (x. Cv 10,47-48). Trong Công Đồng Giêrusalem vào năm 49, Phêrô ủng hộ Phaolô và Banaba và cùng quyết định chung là: Không buộc dân ngoại phải chịu phép Cắt Bì trước khi chịu phép Rửa để gia nhập đạo Công Giáo, mà chỉ cần họ kiêng ăn đồ cúng thần, kiêng ăn tiết, kiêng thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm (x. Cv 15,28-28). Sau đó Phêrô đến Rôma và đã bị án tử hình thập giá vào năm 64 trong cuộc bắt đạo dưới thời hoàng đế Nêrông.

Ân sủng của Chúa thật kỳ diệu trong cuộc đời Thánh Phêrô và cả chúng ta nữa. Chiêm ngắm cuộc đời thánh nhân qua các đặc điểm.

Người môn đệ đi theo Chúa.

Yếu tố đầu tiên mà thánh Phêrô có thể nói với chúng ta đó là sự từ bỏ. Không thể đi theo Chúa nếu không có sự từ bỏ. Luôn có cái gì đó để từ bỏ với mỗi thời gian với mỗi tuổi đời.

Vậy thánh Phêrô đã có cái gì để từ bỏ? Điều lạ lùng hết sức mà sau này khoa khảo cổ bên thánh địa đã khai quật lên cơ ngơi của thánh Phêrô. Ngôi nhà của thánh Phêrô kế bên hồ Tiberia, một cơ ngơi rất lớn đến nỗi nhìn vào chúng ta phải giật mình. Theo những chuyên viên về khảo cổ thì thánh Phêrô là người rất giàu có, có những đội thuyền, có gia sản, sự nghiệp và ngay cả có người để yêu, đó là người vợ của ngài. Theo Chúa là từ bỏ. Từ bỏ những gì mà đối với thế gian là gắn bó hết sức. Từ bỏ gia sản, của cải, danh vọng, từ bỏ ngay cả tình yêu chính đáng của mình để đi theo Chúa Giêsu. Sự từ bỏ này đưa Phêrô tới một hồng phúc rất lớn lao đó là yêu mến Chúa Giêsu. Từ bỏ để yêu mến. Nếu chúng ta nhìn lại tư cách môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói hai đặc điểm nổi bật đó. Phêrô luôn luôn phải từ bỏ. Nếu được phép nhìn lại môi trường hoạt động của Chúa Giêsu ở vùng Galilê, loanh quanh ở vùng Caphanaum, vậy Chúa ăn ở chỗ nào? Rất có thể là Chúa ở nhà Phêrô, nơi tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ thời bấy giờ. Rồi giả như Phêrô chỉ một lần rời bỏ cơ ngơi của mình để theo Chúa thì lúc đầu chắc cũng xao xuyến, đau đớn nhưng sau đó thì yên thân. Còn đàng này đi xong lại trở về lại nhà của mình. Có thêm sự nghiệp rồi Chúa lại ra đi và Phêrô lại theo Chúa ra đi. Cho nên nhìn vào cuộc đời của Phêrô, tôi nghĩ rằng, cái sâu xa nhất của Phêrô trong tư cách là môn đệ là liên lỉ từ bỏ nếu không dám nói là từng ngày. Phêrô có rất nhiều điều để từ bỏ hầu có thể theo Chúa Giêsu và khi đã yêu mến Chúa Giêsu Phêrô bộc lộ sự gắn bó của mình lạ lùng hết sức. Có khi chúng ta có cảm tưởng Phêrô giống như một em bé bên cạnh bà mẹ yêu dấu của mình, bất cứ phản ứng gì Phêrô cũng bộc lộ và nói chuyện với Chúa, tâm sự với Chúa và ngay cả những điều thô thiển Phêrô không ngần ngại nói ra với Chúa ở giữa đám đông.

Nếu không vì lòng yêu mến, nếu không có một tâm hồn trẻ thơ mà còn giữ kẽ với Thầy của mình thì không bao giờ dám nói. Ngay cả câu chuyện này tôi thấy thương Phêrô hết sức. Tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi: Người ta bảo Con Người là ai? Người thì nói Thầy là Êlia, người thì nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Còn chúng con, chúng con nói Thầy là ai? Phêrô thay mặt anh em mình: "Thưa Thầy, Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Và Chúa Giêsu nói ngay: Này Phêrô không phải tự sức con có thể nói được điều đó, bởi nếu tự sức con, con chỉ có thể nói như tất cả những người bình thường khác. Nhưng nếu con có thể nói Thầy là Đấng Kitô, con hãy nhớ rằng Cha trên trời đã ban cho con ơn đó. Cha trên trời đã đổ đầy Thánh Thần cho con, vì không ai có thể gọi Thầy là Kitô nếu không có ơn của Chúa Thánh Thần. Con hãy nhớ điều đó.

Tất cả những ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô thì mới có thể trung thành đi theo Đức Kitô, còn ai chỉ nghĩ Ngài là một tiên tri, nghĩ Ngài là một vị anh hùng thì chỉ theo Ngài được một thời gian thôi. Hai môn đệ Emmau cũng như thế. Khi buồn bã rời Giêrusalem về Emmau. Người lữ khách hỏi họ: “Tại sao buồn vậy?” Tại ông Giêsu Nazaret mà chúng tôi tin là Đấng tiên tri, nhưng đã bị người ta giết chết. Đức Giêsu mới nói “Sao lại chậm tin?”. Rồi Ngài dùng Thánh kinh để giải thích cho họ biết Đức Giêsu Nazaret là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa xức dầu, đã đến thế gian để thi hành sứ mạng. Nếu không tin Đức Giêsu là Đấng Kitô thì rõ ràng không thể trung thành đi theo Chúa. Phêrô đã tuyên xưng điều đó. Rồi Chúa Giêsu đã bộc lộ sứ mạng của Đấng Kitô là phải lên Giêrusalem, chịu nạn, chịu chết, ngày thứ ba sống lại. Phêrô yêu mến Chúa, gắn bó với Chúa, thủ thỉ với Chúa và can ngăn Người, bởi nếu Chúa chết là hết. Vậy mà Chúa Giêsu quay lại trước mặt anh em và mắng Phêrô: Xéo đi Satan! Chúa nói công khai. Trong đời có vị tông đồ nào bị mắng như thế, kể cả Giuđa bị mang tiếng là Satan. Phêrô hiểu được rằng đã là môn đệ đi theo Chúa thì không được đi trước mặt Chúa. Đây là cốt lõi của vấn đề cuộc hành trình người môn đệ. Phêrô cản Chúa nghĩa là muốn đi trước Chúa. Phêrô không thể mở đường vào ơn cứu độ. Phêrô phải đi sau lưng để Chúa đi trước. Người môn đệ đi sau Thầy của mình, người môn đệ đặt vết chân của mình vào dấu chân của Thầy, người môn đệ không lớn hơn Thầy của mình. Bài học này Phêrô hiểu hết sức là thấm thía. Từ bỏ để yêu mến, yêu mến để đi theo. Và chính vì thế những gì Chúa Giêsu làm Phêrô học lấy và rao truyền lại cho mọi người. Phêrô trong tư cách là môn đệ cho chúng ta thấy rằng đi vào trường phái của Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là người môn đệ chứ không bao giờ ra trường đâu. Ở học viện này học viện kia khi ra trường có khi người học trò còn hơn Thầy của mình. Còn trong mái trường của Chúa Giêsu người môn đệ sẽ mãi là người môn đệ. Kinh nghiệm của Phêrô soi sáng cho chúng ta để rồi trong cuộc sống của chính mình, dù có thành đạt đến mức nào đi nữa, dù có nổi tiếng đến mức nào đi nữa, thì mình vẫn đi sau lưng Chúa Giêsu. Chúa đi trước mình theo sau.

Người môn đệ yếu đuối và vấp ngã.

Kinh nghiệm của Phêrô soi sáng cho chúng ta hình ảnh người môn đệ yếu đuối và vấp ngã. Thường tình khi nói về một vị thánh, người ta thường nói những điểm tốt nhất, tích cực nhất, anh hùng nhất để ca ngợi. Còn về Phêrô, nếu đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy lạ lùng. Phêrô có nhiều giới hạn, nhiều khuyết điểm và thậm chí rất nhiều vấp ngã.

Suy nghĩ về điều này, nếu chúng ta hỏi thánh Phêrô: Thầy là Đấng điều khiển Hội Thánh sơ khai, biết bao nhiêu áng văn chương Tân ước hình thành, thể hiện lòng kính trọng của các tông đồ trong Hội Thánh sơ khai đối với Thầy, sao lại ghi chép những chi tiết cho đời sau có thể hiểu những yếu đuối những vấp ngã như vậy? Chắc chắn thánh Phêrô sẽ nói rằng: điều đó để cho Chúa được lớn lên. Nếu Thầy có công trạng gì thì người ta sẽ khen Thầy, còn đàng này Thầy không là gì, con người của Thầy là như thế. Chúa đã chọn Thầy ở giữa những con người tầm thường hết sức. Chúa không thay đổi sự tầm thường của Thầy, nhưng xuyên qua sự tầm thường của Thầy Chúa trao ban kho tàng vô giá. Thấm thía điều đó nên sau này một người bạn của Thầy là Phaolô đã nói: “Tôi chỉ là chiếc bình sành dễ vỡ trong khi tôi được chứa đựng kho tàng vô giá là Đức Giêsu Kitô”.

Vậy những yếu đuối và vấp ngã của thánh Phêrô cho chúng ta thấy nền tảng, một nền tảng bị vấp váp rất nhiều vì Phêrô không vựơt qua lập tức được con người tự nhiên của mình là háo danh và tự phụ. Vì Phêrô là con người thành đạt, là con người nổi tiếng nên Chúa đã uốn nắn con người của Phêrô. Nếu như dựa trên sức lực, tiền bạc, uy tín thì Phêrô có thể thành đạt trong một thời gian nhất định, với những con người nhất định mà thôi. Nhưng nếu qua thời gian, vượt không gian mà danh tiếng của Phêrô vẫn trường tồn mãi mãi như chúng ta thấy ngày hôm nay. Điều này để thấy rằng, xuyên qua yếu đuối và vấp ngã, Chúa nâng đỡ Phêrô, tha thứ cho Phêrô. Một con người cần người khác nâng đỡ thì họ không bao giờ quá tự tin. Một con người cần lãnh nhận ơn tha thứ thì sẽ dễ dàng nói lời tha thứ với những người xung quanh, dễ cảm thông với người thất bại.

Cùng học nơi thánh Phêrô để chúng ta trở nên sứ giả đem lại ơn giao hòa, lòng thương xót, ơn tha thứ, sự cảm thông với biết bao nhiêu người quanh mình. Không yếu đuối không cảm thông. Không phạm tội thì không thể nào hiểu được niềm hạnh phúc của con người được tha thứ. Nói như thế không có nghĩa là nên phạm tội. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm đó. Thánh Phaolô nói rằng: “Điều phải làm tôi lại không làm, điều phải tránh tôi lại làm”. Nếu không suy niệm kinh nghiệm yếu đuối và vấp ngã của Phêrô có lẽ chúng ta đều trở nên những quan tòa.

Khi tin rằng mình vững vàng mà quên ơn Chúa thì có thể vấp ngã. Đêm tiệc ly, Chúa Giêsu nói “Đêm nay chúng con sẽ bỏ Thầy mà đi hết”. Mọi môn đệ khác im lặng lắng nghe run sợ, còn Phêrô gần như vỗ ngực để thưa với Chúa rằng: “Thà chết không bỏ Thầy, con sẵn sàng liều chết với Thầy”. Chúa nói: “Đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”. Phêrô tự phụ: “Người khác chối chứ làm sao con chối Thầy được”. Câu nói của Chúa lạ lùng lắm, đêm nay gà phải gáy và nó sẽ câm đi nếu con không chối, chối rồi nó mới gáy, nếu con không chối thì nó phải câm. Cho nên đứng về khía cạnh đó của Phêrô, nếu tự phụ thì bảo đảm sẽ phải chối giống như con gà phải gáy. Nếu không tựa vào ơn của Chúa, chúng ta sẽ vấp ngã. Lúc còn nhỏ chúng ta thấy ơn Chúa vừa vừa, càng lớn chúng ta thấy tất cả là hồng ân. Càng có những chức vụ, những gánh nặng chúng ta sẽ thấy rằng nếu không có ơn Chúa, sức mình không thể nào làm được. Từ đó Phêrô để lại cho chúng ta bài học rất quý giá mà ngay từ đầu Chúa Giêsu đã nói với ông mà ông không chú ý. Khi ông tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô thì Chúa Giêsu nói tự sức con không thể làm được điều đó, Cha trên trời soi sáng cho con. Nếu con là nền của Hội Thánh thì con hãy nhớ rằng mọi việc hướng về Cha, hãy có hiếu với Cha. Cha trên trời đã chọn con, đã thương ban hồng ân cho con, đã luôn giữ gìn con, ngày nào con lơi đi mối tương quan với Cha trên trời bấy giờ con sẽ vấp ngã. Nhưng Thầy bảo đảm cho con, vấp ngã Thầy cũng kéo con trỗi dậy dù khi đó con sẽ ê chề.

Kinh nghiệm vấp ngã của Phêrô còn là, coi thường anh em mình. Mấy người kia có chối thì chối còn Phêrô thì sao chối Thầy được. Lời nói có vẻ tự phụ, xúc phạm tới anh em. Mỗi người đều là bình sành dễ vỡ. Làm sao để bảo tồn được cái bình sành trở thành của quý. Khi các bình sành để gần nhau, gió có lùa vào cũng không làm đổ. Để gần nhau là chia sẻ nâng đỡ nhau.

Người môn đệ yêu mến Chúa.

“Tôi đi đánh cá đây, anh em hãy đi với tôi” (Ga 21,. Lao nhọc vất vả suốt đêm mà không được gì cả. Đang lúc chán nản thì có tiếng bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền. Phêrô buông lưới và cá quá nhiều, họ kéo cá lên, thuyền gần như chìm. Khi đó, có tiếng nói của Gioan: Chúa đó. Lời ấy như nhắc bảo Phêrô, tự sức mình không đưa tới kết quả đâu. Phải có Chúa, bao lâu hình ảnh của Chúa rọi soi nơi lời nói, việc làm, đời sống của Phêrô thì bấy giờ mới có thành quả. Còn nếu Phêrô chỉ dựa trên tài sức của mình, dù lao nhọc suốt đêm không bắt được một con cá nào.

Đâu phải dễ để đưa một người đến với đạo thánh Chúa. Dễ gì làm cho một người tin theo Chúa là tình yêu. Hãy có Chúa trong đời sống. Chúa đã thu phục nhân tâm bằng yêu thương. Chúa gọi Phêrô ra một bên và hỏi: Con có mến Thầy không? Lần thứ nhất Phêrô trả lời: Lạy Chúa, có. Lần thứ hai ông nói: Lạy Chúa, có. Lần thứ ba Chúa hỏi thì Phêrô buồn vì Chúa hỏi cùng một câu hỏi đến ba lần.

Trong tiếng Hy Lạp có bốn từ ngữ nói về tình yêu.

- Eros: yêu thương là chiếm đoạt, đưa tới nhục dục.

- Storghê: là tình âu yếm chỉ dành cho những người cùng một tương quan huyết thống với nhau, ai không có tương quan huyết thống, không có được tình âu yếm đó.

- Philia: tình bằng hữu, tình đồng nghiệp, tình cùng sở thích và đặc điểm là sự trung thành; yêu thương là đồng cảm với nhau, trung thành với nhau, chia vui sẻ buồn với nhau.

- Agapê: yêu thương là từ bỏ cho người mình yêu thương. Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người trao ban, từ bỏ mạng sống mình vì người mình yêu thương, Agapê.

Vậy khi Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô (trong bản văn tiếng Hy Lạp): Phêrô, con có Agapê đối với Thầy không? Phêrô đáp: Con có Philia đối với Thầy. Và Chúa nói: Hãy chăm sóc đoàn chiên. Lần thứ hai Chúa nói: Con có Agapê đối với Thầy không? Phêrô đáp: Con có Philia đối với Thầy. Lần thứ ba Chúa hỏi: Con có Philia đối với Thầy không? Phêrô buồn vì Chúa hỏi ông có Philia đối với Thầy không. Bấy giờ Phêrô nói: Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự, Thầy biết con chỉ có thể có Philia đối với Thầy mà thôi. Con quá tự phụ, không đủ sức để trao ban sự sống của con cho Thầy, không có ơn của Thầy, con chỉ có thể đối xử với Thầy như người môn đệ, như người bạn, như người ngưỡng mộ trong trường phái nhưng mà trao ban sự sống như Thầy trao ban sự sống của Thầy cho con, tự sức con con chỉ có Philia thôi. Philia và Agapê: hai điều đó rất khác nhau.

Phêrô lúc bấy giờ nói lên con người của mình để cho Chúa biết: Lạy Chúa, con chỉ là con người tầm thường. Đó là lần thứ nhất trong đời Phêrô bộc lộ chân tướng của mình; khác nào như Đức Maria: Này tôi là tôi tớ Chúa. Phêrô nói: Con chỉ là vật mọn phàm hèn trước mặt Chúa. Chính khi đó, Chúa Giêsu mới trao cả Hội Thánh cho Phêrô. Con biết con là ai thì con có thể chăm sóc Hội Thánh; bởi vì con đang làm công việc Thiên Chúa ủy thác và tin tưởng con. Con đang làm việc của Chúa!

Nhìn cuộc đời Thánh Phêrô ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim ông lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo ông là Satan, ông cũng không giận Chúa. Ngay khi vì sợ hãi mà chối Chúa thì ông vẫn yêu mến Chúa. Không phải vì Phêrô yếu đuối hay tội lỗi mà Chúa bỏ ông. Tình yêu chân thành trong tâm hồn ông làm Chúa giữ ông lại và đặt làm lãnh đạo đoàn chiên của Chúa.

Vị Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh có một dung mạo là người môn đệ đi theo Chúa, người môn đệ yếu đuối và vấp ngã, nhưng đã đứng dậy, không chán nản, không để mất phương hướng, không đầu hàng, không bỏ cuộc; người môn đệ sống bởi ơn Chúa, chan hòa ân sủng, bình an, niềm vui của Chúa.

Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là tông đồ Phêrô, hay đúng hơn là trên đức Tin vào Chúa Giêsu là "Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16; 1 Cr 3,10). Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để trở thành viên đá sống động xây nên tòa nhà Hội Thánh (x. 1 Cr 3,16-17), hay nên Đền Thờ của Thiên Chúa, có nền móng là các Tông Đồ và Ngôn Sứ, và Đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu" (Ep 2,20)?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa tin tưởng và trao trách nhiệm cho người hiểu biết Chúa, yêu mến Chúa và đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Chúng con sẽ được Chúa tin tưởng và trao sứ mệnh xây dựng Hội Thánh, nếu chúng con có lòng tin, lòng cậy và lòng mến Chúa. Vậy xin Chúa cho chúng con có một đức tin vững chắc, một lòng cậy trông tín thác và một lòng mến chân thành như Thánh Phêrô để chúng con có thể trở thành một viên đá sống động, góp phần xây nên tòa nhà Hội Thánh. Amen.

 

17. Gặp gỡ Chúa trong cuộc đời – Cố Lm Hồng Phúc

Giữa công trường Thánh Phêrô ở La-mã, một công trường rộng mênh mông, có hai pho tượng khổng lồ đứng oai vệ như những chứng nhân của lịch sử. Đó là tượng Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, hai vị Tông đồ Cả.

Phêrô và Phaolô là hai người khác biệt nhau về tính tình, về văn hóa và nghề nghiệp. Nhưng cả hai đã gặp gỡ Chúa Kitô và được Chúa biến hóa trở nên những chứng nhân, những tông đồ “đi bắt người”.

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô.

Thật ra, Chúa đã gặp Phêrô rồi, khi em ông là Anrê đem anh đến giới thiệu với Chúa, như Gioan kể lại (Gio. 1, 49). Lòng nhiệt huyết của Anrê cũng như lòng trinh bạch của Gioan không làm cho Chúa cảm động, nhưng khi nhìn thấy Simon, con Gioan, Chúa nhìn ông và nói: “Hỡi Simon, con Giona, từ nay con sẽ gọi là Kêpha nghĩa là Đá”. Đây là nền tảng của Giáo hội mà Ngài sắp thiết lập. Tuy nhiên, đây chỉ là cuộc sơ vấn gặp gỡ đầu tiên. Rồi ai về nhà nấy. Phêrô và các bạn vẫn còn nặng tình với vợ con, với sông sâu biển cả. Thì hôm nay, Chúa muốn kêu gọi ông cách dứt khoát, bằng một phương pháp mạnh, một phép lạ để cho ông nhìn thấy và “sờ đụng” quyền năng của Thiên Chúa.

Sau một đêm lao lực, thức trắng đêm – cá vẫn ăn về đêm – mà không bắt được con cá nào, Phêrô gặp Chúa. Chúa bảo: “Hãy ra khơi thả lưới”. Ông vừa từ ngoài khơi trở về, nhưng vâng lời Chúa, Ông lại ra khơi… Từng đàn cá ùn ùn chun vào lưới, khiến cho lưới gần rách, phải gọi các bạn thuyền đến trợ lực.

Cũng như ngày xưa, tiên tri Isaia, trong bài đọc I, đã nhìn thấy vinh quang của Chúa và kêu lên: “Chết tôi rồi, lưỡi tôi dơ bẩn”, thì ngày nay, Phêrô cũng cảm thấy mình bất xứng và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Nhưng Chúa trả lời: “Con đừng sỡ hãi. Từ đây, con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Con sẽ bỏ nghề bắt cá, để đi “bắt” các linh hồn. Và Phúc Âm nói: “Ông chèo thuyền vào bờ, bỏ hết mọi sự và đi theo Người”. Đó là ơn kêu gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và được Chúa thu hút chinh phục.

Người thứ hai đã gặp gỡ Chúa là Thánh Phaolô, như bài đọc II kể lại. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh Đế quốc La-mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa. Đức Kitô… đã sống lại theo lời Thánh Kinh. Ngài đã hiện ra với Phêrô và mười một Tông đồ. Rồi cuối cùng Ngài đã hiện ra với tôi như đứa con sinh non” (1Cor. 15, 8).

Phải, cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Người vui mừng được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cor 12, 24-25).

Trong cuộc đời, chúng ta cũng đã gặp gỡ Chúa trong nhiều hoàn cảnh. Nhưng phải chăng chỉ gặp Ngài như gặp một khách bàng quang…

Lạy Chúa, Xin Chúa hãy đến với con, đừng xa lánh con là kẻ tội lỗi.

 

18. Ân huệ được gọi - Dã Quỳ

Trong xã hội hiện nay, dường như ai cũng có kinh nghiệm đi tìm việc làm. Để tìm được một công việc hay một chỗ trong công ty, xí nghiệp tốt...quả là không dễ! Thường người ta phải chứng minh được là có khả năng, có kinh nghiệm lâu năm trong nghề và như thế mới có thể mở được những cánh cửa đang đóng kia, mới được tuyển nhận.

Với Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay ta nghe thì không như thế. Người đã chọn môn đệ mà không cần chứng nhận khả năng của họ. Chúa đã gọi Phêrô khi ông đang làm công việc chài lưới hằng ngày. Còn Tông đồ Phaolô được Chúa gọi lúc ông đang đi bách hại những Kitô hữu. Thiên Chúa luôn làm chúng ta ngạc nhiên bởi vì Người trao tặng cho mỗi chúng ta một ơn đặc biệt là xứng đáng được gọi. Chúng ta thường tự hỏi Chúa chờ đợi điều gì khi Người muốn chọn chúng ta cho sứ mệnh của Người? Chúng ta hay có thói quen so sánh với những người khác trong chức vụ nghề nghiệp để biết tài năng và ta nghĩ ngay đến địa vị xã hội của họ. Chúa Giêsu không theo cái lối suy luận mua bán này. Người gọi chúng ta với trái tim và xác tín rằng Người cần chúng ta cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và cứu độ nhân loại.

- Chúa cần chúng ta cho sứ mệnh Rao Giảng Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu đặt chân lên thuyền của Phêrô, Người đã nhìn thấy nơi ông một cộng tác viên đắc lực cho công cuộc rao giảng Tin Mừng "Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút...và từ trên thuyền, Người giảng dạy đám đông."(Lc 5,3) Đây là vùng sông nước mà Phêrô đã quen thuộc và hơn nữa ông là một người chài lưới đầy kinh nghiệm. Ông sẽ biết làm cho con thuyền vững vàng và lưới cá thành công. Thế nhưng, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trên thuyền, Phêrô không còn là chủ, không phải là tay đánh bắt tài giỏi nữa. Sau lời Chúa mời gọi ra chỗ nước sâu thả lưới, Phêrô đã thú thực với Chúa "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả."(Lc 5,5a) Có lẽ lúc này Phêrô và đồng bạn cũng ngạc nhiên hay mỉm cười trong lòng vì...Thầy Giêsu làm gì có kinh nghiệm gì về việc đánh cá. Nơi nào có cá nhiều, tay này đã rành rẽ. Chỗ nước sâu làm gì có cá mà lưới. Như vậy, Chúa đã yêu cầu những điều thật ngạc nhiên và không hợp lý. Dù thế, lòng chân chất của người thuyền chài và niềm hy vọng sẽ có mẻ cá mang về, Phêrô đã nhanh miệng "Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."(Lc 5,5b) Vâng, bây giờ có Thầy trên thuyền, ra chỗ nước sâu cũng không sợ. Và Phêrô đã chèo thuyền theo sự hướng dẫn của Chúa.

Tiếp tục ra khơi thả lưới khi cả đêm đã vất vả mà không được gì. Đó là những điều mà đức tin đòi hỏi thực hiện. Công việc Rao Giảng Tin Mừng hay Truyền Giáo cũng thế. Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu. Đừng tự hào về tài năng hay tính toán của chính mình. Không dựa vào những phương tiện trần tục hay cậy sức bản thân. Ra chỗ nước sâu; rời những nơi gần bờ an toàn, tiện nghi, được bảo bọc... Người môn đệ Chúa Kitô cần dấn thân. Có Chúa và cùng với Chúa, lên đường đến những nơi xa xôi, gian khổ, những nơi anh chị em chưa biết Chúa và chưa được nghe Tin Mừng, họ đang rất cần chúng ta và Chúa cũng đang thật muốn chúng ta thi hành sứ mệnh. Và chỉ khi ta vâng theo Lời Chúa, kết quả sẽ thật mĩ mãn "Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá." (Lc 5,6)

- Chúa cần chúng ta cho sứ mệnh cứu độ nhân loại. Tự nhiên, chúng ta thường run sợ trước những việc kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng. Phêrô cũng thế, ông đã kinh hãi khi thấy mẻ cá lạ lùng và nhận ra Thầy Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng có thể làm được mọi sự tốt lành. Nhưng Chúa đã luôn giữ cho các ông được bảo đảm và bình an: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta."(Lc 5, 10b) Đừng sợ! Đây như là điệp khúc của Chúa Giêsu. Người thường trấn an và động viên môn đệ hãy tin vào Ngài, đừng sợ hãi. Chúa đã thay đổi số phận của Phêrô. Từ nay ông mang một ơn gọi thần linh, một sứ mệnh cứu độ. Biển trần gian rộng lớn, Chúa cần những ngư phủ nhiệt tâm và Người đã gọi Phêrô, đồng bạn và anh em ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."(Mt 4,19)

Trong sứ mệnh cứu độ nhân loại, Chúa đã chọn gọi các Tông đồ và môn đệ cùng Chúa đem nhiều người về với Giáo Hội, trở nên con cái Chúa và được hưởng Ơn Cứu Độ của Chúa. Tiếp bước các Tông Đồ, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa gọi để loan báo Tin Mừng và đem nhiều tâm hồn về với Chúa. Loan Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân là trách nhiệm và sứ mệnh của Giáo Hội, của từng Kitô hữu. Chúng ta là những cánh tay nối dài của Chúa. Hãy hăng say thả lưới trong mọi hoàn cảnh sống của ta nơi gia đình, làng xóm; nơi công sở, chỗ làm việc; trong cộng đoàn hay ngoài xã hội. Hãy nhiệt tình đáp lại tiếng Chúa mời gọi và vâng lời Chúa để thực hiện sứ mệnh truyền giáo.

Ước gì mỗi Kitô hữu Việt nam hôm nay cũng luôn can đảm thưa lên như Isaia "Này con đây, xin hãy sai con đi"(Is 6, 8c) và vui mừng với ân huệ được gọi cách nhưng không.

Nguyện xin Chúa Giêsu luôn hướng dẫn, đồng hành với chúng con. Và xin ban cho chúng con ơn kiên trì, khiêm tốn, trung thành và không bao giờ bỏ cuộc vì chúng con luôn có Chúa cùng sống, cùng làm trong chúng con và qua chúng con. Amen.

 

19. Mẻ cá lạ - Linh Xuân Thôn

Một trong những lời giảng dạy làm nhiều người khó chịu, nhưng cũng rất thú vị, của Minh Sư là: ”Thượng Đế gần gũi kẻ có tội hơn là người thánh thiện.”

Ngài dùng hình ảnh để giải thích như sau:

- Thượng Đế ở trên thiên đàng nắm mỗi người ở đầu một sợi dây. Khi người ta phạm tội, sợi dây đó bị cắt đứt. Bấy giờ Thượng Đế cột sợi dây lại bằng cách làm một nút thắt - và như vậy, Ngài kéo họ lại gần Ngài hơn. Cứ như thế, mỗi khi người ta phạm tội, sợi giây bị cắt đứt, Thượng Đế lại buộc một nút thắt mới để kéo chúng ta lại gần Ngài nhiều hơn nữa.

Anthony de Mello, trích trong “One Minute Wisdom”

***

“Lạy Ngài! Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc. 5,8).

Bạn thân mến! Trên đây là lời nói của Simon Phêrô thưa với Chúa Giêsu khi ông cảm nhận được sự thấp hèn tội lỗi của mình trước đấng thánh cao cả Giêsu, khi ông kinh ngạc trước phép lạ “Mẻ Cá Lạ” mà ông đã được chứng kiến và cũng là người trong cuộc. Xin mời bạn cùng tôi, chúng ta hãy lần theo dấu vết của Simon Phêrô trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (Lc. 5:1-11) để hiểu thêm về ông, để biết thêm về “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến ông và các bạn chài của ông như thế nào? Và cũng để nhận ra “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến tôi và bạn hôm nay ra sao?

Trước hết, Simon Phê-rô là một người truyền giáo: Trong lúc ông và các bạn chài đang giặt lưới sau 1 đêm dài mệt mỏi vật lộn với biển khơi để đánh bắt cá nhưng chẳng được gì. Chúa Giêsu đã đến bên ông, Ngài lên thuyền của ông, xin ông chèo ra xa bờ 1 chút để Ngài ngồi trên thuyền mà giảng dạy cho dân chúng. Ông đã không ngại mệt mỏi sau một đêm vất vả làm việc, Ông đã bỏ công việc riêng bề bộn sau lưng, đã đứng dậy và làm theo lời yêu cầu của Ngài…Chúa giảng, ông chèo …Chắc hẳn trong lúc ông chèo thuyền cho Chúa giảng dạy, ông cũng đã lãnh nhận những lời vàng ngọc, những chân lý ngàn đời không thay đổi nơi môi miệng của Chúa Giêsu. Ông chèo, Chúa giảng...Ông đã góp công sức vào việc giúp những người xung quanh biết về Chúa và nghe Lời Ngài. Với chiếc thuyền nhỏ bé của ông, ông đã “mang Chúa đến cho người khác”, Ông đã làm công việc truyền giáo trong lúc Giáo Hội chưa được hình thành.

Bạn thân mến! Nếu hôm nay Chúa dùng những người xung quanh để mời gọi tôi và bạn đóng góp công sức của mình cho việc truyền giáo, Tôi và bạn sẽ đáp trả ra sao? Sự đáp trả của tôi và bạn có giống Simon Phêrô ngày xưa không?

Simon Phêrô: một người khiêm nhượng và biết lắng nghe. Sau 1 đêm vất vả đánh cá mà chẳng được gì, chắc hẳn ông mang một tâm trạng mệt mỏi, chán nản. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo ông ra khơi đánh cá giữa ban ngày, lại ra tận chỗ nước sâu, nơi nguy hiểm nhất và cũng là chỗ khó bắt được cá nhất …Theo lẽ thông thường, Phêrô phải ngẫm nghĩ trong lòng: “Ông Giêsu ơi! Ông làm nghề thợ mộc mà! Đánh cá là nghề của tôi. Tôi đã sống bằng nghề này mấy mươi năm rồi, Ông biết gì về đánh cá mà lại hướng dẫn chỉ bảo tôi?” Nhưng không phải thế, Simon Phêrô đã lắng nghe lời hướng dẫn của Chúa Giêsu trong khiêm nhượng và tin tưởng. Ông đã nói lên tâm tình đó qua câu: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".(Lc. 5:5)

Bạn thân mến! Trong cuộc sống hằng ngày, qua những vị linh mục trong cộng đoàn giáo xứ, qua các thầy cô trong trường học, qua cha mẹ anh chị em trong gia đình, qua bạn bè thân hữu ngoài xã hội…Có lẽ Chúa cũng đã gởi đến tôi và bạn biết bao lời khuyên răn nhắn nhủ, nhưng tôi và bạn có biết lắng nghe hay không? Tôi và bạn có đủ khiêm nhượng và tin tưởng để lắng nghe như Simon Phêrô ngày xưa không?

Simon Phêrô: Người được Chúa tỏ mình ra: Chứng kiến “Mẻ Cá Lạ”, Simon Phêrô đã nhận ra sự cao cả thánh thiện của Chúa Giêsu. Sợ hãi vì nhận thấy mình tội lỗi thấp hèn, ông đã vội quì xuống và thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc.5:8). Nếu Chúa Giêsu không chủ động tỏ mình ra, chắc hẳn ông không thể nhận ra “Mẻ Cá Lạ” là do quyền năng cao cả của Thiên Chúa. Nếu không có ơn Chúa, chắc hẳn ông không thể nhận biết thân phận tội lỗi thấp hèn của mình. Một đêm dài vất vả mệt mỏi, ông đã làm việc với sức của riêng mình, kết quả là con số không, Ông chẳng đánh bắt được gì. Nhưng khi có Chúa bên cạnh, Ông đã cùng làm với Chúa và dùng sức của Chúa, kết qủa là ông đã có “Mẻ Cá Lạ” gần chìm thuyền.

Bạn thân mến! Cuộc sống có Chúa bên cạnh thật quan trọng và cần thiết biết bao! Xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy tự hỏi chính mình: ”Chúa ở đâu trong cuộc sống hằng ngày của tôi? Những lúc tôi ăn uống nghỉ ngơi, những lúc vui lúc buồn, những lúc thành công hạnh phúc cũng như lúc thất bại mệt mỏi vất vả… Ngài ở đâu? Ngài ở đâu?"

Simon Phêrô: Người biết phó thác để sẵn sàng ra đi và lên đường: Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh không chắc chắn. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. ”Vâng lời thầy, con đi thả lưới” (Lc.5:5). Lên đường ra khơi thả lưới là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp, chấp nhận gian lao thử thách…”Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc.5:11). Ra đi theo Chúa là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới… Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài lưới người.

Bỏ tất cả để bước đi theo Chúa, để làm môn đệ của Ngài…Đây là việc đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực, gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng cái khó khăn nhất có lẽ là “bỏ mình”, là ra khỏi “cái tôi hạn hẹp ích kỷ” của chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người môn đệ vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường theo Chúa, người môn đệ phải ra khỏi tính tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Và khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu mời ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.

***

Lạy Chúa, lên đường bước đi theo Chúa là được Chúa biến đổi. Giống như Simon Phêrô xưa kia đã được Chúa biến đổi từ “Simon lưới cá” trở thành “Phêrô lưới người”. Xin Chúa ban ơn giúp sức cho con để biết noi gương bắt chước Simon Phêrô xưa kia, biết cố gắng nỗ lực lên đường bước đi theo Chúa và cũng được Chúa biến đổi. Amen.

 

20. Vâng lời Thầy, con rao giảng - Huệ Minh

Trong Tân Ước, biển là biểu tượng của hoán cải, của trở lại, của cải tà qui chính. Trên biển, không có gì là bình thường cả mà luôn luôn là những cái gì bất ngờ, kỳ diệu hoặc rất chi là khó khăn nguy hiểm. Một vài phép lạ rất cảm động, có khi rất bi hùng đã được Chúa Giêsu làm trên biển Galilê.

Thánh Máccô thuật lại chuyện Chúa Giêsu khiến sóng gió, bão biển đang quay cuồng dữ tợn phải yên lặng (Mc 4, 35-39). Thánh nhân cũng diễn tả việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước của biển này để chứng tỏ cho các môn đệ biết Người là ai. "...Chính Ta đây..." (Mc 6, 45-50)

Trong Tin Mừng Gioan, ta thấy quang cảnh biến chuyển tâm thức của Thánh Phêrô khi ông tuyên xưng niềm tin của ông với Chúa sau bữa ăn sáng trên bờ hồ Tiberias và Chúa đã đặt niềm tin của Người nơi ông là kẻ tội lỗi có lòng sám hối. (Ga. đoạn 21). Ta thấy lúc này Chúa cũng làm một phép lạ phi thường trước mặt rất nhiểu môn đệ.

Chúa Giêsu đang ở bờ biển hồ Giênêzareth và giảng dạy cho đoàn rất đông dân chúng. Vì dân chúng quá đông nên người ta không thể nhìn thấy và nghe được lời Ngài giảng. Và vì vậy, Chúa Giêsu bước xuống thuyền của ông Simon và xin ông chèo thuyền xa bờ một chút để mọi người có thể nhìn thấy và nghe được lời Ngài nói….

Chúa Giêsu là Đối Tượng mà mọi tâm hồn hướng tới, Ngài là Trung Tâm Điểm của Tin Mừng! Rao giảng Tin Mừng, là rao giảng Danh Thánh Chúa Giêsu, làm cho Chúa Giêsu lớn lên trong các linh hồn, để Ngài trở thành Trung Tâm của mọi Linh hồn tôn thờ và yêu mến.

Chúa Giêsu chắc chắn có giọng nói âm vang mạnh mẽ để đông đảo quần chúng có thể nghe được, hơn thế nữa, Thần Lực của Ngài có thể tác động, có thể len lỏi vào tận đáy thẳm của linh hồn để ngay cả“Kẻ chết cũng có thể nghe được”, những kẻ chết trong linh hồn, hay thực sự đã chết trong thân xác có thể nghe được!

Giảng vừa xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu để đánh cá. (Lc 5, 4). Trong đời sống thường nhật cũng như trong lời khẩn nguyện của ta, Chúa Giêsu luôn bên cạnh ta nếu ta Vâng nghe Lời Ngài. Và khi Chúa bên cạnh, ở trong thuyền đời chúng ta, thì dù ở trên cạn hay giữa đại dương… những phép lạ diệu kỳ chắc chắn sẽ xảy đến để làm cho cuộc sống mỗi người chúng ta trở nên phong nhiêu, hạnh phúc khôn tả! Ngay cả khi ta đối diện với bao vất vả của kế sinh nhau, làm việc, thì Ngài vẫn muốn ở bên cạnh ta!

Thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp là những người chuyên nghề đánh bắt cá đã nhiều năm, thế mà sau một đêm “Cực nhọc, vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào (Lc 5, 4.5)… Phải nói là quá thất vọng vì công việc vất vả mà không đem lại chút thành quả nào. Đứng trước cảnh ngộ khá bi đát hay coi như hoàn toàn thất bại như vậy, thì giờ đây, các môn đệ đang có Chúa Giêsu bên cạnh, Ngài đang ở ngay trong khoang thuyền của họ, thì cuộc diện sẽ biến đổi một cách hoàn toàn nhất, thuận tiện nhất!...

Ta cứ làm mọi việc hết khả năng riêng mình, còn lại, ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, vâng lời Ngài, mời Ngài đến với ta và kết quả sẽ thập phần mỹ mãn! Những lúc quá thất bại, chán nản, và mệt nhoài… ta hãy cậy dựa nơi Chúa Giêsu, hãy trình bày những khó khăn của ta cho Ngài!: “Chúng con đã cực nhọc vất vả mà không đạt thành quả nào!”

Thường tình, khi Chúa bảo các ông thả lưới bắt cá, các ông sẽ tự nghĩ: Chúng tôi là dân chuyên nghiệp đã nhiều năm, còn Ngài đâu có bao giờ đánh bắt cá, nghe theo sẽ uổng công thôi!… Thế nhưng, vì tuyệt đối tin Chúa Giêsu, các ông đã thực hành theo lời Thầy! Ông Simon thưa: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. và vì sự tin tưởng, vâng lời ấy, phép lạ kỳ diệu đã xảy ra: “Các ông bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới gần bị rách”, họ phải gọi các bạn đến giúp “Cả 2 thuyền chứa đầy cá đến nỗi gần bị chìm” (Lc 5, 7).

Phép lạ này chứng tỏ Chúa Giêsu là Chúa của biển cả cũng như trên đất liền, và mọi phong nhiêu phú túc đều phát xuất từ Thiên Chúa, là nguồn mọi thiện hảo. Ngay lúc đó, nhiều người mới nghe Chúa Giêsu giảng vẫn còn ở đó nên được chứng kiến phép lạ mẻ cá lạ lung Chúa làm, nên đã tin kính Chúa. Đây là phần thưởng Chúa ban cho những ai làm việc dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu.

Maccô (Mc 1,16-20), Matthêu (Mt 4, 18-22) kể lại cảnh các ngư phủ bỏ lưới, bỏ thuyền, bỏ cả cha mẹ để theo chúa Giêsu. Luca thì nói rõ họ bỏ lại tất cả mọi sự (Lc 5, 28; 12, 33; 14, 33; 18, 22), có nghĩa là hoàn toàn thoát ly khỏi mọi của cải, tư hữu vật chất. Làm môn đệ đòi hỏi phải có ơn gọi, một ơn gọi đầy quyền lực luôn luôn thôi thúc mình đi theo cuộc sống mới, xa cách khỏi những gì gọi là tầm thường của công việc hay tập tục đều đặn buồn tẻ hàng ngày, bỏ đi tất cả những gì là chán nản, thối chí, thất bại và vô vọng để nhắm vào một chủ đích, một cứu cánh mới.

Chính Chúa Giêsu lúc đó đã kêu gọi các ngư phủ cho họ trở nên những kẻ đánh cá người, để họ tham gia vào những cuộc tranh đấu, vật lộn với sóng nước biển cả. Biển đây chính là suối nguồn cuộc sống, là thức ăn của họ nhưng cũng là một mầu nhiệm, một đe dọa, một nguy hiểm và xáo trộn; biển này có thể lấy đi mạng sống của họ một cách dễ dàng, nhưng cũng nuôi dưỡng họ một cách phong phú và làm cho cuộc sống của họ hưng phấn.

Thiên Chúa mong muốn cho tất cả các con của Ngài góp phần mở rộng Vương Quốc Yêu Thương của Người bằng tích cực ra đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Đây là một vinh dự lớn lao, tuy nhiên không ai xứng đáng lãnh nhận trọng trách cao cả đó! Với thân phận con người, tất cả chúng ta đều cảm nhận mình bất xứng. Và như vậy, ta lại xin Chúa thêm ơn đức tin để ta hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó.

 

21. Tự do

Các ông từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.

Đọc lại Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ dứt khoát và từ bỏ của các môn đệ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu nói: Các con hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ chài lưới người ta, thì Phêrô, Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và cả những người thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi Matthêu: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề nghiệp mà bước theo Chúa. Thái độ mau mắn và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Các môn đệ là như thế, chúng ta thì sao?

Chúng ta thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng được bao nhiêu. Trong tâm tư nguyện vọng, chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị vua duy nhất của lõi lòng. Chúng ta muốn dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong cuộc sống cụ thể, chúng ta rất ngại phải hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến cho Ngài. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài giống như một ngọn đèn thiếu dầu. Bình thường thì nó cháy một cách leo loét, nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy sinh thì nó bỗng dưng phụt tắt.

Chính vì thế, mỗi người chúng ta phải kiểm điểm lại đời sống, phải hồi tâm xét mình và phải chấp nhận con người thực sự của chúng ta là như thế nào? Chúng ta có quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa hay không, bởi vì chính sự quảng đại này mới là thước đo sự gắn bó và tình yêu của chúng ta đối với Chúa.

Là người tín hữu, chúng ta có biết hy sinh những thú vui, cho dù là chính đáng, để chu toàn những bổn phận đạo đức của chúng ta đối với Chúa, để tuân giữ giới luật yêu thương của Ngài cũng như để thực thi thánh ý của Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta hay không?

Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp nhận những hy sinh gian khổ vì cuộc sống và tương lai của con cái hay không? Cho dù những khó khăn, những bất đồng, chúng ta có đem vào trong gia đình chúng ta một bầu khí yêu thương và đạo đức hay không?

Là những người con, chúng ta có biết mau mắn vui vẻ vâng theo những lời khuyên bảo của cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ những lo lắng của cha mẹ bằng cách chu toàn những bổn phận của mình hay không?

Để kết luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là nếu chúng ta còn ngại hy sinh, nếu chúng ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ chắn chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ đích thực của Ngài.

Nguồn: http://gplongxuyen.org