Chúa Nhật 09/05/2021 – CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH năm B. – Tình yêu cao cả.

Chúa Nhật 09/05/2021 – CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH năm B. – Tình yêu cao cả.

"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình".

 

Lời Chúa: Ga 15, 9-17

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.

Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.

Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con.

Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm B

Lời Chúa: Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15,9-17

 

1. Ở lại trong tình thương.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan,

tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con".

Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.

Không phải chỉ mình ông và gia đình ông,

cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng,

những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.

Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa.

Chỉ có tiếng hát và lời kinh.

Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc,

vì nó là bằng chứng của một tình yêu.

Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu

hiến mạng cho người bạn của mình.

Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe,

nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.

Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.

Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu.

Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.

Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.

Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy

thì phải giữ các điều răn (x. câu 10),

mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau

như Thầy đã yêu thương anh em.

Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu:

muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.

Cành nào muốn hiệp thông với cây

thì cũng phải hiệp thông với các cành khác.

Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành.

Chúng ta là những cành cây

được nuôi bằng một dòng nhựa.

Khi gắn bó thân thiết với Chúa,

chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.

Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy

để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa.

Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển:

như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em;

như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.

Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.

Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.

Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.

Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu,

yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.

Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê,

nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.

Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ.

Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.

Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng,

hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn

để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc... của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?

Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó khong? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con.

Có những ngày, đón nhận những người khác,

là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con.

Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con.

Có những ngày, mà yêu mến người khác,

làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau

và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con.

Trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên Lời Chúa nói:

"Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta".

 

2. Suy niệm các ngày trong tuần 6 Phục Sinh

(Suy niệm của Huệ Minh)

THỨ HAI TUẦN 6 PHỤC SINH

(Cv 16:11-15; Tv 149:1-2,3-4,5-6,9; Ga 15:26, 16)

ĐẤNG BẢO TRỢ ĐẾN

Chúa Giêsu không trối lại của cải hay bí quyết nào, mà trối lại Chúa Thánh Thần- Đấng sẽ làm cho các môn đệ hiểu rõ sự thật về Chúa Giêsu và về chương trình cứu độ của Người.

Khi Đấng Bảo Trợ đến. Chúa Giêsu có hai người phụ tá - có thể nói đó là: Chúa Thánh Thần (ở đây được gọi là Parakletos là Đấng bảo trợ, giúp đỡ hay an ủi) và các môn đệ. Cả Đấng Bảo Trợ và các môn đệ sẽ là những nhân chứng cho Đức Kitô nhưng chứng nhân trên hết là Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ làm chứng cho Đức Kitô, và các môn đệ cũng làm chứng như vậy.

Vai trò của Chúa Thánh Thần không chỉ rất quan trọng trong biến cố Tử nạn và Phục sinh của Đức Giêsu, nhưng còn quan trọng và cần thiết hơn trong lịch sử của Giáo Hội khi Giáo Hội đương đầu với những người luôn tìm cách bắt bớ và muốn tiêu diệt Giáo Hội mà họ tưởng làm thế là phụng thờ Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần sẽ phá tan những quan điểm sai lầm đó. Chúa Thánh Thần minh chứng rằng Đức Giêsu không đến để luận phạt thế gian nhưng đến để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Thật vậy, khi xưa cuộc tử nạn của Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại gương mặt yêu thương của Thiên Chúa, và hôm nay qua các khổ đau mà các môn đệ của Đức Giêsu gánh chịu, Chúa Thánh Thần tiếp tục làm cho khuôn mặt yêu thương của Thiên Chúa lại được sáng tỏ qua các thời đại. Nhờ Đức Giêsu chịu chết và nhờ các môn đệ chịu bách hại mà nhân loại nhận ra chân lý là chỉ có tình yêu mới thắng được hận thù và chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Người có đời sống đạo đức chân chính mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của những thử thách do sự thù ghét của thế gian. Sống theo chân lý là việc làm đầy khó khăn, đòi hỏi nhiều hy sinh và cố gắng, nhưng chính là điều kiện để làm môn đệ của Đức Giêsu. Bởi Đức Giêsu đã khẳng định: "Ai muốn theo ta thì hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta" (Ga 9, 23). Tuy nhiên, người môn đệ Chúa sẽ được Đấng Bảo Trợ đến trợ giúp, bênh vực và gìn giữ để hoàn tất sứ mệnh chứng nhân của mình.

Chúa Thánh Thần là tác nhân đầu tiên của việc phúc âm hoá. Chúng ta là những người cộng tác, phụ thuộc vào Chúa Thánh Thần. Vì thế, trong việc phúc âm hoá, chúng ta nên chú ý đến hoạt động của Chúa Thánh Thần, nhạy bén đối với những hướng dẫn của Ngài và trong mọi lúc chúng ta nên để mình phụ thuộc vào hành động của Ngài.

Nguồn gốc của Đấng Bảo Trợ là từ nơi Chúa Cha. Ngài là Thánh Thần Thiên Chúa, là Thần Khí sự thật, có sứ mạng đến làm chứng sự thật về Đức Giê-su. Sự thật đó là Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhờ Ngài, trong Ngài mà mọi người được lãnh ơn giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Thần sẽ soi sáng cho mọi người hiểu rõ Kinh Thánh, nhờ đó nhận ra Đức Giê-su và vai trò của Người. Sứ mạng làm chứng được Chúa Thánh Thần chu toàn qua môi miệng của các Ki-tô hữu và qua đời sống chứng tá của họ, như trường hợp của thánh Tê-pha-nô. Các tông đồ làm chứng theo lệnh truyền của Đức Giê-su, với quyền lực của Chúa Thánh Thần: “Thánh Thần và các ngài làm chứng” (Cv 5,32).

Tiền đề lí luận để Chúa Giêsu đòi các môn đệ làm chứng cho Chúa đó là việc các ông “đã ở với Ngài”. Đây là điều kiện cần và đủ dành cho người “làm chứng cho Chúa”. Người ấy phải ở với Chúa. Không có kinh nghiệm “ở với Chúa”, không có kinh nghiệm “sống và hoạt động” cùng với Chúa, không có kinh nghiệm “nên một với Chúa” thì không thể làm chứng cho Chúa.

Nếu chúng ta không ở với Chúa mà chúng ta làm chứng, thì những lời chứng của chúng ta chỉ là “nói lại điều người khác nói”, “trích lại điều đã trích”. Không ở với Chúa, không cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa thì việc làm chứng không có nền tảng, gặp một điều khó khăn sẽ bỏ cuộc tháo chạy. Khi sai các tông đồ đi làm chứng cho Ngài, Chúa Giêsu đã nói: “vì anh em đã ở với Thầy ngay từ đầu”. Các tông đồ ra đi và họ làm chứng về những điều họ đã cảm nhận…

Chúng ta dễ dàng thấy Chúa Giêsu sử dụng nền tảng cho lý luận tiền đề khi Ngài muốn các tông đồ làm chứng cho Ngài đó là: như Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng ban nguồn lực cho các tông đồ, Đấng đã nên một với Chúa Giêsu trong màu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa “đã làm chứng” về Chúa Giêsu; thì các tông đồ những người đã nên một với Chúa Giêsu “cũng phải làm chứng” về Chúa Giêsu. Đã ở với Chúa, đã nên một với Chúa, tất nhiên đã đủ điều kiện làm chứng cho Chúa.

Khi nêu lí luận tiền đề để nhắc các tông đồ phải làm chứng, Chúa Giêsu cũng nêu ra một hệ quả tất yếu đó là: Khi làm chứng cho Chúa các tông đồ cũng sẽ “bị khai trừ”, “bị giết” như Chúa đã tiên báo. Cuộc đời của Chúa Giêsu là minh chứng hùng hồn cho các tông đồ và cho cả chúng ta nữa về điều này. Làm chứng cho Chúa chắc chắn sẽ gặp rắc rối khó khăn.

Qua hành trình dài Chúa Giêsu sống và hoạt động với các môn đệ, qua những giờ phút đau thương của cuộc khổ nạn, rồi đến những ngày vui ngập tràn vì Chúa đã Phục Sinh vinh thắng… Tin Mừng hôm nay là những lời nhắn nhủ cuối cùng cho các môn đệ trước khi Chúa Giêsu về trời: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu”.

*****

THỨ BA TUẦN 6 PHỤC SINH

(Cv 16:22-34; Tv 138:1-2,2-3,7-8; Ga 16:5-11)

XIN THÁNH THẦN ĐẾN

Tâm trạng của con người trước sự ra đi nào cũng có những bùi ngùi xúc động, nhất là những cuộc ra đi thật xa. Sự ra đi của Chúa Giê-su xa chắc chắn sẽ để lại sự trống vắng, xao động và mất đi sức mạnh cho các tông đồ. Ngay cả tâm trạng của Chúa Giê-su trước khi ra đi trở về cùng Cha cũng không tránh khỏi những lo lắng ưu tư cho các môn đệ của Ngài còn ở lại trần gian: các tông đồ sẽ bơ vơ, sẽ bị chống đối, sẽ bị bắt bớ, sẽ bị chao đảo….

Vì thế, Chúa Giê-su đã hứa với họ, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đồng hành với các môn đệ, khi Ngài không còn sự hiện diện hữu hình, nhưng Ngài sẽ không để các ông bơ vơ một mình: “Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Chúa Thánh Thần sẽ làm chứng cho Đức Kitô

Thường cuộc chia tay nào cũng có nhiều day dứt. Đặc biệt cuộc chia tay giữa những người thân, người yêu lại càng nhiều cảm xúc, lo lắng, lưu luyến – chưa xa mà lòng đã bồi hồi. Bởi thế, khi loan báo cuộc ra đi trở về cùng Cha, thầy trò Đức Giê-su cũng không tránh khỏi niềm xao xuyến ấy: “Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh em hỏi: ‘Thầy đi đâu?’ Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền.” Tuy nhiên, vì tình yêu mà Thầy phải ra đi vì: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” Quả vậy, Chúa Thánh Thần – Thần Tình yêu và Chân Lý, Sự khôn ngoan của Thiên Chúa sẽ đến để ‘dạy bảo anh em mọi điều’; Ngài là Đấng Bảo trợ - Đây là một lời hứa tràn đầy sự an ủi, vì có Thiên Chúa bảo trợ chúng ta còn sợ gì?

Khi Chúa Thánh Thần đến “Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử: 9 về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; về việc xét xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi.”

Theo chú giải Tin mừng Gioan thì khi Đấng Bảo Trợ đến, Ngài sẽ hoàn tất cuộc xét xử trong lòng Giáo Hội qua ba điểm: Thánh Thần sẽ phơi trần tội lỗi của trần gian. Tội không tin Đức Ki-tô, mà đỉnh cao là đã giết Ngài; Minh oan cho Đức Ki-tô, Đấng Công minh sáng suốt: Đấng Bảo Trợ cho thấy rằng, nếu cái chết của Đức Giê-su bị xem là nhục nhã dưới lăng kính người đời, thì lại được Chúa Cha tôn vinh; Thánh Thần cho thấy rõ án phạt Xatan phải chịu khi Đức Giê-su đi vào cuộc vượt qua. Tuy bên ngoài bị tòa án trần gian xét xử, nhưng Đức Giê-su đã sống lại từ cõi chết, và do đó đã chiến thắng trần gian.

Ngày nay con người tiếp tục không tin và lên án giết Đức Giê-su qua việc chống đối Giáo hội của Ngài. Sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo định nghĩa: “Tin là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mặc khải.” (GLCG, s. 150)

Mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình và thử xét mình xem chúng ta đã gắn bó bản thân với Thiên Chúa hay chưa? Chúng ta có chấp nhận những chân lý Ngài dạy – chân lý về tình yêu, sự tha thứ, lòng khoan dung, tinh thần phục vụ… như là sự khôn ngoan, là kim chỉ nam để thi hành trong cuộc sống hay không? Hay chúng ta chỉ cậy dựa theo sự khôn ngoan thế tục trong cách hành xử của mình? Rất thường, chúng ta hay gác lời dạy của Chúa sang bên lề cuộc sống để hành xử theo thế gian. Tuy không trực tiếp lên án, giết Đức Giê-su, nhưng thực tế, Ngài đã bị bỏ quên hay chỉ còn là một món đồ trang sức cho cuộc sống của chúng ta. Đấng Bảo Trợ đến, Ngài sẽ phơi trần tội lỗi thế gian. Xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta để đem ra ánh sáng những vùng tối tăm trong tâm hồn, và xin Ngài thanh tẩy bằng lửa hồng mến yêu để chúng ta dám chết đi cho tội lỗi hầu đáng được hưởng phần vinh phúc với Đức Ki-tô.

Thánh Thần minh oan cho Đức Ki-tô, Đấng Công minh sáng suốt: “Đấng Bảo Trợ cho thấy rằng, nếu cái chết của Đức Giê-su bị xem là nhục nhã dưới lăng kính người đời, thì lại được Chúa Cha tôn vinh.” Bởi vì cái chết của Đức Giê-su là do tình yêu hy sinh ‘hiến mạng vì bạn hữu’ của Ngài. Vì thế Ngài rất đẹp lòng Chúa Cha và được Cha tôn vinh đặt làm ‘Chủ tể muôn loài’. Cuộc đời có Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ giúp chúng ta thi hành sự công chính mà Đức Giê-su truyền dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em. Điều thầy truyền dạy là anh em hãy yêu thương nhau.” (Ga 15, 12. 17).

Thật vậy, theo Kinh thánh người công chính là người ‘chu toàn lề luật’. Và lề luật Chúa Giêsu dạy ở đây đó là “yêu thương nhau như Đức Giê-su” một tình yêu vị tha hoàn toàn vô vị lợi. Do đó, khi yêu thương chúng ta đừng sợ thiệt thòi. Trong lăng kính của tình yêu vị tha không bao giờ có sự tính toán và cảm giác thua thiệt khi yêu thương phục vụ và cho đi. Trái ngược lại, tình yêu vị kỷ luôn luôn qui về mình, về lợi ích của mình và kết án tình yêu vị tha là ngu dại. Nhưng dưới con mắt Thiên Chúa thì “Tất cả những gì thế gian cho là ngu dại lại là sự khôn ngoan của Người.” Chúng ta chọn Thiên Chúa hay chọn thế gian tùy vào niềm tin của chúng ta đặt vào đâu. Nếu chọn Thiên Chúa, sống theo lời Ngài thì phần thưởng nước trời sẽ là gia nghiệp của chúng ta.

Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng con sống được tâm tình của Chúa Giêsu là sẵn sàng hy sinh, lùi vào ở “ẩn” để nhường chỗ cho luồng khí mới, làm môi trường sống được đổi mới. Xin Chúa Thánh Thần cũng ban cho chúng con ý thức hơn vai trò âm thầm nhưng thật mãnh liệt của Chúa Thánh Thần trong đời sống tâm linh để con luôn biết gắn bó và hợp tác với Chúa Thánh Thần để biến đổi canh tân đời sống tâm linh cá nhân, và đời sống của Giáo Hội.

*****

THỨ TƯ TUẦN 6 PHỤC SINH

(Cv 17:15,2218; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Ga 16:12-15)

THẦN KHÍ SỰ THẬT

Chúa Giêsu Đấng Cứu độ chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta và yêu thương đến cùng. Không những Ngài đã chịu khổ nạn mà cứu chuộc chúng ta, Ngài còn cảm thông sự yếu đuối bất lực của chúng ta trên cuộc hành trình về nước trời, nên Ngài xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, để Chúa Thánh Thần soi sáng, dạy bảo và dẫn dắt chúng ta tiến về Thiên Quốc để được hạnh phúc với Ngài.

Chúng ta đang ở trong những ngày chờ đợi Chúa Thánh Thần đến. Ngài chính là Ngôi Ba Thiên Chúa, phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Ngài là Tình Yêu giữa Cha và Con Ngài được gọi là Thần Khí của Thiên Chúa và cũng là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan muốn giới thiệu về một khuôn mặt mới của Chúa Thánh Thần và đó cũng chính là đặc tính của Ngài: Thần Khí sự thật.

Thật hạnh phúc và bình an biết bao khi đi trong đêm tối mà tìm ra được nguồn sáng, khi cô đơn, lẻ loi, đau khổ mà gặp được người bạn an ủi. Khi yếu đuối bất lực và nguy hiểm lại có người hỗ trợ, bao bọc, nâng đỡ, chở che, khi lạc đường gặp người dẫn dắt chỉ lối cho.

Trong trang Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói với các tông đồ rằng: “Thầy có nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Chúa Giêsu muốn yêu thương chúng ta vô cùng, Ngài muốn trao ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài có, tất cả những gì chúng ta cần có, để chúng ta được hạnh phúc với Ngài và như Ngài trong Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ta hãy nghe Lời của chính Chúa Giêsu “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (c.12). Chúa Giêsu đã gián tiếp giới thiệu về sứ mệnh của Chúa Thánh Thần; đó là Ngài sẽ nói những điều mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ. Có lẽ vì bản tính con người yếu đuối, các môn đệ không thể hiểu lời của Chúa Cha và Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần can thiệp và thiết lập mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài còn ban ơn soi sáng đức tin của chúng ta, là những kẻ vốn khó chấp nhận Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể.

Thế nhưng rồi khả năng, sức lực, tâm hồn và trí khôn của chúng ta thì có hạn trước những thực tại thiêng liêng, Chúa Giêsu biết rõ chúng ta Ngài không đòi hỏi chúng ta quá sức, Chúa cũng muốn chúng ta biết chúng ta như vậy, để khiêm tốn cầu xin ơn Chúa giúp chúng ta hiểu biết Chúa và những sự thuộc về Ngài. Hiểu biết lời Chúa không chỉ bằng tri thức, lý trí con người, nhưng còn phải cần đến sự soi sáng đánh động của Chúa, chúng ta mới có thể hiểu được bằng tâm thức và có cảm nghiệm sâu xa nữa. Điều ấy Chúa Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta như Chúa Giêsu nói:

“Thần Chân Lý đến, Người sẽ dẫn dắt anh em đến sự thật”. Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, Thần Khí Sự Thật, Ngài đã giúp các môn đệ xưa, và hôm nay đối với chúng ta Ngài giúp chúng ta hiểu tất cả sự thật được bày tỏ đầy đủ nơi Ngôi Lời Nhập Thể. Ngài sẽ dạy bảo chúng ta hiểu biết Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể và là Đấng cứu chuộc nhân loại. Chúa Thánh Thần lấy lời của Đức Kitô để soi sáng, dạy dỗ, dẫn dắt chúng ta, bởi vậy, nên Chúa Giêsu nói: “Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.

Chúa Thánh Thần lại lấy những điều nơi Chúa Giêsu mà loan báo cho các môn đệ. Như thế có nghĩa là Chúa Thánh Thần cũng làm công việc của Chúa Giêsu và những công việc ấy cũng phát xuất từ Chúa Cha, khi làm sứ mệnh này, Ngài chính là Thần Khí Sự Thật, vì Ngài đang nói về một sự thật đời đời: Đó là Thiên Chúa Ba Ngôi- sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ.

Chúa Thánh Thần làm cho các môn đệ và cho chúng ta nhận thức ngày càng sâu xa hơn về sự nghiệp và thân thế của Đức Giêsu, càng ngaỳ chúng ta càng hiểu về Đức Kitô hơn, đó là điều làm cho Đức Kitô càng ngày càng được tôn vinh, đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Ngài sẽ tôn vinh Thầy”. Nhưng Chúa Giêsu cũng cho chúng ta biết mọi sự Ngài có là của Chúa Cha, và mọi sự của Cha là của Con, nên mọi Chân Lý đều ở nơi Chúa Cha, Chúa Con chỉ là phát ngôn viên của Chúa Cha, mà Chúa Thánh Thần là Đấng phổ biến và giải thích. Vì thế khi ta làm dấu Thánh giá, chúng ta tuyên xưng Chúa Ba Ngôi, và đồng thời chúng ta tuyên xưng Chân Lý Chúa Con mạc khải Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần giúp ta hiểu biết những điều Chúa Con mạc khải.

Trên con đường đi tới ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã mang lại cho chúng ta nhờ cuộc tử nạn của Ngài, chúng ta rất cần có Chúa Thánh Thần soi sáng, dạy dỗ, dẫn dắt. Đừng bao giờ chúng ta tự phụ, tự mãn về những giáo lý chúng ta đã hiểu biết, nhưng phải luôn luôn thao thức học hỏi, tìm hiểu, suy niệm, cảm nghiệm sâu xa hơn nhờ Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu khẳng định: “khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Ngài sẽ đưa anh em tới sự thật toàn vẹn” (c.13a). Một sự thật về Chúa Cha, về Chúa Giêsu và về Ba Ngôi Thiên Chúa. Một sự thật về Tình Yêu của Thiên Chúa và con đường cứu độ của Ngài. Sự thật ấy đời đời ở trong Ba Ngôi Thiên Chúa, ở nơi cung lòng Chúa Cha. Sự Thật ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa: “Ngài không tự mình nói ra, nhưng những gì Người nghe, Ngài sẽ nói lại và loan báo những điều sẽ xảy đến” (13b).

Và như vậy, Chúa Thánh Thần ở đây đóng vai trò giảng dạy và củng cố niềm tin cho các Tông Đồ. Ngoài ra, Ngài cũng tỏ lộ những điều sẽ xảy ra trong tương lai như một bằng chứng về quyền năng Thiên Chúa của Ngài.

Chính nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng làm cho mọi người biết Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa, để Thiên Chúa được tôn vinh. Chúa Thánh Thần là Thầy dạy thường trực của chúng ta, có khi trực tiếp bằng sự soi sáng, đánh động, có khi qua các trung gian trong Hội Thánh, có khi Ngài uốn nắn lương tâm chúng ta cho ngay thẳng, chính trực. Tất cả là để đưa chúng ta đến phần rỗi đời đời. Chúng ta hãy luôn khao khát ơn Chúa Thánh Thần, luôn cầu xin Chúa Thánh thần và sống mật thiết với Chúa Thánh Thần trong tư thế tỉnh thức đón nhận những hoạt động của Ngài trong tâm hồn chúng ta.

*****

THỨ BẢY TRONG TUẦN 6 PHỤC SINH

(Cv 18:23-28; Tv 47:2-3,8-9,10; Ga 16:23-28)

SINH NHIỀU HOA TRÁI

Tin Mừng hôm nay diễn tả niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa.Sau khi Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết Người sẽ chịu khổ hình, còn các ông sẽ bị thế gian tấn công và phải chịu chung một số phận với Thầy. Các môn đệ tỏ ra hoang mang lo lắng, Chúa Giêsu liền trấn an các ông đừng sợ hãi vì có Đấng Bảo Trợ sẽ đến giúp đỡ.

Chúa Giêsu khuyên các ông hãy cầu xin Chúa Cha ban cho những ơn cần thiết để vượt qua cơn gian nan thử thách và tìm thấy niềm vui đích thực: “Anh em xin Chúa Cha điều gì, Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (c. 23-24).

Lời khẳng định của Chúa Giêsu là niềm an ủi lớn cho mỗi người chúng ta.Thiên Chúa là Cha nhân từ sẵn sàng ban nhiều ân sủng nếu cho chúng ta thực tâm cầu xin.

Chúa Giêsu đang tâm sự với các môn đệ trong bầu khí của bữa tiệc ly, nghĩa là bầu khí của tình yêu đến cùng được Đức Giê-su diễn tả qua cử chỉ rửa chân và nhất là qua mầu nhiệm Thánh Thể. Trong bầu khí này, Chúa Giêsu nói: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15, 8).

Và hoa trái mà Đức Giê-su chờ đợi nơi người môn đệ để tôn vinh Chúa Cha, chính là tình yêu các môn đệ dành cho nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (15,17). Tình yêu các môn đệ được mời gọi dành cho nhau, không phát xuất từ chính nỗ lực của các môn đệ, nhưng phát xuất từ Tình Yêu Ba Ngôi: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (c. 9); và “chính Chúa Cha đã yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy” (c. 27).

Chính Đức Giêsu cũng phải đối mặt với nỗi sợ hãi nhưng Người đã tìm được sự an ủi nhờ liên kết mật thiết với Chúa Cha. Hành trình lên Giêrusalem và tiến về núi Sọ là nỗi ám ảnh đè nặng trên Đức Giêsu, nhưng Người đã vượt qua tất cả nhờ sức mạnh của Thánh Thần trong Chúa Cha yêu dấu.

Trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh với chúng ta về sự biến đổi mãnh liệt của các môn đệ sau biến cố Chúa Phục Sinh: “Niềm vui của Tin Mừng là niềm vui lấp đầy đời sống cộng đồng của các môn đệ, là một niềm vui truyền giáo. Bảy mươi hai môn đệ đã cảm thấy vui mừng khi trở về từ sứ vụ truyền giáo. Chúa Giêsu đã cảm thấy điều ấy, Người vui mừng trong Chúa Thánh Thần và chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho những người nghèo hèn và những người bé nhỏ. Đó là điều cảm thấy bởi những người đầu tiên trở lại là những người đầy ngưỡng mộ khi nghe các Tông đồ rao giảng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Niềm vui này là một dấu chỉ cho thấy Tin Mừng được công bố và sinh hoa trái”.

Chỉ có Chúa mới giải thoát chúng ta khỏi mọi lo lắng trần gian, khỏi mọi nỗi sợ hãi để tận hưởng niềm vui linh thánh ngọt ngào. Niềm vui ấy không phải chỉ biểu hiện qua tiếng cười nhưng còn âm vang trong giọt nước mắt, xuyên qua những thất bại. Niềm vui của Chúa không đọng lại trên những thành công nhưng chan chứa trong cả nỗi mất mát đớn đau.

Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta cũng phải đối mặt với gánh nặng của thân phận con người, của gia đình vợ chồng con cái làm chúng ta thất vọng chùn bước. Hãy tựa nương vào sức mạnh của tình thương và ân sủng Chúa, Người sẽ không lìa bỏ mà còn nâng đỡ để chúng ta tìm thấy niềm ủi an. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta đến tận hưởng hạnh phúc, đến để sống và sống dồi dào. Để có được niềm vui trọn vẹn, chúng ta phải sống gắn kết mật thiết với Thiên Chúa như cành nho liền với cây nho. Đi vào chiều sâu của tình yêu chúng ta mới hiểu được giá trị của đau khổ, mới dám dấn thân phục vụ và sống trọn nghĩa yêu thương.

Con người là một hữu thể luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc và tràn ngập niềm vui. Có người tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc trong vinh hoa phú quý, công danh chức quyền hay trong khoái lạc trần gian. Đó là những niềm vui của thế gian qua mau chóng tàn, những thứ hạnh phúc mong manh dễ vỡ. Mỗi người chúng ta bị ràng buộc và nô lệ bởi nhiều thứ đến từ thế gian nên không có được niềm vui tròn đầy và hạnh phúc đích thực.

Vậy, khi Đức Giê-su mời gọi chúng ta xin: “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn”, chúng ta, với tư cách là người môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta sẽ xin điều gì, để Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta và làm cho chúng ta ở trong niềm vui trọn vẹn, nếu không phải là xin trở thành người môn đệ “sinh nhiều hoa trái”? Thế mà, người môn đệ “sinh nhiều hoa trái” mà Đức Giê-su mong muốn, là những người biết yêu thương nhau và làm lan truyền tình yêu như Ba Ngôi Thiên Chúa và cho Vinh Danh Chúa Ba Ngôi, trong giáo xứ, cộng đoàn, gia đình và trong môi trường sống của mình.

 

3. Yêu thương anh em

Ở mọi nơi và trong mọi lúc, các tôn giáo thường chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa Thượng Đế và con người. Còn mối liên hệ giữa con người với con người, nếu không bị bỏ quên, thì cũng bị coi nhẹ. Bởi vì tự bản tính loài người, chúng ta ai cũng ích kỷ chỉ lo cho mình mà thôi.

Thế nhưng với Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã lập lại thế quân bình giữa hai mối liên hệ: giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thật vậy, khi người ta hỏi Ngài xem điều răn nào là đieu răn quan trọng nhất, thì Ngài đã xác quyết: Mến Chúa và yêu người, cả hai đều giống nhau, nghĩa là có giá trị bằng nhau.

Hơn thế nữa, với Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta có cảm tưởng như Chúa Giêsu chỉ chú trọng điều điều răn thứ hai mà Ngài gọi là điều răn mới. Ngài nói đây là điều răn của Thầy: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống của mình vì bạn hữu. Thực ra Chúa Giêsu không có ý bảo chúng ta rằng: Từ nay khỏi cần phải nghĩ tới chuyện kính mến Thiên Chúa, chỉ cần yêu thương anh em mà thôi. Nhưng sở dĩ Ngài không nói tới lòng kính mến đối với Thiên Chúa la vì mọi tình yêu thứ thiệt điều bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì Ngài chính là Tình yêu.

Nước chảy phải có nguồn. Chặn nguồn lại thì nước sẽ không thể chảy xuống sông ngòi mà đi vào ruộng đồng. Với niềm tin, chúng ta thấy neu không có lòng kính mến đối với Thiên Chúa, thì cũng không thể có tình yêu thương đối nhau thực sự được. Bởi thế, trong điều răn mới đã bao gồm điều răn thứ nhất rồi.

Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bản chất của tình yêu ấy luôn luôn là trong sạch, vui tươi và viên mãn. Thế nhưng khi vào đời, tình yêu ấy cũng như dòng nước chảy, nhiều khi uốn khúc quanh co, nhiều khi đụng phải những chướng ngại vật và phải chảy qua cả những chỗ sình lầy dơ bẩn. Nhưng cuối cùng, thì chính tình yêu sẽ thanh tẩy tất cả, sẽ biến đổi tất cả, để rồi hướng mọi dòng chảy, nghĩa là hướng mọi thứ tình yêu con người chảy vào lòng đại dương bao la là chính tình yêu của Thiên Chua.

Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta tình yêu, để rồi nhờ chúng ta mà mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc sẽ được trở về với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Alpha và Ômêga, là khởi thuỷ và cùng đích của mọi tạo vật.

 

4. Yêu thương nhau

Những lời nói cuối cùng trong cuộc đời của một người thường là những lời nói tâm huyết, bộc lộ cả một tấm lòng chân thực. Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi ra đi chịu chết, Ngài đã cùng với các môn đệ dùng bữa tối. Trong bữa ăn này, sau khi đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nói với các ông tất cả những gì cần nói.

Trong cuộc trao đổi này, Chúa Giêsu đã xác định các ông là những người bạn hữu của Ngài, bởi vì các ông được Ngài cho biết tất cả những gì Cha Ngài đã nói với Ngài. Cũng trong cuộc trao đổi ấy, Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại với các môn đệ một lệnh truyền quan trọng, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.

Bằng chính cuộc đời của mình, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ mẫu gương sáng chói của tình thương yêu. Chính Ngài đã đi tới tận cùng của lòng thương yêu ấy như Ngài đã từng nói: Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến mạng sống mình vì bạnhữu. Quả thực, nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với Thiên Chúa, thì cũng là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với con người. Đó cũng chính là mẫu mực, chính là nền tảng cho tình yêu thương huynh đệ.

Hơn thế nữa, ở đây Chúa Giêsu còn đặt tình yêu thương giữa các tông đồ vào trong mạch thương yêu xuất phát từ Thiên Chúa: Như Cha đã yêu mến Thầy, thầy cũng yêu mến các con. Vậy các con hãy yêu mến nhau. Chính nhờ tình thương yêu này mà các môn đệ ở trong tình thương yêu của Chúa Giêsu, cũng như vì lòng thương mến các môn đệ, mà Chúa Giêsu ở trong tình thương của Chúa Cha.

Chúng ta có thể nói: với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào cối lõi của chương trình cứu độ, tức là đưa mọi người vào lại trong tình thương của Thiên Chúa và trong tình thương yêu lẫn nhau. Hai vế của tình thương này không thể tách rời nhau như lời thánh Gioan đã khẳng định: Kẻ nói mến Chúa mà không thương người, thì chỉ là kẻ nói dối. Với lòng thương yêu này, các tông đồ sẽ được nếm thử niềm vui ơn cứu độ, đồng thời còn phản ảnh được lòng mến Chúa của chúng ta nữa như lời Chúa Giêsu đã phán: Nếu các con yêu thương nhau thì mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy.

Điều Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ ngày xưa, cũng là điều Ngài truyền cho chúng ta hôm nay. Đạo của Đức Kitô chính là đạo của tình thương, của lòng yêu mến. Tất cả mọi tổ chức, mọi lập trường, mọi quan điểm của Giáo Hội cũng như của chúng ta, nếu không thực sự phục vụ tình thương đều là những gì nằm ngoài Kitô giáo. Ngược lại, việc rao giảng Tin Mừng, và làm chứng tá cho Chúa một cách hữu hiệu nhất, không gì bằng thực hiện giới luật của Chúa, đó là hãy yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta.

 

5. Yêu thương nhau như Chúa

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Hôm nay Chúa Nhật thứ hai của Tháng Năm đúng vào ngày của Mẹ. Vào ngày này cả thế giới tỏ lòng tri ân và để tôn vinh sự yêu thương và hy sinh cao cả của Mẹ dành cho gia đình. Quả thế, Không có gì ngọt ngào như lời của Mẹ. Không có gì dạt dào bằng tình thương của Mẹ. Không có gì xót xa hơn khi tóc Mẹ ngày thêm sợi bạc. Có gì thương hơn là Mẹ với con, dù con lớn vẫn là con của Mẹ. Đi suốt đời lòng Mẹ vẫn theo con.

Đúng như thế, trong trận động đất sóng thần xảy ra ở Nhật Bản vào tháng năm 2010, khi đội cứu hộ tiếp cận một ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ trông thấy thi thể bất động của cô qua các khe nứt. Nhưng tư thế của cô thật kì lạ, trông cô như đang quỳ xuống như khi cầu nguyện, thân cô hướng về phía trước, và hai tay cô như đang bọc lấy thứ gì đó. Ngôi nhà đổ nát đã đè quỵ hoàn toàn lưng và đầu của cô. Dù rất khó khăn, người đội trưởng vẫn cố gắng đưa tay qua các khe nứt để chạm tới thân người phụ nữ. Ông hy vọng mong manh rằng cô vẫn sống. Khi chạm đến làn da lạnh và cơ thể cứng ông biết người phụ nữ này đã chết. Ông lại lần mò bên dưới không gian chật hẹp cơ thể đã lạnh của người phụ nữ, ông reo lên:"Một đứa trẻ, là một đứa trẻ!" Cả đội đã cẩn thận di dời từng mảnh đổ vỡ của căn nhà chung quanh người cô. Một cậu bé 3 tháng tuổi đã được tìm thấy trong tấm chăn hoa bên dưới thân người mẹ đã mất của mình. Người mẹ đã hy sinh thân mình để cứu lấy cậu bé, khi căn nhà sụp đổ, cô đã ôm trọn đứa trẻ và gánh lấy toàn bộ sức nặng của tòa nhà, đứa trẻ vẫn ngủ, một cách bình yên khi người đội trưởng đưa ra. Bác sỹ nhanh chóng kiểm tra cậu bé, khi mở tấm chăn ông thấy một chiếc điện thoại. Một dòng chữ vẫn sáng trên màn hình: "Nếu con có thể sống, con phải nhớ rằng mẹ luôn yêu con."

Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất và được người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ với nhau. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính, “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc!”. Như vậy nó không có mẫu số chung. Đức Giêsu hôm nay đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu và có mẫu số chung: yêu như Chúa yêu.

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Có nghĩa rằng muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như thế”. Đức Chúa Cha là nguồn cội của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu phải quy chiếu về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu của Chúa như thế nào? Qua Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho thấy rõ tình yêu Thiên Chúa qua 3 chiều kích:

Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình. Chúa Cha yêu thương tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu, lành hay dữ, thực vật hay súc vật, cỏ cây… Cho nên, trong bài đọc 2, Thánh Gio-an quả quyết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống”. Chúng ta đó chẳng phải là mọi người đó sao? Có đạo hay không có đạo, thiện hay ác đó sao?

Thứ đến, Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Tin nhắn của mẹ Nhật bản: “Nếu con có thể sống, Mẹ vẫn yêu con”, nhưng thử hỏi nếu con phản bội mẹ thì sao? Chưa biết? Còn Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã dựng nên ta, nhận ta làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Còn ta không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Đó là Ngài hy sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người. Cho nên, tình yêu của Chúa Giêsu là mẫu số chung cho mọi tình yêu chúng ta dành cho nhau: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.

Cuối cùng, tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Cụ thể dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Người Cha yêu quá đến nỗi quên hết những lỗi lầm của ta. Và trên cây thánh giá, Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của mình. Cho nên, Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa, tình yêu của Ngài chỉ yêu chứ không có ghét, hay trả thù. Còn ta thì sao? Tình yêu của chúng ta còn có ghét, “yêu nhau yêu cả lối đi ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng” hay “Yêu nhau kéo áo đắp chung, ghét nhau nắng dãi mưa dầm mặc nhau. Yêu nhau con mắt liếc qua, ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra”.

Tháng Năm, cũng là tháng Hoa dâng kính Mẹ. Đoàn con cái Mẹ ở khắp nơi muốn hiệp lời hát khen ca tụng Mẹ, dâng lên Mẹ những đóa hoa tươi xinh để tỏ lòng yêu mến. Ước chi những đóa hoa rực rỡ hương sắc ấy, mà mỗi người trong giáo xứ chung ta dâng lên Mẹ trong Năm Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Giáo Xứ, không dừng lại ở vẻ đẹp bên ngoài, nhưng biểu lộ tâm tình của những người con muốn ngước nhìn và bắt chước Mẹ sống gắn bó với Chúa Giêsu, biết lắng nghe và ghi khắc Lời Ngài, hết tình yêu thương và phục vụ anh chị em và sẵn sàng đi ra làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Xin cho mỗi mọi chúng ta cùng với Mẹ Maria biết lấy tình yêu Thiên Chúa đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Allêluia!

 

6. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa Nhật tuần trước nói về nguyên lý cành nho phải kết hợp với cây nho mới sinh hoa trái.

Qua đó, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống liên kết với Ngài và liên kết với nhau. Hôm nay, Đức Giêsu còn đưa ra một giáo huấn hết sức quan trọng và mời gọi chúng ta thực hiện, đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.”(Ga 15,12). Để thực hiện giáo huấn này, chúng ta cần tìm hiểu: Đức Giêsu yêu nhân loại như thế nào? Chúng ta phải làm gì để yêu thương nhau như Đức Giêsu yêu nhân loại?

1. Đức Giêsu yêu nhân loại như thế nào?

Đức Giêsu yêu nhân loại đến nỗi Ngài đã chấp nhận xuống thế làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi: sinh ra nơi hang đá nghèo hèn trong đêm đông lạnh lẽo; sống trong một gia đình thiếu thốn ở Nazaréth với cha nuôi của Ngài là bác thợ mộc Giuse, mẹ của Ngài là bà Maria, một thôn nữ nhà quê; gần 30 năm làm nghề thợ mộc để phụ giúp gia đình.

Trong ba năm đời sống công khai, vì tình yêu nhân loại nên Đức Giêsu đã đi khắp nơi để thực hiện ý định yêu thương: Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi, đến với hết mọi hạng người không phân biệt dân tộc màu da hay địa vị giàu nghèo; Ngài đến với những người đau yếu bệnh tật để cứu chữa họ; Ngài tha thứ cho những người tội lỗi, cho những kẻ xúc phạm đến Ngài; Ngài đã tuyển chọn, huấn luyện các Tông đồ và thiết lập Giáo hội; Ngài đã thiết lập các Bí tích là máng chuyển thông ơn Chúa cho loài người; Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và dạy họ hãy làm như thế với nhau; Ngài đã chấp nhận bước vào con đường khổ giá một cách tự nguyện để cứu độ nhân loại. Đó là bằng chứng tình yêu Ngài dành cho nhân loại, đúng như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).

Sau khi sống lại, vì yêu thương nên: Ngài đã hiện ra với nhiều người, nhất là hiện ra với các Tông đồ để củng cố đức tin cho họ và cho mọi người qua mọi thời đại; Ngài ban Thánh Thần cho các Tông để các ông thêm can đảm làm chứng cho Tin mừng; Ngài soi sáng cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta am hiểu Kinh thánh; Ngài còn nâng chúng ta lên thành bạn hữu của Ngài: “Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu.” (Ga 15,15).

Tóm lại, những lời nói, những việc làm của Đức Giêsu trong suốt 33 năm sống trên trần thế đều vì yêu thương nhân loại chúng ta.

2. Chúng ta phải làm gì để yêu thương nhau như Đức Giêsu yêu nhân loại?

Đó là yêu hết mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giàu nghèo…phải yêu mọi người là anh em với nhau như Đức Khổng Tử đã nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em.

Đó là biết trao ban và cho đi. Không chỉ trao ban và cho của cải vật chất mà còn trao ban và cho cả nụ cười, cái nhìn yêu thương, lời nói động viên khích lệ. Bởi vì, cho là được, giữ là mất. Cho thì có phúc hơn là lãnh nhận. Cho một cách vô vị lợi, không so đo tính toán.

Đó là biết hy sinh. Hy sinh thời gian, hy sinh tiền bạc, hy sinh sức lực và hy sinh chính cả mạng sống của mình vì người mình yêu. Pierre l’Ermite nói rằng: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đức Giêsu cũng đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.”(Ga 15,13)

Đó là tình yêu chân thành. Thánh Gioan Tông đồ khuyên các tín hữu hãy yêu thương nhau chân thành, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng chính việc làm: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.”(1Ga 3,16-18).

Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Người ta kể rằng: Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.

Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.

Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ “Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.

Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời: “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong tình yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Ta ”. (Sưu tầm)

Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại nên Chúa đã xuống thế làm người, đã lập nên Giáo hội, các Bí tích, nhất là đã hy sinh cả tính mạng của mình. Chúng con hết lòng cảm tạ Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến Chúa và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương nhân loại chúng con. Amen.

 

7. Yêu như Thầy

"Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương".

Trước khi đi vào con đường khổ giá, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gấm được coi như bí mật cuối cùng và quý giá nhất của Ngài. Đó là lệnh truyền: "Anh em hãy yêu thương nhau". Trước đây Chúa Giêsu đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương rồi, nhưng trong giờ phút chia tay thì đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: "Điều răn của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 15, 12). Thế là lời trăn trở củaThầy đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối  không bao giờ được đặt lại vấn đề và là một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên " yêu thương nhau" đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước cho họ " Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra".

Sống yêu thương thì dễ hiểu rồi, bởi vì là con người thì ai ai cũng biết mình có bổn phận phải yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác. Nhưng phải yêu thương ai?  Chắc chắn đây không phải chỉ nói với những người lập gia đình, sống đời hôn nhân nhưng Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người. Vì thế ta phải hiểu chữ yêu thương nhau theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng nhìn lại thực tế, chúng ta chỉ yêu thương một số người như cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bè bạn thân thiết, vài người yêu thương của chúng ta. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn thù ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như Chúa đã dạy chúng ta? Hơn nữa, Chúa bảo chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con. Vậy yêu thương như Chúa Giêsu là yêu thương như thế nào? Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy". Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa; còn các môn đệ là người, là học trò. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã tôn trọng.

Chúng ta đang yêu thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu thương của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng quyền của họ có khác với quyền của ta. Có như vậy mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.  Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ, tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó. Chúa Giêsu nói "Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con". Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.

Hơn nữa, chúng ta phải yêu người như Chúa yêu ."Cha đã yêu mến Thầy thế nào,Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em". Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x.bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x.bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, người xa lạ trở thành thân quen. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu".   

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tính đối với Thiên Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em. Phải biết "Yêu như Chúa yêu" và "yêu người như yêu Chúa". Yêu như Chúa yêu nghĩa là không đóng khung giới hạn, biết đến với mọi người. Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài.

Mỗi thánh lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con luôn nhớ lời căn dặn của Chúa, để chúng con luôn biết sống yêu thương nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, để chúng con luôn làm tròn sứ mạng Chúa đã trăn trối, để chúng con luôn là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

 

8. Yêu mến – Lm. Giuse Phạm Quốc Phong

“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)

Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nao chúng ta có thể yêu và được yêu?

Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúa, chấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chung ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ la “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhoc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.

“Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.

“Thầy đã nói với anh em … để niem vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì càm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rat nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.

 

9. Yêu như thầy yêu – Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh

Yêu và muốn được yêu là khát vọng ngàn đời của con người.

Nhưng… tình yêu phát xuất từ đâu? Thế nào là yêu và được yêu?

Thánh Gioan trong thư thứ nhất của ngài đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”.

Như thế nguồn gốc phát sinh ra tình yêu là Thiên Chúa. Ngài là người yêu thương chúng ta trước và chúng ta là người được yêu: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước” và Ngài đã biểu lộ tình yêu ấy đối với chúng ta là Ngài “đã sai Con Một Ngài đến trong thế gian, để nhờ Người Con Một ấy mà chúng ta được sống”.

Về phần con người, nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mang bản chất của Thien Chúa và chúng ta nhận biết Ngài là Cha yêu thương. Yêu thương là dấu chỉ để thế gian nhận biết chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Yêu Chúa, yêu người là hai giới răn quan trọng, tóm kết những giới răn khác. Như thế, là con cái Thiên Chúa, là Kitô hữu chúng ta phải có bổn phận biểu lộ bản chất yêu thương với Thiên Chúa và với mọi người.

Tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa đến con người tựa như một cây nho mà gốc và thân cây nho là Thiên Chúa và cành nho là con người như lời Thầy Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng…anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 5:1, 5). Chúa Cha yêu thương Chúa Con bằng nhựa yêu thương là Chúa Thánh Thần thúc đẩy và nuôi dưỡng cây nho lớn mạnh và phát triển sinh nhiều hoa trái: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga. 15: 9) và “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga. 15: 12)

Nhưng chúng ta phải yêu Thiên Chúa, yêu con người như thế nào?

Hôm nay, qua đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga. 15: 9-17), Thầy Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương yêu thương: Yêu như Thầy yêu.

Để cho cây nho yêu thương phát triển và lớn mạnh và sinh nhiều hoa trái, thì cả thân lẫn cành phải ở lại, phải gắn liền, phải liên kết từ gốc đen cành bằng nhựa yêu thương, phải chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái,tức là tuân giữ lệnh truyền, tuân giữ giới răn mà tình yêu đòi hỏi, và hy sinh mạng sống vì người mình yêu.

Khi yêu, không ai lại muốn đem điều xấu, điều bất hạnh đến cho người mình yêu. Hơn thế, Thiên Chúa là tình yêu, là Cha nhân lành thì chắc chắn không bao giờ Ngài bắt con người tuân giữ những lệnh truyền, những giới răn đưa con người đến bất hạnh và khổ đau; còn hơn thế, Chúa Cha đã hy sinh Người Con Một yêu dấu mình, Chúa Con đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu.

Như Cha Thầy yêu Thầy, Thầy Giêsu cũng yêu thương anh em.

Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau.

Tình yêu Chúa Cha và Chúa Con đã lan phát sinh ra tình yêu con người và từ tình yêu con người lại lan toả ra tình yêu giữa con người với con người.

Thầy đã thể hiện tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha bằng “đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Ngài”.

Chúng ta không biết Chúa Cha yêu Chúa Con đến mức độ nào, nhưng qua lời công bố của Chúa Cha: “Này là Con Ta rất yêu dấu và đẹp lòng ta, các con hãy vâng nghe lời Ngài” và qua lời xác nhận của Thầy Giêsu: “Thầy yêu anh em như Cha Thầy yêu Thầy”, chúng ta tin Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau rất thắm thiết, yêu nồng nàn, yêu chứa chan hơn bất cứ một tình yêu nào khác!

Chúa Con đã yêu thương Chúa Cha bằng vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng không theo ý con mà xin theo ý Cha”.

Vâng theo ý Cha là tuân giữ lệnh truyền của Cha, thực thi ý muốn của Cha, và như thế là làm đẹp lòng Cha và ở lại trong tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu đã chấp nhận xuống thế làm người, chịu đau khổ,chịu chết để đem con người vào cõi phúc trường sinh. Đó là tình yêu của Thầy Giêsu dành cho con người. Đến lượt chúng ta, chúng ta lại yêu thương nhau nhưThầy đã yêu thương chúng ta.

Theo gương của Thầy Giêsu, chúng ta lại phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta, mà muốn yêu thương anh em, chúng ta phải ở lại trong tình yêu của Thầy như Thầy ở lại trong tình yêu của Cha Thầy và muốn ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta lại phải giữ giới răn Thầy truyền dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga. 14,23-24), và hy sinh mạng sống mình vì anh em. Hy sinh mạng sống mình vì anh em là biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, là đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…. Hy sinh mạng sống vì người mình yêu là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình”. (Ga. 15,13)

Khi chúng ta yêu Thiên Chúa là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, là anh em cùng một Cha, nhưng khi chúng ta cùng Chúa Cha và Chúa Con yêu thương đồng loại, yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa, thì chúng ta đã trở thành môn đệ, là bạn hữu như lời Thầy Giêsu đã nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga. 15,15).

Xin kể một câu chuyện về bạn hữu ở đời thường như sau:

Bão Thúc (tức Bão Thúc Nha, còn có tên là Bão Tử, người tài giỏi việc nước của nước Tề) đã cắt cử Quản Trọng cho Hoàn Công dùng. Quản Trọng tên thật là Di Ngô, người nước Tề, một tướng giỏi.

Bão Thúc chết, Quảng trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi:

- Ông với Bão Thúc không phải là người họ hàng thân thích, sao ông thương tiếc ông ta quá vậy?

Quản Trọng giải thích:

- Ngươi không rõ ngọn ngành đâu! Để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn bán chung với Bão Thúc; lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, nhưng Bão Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền để tiêu dùng nên mới làm thế. Ta ở chỗ chợ búa thường hay bị lắm kẻ bắt nạt, Bão Thúc không coi ta là người hèn nhát, nhưng biết ta rộng lượng, không chấp những điều người ta đối xử với mình. Ta bàn việc với Bão Thúc, nhiều lúc việc hỏng, Bão Thúc không cho ta là ngu, mà cho là việc thành công hay thất bại là do có lúc may mắn, có lúc không. Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi nhiệm, Bão Thúc không cho ta là người chẳng ra gì, mà lại coi ta là người chưa gặp thời, chưa tìmđược vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bão Thúc không cho ta là bất tài, nhưng biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. Ta nhịn nhục thờ vua Hoàn Công, Bão Thúc không cho ta là người vô liêm sĩ, người không biết xấu hổ, mà biết ta không giữ những chuyện nhỏ mọn, có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ...

Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu biết ta là Bão Thúc. Với người hiểu biết mình, thì đem cả tính mạng ra mà đền đáp còn chưa đủ huống chi thương khóc thế này thì đã thấm vào đâu! (Thuyết Uyển. Cổ Học Tinh Hoa)

Thật là người bạn đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, người bạn tri kỷ!

Tình bạn giữa con người chưa mang dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa mà còn được thán phục như thế, thì kết qủa của tình bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người lại càng cao trọng và đáng thán phục hơn nhiều Yêu thương anh em như chính mình đã khó, yêu thương anh em như Thầy Giêsu yêu chúng ta lại càng khó hơn! nhưng đó là những nỗ lực chúng ta cần phải đạt tới để được xứng đáng là Kitô hữu, là bạn hữu của Thầy Giêsu. Điều kiện để yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta là giữ giới răn Chúa truyền dạy, là ở lại nơi Thầy và hy sinh mạng sống mình vì anh em, cụ thể hơn là đọc và nghe tieng nói của Thiên Chúa qua Tin Mừng và ở lại, sống kết hợp với Chúa trong phép Thánh Thể.

Chúng ta đã đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với Thầy Chí Thánh của chúng ta như thế nào để được xem là bạn hữu của Thầy Giêsu!

 

10. Yêu thương anh em.

Sống trong cuộc đời, chúng ta phải yêu thương nhau. Đó là điều dễ hiểu. Bởi vì nếu không yêu thương nhau, xã hội sẽ bất ổn và bản thân chúng ta cứ phải nơm nớp lo sợ trước những hận thù chồng chất. Thế nhưng, phải yêu thương nhau như thế nào?

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một khuôn mẫu để noi theo và bắt chước. Ngài phán: Các con hãy yêu thương nhau, như Thày đã yêu thương các con. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta như thế nào, để rồi chúng ta sẽ lấy tình yêu của Ngài làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc để đo mọi việc làm của chúng ta?

Không cân phải nói, hẳn chúng ta cũng đã quá rõ: Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, lớn lên trong xưởng thợ Nagiarét. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống vất vả và nghèo túng. Ở nhà thì phải lao động cực nhọc. Đi rao giảng Phúc âm thì vất vưởng nay đây mai đó, không có lấy cả một nơi để gối đầu và nghỉ ngơi. Nhất là Ngài đã chết một cái chết ê chề và nhục nhã, như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Liệu chúng ta có thể biểu lộ tình yêu thương của chúng ta bằng những hành động cụ thể như vậy hay không? Liệu chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh và ngay cả cái chết cho những người mình thương mến hay không?

Hẳn chúng ta còn nhớ một Maximilianô Kolbê đã chết thay cho một bạn tù ở trại tập trung của Đức Quốc Xã trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ hai. Hẳn chúng ta còn nhớ một Đamiêng, vị tông đồ người hủi, đã đến hải đảo Molokai, đã sống giữa họ và đã chết giữa họ, để nâng đỡ và xoa dịu những đớn đau họ phải chịu do chứng bệnh phong cùi gây nên. Và còn biết bao nhiêu tu sĩ nam nữ đã âm thầm hy sinh cuộc sống của mình để chăm sóc cho những người già cả, đau yếu và bất hạnh.

Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ bên Tàu, có một em bé đói rách, tiều tụy và mắc bênh phong cùi. Em bị dân chúng đánh đập và đuổi ra khỏi làng. Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương xa đã bế em trên tay, che chở em khỏi gậy gộc phũ phàng. Thấy có người chịu mang em đi, dân làng mới thôi không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả. Giờ đây, những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má em. Không phải là những giọt nước mắt đau buồn và tủi hận, nhưng là những giọt nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi: Tại sao ông lại lo lắng cho tôi? Nhà truyền giáo trả lời: Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em là em gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói khổ, long đong vất vả nữa. Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp: Vậy tôi phải làm gì? Nhà truyền giáo trả lời: Em hay tro tặng cho người khác tình yêu của em, càng nhiều càng tốt. Từ đó cho đến khi qua đời, trong suốt ba năm, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đa đưa em vào. Tới năm mười một tuổi, khi em qua đời, các bệnh nhân đã khóc và nói với nhau vói tất cả niềm thương nhớ: Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa chúng ta.

Lề luật của Chúa được gồm tóm trong hai điều, đó là mến Chúa va yêu người. Chúng ta hãy cố gắng thực thi hai điều ấy với niềm xác tín rằng: qua những yêu thương nho nhỏ, chẳng hạn như một ánh mắt dịu hiền, một nụ cười cảm thông, một lời nói an ủi, một việc làm giúp đỡ…chúng ta se trở nên là những môn đệ đích thực của Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.

 

11. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

Anh chị em thân mến. Trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ, các văn nhân, thi sĩ, tốn rất nhiều giấy mực để ca tụng một vấn đề rất cổ xưa nhưng cũng rất hiện đại, và có lẽ vấn đề nầy sẽ còn rất nhiều người nói đến mãi, cho đến khi nào không còn con người hiện diện trên trái đất nầy mới thôi. Đó là vấn đề Tình Yêu. Trong trào lưu ca tụng tình yêu, cố thi sĩ Xuân Quỳnh cũng có bài thơ đã được phổ nhạc mang tên: "Thuyền và Biển."

Trong đó có mấy câu dể gây cảm xúc cho người nghe: Chỉ có thuyền mới hiểu, Biển mênh mang nhường nào. Chỉ có biển mới biết, Thuyền đi đâu về đâu. Những ngày không gặp nhau, Biển bạc đầu thương nhớ. Những ngày không gặp nhau, Lòng thuyền đau - rạn vỡ.

Thuyền và biển làm cho nhau thêm phong phú. Nếu không có thuyền trên biển, biển sẽ yên lặng trong cô đơn, hay chỉ là những cơn cuồng nộ giận dữ. Nếu không có biển thì con thuyền cũng trở nên vô dụng, vì không thể phát triển được những gì của con thuyền đòi hỏi.

Chúa Giêsu luôn kêu gọi mọi người sống trong tình yêu. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại nghe Ngài nói về tình yêu một cách cụ thể hơn. Ngài kêu gọi mọi người hãy đến và ở lại trong tình yêu bao la của Thiên Chúa Cha. Điều làm cho con người được phong phú: Đó là tình yêu. Tình yêu bao la của thiên Chúa bao bọc con người, để cho con người có thể ngụp lặn trong biển tình tuyệt vời đó. Sống trong tình yêu Thiên Chúa, con người được trở nên phong phú, cuộc đời mới có giá trị. Nếu tách rời khỏi biển tình yêu Thiên Chúa, con người sẽ trở nên vô dụng, cuộc đời sẽ từ từ đi vào cỏi chết. Sống mà không có tình yêu thì không phải là sư sống đích thực."Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy."

Con thuyền cuộc đời của chúng ta, được Thiên Chúa trang bị thật đầy đủ, để có thể ra khơi trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Chẵng lẽ con thuyền ra khơi mà không định hướng, không mục đích. Không lẽ con thuyền ra khơi mà trên thuyền không mang theo một vật dụng gì hết. Không thể chấp nhận được, khi con thuyền đi vào biển cả mà không có một sự chuẩn bị nào cho xứng đáng.

Ra khơi trên biển Tình Yêu của Thiên Chúa, con thuyền phải được trang bị bằng những chất liệu của Tình Yêu. Từ chất liệu của con thuyền cho đến những thứ hành trang mà con thuyền mang theo.

Nhìn lại con thuyền cuộc đời của mỗi người chúng ta, Thiên Chúa đã trang bị bằng chất liệu Tình Yêu thật hoàn hảo. Con người chúng ta Thiên Chúa đã tạo dựng bằng Tình Yêu thương của Ngài. Những chất liệu đó giờ đây, có lẽ no đã bị biến chất phần nào, nó đã bị hao mòn với thời gian, nó không còn đủ mạnh và vững chắc để có thể ra khơi cách an toàn. Nên nhiều khi chúng ta ngại không dám ra khơi trong biển Tình của Thiên Chúa. Chúng ta sợ nó bị hao mòn, chúng ta cũng sợ nó bị chòng chành vì những cơn sóng tình. Một sự sợ hãi còn lớn lao hơn nữa, là chúng ta sợ bị mất hút trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Khi đó vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến chính mình, chỉ biết lo cho mình, bảo vệ bản thân, nên chúng ta quá lo sợ.

Chính vì thế mà chúng ta không thể sống đúng được lệnh truyền của Tình Yêu. Những lúc như thế, chúng ta chỉ biết yêu thương có chính mình, ngoài ra, chúng ta chẵng biết yêu thương ai hết. Như thế thì cuộc đời chúng ta giống như con thuyền thật tốt đẹp, thật hoàn hảo, chính vì sự tự hào với dáng vẽ tốt đẹp đó, mà nó sợ không dám đưa mình xuống nước để hoạt động, nên nó mãi ở trên nơi khô cạn. Suốt đời nó cũng là vô ích, mặc dù nó tốt đẹp, nhưng nó không hoạt động được, vì thế nó là một con thuyền chết, là đồ phế thải, vì nó vô dụng. Chẵng lẽ con thuyền cuộc đời của chúng ta lại trở nên vô dụng như thế sao. Chẵng lẽ con thuyền chúng ta không dám ra khơi để lênh đênh trong biển tình của Thiên Chúa sao?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết dùng Tình Yêu để sống với nhau, để con người của mình được ở trong Chúa như con thuyền trong biển cả.

 

12. Anh em hãy yêu thương nhau - ViKiNi

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên Chúa thương yêu, con người phải biết thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương ta. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình thương bắt nguồn từ Thiên Chúa”.

1. Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói “nàng là xương tư xương tôi, thịt là thịt tôi” (St. 2, 23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói “đồng bào ruột thịt”. Đồng bào nghĩa là cùng chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt. Nói khác đi, ta nhận nhau như chính mình.

Nhưng thảm hại thay, tình thương một xương một thịt đó chẳng được bao lâu, khi con người sa ngã. Thiên Chúa đến hỏi, thì Adong đã đổ lỗi cho Evà (St. 3, 12). Mọi tội lỗi đã trút đổ lên đầu nhau, còn mình vô tội. Lúc này, không còn phải là một nữa, mà là hai, không còn xương tự xương toi, thịt là thịt tôi. Nó đã tách rời nhau, xa lìa nhau. Một kẻ là tội phạm, một kẻ rửa tay. Hai kẻ đối kháng nhau, thù ghét nhau. Trong cảnh gia đình chia rẽ, oán hận nhau, con cháu trở thành kẻ thù nhau: Cain đã giết em mình là Abel. Esau đã thù Giacob. Các con Giacob đã bán em là Giuse sang Ai cập. Bao lâu tình yêu chỉ bắt nguồn từ xương thịt bấy lâu còn chia rẽ, hận thù.

2. Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho loài người, nhưng đã thất bại, loài người không thể thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lần này, Thiên Chúa nhờ chính Con Một Ngài là Đức Giêsu thông truyền tình yêu Thiên Chúa cho loài người: “Chúa Cha đã yêu mến Thay thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” để “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha truyền sang Chúa Con, và Chúa Con truyền sang chúng ta, như thế, tình yêu này mang bản chất Thiên Chúa, chứ không mang tính xương thịt như ban đầu nữa. Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa để chúng ta noi gương Chúa Con mà yêu thương nhau.

Thứ nhất, Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tuân giữ lệnh truyền cua Chúa Cha, thực thi giới răn của Chúa Cha: “Thầy đã tuân giữ giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Ngài”. Vì thế chúng ta muốn ở trong tình thương của Thiên Chúa, chúng ta phải giữ giới răn của Ngài: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”.

Thứ hai, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Người đã dám gánh tội của chúng ta, đã chịu chết đền tội cho chúng ta. Người không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.

Con Thiên Chúa vô cùng cao cả đã yêu thương chúng ta đến cùng tận, còn chúng ta là đồng bào, đồng phận xương thịt với nhau, sao không dám hy sinh cái thân phận hèn hạ của mình cho nhau? Chỉ có hy sinh cho nhau, chúng ta mới biết mình ở trong tình yêu của Thiên Chúa.

Thứ ba, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chọn chúng ta làm bạn hữu của Người: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu”.

Thực sự, chúng ta không thể nào đáng là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta vừa là loài thụ tạo, vừa kém hơn loài thụ tạo, vì đã phạm tội, xúc phạm đến Đấng tác tạo nên ta. Mọi loài thụ tạo đều vâng phục Thiên Chúa một cách triệt để theo một trật tự hoàn hảo. Vĩ đại như tinh tú, mặt trời, mặt trăng đã tuân theo lệnh Thiên Chúa sắp đặt xoay vần, không hề sai trái. Nếu chúng sai trái, loài người và muôn vật bị tiêu hủy. Còn chúng ta đã không vâng lệnh Thiên Chúa, đáng lẽ chúng ta đã bị tiêu diệt. Làm sao dám làm bạn hữu của Người. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã cho chúng ta được vinh dự vô cùng đó. Noi gương Đức Giêsu, chẳng những chọn mọi người làm bạn hữu của ta, mà còn phải tôn trọng mọi người hơn ta, ta mới xứng đáng với tình thương của Người, mới mong thu được nhiều kết quả và đáng Chúa Cha nhận lời chúng ta nài xin.

Thánh Phêrô, đã noi gương Thầy Chí Thánh, đến thăm nhà ông Cônêliô. Phêrô không kỳ thị dân ngoại, không khinh thị quân Rôma xâm lăng, như lối sống kỳ thị của truyền thống Do thái, Phêrô kính trọng gia đình Cônêliô, đã đỡ ông lên: “Xin ông đứng dậy, vì tôi cũng chỉ là người phàm”. Còn ông Cônêliô, dù là một sĩ quan của đế quốc Rôma vĩ đại, là người cai trị dân, ông đã hạ mình xuống “ra đón và phủ phục dưới chân Phêrô ma bái lạy”. Trước những cử chỉ hy sinh bỏ mình đi, hạ mình xuống và chân thành kính mến nhau như vậy, làm cho người Do thái kinh ngạc, và Thiên Chúa đã yêu thương các ông mà ban Thánh Thần tình yêu tràn trề xuống cho Phêrô và gia đình Cônêliô, để nhận nhau làm bạn hữu muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương bao la của Chúa, tình thương đồng hóa, đồng phận với mọi người cùng khổ, tình thương hy sinh mạng sống để cứu độ muôn dân.

Sao chúng con không biết thương người như Chúa thương chúng con và mọi người.

 

13. Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”.  Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông,  thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.

"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình".

Ngày nay người ta nói nhiều về tình yêu.

Tình yêu được ca tụng và trình diễn trong các chương trình truyền hình, các truyện tiểu thuyết, trong các bài hát, các tác phẩm văn nghệ, và trong các cuộc giao tiếp hàng ngày.

Những câu truyện về tình yêu sẽ vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên sân khấu cuộc đời chúng ta.

Tình yêu mang lại niềm vui, hạnh phúc, bình an, sức mạnh, và một ý nghĩa để sống.

Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, thời nay dường như cũng là lúc mà xã hội cảm thấy thiếu vắng tình yêu nhất. Người ta chối bỏ nhau, chém giết nhau, làm khổ nhau. Người ta nói về tình yêu, bàn về tình yêu, viết về tình yêu, ca ngợi tình yêu, nhưng ít người sống cho tình yêu. Và đó là lý do tại sao chúng ta vẫn còn xa cách nhau mặc dầu chúng ta vẫn ở kế cận nhau.

Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải dừng lại để lắng nghe lời của Đức Giêsu:

"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạngsống vì bạn hữu mình."

Tình yêu chân thật phải được trả bằng giá rất cao.

Đức Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Ngài dạy chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu đặt trên căn bản của ý chí muốn dấn thân trọn vẹn không tính toán, không điều kiện.

Cây Thập Giá, Bí tích Thánh Thể và Tha Thứ là ba dấu chứng rõ ràng nói lên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta.

Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi hy sinh mạng sống của Ngài và chết trên Thập Giá để cho chúng ta được sống.

Ngài yêu chúng ta hết mình đến nỗi đã trở nên của ăn và của uống hằng sống cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể.

Và ngài Yêu thương chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.

Đây chính là cách thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn chúng ta thực hiện cho nhau trong cuộc sống. Ngài muốn chúng ta yêu bằng ý chí dấn thân hy sinh chết đi cho nhau như Ngài đã hy sinh chết đi cho chúng ta.

Và Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng cách trao ban chính bản thân mình: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình"

Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.

Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác.

Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói: “Người ta chỉ có thể yêu khi người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình yêu, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca”.

Yêu là “trao ban”, yêu là cho đi.

Cho nên nhận chính là để cho đi. Cho đi để sinh lợi dồi dào hơn như hình ảnh hai biển hồ Galilêa.

Tại Palestine có hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau.

Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa.

Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và có rất nhiều cá. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.

Biển hồ thứ hai là Biển Chết.

Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.

Nhưng có một điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là dòng sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.

Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.

Một hình ảnh cho chúng ta thấy:

Càng trao ban, càng dồi dào.

Càng trao ban, càng sinh lợi.

Càng trao ban, càng nhận lãnh được nhiều.

Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.

"Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình". Amen.

 

14. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

Có một tác giả nọ nhận định như thế này: "Nếu bạn có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà che đầu và một nơi để nghĩ qua đêm, là bạn đã giàu hơn 75% dân số trên thế giới này. Nếu bạn có tiền trong ví để xài, có tiền ban phát cho người nghèo, có tiền để dành trong ngân hàng, là bạn đang ở trong 8% những người giàu nhất trên thế giới.

Thưa anh chị em! Chẳng biết điều đó có chính xác hay không, nhưng chúng ta cũng thấy được rất rõ rằng: Giữa người giàu và người nghèo có một khoảng cách rất là xa khi mà thế giới đang theo đuổi cái xu hướng mà người ta gọi là Toàn Cầu Hóa. Và cái nghèo mà người ta nói tới nhiều nhất là cái nghèo về cơm áo gạo tiền. Người ta lo sợ rằng: Với một đà tăng dân số như ngay hôm nay thì sẽ có lúc trái đất này không còn đủ lương thực cho con người nữa.

Thế nhưng, nếu nhìn kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, đó không phải là điều đáng sợ lắm, mà cái đáng sợ hơn hết là cái nghèo đói tình thương trong thế giới ngày hôm nay. Vì nghèo đói tình thương cho nên chiến tranh chưa bao giờ kết thúc. Vì nghèo đói tình thương cho nên mới có cái cảnh "Người ăn không hết, kẻ lần không ra". Vì nghèo đói tình thương cho nên những xung đột, những cãi vã, những tranh giành vẫn xảy ra hàng ngày ở chung quanh chúng ta.

Lời Chúa trong Thánh Lễ chiều hôm nay mời gọi từng người trong chúng ta hãy can đảm dùng một chút thiện chí của mình để góp phần đẩy lùi nạn đói tình thương đang hoành hành nơi bản thân và nơi môi trường sống của chúng ta, qua việc thực hiện lời gọi của Đức Kitô Phục sinh, vị sứ giả của tình thương: "Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con". Và cũng kể từ đây, giới luật yêu thương đã trở thành giới luật mới quan trọng nhất. Nói là kể từ đây có nghĩa là giới luật này nó đã có từ rất lâu. Nơi Cựu Ước chúng ta đã nghe là: "Hãy yêu thương đồng loại như chính mình".

Tôi yêu bản thân tôi như thế nào thì cũng phải yêu người khác như vậy. Nhưng trong Tân Ước, Đức Giêsu đã đẩy những đòi hỏi của giới luật này lên đến một cấp đột mà có lẽ không ai dám nhìn tới: "Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con". Như vậy giới răn mà Chúa gọi là giới răn mới này đòi hỏi chúng ta không phải là lấy chính mình để làm tiêu chuẩn nữa. Bởi vì tiêu chuẩn của con người dù có hào hoa rộng rãi đến đâu đi nữa, thì cũng có yếu tố chủ quan và tiêu cực trong đó, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn:"Yêu người như Chúa yêu". Muốn biết đựơc Chúa yêu thương như thế nào, chúng ta phải nhìn lại cuộc đời dương thế của Chúa, ma rõ ràng nhất là trong ba năm rao giảng Tin Mừng: "Không có ai đến với Chúa mà phải ra về tay không, phải ra về trong cay đắng thất vọng cả: Người mù đựơc sáng mắt, kẻ què đi được, người chết được sống lại, kẻ tội lỗi được thứ tha".

Đối với Đức Giêsu, tất cả những kẻ đang đứng trước mặt Người đều là những người rất quan trọng và rất đáng thương. Và sau cùng, Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá để muôn đời trở nên một kiểu mẫu tình yêu cho mọi người: "Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống mình vì bạn hữu". Tình yêu của Chúa đẹp đẽ quá, lý tưởng quá, làm sao tôi có thể trở nên giong như Người được? Thế nhưng bao lâu chúng ta còn hiện diện trong cuộc đời này là bấy lâu chúng ta được Chúa mời gọi: "Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".

Thưa anh chị em! Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến cấp độ "Như Thầy yêu thương" một cách hoàn hảo đâu. Bởi vì Chúa thì quá tuyệt vời thánh thiện, còn chúng ta thì ngược lại có quá nhiều giới hạn, nhiều thiếu sót mà giáo lý nhà Phật gọi là "tham, sân, si".

Thế nhưng, chúng ta không vì thế mà tự cho phép mình xao lãng hay miển chuẩn giới răn đặc biệt quan trọng đó. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải tự treo mình trên Thánh Giá vì anh chị em, Chúa cũng không buộc chúng ta phải trở nên một Têrêsa Calcutta vĩ đại suốt đời lo lắng cho người khác, hay một cha Thánh Maximilianô Kolbê anh hùng chết thay cho người bạn tù của mình.

Thế nhưng, chúng ta lại có rất nhiều dịp để thể hiện tình thương của mình cho người khác, để sống cho tha nhân. Mà sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chúng ta không thể chết như Chúa được thì hãy chết trong mồ hôi và nước mắt, chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày qua những lần chúng ta rộng rãi thể hiện sự bác ái của mình đối với tha nhân. Có một thanh niên nọ, trong lúc chờ đón xe về Thành Phố Cần Thơ, bỗng nhìn thấy có một chiếc xe đạp đang từ phía Cần Thơ chạy về hướng Vĩnh Long. Và có lẽ không chú ý hay như thế nào đó mà cô bạn sinh viên điều khiển chiếc xe đạp ấy ngang nhiên đâm vào một chiếc xe Honda đang dừng trước mặt. Vì xe đạp chạy không nhanh lắm nên chẳng ai có hề hắn gì cả, chỉ có chiếc xe Honda bị bể chiếc vè sau mà thôi.

Trước những lời bắt chẹt thô thiển và cái giá phải bồi thường mà chủ xe Honda đã đưa ra thì cô bạn sinh viên đó chỉ còn biết đứng khóc mà thôi. Hơi ngập ngừng một chút và vì biết chắc rằng một cách bất ngờ như thế thì cô bạn sinh viên ấy không thể có đủ số tiền để bồi thường. Anh thanh niên đó đã mạnh dạn tiến tới ra tay nghĩa hiệp trả tiền chiếc vè sau mới, thay cho cô bạn kia.

Anh thanh niên này quyết định làm chuyện đó hoàn toàn không phải vì cô ấy trẻ, cô ấy là sinh viên, mà bởi vì lúc đó tự nhiên anh ta cảm thấy có một cái gì đó thúc đẩy anh ta phải làm việc bác ái này. Vả lại anh ta quyết định làm việc đó một phần cũng là vì muốn nói với chủ xe Honda rằng: "Chúng ta đừng nên hiếp đáp bắt chẹt những con người yếu thế hơn mình". Anh thanh niên hơi tào lao đó chính là người đang đứng trước mặt anh chị em đây.

Thưa anh chị em! Hoàn toàn không bao giờ dám coi đó là một kinh nghiệm tốt lành để gọi là khoe khoang với người ta, nhưng con muốn chia sẽ một tình huống cụ thể của bản thân mình đó, để mạnh dạn lặp lại một lần nữa bài học này: "Ngày nào bạn từ chối thắp lên ngọn lửa yêu thương, ngày đó sẽ có nhiều người chết vì giá lạnh".

 

15. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: "10.645 người nghèo đã khỏi mù". Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đồng ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79, 5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.

***

Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: "Các con hay yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con" (Ga. 15, 12).

Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chủ ông và tôi tớ, nhưng chính là "Bạn hữu thân tình".

Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết" (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: "Người đã yêu thương họ đến cùng" (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô dạy: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".

Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: "Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con" (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức "Như Thầy đã yêu". Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.

Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viet: "Chữ "như" này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể# Chữ "như" cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đe của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.

Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi".

***

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chua đã yêu thương chúng con. Amen.

 

16. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

"Đây là điều răn của Thầy, chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con." (Ga 15,12)

Tình yêu đẹp biết bao! Vì thế, người ta đã tốn biết bao giấy mực, bài hát để ca tụng nó, nhưng tình yêu thực sự chỉ đẹp khi có sự tự hiến, hy sinh đi kèm. Chim Pelican tự mỗ bụng mình ra để cho con đang cơn đói, ăn chính thịt mình mà sống. Còn cảnh nào cao đẹp hơn? Chúa Kitô vì yêu chúng ta đã chết cho chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay muốn cho ta suy niệm về chủ đề này.

1. Gợi ý:

a. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá, là cái chết cho Tình Yêu. Điều này minh chứng Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Vì yêu nhân loai, Thiên Chúa sẵn sàng nộp chính Con Yêu của mình làm của lễ hiến tế, để cho ta được sống, để ta trở nên bạn nghĩa thiết với Chúa. Thật lạ lùng quá! Nhờ đó, ta mới thấy rõ lòng của Thiên Chúa tốt biết bao, tốt hơn con người tưởng nhiều; rồi nhìn lại con người chúng ta, ta thấy lòng mình tệ quá, tham lam, nhỏ nhen, ích kỷ, bè phái... Nhìn lên TC, rồi nhìn lại chính mình, tự thâm tâm làm sao ta không hổ thẹn, bởi vì con người có chi để so bì với TC, để đòi Thiên Chúa phải yêu thương ta. Vậy mà Ngài vẫn muốn làm bạn với ta, muốn trở thành thân hữu với ta, muốn ta ngang hàng với Ngài. Ôi, lạ lùng và cao cả làm sao, Tình Yêu của Thiên Chúa!

b. Cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho bạn tù. Ta có thể coi đó là hành động điên rồ, nhưng thực ra là điên vì Tình Yêu Chúa Kitô. Đây không phải là câu trả lời cho cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh giá sao? Vào năm 1981, ĐGH Gioan Phaolo II đã bị bắn một viên đạn vào ngực, suýt chết; vậy mà sau khi lành bệnh, ngài đến nhà tù thăm chính người đã bắn mình và giơ tay lên tha tội cho anh ta. Hình ảnh này không chỉ làm ta cảm động, nhưng còn nói lên nhiều đieu: vì Đức Kitô mà người ta có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, và còn yêu mến họ nữa.

Thánh Têrêsa đi tu khi còn nhỏ, mới 15 tuổi; chín năm sau đã từ trần; vậy mà đã để lại cho hậu thế một đường lối nên thánh tuyệt hảo, gọi là con đường nhỏ, một tấm gương sáng về lòng nhiệt thành yêu mến Chúa và yêu mến các linh hồn. Têrêsa nói: "chỉ khi nào người ta hy sinh chính mình, mới thật là yêu."

Mẹ Têrêsa Calcutta, đặc biệt thương yêu trẻ em và người nghèo khổ. Mẹ là một Thần tượng của Thiên Niên Kỷ mới và được nhiều người biết đến.

2. Suy niệm:

"Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em". Ngày hôm nay, tin vào Lời nói, tin vào một con người đã chết cach đây hơn 2000 năm, có phải là lỗi thời và không cần thiết không? Một cái xác chết trên thập giá, buồn tẻ, xem ra thất bại. Vậy cái chết để minh chứng Tình Yêu, liệu có còn đánh động ta không? Câu trả lời thẳng thang: Có. Qua 20 thế kỹ, hàng hàng lớp lớp các anh hùng tử đạo, các bậc hiển tu đã dám đem cả mạng sống mình để minh chứng cho Tình Yêu này. Họ là những nhà bác học, nông dân... đủ mọi thành phần, và ngay cả trong thời đại văn minh của chúng ta, như những vị được nêu ở trên đây. Như vậy chưa đủ minh chứng cho bạn sao?

"Thầy không gọi các con là tôi tớ, mà là bạn hữu, Hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy": Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống thân hữu của Chúa, vào tình yêu nghĩa thiết ngọt ngào của Ngài; vì Ngài xem ta là bạn hữu của Ngài cho dù chúng ta bất xứng. Ta có ngạc nhiên không? Tại sao ta từ chối, khi hiểu tình yêu của Ngài dành cho ta thật quảng đại và lớn lao?

 

17. Yêu như Chúa yêu – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra mot khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phai yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.

Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.

Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những ngươi nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dau để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tien, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được an no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đep, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.

Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.

Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?

2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?

3- Đối với ban, yêu thương người khác dễ hay khó?

4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.

 

18. Ý- Tâm - Thân hòa điệu – An Phong, OP

Tin mừng hôm nay nhắc đến Luật Vàng Kitô giáo là "Mến Chúa yêu người". Hai chiều kích "hiệp thông" (mến Chúa) và hướng tới (yêu người) này làm nên toàn bộ thái độ sống Kitô giáo.

Con người, nếu có một sự hòa điệu tuyệt vời giữa mình với chính mình, sẽ sống bình an, hạnh phúc. Thật vậy, cuộc sống con người thường được nói đến như là "một bãi chiến trường"; là sự "giao tranh giữa điều muốn làm và điều phải làm"; hoặc sống trong tình trạng "điều tôi muốn, tôi không làm; điều tôi không muốn tôi lại làm"; hoặc "điều thiện và điều ác giành giật cắn xé nhau trong tôi"; đó là nguyên nhân của sự bất an, hỗn độn, thậm chí hủy hoại nữa.

Nói khác, Ý chỉ đạo, Tâm cởi mở lòng ra và Thân hành động cho được, đó là một sự hoà điệu lý tưởng của con người. Ý phán đoán ngay chính, Tâm đón nhận bao dung, thì Thân mới có thể diễn đạt nên hành động "yêu người"; Ý tốt, Tâm tốt thì hành động sẽ tốt.

Đó cũng là cửa ngõ để con người có thể sống hòa điệu với người khác; có thể nói nếu có hòa điệu của Ý-Tâm-Thân sẽ có hòa điệu giữa ta với Chúa, ta với người và ta với chính mình.

Nhưng nói thì dễ, sống được mới khó. Bi kịch của nhân loại bắt đầu từ đây. Có khi Ý phán đoán nghiệt ngã, phê bình khắc khe; có khi Tâm thiếu bao dung, tị hiềm; và Thân thì tìm sung sướng cho mình chứ không hành động để xây dựng. Giữa cuộc đời, vẫn còn có nhiều người nghĩ (ý) rất hay nhưng không hề "giơ ngón tay lay động" (thân). Hoặc người ta dễ dàng mủi lòng, thậm chí rớt vài giọt nước mắt (tâm) nhưng lại chỉ là tình cảm thoáng qua, nhất thời, không dễ gì khơi dậy hành động (thân).

Làm sao cho Ý ta sáng, Tâm ta bao dung và Thân ta hành động quảng đại? Làm sao để ta sống giữa cuộc đời trong sự hài hòa của tình yêu thương nhân ái? Chúa Giêsu mở một con đường để mời gọi chúng ta đạt đến sự hài hòa tuyệt vời ấy: "Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy; nếu anh em giữ các giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy; như Thầy đã giữ các giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người".

Với tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta được sống hòa hợp với Chúa, với mình và với anh chị em.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa để lại cho chúng con một giới răn thôi,

giới răn của tình yêu;

Nhưng chỉ một giới răn đó thôi,

chúng con cũng không làm nổi.

Xin Chúa đổ xuống trên chúng con tình yêu của Chúa,

tình yêu lớn lao trong tấm bánh nhỏ nhoi này;

để chúng con không sợ yêu;

không lùi bước trước những thách đố của tình yêu;

để chúng con được "ở trong Chúa", và "Chúa ở trong con".

 

19. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

Trong Cựu Ước, Môsê đã dạy luật yêu thương: "phải yêu thương tha nhân như chính mình". Tới khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, Ngài đã giảng dạy yêu thương và thực hiện yêu thương cách trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luat yêu thương Chúa Giêsu dạy là Ngài đã nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đệ Ngài và đây cũng là tiêu chuẩn để xét xử chúng ta sau này.

"Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho hết thảy những ai bước đi theo Ngài. Có lẽ không một ai dám lấy mình làm tiêu chuẩn, làm tấm gương cho người khác trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực yêu thương như Chúa Giêsu. Sở dĩ Chúa Giêsu dám nói như vậy vì Người đã chứng minh cách tuyệt đối tình yêu thương của Người cho tất cả nhân loại chúng ta bằng cái chết và sư Phục Sinh vĩ đại của Người.

Sách Phúc âm miêu tả một Chúa Giêsu biết cảm thương, đó là một xúc cảm khiến người ta ruột gan xáo trộn. Thật vậy, Đức Giêsu xúc động thể lý và cảm nghiệm nỗi đau khổ, trái tim Người rướm máu trước dân nghèo, bị ruồng bỏ, bị xua đuổi, bị chà đạp. Có cái gì đó ở trong Người khiến Người không chịu nỗi thái độ giả hình và thói bất công đối với người thấp hèn, tàn tật, yếu đuối, túng thiếu.

Đức Giêsu động lòng thương khi thấy người phong cùi kêu xin Ngài cứu chữa. Người cùi bị mọi người xua đuổi, khai trừ, đi đến đâu đều phải lắc cái chuông nhỏ, cảnh báo cho người ta biết mà tránh xa. Không ai được đến gần họ, vì sẽ bị lay nhiễm mà trở nên ô uế. Người cùi lớn tiếng van xin: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi được sạch". Đức Giêsu giơ tay ra, chạm đến anh như cử chỉ chào đón và tôn trọng nhân phẩm của anh, rồi chữa cho anh lành mạnh. Nhất là Người còn chữa lành con tim tan vỡ và lòng tự trọng đã bị sứt mẻ của anh.

Đức Giêsu luôn biết cảm thông và tha thứ. Nhiều người bị giam hãm trong mặc cảm tội lỗi, tâm hồn họ tan rã vì sợ Thiên Chúa, sợ bị trừng phạt. Họ còn bị ruồng rẫy bởi những người tự coi mình là thanh sạch. Đức Giêsu đến là để bày tỏ dung mạo khoan dung của một Thiên Chúa luôn thương xót và tha thứ, chứ không phải một Thiên Chúa kết án và trừng phạt những vi phạm lề luật.

Một ngày kia những người Pharisêu và kinh sư bắt tại trận một phụ nữ đang ngoại tình. Như đàn sói hung hãn đang săn mồi, họ tóm lấy người phụ nữ còn mình trần, lôi đến trước mặt Đức Giêsu, lúc đó đang giảng dạy trong đền thờ.

Họ hỏi Chúa Giêsu: "Ông Môsê dạy hạng đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình này phải bị ném đá cho chết. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Bọn người hung dữ, cuồng tín giữ luật này nghĩ rằng họ giăng bẫy Đức Giêsu. Đức Giêsu không nói gì, chỉ cúi xuống viết trêt cát. Họ gặng hỏi: "Thầy nghĩ sao? Chúa đứng dậy ra giọng đĩnh đạc nói: "Ai vô tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi". Bọn họ thẹn thùng bỏ đi hết. Chúa Giêsu nhìn người phụ nữ nói "tôi không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa". Người phụ nữ ra về, được tình thương đổi mới, hết bị mặc cảm tội lỗi ràng buộc và sống một cuộc đời mới.

Chúa Giêsu đã sống yêu thương và dạy chúng ta phải biết đối xử với người khác bằng sự yêu thương, có nhiều cách thể hiện sự yêu thương đối với nhau nhưng chúng ta cần phải đi từng bước và có những thực hành cụ thể. Xin gợi lên những thực hành giúp chúng ta thực hiện sự yêu thương trong đời sống mình: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.

 

20. Gieo gì gặt ấy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Tục ngữ có câu “có gieo có gặt”, nhưng thành quả gặt hái lại tuỳ theo loại giống mà chúng ta gieo trồng. Vì “gieo gì gặt ấy”. Mình gieo yêu thương sẽ tìm được hạnh phúc an bình. Mình gieo thù hận sẽ phải đón nhận sự trả đũa oán hận, vì “gieo gió ắt gặp bão”.

Có thể nói cuộc đời là một chuỗi ngày dài gieo giống. Mỗi ngày ta gieo một vài lời nói, một vài hành động và rồi năm tháng trôi qua chúng ta sẽ có ngày gặt hái những gì chúng ta đã gieo vãi. Mặc dù là khoảng thời gian có thể là rất xa. Một năm. Hai năm. Hay có khi cả đời. Nhưng chắc chắn một điều là mùa gặt sẽ tới. Có những điều chúng ta sẽ phải gặt trước khi từ giã cõi đời, nhưng cũng có điều chúng ta phải gặt ở cõi đời sau.

Có một người đàn ông rất giầu có đã đến tuổi về hưu. Ông trao ban gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được sống an nhàn tuổi già bên con cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con dâu lại không muốn bố chồng ở mãi trong nhà. Cô đã đề nghị chồng phải đưa bố đi ở nơi khác. Người con không muốn mất tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nhưng lại là nơi rẻ tiền nhất theo lời căn dặn của vợ.

Một tuần sau đó, hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi được một lúc bỗng nhiên người cha già bật khóc. Lương tâm người con không chịu nổi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha. Sau một vài phút, người cha bị hắt hủi nghẹn ngào nói: “Con ơi! Cha không khóc vì con đưa cha vào đây. Cha khóc vì cách đây bốn mươi năm trước, cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ “gieo gì gặt ay thôi!”.

Thực vậy, “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Những gì chúng ta đã và đang nhận trong cuộc đời này hoàn toàn tuỳ thuộc vào những điều chúng ta đã gieo vãi, vun trồng ngày hôm qua. Cùng một môi trường nhưng có người nhiều bạn bè, và ngược lại có người chẳng được ai chơi. Có người được yêu thương, đùm bọc. Có người chỉ nhận được sự khinh bỉ, dửng dưng xem thường. Có người được hàng xóm bao bọc “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có ngươi lại bị anh em loại trừ. Có người vui vì sự chơi đẹp của tha nhân. Có người dở khóc dở cười vì sự chơi xấu của tha nhân. Tất cả điều đó cho thấy, những gì chúng ta nhận được là do chính chúng ta đã gieo vãi vun trồng tuy theo cách sống của chúng ta.

Hôm nay, Chúa bảo chúng ta hãy đi gieo vãi yêu thương. Chúa cầu mong chúng ta sinh hoa kết trái. Chính Chúa đã gieo vào lòng chúng ta hạt giống yêu thương. Chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của Chúa. Chúng ta được sống trong tình yêu quan phòng của Chúa. Chúa còn tuyển chọn chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Chúa còn làm tất cả để chúng ta được hạnh phúc. Chúa đã quên cả chính mình để chúng ta được sống. Chúa không đòi chúng ta đền đáp cho Chúa. Chúa chỉ mong chúng ta hãy theo gương Ngài mà đối xử với nhau trong yêu thương. Chúa bảo chúng ta “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu là tiếp tục gieo vãi hạt giống yêu thương của Chúa cho muôn người. Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù. Hãy trồng cây yêu thương vào trong thế gian để thế gian được hái những trái ngọt của hạnh phúc, của tình người.

Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương mà không toan tính, hay pha chút ích kỷ, nhỏ nhoen? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình để rồi có thể chia sẻ buồn đau với tha nhân? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà quên mình? Có lẽ có, nhưng chac chắn có rất ít!

Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu thương tràn lan. Có mấy ai đã tự vấn lương tâm để thấy rằng mình làm hại anh em thì nhiều mà làm điều tốt thì ít? Có mấy ai dám tự trách mình vì những lời mình nói, vì những việc mình làm đã mang lại khổ đau cho anh em? Có mấy ai đã dám noi lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn vì sự tắc trắc của mình mà làm cho gia đình xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ và ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn thân để xây dựng hoà bình khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương và tôn trọng tha nhân?

Nhân loại hôm nay rất biết ơn những con người biết xây dựng hoà bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, khoảng 200.000 người đã lắng nghe Martin Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện. Ông nói rằng: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao...”

Ước mơ của ông cũng là ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới. Nhưng khao khát hoà bình thì nhiều, còn gieo vãi niềm an bình hạnh phúc thì chẳng có mấy ai! Người ta nặng lời kết án nhau thì nhiều mà nói lời xin lỗi thì còn quá ít. Người ta nói xấu thì nhiều mà nói tốt cho nhau vẫn còn khiêm tốn. Thế nên, thế giới vẫn còn đó sự nghi kỵ, hiểu lầm và thù oán. Thể giới vẫn phải đón nhận đoạ đầy khổ đau bởi sự dữ do chính con người đã gieo vào trần gian.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn học bài học yêu thương của Chúa để đem ra thực hành trong cuoc sống thường ngày, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho trần gian. Amen.

 

21. Hãy yêu thương nhau

1. Đôi khi có người nhờ tôi đánh máy di chúc, cách chung những người viết di chúc đều mong muốn con cái ho hoà thuận, thương yêu nhau ngay lúc họ còn sống và nhất là sau khi họ qua đời, nói rõ hơn là họ muốn con cái họ đừng tranh giành của cải họ để lại. Đức Giêsu Chúa chúng ta trước khi bước vào cuộc khổ nạn cũng có nhưng lời tâm huyết dặn dò các môn đệ của mình đó là "anh em hãy yêu thương nhau". Lời này được lập đi lập lại 2 lần trong một đoạn văn ngắn, chứng tỏ thao thức của Đức Giêsu đối với các môn đệ về điều này như thế nào?

2. Thực ra trong cuộc sống, chúng ta vẫn yêu thương nhau, yêu và được yêu là nhu cầu tất yếu của con người, nhưng thường thì ta dễ yêu một người khi người đó đem lại lợi ích vật chất, tinh thần hoặc thoả mãn một nhu cầu nao đó của ta. Tình yêu như vậy đó là thứ tình yêu vị kỷ, yêu người khác vì mình.

Ở đây, Đức Giêsu dạy chúng ta yêu thương nhau ở mức độ cao hơn, yêu vì làm vui lòng, lợi ích cho người mình yêu, đó là tình yêu vị tha. Tình yêu này xuất phát từ Chúa Cha đến với Đức Giêsu, rồi từ Đức Giêsu đến với con người và con người với nhau: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy" và "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em".

3. Chúa Cha yêu Chúa Con bằng tình yêu tôn vinh, chính khi Chúa Con bị treo trên cây thập giá, xem ra là thất bại nhưng là lúc cao điểm Thiên Chúa Cha tôn vinh Đức Giêsu (Ga 13,31), qua cuộc Vượt qua, Chúa Cha đã trao ban mọi quyền hành cho Đức Giêsu.

Đối lại, Chúa Con yêu Chúa Cha bằng tình yêu vâng phục: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"(Ga 4,34). Chúa Cha không những yêu thương Chúa Con mà còn yêu thương cả loài người tội lỗi nữa. Vì yêu thương đến nỗi ban Con Một của Người cho chúng ta (Ga 3,16).

Phần Đức Giêsu, Ngài yêu thương loài người chúng ta thế nào? Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để ban sự sống mới cho ta: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).

Vậy Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau không vì mình mà vì Ngôi kia, Cha dành cho Con, Con dành cho Cha mọi sự tốt đẹp. Chúa Cha và Chúa Con yêu thương loài người vì lợi ích, hạnh phúc của loài người. Yêu là trao ban, yêu là muốn cho người mình yêu được tốt hơn... đó là kiểu mẫu cho mọi tình yêu thương cua chúng ta đối với nhau.

4. Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau, theo kiểu mẫu của Thiên Chúa, chắc hẳn sẽ dễ tha thứ và làm hoà với nhau như Thiên Chúa đã đi bước trước đến với loài người chúng ta dù ta vong ân, bội nghĩa.

Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau, thì xã hội này không còn chỗ cho con cái của ma quỷ nương tựa. Làm sao ta có thể lừa đảo, gian dối, nói xấu, làm điều trái phép công bằng... với ai đó khi ta thực sự yêu họ? Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau chắc chắn xã hội sẽ tốt hơn, bởi chúng ta làm việc với tinh thần trách nhiệm cao; hy sinh, phục vụ với tất cả khả năng cho người mình yêu, cho gia đình, cong đoàn, xã hội...

5. Hãy yêu thương nhau bằng tình yêu chân thật, để chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Đức Kitô: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13,35). Chúng ta không co cụm, khép kín mà theo lệnh truyền của Chúa, chúng ta cũng hãy yêu hết mọi người (Mt 5,44), bằng tình yêu như Chúa dạy; nhưng hãy khởi đầu từ những người thân, những người gần gũi với mình, để lấy đà tiến xa hơn. Bởi một người mà không biết yêu thương, bác ái đối với anh chị em mình, thì khó mà sống yêu thương bác ái đối với người khác. Xin khép lại bài chia sẻ với câu chuyện đầy tình yêu thương sau đây mà tôi đọc được trong "Sợi Chỉ Đỏ", Chúa Nhật 6 Phục Sinh, của Lm. Carôlô, để chúng ta tiếp tục cầu nguyện suy nghĩ:

"Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do. Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình".

Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ". Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em.

Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: "Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ở đó". Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó".

 

22. Thiên Chúa là tình yêu

(Suy niệm của Lm Phạm Thanh Liêm, SJ)

Thiên Chúa là ai? Sau những năm tháng cảm nghiệm và nghiền ngẫm về Thiên Chúa, tác giả thư Gioan diễn tả: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài là Đấng làm mọi sự vì yêu: tạo dựng tất cả vì yêu, làm vũ trụ này tiếp tục hiện hữu vì yêu, tuyển chọn dân Do Thái vì yêu, và ban Thánh Thần giúp dân ngoại đón nhận tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh cũng vì yêu.

1. Dân ngoại đón nhận Tin Mừng

Thiên Chúa yêu thương dân Do Thái. Ngài đã kêu gọi Abraham, đã can thiệp vào cuộc đời Giacóp, đã ở với Giuse bên Aicập, và đã đưa dân Do Thái từ Ai cập trở về đất hứa. Lịch sử dân Do Thái cho thấy Thiên Chúa hiện diện và thương yêu dân tộc Do Thái cách đặc biệt. Ngài đã ban cho dân những thẩm phán để giải phóng và hướng dẫn dân, đã ban cho dân các tiên tri để nói với dân nhân danh Ngài.

Đã có thời, người Do Thái tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương dân tộc Do Thái mà thôi, vì Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái là dân riêng. Dường như chính Đức Giêsu cũng đã có lúc Ngài tưởng mình chỉ được sai tới với người Do Thái, nhưng qua biến cố gặp gỡ chị phụ nữ vùng Tia và Xiđôn, Ngài đổi ý vì nhận ra ý định của Thien Chúa (Mt.15, 21-28). Hôm nay Phêrô cũng nhận ra ý định của Thiên Chúa đối với dân ngoại khi Thiên Chúa can thiệp để Phêrô tới rao giảng cho gia đình Cornêliô. Thiên Chúa đã ban Thánh Thần giúp Phêrô nhận ra ý định của Thiên Chúa muốn dân ngoại thuộc dân Thiên Chúa qua việc lãnh nhận phép rửa.

"Thiên Chúa không thiên tư tây vị người nào" (Cv.10, 34). Thiên Chúa thương tất cả mọi người, Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc. Thiên Chúa không chỉ yêu thương dân tộc Do Thái, nhưng Ngài yêu thương mọi dân tộc như yêu thương dân tộc Do Thái. Với biến cố dân ngoại đón nhận Tin Mừng, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa yêu thương dân ngoại hơn dân Do Thái nữa, nhưng thực ra Thiên Chúa không thiên tư tây vị: Ngài yêu dân ngoại như yêu dân tộc Do Thái. Như dân Do Thái đã nhận ra Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử dân Do Thái thế nào, thì mỗi dân tộc cũng phải nhận ra Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử dân tộc mình như vậy. Dân Do Thái là mẫu, để các dân tộc khác tập nhận ra Thiên Chúa đã đang yêu thương và đã đang can thiệp vào lịch sử dân tộc mình.

2. Đức Giêsu- Lời Thiên Chúa nói với con người

Đức Giêsu là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa cho con người. "Chúa Cha yêu mến thầy thế nào, thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu thầy". Đức Giêsu yêu con người vô cùng. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình thương. Đức Giêsu đã hiến mạng sống Ngài cho con người. Ngài là tấm bánh bẻ ra nuôi sống con người. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Qua Ngài, với Ngài và trong Ngài, con người tìm được đường chân thực đi tới sự sống.

Đức Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho con người. Cuộc sống của Đức Giêsu giống cuộc sống của mỗi người chúng ta. Tôi gặp khó khăn gì trong cuộc sống, Đức Giêsu cũng gặp như vậy, cả những ao ước, những cám dỗ, những thách thức. Đức Giêsu đã gặp khó khăn với những người sống với Ngài, như khi Phêrô can ngăn Ngài đi trên con đường Thiên Chúa muốn, khi các tông đồ do dự không muốn lên Giêrusalem. Đức Giêsu cũng bị bỏ rơi khi gặp hoạn nạn, rồi cả cái chết, và là cái chết nhục nhã trần trụi trên thập giá. Những gì con người thường gặp, thì Đức Giêsu cũng đã gặp. Ngài là mẫu gương trong cách hành xử. Ngài là ánh sáng soi những lúc tối tăm của kiếp người. Ngài là ý nghĩa cho những đau khổ con người phải chịu.

Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nói với con người. Con người học bằng nghe, bằng nhìn. Đức Giêsu là con người cụ thể, con người có thể nhìn để thấy để học; Đức Giêsu là Lời, con người có thể nghe để hiểu. Nhìn Đức Giêsu, con người có thể nhận ra bài học Thiên Chúa muốn dạy con người. Đức Giêsu là tình yêu Thiên Chúa cho con người. Đức Giêsu la Lời Thiên Chúa nói với con người. Đức Giêsu là mặc khải của Thiên Chúa cho con người.

3. Thánh Thần- Tình Yêu Thiên Chúa

Đức Giêsu nói: "Đây là giới răn của thầy: các con hãy yêu thương nhau". "Ai giữ giới răn của thầy, thì ở lại trong tình yêu của thầy". Thánh Gioan tông đồ viết: "chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu đến từ Thiên Chúa". Chỉ có mỗi một điều quan trọng trên đời, đó là yêu thương. Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa, thì biết Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người đó. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Khi người ta yêu thương, người ta là con cái Thiên Chúa, vì người ta đang giống Thiên Chúa, vì Thien Chúa là Đấng chỉ biết yêu. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu. Thiên Chúa không phạt con người. Những đau khổ con người chịu, là do thù hận. Thù hận làm con người khổ, làm con người không hạnh phúc, là hỏa ngục theo một nghĩa nào đó. Ai yêu thương, theo một nghĩa nào đó, đang hạnh phúc. Nên, một nghĩa nào đó, để biết mình có yêu thương không, là có thấy mình đang hạnh phúc không. Một người yêu thương, là người để người khác có thể sống thoai mái với mình, để họ được tự do.

Thánh Thần là tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần giúp con người sống trong tình yêu, và nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Một dấu chỉ để biết con người có Thiên Chúa ở với mình không, là xem con người có sống yêu thương không. Yêu thương là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện, là dấu chỉ của Thánh Thần đang ở với người đó, và đang hoạt động nơi người đó. Mỗi người đều bởi Thiên Chúa mà được sinh ra, nhưng còn có một sự sinh ra khác: "ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa vì Thiên Chúa là tình yêu". Ai yêu thương, thì đang được sinh ra bởi và trong Thánh Thần.

 

23. Dòng suối yêu thương – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Nếu có ai đó chưa biết gì về đạo thánh Chúa, yêu cầu chúng ta: "Bạn có thể giúp tôi hiểu cách vắn gọn về bản chất của đạo Thiên Chúa trong vòng năm phút được không?"

Đề nghị nầy có thể làm cho chúng ta lúng túng. Trước một vấn đề quan trọng như thế thì dễ gì tóm gọn trong dăm ba phút? Thế nhưng lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta giải quyết phần nào vấn nạn nầy.

Có thể hiểu cách đơn giản rằng Đạo Chúa không gì khác hơn là Dòng Suối Yêu Thương với ba chiều kích:

1. Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha.

2. Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.

3. Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.

* * *

Như một quy luật tự nhiên, các suối đầu nguồn luôn trao hết, trút hết nguồn nước của mình vào lòng các dòng sông. Suối sẵn sàng cho đi luôn mãi không tiếc nuối bao giờ.

Các dòng sông, một khi đã nhận được nước từ những con suối ơ thượng nguồn, cũng không ngừng cho đi, cho đi ngày đêm không ngơi nghỉ, trút hết nguồn nước của mình cho vùng hạ lưu và cho ra biển cả.

Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn chảy xuôi xuống các dòng sông và tuôn chảy vào đại dương.

Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha

Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn Tình Yêu. Tình yêu của Người như Suối đầu nguồn. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha trao ban tất cả mọi sự cho Chúa Con như Lời Chúa Giêsu xác nhận: "Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy" (Gioan 5, 26).

"Chúa Cha yêu thương ngươi Con và đã giao mọi sự trong tay Con" (Gioan 3, 35).

Bởi vì Chúa Cha đã trao ban mọi sự cho Chúa Con nên Chúa Giêsu khẳng định: "Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy".

Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.

Chúa Giêsu chẳng những không giữ lại những gì Chúa Cha trao cho mình, mà còn đem tặng ban tất cả cho nhân loại, kể cả mạng sống của Người. Tình yêu của Chúa Giêsu lên đến cao điểm khi nâng con người phàm hèn lên hàng bạn hữu nghĩa thiết và hiến ban cả mạng sống mình cho họ: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).

Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.

Chúa Cha như suối đầu nguồn đã trút hết tình yêu cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu như dòng sông cả đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đã trút hết tình yêu ấy cho chúng ta.

Đến lượt mình, chúng ta được kêu mời trút hết tình yêu cho tha nhân như Chúa Giêsu đã trút hết tình yêu của Người cho chúng ta.

"Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12).

Thế là dòng suối Yêu Thương xuất phát từ Thiên Chúa Cha, qua Chúa Giêsu, tuôn tràn xuống chúng ta và thông qua chúng ta để đến với mọi người khắp nơi trên thế giới. Cứ thế, dòng suối Yêu Thương lưu chảy không ngừng, không nghỉ... đem lại hạnh phúc và sự sống cho tất cả mọi người.

Đừng cản trở dòng Suối Yêu Thương

Thỉnh thoảng có những thân cây to lớn bên bờ đổ xuống hoặc những ghềnh đá làm cản trở dòng chảy của con suối khiến nước không thể chảy xuôi về nuôi những cánh đồng phía dưới.

Khi không còn thương mến nhau, chúng ta trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh mình và vì thế chúng ta làm cho đời sống của bao ngươi quanh ta trở nên cằn cỗi.

Khi không còn thương mến nhau, chúng ta tự loại mình ra khỏi gia đình yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế chúng ta tự làm cho mình trở thành kẻ lạc loài và cô độc.

Lạy Thiên Chúa là Nguồn Mạch Tình Yêu, xin cho chúng con luôn chia sẻ Tình Yêu Chúa cho mọi người để nhờ đó, chúng con được hoà mình vào dòng suối Yêu Thương không bao giờ vơi cạn.

 

24. Tình đáp tình - Anmai, CSsR

Tình yêu! Có quá đáng chăng khi gọi Tình yêu là mầu nhiệm. Được lắm chứ vì lẽ chẳng ai có thể định nghĩa được tình yêu. Chỉ có ai đang yêu mới hiểu tình yêu là gì. Tình yêu thật chỉ đáp trả lại bằng tình yêu thật chứ không phải là dục vọng, danh vọng và vat chất. Thậm chí tình yêu ấy có thể trả bằng một giá rất đắt đó chính là trả giá bằng mạng sống mình vì người mình yêu.

Nếu tình yêu chỉ dựa vào vật chất, danh vọng và dục tình thì đó không phải là tình yêu thật mà là một tình yêu giả tạo.

Định nghĩa của thánh Gioan Tông đồ thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Định nghĩa thế thôi chứ nào Gioan giải thích được vì lẽ tất cả những ngôn từ của con người dành cho tình yêu của Thiên Chúa chang bao giờ đủ cả vì lẽ tình yêu của Thiên Chúa quá lớn, vượt quá trí hiểu của con người.

Thánh Gioan vừa mới khẳng định cho chúng ta qua thư của Ngài về tình yêu Thiên Chúa:

"Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,

vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,

và người ấy biết Thiên Chúa.

Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,

vì Thiên Chúa là tình yêu.

Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta

được biểu lộ như thế này:

Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian

để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.

Tình yêu cốt ở điều này:

không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,

nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,

và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta". (1 Ga 4, 7-10)

"Ta hãy gẫm suy tình yêu của Chúa

Tình Chúa ôi quá bao la

Ngay khi lúc ta còn là tội nhân

Thì Chúa, Chúa đã chết Ngài chết cho ta

Nay khi chúng ta được ơn giải oán

Nhờ máu nước của Ngài..."

Thế đấy! Tình yêu ấy nhiệm mầu, bao la đến độ linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã diễn ý của Thánh Phaolô tông đồ thành dòng nhạc đi vào lòng người.

Có gẫm, có suy cho đến ngất trí đi chăng nữa nhưng làm sao hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho những con người có tội và nhất là chính tôi đây là kẻ tội lỗi. Dẫu tôi đây yếu đuối, tội lỗi nhưng chẳng hiểu sao Thiên Chúa lại yêu tôi đến như vậy.

Tình yêu Thiên Chúa thật bao la, thật nhiệm mầu đối với cuộc đời Gioan để rồi trong toàn bộ tác phẩm Tin mừng thứ tư của mình, Thánh Gioan cứ xoáy đi xoáy lại về cái tình yêu nhiệm mầu mà Thiên Chúa dành cho Gioan, dành cho mọi người và dành cho chính bản thân tôi.

Mở đầu trang Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe đấy chúng ta thấy mối tương quan giữa Chúa Cha với Đức Giê-su và, bên kia, mối tương quan giữa Đức Giê-su vơi các môn đệ được đối chiếu với nhau. Một bên, Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su và Đức Giê-su yêu mến các môn đệ.

Đằng khác, các môn đệ hãy ở trong tình thương của Đức Giê-su, cũng như Đức Giê-su ở trong tình thương của Chua Cha.

Như vậy, tình thương bắt nguồn từ Chúa Cha (1 Ga 4,8.16), từ Chúa Cha bước sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su bước sang các môn đệ. Và, ngược lại, tình thương ấy phải từ các môn đệ sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su trở về cùng Chúa Cha.

Điều kiện phải có để ở trong tình thương, là tuân giữ các điều răn: các môn đệ phải tuân giữ các điều Đức Giê-su dạy, cũng như Đức Giê-su đã tuân giữ các điều Chúa Cha dạy.

Điều răn của Thầy là gì? Ga 15,12-14.15b cắt nghĩa Ga 15,9-10. Muốn ở trong tình thương, thì phải tuân giữ các điều răn Người dạy (15,10). Điều răn nào? Thưa là tất cả (êntôlas), mà trước hết là điều răn "thương yêu nhau" (15,12). Hơn nữa, phải thương yêu nhau như Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ, nghĩa là yêu thương đến nỗi hy sinh mạng sống. Lắm khi, giá trị món quà nói lên kích thước của tình yêu: yêu nhiều, tặng nhiều, yêu ít, tặng ít. Mà, đối với con người, không gì quí hơn mạng sống. Nên hy sinh mạng sống là thương yêu vô cùng. Đúng là tình yêu mạnh hơn tử thần.

Cái chết của Đức Giê-su trên thập giá bắc hai nhịp cầu. Chết như vậy, Đức Giê-su nói lên một cách tuyệt đối rằng Người thương yêu Chúa Cha đến nỗi vâng lời Người mà tự nguyện chịu chết (4,34; 5,30; 6,38; 14,30). Đằng khác, chết như vậy, Đức Giê-su đồng thời cũng nói lên rằng Người thương yêu vô cùng những kẻ Người đã chọn làm bạn hữu (13,1.34). Tình yêu của Đức Giê-su là nền tảng và là tiêu chuẩn của điều luật yêu thương anh em (15,12).

Chính cái chết của Chúa Giêsu là đỉnh điểm của tình yêu tự hiến mà Ngài đã ban tặng cho con người. Thử hoi trong cuộc đời, mấy ai dám chết như Thầy Chí Thánh Giêsu? Chỉ những ai dám hy sinh ngay cả mạng sống của mình mới minh chứng tình yêu thật của mình.

Có đôi vợ chồng trẻ nọ, chồng là giảng viên Đại học, vợ là diễn viên và là người dạy thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau. Trước khi lấy nhau, hai người đã nghe không biết bao nhiêu người khuyên rằng:

- "Họ sẽ không bao giờ hạnh phúc bên nhau".

Chồng thì ngồi nghế giảng viên Đại học, vợ suốt ngày cầm roi dạy cọp trong chuồng thú của đoàn xiếc, nhưng tình yêu đưa họ bay lên với những giấc mơ tuyệt đẹp. Người chồng giảng viên Đại học mặc dù thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không xứng đáng lắm, nhất là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc toả ra từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật khó chịu nhưng người diễn viên dạy thú thì không the không cần đến cái mùi ấy. Chính cái mùi ấy mà bầy cọp dữ mới nhận ra cô và vâng lời ngoan ngoãn.

Cho đến một hôm, hai người giận nhau, tình trạng ấy kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Cô chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với người chồng và cũng rất xa lạ đối với cô. Đó là tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ đã làm hòa với nhau. Thế nhưng, một hậu quả thật bi đát đến vơi cô: Đêm hôm sau người vợ ấy chết!

Người nữ diễn viên dạy thú ấy đã chết dưới nanh vuốt của con cọp dữ mà chính cô đã thuần hoá. Nó không nhận ra cô nữa vì mùi cọp quen thuộc không còn mà chỉ có mùi nước hoa hồng xa lạ. Con cọp hốt hoảng trước mùi lạ lẫm đó và đã tự vệ bằng cách tấn công. Chỉ trong khoảnh khắc người nữ diễn viên dạy thú đã tan xác vì những móng vuốt sắc nhọn của con cọp mà cô đã hết lòng thương yêu.

Câu chuyen "Mùi cọp" trên đây như một ngụ ngôn về sự hy sinh chính mình cho tình yêu. Người vợ vì yêu thương chồng đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đành phải hy sinh mạng sống mình. Một tình yêu đích thực là dám quảng đai quên mình đi, dù phải hy sinh, để bảo vệ hạnh phúc cho người mình yêu.

Thật sự ra mà nói, không phải thử thách tình yêu một cách nghiệt ngã như hai vợ chồng trên đây là phải làm như vậy nhưng ngay trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể diễn tả tình yêu thương ấy một cách hết sức dễ dàng. Chúng ta có thể thực thi giới luật yêu thương của Chúa mọi lúc và mọi nơi.

Bất cứ nơi đâu và lúc nào, chúng ta đều có thể sống cái tình yêu hay nói đúng hơn và đáp trả tình yêu được. Có khi chỉ là bớt một lời nói chanh chua, bớt đi một chút của ánh mắt tị hiềm, bớt đi cái thái độ hung hăng của ta đó chính là cử chỉ, thái độ của những người biết sống cách đap tình.

Cái khó của cái có thể ở đây là liệu rằng chúng ta có cảm nhận được chúng ta yêu hay không mà thôi? Chúa lúc nào cũng yêu ta còn ta lúc nào cũng quay lưng lại với Chúa. Anh chị em đồng loại yêu ta lắm đấy chứ nhưng với cái bản chất ích kỷ và con người nhỏ nhen đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu. Không nhận ra thì làm sao chúng ta có thể đáp lại mối tình mà Thiên Chúa cũng như anh chị em đồng loại dành cho ta.

Xin Chúa Giêsu là vua của Tình yêu đến và ở lại với chúng ta, soi sáng cho chúng ta để chúng ta nhận ra rằng Chúa yêu chúng ta hơn chúng ta tưởng, anh chị em đồng loại yêu chúng ta hơn chúng ta biết để rồi khi ấy chúng ta cũng thay đổi lối sống, thay đổi cuộc đời là đáp trả tình yêu mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa, từ anh chị em đồng loại.

 

25. Hãy mang trong mình ánh mắt yêu thương

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Ga 15: 9-17: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”.  Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông,  thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.

Trong cuộc sống của con người và trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, có những biến cố, có những dấu ấn để mà đánh dấu sự phát triển của một dân tộc. Và rồi chúng ta thấy sự kiện mà sách Công vụ tông đồ vừa kể lại cho chúng ta, trong suy nghĩ, chúng ta thấy biến cố mà thánh Phêrô ngày hôm nay được ghi lại, đã trở thành một biến cố Lịch sử, trở nên một dấu ngoặc mới.

Đọc lại thì, sách công vụ tông đồ trong bài đọc thứ nhất Chúng ta vừa nghe đấy. Thì có một ông Đại đội trưởng binh lính của người Ý tên là Conêliô, ông là dân ngoại. Ông được xem như là người ô uế, không thanh sạch như những người Do Thái. Và rồi thánh Luca nói rằng là: dẫu rằng là ông bị người ta xem như thế nhưng mà ông sống một đời sống đạo đức, yêu thương.

Và rồi một ngày kia, Conêliô có một cái thị kiến rằng là: “vì ngươi kính sợ Thiên Chúa, ăn ngay ở lành, nên Ta đã thấu lời nguyện xin của ngươi” thì một mặc ông cầu nguyện và ông cho người đi tìm Phêrô và khi mà thuộc hạ của ông Conêliô đi tìm Phêrô để mà nói lên cái lòng kính sợ Thiên Chúa của mình.

Thì lúc đó Phêrô lại được Chúa ban cho 1 cái thị kiến khác là có một tấm khăn lớn từ trên trời thả xuống. Nhìn tắm khăn thì trong đó thánh Phêrô thấy đủ thứ hết: rắn, rết, rồi sinh vật. Và rồi trong cái thị kiến đó thì Chúa bảo rằng là: Phêrô hãy đứng dậy và làm thịt mà ăn đi. Với cái phản ứng rất là tự nhiên, Phêrô bảo rằng là: Lạy Chúa, đời nào mà con ăn những cái thứ ô uế và không thanh sạch đó!

Nhưng mà Thiên Chúa nói rằng là: Cái gì mà Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì đừng bảo là ô uế. Và Thánh Phêrô đã hiểu ý của Chúa, với cái thị kiến đó. Trong cái thị kiến đó. Khi mà hiểu rồi thì Phêrô đã đi theo đoàn tùy tùng của Conêliô và đến nhà Conêliô.

Và thánh Phêrô đã tuyên bố rằng là giờ đây, tôi biết Thiên Chúa không thiên tư tây vị một ai, dù dân tộc nào đi chăng nữa, nhưng mà sống công chính đạo đức thì đều được Thiên Chúa đón nhận. Và thánh Phêrô đã cử hành phép rửa cho đại gia đình ông Conêliô.

Xem chừng đó là cái câu chuyện trong lịch sử trong sách công vụ tông đồ. Nhưng nếu suy cho bằng cùng, đây là một sự kiện rất trọng đại. Bởi vì ngày xưa, dân tộc Do Thái thì họ chỉ quan niệm rằng là Chúa Giêsu đến với họ và trao ban ơn cứu độ cho họ. Nhưng mà Kitô giáo chỉ phát triển ở trong cái vùng Do Thái thôi! Kitô giáo thì chỉ nhận những người Do Thái thôi! chứ còn những người ngoài thì không công nhận.

Và đây là lần đầu tiên mà thánh Phêrô đã cử hành phép rửa cho người ngoại, người mà người ta gọi là ô uế, người mà người ta cho là không trong sạch. Với cái biến cố này, phải nói rằng đánh dấu một bước tiến mới và chính cái biến cố này cho thấy rằng Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa của một mình dân tộc Do Thái, mà là Thiên Chúa của mọi dân tộc.

Do Thái thì tới bây giờ chúng ta thấy, tôn giáo của Do Thái cũng chỉ là Tôn giáo cho riêng của một dân tộc Do Thái thôi.

Còn Kitô Giáo thì, chúng ta thấy với 11 môn đệ sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, khắp mọi dân tộc, khắp mọi quốc gia để mà loan báo. Để rồi, Kitô giáo thuộc mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ, mọi màu da.

Nhờ biến cố này, và qua biến cố này, chúng ta thấy hội thánh được phát triển không ngừng. Và rồi chúng ta thấy, giáo hội phát triển dựa trên biến cố nào? trên cái sự kiện nào?

Không phải đơn giản để mà giáo hội phát triển. Không thể nào mà đơn giản ngày hôm nay, Giáo hội được lan tỏa, nó phải có một cái sức hút nào đó! Phải có một sức mạnh nào đó! Nó có một quyền lực nào đó! hay là nói chung là nó có một cái tác động nào đó, để rồi Kitô giáo ngày hôm nay phát triển.

Có một triết gia thuộc về trường phái nhân vị nói rằng là: Nếu một tảng đá mà được đặt đúng chỗ, thì nó sẽ chuyển đi Dòng Nước của một dòng sông. Và rồi thế giới này là dòng sông, tảng đá đó đặc ở đâu để mà thay đổi cái dòng nước.

Chúng ta thấy, thế giới này là dòng sông và tảng đá thay đổi cái nhìn, thay đổi dòng nước, thay đổi não trạng của con người: Hận Thù Ghen ghét chà đạp nhau thì thay vì hận thù, ghen ghét, chà đạp, có một trọng tâm đến trong thế gian này, đó chính là Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đã trả lời, cái câu hỏi mà nhiều người thắc mắc lâu rồi! Đó là gì? Đó là “Anh em hãy yêu thương nhau.” Đó là thông điệp, đó là sứ điệp, đó là sức mạnh để mà thế giới này thay đổi! Không phải là bạo lực, không phải là hận thù, không phải là vũ khí không phải là bom đạn.Vũ khí và bom đạn của Chúa Giêsu đó chính là “Anh em hãy yêu thương nhau.”

Nói tới đây con nhớ đến câu chuyện này: Cách đây chắc cũng phải mười mấy năm rồi! Khi mà cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng có một lần ngài kể cho anh em học viện sự kiện như thế này là:

Có một cái Đan viện kia, ngày xưa thì người ta tới đan viện tấp nập, vui lắm! Nhiều người tới với Đan viện. Thế rồi, bỗng dưng một thời gian đan viện vắng lặng.

Thế rồi, vị đan viện trưởng cảm thấy buồn và thắc mắc đi tìm đến một vị thánh và cái người thánh thiện này trả lời rằng là không phải rằng là ở cái đan viện này do tội lỗi của một người nào đó để mà gây ra cái chuyện rằng là người ta không đến đan viện, nữa, nhưng mà tội của Đan viện đó là tội tập thể, chính vì đan viện đã không nhận ra một Đấng Cứu Thế ở trong đan viện.

Đấng Cứu Thế đó đã đến với đan viện và đã ẩn thân trong một ông thầy. Nhưng mà chính vì nhà dòng đã đối xử tệ với ông thầy đó, và rồi không ai đến với đan viện nữa!

Đan viện trưởng về kể cho anh em nghe lời của một người thánh thiện đó! và thuật lại rằng có một Đấng Cứu Thế giả trang trong anh em và chính anh em đã cư xử không ra gì với cái Đấng đó! nên là người ta không đến với đan viện được.

Nghe như vậy thì người này nhìn người kia và tự hỏi rằng là không biết ai đối diện với mình là Đấng Cứu Thế và từ đó người ta đã dành cho nhau sự kính trọng và lòng yêu thương lẫn nhau. Cứ người này nhìn người kia không biết, Đây có phải là Đấng Cứu Thế hay không?

Và rồi người ta thay đổi cái nhìn, người ta thay đổi cái cách sống và từ đó bầu khí của Đan viện nó khác hẳn: bình an, vui tươi. Sau đó thì niềm vui nó trở về với đan viện. Và rất nhiều người đến thăm với đan viện.

Thật sự ra đây là một cái câu chuyện mà chỉ là tưởng tượng thôi! Nhưng mà muốn gợi lên cho chúng ta rằng: Một Đức Giêsu Kitô đã đến trong trần gian này rồi! nhưng mà người ta đã khước từ.

Thế nhưng mà ngày hôm nay, chúng ta nhìn vào Giáo hội, dĩ nhiên, có những cái bi quan rằng nhà dòng này, Nhà dòng kia, chủng viện này, chủng viện kia đóng cửa phải đi bán đi, vì không có người coi.

Nhưng mà, kèm theo những cái dấu hiệu buồn đó, có những cái tín hiệu vui như hình ảnh của một Têrêsa Calcutta, một người đàn bà dường như đã biến đổi cái nhìn của trần gian này bằng cái tình yêu thương, đặc biệt là những con người nghèo, những con người bất hạnh.

Và chúng ta thấy trong thời đại ngày hôm nay chúng ta, chúng ta nhìn thấy một Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ngài đã làm một cuộc cách mạng với Giáo hội, ngài nói rằng: Giáo hội là Giáo hội của người nghèo và Giáo hội là cái bệnh viện dã chiến để mà băng bó những con người tàn tật, những con người bị thương tích như Chúa Giêsu chạnh lòng thương, yêu thương người nghèo, yêu thương người tàn tật đó!

Và điều trọng tâm mà Chúa Giêsu đã muốn đặt vào, để chuyển cái dòng lịch sử nhân loại hận thù, ghen ghét này! Đó là điều răn yêu thương, đó là giới luật yêu thương.

Còn nhớ rằng là ông Luther King có một bài thơ rất là hay: ông mơ, ông mơ có một cái ngày kia.. thế này, thế kia... rồi mỗi người chúng ta cũng có cái niềm mơ ước đó là: mỗi gia đình Công giáo của chúng ta là một gia đình yêu thương. Mỗi một xứ đạo của chúng ta là một xứ đạo yêu thương và như thế mỗi thành viên trong gia đình, mỗi thành viên trong xứ đạo, là một người yêu thương.

Mà nếu như chúng ta sống được cái tình yêu thương lan tỏa đó! Trong gia đình, trong xứ đạo thì chắc chắn giáo hội chúng ta sẽ cuốn hút.

Và lời mời gọi yêu thương đó đặt ra cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có quyền ước vọng, chúng ta có quyền khát vọng, Nhưng rồi suy nghĩ có ước mơ có thành hiện thực lại là lời đáp của mỗi người chúng ta mỗi người chúng ta được đặt ra khi tình yêu thương mà Chúa mời gọi. Chúng ta có sống yêu thương anh chị em đồng loại hay không? Hay là chúng ta mãi mãi ích kỷ! Chúng ta mãi mãi hờn ghen, chúng ta mãi mãi loại trừ.

Giới răn Yêu Thương vẫn còn đó: “Anh em hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em”. Giới răn đó vẫn mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy là tảng đá để thay đổi cái dòng chảy của dòng sông, thay đổi cái lối sống hận thù bằng cái lối sống yêu thương của chúng ta.

Mỗi người chúng ta được mời gọi, chúng ta cộng tác với Chúa cho cuộc sống này có ý nghĩa hơn, cho cuộc sống này nhân đạo hơn.

Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta, hãy mang trong mình ánh mắt yêu thương, hãy mang trong mình cái vòng tay yêu thương, hãy mang trong mình cái lòng thương xót đối với anh chị em đồng loại. Khi và chỉ khi chúng ta sống cái lòng yêu thương đó nơi cuộc đời của chúng ta thì khi đó chúng ta mới thực thi trọn vẹn giới răn yêu thương mà Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Amen.

 

26. Yêu như Chúa yêu

(Suy niệm của Lm. Lê Văn Nhạc)

Tin mừng Ga 15: 9-17: Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".

Ngày 10/10/1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em". Trong lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: "Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M.Kolbe đã tự nguyện hiến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính Ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một người tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14/8/1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của Ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như Ngài… Chính tình yêu cao cả đã giúp Ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng người kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…"

Anh chị em thân mến,

Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hóa giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: "Anh em hãy yêu thương nhau". Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giờ phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau".

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: "Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau". Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và là một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên "yêu thương nhau" đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ "Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra".

Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải qui chiếu khít khao vào chính tình yêu của Chúa Giêsu - một tình yêu vốn đã qui chiếu vào tình yêu Chúa Cha - bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho những kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. "Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em". Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x.bđ.1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gủi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x.bđ.2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho nỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ, và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành tranh lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu". Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc Tử nạn Phục sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại Bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào phục sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.

Anh chị em thân mến,

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết "yêu như Chúa yêu" và "yêu người như yêu Chúa".

Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vậy làm bung phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.

Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.

Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hon nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…

Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hòa.

Mỗi thánh lễ là một cử hành về Tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.

 

27. Yêu như Chúa yêu

Trong những dòng suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật 6 Phục Sinh hôm nay, tôi không làm gì khác hơn là chỉ kể chuyện cho anh chị em và các bạn nghe. Vì tôi tưởng rằng những câu chuyện này, tuy đơn sơ thôi, nhưng lại diễn tả hết những gì mà tôi muốn nói.

Câu chuyện thứ nhất:

"Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và co em gái của cậu 6 tuồi. Cả hai đều gầy yếu và đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại tới lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều và cần đuợc tiếp máu. Thế nhưng bệnh vien không có sẵn loại máu cùng nhóm máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với cô. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống cô em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng sau đó cậu ta bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: "Vâng, con bằng lòng hếin máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm"

Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho cô em gái. Khi tỉnh dậy mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: "Ô hay! con vẫn còn sống đấy à?

Suy tư:

1. Hóa ra cậu bé trong câu chuyện tưởng lầm rằng khi cho máu thì mình sẽ phải chết. Vì các bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu và tiếp sang cho đứa em gái. Vì quá thương em và không muốn em chết, nên cậu ta quyết định chết thay cho em.

2. Đức Giêsu dạy: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Yn 15, 12) Đó là điều răn mới. Cái mới trong điều răn này không phải ở chỗ yêu thương nhau. Nhưng mới ở chỗ yêu thương như Thầy đã yêu thương. Yêu bằng cái chết của mình để người khác được sống.

Câu chuyện thứ hai:

"Có hai vợ chồng nhà kia, hằng ngày cùng nhau vào rừng kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm bốn miệng ăn. Hai vợ chồng và hai đứa con thơ.

Một hôm, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tả, mặt sông dậy sóng. Chiếc thuyền nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp. Hai vợ chồng bị văng ra khỏi thuyền. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng môt tay bám vào thân cây, tay còn lại cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể bị chết chìm. Người chồng nói với vợ rằng: "Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ. Em phải sống để nuôi các con em nhé!" Nhưng chị vợ đáp: "Không! Anh phải sống và nuôi con!" Rồi chị đã buông tay ra cho chìm xuống để anh chồng đủ sức bơi vào bờ.

Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sông lập bàn thờ và thành tâm khấn vái cầu xin hương hồn phù hộ cho ba cha con.

Suy tư:

Câu chuyện này là một chú thích và là một minh họa cho điều Chúa Giêsu đã nói: " Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình" (Yn 15,13)

Thay cho kết luận:

1. Không biết những câu chuyện trên đây có thật không. Nhưng chắc chắn đấy không phải là những huyền thoại.

2. Đức Giêsu không giống như những bậc vĩ nhân thường được nhắc đến trong lịch sử nhân loại. Người không viết một cuốn sách nào, cũng không để lại môt công trình hay một kiệt tác nào. Nhưng tôi tưởng rằng cả cuộc đời Người đã sống, toàn bộ sứ diệp mà Người đã ấp ủ và rao giảng được đúc kết chỉ vỏn vẹn trong một câu thôi: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con." Yêu như Thầy yêu là: "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình. (x Yn 15,13)

3. Không biết lời dạy của Chúa Giêsu có lý tưởng quá không, có quá khó để sống không. Nhưng trong cuộc đời này, đã có một Gioan Phaolô II, đã có một Têrêsa Calcuta và đã có một Maximilia Kolbe....là những chứng từ sống động và hùng hồn nhất cho tình yêu đó.

4. Còn chúng ta thì sao? Có thể chúng ta ít có cơ hội để chết cho người khác. Vì chúng ta vẫn thường sợ chết, vẫn thường hèn nhát. Nhưng mỗi ngày, ta có rất nhiều dịp để sống cho người khác, sống cho tha nhân với những cái chết nho nhỏ.

Người ta quen nghĩ rằng chết là mất tất cả, chết là không tồn tại, chết là một điều khủng khiếp, nên người ta sợ chết. Chết như thế là chết vì ích kỷ. Trái lại chết vì yêu là chết vì hiến trao. Chết vì yêu là chết vì người khác và cho người khác. Vì thế, mặc du ta chết nhưng ta vẩn sống vẫn tồn tại. Vì tình yêu của ta sẽ đọng lại mãi trong lòng mọi người, rất sâu và rất lâu.

Cuối cùng tôi xin mượn tâm tình trong một lời cầu nguyện, đơn sơ thôi nhưng lại rất thấm thía. Tôi muốn mượn tâm tình này như một lời tự tra vấn mình và là lời nhắn nhủ đến tất cả. Tâm tình của lời cầu nguyện ấy thế này:

"Lạy Chúa, xin khoan để cho con chết đi. Bởi vì con chưa yêu đủ". Amen.

 

28. Yêu như Thầy yêu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là "các con hãy yêu mến nhau" (Ga 15, 12).

Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu?

Vậy, "yêu như Thầy đã yêu" là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng? Xem ra chữ "như" có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói "yêu như Thầy đã yêu mến các con" là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con là bạn hữu" (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: "Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con" (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống cac môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, "Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người" (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.

Thánh Augustinô nói tiếp: "Yêu như Thầy đã yêu các con", khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết: "Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7 - 8). Gioan quả quyết: "Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta" (1 Ga 4, 10).

Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người khong trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...

Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đo. Đây là tình yêu huyết tộc.

Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.

Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.

Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: "…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy". Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.

Chúng ta vẫn thường nghe nói: "gia đình là Giáo hội thu nhỏ", thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: "yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng".

Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô: Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biet anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời: ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao?

Chuyện khác: Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:

Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.

Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.

Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: "Thầy truyền cho các con" (Ga 14, 12), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tang cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Amen.

 

29. Thầy gọi các con là: BẠN

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Hôm nay chúng ta cử hành Chúa nhật thứ VI Phục Sinh trước lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiền xuống. Trong các Chúa nhật trước, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Mục Tử Nhân Lành, là cây nho thật, chúng ta là cành phải kết hợp với cây. Nhưng hôm nay, Người cho chúng ta thấy một Trái Tim rung động đầy tình yêu.

1) Tình yêu không biên giới

Trong Trái Tim này tất nhiên chúng ta chỉ thấy tình yêu. Tình Yêu là mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Thiên Chúa, vì Ngài là Tình Yêu. Tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Các bản văn của Gioan (1 Ga 4,7 - 10; Ga 15,9 - 17) mạc khải rõ: “Thiên Chúa là tình yêu ; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16) người ấy sẽ sinh trái.

Từ tạo dựng đến cứu chuộc, Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu. Chúa đợi chờ chúng ta đáp trả bằng tình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thày” (Ga 15,9).

Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta làm một cuộc xuất hành nội tâm tình yêu đi từ chính mình qua con người của mình bằng cầu nguyện với trái tim lắng nghe, vứt bỏ sau lưng những gì không cần thiết khiến chúng ta mất đi điều tối cần là: Thiên Chúa và tình yêu của Người.

Chúa Giêsu thật là có lý khi dạy chúng ta: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (x. Ga 15,12.17). Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Con Thiên Chúa đã trở nên mẫu mực, nguyên tắc, nguồn suối và thước đo, để chúng ta yêu: "Như Thầy đã yêu mến các con". ".

Một trong những hoa trái của tình yêu là niềm vui: “Thầy nói với các con điều ấy để niềm vui của Thầy ở trong các con” (Ga 15,11). Nếu cuộc sống chúng ta không chiếu tỏa được niềm vui của đức tin, nếu chúng ta để cho những phiền toái choáng ngợp lòng chúng ta khiến chúng ta không nhận ra Chúa đang ở đó, là vì chúng ta không biết Chúa Giêsu cho đủ, chưa yêu “như Chúa”.

Tình yêu của Thiên Chúa là không biến giới. Người đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Dù bạn hữu không hiểu Chúa, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Người. Ðiều này nói với chúng ta rằng Người yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!

2) Tên mới của các môn đệ là: BẠN

Thiên Chúa là người chủ động. Người khẳng định: “Chính Thầy đã chọn các con” (Ga 15,16). Chúng ta luôn bị cám dỗ để tin rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong thực tế, chúng ta chỉ là người đáp lại tiếng Chúa gọi. Người đã chọn chúng ta một cách nhưng không để trở nên “Bạn”: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa (…) Thầy gọi các con là bạn” (Ga 15,15).

Ban đầu, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Ađam như một người bạn nói với bạn mình. Đức Kitô, Ađam mới, đã lấy lại và không chỉ gọi chúng ta là bạn nhưng là bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu: “Như Thầy đã yêu các con”. Trong tình yêu của Chúa Giêsu, chiều kích nhưng không là nền tảng và tình yêu của chúng ta phải có. Yêu như Chúa là phải yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa không có sở hữu. Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta làm cuộc xuất hành tình yêu hướng về người khác. Dâng tặng tình yêu thương cho anh em và đáp lại tình yêu của Chúa để trở nên BẠN.

3) Tình yêu hỗ tương: tình bạn

Nói đến tình bạn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự có đi có lại trong tình yêu. Vậy, trong nghĩa nào thì tình bạn khác với tình yêu? Tình bạn là một tình yêu hỗ tương. Theo thánh Augustinô, tình bạn là có đi có lại, nhưng không có tính toán vì không có sự giả vờ trong tình bạn thật.

Sự tương hỗ Kitô giáo được sinh ra từ sự nhưng không, không có nghĩa là “dịch vụ chưa thanh toán, hay làm mà không cần lý do”, nhưng được thi hành với lý do cao cả: tình yêu được sinh ra bởi đức tin.

Tình yêu Kitô giáo là sự đảo nghịch, nhưng không đối xứng: cho và nhận không cùng đẳng cấp. Tin Mừng về sự có đi có lại không đơn giản chỉ là một sự đổi chác. Nếu chúng ta chỉ yêu đến mức trao đổi, đây không phải là tình yêu đích thực. Và nếu chỉ vì chúng ta cho mà chúng ta được yêu, thì đây không phải là ta được yêu thực sự. Chỉ những ai hiểu được sự nhưng không tự nhiên này, mới có thể hiểu được Thiên Chúa và chính mình. Con người với hình ảnh giống Thiên Chúa, được tạo dựng và trao ban nhưng không. Đây là cách còn người tìm thấy sự thật của chính mình và thể hiện bản thể mình là giống “hình ảnh của Thiên Chúa”.

Đặc tính của mối liên hệ tình bạn này tối thiểu có ba điều: hoàn toàn hiến thân (“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”) (Ga 15,13); Tín nhiệm (“Ta đã giao phó cho các con tất cả những gì Ta đã nghe được từ nơi Cha Ta”); lựa chọn ơn gọi là tiền định nhưng không (“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”) (Ga 15,16).

Tất cả có thể tóm gọn trong từ: “YÊU”. Người Thầy nhân lành yêu cầu chúng ta làm việc bác ái như là một điều răn duy nhất có thể. Không có bác ái, tất cả đều không không vậy. Thực tế, Đức ái phải dẫn con người tới các nhân đức khác để làm cho con người tốt.

Là những người thừa hưởng sự ưu đãi này, các môn đệ được “nâng lên” làm BẠN của Thiên Chúa: “Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” Nó có nghĩa gì? Rất đơn giản, có nghĩa là chúng được Chúa Kitô yêu mến và nếu tình yêu là một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình, chúng ta phải ra khỏi chính mình và đặt mình vào trong Trái Tim Chúa và sau đó tự hỏi Chúa yêu thương chúng ta thế nào và Chúa đợi gì, chúng ta làm như Chúa: yêu mến người khác như Chúa yêu mến chúng ta. Amen.

 

30. Thiên Chúa là tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP.

Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhấn mạnh đến một giới răn quan trọng nhất trong đạo: đó là giới răn yêu thương. Giới răn này đã có trong Cựu ước, nhưng một lần nữa, trước khi đi vào cuộc tử nạn, Đức Giêsu nhấn mạnh đến giới răn này dưới khía cạnh tình yêu huynh đệ.

Thánh Gioan Tông đồ khẳng định: "Thiên Chúa là Tình yêu" (1Ga 4,7). Ngài yêu thương chúng ta trước nên đã dựng nên ta, nhất là ban Con Một của Ngài cho thế gian để mọi người được cứu chuộc. Đáp lại, chúng ta cũng phải yêu mến Ngài và yêu thương nhau.

Nhưng yêu thương bằng cách nào? Hay nói cách khác, làm thế nào mà biết được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là chân thật? Qua các bài đọc của Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể khẳng định mà không sợ sai lầm: đó là chúng ta trung thành giữ các giới răn của Chúa và yêu thương nhau bằng những việc làm cụ thể, chứ không chỉ yêu thương nhau trên đầu môi chót lưỡi.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Cv 10,25-48.

Trong Giáo hội sơ khai, có một vấn đề gai góc cần phải được giải quyết: đó là có thể chấp nhận cho những lương dân chịu phép rửa mà không đòi buộc họ giữ các Lề luật Do thái không? Nhiều người không chấp nhận. Nhưng thánh Phêrô được Chúa Thánh Thần soi sáng đã tuyên bố: "Thiên Chúa yêu thương mọi người không thiên vị ai, tất cả mọi người được chấp nhận tham dự vào nguồn mạch sự sống của Thiên Chúa". Vì thế, ngài đã rửa tội cho viên sĩ quan Rôma tên là Cornêliô và nhận ông vào Hội thánh Chúa.

Trước biến cố này, thánh Luca tin rằng đó là một biến cố quyết định đối với tương lai Kitô giáo, nên trong dịp này, ngài không ngại cho chúng ta chứng kiến lễ Thánh Thần hiện xuống lần nữa, lần này trên các dân ngoại. Những ơn khi Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống lần đầu tiên cũng được ban cho họ, ngày cả trước khi họ chưa chịu phép Rửa.

+ Bài đọc 2: 1 Ga 4,7-10.

Thánh Gioan khẳng định: "Thiên Chúa là Tình yêu" (1Ga 4,7) và mọi tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Không phải chúng ta đã yêu Ngài nhưng Ngài đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ cho chúng ta trong việc này: "Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta".

Từ đó sinh ra những hệ luận:

- Chúng ta phải yêu thương nhau.

- Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa.

+ Bài Tin mừng: Ga 15,9-17.

Tiếp tục dụ ngôn cây nho và cành nho, trong bài diễn từ ở nhà Tiệc ly trước giờ phút chịu tử nạn, Đức Giêsu khuyên các Tông đồ hãy kết hợp với Ngài:"Hãy ở lại trong Tình yêu của Thầy". Đồng thời Ngài cũng đưa ra một điều răn quan trọng để các ông thực hiện: "Đây là giới răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con"(Ga 15,12)

Tình yêu mà Đức Giêsu muốn cho các ông thực hành có những đặc tính này:

- Yêu như Chúa yêu: "Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thuơng các con".

- Yêu đấn tận cùng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình".

- Tình yêu phải được thể hiện trong việc làm: "Nếu như các con giữ điều răn của Thầy".

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Các con hãy yêu thương nhau.

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước nói về cây nho và cành nho, nhắc cho chúng ta hãy sống kết hợp với Chúa như cây nho và cành nho. Hôm nay Đức Giêsu lại đưa ra cho chúng ta một bài học nữa về sự liên kết giữa các cành nho. Đó là đức Bác ái mà các Kitô hữu phải thi hành đối với nhau: "Đây là giới răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".

I. TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA.

1. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,7).

Con người từ bản tính ai cũng biết yêu, tuy mức độ và sắc thái có khác nhau. Nhưng làm sao con người lại biết yêu? Trong bài đọc 2, thánh Gioan Tông đồ đã trả lời cho chúng ta:"Vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa"(1Ga 4,7). Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu, Ngài ban cho chúng ta tình yêu ấy để chúng ta yêu Ngài và yêu nhau.

a) Tình yêu trong tạo dựng:

Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương.

Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói:"Này là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi"(St 2,23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói:"đồng bào ruột thịt". Đồng bào có nghĩa là chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt.

b) Tình yêu cứu chuộc.

Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho con người, nhưng đã thất bại. Loài người không yêu Thiên Chúa, lại cũng không biết thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lại một lần nữa, Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương con người trong việc cứu chuộc. Tình yêu ấy đã được thánh Gioan Tông đồ diễn tả:"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ"(Ga 3,16-17).

Thiên Chúa không những yêu thương con người, đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, lại còn ban ơn cứu độ, nâng con người sa ngã lên, một việc làm còn lớn lao hơn việc tạo dựng.

2. Tình yêu của Thiên Chúa Cha qua Đức Giêsu.

Chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó. Một lò sưởi không thể nào toả ra sức nóng, trừ phi nó đã được đón nhận sức nóng từ trước đó. Điều này cũng đúng cả đối với Đức Giêsu. Ngài nói với các môn đệ của Ngài:"Như Cha đã yêu mến Thầy, nên Thầy cũng yêu mến các con". Tình yêu mà Ngài chia sẻ một cách quảng đại cho các môn đệ của Ngài, và cho mọi người nói chung, chính là tình yêu mà Ngài đã đón nhận từ Thiên Chúa Cha.

Tình yêu đã được lãnh nhận ấy thật là tuyệt vời. Tình yêu chia sẻ ấy đã được thánh Gioan tông đồ mô tả:"Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta"(1Ga 3,16). Ngài đã dám gánh tội chúng ta, đã chịu chết để đền tội cho ta. Ngài không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại:"Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người thí mạng vì người yêu"(Ga 15,13).

Ngoài ra, Ngài cũng còn tỏ lòng thương yêu chúng ta bằng cách tôn chúng ta lên làm bạn hữu của Ngài:"Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu". Thực sự, chúng ta không xứng đáng được gọi là tôi tớ Thiên Chúa vì chúng ta là vật thọ tạo đã dám xúc phạm đến Ngài, đến Đấng đã tạo dựng nên mình. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Ngài dành cho chúng ta.

II. TÌNH YÊU CỦA CHÚNG TA.

1. Lệnh truyền của Đức Giêsu.

Đức Giêsu có những lời tâm huyết muốn truyền lại cho các tông đồ trong bữa Tiệc ly. Một trong những lời tâm huyết ấy là:"Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 15,12). Đức Giêsu có ý nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương nhau, vì yêu thương là một lệnh truyền duy nhất gồm tóm mọi lệnh truyền khác (x. Mc 12,28-34). Lệnh truyền này là chúng ta yêu thương nhau như chính Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta. Và khuôn mẫu của tình yêu thương là Đức Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này có rất nhiều đặc tính mà chúng ta cùng tìm hiểu để áp dụng vào đời sống thường ngày của chúng ta.

2. Những đặc tính của tình yêu.

a) Yêu không giới hạn.

Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu nói:"Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Chúng ta nên lưu ý đến chữ nhau và chữ như, hai chữ ấy nói lên mức độ của tình yêu cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

* Chữ NHAU. Nói lên chiều rộng của tình yêu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương nhau. Chữ "nhau" giả thiết phải có hai người trở lên. Vậy phải yêu ai và yêu bao nhiêu người? Chúa không bảo hai vợ chồng hay hai tình nhân yêu nhau, mà bảo phải yêu thương tất cả mọi người vì tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa. Vì thế, ta không nên hiểu chữ "nhau" này theo nghĩa hẹp, chỉ nhằm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta mà thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người.

Cha Zosima nói trong cuốn sách "Anh em nhà Karamazov" của Dostoevsky:"Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mọi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự" (Flor McCarthy).

Thánh Augustinô khi nói về mức độ của tình yêu thì ngài nói rất chí lý: "Mức độ của tình yêu là không có mức độ nào".

Câu nói của Đức Khổng Tử cũng tương tự:"Tứ hải giai huynh đệ": bốn bể là anh em.

* Chữ NHƯ. Nói lên chiều sâu của tình yêu. Phải yêu thương mọi người không trừ ai, lại còn phải yêu thương với một tình yêu sâu đậm như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta.

Trong Thông điệp "Ánh sáng rạng ngời", Đức Gioan Phaolô 2 đã viết:"Chữ "như" này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể... Chữ "như" cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của Người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy"(Số 20).

b) Yêu thương là trao ban.

Một trong các đặc tính của tình yêu là "trao ban", là cho đi. Yêu là không muốn giữ lại cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu như Paul Bourget nói:"Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy, muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái, chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì ca".

Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng:"Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ", thì thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ mà thánh nữ sáng tác:

Sống yêu đương chính là cho tất cả,

Trên đời này không đòi hỏi công lao.

Không tính toán, không kể cho là bao,

Vì đã yêu có khi nào suy tính.

Truyện: Hai biển hồ.

Palestine có hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Chung quanh hồ là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.

Biển hồ thứ hai tại Palestine là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào ở trong cũng như chung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không thể sống nổi mà người cũng có thể trở nên bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên, khiến không ai muốn sống gần đó.

Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người.

Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho mình, do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.

"Cho thì có phúc hơn nhận". Càng trao ban, càng được nhận lãnh. Chúa đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, và Ngài không muốn cho chúng ta giữ lại cho riêng mình, nhưng là chia sẻ tình yêu ấy cho mọi người chung quanh.

(Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 154)

c) Yêu là hy sinh.

Tục ngữ Tây phương có câu:"Partir, c'est mourir un peur": ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một hy sinh, hy sinh làm ta đau khổ và đau khổ được coi như chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết:"Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật"(Pierre l'Ermite).

Yêu là hy sinh và hy sinh lớn nhất là cho đi chính mạng sống của mình như Đức Giêsu đã nói:"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình"(Ga 15,13). Nếu đọc cuốn tiểu thuyết "Anh phải sống" của nhà văn Khái Hưng, ta thấy cũng có một nhân vật dám thực hiện lời khuyên trên của Đức Giêsu. Câu truyện ấy gồm tóm như sau: Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì"em phải sống để lo cho các con". Người vợ cũng bảo chồng "Anh phải sống". Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.

Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.

d) Yêu đòi sự thành thật.

Thánh Gioan Tông đồ luôn khuyên nhủ tín hữu hãy yêu thương nhau. Yêu thì có năm bảy đường yêu, nhưng tình yêu đòi hỏi sự chân thật. Ngài khyên:"Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm; căn cứ vào điều đó chúng ta biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa"(1Ga 3,16-18).

Nhiều người chỉ yêu thương hời hợt bên ngoài, lòng họ chẳng yêu gì, đúng là họ chỉ yêu trên đầu môi chót lưỡi như thánh Gioan đã nói ở trên. Vì thế người ta nói:

Tôi yêu anh vạn

Tôi mến anh nghìn.

Anh có ăn thuốc đưa tiền tôi mua.

Những người này người ta liệt vào loại:

Thương miệng thương môi

Thương miếng xôi miếng thịt.

Truyện vui: Cớ sao ông lại chết?

Trong một bãi tha ma tối đen như mực, có một người đàn ông đã 5 ngày liền ngồi buồn rầu trên một nấm mồ và luôn miệng nói một câu thảm thiết "Cớ sao ông lại chết? Cớ sao ông lại chết để tôi khổ thế này"?

Người hầu tìm thấy ông ta, muốn an ủi, bèn hỏi:

- Người quá cố là cha hay anh ông vậy?

Con người khốn khổ rên rỉ:

- Không phải cha, không phải anh. Đó là người chồng trước của vợ tôi đấy!!!

3. Đức Giêsu khuôn mẫu của tình yêu.

Giới trẻ ngày nay thích đi chọn thần tượng cho mình để học đòi bắt chước. Đối với họ, thần tượng của họ là lý tưởng của đời mình, họ ra công học đòi bắt chước để trở nên giống thần tượng của họ trong cách ăn mặc, nói năng, đi đứng... Vì thế, họ đi tìm thần tượng của họ nơi các ca sĩ nhạc trẻ, nơi các cầu thủ bóng đá, nơi người trí thức, nơi các nhà chính trị xuất sắc...

Nhưng có một người mà suốt 2000 năm nay đã rất nổi tiếng, đã được người ta suy tôn là thần tượng tuyệt vời mà họ không biết, đó là Đức Giêsu Kitô. Thần tượng này đã dám khuyên mọi người hãy bắt chước cách sống của mình để trở nên giống mình:"Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng"(Mt 11,29). Biết bao người đã say mê thần tượng đó, người ta đã tin theo và bảo vệ thần tượng đó mặc dầu phải hy sinh mạng sống mình.

Thần tượng ấy đã làm gương và khuyên nhủ chúng ta một điều mà mọi người cần phải thực hiện:" Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con"(Ga 15, 13).. Rất nhiều người đã thực hành lời khuyên đó bằng cách thể hiện ra trong những việc làm cụ thể hằng ngày.

Truyện: Ngôi nhà thờ.

Trong một ngôi làng tại dẫy núi Alpes ở Thụy sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dùng một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân. Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện đó như sau:

Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở nên hiếm hoi.

Ngày kia, người em tự nhủ "Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình còn phải nuôi cả một gia đình". Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.

Đồng thời, người anh cũng có đồng một ý tưởng đó và tự nhủ "Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình có cả gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân". Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.

Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời "Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện diện của Ta".

(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm B, tr 271-272)

 

31. Ở lại trong tình yêu và sinh hoa kết trái

(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Ga 15: 9-17: Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: "Chính Người đã yêu thương chúng ta". Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.

Phụng vụ hôm nay phong phú những từ ngữ nói về tình yêu, những từ ngữ đơn giản nhưng thật kỳ lạ, và dường như còn phi thường nữa. Chỉ nguyên bằng một từ rất quen thuộc, "tình yêu", Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào khám phá chính mầu nhiệm bản thân Chúa Cha và của chính Người, mầu nhiệm tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu và cuộc sống mà Người muốn đưa chúng ta đi vào. Tất cả đời sống yêu thương của Kitô hữu chủ yếu tuôn trào từ xác tín nói rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước: "Chính Người đã yêu thương chúng ta" (1Ga 4,10). Vị Thiên Chúa chịu đóng đinh là sự biểu lộ trọn vẹn tình yêu này.

I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,9-17

ª Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)

Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho "thật", còn chúng ta là cành, mà cành thì phải "ở lại" trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Gioan). Đức Giêsu đã lệ thuộc vào Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng đã yêu mến anh em như vậy" (15,9). Đây là những biến cố được xác định trong quá khứ. Đức Giêsu ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống Kitô hữu.

Chúng ta phải "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người "ở lại" trong tình thương của Cha Người. Chúng ta cũng có thể "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình bằng hữu ấy. Chúng ta cũng có thể "ở lại" bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là "ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn ; giữ lời]" (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để "niềm vui của Thầy ở trong anh em" và "niềm vui của anh em được nên trọn vẹn" (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài "niềm vui" này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).

Như thế, Đức Giêsu "ở lại" trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Ngài để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ "ở lại" trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhận từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng ta chỉ hiểu điều ta đã nhận khi ta tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.

ª Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17).

Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Họi thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (15,12 nhắc lại 13,34). Hành vi "Thầy đã yêu thương anh em" trong quá khứ phải được thể hiện trong tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống "vì bạn hữu của mình", "nhân danh bạn hữu mình" (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.

Khi nói đến việc hy sinh tính mạng "vì bạn hữu của mình", Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là "tôi tớ", nhưng là "bạn hữu". Chúng ta chứng tỏ chúng ta là "bạn hữu" của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14 ; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm "tôi tớ của Thiên Chúa". Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (Gs 24,29 ; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là "bạn hữu", như Môsê xưa kia là "bạn hữu" của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các "bạn hữu" thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15).

Các kinh sư Do Thái thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ "ra đi và sinh được hoa trái" (c. 16). Hoa trái này được nhắm "ở lại [= tồn tại]" và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13 ; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, "hãy yêu thương nhau" (c. 17).

II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:

Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng ; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quí báu nhất của trái tim Người ; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật, là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các "bạn hữu" của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Họi thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta "ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại", vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.

Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Ngài đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Ngài cho Con của Ngài.

III. Gợi ý bài giảng:

1. Mầu nhiệm Chúa Cha, mầu nhiệm khởi nguồn.

Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới ; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã đi ra và hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.

2. Yêu thương hay không yêu thương?

Từ "điều răn" được Đức Giêsu sử dụng bốn lần nhằm cho thấy rằng "yêu thương" là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?

3. Bạn hữu của Đức Giêsu.

Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm tôi tớ Thiên Chúa, "làm việc cho Đức Giêsu", mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành bạn hữu của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn những tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.

4. "Hãy ở lại trong tình thương của Thầy".

Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà cao ngạo. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: "ở lại trong Đức Giêsu", "ở lại trong tình yêu của Người" và "yêu thương nhau". Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người ; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.

 

32. Phúc nào hơn được làm bạn với Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Có người nói vui rằng Chúa Giêsu ở trên trời không có mẹ, không có anh em, không có bạn hữu. "Buồn quá", nên Ngài đã tự nguyện nhập thể làm người để được làm con một người mẹ (Đức Maria), được làm anh em và đặc biệt là được làm bạn hữu với loài người. Nói thế cũng đúng phần nào nếu đặt trong bối cảnh của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay: "Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết".

Quả vậy, Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài không viết một tác phẩm nào, cũng không xây một ngôi nhà thờ nào. Nhưng Ngài đến để thiết lập một tương quan mới với con người, tương quan bằng hữu.

Dĩ nhiên tình bằng hữu của Chúa Giêsu đối với chúng ta vượt lên trên tất cả tình bạn tự nhiên của con người. Bởi vì tình bạn ấy được mặc cho một giá trị vô cùng cao quý nhờ cái chết hy hiến của Ngài trên thập giá: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình".

Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong tương quan tình bạn, chứ không phải là một tương quan nào khác?

Người ta nói rằng mọi thứ tình, kể cả tình yêu đôi lứa, khi phát triển đến mức hoàn hảo đều qui về tình bạn. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng đây quả là một quà tặng, một diễm phúc lớn lao mà Thiên Chúa ân ban cho con người chúng ta. Không lớn lao sao được khi con người thân hèn phận mọn được cất nhắc lên địa vị ngang hàng với con Thiên Chúa. Không cao cả sao được khi kẻ thụ tạo yếu đuối tội lỗi được biết tất cả, tất cả chứ không phải chỉ 1/4 hay 1/2 những gì thâm sâu bí nhiệm của cõi thiên giới, như lời Chúa Giêsu quả quyết: "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết".

Từ đây, con người được được sống trong mối thân tình với Đấng hoá công, được trở nên đồng vai đồng vế với Con Thiên Chúa. Vì là bạn hữu mà! Được gọi danh Giêsu một cách thân thiết, danh mà cả triều thần thiên quốc phải kính tôn; được tâm sự với Ngài một cách thân thương và cởi mở đến độ không còn khoảng cách nữa.

Trước hồng ân cao vời đó, chúng ta được mời gọi sống thế nào, nếu không phải là luôn mặc lấy tâm tình cảm tạ tri ân. Cảm tạ Chúa Cha vì Ngài đã đưa ta vào trong tương quan tình bạn với Ngài. Tri ân Chúa Con vì Ngài đã để lại cho ta một kiểu mẫu tình bạn tuyệt vời, tình của người "hiến mạng sống vì bạn hữu mình".

Chuyện kể rằng: Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoi, đang đi ngang qua đó. Tolstoi dừng lại, lấy tiền cho người ăn xin, nhưng không còn đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: "Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng mang theo gì".

Mặt người ăn xin sáng lên và nói: "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà lớn nhất rồi".

Chúa Giêsu không những gọi chúng ta là anh em, Ngài còn gọi chúng ta là bạn hữu, nghĩa là cho ta được trở nên ngang hàng với Ngài. Lẽ nào ta lại không có được tâm tình như người ăn xin trong câu chuyện trên?

Chúng ta còn được gọi mời sống thế nào nữa, nếu không phải là sống tốt tương quan tình bạn với Chúa Giêsu và với anh em mình. Sống tốt tình bạn với Chúa Giêsu, qua việc ở lại trong tình yêu của Ngài, tức là giữ các giới răn. Đồng thời để cho Lời của Ngài ơ lại trong ta, cụ thể là năng tâm sự với Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Sống tốt tình bạn với anh em, qua việc nổ lực yêu thương anh em bằng chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho ta. Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng la bạn hữu đúng nghĩa của Chúa.

 

33. Yêu như Chúa yêu.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”

Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đe mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giesu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thieng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và lam nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.

Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- mot tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành nhưng người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.

Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.

Yêu người như yêu Chua, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.

Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thu, chiến tranh…

Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.

Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là ke biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con luôn nhớ lời căn dặn của Chúa, để chúng con luôn biết sống yêu thương nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, để chúng con luôn làm tròn sứ mạng Chúa đã trăn trối, để chúng con luôn là môn đệ đích thực của Chua. Amen.

 

34. Dưa hấu là cậu bí ngô

"Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy"

Đã có một lần nghe lại những câu buồn cười và cười buồn: con cua và con còng đấu phép; đấu bao nhiêu con còng cũng vẫn thua hết, vậy mà con cua lại [bị xử là] thua con còng. Đồng dao về sự đời chua chát là thế, lại lắt léo câu chuyện liên hệ họ hàng khó tin: Dưa hấu là cậu bí ngô;bí ngô là cô đậu nành; đậu nành là anh dưa chuột,..Nhưng nếu tìm hiểu sâu rộng hơn, sẽ thấy đây là những lời châm biếm đối với những quan hệ cấm kỵ, thậm chí là loạn luân ở cuối thời Lý đầu nhà Trần, mà mục đích chỉ là để bảo vệ ngôi báu,quyền lực. Vì vậy chẳng lạ gì những mối liên hệ "siêu"huyết thống, khi tất cả đều vì là "họ nhà chim": Bồ các là bác chim gi; chim gi là dì sáo sậu; sáo sậu là cậu sáo đen; sáo đen là em tu-hú; tu-hú là chú bồ-các...!

Mở những trang đầu của "Bổn Lẽ cần cho được rỗi linh hon" (trước đây) của địa phận Vinh, ta đọc thấy: "Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng nào?"; "Thưa: Đức Chúa Trời là Đấng thiêng liêng, vô thuỷ vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, lọn tốt lọn lành, ở khắp mọi nơi". Hình như cho tới nay vẫn chưa có một 'định nghĩa' nào gọn gàng, đầy đủ và hay hơn về Đức Chúa Trời, tóm tắt những gì một tín hữu Công giáo nghĩ về Chúa của họ, giúp phân biệt hết sức rõ ràng với bụt thần và vô số thần thánh trong tín ngưỡng Á Đông, trong đó có Việt-Nam. VÔ THỦY VÔ CHUNG là ý niệm rõ ràng nhất trong cái trừu tượng thời gian, cái mà toán học dùng ± # để diễn tả sự vô tận. Bên cạnh đó, con người là loài được tạo dựng, càng nên thấp hèn vì đã phạm tội vong ân bội nghĩa. Nhưng cho dù không phạm tôi, thì việc "bắt quàng làm họ" với Đấng Tạo Hoá đã là chuyện không tưởng, ngông cuồng. Ấy vậy mà chuyện 'đũa mốc chòi mâm son' lại thành hiện thực. Trời cao đất thấp gặp nhau: Thiên Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung. Và chính Thiên Chúa khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Người, chính là ban cho nó cũng được "vô chung". Bù lại,chính cái 'hữu thuỷ' ấy nhắc nhở chúng ta điều mà Chúa Giêsu nói: "Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy". Thiên Chúa là Tình Yêu (x. I Ga), Tình Yêu - viết hoa - vô thuỷ vô chung. Tình yêu chúng ta - hữu thủy từ bản thể, nhưng bắt nguồn từ Thiên Chúa - Tình Yêu vô thuỷ vô chung, cho nên đã trở thành 'vô chung". Sự tồn tại và giá trị có được là do bắt nguồn,thông hiệp và gắn chặt vào Tình Yêu vô thuỷ vô chung. Đó là ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Tạo dựng chính là Thiên Chúa cho vũ trụ và con người một cái "thuỷ" để từ đó sẽ được phú ban cho sự vô chung, đơn giản là vì tất cả đi vào quỷ đạo Tình Yêu (viết hoa) là Thiên Chúa. Lực hút ly tâm - Tình Yêu vô thuỷ vô chung - từ đó sẽ "nâng cấp" và làm cho mọi loài thọ tạo gắn bó vĩnh viễn với Thiên Chúa,"ở lại trong Tình Yêu Chúa"(Ga 15,9 b). Chỉ những ai tự để một lực khác chi phối và cuốn hút mạnh mẽ ra khỏi lực ly tâm Tình Yêu, thì mới tự loại trừ. Lực ly tâm ấy chính là các giới răn của Chúa, rút cuộc vẫn là 'tình yêu': yêu Chúa và yêu anh em. Khi người ta cho Tạo Dựng (creation)và Tiến Hoá (evolution) cái 'đuôi' "ism", (thuật ngữ chuyên môn là thuyết, chủ nghĩa, hoặc đơn giản là: 'duy'), tức là người ta muốn áp đặt suy nghĩ và tác động của mình, gạt bỏ vai trò Đấng Tạo Hoá và ban cho Tiến Hoá là Thiên Chúa. Tiến hoá vì thế chỉ là bắt đầu cuộc hành trình hữu thuỷ tiến về vô chung. Vũ trụ và con người ví được như cổ máy: Thiên Chúa dựng nên và cho khởi động với đích đến là vô chung, nôm na là muôn thuở muôn đời. Con người, vì thế, lệ thuộc vào Thiên Chúa, vào Đấng Vô Thủy. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa muốn nó 'vô chung' như Người. Khác biệt duy nhất, ấy là con người luôn phải hướng về vô chung để hoàn thiện mình trong sự kính uý thờ phượng Thiên Chúa; trong khi Thiên Chúa tự bản thể là Đang vô chung như đã là vô thủy: một cuộc tiến hoá thiêng liêng, cao lên mãi, tăng thêm mãi, tinh luyện trong tình yêu và trong tạ ơn của cái hữu thuỷ đối với Đấng vô thủy vô chung, để chính bản thân được 'vô chung'. Đó chính là ý nghĩa của Lời Chúa phán với ông Môsê ở biến cố Bụi Cây Cháy: "Je Suis" - Tà Là - Tự Hữu - Vô Thuỷ Vô Chung.

Những năm qua,do khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, đời sống nhà nông ngày càng bấp bênh và bị hấp dẫn bởi những hào nhoáng của đời sống thị thành, lớp thanh niên ở nông thôn kéo nhau ra thành phố kiếm công ăn việc làm. Nhiều gia đình chỉ để lại cha mẹ già trông coi nhà cửa vườn tược, hoặc gửi con nhỏ cho cha me già, để vào nam lập nghiệp. Chưa kể đến những hậu quả tinh thần và đạo đức mà làng xóm truyền thống phải gánh chịu, mà nó còn phương hại đến hôn nhân và gia đình. Người ta đem sức lao động "xuất khẩu": quả là có đổi đời, đổi nhà đất nhà ngói sang mái bằng, từ thiếu thốn sang đầy đủ tiện nghi hiện đại, nhưng cũng đổi theo chúng là hạnh phúc gia đình đổ vỡ vô phương cứu chữa và vô số tệ nạn thâm nhập vào gia đình và hôn nhân. Nhà nước Việt Nam không thấy được và cũng chẳng màng tới chuyện luân lý,đạo đức, mà chỉ lo một ngày gần đây cạn kiết lực lượng sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực sẽ bị đe doạ nặng nề, nên đã nghĩ ra đủ kế sách để giữ chân lớp lao động trẻ ở lại nông thôn. Chính sách "ly nông bất ly hương" so ra không mấy khác với ý nghĩa lời Chúa Giêsu hôm nay, ngoại trừ lý do và động cơ. Chẳng ai chấp nhận một cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng, chịu bao bất công, thiệt thòi, mà rút cuộc cũng chẳng nuôi nỗi bản thân, để 'ly nông bất ly hương'. Khi hàng hoá ế ẩm dồn cục, không xuất khẩu được, người ta mới chợt nhó đến nông thôn. Chang khác nào dụ khị con nít. [1.000 đồng/ngày là thu nhập bình quân của nông dân làm ruộng. Tính theo năng suất bình quân thu được từ một sào ruộng trong điều kiện canh tác tốt, thời tiết thuận lợi đạt 2,0 - 2,2 tạ thóc/vụ, quy sang tiền là 400 - 440 nghìn đồng.Trừ hết mọi khoản còn lãi gần 100 nghìn đồng chia cho 90 ngày (Trích từ Báo Lao Động số 326 Ngày 21.11.2004)]. Khi tâm tư, suy nghĩ,hành động không hề có chút thuỷ chung, không hề có tình thương, mà chỉ giáo điều,vụ lợi, thì không thể nào có sự gắn bó, không ai có thể gắn bó. Mọi cố gắng móc nối, liên kết, ràng buộc "họ hàng" nếu không sai trái, thì cũng chỉ là giả tạo.

Dưa hấu là cậu bí ngô: đây không phải là mơ tưởng huyển hoặc từ phía con người; không phải là lời động viên, hứa hẹn từ Thiên Chúa, mà là một thực tại do sáng kiến của Đấng Tạo Hoá muốn con người - một khi được Thiên Chúa cho hiện diện trên trần gian, - cũng sẽ hướng về sự sống đời đời, tức là vô chung, trong Thiên Chúa. Tình Yêu Vô Biên là đáp số của những lắt léo, mầu nhiệm nầy. "Với Thiên Chúa, không có gì là không thể được" (Lc 1,27). Thiên Chúa là Tình Yêu: với Tình Yêu, đâu chỉ có"dưa hấu" trở thành "cậu bí ngô!

Tình Ca 154

 

35. Phải có hoa hồng trên cây hồng – Guy Morin.

Chúng ta đã quen với qui luật về hiệu năng. Tại nhà máy, người ta cho thôi việc người thợ nào sản xuất kém. Cũng vậy, người công dân đòi hỏi phải có những cảnh sát hữu hiệu, bắt được tội phạm. Người làm vườn không thể chấp nhận một cây hồng mà lại không sinh hoa. Ai trong chúng ta chịu để một cây hoa tàn héo trong bồn hoa nhà mình?

Mặc dù Tin Mừng đầy dẫy những cử chỉ nhưng không thế mà người ta cũng gặp nơi đó qui luật về hiệu năng. Chúa Kitô chúc dữ cho cây vả không có trái, kết án người đầy tớ đã chôn vùi nén bạc của mình. Lời Ngài, hạt giống gieo vào lòng con người, phải sinh hoa kết quả. Bản thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi qui luật này. “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất có chết đi thì nó mới sinh nhiều bông hạt”.

Chúa nhật trước chúng ta đã đọc câu chuyện về cây nho mà người ta tỉa những cành không sinh trái. Chúa Giêsu đã nói: “Điều làm vinh danh Cha Thầy là các con mang nhiều hoa trái, và như vậy các con sẽ trở thành môn đệ của Thầy”. Bài Tin Mừng hom nay nói cho chúng ta biết phải sinh hoa trái nào.

Hoa trái, đó là đức ái huynh đệ.

“Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con làm điều Thầy truyền dạy. Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau”. Qui luật về hieu năng được áp đặt cho người môn đệ đó là đức bác ái. Không gì thay thế được. Không phải là chuyện xây cất một tòa nhà hay một vương cung thánh đường nhưng là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô bằng tình yêu thương. Giáo Hội có thể triển nở mà không cần nhà thờ nhưng không thiếu những mối tương quan huynh đệ được. Hoa quả làm vinh danh Chúa Cha, đó là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tóm tắt qui luật này một cách mạnh mẽ rằng đao thật là viếng thăm trẻ mồ côi và kẻ góa bụa lâm cảnh cơ cực.

Đức ái huynh đệ không phải là tình cảm cũng không phải là thiện cảm tự nhiên nhưng là vâng phục Thiên Chúa trong và bằng việc phục vụ người đồng loại. Việc phục vụ cụ thể: chia sẻ của cải, nâng đỡ tinh thần, quan tâm đến người nghèo và những người bên lề xã hội, tôn trọng tha nhân. Đối với kẻ thù, việc phục vụ này là kiên nhẫn chịu đựng và cầu nguyện cho họ. Đây là đức ái vô vị lợi. Cho mà không mong đáp trả và không điều tra về công trạng của người được yêu thương. Cứu giúp mọi người và cho đi cách rộng rãi như Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô.

Những dấu chỉ nội tâm để nhận ra đức ái huynh đệ.

Khi người Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu thực thi đức ái, đức ái này được biểu lộ nơi những cử chỉ, những thái độ, những lời nói, những cách nhìn và đối xử với người khác. Đó la những dấu chỉ bên ngoài. Nhưng thánh Gioan nêu cho chúng ta ba dấu chỉ nội tâm: biết Thiên Chúa, lời cầu xin được chấp nhận, niềm vui.

Ở khởi điểm, người Kitô hữu trở thành môn đệ bởi vì họ đón nhận tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu. Về sau, nhờ thực thi đức ái huynh đệ, họ đào sâu kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Quả thật, mỗi một cử chỉ huynh đệ nhắc nhở họ nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ trước nơi Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, họ càng ngày càng cởi mở đối với tình yêu của Chúa Cha. Vì tình yêu lớn lên khi tự hiến mình đi.

Một dấu chỉ nội tâm khác, đó là lời cầu xin được chấp nhận: “Tất cả những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”. Tên Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Những lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Giêsu tức là hướng về ơn cứu độ, thì sớm hay muộn, chắc chắn Chúa Cha cũng sẽ chấp nhận. Dấu chỉ này không hiển nhiên. Nhiều Kitô hữu than phiền là Thiên Chúa làm thinh. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra lời đáp của Chúa đối với lời cầu xin của chúng ta. Một lời đáp khó hiểu hoặc làm ta phải bỡ ngỡ.

“Thầy đã nói với các con điều này để cho niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được trọn vẹn”. Niềm vui cũng là một dấu chỉ nội tâm cho những ai thi hành đức bác ái. Khi sự sống được triển nơ, đó là niềm vui. Mỗi lần đức ái huynh đệ được thể hiện, thì sự sống của Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài tăng thêm nơi chúng ta hơn một chút và trở thành cụ thể. Triều đại của Thiên Chúa tiến một bước vì loài ngươi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đối với họ qua tình yêu của người anh em. Lúc đó, chúng ta là dấu chỉ cho nhau rằng Thiên Chúa tiếp tục hành động và cứu độ. Do đó mà niềm vui, dù niềm vui này thường đi chung vơi đau khổ.

Sứ điệp.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi sinh hoa kết quả, hoa quả của đức ái. Đức ái sẽ xiết chặt những mối liên hệ giữa tôi với Ngài, sẽ làm cho lời cầu nguyện của tôi mang lại hiệu quả và sẽ ban cho tôi niềm vui của Ngài. Lẽ nào tôi từ chối?

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-09052021-chua-nhat-6-phuc-sinh-nam-b-tinh-yeu-cao-ca.html