Chúa Nhật 08/12/2019 – Chúa Nhật tuần 2 Mùa Vọng năm A: Mau mau sám hối.

Chúa Nhật 08/12/2019 – Chúa Nhật tuần 2 Mùa Vọng năm A. – Mau mau sám hối.

"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến".

 

Lời Chúa: Mt 3, 1-12

Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: "Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng". Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng.

Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.

Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: "Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham.

Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.

Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Đấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG A

Lời Chúa: Is 11,1-10; Rm 15,4-9; Mt 3,1-12

 

1. “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến” - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả, của Chúa Giêsu và các tông đồ đều khởi đầu bằng câu: “Hãy ăn năn trở lại vì nước trời đã đến gần (Mt. 4, 17; 10, 7; Cv. 2, 38). Đây là việc khẩn trương, không thực hiện thì sẽ diệt vong. Khi nghe những lời hô hào của các nhà bác học về cứu thế giới khỏi ô nhiễm môi trường, khởi tệ nạn ma túy và dịch bệnh sida, thì ai cũng lo thực hiện những phương pháp đề phòng, trừ hạng cố chấp liều mạng lao đầu vào chốn tử thần. Lời hô hào của Gioan mang tính chất cứu nguy cho cả thế giới hôm qua, hôm nay và mãi mãi, nếu muốn sống trong nước Trời.

I- Nước Trời là gì cho con người được sống?

Nếu thế giới vật chất muốn tồn tại cần có thiên nhiên nguyên thủy trong lành như Thiên Chúa đã dựng nên nó, thì thế giới loài người muốn trường tồn bất tử còn cần hơn nữa một nước trời như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã muốn một nước trời lạ lùng mà tiên tri Isaia chỉ có thể mô tả bằng những hình ảnh kỳ diệu trong bài đọc một:

1- Về Đấng cai quản nước trời: đó là Đấng thần trí Chúa, thần trí khôn ngoan, minh mẫn, thấu hiểu, anh dũng, sáng suốt, sùng tín và sủng ái của Thiên Chúa. Công việc của Ngài là xét xử công minh nhân từ cho người thấp cổ bé miệng, phán quyết vô tư, bênh kẻ nghèo. Lời Ngài như gậy đập tan bọn cường hào, hơi thở Ngài giết chết phường gian ác (Isaia). Ngài là nguồn kiên nhẫn, an ủi và đầy lòng thương xót. Ngài đến phục vụ Do-thái và các dân ngoại (Phaolô).

2- Về dân trong nước trời là ai? đó là tất cả các dân tộc: Do thái cũng như dân ngoại. Họ là những người ăn năn trở lại, được rửa bằng Thánh thần và lửa. Họ được sống trong triều đại đua nở hoa công lý và thái bình thịnh vượng trong hạnh phúc, như beo sống với dê con, bò ăn chung với sư tử và gấu.

II- Điều kiện sống trong nước trời vinh phúc là ăn năn trở lại.

Ăn năn trở lại hay sám hối trở về là từ bỏ tình trạng tội lỗi trở về sống ơn cứu độ, từ bỏ lối sống xa Chúa, về sống với Chúa (Os. 14, 2; Ger. 3, 14), như thế ăn năn trở về là biến đổi sâu xa của hai trạng thái tâm lý: đổi mới não trạng và đổi mới nội tâm do Thần trí Đức Kitô tác động.

a/ Đổi mới não trạng nhờ trí khôn nhận ra và hối tiếc về tội mình (metanoia: repentir). Đây là công việc của trí khôn luôn luôn xét mình, kiểm tra cuộc sống mình đối chiếu với lời Chúa, luật Chúa. Sự ăn năn sám hối được thể hiện qua nhân vật điển hình: người thâu thuế. Khi nhận ra lầm lỗi của mình, ông đã khiêm tốn đấm ngực ăn năn, cúi mặt xuống đất, nhận mình tội lỗi và cũng không dám xin tha. Não trạng ông đã đổi mới vì hoàn toàn nhận ra mình khốn nạn trước mặt Chúa. Trái lại, người biệt phái không thấy tội lỗi mình, chỉ thấy mình đầy công đức, đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên khen mình và chê trách người thu thuế.

b/ Đổi mới nội tâm nhờ ý chí quyết tâm trở về nguồn gốc vinh quang của mình (epistrephein: revenir), mình đã bỏ nguồn gốc ra đi, cuộc đời lang thang bơ vơ, trụy lạc, chỉ gặp những khốn cùng “cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Đó là thứ con thiêu thân, như đứa con hoang đàng: ôm hết của cha đi ăn chơi trác táng, gặp nạn đói cùng khốn khó mới nhận ra mình xúc phạm đến cha hiền. May thay, anh đã kịp thời ăn năn khóc lóc hối cải, chỗi dậy tiến về nhà cha, nguồn gốc tổ ấm chan hòa tình thương vui mừng hạnh phúc chân thật. Phaolô cũng nhận ra tình thương vô biên đó, đã trở lại và đã mạnh mẽ tuyên bố trước vua Agripa “Tôi đi rao giảng kêu gọi chư dân sám hối và trở về cùng Thiên Chúa” (Cv. 2 6, 20). Đó là nước Trời thật.

 

2. Suy niệm của Huệ Minh

HÃY SÁM HỐI VÀ NHỎ BÉ NHƯ GIOAN ĐỂ ĐÓN CHÚA

Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy.

Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.

Sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.

Trong cuộc sống thường ngày, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cả.

Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…

Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.

Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm

Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.

Trong phần thứ hai của trang Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.

Những câu hỏi đặt ra cho ông Gioan cho ta thấy dân Do thái đang chờ đợi Đấng Kitô đến trong tương lai rất gần. Nhưng với tất cả các câu hỏi: “ông có phải là Đấng Kitô?”, “ông có phải là Êlia?” “ông có phải là một vị ngôn sứ?”, Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng một phủ định: “không”. Khi được yêu cầu nói về chính mình, ông chỉ nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23)

Gioan Tẩy Giả chính là người kêu gọi dân hãy thay đổi cách sống cũ, hãy đón nhận phép rửa thống hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Messia đang sống một cách kín đáo giữa họ: « có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.» (Ga 1, 26-27)

Gioan Tẩy Giả chính là vị nhân chứng khiêm nhường, trung thực, không kheo khoang, khoác loác. Ông đã từ bỏ tất cả những danh hoa phú quí để trở nên tiếng kêu trong sa mạc, để trở nên người mở đường cho Con Thiên Chúa đến.

Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giê-su.

Thánh Gioan làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.

Noi theo và sống gương của Thánh Gioan Tẩy Giả, ta hãy trở nên những ngôn sứ cho thời đại hôm nay, hãy là người dọn đường khiêm hạ cho nhiều người đến gặp Chúa. Ước mong mỗi người chúng ta biết mở rộng lòng để đón nhận niềm vui và trở nên những chứng nhân của niềm vui, của niềm hy vọng về Đấng sẽ đến trong vinh quang. Hãy vui lên vì Chúa sắp đến gần!

 

3. Sám hối

Tất cả các lời kinh và các bài đọc của thánh lễ hôm nay đều nói lên tâm tình chuẩn bị đón Chúa cứu thế. Chuẩn bị cách nào thì Phúc Âm trả lời rõ ràng.

Qua bài Phúc Âm ta thấy thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu với ta một cách chuẩn bị tốt nhất mà chính ngài đã rao giảng. Cách chuẩn bị đó là ăn năn sám hối. Ai cũng hiểu ăn năn sám hối là gì. Đó là vấn đề quen, nhưng thực hiện vấn đề quen chưa chắc đã là quen. Vì thế tôi xin chia sẻ vài nhận xét vắn tắt của tôi mong góp phần giúp thực hiện sự ăn năn sám hối một cách chu đáo hơn.

Nhận xét thứ nhất của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến việc nhìn vào chính mình. Đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu quá nhấn mạnh đến việc nhìn vào chính mình thì sự ăn năn sám hối sẽ rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối rất cần nhìn lên Chúa, rất cần gặp gỡ Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả chỉ vào Đức Kitô mà nói: Đây Chiên Thiên Chúa. Với lời đó, thánh Gioan Tẩy giả muốn ta nhìn vào Chúa Giêsu, lấy đức tin gặp gỡ Chúa Giêsu, xin Chúa thương xót, ban ơn giúp ta thấy được sự xấu xa độc hại của tội lỗi, giúp ta biết gớm ghét tội lỗi, giúp ta biết chọn lựa đàng lành.

Nhận xét thứ hai của tôi là khi ăn năn sám hối ta thường rất chú trọng đến những bổn phận đối với Chúa, như đi lễ, đọc kinh tin cậy mến, đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến việc đó, thì ăn năn sám hối rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối, rất cần nghĩ tới những bổn phận đối với gia đình, bạn bè, đồng bào, xã hội, tổ quốc, cứ xem lại những lời thánh Gioan Tẩy giả trả lời từng giới người đến hỏi ý kiến ngài, ta sẽ thấy ngài luôn khuyên mọi người giữ đức công bằng. Đừng làm hại đồng bào, dù là của cải, dù là tính mạng, dù là thanh danh, dù là thời giờ. Hơn nữa, hãy đối xử tốt theo đức công bằng với mọi người mình có liên hệ.

Nhận xét thứ ba của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến “tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”, đó là việc làm đúng nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến những sự đó, thì việc ăn năn sám hối vẫn còn thiếu sót lắm. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối còn cần để ý đến những nguồn, người gốc, đã gây nên những tội tư tưởng, tội lời nói, tội việc làm, và tội do thiếu sót. Một trong những nguồn gốc đó là tính hư nết xấu. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói tới những núi đồi cần phải bạt đi, những con đường cong queo đều phải uốn ngay lại. Tôi hiểu ngài cố ý nói về tính hư nết xấu tự nó chưa phải là tội, nhưng nó là đầu mối đưa tới tội lỗi. Tính hư nết xấu, chẳng hạn như tính tự cao tự đại, tính tham lam, tính nhỏ nhen. Đó là những cong queo, đó là những đồi núi cần phải sửa lại.

 

4. Hãy thống hối, vì nước trời gần đến

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Khơi dậy trong ta một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn đón chờ Chúa đến.

Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống… Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).

Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, từ trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân Do Thái sám hối. Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút nhiều người. Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra nhiệm vụ đích thực của ông là để " dọn đường cho Chúa", loan báo Chúa đến.

Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến ... chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng tôi là Abraham. Vì ta bảo cho các người hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa." Kết quả là: "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan." Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay.

Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu gọi: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận Ân Sũng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Trong năm vừa qua, chúng ta đã đi trọn con đường đặc biệt cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như "tiền đường" để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, ngõ hầu Mùa Giáng Sinh sắp đến gặp thấy chúng ta sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!

"Hãy ăn năn thống hối". Ðể gặp được Ðấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.

"Vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng ", § 39, 1-3.

Chúng ta hãy đặt vào tay Mẹ Maria Nữ Vương của niềm hy vọng mọi ước muốn tốt lành của chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Cầu chúc cộng đoàn chúng ta thăng tiến luôn mãi với ơn Chúa. Amen.

 

5. Hoa trái cuộc đời

Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã đưa ra một tương lai tốt đẹp, ở đó chỉ có hòa bình và yêu thương, ở đó chỉ có hạnh phúc tinh ròng, không hề bị mây đen che phủ. Người ta sẽ không còn lo sợ chiến tranh và tiền bạc sẽ được dùng để xoa dịu những khổ đau và bất hạnh. Thế nhưng phải chăng đó chỉ là một giấc mơ?

Đúng, đó chỉ là một giấc mơ, nhưng giấc mơ ấy phải biến thành sự thật, nếu như mọi người đều nhận biết Đức Kitô, đều thực thi giới luật yêu thương của Ngài, đều coi nhau như anh em một nhà. Niềm hạnh phúc ấy không phải là một quà tặng  được trao banm nhưng là một công trình mà mỗi người chúng ta phải ra sức góp phần, phải cố gắng xây dựng. Thiên đàng chỉ được hứa cho những người tận tâm phục vụ Chúa và anh em.

Chúng ta không phải là những cây khô héo và cằn cỗi, bởi vì  như lời thánh Gioan tilền hô đã cảnh cáo: cây nào không đâm bông kết trái sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Và rồi Gioan đã kết luận bằng những lời ld thật nghiêm khắc:

 - “Đấng đến sau tôi nhưng lại quyền năng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Chính đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, rồi Ngài sẽ thu lúa vào kho còn rơm thì đốt trong lửa không hề tắt.

Chúng ta đã được loan báo, nên chúng ta không thể đến cùng Chúa với đôi bàn tay trống rỗng, nhung phải đến cùng Chúa với đôi bàn tay chất đầy công nghiệp. Vậy chúng ta phải làm gì?

Tôi xin thưa hãy tôn vinh Chúa bằng chính những hành động bác ái yêu thương của mình. Hãy giúp đỡ những người có thiện cảm cũng như những kẻ đầy ác cảm với chúng ta, cùng chia sẻ những ước mơ, những sở thích với chúng ta hay không, như lời thánh Phaolô đã yêu cầu: Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chú đã tiếp rước anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.

Để kết luận, tôi xin đưa ra một vài mẫu gương, như những chứng từ sống đông giữa lòng cuộc đời, để chúng ta bắt chước. Mẫu gương thứ nhất về cha Thelliler de Poncheville. Ngài là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, nhưng lại giàu lòng bác ái yêu thương. Ngày kia khi nghe biết có một người đàn bà tội lỗi bị đau nặng tại nhà thương, ngài liền mua một chiếc quạt, đem đến biếu và thăm hỏi. Ngài nói với bà ấy:

- Tôi tới đây thăm bà vì tôi yêu thương linh hồn bà.

Người đàn bà thực sự cảm động và nói:

- Thưa cha, nhiều người cũng đã đến thăm con và nói rằng yêu thương con, nhưng Lời Chúa và chiếc quạt này đã mang lại cho con một ý nghĩa khác.

Tình thương của cha đã làm cho tâm hồn bà tìm về cùng Chúa, trong khi đó, sự khinh bỉ đã đảy bà tới chỗ oán hận và tuyệt vọng.

Mẫu gương thứ hai về thánh Gioan Cottolengô. Ngài là một người đã hiến trọn cả cuộc đời để chăm sóc những người đau yếu, điên khùng và bất hạnh. Ngài tận tình giúp đỡ họ bằng những việc làm cụ thể. Ngài an ủi họ bằng những lời lẽ đơn sơ và chân thành, bởi vì ngài luôn ý thưc mỗi khi làm như thế là làm cho chính Chúa. Từ lời nói đến việc làm, bao giờ ngài cũng tỏ cho họ thấy một tình yêu thương trìu mến.

Noi gương các thánh, chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống để chúng ta luôn bước đi dưới sự soi dẫn của đức tin, nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa.

Cầu nguyện.

Lạy Chúa, trong mùa vọng này, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi sứ điệp của Gioan tiền hô, bằng cách sám hối ăn năn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé của chúng con những hành động bác ái yêu thương, đó là những hoa trái cuộc đời chung con đem đến cùng Chúa, nhờ đó chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.

 

6. Đấng sẽ đến

Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy. Vậy thì đâu là sứ điệp của Gioan?

Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.

Trong phần thứ hai của đoạn Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.

Theo tục lệ Do Thái, thì một kẻ nô lệ không buộc phải cởi giày hay xách dép cho chủ. Người môn đệ có thể giúp việc thầy như một nô lệ, trừ việc xách dép hay cởi giày. Trong việc tế tự, trước khi tư tế hành lễ thì một trong các nô lệ phục dịch tại đền thờ, sẽ cởi giày dép để tư tế đi chân không. Hạng người này bị loại vĩnh viễn khỏi mọi đặc quyền Do Thái. Người Do Thái không bao giờ được cưới hỏi với loại người này.

Nếu có ám chỉ đến tục lệ này thì Gioan cũng vạch rõ sự khác biệt giữa ông và Đấng Cứu Thế sẽ đến. Đấng sẽ đến có quyền phán xét, thiêu huỷ kẻ dữ và thánh hoá người lành. Trong khi đó, thanh tẩy của Gioan được hiểu như là một nghi thức áp dụng cho đoàn người hối cải, trông nhờ vào thanh tẩy của thời cứu chuộc để thoát khỏi sự phán xét sắp đến.

Trông chờ Chúa đến, cũng có nghĩa là chuẩn bị đón mừng Chúa trong đêm giáng sinh cũng như trong những biến cố cuộc đời. Và lời kêu gọi của Gioan vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày hôm nay: Hãy sám hối, hãy trở nên người mới, trong cách suy nghĩ, trong cách cư xử đối với Chúa và đối với anh em. Bởi vì đón nhận Chúa là đi vào một cuộc sống mới, một thời đại mới.

Nói đến hối cải chúng ta thường chỉ dừng lại ở việc xét mình xưng tội, nhưng lại không mấy nghĩ rằng mình phải trở thành một con người mới, sống trong một thời đại mới, thời đại cứu chuộc, thời đại ân sủng và tình thương của Chúa.

 

7. Trở về cùng Chúa

Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly” Leonard de Vinci đã cãi vã với một người bạn. Ông nhiếc mắng bạn ấy bằng những lời gay gắt và những cử chỉ doạ nạt. Khi cuộc cãi vã đã qua, ông trở lại công việc đang làm là vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu. Nhưng ông không thể phác hoạ được một nét. Cuối cùng ông nhận ra sự lo lắng phiền lòng. Ông liền bỏ bút vẽ, đi tìm người bạn mà ông đã xúc phạm và xin người bạn ấy tha thứ cho mình. Thế rồi ông trở về và bình tĩnh vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu.

Như nhà hoạ sĩ, chúng ta đang cố gắng đặt Chúa Giêsu vào tác phẩm của mình là lễ Giáng sinh. Chúng ta muốn Chúa Giêsu là trung tâm của việc chúng ta cử hành. Và chúng ta nghe tiếng Gioan Tiền hô khuyên nhủ: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Vậy đâu là sự liên kết giữa tâm tình sám hối và việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến?

Như chúng ta đã biết trở ngại lớn nhất cho việc đón mừng Chúa đến chính là tội lỗi. Vì thế để dọn đường cho Chúa, chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, phải sống tinh thần sám hối. Léonard de Vinci đã không thể vẽ được khuôn mặt Chúa Giêsu khi ông cảm thấy mình còn tội lỗi, mình còn xúc phạm đến người khác. Chúng ta cũng không thể đặt Chúa Giêsu vào bức hoạ giáng sinh bao lâu chúng ta chưa sám hối. Vậy sám hối là gì?

Tôi xin thưa sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.

Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cã. Đó chính là hàng rào cản ngăn Chúa đến với chúng ta, và chúng ta đến với Chúa, nhất là trong mùa Giáng sinh này.

Chính vì thế, trong những ngày nay chúng ta hãy chạy đến nơi toà giải tội để được tha thứ. Việc xưng tội không chỉ để tẩy xoá những vết nhơ tội lỗi mà hơn thế nữa còn giúp chúng ta xa tránh tội lỗi, nhờ đó mà phục vụ Chúa một cách chân thành hơn.

Hãy ra sức khử trừ tội lỗi, Hãy cố gắng phá huỷ cho bằng được những chướng ngại vật trên con đường Chúa sẽ đến viếng thăm. Khử trừ tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhìn thấy Đức Kitô một cách rõ ràng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ làm cho con đường Chúa đến với chúng ta và chúng ta đến với Chúa được trở nên bằng phẳng và dễ dàng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang đá, máng cỏ sống động cho Chúa. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để dọn đường Chúa đến?

 

8. Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ

Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?

Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.

1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.

Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.

Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.

Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.

Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.

Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.

2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.

Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.

Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.

3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.

Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.

Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.

Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:

Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…

Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.

Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.

GỢI Ý SUY NIỆM

1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?

2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?

3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?

4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?

 

9. Thời Hoang Dã – Lm Vũ Đình Tường

Những tuần sắp tới Kinh Thánh nhắc nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả vì thế chúng ta đi tìm hiểu về con người đặc biệt này.

Là người đặc biệt với sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ đó nghe có vẻ đơn giản nhưng là nguyên nhân dẫn đến việc đầu Gioan lìa cổ. Một là do giằng co giữa hai thế lực giữa sự công chính và sự gian ác. Hai là do quyết định hồ đồ, quyết định lúc cao hứng của người lãnh đạo trong dân chúng. Ba là do con người quan trọng hóa danh tiếng, địa vị cá nhân hơn mạng sống người khác. Điểm này cho thấy việc quí sự sống cách hẹp hòi, ích kỉ dẫn đến tình trạng sự sống cá nhân mình, thân nhân mình thì trọng còn sự sống thiên hạ thì coi thường. Bắt người khác hi sinh để mình sống hạnh phúc đồng nghĩa tội sát nhân.

Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi thay đổi quan niệm sai lầm phò sự sống một cách hẹp hòi, ích kỉ. Sự sống con người quí trọng giống nhau, dù lớn hay nhỏ, dù khôn hay khờ sự sống của họ đều quí vì đều do Thiên Chúa ban cho. Trước khi xuất hiện trước công chúng, rao giảng về thống hối và kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, đừng ngủ mê nhưng tỉnh thức chuẩn bị tấm lòng đón mừng Chúa Cứu Thế, thánh Gioan Tẩy Giả sống một cuộc sống hoang dã thời xưa. Mình mặc áo lông lạc đà, đai lưng bằng da thú và sống nơi xa mạc. Nuôi thân bằng châu chấu và mật ong rừng nhưng ngài nuôi đời sống tâm linh bằng một tình yêu cao vời. Tình yêu cao vời đó thấm nhuần cuộc đời Gioan. Nhờ cha mẹ sống trung tín, thánh thiện của ông Zacaria và bà Elizabeth. Chính lối sống cao trọng đó thấm nhập vào tâm hồn con trẻ Gioan. Ông lớn lên trong một gia đình hết lòng yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu chân chính uốn nắn tâm hồn Gioan biến ông thành người khiêm nhường.

Thánh Luca 3,16 thuật lại lời của Gioan

Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người.

Ơn gọi làm nhân chứng cho Đức Kitô là kêu gọi mọi người thống hối, ăn năn, thay đổi cách sống theo xã hội để trở về với đường lối Chúa. Gioan không mang một chức vị nào trong xã hội thế nhưng lời kêu gọi của Gioan đánh động tâm não hàng nhiều ngàn người. Phúc âm thuật lại khắp mọi ngành nghề tìm đến hỏi Gioan về cách hoán cải tâm hồn. Gioan trở nên nổi tiếng giữa muôn người nhưng danh tiếng vang lừng không mê hoặc lòng ông, không rơi vào cạm bẫy của vinh quang giả tạo, không lạc vào mê hồn của phồn hoa. Gioan đứng vững, không lung lay trước cám dỗ, tán tụng, tung hô của đại chúng mong ông làm lãnh đạo họ. Ông biết rõ nhiệm vụ của mình là mở đường cho Chúa. Ông luôn vững vàng trong ơn gọi chứng nhân. Đời sống chứng nhân được an bài nơi Thiên Chúa. Kinh thánh thuật lại,

Cậu bé càng lớn thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel. Lc 1,80.

Kinh thánh không ghi chép về cuộc đời của phân phụ ông là Zacaria nhưng truyền thống thuật lại là ông bị hoàng đế Hêrôđê cha giết chết nên bà Elizabeth phải bồng con chạy trốn trong hoang địa, trở thành dân tị nạn chính tại quê hương mình.

Dù là dân tị nạn, dù bị bách hại, dù phải sống nơi hoang địa nhưng sứ mạng của Gioan là đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế vẫn được thực hiện một cách trọn hảo. Điều này cho thấy quyền hành, thế lực thế gian không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện để cứu dân Người. Thiên Chúa có cách riêng của Ngài và cách đó thường vượt quá trí hiểu, vượt trên suy đoán, vượt qua mọi tính toán của cả ma quỉ lẫn con người. Lời Gioan rao giảng không mới lạ gì. Nếu có mới là cách rao giảng mới mẻ. Cái mới trong con người Gioan chính là ông rao giảng với tất cả tâm hồn và thực hiện điều mình rao giảng và cuối cùng là sẵn sàng đổ máu đào làm chứng điều ông tin và rao giảng. Chính lối sống chứng nhân nhiệt thành làm rung động bao tâm hồn, chuyển hoá bao con tim.

Nhiệm vụ của Gioan được tiên tri Isaiah 40,3 tiên báo trước đó bảy thế kỉ

Có tiếng hô trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chống gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.

Tiên tri Malachi cũng tiên đoán về ơn gọi của Gioan khi ông thông báo,

Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. 3,1

Sứ giả đây chính là Gioan và Ta chính là nói về Đấng Cứu Thế.

 

10. Anh em hãy hối cải

(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên sai cứu độ thuộc vương triều Đavít, mang tên gọi Emmanuel (Is 7,14), sẽ xuất hiện như vị Thủ lãnh để giải cứu dân Chúa khỏi vùng bóng tối (Is 9,1-5) và phục hưng dân Chúa trong trật tự công lý và hoà bình (Is 11,1-9); bấy giờ toàn nhân loại sẽ hành hương về Giêrusalem để phụng thờ Giavê (Is 2,2-5). Vào những lúc bi thảm của lịch sử, những sấm ngôn ấy đã nung nấu nơi tâm hồn con người niềm hy vọng tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa vị Cứu tinh”. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay nói cho ta vị Cứu tinh mà nhân loại ngàn năm chờ mong ấy đang đến qua sự dọn đường của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị, đồng thời là vị Tiền hô loan báo và chỉ cho thấy khi Đấng Cứu thế xuất hiện.

1. Gioan Tẩy giả là vị Tiền hô

Gioan Tiền hô, cũng gọi là Tẩy giả, xuất hiện trên sân khấu cứu độ cách đặc biệt. Đặc biệt vì ông được cưu mang và sinh hạ cách lạ thường khi cha mẹ là Giacaria và Elisabeth đã hết thời sinh nở (Lc 1,7). Điều đó nói lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đúng với tên mà thiên thần đã đặt cho ông ngày truyền tin: Gioan nghĩa là “Thiên Chúa thương”. Đặc biệt vì ông đã được thánh hoá từ trong lòng thân mẫu nhờ cuộc viếng thăm của Đức Maria đang cưu mang Ngôi Lời (Lc 1,15.44). Ngày ông sinh ra, phụ thân hết câm và mở miệng tiên báo về sứ mệnh cao cả và định mạng của con mình (Lc 1,64.67), đến nỗi mọi người đều sửng sốt và tự hỏi: “Rồi đây con trẻ này sẽ thế nào?” (Lc 1,66). Ông rút vào hoang địa tĩnh lặng, sống đời khổ chế, ăn châu chấu và uống mật ong rừng (Mt 3,1-4), để trầm tư mặc tưởng về sứ vụ sắp thi hành. Ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng và làm phép rửa sám hối chuẩn bị cho phép Rửa của Chúa Giêsu bằng Thánh Thần để ban ơn tha tội (Mt 3,11) Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa (Mt 3,3), là người tôi tớ không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sắp đến, Đấng có trọn quyền phán xét (Mt 3,11), là tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên sai cứu độ đang đến là chính Chúa Giêsu (Ga 1,15). Ông đã làm chứng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34) và chỉ cho mọi người biết Ngài là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,35). Thế mà khi ngồi trong tù vì đã thẳng thắn vạch tội nhà vua, ông đã băn khoăn sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu là đấng phải đến hay còn phải đợi một ai khác (Lc 7,18). Cái chết của ông vì chân lý cũng loan báo trước cái chết vô tội của Đấng mà ông có sứ vụ dọn đường. Cả cuộc đời của Gioan là một chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Thiên sai Giêsu xuất hiện để cứu độ.

Giáo hội tiếp tục bước đi trên con đường của Gioan để thực thi sứ vụ truyền giáo mà Giáo hội xác tín là lý do hiện hữu của mình: “Giáo hội lữ hành, tự bản chất, là truyền giáo”(AG 2). Kitô hữu luôn noi theo gương Gioan để sống ơn gọi của mình là làm chứng nhân cho Đức Kitô, giới thiệu Ngài cho mọi người và dọn đường để Ngài đến với mọi tâm hồn.

2. Hãy sám hối

Lời rao giảng của Gioan gồm tóm trong câu:Hãy sám hối. Các ngôn sứ thời Cựu ước luôn mời gọi mọi người hãy trở về với Thiên Chúa để được tha thứ. Khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi hãy sám hối (Mc 1,15). Ngài truyền cho các Tông đồ hãy đi rao giảng để mọi người sám hối mà nhận lãnh ơn tha tội (Lc 24,47).

Hoán cải là sự thay đổi tận căn và toàn diện: từ não trạng, tư tưởng đến bản thân, hành động và cuộc sống. Cuộc trở lại nào cũng đòi phải chiến đấu cam go, cho đến lúc được Chúa chiếm hữu qua những thanh luyện. Chướng ngại lớn nhất của hoán cải là tính kiêu căng, sự tự mãn cho mình là công chính không cần ơn cứu độ, là mãi mê với sự đời và hưởng thụ vật chất. Gioan đã tuyên bố cách đanh thép: “Hãy làm việc lành chứng tỏ lòng sám hối. Lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Ông Giakêu đã thật sự hoán cải khi sẵn sàng đền bù gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại, bố thí phân nữa tài sản cho kẻ nghèo và từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu (Lc 19,8). Hoán cải theo sấm ngôn Isaia là lấp đầy những hố sâu của lòng ích kỷ, tham vọng và hưởng thụ, là bạt đi những đồi cao của kiêu căng tự mãn, là uốn cho ngay những quanh co lươn lẹo trong tư tưởng và hành động dối trá, để có thể đón nhận Đấng Cứu thế và sống tình liên đới huynh đệ với mọi người.

Kết luận

Hãy hoán cải. Hãy thành tâm trở về với Chúa, nổ lực tìm kiếm Người, nhiệt thành đáp ứng lời mời gọi sám hối bằng việc thực thi đức bác ái là giềng mối trọn lành (Cl 3,14) và là sự chu toàn mọi lề luật (Rm 13,10). Đó là điều kiện tiên quyết để dọn đường Chúa đến trong tâm hồn và đời sống của mình và của mọi người.

 

11. Nước Thiên Chúa đã đến gần

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).

Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.

Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.

Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).

Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.

Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.

Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan. Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.

Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.

Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị - tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.

Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: "Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham." Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).

Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.

Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.

Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).

Gợi ý suy niệm và chia sẻ:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:

1. Đấng đang đến chính là Đức Chúa.

Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.

Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.

2. Hoán cải là đòi hỏi khẩn thiết.

Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần" (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).

3. Những nghi thức và hoạt động bề ngoài không phải là điều chính yếu trong khi chuẩn bị đón Chúa đến.

Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.

Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.

 

12. Sứ mạng Tiền Hô

(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)

Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế giá nào đó. Từ bậc quan đến bậc vua chúa, hoặc như quan trạng về làng, hay là “võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau”.

Quả thật, một nhân vật trần thế được đón rước một cách trịnh trọng, thì người ta nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Nhưng hôm nay, theo lịch phụng vụ Công giáo, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một nhân vật đảm nhận vai trò “ Tiền Hô”, đó là Gioan Tiền Hô. Vâng, Gioan Tiền Hô thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình đối với ai? Thưa đối với “ Vua Hòa Bình”, vâng, Vị Vua Hòa Bình đến.

Vị Vua Hòa Bình, mà Thiên Chúa đã Hứa từ ngàn xưa qua các tiên tri sẽ đến. Giữa loài người, không có vị vua nào xừng đáng để thay mặt Thiên Chúa chăn dắt muôn dân, thì Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian, nhưng Vị Vua ấy rất nhân từ, xứng với tước hiệu của Người, đó là “ Vua Hòa Bình” hay là” Vua Bình An”.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 11,1-10), chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế chính là Vị Vua nhân ái. Sự nhân từ của Người mang đến sự bình an đích thực. Sự bình an đến độ mọi thứ, mọi vật hung ác đều phải hiền hòa. Mọi sự vật phải thay đổi hoàn toàn180 độ. Vì Người là Thần khôn ngoan duệ trí, thần mưu sự can trường, thần thông minh hiếu thảo ( Is11,2).

Vì thế, sự hòa bình và an lạc sẽ ngự trị giữa chúng dân đến độ chiên con chơi đùa với sư tử và trẻ con. Vâng, ngày nay Vị Vua ấy sắp đến, tất nhiên sẽ có một người làm sứ mạng Tiền Hô cho Người, đó là Gioan Tiền Hô, mà Isaia đã nói: “ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3,3)

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nhân vật Gioan rất thành công trong sứ vụ Tiền Hô của mình. Ông nói: “ Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” ( c 2). Và cách thức sám hối là chịu phép rửa, vì vậy Gioan Tiền Hô được gọi là Tẩy Giả. Nhưng phép rửa được thực hiện bởi Gioan là phép rửa bằng nước, chỉ có giá trị để giục lòng sám hối. ( c11). Nhưng Đấng mà Gioan rao giảng sẽ làm phép rửa trong”Thánh Thần và Lửa”. Thánh Thần và Lửa chính là Thiên Chúa.

Thiên Chúa sẽ dùng Thánh Thần để Thánh Hóa và dùng Lửa để thiêu đốt. Có nghĩa là sự thanh tẩy trọn vẹn, chính là tình yêu của Thiên Chúa, là sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Nhưng Gioan Tiền Hô cũng cho thấy sự công minh, lý đoán của Người bằng một câu nói theo nghĩa đen: “ Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. ( c 12).

Như vậy, Vị Vua Hòa Bình đồng thời cũng chính là Vị Thẩm Phán chí công, Người nhân từ nhưng không nhu nhược. Điều nầy cho thấy, từ khi Người đến lần thứ I cho đến khi Người lại đến, là một hành trình cứu chuộc duy nhất kế tiếp, không đứt quãng. Dựa vào ý tưởng nầy, Giáo Hội mong đợi Đức Kitô lại đến lần Thứ II. Đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa vọng, vì không phải chỉ đón mừng Người đến bằng hình thức bên ngoài là Lễ Giáng Sinh, nhưng quan trọng không kém là chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người trong bất cứ giây phút nào. Đón mừng Lễ Giáng Sinh là Đón Mừng một Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế, để suy tôn, thờ là, cảm tạ Người. Nhưng để đón Người đến với chính tâm hồn của từng người trong chúng ta là một điều quan trọng, đó là giờ chết, một sự thật không thể chối cải được.

Nên chi, khi Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người mà chúng ta tỉnh thức thì thật là diễm phúc.

Vậy chúng ta là dân ngoại được kêu mời bởi lòng thương xót của Người, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ mọi người, chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô cất lên lời ca: “ Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn, ca mừng Danh Thánh Chúạ” ( c 9).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cư ngụ giữa loài người, dù phàm nhân bất xứng. Nhưng để ban ơn cứu độ, Chúa đã trở nên Hy Tế. Khởi sự là Máng Cỏ Bêlem, ôi! Mầu nhiệm thật cao vời, xin cho chúng con biết nhận ra và đền đáp muôn một tình Chúa yêu thương chúng con. Amen.

 

13. Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion...) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực chuẩn bị đón Chúa đến. Sự kiện này đã được ghi khắc từ lâu trong lịch sử. Một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn. Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ, Ngài mời chúng ta đến gặp gỡ Ngài trong khiêm hạ: "Này dân Sion hỡi, Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ).

Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).

Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật đã được tiền báo trong một lời tiên tri nổi tiếng của sách ngôn sứ Isaia (Is 42,3). Gioan Tẩy giả lui vào sa mạc của vùng Giuđêa, dùng lời rao giảng của mình kêu gọi toàn dân hoán cải để sẵn sàng đón Đấng Mesia quang lâm. Lời kêu gọi của Thánh Gioan, vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến như là vị tiền hô của Đấng Thiên Sai, vang lên trong tuần thứ II của Mùa Vọng, vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến: "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Nếu như xưa kia Gioan rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn thống hối, kết quả là: "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan"; thì ngày nay sứ điệp này vẫn vang dội qua các thời đại và gửi đến với chúng ta ngày nay với tính cách thật cấp bách.

Với giới biệt phái và văn nhân, Gioan Tẩy Giả bảo họ: "Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối". Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng (540 – 610) đã bình giải rằng: "Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi một Đức Tin chân thật và những việc làm tốt lành, để nhờ đó sức mạnh của ân sủng được thấm nhập, ánh sáng của chân lý được chiếu giãi, và những nẻo đường hướng về Thiên Chúa được sinh ra trong những tư tưởng thành tâm thiện chí, sau khi đã lắng nghe Lời Chúa, là Lời dẫn đến mọi sự tốt lành".

"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn.

Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: "Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an". Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng", 39, 1-3.

Có thể nói bốn tuần Mùa Vọng là như "tiền đường" dẫn chúng ta chuẩn bị tinh thần sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến! "Hãy ăn năn thống hối". Để gặp được Đấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.

Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn ăn năn hối cải. Để gặp được Hoàng Tử Bình An, chúng ta phải mở rộng lòng mình, khiêm tốn và ngay thẳng.

Đó là lý do tại sao Mùa Vọng là thời gian chờ đợi và hy vọng. Giáo Hội lấy lại vào chúa nhật II Mùa Vọng lời tiên tri đầy an ủi của ngôn sứ Isaisa như sau: "Mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu rỗi của Thiên Chúa". Chúng ta hãy đặt tay chúng ta vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương của niềm hy vọng để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Amen.

 

14. Thanh lọc - Trầm Thiên Thu

Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ dùng chữ “purge” để chỉ hành động thanh lọc, do đó sinh ra tính từ “purgatory” (có tính chất làm trong sạch), vì thế mà sinh ra danh từ “purgatory” (nơi thanh lọc, chốn thanh luyện). Theo Công giáo, Purgatory có nghĩa là Luyện Hình hoặc Luyện Ngục.

Mùa Vọng là thời gian tẩy rửa linh hồn để đón Con Thiên Chúa giáng sinh. Thanh lọc là hành động cần thiết trong cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay, nhiều thứ ô nhiễm. Càng phải thanh lọc kỹ hơn khi sống trong môi trường ô nhiễm nặng như Việt Nam hiện nay – mọi nguồn đều ô nhiễm, kể cả ẩm thực.

Thanh lọc là bảo vệ mình khỏi những thứ tác hại do môi trường. Đơn giản nhất là dạng “khẩu trang” được đa số sử dụng khi ra đường, có người không chỉ đeo vài lớp khẩu trang, mà còn thêm vải tấm chụp từ đầu tới cổ, đôi khi nhìn phụ nữ Việt Nam mà cứ ngỡ là phụ nữ Hồi giáo. Ai cũng bịt kín mít, thật khó có thể nhận biết ai quen hay lạ. Kỹ quá cũng… mệt!

Thể lý đã vậy, tinh thần còn cần được bảo vệ kỹ hơn nữa. Ngày nay có quá nhiều thứ rác rưởi nguy hiểm trên internet – net trắng thì ít mà net đen thì nhiều. Facebook được nhiều người “ưa dùng” nhưng lại có quá nhiều mối nguy hiểm. Có những người commen những câu chẳng đâu vào đâu, vu vơ, linh tinh, vớ vẩn. Và tất nhiên cũng không ít kẻ lợi dụng Facebook để mưu tính những chuyện khuất tất.

Có những tên nghe rất “kêu” hoặc có vẻ “đạo đức” nhưng trong đó có mối nguy tiềm ẩn khó lường trước. Ngay cả hình đại diện cũng chưa đáng tin nếu chúng ta không biết họ là ai, vì có những kẻ lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia”, không biết đâu là thật hay giả. Cũng có những trang xem chừng “nghiêm túc” nhưng biết đâu chừng phía sau là một ổ virus độc hại. Những kẻ câu LIKE (thích) là những kẻ tồi tệ. Nên block (khóa) họ để tự bảo vệ, tức là tự thanh lọc trước khi quá muộn!

Vì thế mà luôn phải cảnh giác cao độ, đúng như tiền nhân đã xác định: “Cẩn tắc vô ưu”. Thời buổi này cũng nên “di truyền” máu-đa-nghi của Tông đồ Tôma lắm đấy! Và thật chí lý với câu nói nghe như vè thế này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Chí lý lắm đấy chứ. Thật thà thì thẳng thắn, thẳng thắn thì thật tốt. Những kẻ nói ngọt và lấy lòng thì chẳng ra gì, người Anh gọi họ là dân “fair-weather” – tức là những người bạn phù thịnh, ưa nịnh, chỉ chấp nhận quen khi chúng ta có cái gì đó mà họ có thể lợi dụng, nhưng khi chúng ta gặp hoạn nạn thì họ không bao giờ xuất hiện.

Mùa Vọng về, năm mới Phụng Vụ tới, đó là thời điểm chúng ta cần thanh lọc kỹ lưỡng hơn, thanh lọc bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.

Trình thuật Is 11:1-10 nói về vị Minh Quân thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngôn sứ Isaia mô tả: “Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành”.

Nông dân Việt Nam có câu: “Nó bé nhưng gié nó to”. Ý nói về những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng trổ ra những gié lúa trĩu nặng những hạt căng mọng. Những thứ nhỏ bé thường là những thứ quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn như DNA (deoxyribonucleic acid), dạng chuỗi xoắn đôi quá nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng nó lại khả dĩ duy trì sự sống, khỏe hay yếu lệ thuộc vào nó và nó mang tính di truyền. DNA ở người có khoảng 3 ngàn tỷ cặp base – gồm 4 hóa chất: Adenine (A), Guanine (G), Cytosine (C), và Thymine (T). Thật kỳ diệu, và chỉ có Thiên Chúa mới tạo được như vậy!

Kinh Thánh cho biết về thời đại của Thiên Chúa: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.

Đó là sự bình an đích thực, chỉ có ở Vương Quốc của Thiên Chúa. Hòa bình mà chúng ta hưởng ngày nay không vững bền, đôi khi chỉ là hòa-bình-ảo, nghĩa là không có chiến tranh súng đạn nhưng vẫn lo sợ đủ thứ, sợ vì nạn ô nhiễm khắp nơi, ngay cả thực phẩm cũng không an toàn thì làm sao bình an được đây? Ảo giác về hòa bình thôi!

Chưa được hưởng nền hòa bình đích thực vì chưa có công lý nghiêm minh. Có công lý mới khả dĩ có hòa bình. Có thời đại nào kỳ cục đến mức độ phải báo cáo hoặc khai báo khi đi làm từ thiện? Những người hảo tâm muốn làm từ thiện là có tội sao? Thật tồi tệ! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã từng phải tha thiết cầu xin: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2).

Vương Triều Thiên Chúa rất tuyệt vời, bởi vì Ngài là Quốc Vương Chân Lý, và Ngài chỉ tuyển trạch các quần thần thực sự có lòng nhân ái, vì thế “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8).

Thế lực trần gian luôn coi thường công lý và rất sợ sự thật, đám dân đen luôn bị những kẻ ăn trên ngồi trước đày đạo và áp bức, ăn chặn mọi thứ, kể cả túi mì tôm. Những người hảo tâm biếu một chút thực phẩm và ít tiền thì bị chúng cướp mất. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã nói rất chính xác: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Trái ngược với nhân gian, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn với những kẻ thấp cổ bé miệng: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).

Lời hay thì không thật, lời thật thì không hay, thế nên người ta nói rằng “sự thật thì hay mất lòng”. Thà mất lòng trước rồi được lòng sau. Thiên Chúa luôn thẳng thắn, những người ưa lươn lẹo cảm thấy khó chịu và chói tai khi nghe Ngài giáo huấn, nhưng ai chịu nghe thì sẽ được an tâm và sống thanh thản. Quốc Vương Công Lý là Đức Giêsu Kitô, luôn nói thật và nói thẳng. Không thế cũng không được, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người khỏi lầm lạc (x. Ga 8:32).

Kinh Thánh xác định rạch ròi: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc” (Tv 72:17). Chắc chắn như thế. Sự thật mãi mãi là sự thật, người ta có cố ý bóp méo cỡ nào cũng không được. Người Việt cũng có câu: “Cây ngay không sợ chết đứng”.

Kinh Thánh cũng đã nói rõ: “Nịnh hót ai là giăng lưới dưới chân kẻ ấy” (Cn 29:5). Những kẻ bất tài vô dụng thì ưa nịnh bợ, khoái tâng hót. Chắc chắn kẻ nịnh hót là kẻ xấu, không đáng tin, vì họ là kẻ giăng bẫy hại chúng ta. Vậy mà thế gian lại “chuộng” phong cách đó. Thế nên ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã gióng lên hồi chuông cảnh báo: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4 & 6). Con đường đó chính là lòng dạ con người, là chính nếp nghĩ và các động thái khúc khuỷu đầy mưu mô thâm độc. Sửa cho thẳng con đường là một cách thanh lọc cần thiết để tâm hồn trở thành nơi xứng đáng cho Thiên Chúa ngự vào.

Dù có thế nào thì cũng đừng tự ái, đừng tuyệt vọng về tình trạng của mình. Mùa Vọng không chỉ nhắc chúng ta mong chờ Đấng Cứu Thế, mà còn dạy chúng ta duy trì niềm hy vọng. Có “lửa” hy vọng rồi sẽ có thể thắp sáng những thứ khác. Hãy lưu ý “chuỗi liên kết” này: Cuộc sống sẽ chấm dứt khi chúng ta NGỪNG mơ ước, hy vọng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn tin tưởng, tình yêu cũng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn quan tâm người khác. Thật đáng lưu ý biết bao!

Kinh Thánh là kho tàng vô giá, vì mọi thứ đều có thể tìm thấy trong đó. Càng biết Kinh Thánh càng thấy kỳ diệu. Thánh Phaolô cho biết: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15:4). Vững lòng trông cậy tức là tiếp tục hy vọng. Niềm hy vọng là cửa ngõ dẫn tới những vùng miền kỳ diệu mà con người chưa bao giờ ngờ tới.

Là con người, ai cũng rất yếu đuối, vấn đề là có cố gắng hay không. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm như vậy, thế nên ông chân thành cầu mong: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15:4-6).

Không ai có thể giúp mình bằng chính mình tự giúp mình. Thánh Phaolô cầu mong như vậy, nhưng chúng ta có nỗ lực thay đổi hay lại là chuyện khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa” (Rm 15:7-9).

Phục vụ là điều cao cả. Chính Chúa Giêsu đã phục vụ và khuyên chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không hẳn là phục dịch như tôi tớ, mà đơn giản chỉ là yêu thương nhau, thiện cảm phải chân thành thể hiện từ ánh mắt.

Trình thuật Mt 3:1-12 nói về “con người giao thời” có tên gọi là Gioan. Ông là người-nối-kết-Tân-Cựu-Ước, là người tiền phong đi trước “mở đường” cho Chúa Giêsu.

Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Kinh Thánh cho biết rằng ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. DỌN và SỬA là hai hành động cần thiết: DỌN là làm sạch, SỬA là làm cho ngay ngắn. Phải DỌN trước rồi mới SỬA, không thể làm ngược lại.

Ông Gioan là “dị nhân” thứ thiệt, “bụi đời” chính cống, sống rất giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng. Người giản dị là người có chiều sâu nội tâm, thần kinh vững mạnh. Tất nhiên ông cũng có đặc điểm khác người: thật thà và thẳng thắn. Và chỉ vì ông nói thật, nói thẳng, muốn bảo vệ công bình xã hội, bảo vệ luân thường đạo lý nên ông bị những kẻ mưu ác ghét bỏ, toa rập với nhau lấy thủ cấp của ông (x. Mt 14:3-11).

Nghe nói có “anh chàng bụi đời” tên là Gioan ăn nói lưu loát và có phong cách lạ lùng, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, người ta kéo đến ùn ùn để xem “người cõi trên” thế nào. Có lẽ mới đầu họ chỉ tò mò theo bản tính hiếu kỳ mà thôi, nhưng càng nghe càng thấm. Thế là họ cùng nhau thú tội và xin ông Gioan làm phép rửa cho họ ở sông Gio-đan.

Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa, ông biết họ giả vờ để mưu mô chuyện khuất tất, nên ông nói thẳng với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Mèn ơi, nói “xóc óc” ghê đi! Nhưng không thể không nói thẳng với những người giả hình, bề ngoài hiền như chiên ngoan mà bề trong là con cọp dự gầm gừ.

Chắc là họ cũng “chạm tự ái” lắm, nhưng họ không biết nói gì để phản đối, và lại họ thấy ông Gioan “chửi” đúng quá trời mà! Thấy họ im như thóc thối, ông Gioan nói luôn một lèo: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Cách thanh lọc của Thiên Chúa rất kỹ lưỡng!

Những lời của ông Gioan nói với nhóm Pharisêu và Sađốc cũng là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Có hồn thì tự liệu lấy. Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, thuốc đắng mới đã tật. Phúc cho ai cảm thấy “ngứa tai” và “đắng lòng” khi nghe những lời thật như vậy!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận ra Ngài qua các biến cố của cuộc đời để con kịp chấn chỉnh trong thời gian còn Giờ Thương Xót của Ngài. Xin giúp con dọn sạch và sửa lại đường đời con cho ngay ngắn để con được diễm phúc đón Đấng Emmanuel, Con Yêu Dấu Ngài, ngự vào hôm nay và mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại và luôn ở với chúng con. Amen.

 

15. "Thu lúa, đốt rơm" - Lm. Trọng Thưởng, CRM

Trong xã hội ngày nay, con người đề cao tự do nên rất quen thuộc với sự lựa chọn. Khi đi mua quần áo, đồ đạc, người ta lựa chọn những cái có mầu sắc hợp với thị hiếu, kiểu cách hợp với thời trang hoặc sở thích. Khi lựa chọn người để làm nơi nương tựa, các cô thích tìm những anh chàng cao ráo, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, có bằng kỹ sư, bác sĩ, luật sư.... Và loại bỏ những cậu có chiều cao khiêm tốn, "nhan sắc" kém cỏi, nghèo lủng cả túi quần... Khi lựa chọn những cái đó người ta có quyền đặt tiêu chuẩn theo ý riêng mình. Thiên Chúa cũng lựa chọn con người để cho họ được hưởng phúc thiên đàng hay phải đoạ phạt trong hoả ngục. Hình ảnh tượng trưng mà thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy về Đấng Cứu Thế lựa chọn đó là "cầm nia trong tay mà sảy lúa"; lúa được thu vào kho, còn rơm bị đốt trong lửa không hề tắt.

Thiên Chúa lựa chọn theo tiêu chuẩn nào? Thánh Gioan Tẩy Giả là bậc tiên tri được Thiên Chúa tuyển chọn, cách sống và lối ăn mặc của ngài đã nói lên điều đó. Ngài là ngôn sứ của Thiên Chúa, ánh mắt nhìn và sự xét đoán của ngài dựa vào tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Dân chúng đủ loại từ khắp miền Giuđêa, người giầu sang cũng như nghèo khó, nông dân cũng như thương gia, học giả cũng như người thất học, tuốn đến để xin Gioan làm phép rửa. Gioan không lên án một ai ngoài những người Pharisiêu và ký lục. Họ là những người tự cho mình là công chính, sau này cũng bị Chúa Giêsu lên án. Họ bày tạo ra những luật thanh tẩy rườm rà và giữ rất nghiêm nhặt, nhưng lại lơ là với những điều chính yếu trong sách luật. Chúa đã lên án họ là bọn giả hình, nối dài thẻ kinh và tua áo để nuốt chửng gia tài các bà goá. Gioan cũng thấy việc họ đến xin chịu phép rửa là một hành vi giả tạo nên đã cảnh cáo: đừng tự phụ là con cái Abraham rồi sống bừa bãi, làm điều xằng bậy. Nếu không ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, họ vẫn bị tiêu diệt như một cây sinh ra trái xấu là những hành động tội lỗi ngấm ngầm của họ.

Tật xấu tự phụ, cho mình là người công chính có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình không có. Nhưng xét cho kỹ thì hầu như không ai tránh khỏi. Khi chúng ta nhìn người khác làm điều sai rồi kết án họ là người xấu, chê họ thế này, chê họ thế khác, đó là lúc chúng ta ngầm cho rằng mình khá hơn những người đó, nên có quyền xét đoán, kết án họ. Đây là những hoa quả xấu mà cây đời sống của chúng ta có thể sinh ra, còn nhiều hoa quả xấu nữa như lòng ghen tỵ, hằn thù, ganh ghét, kiêu căng, chia rẽ, chống đối, bạo động... Những hoa quả xấu đó sẽ đưa chúng ta vào số cây bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy chúng ta hãy cẩn thận, cố gắng đạt được tiêu chuẩn mà Thiên Chúa muốn tìm kiếm nơi mỗi người chúng ta: đó là hoa quả yêu thương, hy sinh, quảng đại, phục vụ, đoàn kết, tha thứ.

 

16. Mở đường Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có câu chuyện vui kể rằng: Một lần, để phát động phong trào An Toàn Giao Thông, một tổ chức thuộc Liên hiệp quốc đã tổ chức cuộc thi xã luận quốc tế với chủ đề “Con đường với cuộc sống”. Sau đây là một số bài thi được ban giám khảo đánh giá cao:

- Nước Pháp (2 bài): “Con đường tình yêu”, “Nên tỏ tình trên đoạn đường như thế nào?”.

- Nước Mỹ: “Con đường nào có thể rút lui sau khi phát động cuộc chiến tranh?”.

- Nước ý: Những con đường trong tranh trừu tượng!

- Nước Anh: “Đường đến các trường Đại học và câu lạc bộ bóng đá”!

- Nước Đức: “Luận về con đường trong triết học”!

- Nước Singapor: “Cần phải làm gì để các con đường luôn sạch sẽ?”.

- Nước Trung Quốc: “Người ta có thể làm những con đường… giả, đường nhái được không?”.

- Và… Việt Nam (3 bài): “Tại sao cần đào lấp?”, “Khi đường trở thành dòng sông”, “Những con đường cát bụi”!

Con đường thật muôn màu muôn vẻ. Có con đường vật chất để đi và cũng có con đường là hướng đi của cả một dân tộc, một đất nước. Con đường được làm tốt sẽ phục vụ tốt cho cuộc sống. Ngược lại sẽ là bất hạnh cho những ai đi trên con đường ấy.

Việt Nam đang đi trên con đường hướng tới xã hội chủ nghĩa. Có người bảo sẽ không bao giờ tới. Có người cho rằng tới mà rất chậm. Dù ai nói ngã nói nghiêng thì dân tộc Việt Nam đã đi trên con đường này suốt mấy chục năm dù vẫn xây chưa xong hạ tầng cơ sở, vẫn là bài toán nan giải để hoàn thành.

Người ta nói đường và chân là đôi bạn. Đường không có dấu chân người, sẽ không còn là con đường, chỉ là cỏ dại hoang vu phủ kín lối đi. Người không có đường sẽ không đi về đâu cả. Có khi còn mất cả hường đi. Con người và con đường. Đôi bạn làm nên cuộc đời nhau. Con người làm thành lối mòn cho con đường và con đường thành một kỷ niệm đẹp cho con người một khi đã đi qua.

Nhà văn Lộ Tấn khi 20 tuổi được cha mẹ gửi sang du học tại Nhật. Ông theo học ngành Y. Tình cờ ông được xem một đoạn phim thời sự, trong đó có cảnh một người Trung quốc bị người Nhật hành hình, điều đáng buồn là rất nhiều người Trung quốc khỏe mạnh đứng xem với vẻ mặt đần độn, không phản ứng gì. Ông lập tức bỏ học ngành Y năm thứ 2 và chuyển sang viết văn. Bởi ông nhận thấy học chữa bệnh trong lúc này không quan trọng, bởi dân mà con ngu muội, hèn nhát, thì dù thân thể có khỏe mạnh cũng chỉ là nô lệ mà thôi. Từ đó ông muốn dùng ngòi bút để chữa bệnh tật trong tính cách dân tộc. Chính chàng trai này là tác giả của câu nói nổi tiếng để khích lệ những người mở đường: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi rồi thành đường mà thôi”.

Hôm nay giữa sa mạc hoang vu, Gioan mời gọi mọi người hãy làm thành một con đường. Một con đường thẳng ngay thay cho đường quanh co. Một con đường bằng phẳng thay cho đồi núi gồ ghề. Con đường vốn đã không có ở hoang địa, vì hoang địa đâu có người qua lại, nhưng Gioan mời gọi mọi người hãy đi vào hoang địa để tạo thành một con đường sám hối ăn năn cho Con Chúa Trời ngự đến. Hãy mở lối trong hoang địa bằng lối mòn của tình người liên đới và cảm thông. Hãy mở lối cho con người đến với nhau trong hòa bình và thân ái. Đường của yêu thương xóa bỏ ngăn cách hận thù. Đường của thứ tha để xây dựng tình bằng hữu của anh em bốn bể một nhà. Đường của bác ái để xây dựng hạnh phúc cho tha nhân. Con đường của Nước Trời còn hướng cho mọi người biết nhìn về trời cao để sống thanh thoát với những bon chen trần gian, sống vượt lên trên những tham sân si để sống vui tươi và hạnh phúc.

Vâng thưa anh chị em, cuộc đời rất cần những con đường, nhưng đừng bao giờ mở đường để gây đau khổ cho nhau bằng chiến tranh, bằng hận thù. Và cũng đừng mở đường để tìm tư lợi riêng, nhưng mở đường để tạo tình liên đới giữa con người với nhau được gần gũi hơn. Và mở đường phải nhắm đến phục vụ cho nhu cầu con người chứ không phải cho một nhóm người hay một giai cấp nào.

Lời ngôn sứ Gioan vẫn đang mời gọi chúng ta mở lối đường cho Chúa ngự trị. Gioan vẫn thiết tha mời gọi chúng ta hãn san bằng núi đồi của kiêu căng. Hãy lấp đầy thung lũng của đam mê tật xấu. Hãy nắn cho ngay thẳng tính gian dối hại người. Hãy sống một cuộc đời cho xứng với lòng sám hối ăn năn để cho Con Chúa Trời giáng trần nơi cung lòng mỗi người chúng ta. Amen.

 

17. Chúa chỉ cần tôi một tấm lòng

(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)

Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa Phụng vụ đón mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng trần là: “Rất nhiều người không đủ can đảm tha thứ cho chính mình vì những lầm lỗi đã vô tình hay cố ý mắc phải trong đạo làm chủ quản lý đối với tâm hồn và thân xác mình; trong đạo làm người đối với ông bà cha mẹ và tha nhân; và đặc biệt là đạo làm con đối với Đấng đã yêu thương tạo tác nên mình!”

Đâu phải mỗi lần đối diện với thử thách của cuộc sống, là ai cũng thắng được hết đâu? Không ai muốn mình xấu bao giờ! Không ai muốn mình thất bại bao giờ! Và cũng chẳng ai muốn mình sai lầm bao giờ! Nhưng không ai có thể lường trước được hết những gì sẽ sắp xảy tới cho mình! Những “biển báo giao thông tâm linh” vẫn có đó nhưng đâu phải lúc nào mình cũng chú tâm nhìn chúng để đừng vấp ngã, đừng lỡ chân, đừng trật bước trên vạn nẻo đường đời mà ngày ngày mình dấn bước đâu? Chủ quan luôn là một thói tật không hay, không tốt, không đẹp! Nhưng mấy ai trong đời không từng thất bại, không từng đau đớn, không từng cay đắng ngập lòng bởi cá tính này đâu? Và điều này đã từng được Đức Giêsu thốt lên trong đau khổ nhưng với trọn tấm lòng đầy cảm thông cùng ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu năm xưa: “các con hãy canh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26,41; Mc 14,38). Một sự thương cảm đầy tình người, bởi ngoài Đấng tối cao, còn có ai hoàn hảo?

Mặc cảm lỗi lầm kéo dần ta ra xa nguồn ân phúc; né tránh mối tình tự hiến mà Con Chúa Trời đang mong mõi ban tặng cho đời, cơn cám dỗ “mình không xứng đáng vì đã xúc phạm quá nặng nề đến Đấng Cao Xanh” nên “ làm sao Chúa có thể tha cho tôi được!” đã đẩy ta vào mạng nhện của sự dữ, làm ta quên hay cố tình quên Đấng Cứu Tinh đã từng khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”(Mt 9, 13; Mc 2, 17; Lc 5, 32) bởi vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mc 2,17; Lc 5,32). Biết thụ tạo mạnh sức - yếu hồn, Chúa đã tự nguyện bước tới đưa tay ra trước để chờ đợi ôm ta vào lòng, để Người có cơ hội vỗ về an ủi, để Người có điều kiện thể hiện chức năng của một lương y tâm linh đầy nhiệt huyết, sao ta cứ xa tránh Người?

Khi mở quyển “Vượt Lên Nghịch Cảnh” của loạt sách Chicken Soup for the Surviving Soul” do nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn in ấn, trong câu chuyện đầu tiên “Cậu bé và nhà tỷ phú”, tôi gặp ngay câu tiêu đề cho cả cốt truyện: “Không có cái gọi là tuyệt vọng” (Henry Ford) làm tôi rộn lên trong lòng một niềm vui khó tả vì hiểu rằng, tình đồng loại không thể thiếu cho tôi, nếu tôi biết vượt lên mặc cảm của đời mình. Cậu bé Craig Shergold là niềm vui không những cho gia đình, mà còn cho cả chòm xóm, láng giềng, bạn bè và cả thầy cô nữa. Vậy mà một khối u trong não đã làm cho mọi người thân của cậu bé vùng Carohalton, ngoại ô London hốt hoảng bởi biết rằng sinh mạng của cậu khó được bảo toàn. Nhưng rồi cậu bé đã dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh hiện tại để đi vào phòng mổ với lời khuyên của người mẹ thân yêu: “Mẹ muốn con phải thật dũng cảm!” Với khối u ác tính, một dạng ung thư não hoạt tính, mấy ai thoát chết đâu? Nhưng rồi những cánh thiệp khắp nơi đổ về động viên, khuyến khích đã làm cậu bé phấn chấn hơn. Với 1.000.266 thiệp, trong đó có cả những tấm thiệp của một số vị lãnh tụ trên thế giới như Magaret Thatcher, Thái tử Charles, George Bush, Ronald Reagan, Mikhail Gorbachev và cả hai thần tượng của Craig là Michael Jackson và Sylvester Stallone, Craig đã phá vỡ kỷ lục Guinness về người nhận được nhiều thiệp nhất mà trước đây một cậu bé người Anh khác nắm giữ (1.000.265 thiệp). Niềm vui nối tiếp niềm vui, cách đó 6000km nhà tỷ phú 77 tuổi- John Kluge ở Charlottesville, bang Virginia đã nhận được một lá thư từ những người bạn về tình trạng quá hiểm nghèo của cậu bé. Ông đã từng quyên góp hàng triệu đô la cho những người xứng đáng, nhưng chưa bao giờ ông tặng tiền trực tiếp cho một cá nhân nào. Và cũng không muốn tạo thành một tiền lệ hay khơi dậy những hy vọng hư ảo cho gia đình Craig. Nhưng rồi, khi tiếp xúc với gia đình, qua câu nói dũng cảm của cậu bé bởi gia đình không muốn cậu đau đớn nữa vì đã chịu phẫu thuật nhiều lần: “Mẹ ơi, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá mà mẹ!” chính ý chí phấn đấu của cậu bé đã làm nhà tỷ phú quyết tâm nổ lực bằng mọi giá giành lại mạng sống cho em.Và rồi nụ cười đã tỏa rạng trên mọi khuôn mặt: Ca phẫu thuật đã thành công vượt quá mong đợi của nền y học hiện đại. Mùa xuân đã trở về trên khắp nước Anh với lời tạ ơn của Manon khi nói với chồng là Ernie lúc nhận được tin nhà tỷ phú John Kluge đã tài trợ trọn vẹn cho ca phẫu thuật của con mình: “Em nghĩ Chúa đã ban cho chúng ta một phép mầu!”.

Nhìn lại đời mình, tôi cũng đã từng chán nản, đã từng thất vọng, đã từng không ít lần mặc cảm với Chúa, tránh né Chúa, xa lìa Chúa vì phải đối diện, phải đối đầu, phải chứng kiến với quá nhiều nghịch cảnh mà sức mình không kham nỗi bởi chẳng ai đỡ nâng, chẳng ai trợ giúp, chẳng ai đồng hành! Nhưng rồi, trong thanh vắng, trong trầm lặng, trong những đêm hôm khuya khoắt, bỗng nghe như có tiếng thủ thỉ bên tai tôi những lời thánh thi trong kinh sáng ngày thường của mùa vọng vọng về:

“Đừng mê ngủ đứng lên hồn ta hỡi,

Dẫu thấy mình còn hôi hám bùn nhơ,

Vì hào quang chói lọi của kim ô

Làm tiêu tan hết những gì nguy hại.

Chiên Thiên Chúa đã từ nơi thượng giới

Xuống cõi trần đền tội vạ chúng ta.

Nào cùng nhau chạy đến lượng hãi hà,

Xin tha thứ bằng lời kinh thắm lệ"

Rồi lời thánh vịnh 26, 10 lại tiếp tục trấn tĩnh tôi:

“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,

Thì hãy còn có Chúa đón nhận con”

Và thúc giục tôi hãy xóa đi mặc cảm: mặc cảm thật! bởi thấy mình bất xứng với tình yêu vời vợi từ Trời. Mặc cảm giả! Bởi mình chỉ muốn sống theo ý mình,đạt ý mình mà vẫn biết rõ điều mình đang muốn không phải là ý Chúa! Cũng chẳng đi đúng nền đạo đức nhân gian!

“Hãy cậy trông vào Chúa,

Mạnh bạo lên can đảm lên nào!

Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 26, 14)

Cậu thiếu niên Craig đã phấn đấu hết mình, cố vượt qua những giây phút chán nản, suy sụp để vươn lên tìm nguồn sống với sự trợ lực của tình người và sự can thiệp thần thiêng của Đấng Tạo Thành. Và cậu đã chiến thắng! Còn tôi? Còn chúng ta? Lời mời gọi từ vị Tiền Hô của Đấng Cứu Tinh thúc giục: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mt 3, 3), không lẽ nào không động lòng ta? Nếu thực lòng ta quay về với NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC, với tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tiền Hô: “còn Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 12), chắc chắn cơn cám dỗ với mặc cảm TA KHÔNG XỨNG ĐÁNG sẽ không còn là chướng ngại, không còn là rào chắn, không còn là e dè sợ hãi cản bước ta mở rộng lòng mình, để Đấng Cứu Tinh có thể đến cư ngụ nơi mái nhà đổ nát của ta! Chúa chỉ cần nơi ta tấm lòng chân thành, còn mọi sự, Chúa sẽ tính cho! Ta có tin điều đó không?

 

18. Chúa đang đến - Alphonse Marie Trần Bình An

Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp (chủ yếu là mưa, còn tuyết hay sương giá thì rất thấp), thường có ít lớp phủ thực vật. Các hoang mạc còn được mô tả là những khu vực mà nước bị mất theo phương thức bốc hơi nhiều hơn so với mưa. Nhìn chung các hoang mạc có lượng mưa ít hơn 250 mm mỗi năm.

Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa, với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 45 °C/318 F, hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0 °C/273 F, hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày (trời không mây) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh. (Wikipedia)

Ông Gioan Tiền Hô đã không khôn ngoan chọn chốn thành thị đông đúc để tiện rao giảng, nhưng lại dại dột vào hoang địa, vốn gay gắt, khắc nghiệt, cả ngày lẫn đêm, lại chẳng khoác áo tu sĩ đúng quy cách, cũng chẳng dùng lương thực đủ dinh dưỡng, thế mà thiên hạ cứ ồ ạt kéo vào hoang địa nghe ông kêu gọi sám hối.

Tịnh tâm

Ngày nay, chỉ những du khách thừa tiền lắm của, mới có thể đi đến hoang địa, để thưởng ngoạn những cảnh vật thiên nhiên kỳ vỹ, cùng thụ hưởng đầy đủ tiện nghi, với chi phí ngất ngưởng cao. Có lẽ bây giờ ông Gioan Tiền Hô sẽ chẳng kêu gọi Kitô hữu đi vào hoang địa nữa, mà chỉ yêu cầu tìm những giây phút tĩnh lặng tại tư gia, hay chốn yên tĩnh nào đó, như giáo đường, tu viện, để tịnh tâm xét mình và cầu nguyện.

Thoát ra khỏi xã hội xô bồ, ô nhiễm tiếng động, vấy bẩn bởi tiền bạc tanh tưởi, ngột ngạt tranh chức, giành quyền, bon chen hưởng lạc, sống mái danh lợi, thì con người mới có thể thư giãn, khỏi trầm cảm, mà thanh thoát, bình tĩnh nhìn lại bản thân, cùng dâng lời nguyện cầu.

Nếu mỗi ngày chỉ dành ít nhất 15 phút trong 1.440 phút, để tịnh tâm, tự vấn đã làm gì tốt và xấu trong ngày, đã kết thêm bạn, giúp đỡ phục vụ ai, hay chỉ chuốc thêm oán thù, ganh ghét, dối gian, để ăn năn, sám hối và cầu nguyện, thì chắc hẳn mai rày sẽ khấm khá hơn, thăng tiến hơn.

Sám hối

“Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng." Nếu tử tế tịnh tâm, khách quan và khiêm nhu, thì có thể dễ dàng nhận ra mình đã tà tâm, tà ý, tiểu xảo, ma mãnh, ứng xử vụ lợi, vun quén cá nhân, hay đã bỏ mình, hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân. Tư tưởng, lời nói, hành động của mình liệu có cảm thông, chân thành, chính đáng, hữu ích, chia sẻ, giúp đỡ, yêu thương và thương xót tha nhân, hay hoàn toàn ngược lại. Vậy chần chừ chi nữa, mà không ăn năn, sám hối?

Sám hối không dừng lại viêc thống thiết hối hận, xin chừa thói hư tật xấu, mà còn cải tiến, đổi mới, tân trang, lên đời sao cho xứng đáng là chiên ngoan của Mục Tử Nhân Lành. Người luôn đòi hỏi tấm lòng nhân ái chân tình, chứ đâu thích hình thức rềnh rang bề ngoài.“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ.” (Hs 6, 6 & Mt 12, 7)

Ông Gioan Tiền Hô còn chỉ dạy chu đáo về tâm tình sám hối, chứ không chỉ kêu gọi dân chúng đến chịu phép rửa qua loa chiếu lệ cho xong. “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối.” Như thế, sám hối cần có hành động cụ thể tốt lành tiếp theo, chứ không thể thú tội suông là đã hoàn tất. Với mình, cần chay tịnh, hãm mình, bỏ mình, không chiều theo tánh xác thịt. Với người, cần nhân ái, khoan dung, tha thứ, tận tuỵ phục vụ, vác thập giá mà theo Chúa.

Đón Chúa

Đức Giêsu đã đến rồi, vẫn còn mãi đang đến và sẽ đến. Người đã đến hơn hai nghìn năm tại Bêlem, vẫn đang ở với con người qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tha nhân chung quanh mỗi người. Người đang đến qua Mùa Vọng năm nay. Người còn sẽ đến vào thời mạt thế. “Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Với ơn cứu độ, Người đến giải thoát con người khỏi kiếp vong nô, thánh hoá con người, đưa con người trở lại vị thế con Thiên Chúa, nếu con người sẵn sàng hoan hỷ chấp nhận.

Nhưng để xứng đáng đón rước Đấng Cứu Thế, mỗi người cần trở nên bé mọn, đơn sơ, nghèo khó, vâng phục, như chính Người đã làm gương sáng, trở nên hài nhi yếu đuối, bị truy sát giữa một xã hội thực dụng, bái vật, thậm chí từ khước Thiên Chúa. Chính Người đã tiết lộ rằng, những đối tượng đón nhận Chúa là những kẻ bé mọn."Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn." (Lc 10, 21-24)

Người còn nhiều lần tái khẳng định mục đích đến thế gian cứu độ những kẻ bé mọn lầm lạc, tội lỗi:"Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi." (Mc 2, 17). Những người đạo đức giả hình, kiêu căng, tự phụ, mạo nhận là công chính, thì dĩ nhiên chẳng thể nào thật lòng muốn đón Chúa.

Ông Gioan Tiền Hô, ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, tuy đã vào sống trong hoang mạc chay tịnh, đạm bạc, kham khổ, nghèo khó, thế mà ngài còn tự nhận rằng không đáng xách giày cho Đức Kitô, thì người Kitô hữu liệu còn hy vọng gì chăng? Rất hy vọng, vì Đức Giêsu vô cùng đại lượng, giầu lòng thương xót, đã mở rộng vòng tay mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."(Mt 11, 28-30) Vấn đề là có thành tâm ước nguyện đón rước Chúa hay không?

“Người Công Giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng.” (Đường Hy Vọng, số 950)

Trời cao hãy đổ mưa xuống. Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội. Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời. Trong đêm u tối chúng con mong ngày mau tới. Như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối. Chúa ơi! Dừng con giận Chúa lại thôi. Chúa ơi! Đoàn con đã hối tội rồi…(sáng tác Duy Tân, Trời Cao)

Kính xin mẹ Maria cầu bầu cho chúng con khiêm nhu, sốt sắng sám hối, đổi mới, hoan hỷ và hy vọng đón Chúa giáng sinh trong tâm hồn chúng con. Amen.

 

19. Lời cảnh báo khẩn cấp nhất - AM Trần Bình An

Tự thành lập một tổ chức trẻ em vì môi trường (ECO) khi mới 10 tuổi, hai năm sau đó lại cùng bạn bè quyên tiền, trang trải mọi chi phí tham dự hội nghị thượng đỉnh Trái đất đầu tiên, ở Rio de Janeiro, Brazil, năm 1992, Severn Suzuki đã trở thành “cô gái khiến cả thế giới im lặng trong 6 phút”. Nước mắt và những gương mặt sững sờ của các nhà lãnh đạo trên thế giới còn hiện rõ trong băng ghi hình vì bài phát biểu của cô bé.

“Cháu sợ ra ngoài ánh nắng mặt trời vì những lỗ thủng trên tầng ozone. Cháu sợ hít thở không khí vì cháu không biết có những loại hóa chất gì trong đó. Mới vài năm trước cháu vẫn thường đi câu cá với bốở quê Vancouver, còn bây giờ cháu thấy lũ cá với đầy tế bào ung thư”.

“Cháu đang đấu tranh cho tương lai của bản thân. Cháu ở đây để nói thay cho những đứa trẻ đang chết đói, mà không ai nghe được tiếng khóc của chúng. Cháu ở đây để nói thay cho vô số loài động vật đang chết dần trên cả hành tinh này, vì không có nơi nào để đi.”

Không quá thể hiện cảm xúc bằng đôi mắt hay bàn tay, nhưng với giọng điệu quả quyết, có những lúc cô bé gần như cầu xin các đại biểu: “Cháu chỉ là một đứa trẻ và cháu không biết hết mọi giải pháp, nhưng cháu muốn các cô chú hiểu rằng các cô chú cũng thế. Các cô chú không biết cách xử lý những lỗ thủng ở tầng ozone, không biết cách khiến cá hồi trở lại một con suối đã ngưng chảy, không biết cách hồi sinh một loài vật đã tuyệt chủng và cũng không thể mang lại những khu rừng ở những nơi giờ đây chỉ còn là sa mạc. Nếu các cô chú không biết cách khắc phục hậu quả thì xin đừng phá hoại thêm nữa!”.

Kết thúc sáu phút trình bày của cô bé, ông Al Gore, sau này trở thành phó tổng thống Mỹ, đã chạy tới chúc mừng Severn Suzuki về một bài phát biểu mà ông thấy “hay nhất, muốn nghe nhất tại hội nghị”. (http://www.youtube.com/watch?v=D0Z3EtO0Yx4&feature=player_embedded)

Hiện nay, cô Severn Suzuki đã 34 tuổi, vẫn tiếp tục hiện thực hóa mọi lời nói trong bài phát biểu thành hành động. Cô đã bỏ ra hơn 20 năm đi khắp thế giới, diễn thuyết và cảnh báo về hiểm họa môi trường bị hủy hoại. Còn Thánh Gioan Tiền Hô hơn 2000 năm trước, đã hùng hồn, gay gắt, cảnh báo khẩn cấp và quyết liệt hơn nữa, về cuộc phán xét của Thiên Chúa: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.”

Thời kỳ đã mãn

Con người thường hay quên một thực tế rất quan trọng. Đó là thân phận quá mong manh, mỏng dòn, dễ vỡ, có thể chết bất cứ lúc nào. Biết đâu, đây chính là những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời tôi? Ngộ độc thực phẩm, tai nạn giao thông, tai bay vạ gió, cháy nhà, bão lụt, tất cả đều có thể xảy ra cho tôi, cũng như cho người thân, bạn bè, hay kẻ xa lạ bất cứ lúc nào, nơi nào. Thế mà tôi cứ tưởng như sống đời, sỗng mãi, sống hoài, y như vọng tưởng hão huyền của con người hằng bao đời.

Nếu Chúa gọi tôi ngay lúc này, một giờ, một ngày, hay một tháng nữa, tôi phải ứng xử ra sao? Nếu không phải là xưng tội, rước Mình Thánh Chúa? Nhưng tôi có gì đem theo, ngoài tội lỗi đen đúa, ngoài tâm hồn lấm len? Hay là đúng như lời Thánh Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu nhận xét: “Nòi rắn độc kia!” (Mt 3,7), hay là “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27)

Sám hối

Thiên Chúa thấu suốt hết mọi sự, từ bên ngoài đến tận cõi lòng, tâm tư, suy nghĩ, ước muốn, đam mê. Tôi chỉ có thể giả vờ đóng kịch với tha nhân, nhưng không thể nào qua mắt Ngài. Tôi có thể là người đàng hoàng tử tế với mọi người, nhưng là người con hoang đàng với Chúa.

Tôi theo Đạo, nhưng chưa sống đạo. Tôi chấp hành và thực hiện đủ những luật lệ, Mười Điều Răn và các điều Hội Thánh dạy, tôi mới chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc. Nào có ích gì trước mặt Chúa? Vì tôi “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,28). Vì tôi chỉ mới làm những việc đạo dức bắt buộc, chứ tâm hồn tôi còn mải đi hoang, khẩu phật tâm xà.

Chừng nào tôi tự giác theo Chúa, sống đạo, sống Lời Chúa, khiêm tốn, nhìn nhận ra những tội lỗi vấp phạm đến tha nhân và Thiên Chúa, tôi mới thấy cần đến Lòng Thương xót Chúa, mới muốn trở về với Người Cha Nhân Từ, vốn đang mong mỏi chờ đón tôi trở về.

Sinh hoa kết trái

Canh tân, đổi mới tâm hồn, tôi mới sinh hoa kết trái, khi biết nhìn nhận tha nhân là anh em của tôi, thấy động lòng và giúp đỡ những người nghèo khó, hoạn nạn, tàn tật, kém may mắn. Những người lâu nay tôi hờ hững chẳng quan tâm, chẳng để ý gần gũi.

Sinh hoa kết trái là sống Tin Mừng chân thật, thực hiện đúng đắn Lời Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa, chứng nhân của Đức Giêsu trong môi trường xã hội chuộng vật chất phù phiếm.

Nhưng khó khăn hơn hết là đối phó với chính mình, là vượt qua bản thân với những ích kỷ nhỏ nhen, đố kỵ, ganh ghét, thù hằn, oán hận, với những đòi hỏi hưởng thụ, danh lợi, tà tâm tà ý. Tôi có chịu chết đi thân xác, chết đi những nhục dục, những ham hố, tham lam, thì mới xứng đáng được Chúa đoái thương, ban Ơn Cứu Độ. “Chính khi chết đi là vui sống muôn đời!” (Kinh Hòa Bình).

Lời cảnh báo gay gắt và khẩn cấp của Thánh Gioan Tiền Hô sẽ chẳng thể lay động tôi, bao lâu tôi cứ nhắm mắt theo nếp sống cũ, tham sân si. Nhưng chẳng lẽ tôi đã thấy quan tài mà chưa nhỏ lệ sao?

“Một người giữ đạo, đọc nhiều kinh, dự nhiều lễ, mà không sống đạo, chẳng khác gì người được hỏi: “Bạn có khỏe không?” Liền đáp: “Tôi ăn một ngày sáu bữa.” Chưa hẳn ăn nhiều bữa là đã khỏe.” (Đường Hy Vọng, số 101)

Lạy Chúa Giêsu, xưa Thánh Gioan đã kêu gọi: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” Xin Chúa thức tỉnh chúng con khỏi giấc ngủ u mê thế gian, để sốt sắng sám hối, canh tân đời sống, làm việc lành cho xứng với sự thống hối, hầu được cứu rỗi.

Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ chúng con biết kết hiệp việc đạo đức với đời sống đạo trung tín, để chúng con thực thi cụ thể và hữu hiệu Lời Hằng Sống. Amen.

 

20. Nước Trời đã gần bên

(Suy niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).

Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); - Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); - Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeò (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizò (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.

Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): - Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); - Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); - Dân chúng đến với ông (3,5-7).

Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).

Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)

Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeò theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeò có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeò” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeò nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeò, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.

Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizò, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.

Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)

Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).

Dân chúng đến với ông (3,5-6)

“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3,11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).

Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.

 

21. Lời nói thật thì khó nghe – Lm. Đam Trần Đình Nhi

(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng

Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm nay tiếng hô ấy không lọt tai chút nào, trái lại ít ra làm cho nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc phải khó chịu hoặc choáng váng mặt mày. Tại sao thế? Vì ông Gioan thẳng thắn sửa sai họ. Vậy chúng ta hãy xem tiếng hô đã nói gì về nhóm người ấy và có lẽ cả về chúng ta hôm nay nữa.

Chúng ta thử hình dung khung cảnh bờ sông Gio-đan, khuôn mặt ông Gioan Tẩy Giả, nhóm người Pharisêu và Xa-đốc. Nét mặt ông Gioan không dữ dằn hay đỏ gay vì nóng giận, nhưng nghiêm nghị và đượm một chút thất vọng. Ông nhìn thẳng vào họ và cất tiếng nói. Ông không nói bóng gió hay rào đón, nhưng đi thẳng vào vấn đề của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa như bao người thì đâu là vấn đề? Theo lời ông Gioan, đây là vấn đề thứ nhất của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan là một thứ nghi thức hay phù phép để giữ cánh tay trừng phạt của Thiên Chúa lại. Cái chứng đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Nhưng thực ra phép rửa của ông Gioan chỉ là dấu hiệu mời gọi họ hãy thay đổi cuộc sống mà “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.

Vấn đề thứ hai của nhóm Pharisêu và Xa-đốc là tính tự tôn, dựa vào gốc gác là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Quả thực họ mang cái vỏ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ Áp-ra-ham nữa! Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của đức tin. Còn họ thì sẽ chẳng tin vào Chúa Giêsu và sứ mệnh cứu độ của Người (xem Gioan 8:31-41). Tổ phụ Áp-ra-ham “đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của [Chúa Giêsu]”. Còn họ thì “lượm đá để ném Người” (8:56-57).

Để sửa sai các “vấn đề” của họ và cũng là vấn đề của chúng ta hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi tất cả hãy thực lòng sám hối và tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giêsu, Đấng “sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, tay cầm nia rê sạch lúa trong sân”. Nói khác đi, chúng ta phải tin vào sứ mệnh của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ tiếp tục thanh tẩy chúng ta thành “thóc mẩy” để được thu vào kho lẫm đời đời của Thiên Chúa.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Có lẽ chúng ta tự hào mình không giống như những người nhóm Pharisêu và Xa-đốc, và những lời cảnh báo của ông Gioan Tẩy Giả không nhắm vào chúng ta. Không phải vậy đâu! Cách sống đạo của chúng ta nhiều khi không khác gì “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, làm mọi sự vừa đủ để khỏi bị xuống… hỏa ngục! Chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì luật buộc, đọc kinh hạt theo số lượng mà không có lòng. Chúng ta cứ tưởng hễ mình mang danh Công giáo là mai sau sẽ ung dung bước vào thiên đàng. Chúng ta không cần để ý phải “sinh quả tốt” là đời sống Kitô hữu đích thực với đức tin sống động ngay ở đời này.

Sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả thuộc loại “sự thật mất lòng”! Nó đòi chúng ta phải can đảm nhìn thẳng vào cuộc sống mình, để nhận diện những “vấn đề” trong đời sống thiêng liêng cũng như gia đình và xã hội của chúng ta. Sứ điệp của ông Gioan không đe dọa, nhưng thành thực giới thiệu với chúng ta Đấng cứu độ là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vậy thì mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta thay đổi lối sống và theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người.

 

22. Mùa loan báo – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.

Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.

Bài Phúc Âm: Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.

Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.

Với Chúa Nhật II, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: "Hãy hối cải vì nước trời đã cận kề". Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3...), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời hối cải và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.

Gioan Tiền Hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa và cũng rất gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: "Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng" (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.

Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.

Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát... Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

 

23. Hãy sám hối ăn năn – Lm. Phêrô Trần Minh Đức

Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.

Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.

Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!

Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.

Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.

Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.

Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.

 

24. Lời công bố của Gioan Tẩy Giả

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).

Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.

Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.

Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).

Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: "Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến". Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh "conversio", tiếng hy lạp "metanoia", có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.

Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?" Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).

Tuy gọi là "nòi rắn độc", nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: "Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham." Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).

Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: "Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa". Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.

Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: "Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước". Đức Giêsu quả quyết: "Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô".

 

25. Dọn cho Chúa một con đường

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

TỪ TIẾNG KÊU SA MẠC...

Thành tâm đón nhận:

Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.

“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).

“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).

Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).

Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.

“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6).

Đón nhận cách giả hình:

“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).

Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? - Sa mạc ngay tại lòng mình.

Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.

“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).

Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.

“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)

... ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG

Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.

“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).

Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.

“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).

Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài - Đấng Cứu Thế - mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm.

“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).

Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.

Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.

Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).

Lạy Chúa,

Xin soi sáng lòng trí con,

Để con nhận ra những lỗi lầm.

Sửa đổi cuộc đời con,

Để nên một con đường,

Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.

 

26. Dọn đường Tình Yêu

(Suy niệm của ĐGM. Antôn Vũ Huy Chương)

Giáo hội bước vào Mùa Vọng, 4 tuần lễ chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Lời Nhập Thể. Ngôi Lời đã làm người bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ cách đây hơn 20 thế kỷ. Cử hành Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là cử hành việc Chúa ĐÃ ĐẾN để khởi đầu công trình cứu độ trần gian, mà cao điểm là sự kiện CHẾT và SỐNG LẠI của Người, một lần là đủ cho tất cả mọi thời và mọi nơi, nhưng mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo này được cử hành trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành mỗi ngày nhằm “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chính vì thế, Mùa Vọng còn hướng về việc Chúa SẼ ĐẾN.

Khi cá nhân và tập thể định hướng cho THỜI GIAN thì con người và thời gian đó làm nên LỊCH SỬ. Khi cá nhân người Kitô hữu và tập thể Giáo hội định hướng cho lịch sử theo ý định của Thiên Chúa là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho lịch sử đó trở thành LỊCH SỬ CỨU ĐỘ. Như thế, lịch sử mỗi người và lịch sử nhân loại nằm giữa RỒI và CHƯA: Chúa đã đến rồi (Giáng Sinh) để định hướng cho Lịch Sử Cứu Độ, nhưng chưa hoàn tất, nghĩa là chưa đạt tới cứu cánh chung cuộc (Cánh Chung). Mùa Vọng vừa cử hành việc Chúa đã đến RỒI, vừa hướng về việc Chúa CHƯA đến. Do đó, nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu cũng như của tập thể Giáo hội, trong thời gian này của Lịch Sử Cứu Độ, là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô sớm tới ngày hoàn tất, ngày đó Chúa Kitô sẽ đến lần thứ hai để khánh thành công trình cứu độ mà Người đã khởi sự.

Theo bài Tin Mừng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống tinh thần SÁM HỐI theo lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần… Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… Hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Dọn đường là tuyên xưng Đức Tin và Đức Cậy vào Tình yêu Nhập Thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là sống Đức Ái một cách cụ thể và thiết thực theo gương Người, để đem lại niềm tin và hy vọng cho những người chung quanh. Đặc biệt khi làm việc bác ái từ thiện, mọi người nhớ lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cagliari: “Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà”.

Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 9-11). Chúa Giêsu đã không nói “chúng ta cũng phải yêu thương Thiên Chúa”, mà nói “chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Rõ ràng yêu người và mến Chúa là một giới răn duy nhất!

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa thương xót và nhân hậu, nhẫn nại và đầy lòng trắc ẩn” với những ai cậy trông vào Ngài (Xh 34,6). Trong Tân Ước, lòng thương xót của Chúa Cha trở nên hữu hình và sống động nơi Đức Giêsu, vì ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Qua những dụ ngôn nói về lòng thương xót, dụ ngôn về con chiên lạc, dụ ngôn về đồng bạc được tìm thấy và dụ ngôn về người cha với hai người con (x. Lc 15,1-32), Chúa Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa như một người Cha luôn đi bước trước cảm thương và tha thứ.

Chúng ta cùng nhau DỌN ĐƯỜNG TÌNH YÊU để đón Chúa đến trong Mùa Giáng Sinh, đến trong cuộc đời mỗi người và đến trong ngày Chúa quang lâm.

 

27. Mùa Vọng: Mùa màu tím – ĐGM Vũ Duy Thống

(Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’)

Nếu Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, với lối nhìn viễn cảnh, người ta thấy sáng lên dung mạo của Thiên Chúa, Đấng hằng hy vọng vào con người, đồng thời cũng nhận ra dáng đứng của tín hữu là biết hy vọng vào Thiên Chúa bằng lòng tỉnh thức, để Mùa Vọng được gọi là mùa xanh lên niềm hy vọng thì Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, với lối nhìn cận cảnh, người ta lại thấy Phụng Vụ được diễn tả bằng một màu khác, không còn êm ả mướt xanh nữa mà đã đi vào lắng đọng tím màu để Mùa Vọng cũng gọi được là mùa màu tím.

Tím không ở chân trời nắng xế; tím không ở dòng sông Giođan chiều về nơi Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa; tím cũng không ở sắc phục linh mục bước ra dâng lễ, mà tím ở tâm can những tín hữu biết chân thành ăn năn lầm lỗi bao ngày qua để thấy trong lệ sa màu tím của lòng mình. Mùa Vọng đích thực là mùa của màu tím sám hối.

Nhưng làm sao để lòng sám hối diễn tả được nỗi lòng Mùa Vọng, hay nói lên được sắc màu hy vọng? Trả lời câu hỏi này tức là cùng lúc phải xét đến những đặc tính sám hối của Mùa Vọng.

1) Sám hối mang màu hy vọng không cúi gập trên những lầm lỗi của mình mà hướng mở về tình thương Thiên Chúa.

Đối với nhiều người, sám hối cũng đồng nghĩa với lòng hối hận, tức là nhận thức về thân phận tội lỗi của mình, ý thức về những lỗi lầm mình đã phạm và buồn vì mình đã làm xấu cuộc đời mình đi. Tất nhiên, lòng hối hận như thế tự nó có một ý nghĩa nhất định, nhưng nếu chỉ có thế và chấp nhận dừng lại như thế, rõ ràng là có khuynh hướng co cụm lại và cúi gập trên những lầm lỗi của mình. Hối lỗi thì ít mà xem ra hận mình lại nhiều, để rồi khi tự mình vùng vẫy trong tình huống mất thăng bằng ấy, người ta dễ bị rơi xuống vực sâu thất vọng, giống như con muỗi sa vào lưới nhện càng vùng vẫy càng bị xiết chặt, và giống như những kẻ sa vào vũng lầy càng ngoi ngóp càng bị lún sâu.

Thực ra, hối hận chỉ là một thành phần trong hành vi sám hối, hay đúng hơn là khởi điểm của cả một tiến trình trở về mà Thiên Chúa chính là cao điểm và kết điểm. Chính vì đối diện với Thiên Chúa mà tôi biết mình có tội và cũng vì hướng đến Thiên Chúa mà tôi hối hận tìm về. Người ta vẫn bảo sám hối là hai mắt nhìn của con người nội tâm: một mắt nhìn vào mình để nhận ra những tội lụy của một đời xa vắng đã dẫn tới sa ngã rồi xa lìa tình thương Thiên Chúa và mắt khác nhìn vào Thiên Chúa để thấy nơi Ngài một tình yêu như tấm lòng người cha, như trái tim người mẹ bao dung thương xót mà xin ơn làm lại cuộc đời.

Hai con mắt, hai hướng nhìn nhưng vẫn chỉ là một lòng sám hối mang màu hy vọng. Thiếu một trong hai, sắc màu hy vọng đều bị nhạt nhòa. Sẽ là thất vọng nếu chỉ nhìn tội mình mà quên nhìn tình Chúa và sẽ là vô cùng ảo vọng nếu chỉ nhìn tình Chúa mà quên nhìn tội mình; nhưng sẽ là hy vọng dâng đầy cho những ai vươn lên tình yêu Thiên Chúa khởi đi từ lòng sám hối tội lỗi của mình. Hình như trong lời kêu gọi “Hãy sám hối” đã có tiếng giục giã “Hãy hy vọng”, và sở dĩ Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối hôm nay là bởi vì đã có niềm hy vọng dọn đường chờ mong Chúa đến.

2) Sám hối mang màu hy vọng không dừng lại trong nội vi tâm thức mà biết tỏa rộng lên cả cuộc đời.

Đối với một số người khác, sám hối là một cách nói ám chỉ một chuyển biến từ một tình trạng cũ và xấu đến một tình trạng mới và tốt hơn, nhưng hối lỗi chỉ là một chuyển biến xảy ra trong nội vi ý thức của cuộc sống tâm hồn, cùng lắm cũng chỉ được diễn ra bằng những nghi thức đã được quy định. Thế thôi. Rõ ràng cách nhìn như thế quả là không ổn. Không ổn ở chỗ nó quá máy móc, làm như cứ tham dự một số nghi thức sám hối là đương nhiên mình được thanh tẩy bất kể đời sống của mình ra sao; và không ổn ở chỗ nó quá nội giới, làm như sám hối chỉ là một thứ tâm lý liệu pháp nào đó theo kiểu kể tội trong gió, gió thổi bay đi là xong.

Sám hối Mùa Vọng đâu phải là thứ sám hối như thế, mà thật ra phải là thứ sám hối toàn diện đúng mức với lòng hối cải, vốn bao gồm hai động tác cơ bản đan xen: “hối” có nghĩa là hối lỗi và “cải” là kiểu nói tắt của chữ cải thiện. Nếu hối lỗi là lời đoạn tuyệt với quá khứ tội lụy, thì cải thiện là lời quyết tâm dấn bước vào một tương lai tươi mới. Và đến khi sám hối trở thành một thói quen ăn sâu vào trong nhịp sống để nỗ lực chuyển đổi không ngừng lên những tình trạng tốt hơn thì đó chính là một cuộc lột xác đổi đời; không giống như đổi đời xe đời máy mà là đổi đời sống cách sống với những hệ lụy cụ thể không thể lần lữa chần chừ được.

Không phải vô tình mà Gioan Tẩy Giả bảo những kẻ đến với ông là “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối” nhưng qua đó ngài cho thấy lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể của mình.

3) Sám hối mang màu hy vọng biết vượt qua những động tác để trở thành một thái độ sống.

Đối với một số người khác nữa, sám hối thường được quan niệm như một cao trào chỉ bùng lên một năm vài lần vào những dịp lễ đặc biệt như cách phân bổ Lịch Công Giáo hiện nay, tức là xuân thu nhị kỳ: một lần vào Mùa Vọng để dọn lòng mừng lễ Giáng Sinh cho sốt sắng và lần nữa vào Mùa Chay để tỏ bày sự thông công vào lễ Phục Sinh cho phải đạo, “Xưng tội một năm ít là một lần và chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh”.

Xem ra cách thực hành sám hối như vậy cũng có những nét cụ thể nhất định, nhất là lại phù hợp với đại đa số giáo dân vốn đầu tắt mặt tối chạy vạy với cuộc sống kinh tế gia đình hoặc xã hội. Nhưng từ căn bản có cái gì đó chưa ổn. Một mặt quá gắn liền động tác sám hối với việc đón nhận Bí tích Hòa Giải sẽ dẫn tới ý nghĩ rằng khi mình không nhận Bí tích Hòa Giải thì mình cũng chẳng cần đến sám hối nữa; và mặt khác coi sám hối chỉ như một động tác diễn ra trong khoảnh khắc sẽ tới lúc nghĩ rằng sám hối chỉ là điều kiện ắt có và đủ cho việc xưng tội chứ không như một thái độ thường xuyên phải có trong đời Kitô hữu.

Thực ra sám hối mang màu hy vọng không đơn thuần là một động tác cho bằng là một thái độ. Sám hối là một thành phần của đời sống đức tin, nhưng lại gói ghém và len lỏi vào mọi ngõ ngách của toàn bộ cuộc sống đức tin ấy. Chả thế mà Gioan Tẩy Giả khi trả lời cho đám đông về việc thực thi sám hối đã mở ra cho họ một nhãn giới thật rộng bao gồm cả việc thực thi công bình và sống tình bác ái. “Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt thấp” đâu phải chỉ là chuyện dọn dẹp đường xá, mà đã trở thành chuyện khai quang tâm hồn để nhìn thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. Cũng thế, việc chia cơm sẻ áo đâu phải chỉ là chuyện cứu trợ, mà đích thực đã là cách diễn tả cụ thể của lòng sám hối chờ mong Chúa đến.

Tóm lại, sám hối mang màu hy vọng là sám hối tìm về tình thương Thiên Chúa, chấp nhận thay đổi cuộc đời và biết để cho ơn tha thứ thấm đẫm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đức tin. Đó là sám hối Mùa Vọng chuẩn bị đón lễ Noel, nhưng đó cũng là thái độ thường xuyên của đời tín hữu. Và cũng vì có sám hối như vậy, Mùa Vọng đúng nghĩa chính là mùa màu tím từ bên trong ra bên ngoài và từ ngôn ngữ tới hành vi. Chúc mọi người những ngày Mùa Vọng thật sốt sắng.

 

28. Món “ăn năn” – ĐGM Vũ Duy Thống

(Trích từ ‘Làm Nụ Hoa Trắng’)

Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh. Món ấy là món gì?

Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, cũng là món ăn hữu ý được nhìn qua trang Tin Mừng hôm nay. Nhưng để tránh dị ứng hoặc phản ứng phụ, đồng thời để tận hưởng những hiệu quả bổ dưỡng, trang Tin Mừng đề nghị ta những động tác quan trọng để hưởng dùng món “ăn năn sám hối”.

1) Động tác thứ nhất là chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình.

Đây là động tác mở đầu trong tiến trình ăn năn sám hối, cũng là động tác mở đầu cho bất cứ một sinh hoạt phượng tự nào khi con người tiếp cận với Thiên Chúa: ta vừa mở đầu Thánh Lễ với tâm tình thú tội ăn năn. Chính Chúa Giêsu ngày trước cũng đã mở đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi không quên “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”. Và ngay Gioan Tẩy Giả cho dẫu trong hoang địa nắng cháy khô cằn chẳng có gì ăn, cũng hô vang đồi núi: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần trong không gian và cũng vì Nước Trời đã gần đến trong thời gian.

Động tác “nhìn nhận tội lỗi” trong mắt nhìn của những kẻ xa lạ với Tin Mừng có thể là một thứ tâm lý xa rời thực tế theo kiểu “không ai bắt lỗi ngu gì mà thú nhận”; nhưng đối với những kẻ tin vào Phúc Âm đó lại là hai mắt nhìn của một tấm lòng chân thành: một mắt nhìn vào mình để nhận ra thân phận mình tội lụy và một mắt nhìn lên Chúa để nhận lấy lòng thương bao dung tha thứ của Ngài. Ta nhận mình có tội bởi ta đã nhìn vào tình thương của Chúa từ hồi nào. Ta nhận ra Chúa yêu ta bởi ta đã nhìn thấy từng ngày lỗi tội của mình.

Như vậy, “nhìn nhận tội lỗi” chính là động tác mở đầu của món “ăn năn sám hối”, cũng là động tác mở về tình thương của Thiên Chúa và mở vào kho tàng thiêng liêng chất chứa ơn tha thứ do Thiên Chúa thết đãi con người. Tự căn bản, xưng thú tội lỗi của mình cũng là tuyên xưng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

2) Động tác thứ hai được gặp thấy trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”.

Có thể có ai đó ngẩn ngơ thầm nghĩ: “Ơ hay, cái ông Gioan Tẩy Giả này mới thật là ngớ ngẩn, sám hối như trong động tác thứ nhất tự nó đã là một việc lành rồi, cần phải làm thêm việc lành khác nữa sao? Vẽ chuyện!”. Xin thưa rằng ông Gioan Tẩy Giả không ngớ ngẩn đâu, ngược lại, trong lời kêu gọi đơn giản của ông đã hàm chứa những ý nghĩa đẹp đến độ ngẩn ngơ cho một lòng ăn năn tích cực và đích thực.

Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.

Đó cũng là lòng ăn năn đích thực không đồng hóa với một thứ tình cảm chợt đến chợt đi, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ cảm tình vị kỷ theo kiểu làm việc lành cho “sướng”, thế thôi, trong khi lòng ăn năn đích thực gọi đến một phẩm cách, một trách nhiệm. Gioan Tẩy Giả không bảo làm việc lành cho “sướng” mà hãy làm việc lành cho “xứng” với lòng sám hối.

3) Động tác thứ ba để thưởng thức món “ăn năn”, đó là khiêm tốn đợi chờ Đấng đang đến.

Đấng ấy không phải là người xa lạ, mà là một THỰC KHÁCH viết hoa viết đậm của mọi Kitô hữu quanh bàn “ăn năn”. Đấng ấy là Đức Kitô đã đến lần thứ nhất trong lịch sử với ngả nghiêng cây Thập Tự, sẽ đến lần thứ hai ngày cánh chung với sự công chính và nền hòa bình viên mãn, và Người đến từng ngày cho tất cả những ai khiêm tốn đợi chờ với lòng sám hối.

Thảo nào trang Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến từ ngữ “dọn đường và sửa đường”. Dọn đường bởi vì Đấng ấy đang trên đường đến với ta và sửa đường “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống” là bởi vì Người chỉ thích đến với ta trên đường công chính.

Hiểu như thế, ăn năn không phải là ăn điều gì khác hơn là ăn chính Đấng đang đến: Chúa Kitô. Chính Người là đích điểm của việc sám hối. Vắng Người là thiếu tất cả: việc sám hối có thể co cụm lại như một thứ nghi thức thực hiện cho yên lương tâm; nhưng có Người là có tất cả: việc sám hối bấy giờ sẽ trở nên một mạch nguồn sức sống mới trong Thánh Thần. Nói cách khác, lòng người sám hối Mùa Vọng ví tựa những căn phòng, quá ngổn ngang chật hẹp, Chúa Kitô sẽ không thể chen chân bước đến; nhưng ngược lại biết dọn dẹp sạch sẽ thẳng ngay, Người sẽ ung dung tìm vào như vào trong căn hộ của mình.

Tóm lại, dẫu chẳng phải là “người có tâm hồn ăn uống” mà chỉ vì cái phong phú và lắt léo của tiếng Việt, nên đã xin chia sẻ Phúc Âm hôm nay qua dạng thức của một món ăn: món “ăn năn sám hối” với ba động tác: nhìn nhận tội lỗi, thực hiện việc lành và chờ đợi Chúa đến; một cách trực tiếp là họa lại lời Gioan Tẩy Giả vang lên trong trang Tin Mừng, một cách gián tiếp là lòng hẹn lòng hãy tìm đến món “ăn năn” qua việc sống Bí tích Hòa Giải.

Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân.

Mười năm trước khi kinh tế còn khó khăn, trên đường đi hằng ngày thấy xuất hiện những tấm bảng hiệu nhận phục hồi những cơ phận máy móc, tôi đã có ý nghĩ nên ghi trên tòa Hòa Giải một tấm bảng hiệu nhận “phục hồi sự sống các tâm hồn”. Hôm nay, thời kinh tế mở cửa, trên đường từ chợ Bến Thành về đây thấy nhan nhản những bảng hiệu của các quán ăn đặc sản, từ Hương phố tới Hương đồng, từ Hương xưa tới Hương rừng lao xao. Tôi nghĩ có lẽ phải ghi trên tòa Hòa Giải tấm bảng khác thôi: Hương thiêng đặc sản tâm hồn, món “ăn năn” dẫn đến nguồn thánh ân.

 

29. Thế giới luôn cần những con đường đầy hoa

(Chút suy tư và cảm nhận về sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Vọng năm A – Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường hồi hương tái thiết lại Sa Lem, con đường trong hoang mạc, con đường gồ ghề, con đường cong queo…cùng với những nỗ lực để có những con đường đẹp, con đường thẳng như “bạt thấp nổng đồi”, “lấp đầy hố sâu”, “uốn thẳng con quẹo…”.

Và tất cả những cuộc hành trình đó, những con đường đó chỉ là hình ảnh, biểu trưng để dẫn dắt chúng ta biến thời gian cử hành Mùa Vọng thành một cuộc “lên đường”, một cuộc tiến bước trên “lộ trình” hướng đến và gặp gỡ Thiên Chúa. Và trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, phải sửa dọn con đường thích hợp, con đường ăn năn sám hối (metanoia), con đường từ bỏ hy sinh, con đường yêu thương thuận hòa…. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…

Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay:

Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những "sự thế gian", cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người… Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến: chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người "ẩn tu bất đắc dĩ." Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin "Hai Thầy" cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất phát từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cùng mọc đầy hoa tươi thắm… Và rồi, hai "thầy tướng cướp ẩn tu" đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó "tự động" phong thánh cho hai "thầy cướp ẩn tu" nầy…

Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Quả thật trong thế giới nầy, trong cuộc đời nầy, cần thiết biết bao những con đường đầy hoa như thế. Amen.

 

30. Hướng lòng về ngày Con Người sẽ đến

Các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta hiểu rõ hơn về Đấng sẽ đến và khuyên chúng ta có thái độ thích hợp với Người.

1) Đấng sẽ đến

Bài sách Isaia tiếp nối tư tưởng Chúa nhật 1 Mùa Vọng: khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ phân xử mọi nước và thiết lập thời đại thái bình. Hai tư tưởng này sẽ được khai triển thêm. Khi xét xử, Đấng Thiên Sai tỏ ra nhân ái một cách đặc biệt với những người nghèo khó. Còn đối với hạng bất nhân vô đạo, thì hơi thở của Ngài sẽ làm họ tiêu tan. Đang khi ấy, những nét tả về thời đại thái bình thật là thi vị. Người ta quên sao được hình ảnh: chó sói sống chung với chiên non, sư tử gặm cỏ như bò và trẻ em giỡn với rắn lửa mà chẳng hề chi?

Tuy nhiên chủ yếu của bài sách Isaia hôm nay không nhằm quảng diễn những tư tưởng của Chúa nhật trước. Nhà Tiên tri còn muốn đi xa hơn và nói một cách cụ thể hơn. Ngay những hàng chữ đầu tiên đã đề cập tới “chồi sẽ xuất từ gốc Giê-sê”; và câu kết còn nhắc lại danh hiệu ấy. Tức là với bài sách Isaia hôm nay, Phụng vụ muốn cho chúng ta hiểu hơn về Đấng sẽ đến sau này. Ngài thuộc tộc Yêssê, thân phụ của Đavít. Ngài sẽ là “Con Vua Đa-vít”. Ngài sẽ đến đầy Thánh Linh, đến nỗi không nơi nào trong Kinh thánh nói đến bảy ơn Chúa Thánh thần như trong đoạn Isaia này. Ngài sẽ xét xử mọi người, và rộng rãi cách đặc biệt với người nghèo khó. Ngài sẽ lập thời đại thái bình và muôn dân sẽ đến thỉnh ý Ngài.

Nhưng người nào trong tộc Đa-vít sẽ là Đấng Thiên Sai? Gioan Tẩy Giả trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho dân It-ra-en. Họ tuốn đến với ông. Họ xin ông làm phép rửa cho họ. Họ chấp nhận cả những lời khiển trách nặng nề. Nhưng Gioan vẫn chưa bằng lòng. Ông bảo mọi người phải thống hối thêm, để chịu được phép Rửa bởi Thánh Thần và bằng lửa. Chịu rửa bằng nước chưa phải là khó. Chịu rửa bằng lửa sẽ đau đớn hơn vì lửa mới làm cho những dơ bẩn ở trong chảy ra, đang khi nước chỉ rửa được những bụi bặm bám ở ngoài. Thế mà Đấng sẽ đến là Đấng đầy Thánh Thần. Ngài còn khỏe hơn Gioan, tức là đầy Thần lực hơn, đầy thánh thiện hơn, đầy đòi hỏi hơn, Ngài sẽ quan sát mọi người và thấu đạt tâm can như người sàng thóc hay rê lúa. Không ai lọt được sự phán xét của Ngài.

Như vậy, cả bài tiên tri Isaia, cả bài Tin Mừng Matthêu đều muốn cho chúng ta hiểu hơn về Đấng sẽ đến. Ngài sẽ là Đấng xét xử mọi người. Đó là viễn tượng về ngày thế mạt hơn là về ngày Giáng sinh. Chủ yếu của Mùa Vọng vẫn là hướng lòng chúng ta về Ngày Con Người sẽ đến trong những ngày sau hết. Tuy nhiên Mùa Vọng cũng hướng ta nhìn vào Ngày Chúa Giáng sinh như tương lai gần, để chuẩn bị tương lai cuối cùng. Và chúng ta cũng phải nhìn thấy việc Chúa sinh ra như để phán xét mọi người.

2) Đấng phán xét

Nhiều người thường nghĩ chỉ có phán xét khi linh hồn lìa xác về trước Tòa Chúa và đặc biệt lúc sống lại sau hết, mọi người sẽ phải trình diện trước mặt Đấng Chí Công. Nhưng không phải! Cả Isaia, cả Gioan không nghĩ như vậy đâu. Theo các ngài, khi Đấng Cứu Thế đến, dù là đến trong thế gian để làm công việc cứu chuộc, Ngài đã là Đấng Thẩm Phán Chí Công rồi.

Cụ già Simêon chia sẻ quan niệm đó. Nhìn thấy Hài Nhi ở trong Đền thờ, ông đã cất tiếng loan báo: Trẻ này sẽ làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy, nghĩa là hư đi hay được cứu rỗi.

Và thật sự hễ Đức Kitô đến nơi nào là ở chỗ đó có người tin theo và có người chống đối. Giáo lý Ngài truyền ra tức khắc làm cho nhiều kẻ thấy chói tai và nhiều người khác đón nhận như Tin mừng cứu rỗi. Ở nơi thân mật với các tông đồ, Ngài đã khiến Yuđa trở thành tên phản phúc và các người dân chài kia trở nên kẻ đi chài lưới người.

Ở nơi công cộng trên đỉnh đồi Núi Sọ, Ngài cũng làm cho một tên trộm phải lộng ngôn, đang khi người trộm khác được vào nơi an nghỉ.

Đấng Thiên Sai là Đấng Xét Xử. Bản chất Ngài là vậy, vì như Isaia và Gioan nói: Ngài là Đấng đầy Thánh Linh. Mà Thánh Linh là tình yêu. Đấng Thiên Sai mang tình yêu Thiên Chúa nhập thế giáng trần vì Chúa Cha đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho ta. Đức Kitô là Tình yêu của Chúa Cha gửi đến cho loài người. Và tình yêu không chấp nhận dửng dưng. Người ta chỉ có thể đáp trả lại bằng yêu thương hay bằng từ khước, vì dửng dưng đã là từ khước rồi.

Thế nên, đang khi dọn mình mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta phải sẳn sàng đón nhận Đấng đến để phán xét, để phân biệt những người yêu mến Người và những kẻ từ chối Người. Và như vậy cũng là sẵn sàng để đón nhận Đấng sẽ đến phán xét sau này. Chúng ta phải biết ơn Isaia và Gioan. Cả hai đã cho chúng ta hiểu điều đó. Có điều hai ông dường như mâu thuẫn với nhau: Isaia nói đến một Đấng phán xét dịu dàng, còn Gioan lại trình bày Ngài như người sàng thóc, để bỏ trấu vào lửa. Dung hòa hai ông thế nào? Chúng ta phải nghe ai?

3) Thái độ đạo đức

Thật ra, như lời thư Rô-ma nói, mọi điều đã viết xưa kia, thì đã được viết để dạy dỗ ta. Thế nên ta không tìm cách bỏ mất điều nào. Đấng phán xét của Isaia sở dĩ sẽ phân xử công minh cho người hèn yếu và đoán định ngay chính cho kẻ nghèo hèn, là vì Ngài không phân xử theo mã mắt thấy hay đoán định phỏng chừng tai nghe. Ngài thắt đai lưng bằng công chính và nịt hông bằng tín thành. Nghĩa là Ngài là Đấng chính trực và thông suốt. Đứng trước một Đấng Thiên Chúa thánh thiện như vậy, và nhất là phải dọn đường cho Ngài tới giữa một dân tộc còn nhiều tội lỗi, Gioan không thể làm khác hơn là kêu gọi người ta ăn năn thống hối. Ông là người mà tiên tri Isaia đã ám chỉ. Ông tiếp nối sứ mệnh của Isaia. Nhà tiên tri đã báo trước rất xa về Đấng xét xử sẽ đến. Gioan biết Đấng đó đã gần đến rồi. Chính ông đã phải sống cuộc đời tu hành khắc khổ với thức ăn, áo mặc khác thường để mong được cứu độ. Lời ông giảng phát xuất từ đời sống chân thật, khiến người nghe chấp nhận như lẽ đương nhiên phải vậy. Chúng ta không thể nói ông đòi hỏi hơn Isaia hay một tiên tri nào khác. Cả ông lẫn Isaia chỉ nói lên một sự thật: Đấng đang đến sẽ xét xử rất công minh. Thế nên ai nấy hãy thống hối tội lỗi.

Thánh Phao-lô không những được kinh nghiệm của Isaia và của Gioan, ngài còn đã được biết về cuộc đời của Đức Yêsu. Ngài thấy các việc lành Cựu Ước dạy làm chưa đủ để giúp ta được ơn thánh hóa. Các của lễ đền tội ngày xưa không đủ sức xóa bỏ tội lỗi. Duy chỉ có lòng thương xót của Chúa. Việc ta thống hối tội lỗi vẫn cần, nhưng tha thứ vẫn là hành vi hoàn toàn quảng đại của Chúa. Mà rõ ràng Chúa muốn quảng đại. Chúa muốn cứu cả giới cắt bì lẫn lương dân. Ngài muốn thi hành lòng thương xót cho mọi người miễn là người ta muốn đón nhận. Và chỉ ai muốn tha thứ mới đón nhận ơn tha thứ. Có tìm được mảnh đất thích hợp, ơn Chúa mới kết quả như hạt giống rơi vào đất tốt. Thế nên trong ngày Phụng vụ giới thiệu cho ta biết, Đấng sẽ đến là Đấng đến để xét xử, thì không những Giáo hội muốn cho ta thi hành việc thống hối tội lỗi; nhưng để ta chắc chắn nhận được ơn cứu độ thứ tha, dùng lời Thánh Phao-lô, Giáo hội khuyên ta hãy có thái độ chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau và sống thuận hòa với nhau. Bức họa về thời đại thái bình trong bài sách Isaia thúc giục chúng ta xây dựng một nếp sống xã hội thuận hòa để chứng tỏ Nước Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta sẵn sàng cho Ngày Ngài trở lại.

Chúng ta sẽ sống thuận hòa trong mọi ngày chờ đón Chúa đến. Chúng ta cần tinh thần hoà thuận ngay trong lúc này để đi vào Thánh lễ, vì nếu khi mang lễ vật tới bàn thờ mà nhớ đang còn xích mích với ai, hãy đặt của lễ đó, về làm hòa đã rồi sẽ trở lại dâng của lễ sau.

Xin Chúa cho tâm hồn chúng con được thật sự bình an để dâng lễ vật này. Nghĩa là xin Chúa tha thứ những nỗi bất hòa giữa chúng con, để hôm nay dâng lễ vật bình an này về, chúng con sẽ nỗ lực xây dựng xã hội thuận hòa để chờ đón Chúa.

 

31. Kinh nghiệm trở về – Achille Degeest

(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Để hiểu đoạn văn của tiên tri Isaia trích dẫn ở đây, phải nhớ rằng não trạng Do Thái bị đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm về sự Xuất Hành. Cuộc Xuất Hành đầu tiên là vụ trốn thoát khỏi Ai Cập. Nhưng về sau, dân Israel còn trải qua những cuộc lưu đầy khác, theo sau là những cuộc giải phóng, những vụ Xuất Hành mới. Ở đây lời tiên tri của Isaia liên quan đến cuộc giải thoát khỏi ách thống trị Babylone. Cũng như xưa khi ra khỏi Ai Cập, Do Thái sẽ phải đi qua sa mạc, sa mạc Syria.

Theo Isaia thì tiếng kêu hiệu triệu rằng phải dọn cho Chúa một con đường trong sa mạc. Còn theo Gioan Tẩy Giả, đó lại là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa. Hai cách nói trên không chống nghịch nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Nếu biết rằng não trạng Kitô giáo được đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm trở về với Chúa, bởi cuộc ‘xuất hành thiêng liêng’, người ta có thể chấp nhận rằng tiếng Chúa gọi giữa loài người thường giống như một tiếng kêu trong sa mạc, nhưng đàng khác người ta kinh nghiệm rằng, nếu biết nghe tiếng ấy, thì cuộc trở về với Chúa, nghĩa là sự trở lại, gồm có những giai đoạn ‘lột xác’ trong sa mạc, từ bỏ, trần trụi. Song không được ngã lòng, bởi vì tiếng Chúa là tiếng loan báo Tin Mừng, loan báo Tự Do.

Trong cách thức hành động của Gioan, ta hãy nêu ra hai điểm:

1) Người làm phép rửa trong giòng sông Giođan. Nghi thức tẩy rửa với nước, từ việc rửa tay đến việc tắm gội toàn thân, là một tục lệ thông thường của người Do Thái và nơi các dân tộc khác. Nghi thức đó có ý nghĩa tôn giáo. Mối nguy mà Gioan nói tới, là ở chỗ tin rằng chỉ cần làm nghi thức là có thể coi mình đã trong sạch rồi. Dù vậy Gioan vẫn không coi thường nghi thức ấy, vẫn áp dụng, vẫn làm phép rửa.

Phép Thánh Tẩy Kitô giáo sử dụng nước để rửa, như một dấu hiệu. Con người hiện đại dễ coi khinh các dấu hiệu bên ngoài. Cần phải nhấn mạnh với họ rằng những yếu tố hình thức cho phép đi tới những thực tại sâu xa, miễn là được áp dụng trong một số điều kiện nào đó. Bí tích là những dấu hiệu của một thực tại thiêng liêng; bí tích biểu hiệu bên ngoài điều mà ơn sủng thể hiện bên trong.

2) Phép rửa Gioan kèm theo việc tự cáo tội. Đó là một việc bề ngoài. Thiên Chúa thấy tận thâm sâu của cõi lòng ta, và chính là trong chỗ thầm kín đó mà Người thôi thúc, cật vấn con người. Mà nếu nhìn vào đáy sâu của lương tâm mình, nó không thể không thấy mình khốn nạn. Lúc đó hoặc là nó trở nên mù quáng, hoặc ngã lòng, hoặc sẽ cầu xin Chúa thanh tẩy mình. Chúa thanh tẩy và giúp đỡ con người thành thực có lòng ao ước ra khỏi vòng tội lỗi. Đó là một kinh nghiệm khởi đầu và đi theo suốt cuộc đời người Kitô hữu.

 

32. Hãy dọn đường Chúa – R. Veritas

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Ba nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh được Giáo Hội nhắc đến trong Mùa Vọng để giúp chúng ta chuẩn bị đón chờ Chúa đến là tiên tri Isaia, thánh Gioan Tiền Hô và Mẹ Maria. Không những các Ngài đã đón Chúa đến trong cuộc đời mình, mà các Ngài còn giúp cho mọi người khác biết cách để đón chờ Chúa đến.

Bài đọc thứ nhất của cả bốn Chúa Nhật Mùa vọng đều trích lại sứ điệp tràn đầy hy vọng của tiên tri Isaia. Trong cảnh sống nhiều thử thách và bóng tối đau thương dường như thể Thiên Chúa không có mặt, như bỏ rơi con người. Tiếng nói đầy hy vọng của tiên tri Isaia vang lên loan báo Thiên Chúa sắp đến thực hiện lời Ngài đã hứa, là thiết lập lại sự công bằng và hòa bình.

Thời của chúng ta đang sống tuy cách xa thời của tiên tri Isaia, nhưng vẫn cần lắng nghe và hy vọng vào sứ điệp của tiên tri Isaia. Con người có âm mưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi con người, nhưng phần Thiên Chúa thì Ngài không thể vì thế mà bỏ mặc con người với những thảm cảnh do chính con người tạo nên, như họ muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa luôn luôn có cách thế để vượt thắng những điều tiêu cực trong lịch sử con người và chương trình cứu rỗi vẫn được Ngài thực hiện.

Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân Israel đang gặp thử thách ngày xưa và cho chúng ta ngày nay về dung mạo của Thiên Chúa Cứu Chuộc sắp đến là vị Thiên Chúa mà con người cần đến, với những lời được trích lại trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng; “Chúa lấy công minh mà xét xử người nghèo” (x. Is 11,1-10). Đó là những đường nét chính của một vị Thiên Chúa cứu rỗi mà con người mọi thời đại cần đến, một vị Thiên Chúa công bằng trong xét đoán và giàu tình yêu thương, vì Ngài đến để thiết lập cuộc sống hoà bình và hoà hợp cho con người. Cuộc sống ấy được tiên tri Isaia loan báo bằng hình ảnh môi sinh, trong đó sói sống chung với chiên, trẻ nhỏ dám tiếp xúc với các thú dữ. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người được sống trong cảnh thái bình hoà hợp. Nhưng từ phía con người, họ không được sống ỷ lại để mặc Thiên Chúa muốn làm sao thì làm, nhưng họ phải biết thay đổi cuộc sống của mình mà trở về với Thiên Chúa, đón nhận hồng ân Ngài ban.

Trong viễn tượng này, bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng nhắc lại sứ điệp của thánh Gioan, kêu gọi con người hãy thực sự trở về với Thiên Chúa bằng hành động thiết thực, chứ không phải bằng lời nói suông cho qua lần. Qua đó chúng ta có thể lưu ý đến những lời sau đây ghi lại điểm chính của sứ điệp là: “Hãy ăn năn và sám hối”.

Sự ăn năn sám hối là bước đầu tiên không thể bỏ qua được trên con đường trở về với Thiên Chúa. Cần dứt khoát, không được chần chờ kéo dài thời gian mãi được: “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”. Hơn nữa, trong số những người đến nghe Gioan rao giảng và muốn thực hiện việc ăn năn trở lại, có những người biệt phái và các văn nhân thuộc phái Sadduceo, họ bị thánh Gioan trách nặng lời: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai bảo các ngươi trốn cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”.

Dù là ai hay trong địa vị nào đi chăng nữa, thì ai ai cũng là kẻ có tội và cần sự ăn năn thống hối, cần thật lòng trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống của mình xem trong ta còn có trở ngại nào ngăn cản không cho Chúa đến trong chính chúng ta và trong xã hội mà chúng ta đang sống.

Chúng ta hằng ngày hãy đọc kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến...”. Lời chúng ta cầu xin cho Nước Cha trị đến sẽ chỉ là lời nói suông hay chỉ là lời nói theo thói quen bao lâu chúng ta không thực sự canh tân đời sống mình: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

 

33. Hãy sám hối

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Nước Trời đã gần, Đấng Mêsia sắp đến: đó là điều Gioan đã hô to trong hoang địa miền Giuđê. Đối với ông, Đấng Mêsia thật là vị Thẩm phán đáng sợ. Chính Ngài sẽ tách biệt người lành với kẻ dữ, như người ta phân biệt thóc mẩy với thóc lép, “thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa”. Ngày Đấng Mêsia đến cũng là ngày Thiên Chúa thịnh nộ. Rìu đã sẵn, cây không sinh quả thì bị chặt đi. Người ta sẽ phải chịu phép rửa trong lửa hồng. Chính vì thế Gioan khẩn trương mời gọi dân chúng sám hối. Thực tế cho thấy Đức Giêsu không phải là Đấng Mêsia kinh khủng như ông nghĩ.

Tuy nhiên lời mời gọi sám hối của Gioan vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta không sám hối vì bị đe dọa và sợ hãi, nhưng vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương nơi Đức Giêsu.

Mùa Vọng là mùa sám hối để đón Chúa đến. Chúa đã đến âm thầm ở Bêlem. Chúa sẽ đến khải hoàn vào ngày tận thế. Chúa vẫn đang đến với chúng ta mỗi ngày qua các bí tích và các biến cố lớn nhỏ.

Để chuẩn bị Hội Thánh mừng Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề cho năm 1996 là Sám hối và Canh tân.

Sám hối là nhìn nhận mình đã gieo rắc bao gương mù khiến khuôn mặt Đức Giêsu trở nên khó tin. Sám hối là tự vấn về những hành động gây chia rẽ các anh em Kitô hữu với nhau. Sám hối là ăn năn về những cử chỉ thiếu khoan dung, về việc đôi khi dùng bạo lực để bắt người khác chấp nhận chân lý. Sám hối là nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao sự ác của thế giới hôm nay.

Đây không phải là việc của cá nhân, nhưng là việc của cả Hội Thánh. Một Hội Thánh có can đảm sám hối là một Hội Thánh đang vươn tới sự thánh thiện.

Chúng ta cần nghe lại những lời nhắc nhở của Gioan. Ông kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn: “Đừng tưởng mình có cha là Apraham” (Mt 3,9). Đừng tưởng mình đương nhiên được vào Nước Trời.

Gioan mời mọi người xưng thú tội lỗi (Mt 3,6).

Sông Giođan đã thành nơi con người làm hoà với Thiên Chúa.

“Hãy dọn đường cho Chúa đến”

Hội Thánh và mỗi Kitô hữu là những con đường, để Chúa đến với nhân loại và để nhân loại đến với Chúa.

Ước gì đó là những con đường thẳng và phẳng phiu, để ai cũng muốn đi và đi tới đích.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đức Thánh Cha mời gọi Hội Thánh sám hối và canh tân. Bạn có thấy giáo xứ, gia đình hay nhóm của bạn làm điều gì ngược với tinh thần Đức Kitô và gây gương mù cho người khác không?

Bạn nghĩ gì về đời sống của bạn? Hiện nay, bạn thấy mình cần hoán cải và canh tân về những điểm nào?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

 

34. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM

Hãy ăn năn thống hối vì nước trời đã gần đến

Trong bài Phúc Âm, thánh Mathêu đoạn 3, câu 1 đến 12 đã nói đến lời tiên tri Isaia, một vị tiên tri sống vào khoảng 765 năm trước Chúa Cứu Thế đã nói: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Một lời mà Gioan tiền hô đã suy gẫm, đã ăn chay, đã sống nhiệm nhặt, ăn chay đánh tội, đến nỗi Chúa khen ông là người cao trọng nhất trong Cựu Ước (Mt.11:11). Ngài đã kêu gào người ta thống hối và tin vào phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa của đấng đã thiết lập sau này.

Mùa Vọng này, Giáo Hội muốn chúng ta dọn đường cho Chúa, hãy dọn tâm hồn mình cho trong sạch, đời sống của mình còn có điểm nào quanh co, hãy sửa chữa cho ngay thẳng, cho đoan chính, cho ăn nhập với lời khuyên của Phúc Âm. Những hố sâu tội lỗi, hãy bồi đắp cho bằng, những quăn queo, gồ ghề của tư tưởng vẹo vò, của kiêu ngạo, của tự ái, của ích kỷ, hãy bạt xuống cho bằng. Hãy nghe lời Gioan Tiền hô kêu gọi mà thực hành cho ráo riết, đừng coi thường và hãy thúc đẩy mọi người trong gia đình, trong chòm xóm thi hành lời kêu gọi. Hãy lấy đức ái mà che lỗi cho người sai lầm, chữa chạy cho họ, để cả hai được minh chính trước mặt Chúa, kẻo cái rìu đã đặt dưới gốc cây, cây nào mà không sinh trái, người nào mà không sửa mình sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt.3:10).

Cũng tại Hoa Kỳ, Luật Tiểu Bang cấm gọi điện thoại khi lái xe. Ai vi phạm sẽ bị phạt 100 đồng. Một hôm ông Thị Trưởng đi làm bị kẹt xe giữa đường. Hàng xe dài nối duôi nhau chẳng tiến mà cũng chẳng lùi được. Quên luật cấm, ông Thị Trưởng móc điện thoại di động ra liên lạc xem Ty Cảnh Sát có trách nhiệm giải quyết vụ kẹt xe đến đâu rồi. Bị nhà báo chụp hình ông đang nói điện thoại vi phạm luật cấm. Khi nạn kẹt xe được tháo gỡ, lưu thông trở lại bình thường. Ông Thị Trưởng lái xe thẳng tới sở Cảnh Sát, ông bình thản móc túi nộp 100 đồng tiền phạt.

Khi được hỏi, ông trả lời: "Đã có luật thì phải chấp hành, bất kể trong trường hợp nào và là ai. Tôi vi phạm nên tôi phải nộp phạt".

Khi đã khẳng định: Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, nghĩa là người trên, kẻ lớn chả ra sao, thì cấp dưới, con cái nhất định cũng chẳng ra lề thói gì. Ngược lại, lời khẳng định trên cũng hàm chứa điều này: Nếu người trên, kẻ cả tuân thủ luật pháp một cách nghiêm túc, thì chắc chắn cấp dưới sẽ chẳng có cửa nào để làm càn. Chẳng cần ngồi lắc đầu nhìn những việc lỗi đạo hoặc than ngắn thở dài về sự xuống cấp đạo đức nơi gia đình, ngoài xã hội, có lẽ nên bắt chước gương người cha hoặc gương cấp trên của ông Thị Trưởng, chắc là hữu ích.

Lạy Chúa, để dọn mình chờ đón Chúa đến, con xin hứa sẽ nghe lời Gioan kêu gọi mà thực tâm cải thiện đời sống chính mình và kêu gọi người khác cùng thi hành với con.

 

35. Hãy sám hối

(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Mùa Vọng là hướng tới tương lai. Các tiên tri là những người đã nhìn thấy tương lai. Các tiên tri lãnh sứ mạng loan báo cho Dân Chúa một tương lai huy hoàng, một niềm hy vọng phấn khởi vào thời đại Thiên Sai Cứu Thế sắp đến.

Tiên tri Isaia trong Bài đọc 1 hôm nay đã mô tả thời đại Thiên Sai như một thời đại thái bình, bằng những hình ảnh thật là thi vị: “Chó sói chung sống với chiên con, sư tử gặm cỏ với bò và trẻ em chơi chung với rắn lửa…”. Đó là cảnh thơ mộng của vườn Địa Đàng với những con thú dữ nằm kề bên thú hiền mà không cắn xé nhau. Tiên tri Isaia muốn nói đến một thời đại chung sống hoà bình trên trái đất. Ở đây không nhằm vào các con thú cho bằng nói đến con người, nói đến các dân tộc trên trái đất mà tiên tri Isaia sánh ví với các con thú hiền và các con thú dữ đã trở thành bạn hữu thân thiết, thành anh em. Thời đại hoà bình ấy sẽ đến, khi mọi người đều nhận biết Thiên Chúa và từ Thiên Chúa, con người tìm đường để đi đến với nhau. Còn đối với Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng, thì thời đại của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là thời kỳ thịnh nộ, thời phán xét của Thiên Chúa đối với dân Israel. Gioan Tẩy Giả kêu gọi Dân Chúa hãy sám hối tội lỗi. Khác hẳn với giọng điệu dịu hiền trong Tin Mừng của Chúa Kitô, Gioan Tẩy Giả còn đưa ra “cái rìu và cái nia” để hù doạ dân chúng: “Đây cái rìu để sẵn dưới gốc cây: cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt đi và quẳng vào lửa”. Và đây nữa: “Tay Ngài cầm cái nia, Ngài sẽ rê lúa trong sân. Lúa chắc hạt thì thu vào kho lẫm, còn lúa lép thì làm mồi cho lửa, thứ lửa không hề tắt!”. Lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng này vang lên theo một cung điệu thắm thiết: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần tuý bên ngoài. Ông chống lại óc vụ luật, thái độ tự mãn, tự trấn an mình là con cháu Abraham. Gioan Tẩy Giả kêu gọi sự hối cải đích thực, đòi hỏi sự phát sinh hoa trái bên ngoài.

Đấng Thiên Sai đã đến và đã đến từ lâu. Kỷ nguyên mới đã mở ra. Muốn gặp gỡ Ngài cùng với triều đại của Ngài, chúng ta phải cấp tốc “bố trí” lại cõi lòng và cuộc đời của mình.

Trong phim “Người giàu cũng khóc”, mãi lâu lắm Luis mới khám phá ra Mariana chính là ánh sáng của đời mình. Sự khám phá này vẫn chưa tức thì đem lại hạnh phúc cho anh. Một quá khứ lôi thôi, với những tật xấu cùng những hậu quả xã hội của nó vẫn dai dẳng ngăn cản không cho anh bắt đầu một đời sống mới như anh hằng mơ ước khi yêu Mariana. Phải bố trí lại cách sống, phải sửa chữa lại những hậu quả xưa cũ, phải vượt qua rất nhiều khó khăn, Luis mới hội đủ điều kiện cần thiết để xây dựng một cuộc sống yêu thương hạnh phúc trong lành.

Cũng thế, không phải khi Đấng Thiên Sai xuất hiện là mọi ước vọng của con người lập tức được mãn nguyện. Bởi vì, con người vẫn có khả năng từ chối Đấng Thiên Sai, và trong thực tế vẫn thường xuyên từ chối chính bản thân của Đấng Thiên Sai, cũng như khước từ con đường Ngài đề nghị cho con người. Cõi lòng ngổn ngang tù túng của con người phải được sắp xếp bố trí lại. Mọi chướng ngại như đồi cao, hố sâu phải được san bằng, lấp đầy, thì bước chân của Đức Kitô mới tiến vào được. Lời của Gioan Tẩy Giả đã vang lên trong chiều hướng này: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy làm việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng ăn năn sám hối”.

Lại quay về với cuốn phim quen thuộc: Khi biết chắc Mariana và Leonardo hứa hôn với nhau, chàng Luis rơi vào cơn hoảng loạn. Trước tình thế có thể mất Mariana vĩnh viễn, anh lao vào cuộc như điên dại. Anh không thể làm khác, vì anh quá yêu Mariana, anh không thể sống thiếu nàng.

Trong tầm nhìn của đức tin, đối với ta, Đức Giêsu còn hơn hẳn Mariana đối với Luis. Vì Ngài là tất cả niềm hy vọng, là trọn vẹn tương lai, và cũng là sự sống hiện tại của ta. Ngài phải là tình yêu tha thiết của ta, thúc đẩy ta cấp tộc “bố trí” lại cuộc đời mình, để cuộc chung sống giữa ta với Ngài có thể thực hiện được và thực hiện ngay bây giờ, không trì hoãn. Cuộc sống chung này sẽ mở ra một kỷ nguyên êm đềm tươi thắm diệu kỳ mà ta phải cấp bách đạt được bằng bất cứ giá nào. Sự chậm trễ trong việc thay đổi cách sống là dấu chứng ta chẳng hề yêu Ngài, và như vậy thì thật là không có gì tệ hại hơn. “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”: không có tình yêu Đức Giêsu, cây sẽ không sinh trái và chỉ còn có một cách là đốn ngay đi mà quăng vào lửa.

Anh chị em thân mến. Lời mời gọi của Chúa Nhật 2 Mùa Vọng là tiếng kêu “Hãy sám hối” của Gioan Tẩy Giả. Sám hối ở đây đồng nghĩa với Kitô hoá, nghĩa là “hãy để Đức Kitô chiếm hữu con tim của ta, hãy để cho Ngài cuốn hút ta vào một kỷ nguyên mới”. Muốn vậy, hãy hâm nóng tình yêu và cấp tộc bố trí lại cõi lòng cũng như cách sống của mình.

Chúng ta lại sắp được nên một với Đức Giêsu trong Thánh lễ hôm nay, điều đó càng đòi hỏi chúng ta sửa sang lại tâm hồn ngay bây giờ và trong từng giây phút cuộc đời. Rồi thì những điều kỳ diệu sẽ đến đáp ứng cho mọi khát vọng khôn nguôi của chúng ta.

 

36. Làm việc

Cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Một cây cột gỗ có nhiệm vụ chống đỡ cho căn nhà, nếu nó mục nát không còn chống đỡ được nữa, người ta sẽ hạ xuống làm củi thổi. Một mái lá bị dột, không còn che nắng che mưa được nữa, người ta sẽ dỡ xuống để đun bếp. Mặt trời và mặt trăng có nhiệm vụ soi sáng ban ngày và ban đêm. Nếu chúng không còn tỏa sáng, thì sẽ không đủ lý do tồn tại, mặt đất sẽ tối om. Xem đó, chúng ta thấy mặc dù là vật chất vô linh, chúng vẫn làm việc nhờ đó mà trái đất xanh tươi, muôn loài sống động.

Bước vào thế giới loài vật, chúng ta cũng thấy như vậy. Con chó để coi nhà, con mèo để bắt chuột, con gà để đẻ trứng, con heo để bán thịt. Những con vật đó làm tròn bổn phận thì chủ được hài lòng. Nếu con chó thôi coi nhà, con gà thôi đẻ trứng, con mèo thôi bắt chuột, con heo thôi không lớn, chủ sẽ bực mình và lúc bấy giờ chỉ có nước hạ thịt mà thôi.

Đối với loài người cũng vậy. Trông ra đường, chúng ta thấy kẻ ngược người xuôi, mục đích của họ là gì? Tôi xin thưa, là kiếm tiền bằng cách này hay cách khác vì có làm mới có ăn, có hoạt động mới có tiền bạc. Ngay cả những nhà trí thức, chúng ta tưởng họ nhàn hạ. Không phải là như thế, họ không lao động bằng chân tay nhưng lao động bằng trí óc, và công việc lao động này cũng vất vả, cũng mệt mỏi, nhưng nhờ đó mà đem lại những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Suốt nhiều năm vùi đầu vào phòng thí nghiệm để nghiên cứu, Pasteur mới tìm ra phương thuốc chủng, Edison mới phát minh ra điện, Marconi mới hoàn thành xong hệ thống điện báo. Xem như thế, chúng ta thấy nhờ việc làm con người góp tiếng của mình vào bản hòa tấu chung của vũ trụ, cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo.

Bởi vậy, không có lý do để lười biếng, chơi bời và ăn bám. Đời ta sống lâu lắm là một trăm năm, cắt xén hai đầu lúc trẻ thơ và già cả, còn lại tám mươi năm. Trong quãng tám mươi năm này, đâu phải sung sướng hạnh phúc luôn. Nào bệnh hoạn, nào tai ương, nào chiến tranh, làm vẩn đục niềm hạnh phúc của chúng ta… thế mà chúng ta vẫn tha thiết, vẫn lo lắng, vẫn cặm cụi để bám lấy.

Còn cuộc đời tương lai, kéo dài mãi mãi thì chúng ta lại thờ ơ, không lo, không làm, như vậy đâu phải là khôn ngoan và sáng suốt. Hãy làm việc cho đời sống hiện tại và nhất là cho đời sống tương lai.

Cho đời sống hiện tại, chúng ta làm việc để nuôi sống mình và gia đình. Cho đời sống tương lai, chúng ta làm việc bằng cách sống đạo để được hưởng niềm hạnh phúc bất diệt. Đừng tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Đừng cúi gằm mặt xuống đất mà quên mất quê trời mai sau, nhưng hãy lợi dụng cuộc sống hiện tại với những thực tại trần gian làm bàn đạp đưa mình vào quê hương nước trời.

nguon:http://gplongxuyen.org/News