"Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Lời Chúa: Mt 17, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người.
Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia".
Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A 2017
Lời Chúa: St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9
1. Biến hình
Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem. Và tại đây, Ngài sẽ bị giết chết. Cái tin đột ngột này chắc hẳn đã làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Chính vì thế Ngài cảm thấy cần phải nâng đỡ tinh thần các ông bằng cách cho họ được nhìn thấy vinh quang của Ngài. Bởi đó, tám ngày sau, Ngài đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. Lại có Maisen, Elia hiện ra đàm đạo với Ngài.
Đây là một cuộc hiển linh, tương tự như cuộc hiển linh trên núi Sinai. Ở đó, Thiên Chúa đã tỏ vinh quang Ngài cho Maisen và Elia. Hai vị, vào những thời điểm khác nhau, đã được thấy và nghe Chúa, hôm nay cũng hiện diện bên cạnh Chúa. Các ông ngã sấp xuống và rất sợ hãi. Rồi từ đám mây có tiếng phán. Tiếng ấy chúng ta đã từng được nghe bên bờ sông Giođan khi Chúa chịu phép rửa: Đây là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ông ngây ngất vì chưa bao giờ được chứng kiến một cảnh tượng như thế. Phêrô lên tiếng nói, nhưng không hiểu là mình đã nói những gì.
Sở dĩ Giáo Hội đặt bài Phúc Âm về sự biến hình vào mùa Chay là để chúng ta thêm tin tưởng vào Chúa, cũng như để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay phủ đầy sóng gió dẫn tới đỉnh Canvê. Chúng ta cần được Chúa đến gần và đụng tới, như đã đến gần và đụng tới các tông đồ, để chúng ta thức tỉnh, để chúng ta biết thánh hoá những đau khổ trên đường đời.
Con đường thương khó của Chúa khởi đầu khi Người biến hình và xuống núi. Rồi đây, Người cũng sẽ biến hình, không còn hình tượng người ta nữa, để dạy cho chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn và sống lại.
Mục sư Cullman, là một nhà thần học Tin Lành, đã nói về cuộc khủng hoảng sau Công đồng Vatican II như sau: Cuộc khủng hoảng hiện nay không phải chỉ xảy ra trong Giáo Hội Công giáo. Chính Giáo Hội Tin Lành chúng tôi cũng không thoát khỏi. Một trong những lý do đó là Kitô hữu đã không chấp nhận sự điên dại của thập giá như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh né hy sinh, chạy trốn khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn được tự do theo ý riêng của họ. Họ muốn bước theo Chúa khi Ngài biến hình trên đỉnh Tabôrê, nhưng dừng lại bên ngoài vườn Cây Dầu, và nhất định không chịu trèo lên đỉnh Canvê.
2. Những sự việc bình thường
“Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.”
Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.
Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới... Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay không?
3. Chúa biến hình
Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?
Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.
Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.
Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:
- Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.
Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:
- Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.
Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
- Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?
Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.
4. Núi Tabor hôm nay
(GM Cosma Hoàng Văn Đạt)
Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.
Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.
Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:
- Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
- Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn...
- Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.
Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.
Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
5. Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
(Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những thực tại hữu hình
Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.
Nơi chốn: "một nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.
Đàng khác, "ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.
Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.
Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.
Một bức tranh để chiêm ngắm
Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.
Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).
Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.
Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.
Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.
Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường
Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).
Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.
Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.
6. Mắt đức tin, mắt của trái tim
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.
Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.
Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.
Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.
Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.
Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.
Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.
Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.
Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.
Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.
Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.
Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.
Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.
7. Người biến đổi hình dạng
(‘Manna’)
Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”
Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).
Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.
Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
8. Biến đổi
Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ trụ vạn vật, những biến cố . . . ) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần . . . Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul - vị vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot . . .Những cuộc biến đổi thật cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích gì cho chính mình cũng như cho người khác.
Bài đọc một hôm nay tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời của ông chính là Thiên Chúa , nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật huy hoàng và vững chắc.
Tin mừng hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.
Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.
Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người .
Chúa Giêsu biến đổi dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.
9. Chúa biển đổi và biến đổi để theo Chúa
(Anmai)
Thiên Chúa chọn mỗi người, mỗi dân tộc mỗi cách; Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi dân tộc mỗi cách cách tùy theo Thánh ý của Ngài. Ngài gọi, Ngài chọn để cho cho người ấy, dân tộc ấy trở thành con cái, trở thành dân riêng để thừa hưởng sản nghiệp của Ngài.
Hôm nay, qua sách Sáng Thế, chúng ta được nghe trình thuật Thiên Chúa đã chọn và gọi Áp-ram. Quả thật là một lối chọn, lối gọi sốc vì lẽ Thiên Chúa bảo Áp-ram lên đường đi theo lời Chúa chỉ vẽ. Sốc vì lẽ đang sống nơi quê cha đất tổ an bình nhưng giờ phải ra đi. Đứng trước lời mời gọi ấy Áp-ram cũng hết sức đắn đo vì không biết rằng mình đi như vậy không biết cuộc đời, tương lai mình sẽ đi về đâu. Tin vào lời Chúa, Áp-ram đã lên đường. Thiên Chúa hứa sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho Áp-ram và nguyền rủa những ai nguyền rủa Áp-ram.
Nếu chúng ta tiếp tục đọc lại lịch sử Israel và đọc lại cuộc đời của Áp-ram thì thử thách lên đường đi đến xứ sở khác chỉ là một trong những muôn vàn thử thách của Thiên Chúa thôi. Chắc chúng ta không thể nào quên được thử thách cay nghiệt nhất trong cuộc đời Áp-ram đó là việc sát tế đứa con trai duy nhất, đứa con trai đầu lòng mà ông bà có trong khi tuổi già hết sức mong manh khi có con. Thế nhưng, vẫn một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Áp-ram đã hiến tế luôn cục cưng I-sa-ác. Sau thử thách ấy, Thiên Chúa đã đổi tên ông thành Áp-ra-ham và cho ông luôn cả một cái tên là "cha của những kẻ tin".
Thế đấy ! Áp-ra-ham đã xác tín và đã tin vào Thiên Chúa. Áp-ra-ham lên đường và lên đường dẫu rằng không biết mình đi đâu và đời mình sẽ ra sao.
Khi Áp-ra-ham tin theo Chúa, đi theo Chúa thì cuộc đời của ông hoàn toàn thay đổi. Ông không còn sống cho mình nữa nhưng ông sống cho Thiên Chúa, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, qua trình thuật của Matthêu, chúng ta cũng được thấy được sự biến đổi, được thay đổi khi bước theo Chúa.
Các môn đệ, chẳng ai biết Chúa Giêsu là ai cả, chỉ là những ngư phủ hết sức bình thường, đang vá lưới bên bờ biển và sau khi nghe tiếng gọi của Chúa các ông đã bỏ cha mẹ, vợ con và đi theo Chúa. Thật ra mà nói, quyết định của các ông là quyết định liều. Cuộc sống đang ấm êm bên cha, bên mẹ, bên gia đình, bên vợ bên con bỗng dưng đi theo cái con người mà ngay cả "chim có hang - chồn có tổ" còn Con Người không có chỗ tựa đầu. Bấp bênh chưa từng có, mông lung hết sức tưởng tượng.
Quen nhau, ở với nhau một thời gian và rồi hôm nay Chúa Giêsu "mời" bốn môn đệ thân tín đi theo Ngài. Hôm nay không phải lang thang đây đó ở bờ biển này, đồng bằng kia mà hôm nay lại đi lên núi. Bảo đi thì đi chứ có biết gì đâu vì đi theo Thầy là lẽ hết sức bình thường. Thế nhưng, hôm nay lại là một ngày hết sức đặc biệt. Như Matthêu thuật lại, chúng ta thấy hôm nay Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín thấy vinh quang của Ngài, Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thấy về mình: "Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Thật kinh khủng ! Mọi ngày thì thầy Giêsu của mình hết sức bình thường nhưng hôm nay dung mạo bỗng khác, y phục khác và có cả Mô-sê và Ê-li-a hiện ra để đàm đạo nữa. Một cảnh tượng không thể tưởng tượng được và trong cái vinh quang ấy Phêrô đã nhanh nhảu nói với Chúa Giêsu để ông dựng lều cho Thầy mình ở đây để ông cùng các môn đệ chiêm ngưỡng cái vinh quang tuyệt vời này.
Sau biến cố hết sức đặc biệt này, Thầy và trò xuống núi, trở về với cái đời thường loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu hé lộ cho các môn đệ thấy về con người thật của mình, hé cho các môn đệ thấy vinh quang thật của mình.
Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, vốn dĩ mang trong mình là phận người mỏng dòn yếu đuối, ắt hẳn các môn đệ cũng ngã lên té xuống vì đức tin mỏng dòn non yếu. Thế nhưng, được ở gần Chúa Giêsu, được ở bên Chúa Giêsu và đặc biệt qua Thánh Thể và qua Phục Sinh các môn đệ ở trong Chúa Giêsu nữa. Ở bên, ở trong để rồi cuộc đời của các môn đệ khác với những người không tin. Cuộc đời các môn đệ khác với những người không tin. Dù gặp khó khăn, dù gặp thử thách nhưng các môn đệ đã lấp lánh, đã chiếu sáng cuộc đời của các Ngài ở giữa vòm trời đen tối như Thánh Phaolô mời gọi "Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao giữa thế gian".
Chiếu sáng giữa thế gian như Phaolô mời gọi không phải là tẩm xăng vào người để đốt cho người sáng lên để mọi người được thấy ! Chiếu sáng giữa thế gian không phải là mua dầu, mua đèn gắn vào trong người để mình tỏa sáng cho thế gian. Chiếu sáng giữa thế gian có nghĩa là chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Giêsu, ánh sáng của Tin mừng ở giữa cuộc đời này.
Ánh sáng mà Chúa Giêsu muốn, mà Thánh Phalô mời gọi còn phảng phất trong I-sa-i-a chương 58. Chúng ta đọc I-sa-i-a chương 58 sẽ gặp tâm tình như thế này:
Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,
trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?
Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?
Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ mau lành.
Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,
vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.
Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây! "
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở
gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,
nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thoả lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. (Is 58, 6-10)
Thế đấy! Những lời mời trên đây của I-sa-i-a cho chúng ta biết thế nào là ánh sáng của những ai mang trong mình danh Kitô hữu.
Chúng ta đang sống trong mùa Chay Thánh, I-sa-i-a vừa nhắc cho chúng ta cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích, mà Thiên Chúa mời gọi: rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân,không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông...
Xin cho chúng ta biết bắt chước như Áp-ra-ham biến đổi cuộc đời khi bước theo Chúa, xin cho chúng ta cũng biết bắt chước như các môn đệ cũng biến đổi con người hèn kém của mình để bước theo Chúa.
10. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa... đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.
Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.
Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Ngài.
* * *
Theo Tin Mừng Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài.
Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài.
* Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh...
Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
"Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo việc tay Người làm" (Tv 19, 2)
* Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn...
* Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà, chan chứa yêu thương hiệp nhất.
* Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta.
Thông thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.
Ba môn đệ nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)
11. Chúa hiển dung
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài).
Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Người là "Bác thợ" (Mác-cô 6,3) hay "con Bác thợ Giu-se, con bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13, 55)
Hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. "Ông là người phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa."
Nhưng ngoài bản tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu hiển dung
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các môn đồ bấn loạn.
Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." … "Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Dung mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: "Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
Sự hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba "nhân vật" đang chung sống:
* Một là "tôi-là". Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)
* Hai là "Tôi-muốn-là". Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…
* Ba là "Tôi-tưởng-tôi-là". Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.
Đây chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới "hiển dung", mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời Chúa
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng - vai "tôi-tưởng-tôi-là " - để nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ thế, khi phải "hiển dung" (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.
12. Vinh quang
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc (Stk 12, 2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.
Dân tộc Do-thái thuộc dòng dõi của tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng dõi con cháu của tổ phụ Abraham đã rời nước Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công Nguyên, Vua Đavid đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng Đền Thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 B.C., con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70 A.D., Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.
Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, Nước Do-thái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Do-thái (State of Israel). Và nhờ sự qủa cảm dũng lực của thần dân Do-thía từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2 ngàn năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Do-thái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc" (Stk 12, 3).
Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17, 2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.
Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môisen và tiên tri Êlia và ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt 17, 5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.
Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi Hội Đường, nhưng đã dong duổi khắp chốn qui tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dậy dỗ sự thật về nước trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong ba năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hóa lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền tin mừng cứu độ: Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa, (2Tm 1, 8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô phục sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đầy và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.
Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng (2Tm 1, 10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.
Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.
13. Con yêu dấu
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.
Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.
Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.
Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)
Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.
Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.
Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.
Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59
quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).
Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.
Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).
Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.
Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.
Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.
14. ''Bản tính khó dời'
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?
+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.
+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.
+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!
Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.
Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!
Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.
Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.
Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giêsu. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.
Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.
Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
15. Hãy biết mình
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá lớn nuốt cá bé". Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó". Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
- "Thế mày có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có nhau", nhưng lại "bới lông tìm vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi sơ tính bản thiện" của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
16. Chúa Hiển Dung
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong phụng vụ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: "Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người". Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm "Lời Dâng" như sau:
"Anh không nghe thấy ư?
Bước chân Người thầm lặng
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi".
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.
17. Con đường thập giá, con đường vinh quang
Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Đáng tiếc cho ma quỷ là nó không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về tình trạng vinh quang của Người: "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" (Mt 17, 2b).
Với vinh quang này, ba môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!" (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha từ đám mây phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.
Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Điều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: "Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. "Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy" (Mt 16, 24 ).
Vậy đâu là con đường thập giá. Đó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi" ( St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.
Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu - vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang.
18. Lên núi cao
(Lm Giuse Lê Minh Thông)
LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.
(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố này).
c) Tách biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.
Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được biến đổi hình dạng.
Sự biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.
Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”... còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như...”, “như...” còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.
Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại không cần lều.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai
Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5).
Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe Người.”
Khi gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người.
Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.
Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.
Đọc xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn đệ hay không?
Liệu độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
19. Đức Giêsu - Con đường cứu độ duy nhất
(Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu" (Mt 17:8).
Trong cuốn sách tựa đề "Gương Hiếu Thảo", tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: "Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe". Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.
Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.
Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ..., nơi mà "tứ đại đồng đường", ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?
Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: "Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14:26).
Vấn đề được đặt ra là: "Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?"
Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: "ngươi phải thảo kính cha mẹ". Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.
Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?
Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.
Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.
Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: "Mẹ ở nhà con đi làm thánh". Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.
Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).
Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu". Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. "Chỉ còn một mình Chúa Giêsu". Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây "mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên". Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.
Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: "Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu".
20. Chúa hiển dung bộ mặt nào?
(Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong đó một thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng Phêrô - một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội dung vinh quang đích thực của Thập Giá
Theo lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang. ‘Per crucem ad lucem’, người ta thường quan niệm thế, phải qua thập giá đau thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó Thập giá không bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần thưởng sau thập giá, trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm, thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là con đường dẫn tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục sinh chứ không thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ thập giá.
Ngược hẳn với lối suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn - phục sinh của Đức Giêsu. “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục sinh) mới được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là ‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung - thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.
Vì vậy đối với Kitô hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa chay phải là Thập giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Mùa chay vì thế không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và củng cố niềm tin. Tôi có ý thức điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời gọi con vác thập giá theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của Chúa, không còn coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men
21. Đường về đỉnh vinh quang
(Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.
Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.
“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.
Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.
Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình.
Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.
Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.
“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).
Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.
Vì sự sống là từ Thiên Chúa.
Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).
Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.
Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,
từng giây phút đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo hơn,
để con được hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
22. Biểu lộ chân dung
(JM. Lam Thy)
Tiêu đề bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giêsu hiển dung” (Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36), có sách ghi là “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” (Mc 9, 2-8). Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giêsu biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?
Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giêsu biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giêsu Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giêsu biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giêsu Na-da-ret.
Khi ba môn đệ theo Đức Giêsu lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “... Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giêsu đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã khuất bóng từ trước đó mấy trăm năm) được.
Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giêsu chiu phép rửa trên sông Gio-đan ("Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời, cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và những kẻ đến với Đức Giêsu Ki-tô.
Nói Chúa Hiển Dung là nhằm mục đích củng cố đức tin của các môn đệ, nhưng vì sao lại phải như vậy? Ấy là vì trước đó không lâu, Đức Giêsu đã loan báo biến cố Thương Khó lần thứ nhất cho các môn đệ: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại". Các môn đệ đã không chịu hiểu và cũng không muốn tin rằng Thầy mình sẽ đi vào con đường thập giá quá đau khổ và nhục nhã đó. Riêng Phê-rô thì đã kéo riêng Thầy mình ra và trách Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”; khiến Đức Giêsu phải nặng lời quở mắng: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Mt 16, 21-23).
Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “… ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt…” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì "các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: "Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn." Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời giờ đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!" (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo! Thế đó!
Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giêsu bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!
Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Âu-tinh). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giêsu luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện ("Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối." – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).
Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.
Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì "tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối" mà phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người soi sáng và ban thêm sức mạnh và lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).
Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giêsu, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giêsu Ki-tô, qua Lời phán dạy: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình tôi, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin với tôi, đang đồng hành cùng tôi, đều ước được như vậy. Amen.
23. Biến hình
(Linh Xuân Thôn)
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con."
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc biến đổi. Đó là cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày hôm đó, Đức Giêsu đã mang theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).
Trong cuộc biến hình đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên Tính của Thiên Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa, để thêm lòng tin cho các ông.
Hơn hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo. Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay. Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người.
Ngày nay Đức Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ. Ngài không mang tôi và bạn lên núi Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các bí tích mà ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng thánh thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình dạng để thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin yêu cậy trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước đường lữ thứ trần gian này.
Hôm nay, Đức Giêsu mời bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài. Biến hình không phải là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng biến hình là để trở về với cái tôi sâu thẳm của chính mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa”. Đó là ơn được làm con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của người Kitô.
Biến hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.
Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.
Biến hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Xin ban ơn giúp sức cho con để con cũng được “biến hình” với Chúa trong Mùa Chay Thánh này, để con được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con rằng: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…” (Mt.17,5). Amen
24. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ.
I. NGỮ CẢNH
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn mạch gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
- một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).
- đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11 ….
- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6 Khi các môn đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ” Mt 28,16-20
16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người, nhưng có mấy ông hoài nghi.
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”
- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.
25. Ý nghĩa đời sống ta là gì?
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng về cá nhân Chúa Giêsu.
Việc Chúa Biến Hình là chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm con’ của Đức Kitô.
1) Một chuyển động nội tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động mãnh liệt trong Người.
Có lẽ đã có lần ta tự hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta cũng được biến hình cách thiêng liêng.
2) Chúa Giêsu muốn để cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.
26. Dõi theo bước Chúa
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)
Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.
Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.
Thưa anh chị em,
Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.
Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.
Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.
Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.
Anh chị em thân mến,
Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.
Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.
Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.
27. Nghe Lời Người
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.
Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).
Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).
Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
Núi Tabor
Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.
Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19),hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.
Mùa Chay Thánh là mùa chiến đấu thiêng liêng, giúp mỗi người sống sống chay tịnh và hy sinh, cầu nguyện và tập nhân đức, chế ngự và làm chủ bản thân. Đây là thời gian thánh giúp từng người sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo lời dạy của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).
28. Chúa tỏ hiện vinh quang
(‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)
Trong một trăm chuyện ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho xuất bản, người ta thấy đứng đầu danh sách là chuyện có tựa đề: “Thầy Lazarô Phiền”. Đây là chuyện ngắn được một tác giả Công giáo, ông Nguyễn trọng Quảng sáng tác vào năm 1887 và được xem là chuyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mở đầu câu chuyện tác giả nhắn nhủ như sau:
Nếu có xuống Bà Rịa, đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.
Tên của nhân vật có thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm ông lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.
Qua hai lá thư giả mạo của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.
Câu chuyện trên đây có thể mang lại cho chúng ta một ánh sáng để nắm bắt được bài đọc của việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe. Có trải qua đau khổ và sự chết mới được vào vinh quang phục sinh, đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy cho ba người môn đệ thân tín khi cho các ông chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi. Thế nhưng cùng với bài học này, Chúa Giêsu cũng muốn bày tỏ một chân lý khác, đó là con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi sống thực trọn vẹn với Thiên Chúa mà thôi.
“Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe Lời Người”. Chúa Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha, bởi vì Ngài đã vâng phục Chúa Cha, cho nên đã đón nhận cuộc sống cùng tất cả những hệ lụy của cuộc sống đau khổ và cuối cùng là cái chết trên thập giá. Bí quyết của Chúa Giêsu chính là sống cho Chúa Cha, sống thuộc trọn về Chúa Cha, sống vâng phục Thiên Chúa Cha qua cuộc sống vâng phục và vâng phục cho đến chết.
Chúa Giêsu đã vạch ra cho nhân loại bí quyết của hạnh phúc và bình an đích thực khi sống và thuộc trọn về Thiên Chúa mà thôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc sống mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đào sâu mỗi khi chúng ta trở lại với Mùa Chay. Cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, thực thi bác ái, những thực hành này không nhằm một mục đích nào khác hơn là nhắc nhở chúng ta rằng, cùng đích của cuộc sống không phải là cuộc đời tạm bợ này nhưng là sự sống vĩnh cửu, nhờ sự kết hợp với Chúa chúng ta đã có thể cảm nghiệm được ngay từ trần gian này.
Kinh nghiệm hàng ngày không ngừng nói với chúng ta rằng, tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú, không bao giờ mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Có tất cả mọi sự nhưng thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì con người không bao giờ có được hạnh phúc và bình an đích thực trong tâm hồn. Trái lại, khi sống cho Chúa, sẵn sàng như Tổ Phụ Abraham, từ bỏ mọi ràng buộc để được sống trọn cho Chúa thì con người mới thực sự sống sung mãn và tìm được bình an trong cuộc sống.
Mùa Chay, chúng ta được Giáo Hội mời gọi để duyệt xét sự chọn lựa căn bản của chúng ta, trong khi mưu tìm cuộc sống, chúng ta có đặt Chúa vào trọng tâm của cuộc sống hay không? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa không? Chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc và an vui nếu chúng ta trả lời một cách khẳng định cho những câu hỏi nền tảng ấy.
29. Biến hình
(‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’ – Richard Gutzwiller)
Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:
PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.
Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.
Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.
Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.
Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.
PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.
Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.
Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.
nguon:http://gplongxuyen.org/News