Chúa Nhật 07/04/2019 – Chúa Nhật 5 Mùa Chay năm C: Chúa khoan dung kẻ lầm lỗi.

Chúa Nhật 07/04/2019 – Chúa Nhật 5 Mùa Chay năm C. – Chúa khoan dung kẻ lầm lỗi.

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

 

Lời Chúa: Ga 8, 1-11

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất.

Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

 

 

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY C 2019

Lời Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11

 

1. Tử hình hay cứu sống - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). Câu đó tỏ rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.

Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.

Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?

Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.

Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.

Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.

Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.

Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).

Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.

 

2. Thiên Chúa khoan dung

Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình khơi dậy trong chúng ta tâm tình sám hối trước tấm lòng khoan dung của Thiên Chúa.

Thực vậy, hôm ấy Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, thì bọn biệt phái dẫn đến trước mặt Ngài một người thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Và chiếu theo luật Maisen thì nàng sẽ bị ném đá cho chết. Chúa Giêsu xem ra không mấy chú ý tới lời tố cáo của họ. Người cúi xuống lấy tay viết trên cát. Đó là cử chỉ muốn từ chối xét đoán, muốn tránh né câu trả lời. Nhưng vì họ cứ một mực lên án, cho nên Ngài cảm thấy bắt buộc phải nói với họ đôi lời: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi. Câu trả lời của Chúa Giêsu vừa khôn ngoan, vừa công bằng, lại vừa nhân ái. Người đã dùng các thành ngữ của lề luật, bởi vì lề luật quy định chứng nhân phải ném đá kẻ có tội đầu tiên. Như vậy, Người cho thấy lề luật còn nhân từ và công bằng hơn họ đã tưởng. Hãy tìm kiếm tinh thần của luật, sau những hàng chữ khô khan của nó. Lề luật chỉ là phương tiện để thực thi ý định tình yêu của Thiên Chúa. Người không vi phạm luật Maisen nhưng dựa vào lề luật ấy, Người kêu gọi họ hãy trả bị cáo về cho toà án lương tâm của mỗi người. Như thế, lời mời gọi ấy tóm kết tất cả giáo thuyết của Chúa Giêsu: chỉ trích hạng người chuyên kết án kẻ khác, chỉ thấy những lầm lỗi của kẻ khác mà không đếm xỉa gì đến những tội lỗi của mình.

Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước ngực thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của chính bản thân. Vì thế, chúng ta chỉ nhìn thấy những sai lỗi của người khác mà chẳng bao giờ nhận ra những sai lỗi của mình. Chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, để trông thấy rõ và có thể lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em. Hãy đối xử khoan dung với người khác và nghiêm khắc với chính bản thân mình, chứ đừng khoan dung với bản thân mình và nghiêm khắc với người khác.

Trước thái độ của Chúa Giêsu họ bắt đầu rút lui từng người một, từ người cao tuổi nhất. Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Thánh Augustinô đã nói: Chỉ còn lại tình thương và tội lỗi. Chúa Giêsu đứng trước tội lỗi. Lòng khoan dung đứng trước sự khốn cùng. Chúa Giêsu nhìn đến sự khốn cùng của tội nhân để rồi tha thứ và kiến tạo lại hình ảnh nguyên thuỷ của con người. Khi tha thứ cho người thiếu phụ, Chúa Giêsu đã không đồng hoá tội với kẻ có tội. Người ghét bỏ tội, nhưng lại khoan dung với kẻ có tội, nên Người đã phán với người thiếu phụ: Ta không kết án con. Còn chúng ta thì trái lại, nhiều khi chúng ta đã kết án kẻ khác, nhất là kẻ có tội, một cách nặng nề, vô lý và quá đáng.

 

3. Lòng thương xót của Chúa.

Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen. Thực ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.

Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ. Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm bẫy: Họ tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.

Chúng ta biết rằng luật Maisen truyền ném đá giết chết những kẻ ngoại tình. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử tử đã bị tước khỏi người Do thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại diện hoàng đế tại Giêrusalem mới có quyền ấy. Vậy nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá người phụ nữ, thì họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn là Ngài đã phạm pháp. Còn nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng luật Maisen.

Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy của họ bằng cách giăng trước mặt họ một cạm bẫy tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai trong các ông vô tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Thế là “dĩ đào vi thượng sách”, bọn biệt phái liền đánh bài chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm hỉnh ghi lại một chi tiết: Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi kẻ trong bọn họ phải ngó lại chính lương tri của mình và khám phá ra rằng: mình càng già thì càng lắm tội.

Lời nói của Chúa Giêsu là ánh sáng chân lý vạch trần sự đạo đức giả của họ. Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Như thế toà án nhân dân bỗng trở nên vắng lặng, chỉ còn lại có tội nhân được dùng như con mồi, như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái muốn gài bẫy để đưa ra trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn lại một phạm nhân và một người cũng đang bị kẻ khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn biệt phái thì cả hai đều là những kẻ có tội đứng trước luật pháp của Maisen. Phiên toà kết thúc một cách nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa.

Có người nói Chúa Giêsu đã giải tội mà quên cả việc đền tội, quên cả công thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật khoan dung độ lượng với người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao, chúng ta đối xử như thế nào đối với những kẻ tội lỗi?

 

4. Chúa Nhật 5 Mùa Chay

Chúa Nhật tuần trước, trên đường đi lễ về, chắc các bà cảm thấy vui vẻ, thoả mãn lắm vì bài Phúc âm kể lại câu chuyện đứa con trai hoang đàng, chỉ có đàn ông con trai mới sinh tật, hư đốn làm khổ cha mẹ, làm khổ vợ con. Và rồi Chúa Nhật hôm nay, khi thánh Gioan tông đồ kể lại câu chuyện người phụ nữa ngoại tình, chắc các bà cảm thấy ngại lắm vì chợt hiểu ra không chỉ có đàn ông con trai mới đi hoang mà cả chị em phụ nữ của mình cũng đi hoang nữa.

Kính Thưa OBACE! Chẳng biết người phụ nữ trong bài Phúc Âm hôm nay phạm tội ở đâu, với ai nhưng theo như thánh Gioan kể lại, sáng sớm, khi Chúa Giêsu giảng dạy cho dân chúng trong đền thờ, thì các kinh sư và Pharisiêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp quả tang phạm tội ngoại tình. Họ làm như thế để cố ý gài bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu bảo rằng theo luật Môsê, phải ném đá chị này thì Chúa Giêsu cũng như những người bình thường khác thôi, đâu có gì đặc biệt, cũng đâu có lòng yêu thương người ta đâu. Còn nếu Chúa Giêsu bảo không ném đá thì rõ ràng Chúa đang làm trái với lề luật Do Thái. Các kinh sư nghĩ rằng, đàng nào Chúa Giêsu cũng bị mắc kẹt.

Thưa OBACE! Các kinh sư và Pharisêu đem người phụ nữ ngoại tình đến trước đám đông để Chúa Giêsu xử phạt, với ý đồ vừa muốn trừng trị người phụ nữ, vừa muốn gài bẫy kết tội Chúa Giêsu. Theo con nhận thấy, Chúa Giêsu thì khôn ngoan không thể mắc bẫy rồi, người phụ nữ ngoại tình biết lỗi đứng im lặng rất đáng thương, kẻ đáng trách tội nhất là mấy ông kinh sư và pharisêu, cả đám đàn ông lại đi ức hiếp một phụ nữ, cậy vào lề luật để muốn giết chết người ta. Cái chuyện các ông nói xấu, kết tội mấy bà giữa nhiều người, con cũng từng nghe, nhất là trong bữa nhậu: đi làm mệt, đói bụng trông tới bữa cơm mà vào bàn ăn gặp ngay nồi cơm sống, cá thì quá mặn, canh thì quá lạt; Chỉ có cái chuyện quét nhà, rửa chén, giặt đồ mà mỗi lần làm thì cằn nhằn, la con mắng cái; Xách cái giỏ đi chợ, ở nhà con khóc con la mà đi cả buổi mới chịu về; Cuối tuần, về nhà chưa hỏi anh làm có mệt không mà đã hỏi lương tuần này được bao nhiêu rồi, chỉ đưa thiếu 50, 100 ngàn mà cứ cằn nhằn hoài làm nhức cả đầu.... Dĩ nhiên các ông nói nhiều về những thiếu sót của các bà thì cũng có lý do và cũng mong muốn rằng qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu sẽ giúp giải quyết dùm. Và thật sự, bây giờ, Chúa Giêsu giúp các ông giải quyết nè.

Chúa Giêsu nói: "Ai trong các ông phạm tội hãy ném đá chị này đi". Chúa Giêsu muốn nói với các ông rằng, các ông là chồng, là đấng nam nhi, là bậc trượng phu, muốn Chúa giải quyết dùm vấn đề bực bội với mấy bà, dễ lắm, trước tiên, hãy chứng tỏ mình là đàn ông, hãy can đảm nhận lỗi của mình trước đi. Đã nhiều lần chính các ông cũng làm cho vợ buồn, vợ khổ mà. Nhận lỗi trước đi rồi Chúa mới giải quyết tiếp. Không dám nhận lỗi mình mà cứ nhớ lỗi của mấy bà hoài thì sẽ chẳng bao giờ nhận ra những điều tốt đẹp, tình thương của vợ dành cho mình đâu.

Có đôi vợ chồng nọ chẳng hiểu vì chuyện gì mà mấy tuần nay, chồng không hề nói với vợ tiếng nào, gặp vợ thì mặt mày cau có. Chị vợ sang khóc với mẹ chồng: " con có làm gì ảnh buồn thì ảnh chửi, ảnh đánh con cũng được, nhưng ảnh cứ làm thinh hoài như vậy con chịu không nổi mẹ ơi". Một hôm, đi lễ Chúa Nhật về, không biết được ơn soi sáng thế nào, chị lấy hết can đảm mời chồng chị ra bàn để chị có điều muốn nói. Khi hai vợ chồng ngồi đối diện nhau, chị mở lời: Anh ơi, vợ chồng mình sống với nhau cả đời chứ đâu phải vài ngày, em có gì lầm lỗi thì anh cứ nói ra để em biết mà sửa chứ anh cứ làm thinh vậy thì làm sao em sống được, anh biết em vốn là phụ nữ sống với chồng bằng trái tim mà. Anh cũng phải nghĩ rằng cũng có lúc chính anh cũng làm em buồn lắm chứ, anh cũng có lỗi mà. Em đề nghị với anh thế này, hai vợ chồng mình, mỗi người cầm một tờ giấy ghi hết lỗi của người kia ra, rồi trao lại cho nhau đọc, từ đó, chúng ta huề nhau, không ai giận hờn ai nữa. Nghe vợ nói vậy, người chồng đồng ý và nói trong bụng phen này sẽ kể hết tội của vợ ra để bả biết. Sau khi ghi xong, hai vợ chồng trở lại trao giấy viết lỗi của nhau cho người kia. Người chồng nóng vội cầm lấy tờ giấy vợ mình ghi lỗi của mình, mở ra xem trước, anh ngồi như trời tròng và rơi nước mắt khi thấy chỉ một dòng chữ trên tờ giấy: "Em yêu anh và không hề nhớ lỗi của anh bao giờ". Anh chạy lại ôm vội lấy vợ và cảm thấy chưa lần nào trong cuộc đời anh đón nhận được niềm hạnh phúc tràn trề trong nước mắt như bây giờ.

Kính thưa OBACE! Chúa Giêsu yêu người tội lỗi nên không hề nhớ lỗi, luôn tha thứ cho họ. Chúa nói với người nữ ngoại tình: "tôi không kết án chị đâu". Người vợ trong câu chuyện trên còn yêu chồng nên không hề nhớ lỗi chồng: "Em yêu anh và không hề nhớ lỗi của anh bao giờ". Tại sao trước đây khi đeo đuổi theo vợ, ông chồng hay nói cái câu: "trong chuyện này, lỗi tại anh, anh xin lỗi em", dù rằng lỗi ấy là chính nàng đã gây ra. Còn bây giờ, đụng chuyện là giận hờn, nóng giận, đỗ lỗi. Phải chăng tình yêu dành cho vợ đã không còn như ban đầu. Thưa OBACE! Mấu chốt vấn đề nằm ở đây.Rõ ràng, vợ chồng không còn tha thứ cho nhau được nữa là do họ không còn yêu nhau như ban đầu. Để tha thứ cho nhau cho gia đình thuận hoà thì phải vun đắp lại tình yêu. Cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tế nhị trao cho người phụ nữ ngoại tình một bí quyết vun đắp tình yêu: "chị hãy đi, và đừng phạm tội nữa".

Kính thưa OBACE, lát đây, dự lễ xong, OBACE ra về, Chúa Giêsu trao gởi cho mỗi người một bí quyết bảo vệ hạnh phúc gia đình: đừng phạm tội nữa. Khi hai vợ chồng mới quen nhau, cần phải có tình yêu tốc độ, tình yêu cháy bỏng qua những bông hồng, bằng những nụ hôn, cái nhìn nhau say đắm nhưng bây giờ đã sống với nhau mấy mặt con rồi thì phải làm sao để tình yêu vợ chồng có chiều sâu hơn, có giá trị hơn. Tình yêu chiều sâu đó là tình yêu tha thứ của Đức Kitô. Muốn sống với nhau bằng tình yêu của Đức Kitô, xin đề nghị với OBACE một việc thực hành cụ thể qua Lời Chúa hôm nay: ai chưa đi xưng tội Mùa Chay, hãy mau mắn nhận lãnh Bí tích Giải Tội, và đón nhận Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể, và quyết từ nay không phạm tội nữa để Đức Kitô luôn ngự trong lòng mình. Tâm hồn ai mà Đức Kitô hiện diện sẽ yêu người khác bằng một tình yêu tha thứ.

Kính thưa tất cả OBACE! Lời Chúa hôm nay không chỉ nhắc nhở những người trong bậc vợ chồng mà còn cho tất cả chúng ta. Hãy hoán bằng cách mau đến lãnh nhận Bí tích Giải Tội trong mùa chay thánh là điều Chúa Giêsu tha thiết mời gọi. Xin Chúa cho tất cả OBACE trong họ đạo biết thực hiện lời Chúa dạy để dọn tâm hồn sốt sắng chuẩn bị đón Chúa Phục Sinh. Amen.

 

5. Cái nhìn yêu thương

Cái nhìn đúng đắn trước cuộc sống luôn được con người đề cao, tôn trọng. Cái nhìn đúng đắn sẽ dẫn đến hành động đúng đắn. Nếu ta có cái nhìn đúng đắn trước tội lỗi chắc hẳn tôị lỗi không phải là điều gì đáng ghê tởm như người ta thường nghĩ. Tuỳ vào cái nhìn của tôi mà số phận đời mình được biến đổi. Có cái nhìn đưa dẫn con người đến chỗ bất an, tủi hổ. Có cái nhìn đưa dẫn con người đạt đến niềm vui hạnh phúc khôn dò. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy 3 cái nhìn khác nhau trước lầm lỗi của một người. Chính cách nhìn khác nhau đưa đến những cách sống khác nhau.

Cái nhìn kết án, khinh khi.

Các kinh sư và người Pharisêu cho mình là người công chính, có quyền kết án người khác. Họ quên rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng ra lề luật và xét xử. Thế nhưng tính ngạo mạn của họ dần dần đã chiếm lấy luôn quyền của Thiên Chúa. họ đã đi qua giới hạn của mình trong tư cách là người nắm giữ lề luật. Bản chất của lề luật là để hướng dẫn và bảo vệ con người. Nhưng các Kinh sự và Pharisêu đã dùng lề luật để hạ bệ người khác trước đám đông. Họ không ngần ngại đưa người thiếu phụ ra trước mặt nhiều người. Lỗi thầm kín của thiếu phụ này rất cần sự chia sẻ và cảm thông, đàng này lại bị rêu rao bêu xấu. Chưa đủ, họ còn muốn có thêm nhiều đồng minh để ủng hộ việc làm của họ. Chắc chắn nhiều người qua đường sẽ có nhiều lời đàm tiếu khinh miệt. Họ ném những cái nhìn đầy khinh chê vào thiếu phụ này. Cảnh tượng đó chắc làm cho giới Kinh sư và Pharisêu hài lòng lắm, chỉ tội cho người phụ nữ chỉ biết lặng căm, không nói được một lời.

Cái nhìn xót xa, tủi hổ.

Trước những lời tố cáo, trước những cái nhìn khinh chê, người thiếu phụ không dám nhìn lên; bà gục đầu trong tủi hổ như sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả xảy đến cho mình. Bà rất đau khổ, mong " bản án " sớm được đưa ra. Điều lam bà đau khổ nhất chính là có sự hiện diện của những người thân của bà. Những người thân yêu đang nhìn bà như bao cặp mắt khinh bỉ khác. Những đứa con bà vừa trách bà, vừa xấu hổ với người khác vì có một ngươi mẹ như thế. Rồi đến chồng bà, người trước đây rất yêu bà giờ thì lạnh nhạt và tránh xa. Người thiếu phụ như cũng gớm ghét chính bản thân mình, phút lỗi lầm đã gây ra bao hậu quả. Bà không mong tìm sự cảm thương nơi người khác, chỉ biết xót xa phận mình cho việc làm đã qua.

Cái nhìn thông cảm yêu thương.

Trong lúc mọi người đều rẫy bỏ, duy Chúa Giêsu là người hiểu rõ sự tình. Ngài thấu suốt tâm tư của bà. Ngài không theo mọi người kết án bà. Ngài phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân: tội lỗi đáng ghét nhưng tội nhân thì đáng thương. Chúa không miệt thị bà như những người khác nhưng tỏ ra rất gần gũi và quan tâm đến bà: "Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8, 11b). Ta đừng vội hiểu rằng ở đây Chúa tha thứ cách quá dễ dàng như thể tội này chẳng đáng quan tâm. Chúa Giêsu không có ý nói "Đừng lo, tội này không sao đâu". Nhưng Chúa Giêsu hoãn lại việc kết án để ban cho bà cơ hội chuộc lại lỗi lầm. "Con hãy đi, và hãy chứng minh rằng con có thể sống tốt lành hơn!"

Anh chị em thân mến, tội lỗi làm cho con người xa dần Thiên Chúa. Nó làm cho khả năng sống thiện hảo nơi con người cũng dần mất đi. Đứng trước tội lỗi ta phải có cái nhìn thể nào để cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và ích lợi?

* Ba thái độ chúng ta cần phải có:

Trông cậy vào Chúa: nhìn vào chính mình, mặc cảm tội lỗi dễ khiến ta mất trông cậy vào Chúa. Do đó ta không quá xấu hổ, tuyệt vọng khi phạm lỗi lầm. Điều cần nhất là ta phải tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót của TC. Tình yêu TC vượt xa những lỗi lầm của ta. Chính tình yêu của ngài sẽ lấp đầy hố ngăn cách để ta có thể đến được với Ngài. Ta trở nên thánh thiện là nhờ sự gắn kết giữa ta với Thiên Chúa. Ta càng gần Ngài thì ta càng thì sự thánh thiện ta càng toả sáng.

Cảm thông: Cảm nhận tội lỗi của bản thân ta sẽ dễ cảm thông trước lỗi lầm người khác. Ta không nên xem thường hay khinh miệt người nào một khi họ lỗi phạm. Ta nên nhìn họ với cái nhìn của CG: Đó là sự cảm thông phát xuất từ một tình yêu chân thành

Tha thứ: Nhìn vào Chúa Giêsu ta thấy sự tha thứ của Ngài không có biên giới. Tình yêu của Ngài vượt xa lầm lỗi của con người. Ngài muốn con người đến với Ngài để được đổi mới. Ngài không chấp tội của ta. Ngài nhìn ta không phải ở chỗ ta đã sống ra sao mà là ta có thể trở nên thế nào.

Chuyện kể về hai người bạn thân đi qua sa mạc, trong cơn đói khát, lã mệt vì bão cát và nắng cháy một người kia tát người bạn này "bốp". Người bạn bị tát ngồi xuống lấy ngón tay viết lên cát "Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã tát tôi". Hai người tiếp tục cuộc hành trình. Khi vừa nhìn thấy một ốc đảo, người bạn này vội chạy đến và bị trượt chân, vừa lúc đó có một bàn tay chạm đến và kéo anh lại. Anh ngồi xuống và viết lên đá "Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã cứu tôi". Về sau có người hỏi anh bạn này. Tại sao khi người khác làm khổ anh thì anh lại viết lên cát, còn khi người ta giúp anh thì anh lại viết lên đá? Anh bình thản trả lời: "Khi người bạn làm ta đau, hãy viết lên cát để ngọn gió của sự tha thứ thổi qua và mang nó đi cùng. Còn khi điều tốt lành đến, hãy khắc nó lên đá như khắc thành kỷ niệm trong tim, không có cơn gió nào xoá đi được". Thưa anh em, đứng trước lỗi lầm của người khác, ta hãy viết nó lên cát để ngọn gió tình yêu, tha thứ của Thiên Chúa thổi qua và mang nó đi cùng!

Cái nhìn đúng đắn quả là rất cần thiết cho cuộc sống. Xin Chúa cho cái nhìn của ta được hoà nhập cái nhìn của Chúa để cái nhìn ta được biến đổi, hầu cuộc sống ta không còn biểu hiện những khinh chê hay tủi hổ, nhưng luôn dâng trào tình yêu thương và muốn gắn kết với hết mọi người. Amen.

 

6. Làm mới con người – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Khi người Do Thái đang bị lưu đày tại Babylon, ai trong họ dám nghĩ rằng có ngày họ được trở về quê cha đất tổ? Ngay cả khi còn quyền lực và độc lập còn chưa giữ được đất nước quê hương, còn chưa bảo vệ được mình, thì làm sao một khi đã bị lưu đầy sang nơi đất khách quê người lại có thể nổi dậy và trở về quê hương, trừ phi Thiên Chúa can thiệp làm những việc kinh thiên động địa như Ngài đã làm cho dân Do Thái thời ở Aicập qua Môsê.

Sách tiên tri Isaya cho dân một niềm hy vọng. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát”. Thiên Chúa thỏa mãn khao khát của dân Ngài. Ngài đã đưa dân Do Thái đang lưu đầy ở Babylon được trở về quê cha đất tổ qua vua Kyrô, một vua người Ba Tư đã chiến thắng và đang nắm quyền trên khắp vùng. Kyrô, một vua người ngoại, nhưng đã được coi là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Is.45, 1). Một người ngoại được coi là Đấng Kitô, là một điều người Do Thái không bao giờ ngờ tới. Như vậy, hoặc Thiên Chúa đã dùng một người ngoại để giải phóng dân của Ngài, hoặc người ngoại không phải là người ngoại trước mặt Thiên Chúa. Người ngoại vẫn là con dân của Thiên Chúa như người Do Thái, và họ đã được Thiên Chúa yêu và dùng như Ngài đã yêu thương người Do Thái vậy.

Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa còn làm những điều kỳ diệu hơn tất cả những điều Ngài đã làm từ trước tới nay. Tin mừng Chúa Nhật thứ năm mùa chay cho thấy Đức Giêsu đã làm một điều đặc biệt: Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình thoát chết và làm cho những người biệt phái cùng kinh sư trở nên khiêm tốn và nhận biết mình có tội. Khi những người biệt phái và kinh sư bỏ đi không ném đá chị phụ nữ ngoại tình nữa, hàm chứa họ đã được ơn nhận biết chính mình. Đức Giêsu nói với chị phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cuộc đời mới đã khai mở với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Chị tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống chị qua Đức Giêsu; chị bắt đầu một đời sống mới trong niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. Một khi gặp gỡ được Thiên Chúa, người ta trở nên nhân hậu hơn, chấp nhận chính mình và tha nhân hơn, tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình.

“Không ai có quyền tha tội trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7). Thiên Chúa đã dùng Đức Giêsu để tha tội cho người bị bại liệt. Đức Giêsu đã tha tội cho chị phụ nữ ăn năn sám hối (Lc.7, 34). Đức Giêsu cũng không kết án chị phụ nữ ngoại tình (Ga.8, 11). Thiên Chúa không chỉ không kết án, mà còn tha tội cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể giao hòa con người với Thiên Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa muốn giao hòa với con người. Thiên Chúa đã giao hòa với con người, nhờ và qua Đức Giêsu Kitô. Tạ ơn Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu cho con người. Thiên Chúa đang làm điều mới qua Đức Giêsu Kitô.

Con người ngày nay không thể gặp gỡ Đức Giêsu vì Ngài đã lên trời, tuy nhiên nhờ đức tin con người vẫn có thể gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh. Thánh Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn nhờ biết Đức Giêsu Phục Sinh. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Phục Sinh”. Phaolô sẵn sàng mất tất cả để chỉ được Ngài mà thôi. Phaolô đã có cái nhìn khác về vạn sự vạn vật. Ngày xưa, Phaolô miệt mài đi bắt bớ các Kitô hữu, tưởng rằng như thế là làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng biến cố trên đường Đamát đã giúp Phaolô nhận ra sự thật. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đã làm cho Phaolô thành con người mới, thành người công chính không cậy dựa vào sức riêng mình nhằm chu toàn lề luật nhưng nhờ đức tin vào Đức Giêsu Kitô.

Với Phaolô, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm tất cả trong Đức Giêsu: Ngài tái tạo mọi sự, đưa mọi sự tới với Thiên Chúa. Lề luật không giúp người ta tới gần Thiên Chúa nhưng chỉ giúp con người nhận biết mình là tội nhân; chính niềm tin vào Đức Giêsu mới cho con người có nhận thức đúng đắn hơn về mọi sự, mới cho con người có sức sống, mới giúp con người thực hiện được điều mình thấy đúng, mới làm con người được hạnh phúc. Nhận thức rõ Thiên Chúa làm tất cả trong Đức Giêsu Phục Sinh, Phaolô đã miệt mài rao giảng tin mừng: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Đức Giêsu Phục Sinh thật sự là tin mừng cho tất cả mọi người. Tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh, là tin Thiên Chúa đang hoạt động và yêu thương con người vô cùng, là có thể phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa tình yêu, là có thể sống an bình hạnh phúc.

Tâm tình của Kitô hữu, là tạ ơn Thiên Chúa đã cho được nhận biết Đức Giêsu Phục Sinh. Tín hữu nhìn lên Đức Giêsu để dõi bước theo Ngài. Ngài đã sống thế nào, Kitô hữu được mời gọi để sống như vậy. Trong mùa chay, Kitô hữu được mời gọi để sám hối. Sám hối, là nhận biết chính mình cách thật sự, là nhận biết mình có lỗi lầm và mong ước quay về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em mình. Sám hối đòi người ta phải có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình và về sự vật. Thật không dễ để thay đổi chính mình, thay đổi cái nhìn của mình, quan điểm và chọn lựa của mình; nhưng Thiên Chúa là Đấng có thể làm mọi sự. Không gì mà Thiên Chúa không làm được. Ngài đã giúp những kinh sư và biệt phái muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình được nhận biết họ cũng là tội nhân, để họ thay đổi không còn kết án chị phụ nữ nữa. Thiên Chúa đã làm mới những người đến với Đức Giêsu, kể cả chị phụ nữ ngoại tình lẫn những kinh sư và biệt phái.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Niềm tin vào Đức Giêsu làm Kitô hữu có cái nhìn mới về tất cả. Bạn có đồng ý không? Tại sao?

2. Mùa chay này, bạn có biết hơn về con người của bạn không? Xin chia sẻ nếu được.

 

7. Ném hay tha? - Lm. Anmai, CSsR

Chúa Giêsu từ Cha mà xuống trần gian, không phải để tố cáo, để kết án tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ. Nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người ban tặng cho những người nhất là những người tội lỗi sự sống của Thiên Chúa. Trang Tin mừng hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại gợi lên hình ảnh, tấm lòng hết sức tuyệt vời của Chúa Giêsu về sự tha thứ, về sự cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người.

Câu chuyện xảy ra trong Tin mừng xác thực và rõ ràng. Ngoại tình là một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, với những con người vụ luật và khắc khe thì dễ dãi quá. Nhiều người trong số họ đã quên mất câu "Hãy về và đừng phạm tội nữa". Họ nghĩ rằng cách cư xử dễ dãi như thế của Chúa Giêsu sẽ đe dọa sự trung tín trong hôn nhân. Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Chúa Giêsu lên núi Ôlivê. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.

Các kinh sư và những người Pharisêu từ lâu đã bất bình với Chúa Giêsu. Không chỉ dừng lại ở thái độ bất bình nhưng họ đã thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Chúa Giêsu làm đảo lộn tất cả. Với những lý do ấy họ quyết định tìm đủ mọi cách để trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa Người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.

Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ "bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào "giữa" đám đông đang tụ họp và nói với Chúa Giêsu: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?"

Chúa Giêsu không còn cách nào thoát khỏi cạm bẫy đã giăng của đám người xấu. Không thể bào Chúa Giêsu thoát khỏi cạm bẫy này! Nếu tha, Chúa Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Chúa Giêsu.

Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Chúa Giêsu. Quá tệ! Đây không còn là một vấn nạn, một câu hỏi bình thường của cuộc sống, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người nữ phạm tội tày đình cũng như đối với chính Chúa Giêsu.

Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Chúa Giêsu "cúi xuống" và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh rất quan tâm tìm hiểu xem Chúa Giêsu viết gì trên đất? Thánh Giêrônimô nghĩ rằng Chúa Giêsu vạch tội những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình còn nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia 17, l3: "tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất". Tốt nhất chúng ta nên trung thành với cách diễn đạt của bản văn. Chúa Giêsu vạch trên đất để kéo đài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng. Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Chúa Giêsu "cúi xuống", rồi "ngước lên". Sao Thánh Gioan lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy, rồi trả lời. Tên núi Ôlviê được nhắc đền ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đền sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Chúa Giêsu sẽ hòa giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa.

Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Chúa Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: "Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi. " Đnl 13,9-10 và 11,7: "Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước. Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.

Các kinh sư và những người Pharisêu đinh minh mình công chính. Họ đứng đằng sau mặt chữ, đằng sau lề luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Chúa Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan tòa phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như "người phụ nữ kia", người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.

Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: "Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất ".

Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên "lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ". Thánh Augustinô chú giải: "Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương". Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là "hạng đàn bà đó" một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: "Này chị ". Hơn bất cứ ai khác, Chúa Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một "Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa ".

Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Chúa Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện, người nghe thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.

Câu chuyện người đàn bà ngoại tình đã đi vào huyền thoại hơn 2000 năm rồi nhưng nhiều và nhiều câu chuyện người đàn bà ngoại tình khác vẫn còn diễn ra trước mắt mỗi người chúng ta, diễn ra mỗi ngày trong đời sống thường nhật. Và, với cái lý, cái lẽ hết sức bình thường của con người, người ta vẫn giơ tay ra và hùng hùng hổ hổ ném đá và ném thật mạnh vào người tội lỗi. Và, chắc có lẽ cái cảnh từng người bỏ đi cũng sẽ tái hiện bởi lẽ nhìn lại mình mình cũng quá nhiều tội như nhiều người ngày hôm ấy nên đã từ từ rút lui.

Thật sự ra mà nói những người rút lui hôm nay xem chừng không hay, không đạt được ý nguyện nhưng được một chuyện là lương tâm và sự thật đã thức tỉnh lòng dạ đen tối của họ. Chỉ sợ rằng vấn đề rõ ràng nơi đó mà họ còn cố tình chối tội, họ cố tình lấp liếm tấm lòng nham hiểm của họ.

Đứng trước những lầm lỗi, những khiếm khuyết của người khác, nên chăng con người cần phải khiêm tốn để nhìn nhận lại chính bản thân của mình. Nếu nhìn nhận chính bản thân mình thì con người sẽ thay đổi lối nhìn cũng như lối hành xử.

Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Philip mà chúng ta vừa nghe cho ta bài học về sự khiêm tốn. Với Ngài, tất cả Ngài coi mọi sự đều là rơm rác. Ngay cả sự công chính của Ngài, Ngài cũng nại vào ơn Thiên Chúa ban cho Ngài chứ không phải do tự bản thân của Ngài. Ngài, dẫu đã trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu nhưng Ngài vẫn còn phải chạy và Ngài không nghĩ là Ngài thành toàn. Có lẽ nhờ vào lối sống, lối suy nghĩ của Ngài nên Ngài hành xử một cách khác người đó là Ngài không bao giờ lên án ai. Ngài vẫn tự nhận mình là môn đệ rốt hết, Ngài vẫn tự nhận Ngài là con người thấp hèn để rồi Ngài không bao giờ hạ nhục người khác.

Thường, con người vẫn và vẫn tìm cách để hạ nhục người khác dẫu chưa tìm ra chứng cứ. Nếu có chứng cứ như người phụ nữ ngoại tình hôm nay thì lại thêm phần bảo đảm, phần chắc chắn cho sự kết án của họ. Thế nhưng, dù thế nào đi chăng nữa, dù có chứng cứ, dù có bằng chứng nhưng chắc gì những người đưa ra chứng cứ lại là những người vô tội.

Một lần nữa, sự kết án, sự kết tội, sự ném đá với tội nhân vẫn mở ngõ ra cho con người. Con người hoàn toàn tự do sử dụng sự tự do của Thiên Chúa ban cho họ. Hoặc là họ ném đá, hoặc là họ kết án anh chị em đồng loại.

Vấn đề đặt ra là liệu rằng khi ném đá, họ - những người kết án - có thấy mình sạch tội để ném đá, để kết án anh chị em đồng loại hay không mà thôi.

 

8. Thiên Chúa đang làm điều mới.

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Tiên tri Isaia nói với dân Do Thái: không còn cần nhìn vào qúa khứ để nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào hiện tại, vì Thiên Chúa đang làm điều mới cho con người. Ngày đó Thiên Chúa đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon; hôm nay, Đức Giêsu là điều mới Thiên Chúa đang làm cho con người.

Chị phụ nữ ngoại tình

Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đây là lần đầu tiên chị phạm tội này, hay đã nhiều lần? Phải chăng người ta đã rình rập để bắt qủa tang, và họ đã thành công, để chị không còn có thể chối cãi được?

Không còn nét kênh kiệu, không còn thái độ thách thức! Chị biết mình không thể thoát cái chết bởi bao người “đạo đức”, bao người “có trách nhiệm bảo vệ cương thường” đang vây quanh chị. Sợ hãi, hối hận hiện lên gương mặt và thái độ của chị.

Không ai có thể cứu chị trừ phi có một phép lạ, trừ phi chính Thiên Chúa ra tay! Nhưng liệu Thiên Chúa có còn thương người tội lỗi như chị, có nghe tiếng van xin của chị không?

Những kinh sư và biệt phái

Những kinh sư và biệt phái nghiêm khắc. Cứ theo luật thì chị ta phải chết. Phải ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng của xã hội, để bảo vệ sự trong sáng của đạo giáo, và ai cũng phải làm như vậy thôi.

Họ giải chị ta tới với Đức Giêsu, người hay giảng dạy yêu thương tha thứ, người hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của những tội nhân. Xem ông ta dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người thực và những giáo huấn của ông ta. Có thể họ cũng chẳng muốn gài bẫy Đức Giêsu, nhưng để làm “cho ra lẽ” một giáo huấn “nhân từ” hay “Thiên Chúa thương xót” không thể có chỗ đứng trong xã hội.

Hãy chờ xem.

Đức Giêsu- Đấng thương cảm và tha thứ

Đức Giêsu cảm thấy khó giải quyết. Ngài cúi xuống và bắt đầu viết. Có người nói Ngài viết tội của từng người hiện diện. Có thể, nhưng cũng có thể giải thích: đó là thái độ bối rối không biết giải quyết ra sao.

Vì người ta tiếp tục ép Ngài phải trả lời, Ngài đứng lên và nói: “ai trong các ông vô tội, hãy là người đầu tiên ném đá chị ấy đi”, rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Ngài không thách thức ai. Ngài trách ánh mắt thách thức họ, để có thể vì tự ái họ “làm liều”. Có thể Ngài cầu nguyện cho họ được trung thực với chính mình. Vì chính khi trung thực với chính mình, thì họ không thể ném đá chị phụ nữ.

Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá chị phụ nữ. Đức Giêsu đã thành công. “Không có ai kết án chị ư?” Thưa thầy: “không”! Tôi cũng không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ có mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó lại không muốn ném đá chị. Bởi vì người đó nhân từ, cảm thương con người tội lỗi hơn là lên án họ.

Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Có lẽ từ đó trở đi, chị ta là con người mới vì chị ta đã cảm nhận được một tình yêu. Tình yêu tha thứ và tôn trọng. Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời. Thiên Chúa làm mới chị, và cũng là một phép lạ đối với những người kinh sư và biệt phái, vì hôm nay họ trung thực với chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa qua hành vi “nhận biết chính mình”.

Phaolô trở thành con người mới nhờ biết Đức Giêsu

Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu. Phaolô sẵn sàng mất tất cả, để được Đức Giêsu. Tương lai của Phaolô ở trong tay Chúa, sự công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa. Phaolô không cậy dựa vào sức riêng mình. Hiện tại Phaolô không cho mình là người thành toàn, nhưng Phaolô vẫn tiếp tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng đã làm và sẽ làm những điều tốt nhất cho Phaolô.

Một điều rất quan trọng với Phaolô: quên phía sau và lao mình tới trước, nhắm đích Thiên Chúa kêu gọi ngài trong Đức Giêsu. Đức Giêsu đã là tất cả cho Phaolô.

Ngài là ai đối với tôi?

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Điều gì đánh động bạn nhất trong trình thuật “chị phụ nữ ngoại tình”?

2. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chi phối đời Phaolô đến thế?

3. Đức Giêsu có chi phối đời bạn không? Tại sao? Đến độ nào?

 

9. Cái nhìn và cách nhìn

Trong cuộc sống, chúng ta có thể công nhận rằng cái nhìn ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Tuỳ vào cái nhìn của ta mà số phận đời mình được biến đổi. Vì thế, cái nhìn đúng đắn luôn được đề cao. Cái nhìn đúng sẽ giúp hành động đúng. Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy 3 cái nhìn khác nhau trước lầm lỗi của một người. Chính cách nhìn khác nhau đưa đến những cách sống khác nhau.

Trước tiên là cái nhìn kết án, miệt thị. Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái mà trực tiếp là các người Pharisêu và kinh sư chú trọng đến hình thức lề luật. Đối với họ luật lệ là quan trọng. Họ càng không giống Chúa Giêsu: "luật vị nhân sinh". Vì tinh thần nệ luật nên họ coi thường con người. Từ cái nhìn đó đưa họ đến những cách ứng xử thiếu tình người, thiếu tình bác ái, không còn thể hiện tình Chúa, tình anh em gì nữa cả. Từ cái nhìn chú trọng hình thức lề luật đưa họ đến chỗ dễ dàng đưa ra những quyết định tiêu cực, gây khó khăn cho con người, tệ hơn nữa đưa con người đến chỗ bế tắc. Vì chú trọng hình thức lề luật nên họ tự cho mình có quyền kết án người khác. Họ quên rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng ra lề luật và xét xử. Bản chất của lề luật là hướng dẫn và bảo vệ con người nhưng các Kinh sư và Pharisêu đã dùng lề luật để hạ bệ người khác. Vì thế, họ không ngần ngại đưa người thiếu phụ ra trước mặt nhiều người. Đúng ra họ phải thông cảm và đối xử công bằng và có "tình người". Tuy nhiên trong đoạn phúc âm mà chúng ta suy gẫm (Ga 8, 1 - 11), Thánh Gioan nói cho chúng ta biết các kinh sư và pharisêu dùng nó nhằm gài bẫy Đức Giêsu. Họ muốn đặt Ngài "bị kẹt" trong trình huống khó xử này để tìm cách tố cáo Người. Thời ấy, ai vướng vào một trong 3 thứ tội: thờ hình tượng, sát nhân, ngoại tình đều phải bị án tử. Trong sách Lêvi (Lv 10, 10) viết: " Nếu người nam nào phạm tội tà dâm với vợ của người lân cận, cả hai phải bị xử tử." Đây là một giới luật rất nghiêm khắc mà người Do thái phải vâng giữ cách triệt để. Các kinh sư và người Pharisêu đưa người phụ nữ ngoại tình trước Đức Giêsu, chủ đích của họ không phải là vấn đề lề luật nhưng là dùng mưu kế để bắt bẻ Ngài. Người phụ nữ ngoại tình chỉ là con bài để phục vụ cho ác tâm của họ. Nếu Ngài đồng ý cho ném đá thì sẽ bị kẹt vào hai điều: một là vi phạm luật của chính quyền Roma vì chỉ có chính quyền Roma mới được quyền xét xử tử hình mà thôi; hai là Ngài sẽ bị mất đi uy tín và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và một bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Môsen, không ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được? Thực ra, họ đâu cần Đức Giêsu làm quan toà. Họ muốn dùng dùng dịp này để khiêu khích, để đấu lý và có thể là để kết án Đức Giêsu. Các kinh sư và người Pharisêu đã sai lầm trong cách nhìn và đã tiếp tục sa lầy trong sai lầm khi muốn gài bẫy Đức Giêsu.

Kế đến là cái nhìn tủi hổ. Trước những lời tố cáo, người thiếu phụ không dám nhìn lên mà gục đầu trong tủi hổ như sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả xảy đến cho mình. Những ánh nhìn khinh bỉ, vừa xấu hổ vừa trách mắng của người thân yêu. Những người trước đây yêu thương giờ trở nên lạnh nhạt xa tránh chị. Có lẽ, chị như cũng gớm ghét chính bản thân mình vì lỗi lầm mình gây nên. Có thể, chị không mong tìm sự cảm thương nơi người khác, chỉ biết xót xa cho phận mình, cho việc mình làm đã qua. Chị muốn bản án được kết thúc nhanh.

Cuối cùng là cái nhìn tha thứ và yêu thương. Trong lúc mọi người rẫy bỏ, chỉ có Đức Giêsu là người hiểu rõ sự tình. Hơn ai hết Ngài hiểu rõ tâm trạng của người thiếu phụ. Ngài thấu suốt tâm tư của chị. Ngài im lặng vì không đồng tình với thái độ của những người kết án chị. Ngài phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân: tội lỗi đáng ghét nhưng tội nhân thì đáng thương. Ngài không miệt thị chị như những người khác nhưng tha thứ và yêu thương: "Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa". Cái nhìn yêu thương giúp Ngài sẵn sàng tha thứ và tạo cho người thiếu phụ một lối đi, một con đường mới để làm lại cuộc đời, làm lại cho mình cuộc hành trình trong tình thương của Thiên Chúa.

Đức Giêsu tha thứ cho người tội lỗi. Chúng ta hãy chạy đến bí tích Hoà Giải để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: "Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa". Chắc hẳn, mỗi người Kitô chúng ta, đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, hãy sám hối và biết tha thứ cho tội nhân. Chúng ta đừng kết án tha nhân nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ giúp họ trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.

Đức Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại với lệnh truyền: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Điều này nghĩa là: "Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con". Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ này, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình này. Trên Thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình và vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.

Người Kitô hữu Công Giáo là người tin và bước theo Chúa Kitô. Bước theo nói lên từ bỏ lối sống cũ, sống cho hành trình mới, hành tình tin yêu và hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Trông cậy vào Chúa chúng ta nhìn vào chính mình, nhưng không mất trông cậy vào Chúa. Tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Ngài vượt xa những lỗi lầm của chúng ta. Chính tình yêu của Người sẽ lấp đầy hố ngăn cách để chúng ta có thể đến được với Người. Thiên Chúa lặng thinh với những sai phạm của chúng ta, không phải Ngài không nhìn thấy nhưng chờ đợi để chúng ta quay về. Chúng ta trở nên thánh thiện là nhờ sự gắn kết với tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta càng gần Thiên Chúa thì sự thánh thiện và tình yêu của chúng ta càng toả sáng.Hơn nữa, khi cảm nhận tội lỗi của bản thân, chúng ta sẽ dễ cảm thông trước lỗi lầm và khuyết điểm của người khác. Không lên án, ghét bỏ tội nhân. Ta nên nhìn họ với cái nhìn của Đức Giêsu là sự cảm thông phát xuất từ một tình yêu chân thành. Đồng thời bắt chước Đức Giêsu sống tha thứ. Tình yêu của Ngài vượt xa lầm lỗi của con người. Ngài muốn con người đến với tình yêu của Người để được đổi mới. Lời phán xét của Người không tàn nhẫn nhưng nhân hậu. Ngài không chấp tội của chúng ta. Trong hành trình đức tin, chúng ta hãy bắt chước Chúa Kitô, biết nhìn về Chúa, sống yêu thương như Chúa.

Lạy Chúa Giêsu. Xin chúng con biết nhìn và cư xử giống Chúa để chúng con luôn dâng trào tình yêu thương và muốn gắn kết với hết mọi người. Amen.

 

10. Ai sạch tội? – Lm  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong tin mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ là của Luca, một tác giả đặc biệt đề cao chủ đề lòng thương xót của Chúa. Trong văn học, một chủ đề chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.

Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.

Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của giáo hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm bị ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.

Nhất tiển diệt song điêu. Một mủi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.

“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).

Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).

Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.

Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.

Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).

Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.

 

11. Chúa Giêsu với người tội lỗi – Lm. Damien, OFM

Tiếp theo dụ ngôn người cha nhân từ trong Chúa nhật IV Mùa chay vừa rồi, hôm nay lại một câu chuyện có thật, và Chuá Giêsu đã thực thi những gì Ngài đã dạy trong dụ ngôn ấy:thái độ thinh lặng, một sự thinh lặng đầy nhân từ và tha thứ, không lên án. Cuối cùng Chúa nói lời tha thứ: "Tôi không kết tội chị, chị hãy về bình an". Một lời nói, một thái độ ngoài sự chờ đợi của người đàn bà khốn khổ kia, cũng như đối với phần đông chúng ta hôm nay.

Thái độ của Chúa Giêsu trước người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình nói với tôi rất nhiều. Là người tội lỗi, nhưng qua câu chuyện nầy thì tôi thấy Chúa vẫn thương tôi, không bỏ tôi. Đã từ lâu, Chúa đã làm thinh trước những tội lỗi của tôi, một sự thinh lặng đầy khoan dung và chờ đợi. Tôi cảm động và tạ ơn Chúa. Cũng vì Chuá cứ thinh lặng trước tội lỗi của tôi.Thế mà nhiều khi tôi cứ tưởng chẳng can gì và cứ tiếp tục sống bình an với tội lỗi đầy mình, làm như là chẳng có gì xảy ra cả. Chúa đã nhìn người đàn bà khốn khổ kia, và hôm nay Chúa cũng đang nhìn tôi với cặp mắt đầy nhân ái. Thái độ đó của Chuá còn đánh động lòng tôi hơn muôn vàn lời trách mắng hay cảnh cáo.

Ai thấy mình không có tội thì ném đá trước đi.

Thánh Luca nói rõ, biệt phái và luật sĩ dẫn người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đến trước mặt Chúa để gài bẩy Người. Và ở đây kết cục của câu chuyện cho thấy câu thánh vịnh xưa thật đúng: "Chúng mắc bẫy chính chúng bày ra." "Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và cứ theo luật Môsê, hạng phụ nữ nầy phải bị ném đá, còn Thầy, Thầy dạy sao?" Chúng ta cứ tưởng tượng, sau khi hỏi Chúa như thế xong, với những nụ cười hóm hỉnh và ranh mảnh trên mọi khuôn mặt, họ thì thầm với nhau cách thích thú rằng: Lần nầy thì có mà chạy đàng trời! Thật ra nếu Chúa bảo, ừ thì cứ ném đá đi, thì đó là một lời nói sẽ xóa đi tất cả những gì Chúa đã nói trước đây: "Tôi đến để cứu vớt chứ không phải để lên án". Và những người tội lỗi và thu thuế từ trước đã chạy theo Chúa, đặt tất cả hy vọng vào Chúa, nay nghe lời lên án đó của Chúa thì họ sẽ hoàn toàn thất vọng và xa lánh. Thế là coi như Chúa đã thất bại. Nhưng nếu Chúa bảo, không được ném đá, họ càng vui hơn vì rõ ràng Chúa đã phạm một sai lầm lớn là cả dám chống lại luật Môsê. Chỉ ngần ấy thôi thì họ cũng dư bằng cớ để bắt và lên án Chúa rồi. Nhưng chúng mắc bẩy chính chúng bày ra: Sau khi nghe Chuá nói: "Ai thấy mình không có tội thì ném đá trước đi". Chúng ta cứ tưởng tượng, khi nghe xong câu nói bất ngờ đó, vẻ hí hửng trên mọi khuôn mặt bỗng chốc biến mất, thay vào đó là những khuôn mặt dài ra vì vừa bỡ ngỡ lại vừa lo lắng sợ hãi; thế là họ tìm cách rút lui có trật tự. Họ đến với vẻ tự đắc hí hửng bao nhiêu, thì nay lại rút lui im lìm bấy nhiêu.

Họ lên án người phụ nữ khốn khổ vì họ tự đắc, tưởng mình vô tội. Nhưng lời Chúa đã đưa họ về với sự thât của lòng mình. Ít ra cũng phải khen họ còn trung thực với chính mình nên tìm cách rút êm, vì nhận ra mình cũng tội lỗi.

Lời Chúa hôm nay cũng đưa con về với sự thật của lòng con. Xin cho con cũng biết trung thực với chính mình, để đừng bao giờ lên án ai, phê bình chỉ trích ai cả. Và nghĩ cho cùng, thì con đâu dám chê ngừơi biệt phái và luật sĩ xưa, vì nhiều khi con biết mình chẳng tốt lành gì hơn ai, thế mà con lại cứ nói xấu, chỉ trích và lên án kẻ khác. Chúa đã dùng dụ ngôn cái xà và cái rác trong mắt để cho con hiểu, thế mà nhiều khi con lại không muốn hiểu.

Tôi cũng không lên án chị.

Người đàn bà khốn khổ kia vừa mừng lại vừa sợ: mừng vì nhờ Chúa mà chị ta không bị người Do thái ném đá; sợ vì chị ta đang hồi hộp chờ đợi Chúa sẽ nói những gì với chị đây?! Và khi nghe Chúa nói: "Tôi cũng không lên án chị, chắc chị ta đi từ bỡ ngỡ, đến vui mầng, một lời nói ngoài sự chờ đợi của chị cũng như của những người đứng chung quanh Chúa hôm nay. Con người tội lỗi như chị mà lại không bị lên án sao? Chị cũng như mọi ngươi bỡ ngỡ khám phá ra một lòng nhân từ không thể có được nơi loài người. Và khi đó mọi người mới thấy được hết ý nghĩa của lời Chúa: "Tôi đến không phải lên án,nhưng để cứu vớt"; mới hiểu được tại sao Chúa lại thường ăn uống với những người tội lỗi. Và nhất là hôm nay tôi cũng hiểu ra rằng tại sao Chuá lại không phạt một người tội lỗi như tôi.

Lòng nhân hậu.

Hôm ấy là ngày Chúa nhật, một tai nạn xảy ra tại đường Tự Do, Sàigon. Người ta bu lại xem rất đông. Người bị tai nạn nằm chết, máu me vương vãi chung quanh. Đó là một người đàn bà nghèo đi bán chổi, khoảng 40 tuổi. Chị nằm ngửa phơi mình giữa nắng, hai mắt vẫn mở to. Chiếc xe tung chị đã bỏ chạy trốn. Xe hơi có, honda có, xe đạp có, người ta bu lại coi. Có nhiều người ăn mặc sang trọng. Cảnh sát thì chưa đến. Bổng trong đám đông, một chị bán xôi, rẽ đám đông bước tới bên nạn nhân, cởi chiếc áo ngoài và đắp lên mặt nạn nhân rồi lẳng lặng ra đi. Mọi người đều thinh lặng, nhìn theo chị. Một sự thinh lặng cảm phục và đầy hối hận.

12. Ghét tội, chứ không ghét kẻ có tội

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi Giáo hội tạm dừng để (Laetare), nghỉ ngơi và chúc mừng con cái mình đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh, nghỉ để cảm tạ và xin ơn Chúa để có thêm can đảm bước tiếp vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ nhà thờ sẽ chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ Năm Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần lễ cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là gia đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo tuỳ theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Anh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi con người hoán cải heo Tin mừng thánh Luca. Tuy nhiên, bài đọc của Chúa nhật thứ V trích từ Tin mừng Gioan. Trong các bản văn của các Giáo phụ, trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ ngoại tình lúc được đặt trong Tin mừng thánh Luca lúc được đặt trong Tin mừng thánh Gioan, và mãi đến thế kỷ thứ II, tức khoảng năm 150 mới có được vị trí cố định như hiện nay.

* Lời Chúa Phụng vụ năm A

- Ez 37, 12-14: Dân đã chết sẽ được sống lại

- Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và rất giầu ơn cứu độ

- Rm 8, 8-11: Đấng làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ cho anh em được sống

- Ga 11, 1-45: Lagiarô chết và sống lại

* Lời Chúa Phụng vụ năm B

- Gr 31, 31-34: Thiên Chúa ký Giao Ước mới với Dân Ngài

- Tv 51, 3: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch!

- Dt 5, 7-9: Người đã học vâng phục, và trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời

- Ga 12, 20-33: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thôi đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt

* Lời Chúa Phụng vụ năm C

- Is 43, 16-21: Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống

- Tv 126, 1: Đức Chúa đã làm những điều kỳ diệu: ta thấy mình chứa chan niềm vui

- Phil 3, 8-14: Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt để trở nên giống Người

- Ga 8, 1-11: Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình

Bước vào Tuần Thương Khó, nhiều nhà thờ hiện nay vẫn giữ lại hình thức lấy khăn tím che đậy Thánh giá và các ảnh tượng [ trừ Đàng Thánh giá]. Nếu Thánh giá và ảnh tượng thánh được che kín, là vì Giáo hội muốn tập trung vào mầu nhiệm được cử hành: Hy Lễ Thánh đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. “Lạy Chúa Trời, xin xử cho con, biện hộ cho con chống lại phường bất nghĩa; Xin cứu con thoát khỏi người xảo trá gian tà, chính Ngài là Thiên Chúa bảo vệ con” (Ca nhập lễ).

Đức Giêsu luôn thể hiện Ngài là Đấng nhân từ thương xót khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng xót thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa, không ai đã thấy bao giờ”, Gioan đưa ra dẫn chứng đầy sức thuyết phục “Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1,18)... Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Co 1,3). Đức Giêsu ghét tội và yêu thương kẻ có tội. Ngài không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân. Vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (Ez 33,11).

Bài Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay là một bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án người phụ nữ này, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Thật vậy, chỉ có một mình Chúa Giêsu Kitô mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Ngài mang lấy tội lỗi của con người và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Đoạn Tin Mừng này cho thấy rõ ràng rằng sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với một sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa, là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và Ngài dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống làm lại cuộc đời. Trong khi con người chúng ta có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Kitô chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Chúa Kitô đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao mà chúng ta không cảm nghiệm một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Làm sao mà không nhìn thấy nơi đó một "Tin Vui Mừng" cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ? Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng con người chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.

Chúng ta hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria mà cầu khẩn Mẹ như là Mẹ của lòng từ thương xót. Nơi Mẹ, Tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Được Đức Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến vào Tuần Thương Khó, và nhớ lại lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Ngài nói với mỗi người chúng ta rằng: Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. (Ga 8,11). Xin Mẹ Maria giúp chúng ta tiếp nhận với niềm vui đã được canh tân, (tiếp nhận) hồng ân cứu rỗi, ngõ hầu chúng ta gặp lại được sự tin tưởng và niềm hy vọng để bước đi trên con đường mới. Amen.

 

13. Khiết tịnh và lòng nhân ái

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Tôi biết là bài Tin Mừng không nói gì về đức khiết tịnh, ngược lại là đàng khác, nó đang thuật lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình, tức là người lỗi phạm một điều nghịch với sự khiết tịnh ngay trong bậc vợ chồng. Các kinh sư và Pha-ri-sêu rõ ràng đang nhân danh luật Mô-sê để bắt mọi người Do Thái phải sống trung thủy. Nhân danh luật lệ khắt khẽ thì, bất cứ ai không trung thủy nhất là phụ nữ, sẽ lập tức bị lên án; và trong trường hợp bị bắt quả tang có thể lãnh án phạt nặng nề là ném đá cho tới chết. Tạo nên một xã hội lành mạnh có nền luân lý vững chắc là mục tiêu của luật Do Thái, cũng như của luật pháp mọi tôn giáo hay quốc gia. Riêng về diện này thì luật Mô-sê rõ ràng rất cao đẹp, vượt trội so với luật pháp của các dân tộc cùng thời; và đã từng là niềm kiêu hãnh của Do Thái trước các dân tộc khác (xem Đệ Nhị Luật 26:16-19). Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng quả là một giá trị lớn cần được bảo vệ trong bất cứ xã hội lành mạnh nào!

Nhưng đối với Tin Mừng mà Đức Giêsu đến để rao giảng, và còn minh chứng bằng chính mạng sống mình, thì giá trị của sự trung thủy vợ chồng, cũng như bất kỳ một giá trị luân lý nào, đều không thể nào sánh được với lòng nhân ái và xót thương. Sự khác biệt chính (thậm chí đối đầu) giữa Đức Giêsu và các kinh sư Pha-ri-sêu, giữa Cựu Ước và Tân Ước chính là hệ tại ở việc đặt giá trị nào lên trên, lòng nhân ái hay luân lý (khiết tịnh hôn nhân trong trường hợp cụ thể này)? Các kinh sư và Pha-ri-sêu thì đã dứt khoát: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.” Đức Giêsu cũng dứt khoát không kém: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ này đừng phạm tội nữa!”

Cựu Ước chọn giá trị luân lý và đặt nó lên hàng đầu, ngược lại Tân Ước thì đặt lòng nhân ái thương xót lên hàng đầu; sự khác biệt đối chọi như vải mới / áo cũ, rượu mới / bầu da cũ!

Đức Giêsu không hề có ý muốn phế bỏ các giá trị luân lý! Không đời nào! Người đã chẳng long trọng tuyên bố: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ… nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17-18) là gì? Điều duy nhất mà Người muốn loan truyền và khắc ghi vào tâm khảm các môn đệ chính là: ‘sự vĩ đại tuyệt đối của lòng nhân ái’, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13). Đúng thế, sự chết và phục sinh của Người đâu có mục đích bảo vệ một giá trị luân lý nào, nhưng là tiếng nói tuyệt đối của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa!

Như vậy chúng ta mới nghiệm ra rằng: bao lâu mình còn đặt các giá trị luân lý lên thế thượng phong thì mình vẫn cứ luẩn quẩn trong Cựu Ước. Cựu Ước tất nhiên là không xấu, rất tốt nữa là đàng khác, có điều Kitô hữu phải là Tân ước của Tin Mừng Đức Kitô Giêsu; mà đã là Tân Ước thì giá trị của lòng nhân ái phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết là đối với Thiên Chúa: nắm giữ các giới răn Chúa truyền là điều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn gấp bội khám phá và đi sâu vào lòng từ bi - thương xót của Người trong Đức Giêsu Kitô. Còn trong việc mục vụ (trong tư cách linh mục), tôi dành nhiều thời giờ và sức lực cho việc giáo huấn luân lý là điều cần thiết, nhưng còn quan trọng hơn nhiều, nỗ lực ghi khắc vào tâm khảm các tín hữu (nhất là người trẻ) nhận biết lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và cũng đối sử như thế đối với tha nhân; nếu không làm điều này, ta sẽ không phải là một Kitô hữu đích thực, một môn đệ đích thực của Đức Kitô Giêsu. Riêng Linh Mục, trong tư cách là một ‘Kitô thứ hai’ – alter Christus, chứ không phải là ‘alter Mosis’, nếu tôi không trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa đến cho mọi người’ (như Don Bosco vẫn nhắc nhở các tu sĩ Sa-lê-diêng của người như thế) thì quả là một phản bội đấy: dạy dỗ và sửa bảo luân lý là điều cần làm… nhưng tỏ lòng nhân ái là điều còn cần thiết hơn. Giai thoại về người đàn bà ngoại tình cho thấy: theo gương Đức Giêsu, điều cần làm hơn hết khi phải giáp mặt với một lỗi phạm luân lý (đặc biệt trong lãnh vực khiết tịnh) là hãy tỏ lòng thương xót, từ nhân. Chắc chắn đó không phải là thái độ xuề xòa dễ dãi cho qua, vì phải là “từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng còn đi xa hơn thế, là thái độ thương cảm của chính Thiên Chúa được Đức Giêsu diễn tả: “Tôi không lên án chị đâu!” Bởi vì xét cho cùng, ai trong chúng ta cũng cần được Thiên Chúa xót thương và tha thứ cả, có lẽ mình cần hơn bất cứ ai khác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi.”

Tất cả chúng ta đều cần tới ơn cứu độ của Thập Giá và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa!

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho con biết, mỗi khi giáp mặt với lỗi phạm nơi bản thân mình cũng như nơi tha nhân, quyết tâm không ngừng vun trồng nơi mình và nơi những người con phục vụ không những các giá trị luân lý cao đẹp, nhưng còn biết quyết liệt hơn sống lòng nhân ái và xót thương của Chúa. Xin giúp con không bao giờ kết án bất cứ ai chỉ vì các lỗi phạm của họ, nhưng luôn biết xót thương như Chúa hằng thương xót. Amen.

 

14. Đổi mới – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

Con người được sinh ra hiện hữu trong thời gian và không gian. Cuộc sống con người được gắn kết với môi trường xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo riêng biệt. Mỗi người mang một dòng máu, một quốc tịch và định mệnh khác nhau. Tiểu sử của mỗi người liên kết với lịch sử của một bộ lạc, một dân tộc và một quốc gia. Có một mối tương quan liên đới số phận chung của con người cùng thời đại. Vận nước kéo theo vận người. Vì thế mỗi người có trách nhiệm và bổn phận chung trong xã hội, cũng như riêng tư trong đời sống cá nhân gia đình. Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây làmột lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.

Dân ngưỡng vọng về một tương lai tươi sáng, Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân những dự phóng tương lai đầy hy vọng: Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn (Is 43, 19). Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.

Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?(Ga 8, 4-5). Họ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình.

Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếng: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! "(Ga 8, 11). Một lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn.

Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Tâm chúng ta đã thuận theo để kết án người khác. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi.

Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. Và cuối cùng chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, tôi thấy người ta nói và làm như vậy. Kiểu ném đá giấu tay. Người ta là ai chứ! Dùng chữ ‘người ta’ làm hỏa mù để dấu tội mình và trốn tránh trách nhiệm. Như thế, truyện của người khác mà lại làm cho chúng ta trở nên dơ tay, bẩn lưỡi và xấu lòng. Thật là không đáng!

Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Thánh Phaolô đã xác tín: Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô(Phil 3, 8). Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.

Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Một sự đổi mới đức tin kỳ diệu: Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước (Phil 8, 13). Saulôthay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.

Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.

 

15. Chúa xót thương

(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)

Chuyện đời không thiếu việc con người kết án lẫn nhau.

Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của người đời.

Trình thuật Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng: Chúa kết án tội chứ không kết án người tội lỗi.

I. ĐÁM ĐÔNG VÀO HÙA

Một buổi sáng nọ, một đám đông các kinh sư và người Pha-ri-siêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình đến trước mặt Đức Giêsu. (Ga 8, 3). Họ đã chất vấn Đức Giêsu về việc xét xử bà này. "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mô-sê truyền dạy chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (Ga 8, 5).

Mới thoáng qua thì đàm đông này xem ra có lý lẽ, nhưng sâu xa, họ đang cố tình gài bẫy Đức Giêsu hầu có cớ bắt Người. Mặt khác, dường như họ đang toa rập với nhau, âm mưu tìm cách "giết người diệt khẩu" càng sớm càng tốt để ngầm bao che cho kẻ tòng phạm, vì theo luật thì người đàn ông tòng phạm với bà ta cũng phải bị ném đá (x Ed 16, 38-40).

Đức Giêsu biết rõ tâm địa gian manh của họ. Bằng thái độ lặng thinh viết trên đất, xem ra Người không chú ý đến những người xung quanh và dường như muốn từ chối nói chuyện với họ.

Vì sự cố chấp của đám đông "họ cứ hỏi mãi" (Ga 8, 7), Đức Giêsu đã trả lời: "Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi" (Ga 8, 7). Lời Đức Giêsu đã xoáy vào tim đen của đám đông khiến họ phải suy nghĩ và đã rút êm "lần lượt bỏ đi, bắt đầu là những người lớn tuổi" (Ga 8, 9). Hẳn những viến đá mà đám đông lăm le ném người đàn bà ngoại tình nay đã ném thẳng vào lương tâm những kẻ sống hùa và buộc họ phải suy nghĩ mà thay đổi hành vi của mình.

II. CON NGƯỜI YẾU HÈN

Phần người phụ nữ, chị đã bị bắt quả tang đang ngoại tình. Tội chứng ràng rành, không còn gì để nói nên chị ta chỉ thinh lặng và cũng không thiết nghĩ đến chuyện tố cáo kẻ tòng phạm. Chị ta chỉ còn biết phó mình cho sự định đoạt của đám đông và người ta đã buộc chị phải đứng giữa đám đông để chịu xét xử.

Lẽ tự nhiên, Thiên Chúa ban cho con người khả năng giới tính để truyền sinh. Hoạt động giới tính tự nó thật tốt đẹp và phù hợp với sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên một khi người ta lạm dụng hoạt động này, cụ thể là thực hiện ngoài hôn nhân và trái tự nhiên thì sẽ sinh hậu quả tai hại làm hủy hoại thuần phong mỹ tục.

Ấy vậy mà, Kinh Thánh đã từng thuật những chuyện hủ hoại: Vua Đa-vít đã từng phạm tội cướp vợ (bà Bát-sa-ve) mà còn giết luôn người chồng (tướng U-ri-a) (x. 2S 11, 2 tt); hai ông thủ lãnh cùng âm mưu hành động đồi bại với bà Su-san-na vợ của ông Giô-gia-kim nhưng âm mưu không thành (x. Đn 13, 1tt); người con hoang đàng mang tiền phung phí với bọn điếm (x. Lc 15, 30); thánh Phao-lô từng than khóc vì dân thành Cô-rin-tô sống gian dâm phóng đãng (x. 2Cr 12, 21)...

Chuyện Kinh thánh đã vậy, trong gian dân những chuyện ngoại tình cũng không ít nên ngày nay, tình trạng hôn nhân thiếu chung thủy và gia đình đổ vỡ đang ngày càng gia tăng. Thế mới biết, thân phận con người yếu hèn: điều thiện muốn thì không làm nhưng điều ác không muốn thì lại làm (x. Rm 7, 19).

Bởi thế, ý thức phận người yếu hèn, người tín hữu phải luôn trông cậy ơn Chúa giải thoát "Tôi thật là một người khốn khổ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Rm 7, 24).

III. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT

Đám đông đã rút đi. Nơi xét xử chỉ còn lại hai người: Thiên Chúa xót thương và con người yếu hèn.

Trước đám đông gào thét đến cuồng loạn kết án tử người đàn bà ngoại tình, Đức Giêsu đã thinh lặng và không đồng tình với đám đông la ó đang gây thêm đau khổ cho người tội lỗi.

Khi bị chất vất gay gắt, Đức Giêsu mới lên tiếng. Người không nói: Đừng ném đá chị ta. Nếu nói thế chẳng khác nào Người đã không thi hành lề luật. Đức Giêsu cũng không nói: Cứ việc ném đá chị ta. Bởi nói thế, Người đã đánh mất con chiên lạc đang đối diện với Người. Đức Giêsu đã nói: "Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi" (Ga 8, 7). Vậy là, chỉ có người vô tội mới có quyền xét xử người đàn bà ngoại tình. Nói cách khác, ở đây chỉ có Thiên Chúa làm người Đức Giêsu Kitô mới có quyền xét xử.

Đức Giêsu đã xét xử vụ án này ra sao? Người đã không kết án mà chỉ thương xót và khuyên bảo người đàn bà bỏ đường tội lỗi: "Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8, 11).

Nếu thế, phải chăng Đức Giêsu dung túng cho kẻ có tội?

Thực ra, Đức Giêsu chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người đã cho người đàn bà phạm tội một con đường sống với điều kiện " Chị về đi; từ nay, đừng phạm tội nữa!".

Thiên Chúa đã đoái thương người tội lỗi. Có thể nói được: Thiên Chúa ghét tội chứ không ghét người có tội.

Chúa đã đối xử bao dung. Nếu người thẳng tay như người ta thường đối xử với nhau thì không có các vị thánh: Phê-rô, Mát-thêu, Phao-lô, Au-gút-ti-nô, Ma-ri-a Mác-đa-la... Nếu Người đối xử thẳng tay với con người như họ đáng tội thì mỗi người chúng ta chắc gì còn hiện diện trên đời.

Trước tình thương của Chúa, người tín hữu được mời gọi: tin tưởng vào lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa; sống lòng bao dung ấy bằng cách đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác; quyết tâm sửa đổi đời sống: "Đừng phạm tội nữa!".

KẾT

Người đời dễ lâm vào tình trạng xét đoán và muốn xét xử người khác, trong khi bản thân mình tội lỗi chất đầy.

Bao lâu còn trong thân xác con người, chẳng ai dám quả quyết mình trong sạch. Thế nên người tín hữu được mời gọi cố gắng hoàn thiện bản thân và ứng xử bao dung.

Thiên Chúa thấu suốt tâm can từng gang tấc. Chỉ mình Người mới có quyền xét xử. Dầu vậy, Thiên Chúa chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người không cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng chỉ muốn họ bỏ đường tà để được sống.

 

16. Khuất tất trong một vụ án "bất thường"

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.

Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân sử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.

Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật!!! Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: “Phải ném đá”, thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là “tội khi quân” phản loạn và chống lại triều đình.

Còn nếu Đức Giêsu nói “không được ném đá”, thì ngay lập tức Ngài lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn” (x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.

Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không trống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm... Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là “Lương Tâm”. Chính vị thẩm phán “Lương Tâm” này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.

Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?", và, giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: “Còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!". Lời tuyên trắng án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án khuất tất và những bất thường của nó.

Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11,23).

Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.

Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là: Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau; đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm, hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.

 

17. Gặp gỡ Đức Kitô.

Gặp gỡ người khác trong cuộc đời là chuyện thường ngày. Tuy nhiên có những cuộc gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa. Chẳng hạn gặp người bạn khác phái để rồi yêu thương và cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Gặp thầy gặp thuốc trong cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp người bạn biết an ủi khích lệ để rồi tìm thấy niềm vui mừng và hy vọng. Đó là những cuộc gặp gỡ cứu sống, biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.

Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc gặp gỡ với Ngài có phải là cuộc gặp gỡ cứu độ như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh… Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau dừng lại để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với Chúa.

Trước hết là cuộc gặp gỡ Chúa của bọn biệt phái. Họ đến gặp ngài để hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà ngoại tình, mà chiếu theo luật Maisen, sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng bên trong, họ muốn gài bẫy làm hại Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Ngài thinh lặng và bình tĩnh làm như không có chuyện gì xảy ra. Ngài không giận dữ, vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một sự im lặng dành cho những kẻ đang hung hăng đòi lên án, đang mưu đồ ám hại người lành. Một sự im lặng như để mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của mình. Song họ đã không hiểu được ý Ngài. Vì họ cứ hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới nói: Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

Thế nhưng có chuyện đã xảy ra, bởi vì họ bắt đầu bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Ngài luôn trân trọng đối với những bậc thầy trong dân, những người trí thức, có một tinh thần đạo đức nào đó. Không có chuyện kết án, phạt tội nhãn tiền. Trong thái độ yên lặng và kiên nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng của mình, với chính cuộc sống của mình mà suy xét và hành động cho xứng hợp. Ngài mời gọi họ sống ý thức chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình. Như thế chẳng phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu họ khỏi mưu kế giết chết hai người, là người đàn bà và chính họ nữa.

Tiếp đến là cuộc gặp gỡ của người đàn bà ngoại tình. Chị bị dẫn độ đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im như tượng đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng đón nhận hình phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm của mình. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan trọng để phải dùng đao to búa lớn đối với con người hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết trên cát. Ngài hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến khi chẳng còn một ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ đâu cả rồi, không ai kết án chị sao? Phải chăng Ngài muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi tình hình đang xảy ra, một sự thay đổi do chính thái độ của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài mới kết luận, mới tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên án. Nhưng chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin tưởng ở chị một sự thoát xác, một sự đổi đời. Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy tỉnh ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng tích cực hơn.

Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra cho bọn biệt phái và người đàn bà sau cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài đọc thứ hai, chúng ta biết được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp được Đức Kitô trên đường đi Đamas. Trước kia, Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù không đội trời chung và Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài. Cuộc gặp gỡ với biến cố ngã ngựa đã khiến cho Phaolô trở về với chính mình. Và sau một thời gian ẩn mình trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục và đã hoàn toàn đổi thay hướng đi cho cuộc đời mình.

Xuyên qua những cuộc gặp gỡ trên, Chúa Giêsu đều mời gọi chúng ta bước đi trên con đường cứu độ, trở lại với chính mình để rồi từ đó xác định hướng đi mới cho cuộc đời, như bài hát chúng ta thường nghe: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh…

 

18. Đừng phạm tội nữa

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.

Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.

Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông. Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa. Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình. Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.

"Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?".

Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.

Đức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.

Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.

"Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi." Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?

Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.

Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.

Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.

Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.

Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.

Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.

Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói: "Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."

Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.

Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.

Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.

Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.

Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?

Để sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.

 

19. Lòng thương xót của Thiên Chúa

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.

Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.

Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.

Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.

Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.

Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?

2. Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?

3. Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?

4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?

 

20. Đừng kết tội

Chuyện kể rằng, ngày kia người ta bắt được một tên trộm cắp giải tới nhà vua. Nhà vua hạ lệnh xử tử hắn. Tên trộm nói với đao phủ: "Tôi có một bí mật này rấy hay, nếu tôi chết thì bí mật này sẽ theo tôi xuống mồ. Như thế thì thật tiếc. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua".

Người ta liền đưa hắn tới gặp nhà vua. Hắn nói "Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, khi được gieo xuống đất thì nội trong một đêm sẽ mọc thành cây và trổ sinh hoa trái bằng vàng". Hắn nói tiếp: "Nhưng có điều này, người gieo hạt giống này phải là người chưa từng lấy cắp của ai thứ gì, nếu không hạt giống sẽ không nẩy mầm". Sau đó hắn thú nhận: "Tôi không thể trồng được, vì trong đời, tôi là tên trộm cướp".

Nhà vua đề nghị các quan trong triều đình lo việc gieo hạt giống này. Lần lượt tất cả họ đều từ chối. Cuối cùng các quan đề nghị nhà vua gieo hạt. Nhưng không thành, tất cả mọi người đều hơn một lần đã từng lấy cắp của ai thứ gì đó. Khi hiểu rõ câu chuyện, nhà vua đã tha cho tên trộm cắp khỏi bị giết.

Qua câu chuyện này chúng ta thấy được điều gì? Thưa đó là tất cả mọi người ai cũng có tội, ai cũng có tật xấu, kẻ ít người nhiều.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ 3 nhân vật: Chúa Giêsu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình và nhóm Pharisêu - Luật sĩ: những người Pharisêu - Luật sĩ này có ý định đen tối muốn đưa người phụ nữ này đến chỗ chết theo như luật Môsê. Và đồng thời họ còn "có ý gài bẫy Chúa Giêsu để có thể tố cáo Người". Nếu Chúa Giêsu nói theo luật mà xử tử thì Chúa tự mâu thuẫn với lời giảng dạy của mình. Nếu Chúa nói không được ném đá người đàn bà thì Chúa đã phá luật Môsê, Ngài sẽ bị án tử.

Một lần nữa Ngài cho họ trở về với chính mình, tự xét mình: "Nếu ai trong các ông thấy mình sạch tội thì ném đá chị này trước đi". Và từ người lớn tới trẻ nhỏ, tất cả họ đều rút lui. Trong giây phút này, Chúa Giêsu thể hiện lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho con người. Ngài khép lại quá khứ tội lỗi và mở ra một tương lai mới: "Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Chị hãy đi và đừng phạm tội nữa". Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: "Chân mình thì l?m bê bê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người". Con người thường không thấy tội lỗi của mình, mà chỉ nhìn thấy tội của người khác rồi kết án. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy nhìn ra tội của mình. Đừng xét đoán, đừng nghĩ xấu, đừng tố cáo người khác. Tại sao vậy? Vì dẫu chúng ta không phạm tội như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, nhưng chúng ta phạm vào những thứ tội khác.

Vậy mỗi người chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu. Đó là biết khoan dung tha thứ cho người khác, không kết án người khác. Và chúng ta cũng có thể học bài học của những người Pharisêu và luật sĩ, đó là biết nhìn nhận mình có tội khi được người khác nhắc nhở, sửa dạy. Đây cũng là điều mà Giáo Hội mời gọi chúng ta trong mùa chay này: Aên năn, sám hối. Sám hối là thú nhận mình có tội và kêu xin Thiên Chúa thứ tha. Trong Kinh Sám Hối đầu lễ chung ta đã đọc: "Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót... Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng..." Vậy thì lỗi tại tôi, chứ không phải lỗi tại ông, lỗi tại bà, lỗi tại anh hay lỗi tại chị...mọi đàng. Nghĩa là chúng ta xét mình chứ đừng xét người khác. Nhận ra tội của mình chứ đừng nhìn tội của người khác.

Nhận ra tội của mình để sám hối. Sám hối bằng việc đi xưng tội, bằng cách không nghĩ xấu cho người khác, không lên án người khác. Sám hối cũng bằng việc tha thứ cho nhau. Chúng ta nhớ lại kinh Lạy Cha. Điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là chúng ta phải biết tha thứ cho nhau: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con". Chúa Giêsu không kết tội người phụ nữ ngoại tình, không phải vì Chúa chấp nhận cho chị tiếp tục phạm tội, mà vì Chúa muốn chị thành người tốt "từ nay đừng phạm tội nữa". Chúng ta hãy trở về với Chúa, Chúa không kết án chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta mỗi ngày sám hối để được tốt hơn. Amen.

 

21. Tình thương và tội lỗi – Cố Lm Hồng Phúc

Phụng vụ đặt bài Phúc Âm của Gioan ở đây để khơi động tinh thần sám hối Mùa Chay, trước tình thương bao la của Chúa.

Chúa Giêsu đang giảng dạy ở tiền đường Đền thờ, có dân chúng bao quanh thì nhóm Pharisêu và luật sĩ kéo sành sạch một phụ nữ đến trước mặt Chúa. Họ đứng thẳng đó và nói: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, theo Luật Moisê hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?”

Thật ra luật Moisê có khoản trừng phạt những người dâm phụ hoặc các kẻ đã hứa hôn như vậy, nhưng từ lâu rồi, khoản ấy không được áp dụng khắc khe nữa, nhất là người Lamã cai trị có lệnh cấm ném đá giết người. Tuy nhiên, đây là cái cớ để bắt bẻ Chúa. Câu trả lời khôn ngoan đến đâu cũng có kẽ hở, không lỗi luật Moisê thì cũng phạm đến lịnh của chính quyền.

Chúa Giêsu có vẻ không mấy chú ý đến cáo trạng và thái độ đắc thắng của nhóm Biệt phái. Ngài cúi xuống lấy tay viết trên nền đất. Thời gian trôi qua trong im lặng nặng nề, như mời gọi mọi người nhìn vào chính nội tâm của mình.

Rồi Chúa đứng thẳng lên, nhìn vào đối thủ và từ từ nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người lại ngồi xuống và viết trên đất. Bầu khí im lặng lại càng nặng nề hơn.

Đã nhiều lần, vị Rabbi trẻ chứng minh rằng Ngài có quyền đọc tận thâm tâm, biết cả những việc thầm kín nhất. Họ biết như vậy, nên khôn ngoan hơn cả là lẫn đi-dĩ đào vi thượng sách! Giữa người thiếu phụ lỡ lầm và những người được tiếng đạo đức đó, chưa hẳn ai tội lỗi hơn ai.

Vì thế, Phúc Âm nói: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ những người nhiều tuổi nhất”. Nhiều tuổi thì khôn ngoan hơn, chuồn lẹ hơn là phải.

Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và thiếu phụ. Thánh Augustinô nói: “Chỉ còn lại Tình thương và tội lỗi”.

Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Trên đoạn Phúc Âm này, trải qua bao thế hệ, có bao nhiêu dòng nước mắt đã chảy xuống chan hòa ướt đẫm. Vì qua người thiếu phụ đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh chúng ta. Chúng ta là kẻ tội lỗi, nhưng rồi, trong tòa cáo giải, lời Chúa còn vang vọng lên: “Cha tha tội cho con. Con hãy đi và đừng phạm tội nữa”.

“Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm và tẩy tôi sạch lâng tội ác” (T.v 50).

 

22. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

"Be who God meant you to be, and you will set the world on fire." - St. Catherine of Sienna.

Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:

- Ta nghe tục ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:

- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.

Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.

Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.

Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.

Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.

Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.

Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.

Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.

Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.

Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.

Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.

Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ kết án anh em của mình. Amen.

nguồn:http://gplongxuyen.org