Chúa Nhật 05/04/2020 – Chúa Nhật Lễ Lá năm A. – Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu Kitô.

Chúa Nhật 05/04/2020 – Chúa Nhật Lễ LÁ năm A. – Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu Kitô.

"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

 

Bài Thương Khó: Mt 26,14 - 27,66 (bài dài)

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".

C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.

Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".

C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.

Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại:

S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.

Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi".

Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".

C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ năm A

Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 26,14–27,66

 

1. Chúc tụng Đức Vua

('Manna')

Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.

Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.

Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.

Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.

Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.

Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.

Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.

Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.

Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.

Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...

Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.

Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.

Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.

Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.

Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?

Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

 

2. Đau khổ của Đức Kitô

Trong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những khổ đau nào?

Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con?

Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu mến và kính trọng phản bội.

Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật.

Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?

Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ. Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.

Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô.

 

3. Lễ lá – Mt 21,1-11.

Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.

Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.

Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.

Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.

Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dân chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.

Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.

Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.

Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.

 

4. Con đường Chúa đi

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66

Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.

Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.

Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.

Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.

Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.

Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.

Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.

Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.

Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.

Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.

Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa.

Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.

Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá.

Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.

Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.

Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.

2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?

3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?

 

5. Tình yêu đáp lại hận thù

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.

Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.

Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.

Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.

Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.

Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.

Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.

Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.

Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.

Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.

Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

 

6. Thương khó

(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội lắng nghe và suy niệm về sự thương khó của Giêsu Kitô là Đấng Thánh. Chúa Giêsu đã thực hiện tất cả những lời tiên báo của tiên tri Isaia về biến cố đau thương của người tôi tớ: Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi (Is 50, 6). Đây là Bài ca thứ ba mà Isaia đã loan tin về Người Tôi Tớ Chúa, viết khoảng hơn 500 về trước. Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn một kiếp người, có sinh ra và có từ trần. Quãng đời của Chúa sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn 33 năm. Chúa đã sống ba mươi năm âm thầm lặng lẽ và trưởng thành nơi miền Nazaret bé nhỏ. Chúa Giêsu chỉ dùng ba năm cuối đời để rao giảng Tin mừng, làm các phép lạ và mạc khải về Nước trời.

Ba năm giảng đạo của Chúa gặp rất nhiều khó khăn thách đố. Xuất thân từ làng quê miền Nazarét, ngay từ khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã bị nhiều người nghi ngờ, khinh dể và coi thường. Với dáng vẻ bình thường của một thanh niên trẻ, Chúa Giêsu bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin mừng cứu độ. Đối diện với một hệ thống tôn giáo hình thức và xã hội có truyền thống lâu đời, từng bước Chúa Giêsu đã đánh động con tim, khơi dậy tình yêu và canh tân cuộc sống. Như một nhà cách mạng nội tâm đổi đời, Chúa Giêsu đã đối mặt với nhiều sự chống đối, tẩy chay và thách thức. Một thân một mình gầy dựng, mời gọi và chọn lựa một nhóm môn đệ nồng cốt để truyền đạt chân lý nước trời. Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Chúa vạch rõ con đường để đi tìm sự thật, bất chấp những đố kỵ, ngăn cản và thù ghét. Một niềm tin tưởng và chu toàn thánh ý Chúa Cha. Tiên tri Isaia diễn tả sự vâng phục: Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi không phải hổ thẹn (Is 50, 7).

Trong những năm giảng dậy, Chúa Giêsu đã mạc khải tất cả mầu nhiệm về Nước Trời. Chúa đã dùng mọi hình ảnh, câu truyện, kinh nghiệm cụ thể, các tỉ dụ, dụ ngôn, ngụ ngôn và lời Kinh thánh để làm sáng tỏ con đường dẫn về quê trời. Mỗi một lời nói, hành động và phép lạ đều minh chứng quyền năng giảng dậy của Chúa. Chúa Kitô đã dạy, đã sống và đã hoàn tất mọi điều Ngài truyền dậy. Ngài cũng chu toàn mọi lề luật ràng buộc của xã hội. Về tôn giáo, Chúa đã đến không phải để phá hủy lề luật, nhưng làm cho kiện toàn. Đặc biệt về cách thức giữ luật ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bị các nhà Luật sĩ, Biệt phái, Trưởng Lão và các Thầy Tư Tế bắt bẻ và kết án nhiều nhất. Theo truyền thống, người Do-thái giữ luật ngày Sabát một cách rất khắt khe nhiệm nhặt. Ngay trong cuộc sống hôm nay, nhóm người Do-thái chính thống vẫn giữ ngày Sabát một cách rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Từ chiều thứ Sáu, vọng ngày Sabát, họ đã chuẩn bị nấu nướng và sắp xếp mọi thứ cần dùng. Khoảng sau 3 giờ chiều, họ sẽ không làm bất cứ một việc gì dù nho nhỏ và giữ trọn ngày Sabát. Các cửa tiệm đóng cửa và đường xá vắng tanh. Họ hoàn toàn dành giờ nghỉ ngơi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.

Trong cuộc hành hương Đất Thánh vừa qua, tôi có kinh nghiệm một chút thế nào là việc giữ ngày Sabát. Khi chúng tôi về tới khách sạn Ramada tại Giêrusalem, vì qua một ngày dài hành hương mệt mỏi, khi thấy cầu thang máy mở cửa, chúng tôi vội bước vào thang máy. Không để ý thang máy chỉ ngưng ở những lầu có số chẵn 2, 4, 6, 8…Chúng tôi ở lầu 7 nên không ra được. Đi lên đi xuống một vài vòng, chúng tôi phát hiện là thang máy đã được gài xét tự động vào vọng ngày Sabát. Chúng tôi đành phải đi ra để đổi sang thang máy khác. Vì người Do-thái kiêng việc xác, nên sẽ không giơ tay bấm số chọn lầu. Tôi học biết trong khách sạn, vào vọng chiều thứ Sáu và ngày Sabát, có một thang máy dành cho các lầu mang số lẻ và một thang máy dành cho các lầu có số chẵn. Còn có hai thang máy khác dành cho mọi người xử dụng chung. Đây là một trong những cách giữ luật ngày Sabát.

Vì giữ truyền thống muốn bám sát với các quan niệm và thực hành tôn giáo đương thời, các người lãnh đạo tôn giáo đã rơi vào sự ghen tị và gây nhiều sự bất đồng với những lời giảng dậy và việc làm của Chúa Giêsu. Các người Biệt phái và Luật sĩ dựa vào lời Kinh Thánh để kết án Chúa Giêsu về việc không tuân giữ luật ngày Sabát, không rửa tay trước khi ăn và tội phạm thượng… Chúa Giêsu lại dứt khoát thay đổi những hình thức thờ phượng giả tạo bên ngoài của việc ăn chay, bố thí, lễ dâng, những sự khoe khoang rỗng tuếch và những lời cầu kinh chỉ bằng môi miệng nhưng tâm hồn thì xa Chúa. Ngày qua ngày, sự ghen tương thù ghét chất chồng, nên các nhà lãnh tạo tôn giáo tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận biết sự thù oán của họ, nhưng Chúa vẫn tiếp tục mở con đường hẹp dẫn tới sự sống thật. Vì Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ. Kính thờ Thiên Chúa trong thần trí và sự thật.

Chúa Kitô đã sẵn sàng đón nhận chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã tha thiết nguyện cầu cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” (Mt 26, 42). Thời gian đã mãn, Chúa Kitô quyết định trở về Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua của người Do-thái để hoàn tất sứ mệnh cứu độ. Các nhóm lãnh đạo tôn giáo đã toa rập gây cớ để bắt và xử án Chúa. Chúa Giêsu đã nhường bước và chấp nhận mọi xỉ nhục khổ đau mà không hề than van. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi cuốn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quì gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: “Tâu vua dân Do-thái” (Mt 27, 28-29). Được dịp trả thù, các quan quyền, các nhà lãnh đạo tôn giáo, quân lính và dân chúng đã xỉ vả và hành hạ Chúa cho đến chết. Sau khi Chúa bị bắt, bị tra khảo, nhịn đói, nhịn khát, bị giam hãm, đánh đòn, đội vòng gai, vác thập giá nặng nề leo lên núi sọ, bị xô đẩy, bị đóng đinh treo trên thập giá và bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim, Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh và gục đầu trút hơi thở: Đoạn Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở (Mt 27, 50).

Cách đây hơn hai ngàn năm lịch sử, Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ và đã kết thúc sứ mệnh cứu rỗi trên một vùng đất cụ thể là nước Do-thái. Ngày nay, người ta đã cố công khơi quật hoặc xây cất những thánh đường tại những nơi đã có dấu chân của Chúa, để giúp khách hành hương đến cầu nguyện, suy niệm, cảm nhận và hun đúc niềm tin. Đến thành Thánh Giêrusalem, theo truyền thống, chúng ta có thể kính viếng những nơi mà xưa Chúa đã đi qua như thăm viếng và cầu nguyện tại vườn cây dầu, chỗ Chúa bị bắt, chịu tra trấn và hầm giam, con đường thánh giá lên núi Sọ, nơi Chúa chịu đóng đinh và chết, nơi tắm xác, Mộ Chúa và nơi Chúa Phục Sinh từ cõi chết. Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu thành Philipphê đã viết: Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với thiên Chúa (Phil 2, 6). Mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã hiến dâng chính mình làm hy lễ trên thập giá để đền tội thay cho cả nhân loại: Người đã hủy bỏ chính mình, mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm (Phil 2, 7)

Lạy Chúa, Tuần Thánh là cao điểm việc cử hành tưởng niệm Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Xin cho chúng con thấu hiểu và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ của Chúa. Vì yêu, Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng con. Xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con đã phạm. Xin đưa dẫn chúng con tham dự vào niềm vui vinh quang phục sinh của Chúa.

 

7. Bóng tối và niềm tin

(Lm. GB. Trần Văn Hào – phỏng theo bài suy niệm của giáo sư Peter Feldmeier)

Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.

Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch

Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên thầy của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp hãi đã thẳng thừng chối bỏ vị tôn sư đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.

Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu

Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.

Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu - Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.

Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7):“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài vẫn phải thét gào một cách não nuột: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.

Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan tác trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.

Kết luận

Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.

 

8. Đức Giêsu đối diện với cái chết

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.

Thành công và thất bại trên đời

Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?” Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!

Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.

Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết

Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một chút?

Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp.

Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?

Dâng hiến chính mình

Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.

Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.

Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hoà. Đức Giêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.

 

9. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ

(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách đấng Mêsia, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Máccô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.

Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).

Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).

Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; Abraham sát tế Ixaác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Ápraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Ápraham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Ápraham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!

Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!

Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.

 

10. Giờ chiến thắng vinh quang

(Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người được tôn vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh (Ga 13, 31)

Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Can-vê!

Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh?

Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.

Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung.

Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Người: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.

Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.

Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.

Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần.

Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Người đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.

***

Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người...

Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.

Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.

 

11. Con người tham sống sợ chết

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".

Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.

Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".

Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".

Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ tín trong cuộc sống.

Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.

Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.

Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.

Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.

Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng của tình yêu tự hiến hy sinh.

Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường...; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.

Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.

Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen

 

12. Cô đơn và im lặng.

Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.

Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa.

Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.

Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.

Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.

Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta.

Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng ta.

 

13. Mầu nhiệm đau khổ

(Lm Phêrô Nguyễn Hữu Duy)

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Lá đọc lại Bài Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tiếp đến là Tuần Thánh, cao điểm tưởng niệm cuộc khổ nan của Chúa. Trong bầu khí suy niệm về thập giá-con đường Chúa chọn để cứu nhân lọai, chúng ta nghĩ về Mầu Nhiệm Đau Khổ.

Gọi đau khổ là một mầu nhiệm theo nghĩa "bí nhiệm, khó hiểu" cũng được; hay theo nghĩa của Gabriel Marcel: nó là "huyền nhiệm", khác với "vấn đề", chúng ta không thể giải quyết cách khoa học, mà là cảm nghiệm cá nhân của người từng kinh qua cũng mới hiểu, cũng đúng.

Người ta quá quen với lời than van " Đời là bể khổ, hữu thân hữu khổ". Cái khổ đã trở thành qui luật của cuộc sống con người, do "bệnh, lão, tử", và ngày nay cho rằng cả "sinh" nữa, đều làm cho con người đau khổ. Sợ "sinh" làm khổ nhân lọai nên ngày nay người ta "chống sinh".

Có nhiều nguyên nhân gây đau khổ mà kinh nguyện xưa gọi là "... đói kém, ôn dịch, mất mùa, giặt giả", có khi bí ẩn người ta cho là do "số phận".

Tuy nhiên, có thể coi con người là nguyên nhân chính của sự đau khổ. Nỗi khổ của lụt lội, hạn hán, bệnh dịch..., hay ngay cả sóng thần mà ta qui cho thiên tai, cũng có nguyên nhân sâu xa do con người tàn phá thiên nhiên, vắt kiệt thiên nhiên làm thiên nhiên "nổi giận". Còn chiến tranh, khủng bố, diệt chủng, phá thai, bắt con người làm thí nghiệm, vu khống, trù dập, chửi mắng... gây buồn, khổ và hại người khác, thì quá rõ trực tiếp là do con người. "Người với người là chó sói", "tha nhân là hỏa ngục" là thế!

Thái độ của người Kitô Hữu trước đau khổ thế nào?

Vẫn biết tội là nguyên nhân của sự đau khổ "Từ tội đầu tiên (nguyên tội), cả trần gian này chìm trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Cain giết Aben (St 4, 3-15), tiếp đến là sự xa đọa của loài người... " (Giáo Lý Tòan Cầu số 401), nhưng chúng ta không theo quan niệm "trời trả báo" để qui gán sự đau khổ là hậu quả tất yếu do tội lỗi của cá nhân đương sự hay sự thất đức của gia đình. Khi thấy người mù từ khi mới sinh đau khổ trong cảnh mù lòa, các Tông đồ hỏi Chúa: bởi tội của y hay do tội cha mẹ y mà y phải chịu vậy, Chúa Giêsu trả lời: "Không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta." (Ga 9, 2-3).

1. Cựu Ước:

Người công chính vẫn phải đau khổ, đau khổ nhiều hơn nữa thì phải. Chính ông Gióp trong Cựu ước là một bằng chứng. Rồi Môsê-Tôi tới trung thành, rất được Chúa yêu mến đã đau khổ vì Dân Chúa: "Con phải làm gì cho Dân này bây giờ? Một chút nữa là họ ném đá con!" (Xh 17, 4) khi dân chúng gây sự, kêu trách Môsê. Môsê đã đau khổ tột cùng đến nỗi phải xin được chết đi cho rồi: "Ông Môsê thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà than khóc tại cửa lều mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ... nếu Ngài xử với con như vậy thì thà giết con đi còn hơn." (Ds 11, 10-15). Nhân vật vĩ đại của Cựu Ước, người diễm phúc được Chúa hứa "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh), được diện đối diện với Chúa, đã đau khổ nhiều trong trong thân xác khi lữ hành 40 năm sa mạc, lại chịu những đau khổ tinh thần đến thế!

2. Đức Kitô

Từ đây chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên khi Đức Giêsu Kitô, Đấng Chúa Cha phán "đẹp lòng Ta mọi đàng" phải trở thành Người Tôi Tớ Đau Khổ, phải thốt lên lời Thánh Vịnh bi ai: "Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi" (Tv 22, 2; Mt 27, 45) khi bị treo trên thập giá.

Chúa chúng ta không chỉ chịu đau đớn nơi thân xác mà còn chịu đau khổ trong hồn khi bị Giuđa phản bội, Phêrô chối từ, môn đệ bỏ trốn, dân chúng sỉ nhục, bị nhổ vào mặt... Bởi Chính Ngài là "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta." (Dt 4, 14-15) hưởng nếm trọn vẹn tiếng kêu than của thân phận con người bị vùi dập tứ bề, được diễn tả qua lời Thánh Vinh:

- Khi bị người tín cẩn phản bội: "Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi." (Tv 55, 13-14)

- Khi Chúa bị bao vây bắt trong vườn Dầu: "Kẻ thù con lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạng khinh đời, rầm rập tới kìa chúng đa bao quanh, mắt trừng trừng như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú, rình rập ở bụi bờ" (TV 17, 10-12); "Sóng tử thần dồn dập quanh tôi, mạng lưới âm ty bủa vây tứ phía" (Tv 18, 5);

- Khi bị đánh đòn, giầy đạp, kéo lôi... "Lạy Thiên Chúa xin thương xót con cùng, vì người ta giày xéo thân con, và suốt ngày tấn công chèn ép" (Tv 56, 2); "Lạy Chúa, xin xót thương, bởi vì con lâm cảnh ngặt nghèo. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Lạy Chúa, xin đừng để con phải nhục nhã, vì đã kêu cầu Ngài" (Tv 31, 10.16.18);

- Khi Chúa bị nhổ vào mặt và bị chê là điên khùng: "Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi khinh thường" (Tv 21, 7);

- Khi bị người ta tố cáo vu khống: "Lạy Chúa, xin đừng phó mặt con cho kẻ thù hung hãn; vì lũ chứng gian đứng dậy tố con, giương bộ mặt hằm hằm sát khí." (Tv 27, 12)

... Bộ phim cuộc thương khó nổi tiếng mới đây của đạo diễn Mel Gibson diễn tả khá đạt sự đau khổ này.

3. Thánh Phaolô

Chính Thánh Phaolô, Tông đồ dân ngoại cũng đã đau khổ nhiều. "Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần súyt chết. Năm lần bị người Dothái đánh 40 roi bớt một; ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi..." (2 Cr 11, 23-25)

Đó là những đau khổ thể xác Phaolô chịu, ngài còn bị một "cái dầm" mà các nhà chú giải cho rằng đó là chứng bệnh kinh niên, phải mang cả đời: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại về những mạc khải phi thường tôi đã được, thân xác tôi đã bị một cái dầm đâm vào, một thủ hạ Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thóat khỏi nổi khổ này. Nhưng Ngài quả quyết đối với tôi: ơn của Thầy đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." (2 Cr 12, 7-9)

Phaolô cũng đã bị khổ tâm do nhiều người khác gây nên trong ba cuộc hành trình truyền giáo, ngài đã chia sẻ với các tín hữu Corinthô: "Thật thế, tôi đã đau khổ nhiều, nước mắt chan hòa, lòng se lại mà viết cho anh em... " (2Cr 2, 4) và với Timôthêô: "Alexandre, người thợ rèn, đã gây cho cha nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh làm mà trả báo, cả con cũng hãy đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẻ chống lại lời chúng ta rao giảng." (2 Tm 4, 14-15)

5. Các thánh đã trải nghiệm sự đau khổ.

- Thánh Phanxicô Assisi ốm đau liệt lâu ngày đến nổi hễ cử động tứ chi là phải đau đớn ghê sợ, nhưng đã gọi sự đau đớn của ngài là "chị em thân thiết".

- Thánh nữ Bernadette, người được Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, đã từng chữa lành bệnh tật cho người khác cũng phải đau khổ nhiều: bị chống đối, chịu sỉ nhục, bị bệnh xuyễn hành hạ từ nhỏ và ngày càng trầm trọng cho đến chết.

- Thánh nữ Magarit đệ Cortone chịu đau khổ vì Chúa đã nói: "Ngày nào con còn sống, con hãy chuẩn bị để chiến đấu và chịu những đau khổ gây gắt, vì vàng lọc trong lửa, nên Ta cũng sẽ tẩy rửa con bằng khổ cực, cám dỗ, tàn tật, đau đớn, lo sợ, thức khuya dây sớm, nước mắt, đói khát và ẩm thấp. Vì khi con đã được thanh tẩy, con sẽ vào nơi vinh hiển của hạnh phúc đời đời." (Lm. Hocedez, Tin Mừng về Đau Khổ, trang 62)

Đó chính là giá trị của đau khổ mà thánh Phaolô đã xác quyết: "Thật vậy, tôi nghĩ rằng đau khổ bây giờ chúng ta chịu bao giờ so sánh được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta." (Rm 8, 18); "Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh." (Cl 1, 24)

Thánh Phêrô, người trước kia sợ đau khổ đã chối Thầy, nhờ sức mạnh của Thầy đã tự nguyện xin đóng đinh ngược vì không xứng chết như Thầy, khích lệ những ai đau khổ: "Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hĩ." (1 Pr 4, 13)

Vậy chúng ta phải tôn vinh đau khổ và chạy đi tìm đau khổ ư? Không, không phải thế và nhất là không bao giờ gây đau khổ cho nhau.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, đau đớn trong bệnh tật tâm sự: "Em vui vẻ vì trong mình đang phải đau đớn, em vẫn phải cố gắng yêu quí sự đau khổ và tiếp nhận đau khổ cách niềm nở, tươi tỉnh... nay em mỉm cười trước đau khổ và trong đau khổ, với em đã là một tâp quán." Vị thánh nữ tiến sĩ, qua đời ở tuổi 24 trong bệnh tật, người mà bác sĩ trị bệnh phải thú nhận: "Chà, các bà mà hiểu được sự đau đớn của người! Tôi chưa thấy ai phải đau đớn thế mà lại vui vẻ được thế! Lạ lùng! Chính là một thiên thần! Tôi không thể chữa được người, linh hồn ấy đã bất phục thủy thổ trần gian!", người nữ tu trẻ vui cười trong đau khổ như là một tập quán, thế nhưng đã khiêm tốn nhìn nhận: "Tuy nhiên chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi đau khổ cả thể, vì con hèn sức yếu đuối lắm! Con mà xin thế những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh chịu, nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ." (Môt Tâm Hôn, trang 255-256).

Bởi vậy, đối đầu với đau thương thử thách, chúng ta chỉ biết chạy đến Chúa "là Đá Tảng, chiến lũy, cứu tinh, thạch động, khiên thuẩn, uy quyền cứu độ, sức hộ phù." (x. Tv 17, 2-7) của chúng ta. Và hãy khích lệ nhau, cũng như tự khích lệ mình rằng: "Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa" (Tv 27, 14). "Lạy Chúa, Chúa cho của cải, Chúa vuốt ve, vì sợ con qua mệt nhọc trên đường về quê, Chúa lấy lại, Chúa đánh mắng, Chúa điều khiển để chúng con khỏi rời xa nẻo chính. Nhưng dầu Chúa có vuốt ve hay đánh mắng, Chúa vẫn là nơi ẩn náu của chúng con" (Thánh Augustin)

Không cần tìm đau khổ (vì sẽ tự nó đến) và không ngạc nhiên gặp khổ. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng đang hy sinh trong những thử thách về sức khỏe của tuổi già sau quảng đường dài phục vụ quên mình. Ngài đang hướng dẫn Giáo Hội bằng con đường thập giá của Thầy Giêsu Chí Thánh.

Đối mặt với đau khổ hiện tại, chúng ta thực hành lời dạy của Thánh Giacôbê Tông Đồ: "Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca." (Gc 5, 13) hầu hướng đến tương lai đầy hy vọng của trời mới đất mới, nơi: "Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điêu cũ đã biến mất." (Kh 21, 4)

 

14. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống

(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Với Chúa nhật của Niềm Vui (Laetare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.

Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu

Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.

Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4).

Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự song.

Niềm hy vọng của chúng ta

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" (Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.

Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.

Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4).

Thật là đại tin mừng: "Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.

Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).

"Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52).

"Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.

Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng

Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

 

15. Người là Thiên Chúa – Mt 21,1-11

Trong khi dân chúng tin theo và tung hô Chúa, thì bọn biệt phái lại hậm hực tức tối. Tại sao thế? Vì Chúa đã đảo lộn mọi ý nghĩ trong đầu óc họ. Vì Chúa đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của họ, và Chúa đã phơi bày những tính hư tật xấu của họ. Họ nắm tay chống đối Người, và bằng mọi cách phải giết được Người. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy, nhưng Người vẫn đi con đường của Người, dù phải đau khổ, dù phải chết chóc. Qua đó, chúng ta nhận ra Người thực là Thiên Chúa.

Đúng thế, Người đã giảng dạy như là Thiên Chúa. Bọn biệt phái luôn rình rập, gài bẫy để bắt lỗi Người, nhưng Người đã nói thẳng với họ: Ai trong các ngươi có thể tìm thấy nơi Ta một khuyết điểm, một sơ hở nào? Liệu có một nhà hiền triết, một bậc quân tử, một đấng thánh nhân nào nói được như vậy chăng. Hơn nữa, Người còn nói với chúng ta bằng tất cả uy quyền của Thiên Chúa. Người truyền lệnh, Người kết án, Người chỉ cho thấy con đường cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Nếu các con tuân giữ lời Thầy, các con sẽ không phải chết.

Tiếp đến, Chúa Giêsu đã hành động như là Thiên Chúa. Việc làm của Người đã chứng thực cho những lời Người nói. Người chữa lành những kẻ đau yếu, cho kẻ chết sống lại, dẹp tan giông tố, tha tội cho kẻ vấp phạm. Đó là những việc làm mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền và có thể thực hiện được mà thôi. Sau cùng, chính Người đã xác quyết về bản tính của Người. Bề ngoài, Người là một người như chúng ta, nhưng thực sự Người lại là Thiên Chúa. Điều đó làm cho bọn biệt phái lấy làm chướng tai gai mắt.

Nhưng Chúa Giêsu đã chuẩn bị tâm hồn các tông đồ cũng như dân chúng đón nhận sự mạc khải ấy. Ngay từ đầu Người đã không nói thẳng ra Người là Thiên Chúa. Nhưng dần dần, qua những lời giảng dạy, qua những phép lạ cũng như qua cuộc sống thánh thiện của Người, những người thiện chí sẽ phải đặt vấn đề. Người không phải là một kẻ tầm thường như chúng ta. Rồi từ từ Người làm cho họ xác tín Người là Con Thiên Chúa. Ngày kia Người đã hỏi các tông đồ: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô đã trả lời: thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng số. Và Chúa Giêsu đã nói: Không phải máu thịt đã tỏ lộ cho con điều ấy, nhưng chính là Cha Ta ở trên trời. Để thưởng công cho niềm tin tưởng ấy Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh. Khi tranh luận về cụ tổ Abraham, Chúa Giêsu đã nói với bọn biệt phái: Trước khi Abraham sinh ra thì đã có Ta. Đây cũng là lời xác quyết về bản tính Thiên Chúa của Người. Lời này khiến bọn biệt phái tức tối, muốn ném đá Chúa, nhưng Người cứ giữa chúng mà đi vì giờ Người chưa đến.

Chúa Giêsu có thể tiêu diệt những kẻ phạm thượng, nhưng Người không muốn, cũng như trên thập giá, Người có thể trừng trị những tên lý hình hạo báng, nhưng Người đã không hành động, Người muốn tình thương hơn là sự thù hận. Nhưng Người đã sống lại, ra khỏi mồ, và Người sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rõ quyền năng và vinh quang của Người. Ngày tươi sáng và hạnh phúc sẽ được dành cho những ai trung thành phụng sự Người.

 

16. Suy niệm Lễ Lá

('Niềm Vui Chia Sẻ')

Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.

Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit" có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tổng trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!"

Thưa anh chị em,

Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.

Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.

Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.

Anh chị em thân mến,

Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.

Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.

 

17. Đám đông dưới chân Thập Giá

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá".

Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...

Thưa anh chị em,

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.

Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài...

Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.

 

18. Niềm vui, Thập giá, Giới trẻ

(ĐTC Phanxicô, Bài giảng ngày lễ giới trẻ - Chúa Nhật Lễ Lá 2013, Quảng trường thánh Phêrô - Vatican).

(Fx. Đình Phước SDB dịch từ www.vatican.va)

1. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Đám đông các môn đệ tháp tùng Ngài trong hân hoan, họ trải áo choàng trước Ngài. Người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen vang lên: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa đang ngự đến, Ngài là vua. Bình an trên trời và vinh danh trên các tầng trời" (Lc 19, 38).

Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, bình an: đó là một bầu không khí vui mừng mà con người ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn những con người đang kỳ vọng nhất giữa những con người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mặt mọi người. Ngài đã biết cảm thông với những lầm than của con người, Ngài đã tỏ lộ khuôn mặt đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và đã cúi mình chữa lành xác hồn.

Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn đến những bệnh tật và tội lỗi của chúng ta. Đó là tình yêu thương vô bờ bến của Chúa Giêsu. Và thế là Ngài vào thành Giêrusalem với tình yêu thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội.

Khởi đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta vẫy các cành lá. Tất cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong chúng ta và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn chiếu sáng đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta: là người bạn và là người anh em với chúng ta. Ngài soi sáng cho hành trình của chúng ta, và chúng ta đã đón nhận Ngài. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: niềm vui! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt!

Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu: Ngài đang ở giữ chúng ta; phát sinh từ sự biết rằng với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ lẻ loi ngay cả trong những lúc khó khăn, ngay cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn nạn và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và trong cuộc đời chúng ta có rất nhiều những khó khăn và chướng ngại như thế!

Trong những khó khăn đó, kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời đường mật. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng Ngài, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài đồng hành với chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để ai lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

2. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (x. Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa; với cảm thức đức tin, họ thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế.

Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc I (x. Is 50,6); Ngài vào thành để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào thành để bước lên đồi Canvê. Và đây lời thứ hai: Thập Giá.

Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất "vua" của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Cha nghĩ đến điều ĐTC Biển Đức XVI đã nói với các Hồng Y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đinh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình.

Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội lỗi của chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội của cha thường nói với những đứa trẻ như cha khi còn nhỏ rằng: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và những tội lỗi của mỗi người chúng ta, chúng ta đều ý thức: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, thiếu sót trong tương quan đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác. Với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Đó chính là điều tốt lành mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta trên 'ngôi báu' của Ngài là thập giá. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết.

3. Hôm nay tại Quảng trường này có biết bao là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, cha đã nhìn thấy các con trong cuộc rước, khi các con đi vào; cha tưởng tượng ra các con đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: cha mường tượng các con hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các con có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các con mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn với một tâm hồn tươi trẻ, ngay cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung!

Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các con biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và vị Vua đồng hành với chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các con không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các con hãy ôm lấy Thập Giá, vì các con hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà chúng ta đạt đến niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác.

Các con mang Thập Giá lữ hành qua mọi lục địa, qua những nẻo đường của thế giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ" (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các con hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các con thân mến, cả cha nữa, cha cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết của chân phước Gioan Phaolô II và ĐTC Biển Đức XVI.

Chúng ta đang ở gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Cha vui mừng nhìn về tháng bảy sắp tới, tại Rio de Janeiro! Cha hẹn các con tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các con hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các con, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các con phải nói với thế giới: bước theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để rao truyền Chúa Giêsu! Có ba lời là: niềm vui, thập giá, và giới trẻ.

Chúng ta hãy nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ giúp chúng ta tìm gặp niềm vui trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, tìm gặp tình yêu dưới chân thập tự, tìm gặp sự nhiệt tâm của tâm hồn tươi trẻ, để chúng ta bước theo Ngài trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời của chúng ta. Amen.

 

19. Lựa chọn – Mt 26, 14- 27. 66

Khi nhìn vào bức tranh ở Bêtania ta thấy cái gì? Ta gặp thấy đó là một quang cảnh ở trong một bầu khí hết sức nặng nề. Nó nặng nề bởi có một cuộc âm mưu chống lại Chúa Giêsu của nhà cầm quyền Do Thái, giờ đây bầu khí lại càng năng nề hơn khi Giuđa lại đóng góp thêm yếu tố quyết định phản bội Thầy mình, như với tư cách kẻ thực thi lời Tiên Tri này, Giuđa sẽ tìm "cơ hội để nộp Ngài". Thật ra Giuđa hoàn toàn có thể chọn lựa làm hoặc không và chính sự chọn lựa là điều rất quan trọng trong cuộc sống nên:

1. Chọn lựa có mục đích và đi đúng hướng là điều cần thiết

Qua hình ảnh của Giuđa trong đoạn Phúc Âm này đã giúp cho tôi một bài học là phải xác định chính xác cho mình một con đường, lối hướng đi và hướng đi đó phải có một mục đích đúng là điều cần thiết. Khi nhìn lại con đường của Giuđa chúng ta sẽ thấy, Giuđa cũng có một chọn lựa, một hướng đi, có mục đích và có lập trường rõ ràng đó chứ! Thế nhưng tại sao Giuđa đã bị thất bại, để rồi đi đến một sự tuyệt vọng như đang rơi xuống vực thẳm mà không thể cứu vãn được, vì đã mang tiếng là bán đứng Thầy mình và vô tình đưa Thầy mình đi đến cái thật đau thương. Rõ ràng là Giuđa thất bại, thất bại vì Giuđa có lẽ tham tiền mà bán rẻ Thầy mình với giá 30 đồng bạc là cái giá của một người nô lệ theo luật đã định theo sách (Xh 21, 32), cũng có khi Giuđa còn mang một tư tưởng chính trị muốn cùng Thầy Giêsu bạo động dấy lên chống lại sự đô hộ của Đế quốc Rôma. Cuối cùng Gioan thực hiện theo ý riêng và chọn một hướng đi hết sức sai lầm của mình. Thế nhưng, cái sai lầm đưa đến chỗ tuyệt vọng lớn nhất của Giuđa là không khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình để mà ăn năn sám hối như trong dân gian có câu: "đã phóng lao thì phải theo lao" bất chấp mọi hậu quả.

Còn thái độ của các môn đệ khác thì sao! Các vị đang chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua cho Thầy mình: "Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu". Xem ra có vẻ các ngài rất ân cần, bận rộn lo lắng, khiêm tốn, cởi mở, luôn luôn tham khảo ý kiến và làm theo ý muốn của Thầy Giêsu. Nhưng cuộc vui đó có lẽ như khựng lại, vì trước khi bữa ăn đã bắt đầu. Một lần nữa Chúa Giêsu lại loan báo: "Một trong các con sẽ nộp Thầy". Chúa Giêsu hẳn có thể mường tượng được khi nghe câu trên, tất cả mọi người trong bàn ăn đều: "thưa Thầy có phải con không?". Chính lúc nầy đây nỗi buồn sẽ xâm chiếm các môn đệ bởi vì lời tiên báo này tố cáo quá rõ lòng trung thành mỏng manh của họ đồi với Thầy mình.

Nhìn vào thái độ Chúa Giêsu ta thấy gì! Ngài có ý sai các môn đệ chuẩn bị lễ Vượt Qua là để Thầy trò cùng nhau sum họp lần cuối: "thời gian của Thầy đang đến gần". Nhưng cũng có thể là dấu chỉ để Chúa Giêsu thiết lập Phép Thánh Thể. Đây là thời gian gấp rút của Ngài đang đến gần, đó là thời gian Ngài sẽ phải chết để đổi mới ý nghĩa của biến cố Vượt Qua của người Do Thái, một phần là để nhắc lại kỉ niệm cuộc giải phóng khỏi ách Ai Cập, một phần là nhắm đến cuộc giải phóng loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Và ngày hôm nay lễ Vượt Qua ấy như của lễ hy tế của Chúa Giêsu đang còn tiếp diễn mãi trên bàn thờ cho đến ngày tận thế.

2. Khi đặt mình trước Thánh Thể Chúa tôi có dám chấp nhận và từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa?

Tôi có dám tự hỏi như xưa các môn đệ hỏi Chúa: "Chúa muốn con chuẩn bị cho Chúa ăn lễ Vượt Qua ở đâu?". Tức câu hỏi này ám chỉ một ý nghĩa mỗi ngày là một của lễ hy tế, hy tế của sự ra đi dấn thân, ra đi trong sự tin tưởng phó thác, mang theo một tư thế biết chấp nhận mọi gian truân thử thách cùng đồng lao cộng khổ như Chúa Giêsu đã chịu. Dấn thân trong chấp nhận và từ bỏ. Chấp nhận con người mình là yếu kém, là giới hạn, là mỏng dòn, đôi khi có thể gặp thấy trước mắt là những thất bại. Đồng thời dám từ bỏ những ý riêng, tính ích kỷ, hay ghen ghét, bỏ những gì làm cản bước chân tôi đang đi theo Chúa Giêsu. Hãy cố gắng tập cho tôi có những nhân đức biết cởi mở, biết bàn hỏi theo ý chung trong tình huynh đệ và nhất là phải biết bàn hỏi và thực hiện theo thánh ý của Thầy mình là Giêsu.

3. Tôi cần nhận ra lòng nhân từ vô biên của Chúa

Khi nào còn trung thành gắn bó với Thánh Thể Chúa, thì tôi càng nhận ra lòng nhân từ vô hạn của Chúa. Chỉ có nơi Thiên Chúa mới có thứ tình yêu không biên giới ấy. Cụ thể nơi Chúa Giêsu đã thấy trước sự phản bội của Giuđa nhưng Ngài vẫn tôn trọng sự tự do cho Giuđa, cũng có thể hiểu rằng Chúa Giêsu vẫn còn một chút hy vọng để cho Giuđa còn kịp sám hối quay trở lại với Chúa. Về phía tôi, khi thầm đấm ngực cúi đầu trước Thánh Thể Chúa, tự nhận mình là Giuđa kẻ bán Chúa qua những tính hư tật xấu của mình, khi đó tôi ngước lên nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi như Ngài gởi đến cho tôi một thông điệp: Chúa vẫn yêu con và hy vọng rằng con sẽ sống tốt hơn mỗi ngày, cũng trong cuộc sống tốt đẹp nhất của con, là luôn mang hình ảnh tươi sáng của Cha đến cho mọi người, để ngõ hầu cùng con mang các linh hồn về với Ta. Amen.

 

20. Ba ngã rẽ

(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.

Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua.

Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.

Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.

Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.

Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?

Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt).

 1. Ngã rẽ của đám đông.

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét...

Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.

Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!

 2. Ngã rẽ của Giuđa.

Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.

Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.

 3. Ngã rẽ của Phêrô.

Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.

Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.

Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.

Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.

 

21. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay có thể chia thành hai phần: Phần thứ nhất là nghi thức làm phép và rước lá; Phần thứ hai là thánh lễ như thường lệ nhưng nội dung các bài đọc mang vẻ trầm buồn, nhất là bài thương khó kể lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.

Phần thứ nhất, nghi thứ làm phép và rước lá. Trong phần này của chúa nhật năm A, chúng ta nghe đọc đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, tường thuật lại việc Đức Giêsu vào thành thánh Giêrusalem. Quang cảnh rất hoành tráng. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Dân chúng đón tiếp một cách nồng hậu. Tin mừng cho biết: “Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21,8-9). Có thể nói, đây là một cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem của Đức Giêsu, toàn dân ủng hộ, không thấy một sự chống đối nào.

Phần thứ hai, phụng vụ cho chúng ta nghe ba bài đọc liên quan đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.

Bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, đây là bài ca thứ ba về người tôi tớ đau khổ. Tác giả cho biết, người tôi tớ bị bách hại, phỉ nhổ, tra tấn và bỏ rơi nhưng vẫn nhịn nhục, chịu đựng, trung thành và tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi…” (x. Is 50, 6-7).

Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cho chúng ta biết Đức Giêsu chính là người tôi tớ mà tiên tri Isaia tiên báo: “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người.” (x. Pl 2, 6-11)

Bài Thương khó được Thánh Mathêu tường thuật lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Qua cuộc khổ nạn này, Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều bài học cao quý, xin được đơn cử một số bài học sau đây:

Bài học thứ nhất: Sự can đảm, quảng đại, hy sinh vì người khác. Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ vì yêu thương nhân loại chúng ta. Đây là bằng chứng của một tình yêu cao quý. Vì,“không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).

Bài học thứ hai: Sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Giuđa là kẻ nộp Ngài. Ngài tha thứ cho Phêrô là kẻ chối Ngài. Ngài tha thứ cho các môn đệ là những người thân tín nhưng đã bỏ trốn khi Ngài gặp nạn. Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài tha thứ cho kẻ trộm cướp bên phải và cho anh ta được vào Thiên đàng với Ngài ngay ngày hôm ấy.

Bài học thứ ba: Sự vâng phục Thánh ý Thiên Chúa Cha. Khi cảm thấy khó có thể vượt qua nỗi cô đơn, đau khổ, Đức Giêsu không tránh né nhưng phó thác và vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng Ý Cha.” (Mt 26,39 và 42). Đúng như Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc II: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8)

Ngoài ra, khi suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu còn giúp chúng ta hiểu hơn về ý nghĩa của đau khổ, từ đó chúng ta biết can đảm hơn để vác thập giá của mình và sẵn sàng nâng đỡ thập giá của tha nhân.

Ở Bỉ, trong trận thế chiến thứ nhất, một trận đánh khốc liệt vừa xảy ra. Trong một nhà thờ đã được biến thành nhà thương, hàng trăm thương binh nằm la liệt. Bàn thờ được biến thành bàn mổ. Thiếu thốn thuốc men, người ta phải giải phẫu các thương binh mà không có thuốc tê hay gây mê. Một thương binh đang được giải phẫu, trong một khắc đồng hồ, anh ta phải chịu “tử đạo”, tay nắm chặt, mồ hôi đầm đìa, nhưng không một lời than trách hay rên la.

Sau khi hoàn tất ca phẫu thuật, bác sĩ hỏi anh: “Tại sao anh có thể chịu đựng được như thế? ”

Anh trả lời: “chính vì tôi đã nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã chết không một tiếng rên la vì tội lỗi nhân loại. Cho nên, tôi cũng không thể than khóc vì những đau khổ mà tôi có thể chịu để đem lại hạnh phúc tự do cho người khác.”

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn để chịu chết trên cây thánh giá vì yêu thương nhân loại chúng con. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết chấp nhận những đau khổ trong cuộc sống để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Amen.

 

22. Chúa Giêsu lên Giêrusalem

(Fx. Phạm Đình Phước SDB - viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)

Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.

Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mát-thêu và Mác-cô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giê-ri-cô.

Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêôgia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).

Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2 -3). Thánh Mác-cô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa.

Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).

“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.

“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.

Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mát-thêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.

Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.

Mỗi kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.

Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.

Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.

 

23. Ông này là ai vậy?

(‘Manna’)

Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.

Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.

Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.

Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.

Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.

Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.

Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.

Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.

Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.

Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.

Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.

Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.

Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.

Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.

Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.

Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.

Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?

Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.

 

24. Kinh nghiệm đau đớn của Phêrô

(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Bài tường thuật cuộc đau khổ của Chúa Giêsu thật khó diễn giải. Tự nó đã nói rất nhiều rồi. Phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, phải để nó thấm nhập vào mình, tìm cách chịu đựng tính chất thực tế của nó, mở lòng đón nhận cái sứ điệp nó đề nghị. Chúng ta thử dừng lại ở một điểm: ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ tự phụ, yếu đuối, ăn năn.

1) Hai câu 26,33-34 cho ta thấy Phêrô trung tín chừng nào, nhưng đồng thời cũng không biết rằng chước cám dỗ có thể bất ngờ và dữ dội ra sao. Trong những trường hợp khác, ông nghe lời Chúa Giêsu mà quyết định ngược lại với chính mình, còn đây ông lại phản đối lời Người. Chúa báo trước các môn đệ sẽ lìa bỏ Người. Phêrô cho là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa nói thêm rằng ông sẽ chối Chúa trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, đàng này ông phản ứng mạnh mẽ, đầy tin tưởng vào mình. Ông thành thực lắm. Ông cảm thấy không gì lay chuyển tình yêu đối với Thày. Ông không thể chấp nhận lời Chúa Giêsu báo trước rằng ông sẽ sa ngã. Cuối cùng, khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện, thì Phêrô không thức, nhưng lại ngã ra ngủ, lòng vẫn đầy tin tưởng vào mình. Phải chăng ta gặp thấy một ‘âm vang’ của cái kinh nghiệm đau đớn này trong lời căn dặn mà sau này Người sẽ viết ra: “Hỡi anh em, hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé…” (1Pr 5,8).

2) Kẻ thù ồn ào và gầm thét đã tấn công Phêrô, đó là đám đông đã bắt Chúa Giêsu và tìm hết cách tỏ lòng căm phẫn đối với Người. Phêrô lo sợ, mà không biết mình sợ. Vì không biết mình, nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh: Phêrô theo Chúa xa xa, đến dinh thày cả thượng phẩm. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng sẽ kết thúc như bao nhiêu lần Chúa Giêsu đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn Do thái. Ông chờ đợi mà không đề phòng. Ông sẵn sàng để sa ngã. Chỉ một câu hỏi của một người đàn bà cũng làm ông bối rối, một nỗi bối rối xen lẫn sợ hãi, tính hèn nhát và bản năng bảo tồn, mặc cảm tự ti là người xứ Galilêa, ‘khả năng’ nói dối. Ông chối Chúa Giêsu.

3) Nhưng Phêrô hối hận. Tiếng gà gáy làm ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là ở lòng khiêm nhường, thành thực, tin tưởng dù đã sa ngã. Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm nghịch lại lời cam kết với Chúa Giêsu. Ông cảm thấy lờ mờ rằng nhờ nhận lỗi mình cách thành thật, ông được Thày khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động, và vì đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi. Phêrô thống hối đã được tha thứ và nên hùng tráng.

 

25. Cành lá phản bội (Mt 26,14-27,66)

(‘Niềm Vui Chia Sẻ’ của – R. Veritas)

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembradt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như muốn nói rằng: không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt, tác giả của bức tranh này.

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembradt, nhà danh hoạ lại chen vào khuôn mặt của mình?

Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.

Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày này, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…

Thử hỏi, nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án của Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào?

Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác đỡ thập giá Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Phalatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh, tương tự hành động của Giuđa! Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.

Thưa anh chị em, với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông quần chúng nô nức phất cao cành lá “hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ một cuộc toàn thắng vang dội. Thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của quần chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào vào những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”.

Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Còn đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành đô Giêrusalem và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.

Trong những ngày thánh này, chúng ta phải tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết… Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Đức Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Càng suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.

 

26. Tin và không tin

(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần Thánh cũng là tuần lễ Giáo Hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.

Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo cười phỉ nhổ.

Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.

Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.

Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn, thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.

Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.

Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các tử tội khác.

Thưa quý ông bà và anh chị em,

Không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa, cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.

Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.

Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại của tôi?

Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng, theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Amen

 

27. Định mệnh an bài!

(Như Hạ)

Thời gian nào cũng là thời gian. Nhưng không phải thời gian nào cũng giống thời gian nào. Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan trọng. Đức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi vinh nhục.

TÌM MỘT CON ĐƯỜNG.

Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa roi, Đức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. Đó là con đường dẫn tới vinh quang. Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng chịt và biến cố bất ngờ. Tương quan trần gian thật mỏng manh. Có ai đáng tin cậy hơn các môn đệ? Thế mà ông Phêrô "chối Chúa trước mặt mọi người" (Mt 26,71). Giuđa "nộp Đức Giêsu." (Mt 26,16.48) "Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26,56). Cháy nhà mới ra mặt chuột! Nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào con người dòn mỏng. Chỗ dựa không phải là con người. Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là "Cha Thầy" với "mười hai đạo binh thiên thần" (Mt 26,53) Bởi vậy, Người mới có thể đứng vững trước bao thử thách. Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn thẳng bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát.

Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa. Có lúc vinh danh Chúa Cha và Chúa Con không tách lìa. Chính lúc vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu tưởng như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: "Hoan Hô Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời." (Mt 21, 9) Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay cả lúc nghe những lời nhục mạ: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26, 68) hay khi "lính của tổng trấn quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: 'Vạn tuế Đức Vua dân Do thái!'" (Mt 26,29) Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh "kẻ qua người lại đều nhục mạ Người." (Mt 27,39) Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong đêm đen hận thù: "Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Ítraen! Hắn đã nói: 'Ta là Con Thiên Chúa!'" (Mt 27, 40.42.43) Đã đến lúc Cha làm vinh danh Con. Đứng trước các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng, Người vẫn khẳng quyết mình "là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa." (Mt 26,65) và trước mặt tổng trấn Philatô, Người xác nhận mình là "vua dân Do thái." (Mt 27,11) Đứng giữa đám đông khát máu đang gào thét: "Đóng đinh nó vào thập giá!" (Mt 27,23.25.26), Đức Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Đấng "Kitô" (Mt 27,22)

Tất cả xảy ra không ngoài "ý cha" (Mt 26,39). Những lúc "làm thinh" (Mt 26,63) hay "không trả lời một tiếng" (Mt 27,12) là những lúc Đức Giêsu kiên cường bất khuất trước cường lực đối phương. Người như chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế tắc hiện tại. Càng nhìn lên cao, Người càng không thấy lý do phải đối đầu với những toan tính thấp hèn như thế. Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định mệnh. Nếu chối bỏ sự thật về mình, chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa căm hờn trong lòng các thượng tế và dân chúng. Nhưng Đức Giêsu đã không hèn nhát đi tìm một con đường dễ dãi như thế. Ngay cả khi giang tay trên thập giá, Người cũng không chấp nhận những thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là "Con Thiên Chúa" (Mt 27,43). Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn ào phức tạp đó. Chính trong thinh lặng và cầu nguyện, Đức Giêsu đã khám phá được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của tình yêu Thiên Chúa.

Tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đã có thể mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa "nộp Người" (Mt 26,48) và "tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy." (Mt 26,31) Chính khi mọi tương giao nhân loại bị bứt tung, Đức Giêsu lại mạc khải "đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội." (Mt 26,28) Máu Thầy đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra theo đúng chương trình tình yêu của Thiên Chúa.

Khám phá và chấp nhận tất cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi nhiều sáng suốt và can đảm. Chính vì vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân lính thượng tế và kỳ mục, Đức Giêsu đã cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani. Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó, các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ trước đến nay. Lúc nào họ cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng. Họ có thể dùng chính những mỹ từ thân thương và cử chỉ âu yếm để che dấu sự phản bội (x. Mt 26,49). Những dấu chỉ tình yêu đó và những lời khẳng quyết "không chối Thầy" (Mt 26,35) đều mất hết ý nghĩa. Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi nội dung diễn đạt. Nhưng nếu cố tình phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ phải trả giá. Sau khi nuốt lời hứa, ông Phêrô "ra ngoài, khóc lóc thảm thiết." (Mt 26,75) Giuđa cũng hối hận không kém: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan." (Mt 27,4) rồi "Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ." (Mt 27,5) Hối hận đến thế vẫn chưa đủ sao? Tại sao phải thắt cổ mới xứng với việc đền bù? Thật là một mầu nhiệm. Giuđa đã trả giá quá mắc! Chúa có đòi vậy đâu!

NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH.

Điều Chúa đòi là người môn đệ phải chân thành với chính mình. Sau khi chối Chúa, ông Phêrô đã "khóc lóc thảm thiết" vì thấy mình quá yếu đuối. Còn ông Giuđa không hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự xử cho mình, không kiên nhẫn đợi giây phút trở về với Cha nhân lành. Từ chỗ ồn ào hăm hở trả giá Thầy, ông đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn nhận ra sự thật về mình. Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, "trên hết trong xã hội tục hóa ngày nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí kiên vững, trực tiếp phát sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 18/03/2002) Sống với Thầy suốt một quãng đường dài, nhưng ông Giuđa không hề một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt. Thói quen và lối sống hằng ngày đã bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về Thầy. Mọi sự đương nhiên phải như thế!

Thực tế mọi sự chẳng sẵn sàng như ta tưởng. Chính Thầy cũng không hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn trong tầm tay. Không coi Thầy như một giá trị tuyệt đối, không thể khám phá Thầy như một chân lý giải thoát. Nhất là trong thế giới ngày càng xa lạ với Thiên Chúa hôm nay, con người không biết mình là ai và tại sao mình sống. Triết lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều kích sâu xa đó. Nhưng chỉ "khi triết lý gặp gỡ Đức Kitô trong Tin Mừng, thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan tỏa khắp thế giới." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) Hiện nay, công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002). Trong thế giới quá ồn ào hôm nay con người không còn thời giờ khám phá những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Nếu không thấy mình có "bổn phận nặng nề phải chuyển đạt những giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng cho các thế hệ trẻ," (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) cha mẹ và nhà giáo sẽ không thể cung cấp cho xã hội tương lai những con người chân chính và đầy trách nhiệm đối với xã hội.

Chỉ trong xã hội đầy những con người như thế mới có thể loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu như Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.

 

28. Cô đơn

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau:

Thành phố bé thế thôi

Mà tìm hoài chẳng được

Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người

Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm...

Thành phố bé đến thế thôi

Mà tìm hoài không thấy

Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.

Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau.

Rồi có những đêm mưa

Nằm nghe câu ca rất xưa

Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm)

Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy

Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!

Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.

Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu.

Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.Chúa Giê-su cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người. Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.

Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!

Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giê-su để tín thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.

Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời. Amen.

 

29. Chọn Chúa Giêsu

(Bài Giảng của Đức Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá năm 2005 cho Giới Trẻ).

Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.

Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...

Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.

Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).

Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giệsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người...

Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.

Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm 12: các con cũng muốn bỏ đi hay sao? Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm 12: thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 67-69).

Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!

Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.

 

30. Đau khổ và sự sống

(Lm Bùi Quang Tuấn)

Sau bao nhiêu công phu trên động vật, các nhà sinh vật học cho biết: một con cá sấu có thể sống được 250 năm; con quạ hay con két có thể sống được 200 năm; cá chép thọ được 100 năm, riêng loài rùa, 100 tuổi vẫn còn rất xuân vì chúng có thể sống được đến 300 năm.

Tôi tự hỏi: những con vật chẳng đáng giá là bao mà sao được hưởng đời lâu thế, đang khi con người là loài cao quí mà sự sống nơi dương gian lại không bằng một góc các con vật kia vậy?

Đành rằng cũng có người sống được đến tuổi 100, nhưng con số đó đâu có nhiều. Cộng đi tính lại, người ta có được bản thống kê: năm 1900 tuổi thọ trung bình của nhân loại là 49; năm mươi năm sau, tuổi trung bình là 67; đến năm 2000 thì cao hơn 70 một chút.

Cuộc đời kéo dài 60,70 năm nhưng có phải tất cả đều được an lành vui sướng hết chăng? Những tháng ngày mình sống đều là những mùa xuân tươi thắm, hay vừa vào xuân đã thấy thu, mới được thanh bình đã gặp khổ đau?

Không ít người cảm thấy đời người sao có quá nhiều bất hạnh, tiếng khóc dường như nhiều hơn tiếng cười, khổ đau tràn đầy hơn niềm vui. Thế rồi phản kháng nảy sinh. Không chỉ nơi kẻ vô thần, nhưng còn từ những người tin nhận có Thượng đế. Không ít người uất ức đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không loại trừ sự dữ và khổ đau? Phải chăng Ngài bất lực?

Trước những đau khổ và mất mát, một câu trả lời triết lý thế nào đi nữa cũng khó xoa dịu lòng người. Chi bằng cứ nhìn vào khổ đau và cái chết của một con người có tên Giêsu hầu tìm gặp một sự cảm thông chia sẻ, hơn là một sự tránh né hay phản kháng.

Doãn qua cuộc đời Chúa Giêsu, tôi thấy Ngài cũng từng trải qua một cuộc vượt biên gian nan và vĩ đại. Vượt từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình, từ cao sang tột đỉnh qua nghèo hèn cùng đinh, từ Nước Trời vào nước Palestine. Ngài vượt biên không phải để tìm tự do, hạnh phúc, hay sự sống, nhưng đúng hơn, là để trao ban tự do, hạnh phúc và sự sống phong phú cho con người. Để làm nên chuyện đó, Ngài đã phải đánh đổi tự do và cả sự sống rất xuân của mình.

Đức Giêsu chấp nhận cái chết để mầm sống được nảy sinh. Nhưng cái chết của Ngài đâu có oai phong hay yên lành cho cam. Trái lại đó là một cái chết đầy tính bạo động, đau đớn, đơn côi, và quằn quại trên thập giá với những vết thương sâu hoắm hận thù.

Ngay trong chính khổ đau tận cùng của Đức Giêsu trên thập giá lại bừng lên chân lý sống của Tin Mừng: "Ai mất sự sống vì Ta thì sẽ sống."

Điểm then chốt trong chân lý này không phải là "mất sự sống," bởi vì ai lại không bị mất sự sống. Và sự mất mát đó đâu phải chỉ thuần túy xảy đến trong giờ chết, nhưng còn ngay trong giờ sống hàng ngày của con người. Mỗi ngày sống là một ngày chết. Người ta đang mất sự sống từng giờ, từng phút, từng giây. Thế nên "mất sự sống" là điều không thể tránh khỏi. Đau khổ vì phải chết hàng ngày là điều tất nhiên. Thế nhưng, trong sự tất nhiên và không tránh khỏi đó vẫn ánh lên một niềm hy vọng: tìm gặp sự sống mới, không phải chỉ kéo dài 60,70 năm, nhưng là vĩnh hằng trong Đức Kitô.

Hy vọng đó được kết tinh khi con người chấp nhận "mất sự sống" hàng ngày trong tâm tình phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Đây chính là bài học diệu kỳ nơi thập giá: ngay lúc sắp chết, với những hơi thở thoi thóp, cùng những cơn co giật nhức buốt, vậy mà Đức Giêsu đã thốt lên: "Lạy Cha, Con phó thác mạng sống con trong tay Cha."

Sự sống gần như tắt ngấm, đau khổ đã tiến đến đỉnh cao, cuộc đời của con người như thế thì còn gì nữa! Vậy mà vẫn còn đó một tâm tình tín thác, gắn bó trọn vẹn với Thiên Chúa. Phải chăng từ khởi điểm của sự phó thác này mà mầm phục sinh hay sự sống mới đã bắt đầu thành hình, và như thế, u sầu tang thương không còn sức mạnh thống trị, nhưng bắt đầu nhường chỗ cho niềm vui phục sinh lên ngôi?

Khi không thể tránh khỏi đau khổ và mất mát sự sống mỗi ngày thì sự bình an sâu thẳm và mầm Phục sinh vinh quang chỉ có thể đến được với tâm hồn nếu con người biết sống và chết vì Chúa, với Chúa, trong Chúa.

Thế nên, dù đang phải vất vả lăn lộn với bệnh tật, tai ương, khốn khó cuộc sống, hay bao trái ý do tha nhân mang lại, cho dù ngày đời bị pha trộn với bao buồn vui, sướng khổ, thành công, thất bại, hoặc chết chóc chia ly, tôi vẫn quyết giữ mãi cho mình một niềm cậy trông tín thác vào Thiên Chúa.

Chính khi biết đón nhận tất cả trong tin yêu và phó thác vào Đấng đã từng gánh vác, chia sẻ, để thánh hóa khổ đau, nước mắt con người, tôi sẽ tìm thấy ý nghĩa của sự sống trong những cái chết đang xảy ra.

 

31. Cùng theo Chúa

(Lm. Nguyễn Nguyên)

Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.

Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá - đời cũng như đạo.

Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè…

Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.

Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.

Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.

Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội.

Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen.

 

32. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

BÀI THƯƠNG KHÓ (Mt 26,14 - 27, 66)

Là Kitô hữu Công giáo, vào tuần Thánh thì một trong những chuyện xem ra khá vất vả cho những người có trách nhiệm phục vụ các Lễ nghi Phụng vụ và cả bà con tín hữu tham dự đó là "hát và nghe bài Thương Khó". Những người hát thì vất vả cở nào còn tuỳ khả năng ca hát của họ, còn người nghe thì hầu như phải chịu đựng khá nhiều, nhất là khi nghe các "ca viên không chuyên" ê a, chưa kể đến các yếu tố âm thanh, thời tiết...

Chắc hẳn anh chị em bà con lương dân, khác đạo sẽ thấy lạ tai với cụm từ thương khó, một cụm từ không phổ thông. Lần giở các trang tự điển tiếng Việt, tôi không tìm thấy cụm từ ấy. Thế nhưng, hầu như Kitô hữu Công giáo nào khi nghe đến cuộc thương khó, cũng hiểu ngay đó là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Cụm từ "cuộc thương khó" được dịch bởi từ La ngữ "Passio", mà nguyên nghĩa là chịu đau khổ. Anh ngữ và Pháp ngữ đều dịch là "Passion", cũng một nội hàm. Không hiểu vì sao khởi đi từ nghĩa gốc là "chịu đau khổ" thì từ Passion theo thời gian, có lẽ bắt đầu từ thế kỷ XXII, lại có thêm nghĩa là dục vọng, một dục vọng mãnh liệt vuợt mức bình thường, thành sự đam mê, thành "yêu say đắm". Có mối tương quan gì chăng giữa các nghĩa của từ ngữ này bản thân không được rõ nhưng cũng xin mạo muội chia sẻ đôi tâm tình về cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, nhân sự gợi ý của hai ngữ nghĩa ấy. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Và vì đam mê, yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu chịu khổ nạn.

1. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Vấn đề là ở đối tượng của sự đam mê hay yêu say đắm. Con người đã theo chước cám dỗ mà hướng chiều sự say mê vào chính bản thân mình. Biết sự lành sự dữ là một ước muốn chính đáng và hợp lý với loài có trí khôn. Tuy nhiên khi lấy bản thân mình, lấy lợi ich của mình để làm thước đo lành dữ thì quả là một sai lầm to lớn. Vì say đắm chính mình nên con người đã đặt danh dự, chức phận, lợi ích của mình lên hàng trên hết. Những gì có lợi cho tôi, làm cho tôi vinh dự, giúp tôi thăng tiến quyền chức đã trở thành điều lành theo quan điểm của tôi. Và như thế sự lành dữ không còn mang tình khách quan, nghĩa là do Thiên Chúa đặt định.

Các nhà Kitô học cũng như các chuyên gia Thần học Thánh Kinh đã phân tích các nguyên nhân phía nhân loại gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong các nguyên nhân ấy cần phải kể đến tham vọng quyền bính của nhóm Mười Hai mà đặc biệt là của tông đồ Giuđa. Sự thường, đi liền sau quyền bính chính là lợi lộc. Ngoài ra chúng ta cũng cần kể đến tham vọng quyền bính của những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Tổng trấn Philatô đã biết rõ: "chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người" (Mt 27,18).

Một sự say đắm "quy ngã", nghĩa là hướng về bản thân mình rất dễ dẫn đến những điều tồi tệ cho tha nhân và cho cả bản thân. Quá yêu mình thì người ta sẽ dễ coi thường tha nhân. Quá xem trọng lợi ích của mình thì người ta cũng dễ bị cám dỗ tìm cách hạn chế hay xâm phạm lợi ích của kẻ khác. Để bảo vệ quyền chức của mình người ta cũng dễ sẵn sàng hạ bệ kẻ khác bằng mọi cách thế, kể cả thủ đoạn.

2. Vì yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn. Vừa đặt câu hỏi lại vừa trả lời, tác giả Thánh Vịnh cho ta hay: " Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con ngưòi chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (Tv 8,4-7). Ngoài câu trả lời: vì Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4, 8), thì chúng ta không thể trả lời cách đầy đủ cho câu hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người đến thế, nhưng chúng ta lại biết rõ "cái thế này": "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Chúng ta còn thấy sự đắm say này qua việc Con Thiên Chúa làm người đã tự nhận làm con của loài người (Son of Man - Fils de l" Homme). Đó là Đấng mà xưa ngôn sứ Đaniel qua thị kiến đã thấy " ngự giá mây trời mà đến" (Đn 7,13).

Sự đắm say của của Chúa Giêsu mang tính "quy tha" nghĩa là hướng về người khác. Là Người Con Một, Người luôn hướng về Chúa Cha bằng sự hiệp thông, mến yêu, vâng phục. Vào trần gian, làm "con của loài người", ý định của Người là "không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28).

Tình yêu thì không có biên giới. Đã yêu thì không chấp nhận sự nửa vời. Và có thể nói say đắm là điểm tới của yêu thương. Đã đắm say thì có sự khổ nạn. Vấn đề đặt ra là hướng của sự đắm say là bản thân hay tha nhân. Khi ta say đắm bản thân thì ta sẽ gây đau khổ cho kẻ khác và ta lại huỷ hoại chính bản thân mình. Ngược lại khi ta đắm say tha nhân thì ta sẽ đón nhận khổ đau để tha nhân được cứu sống, được hạnh phúc và chính ta cũng sẽ được sống, triển nở và sống dồi dào.

Người ta thường gọi các thánh là những người "điên". Có lẽ chữ "điên" hơi mang dáng vẻ hàm hồ và dễ bị ngộ nhận. Thiết nghĩ nên gọi các Ngài là những vị yêu Chúa, yêu tha nhân cách say đắm. Như thế ngoài những vị đã được Hội Thánh tuyên phong thì đã và đang có đó nhiều vị thánh không tên, những người đang yêu đồng loại cách đắm say. Họ đang dõi bước theo chân Chúa Giêsu, Đấng đã từng phán "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Với những vị đó, theo cách nói của thánh Âugustinnô, thì "bài thương khó" dù rằng khó và rất khó nhưng vẫn dễ thương, vì đã được thương rồi.

 

33. Bài giảng của ĐTC Benedictô 16

(ĐTC Benedictô XVI ngày 16 tháng Ba, 2008)

Anh chị em thân mến, mỗi năm đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật Lễ Lá thuật lại cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu. Cùng với các môn đệ của Người và một đám đông những người hành hương cứ mỗi lúc tăng theo, Người xuất phát từ đồng bằng miền Ga-li-lê về Thành Thánh. Các tác giả Tin Mừng đã thuật lại cho chúng ta ba tuyên bố của Chúa Giêsu liên quan đến Cuộc Khổ Nạn, như những bước tiến lên của Người, và qua đó cũng nói đến sự thăng tiến nội tâm mà Người đã thực hiện trong cuộc hành hương này. Chúa Giêsu tiến về đền thờ- về nơi mà Thiên Chúa, như sách Đệ Nhị Luật nói, đã chọn cho "danh Ngài ngự" (x. 12: 11; 14, 23). Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất, đã tự cho mình một tên gọi, đã tự làm cho mình được khẩn cầu; qủa thật, Người đã tự làm cho mình như được tiếp xúc với con người. Không chỗ nào có thể chứa nổi Người, nhưng chính vì lí do này mà Người đã tự cho mình một nơi chốn và một danh xưng để Người, là Thiên Chúa thật, được kính tôn như một Thiên Chúa bản vị ở giữa chúng ta. Chúng ta biết rõ từ bản tường thuật Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Người đã yêu mến đền thờ như là nhà Cha của Người. Giờ đây Người lại thăm đền thờ này một lần nữa nhưng cuộc hành trình của Người vượt qua đền thờ ấy: đích điểm của những bước đi lên là Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên đã được mô tả trong thư Do Thái như là cuộc tiến về căn lều không do người phàm dựng lên, nhưng do bởi Chúa, căn lều dẫn đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Cuộc đi lên cuối cùng để gặp Chúa đi qua Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên hướng về "tình yêu cho đến cùng" (Ga 13, 1), là ngọn núi đích thật của Thiên Chúa, là nơi xác định cho sự tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người.

Trong khi Người vào Giêrusalem, dân chúng tôn vinh Chúa Giêsu như là Con Vua Đavít, với những lời của những người hành hương trong Thánh vịnh 118: "Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21, 9). Và rồi Người tiến vào đền thờ. Tuy nhiên ở đó, ở nơi đáng lẽ đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thì Người lại thấy những kẻ buôn bán súc vật và những người đổi tiền chiếm dụng nơi cầu nguyện này cho việc kinh doanh của họ. Chắc chắn những con vật để bán sẽ được thiêu đốt làm của lễ trong đền thơ; và cũng bởi vì ở trong đền thờ nên người ta không thể sử dụng những đồng tiền mang hình các hoàng đế Rôma, là những người chống lại Thiên Chúa đích thực, nên họ đã phải đổi những đồng tiền không mang hình ảnh ngẫu tượng. Tuy nhiên, tất cả những điều này đáng lẽ đã phải diễn ra ở một nơi khác: nơi đang xảy ra đây, theo mục đích đã được ấn định cho nó là lối vào các dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa của Israel đích thực là một Thiên Chúa của mọi dân tộc. Và mặc dù có thể nói các dân ngoại đã không tin vào Mặc Khải, nhưng họ vẫn có thể liên kết trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa qua cửa ngõ của niềm tin. Thiên Chúa Israel, vị Thiên Chúa của mọi dân tộc cũng luôn luôn chờ đợi lời cầu nguyện của họ, sự tìm kiếm của họ, lời khẩn nài của họ. Thay vào đó, việc buôn bán lại chiếm ưu thế - những việc trao đổi đã được hợp phép hoá bởi giới chức có thẩm quyền, mà chính nó đã lợi dụng từ việc kiếm chác của các những người buôn bán này. Những người buôn bán đã hành động một cách hợp pháp, tuân theo luật pháp hiện hành, nhưng chính luật pháp lại thối nát. "Sự tham lam...là ngẫu tượng", thư gửi tín hữu Cô-lô-xê nói thế (3, 5). Đây là ngẫu tượng mà Chúa Giêsu đến để công kích và Người trưng dẫn I-sai-a: "Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện" (Mt 21, 13; x. Is 56, 7), và Giê-rê-mi-a: "Nhưng các ngươi biến thành hang trộm cướp" (Mt 21, 13; x. Gr 7, 11). Chống lại mệnh lệnh được cắt nghĩa sai trái, Chúa Giêsu với hành động mang tính ngôn sứ, bảo vệ trật tự đích thực đã ghi trong Lề Luật và Các Tiên Tri.

Hôm nay, tất cả những điều trên phải đem đến cho chúng ta là các Kitô hữu, lương thực để suy nghĩ. Đức tin của chúng ta có đủ tinh tuyền và mở rộng để thoát bỏ khỏi nó chất "dân ngoại"? Dân chúng hôm nay đang đi tìm kiếm và đặt ra những vấn nạn, họ có thể trực giác được ánh sáng của vị Thiên Chúa duy nhất, có thể kết hợp lại trong những nẻo đường niềm tin, với lời cầu nguyện của chúng ta và với những vấn nạn nêu ra đó, cũng có thể trở thành những người tôn thờ Thiên Chúa? Việc nhận thức rằng lòng tham là ngẫu tượng có đi vào tâm hồn chúng ta và đi vào việc thực hành đời sống của chúng ta không? Có lẽ chúng ta lại không để cho các ngẫu tượng, bằng cách này hay cách khác, len lỏi cả vào sinh hoạt đức tin của chúng ta? Chúng ta có sẵn sàng để cho mình không ngừng được Chúa thanh tẩy, và để cho Người xua đuổi khỏi chúng ta và Giáo Hội tất cả những gì trái nghịch với Người?

Tuy nhiên trong việc thanh tẩy đền thờ, một vấn đề khác còn quan trọng hơn là việc chống lại những lạm dụng. Một thời gian mới trong lịch sử đã được báo trước. Điều Chúa Giêsu đã giảng giải cho người phụ nữ Samarianô liên quan đến câu hỏi của bà về sự thờ phượng đích thực, giờ đây đang bắt đầu: "Giờ đang đến, và lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế" (Ga 4, 23). Giờ mà các con vật được sát tế cho Thiên Chúa đã chấm dứt. Hy tế bằng các con vật chỉ là một sự thay thế, một hành vi quá khứ tìm tòi con đường đích thực để thờ phượng Thiên Chúa. Thư gửi tín hữu Do thái nói về đời sống và công việc của Chúa Giêsu, đãả­ dụng một câu trong Thánh vịnh 40: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã chuẩn bị cho con một thân thể" (Dt 10, 5). Thân thể Chúa Kitô, là chính Chúa Kitô đến để thay thế các hy tế bằng máu và các lễ vật bằng lương phẩm. Chỉ có"tình yêu cho đến cùng", chỉ tình thương dành cho nhân loại được hiến trọn cho Thiên Chúa mới là sự thờ phượng đích thực, hy tế đích thực. Thờ phượng trong tinh thần và chân lý nghĩa là thờ phượng với Đấng là Sự Thật, thờ phượng hiệp thông với Thân Mình Người, trong đó Chúa Thánh Thần hợp nhất chúng ta.

Các tác giả tin mừng thuật lại rằng những chứng gian đưa ra chống lại Chúa Giêsu đã qủa quyết Chúa nói: "Tôi có thể phá huỷ đền thờ Thiên Chúa, và sẽ xây dựng lại trong ba ngày" (Mt 26, 11). Đứng trước Chúa Kitô đang bị treo trên thập giá, một số kẻ thách thức Người cũng nhắc đến những lời đó: "Mi là kẻ có thể phá huỷ đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi!" (Mt 27, 40). Bản văn chính xác về những lời Chúa Giêsu nói đã được thánh Gioan truyền lại cho chúng ta trong trình thuật về việc thanh tẩy đền thờ. Đáp lại đòi hỏi bằng một dấu chỉ để Chúa Giêsu có thể biện minh cho một hành động như thế, Người đáp lại: "Hãy phá huỷ đền thờ này đi, và trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2, 18 tt). Thánh Gioan thêm rằng khi suy nghĩ lại biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu rằng Chúa Giêsu đã ám chỉ Đền Thờ là Thân Mình của Người (x. 2, 21 tt). Không phải Chúa Giêsu phá huỷ đền thờ; nó bị để cho tàn phá bởi thái độ của những người biến nó, từ một nơi để gặp gỡ giữa các dân tộc với Thiên Chúa thành một "hang trộm cướp", một nơi buôn bán. Vẫn luôn như vậy, bắt đầu với sự sa ngã của A-đam, sự sa ngã của nhân loại trở thành một cơ hội cho chúng ta phó thác hơn vào tình yêu Thiên Chúa. Giờ của đền thờ được xây bằng đá, giờ hiến tế các súc vật giờ đây đã qua đi: sự việc Chúa đuổi những người buôn không chỉ loại bỏ được sự lạm dụng mà còn hướng tới Thiên Chúa một cách thức thờ phượng mới: đền thờ mới được hoàn thành: chính Chúa Giêsu Kitô, nơi Người tình yêu của Thiên Chúa đổ tràn trên nhân loại. Bằng sự sống của Người, Người là đền thờ mới và sống động. Người đã đi qua Thánh Giá và đã phục sinh là không gian sống động cho tinh thần và sự sống nơi đó hình thái thờ phượng đích thực được thực hiện. Như thế, việc thanh tẩy đền thờ, như đỉnh cao của cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu cũng đồng thời là một dấu chỉ về sự tiêu vong tiềm ẩn một công trình và lời hứa về Đền Thờ mới, một lời hứa về vương quốc của sự hoà giải và tình yêu mà khi hiệp thông với Chúa Kitô sẽ được thiết lập vượt qua mọi biên giới.

Thánh Mát-thêu mà Tin Mừng chúng ta sẽ nghe trong năm nay, đề cập vào cuối bản trình thuật về Chúa Nhật Lễ Lá, sau việc thanh tẩy đền thờ hai chi tiết nhỏ khác mà một lần nữa lại mang một đặc tính tiên tri và đồng thời soi sáng cho chúng ta biết ý định thực sự của Chúa Giêsu. Ngay sau những lời của Chúa Giêsu về ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, tác giả Tin Mừng tiếp tục: "Có những kẻ mù loà và què quặt đến với Người trong đền thờ, và Người đã chữa họ lành". Thêm nữa, Mát-thêu còn nói với chúng ta rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương tại các cổng thành: "Hoan hô Con Vua Đavít" (Mt 21, 14 tt). Chúa Giêsu xua trừ việc mua bán thú vật và đổi tiền bằng thiện tâm chữa lành. Đây là việc thanh tẩy đền thờ đích thực. Người không đến như là một kẻ phá hoại, Người không đến với lưỡi gươm của một kẻ làm cách mạng. Người đến với ân huệ chữa lành. Người hiến thân cho những ai vì những đau đớn bệnh tật phải lê lết cho đến hết cuộc đời, và cho những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúa Giêsu tỏ bày Thiên Chúa như là một Đấng yêu thương, và quyền năng của Người như là quyền năng tình yêu. Như thế, Người dạy chúng ta điều luôn luôn đúng về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc.

Và lại có nhiều trẻ em tung hô Chúa Giêsu là con Vua Đavít và reo hò chúc tụng Người. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng để vào Nước Thiên Chúa điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Người, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ chúng ta, lôi kéo chúng ta về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ sự kiêu hãnh làm chúng ta choá mắt, nó muốn lôi kéo chúng ta khỏi Thiên Chúa như thể Thiên Chúa là đối thủ của chúng ta. Để gặp Thiên Chúa cần phải có thể nhìn bằng con tim. Chúng ta phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ, với một tâm hồn tươi trẻ không bị che khuất bởi những thành kiến hoặc bị đui mù vì những lợi lộc. Như thế, chính trong những người bé mọn, những người có được tâm hồn tự do và rộng mở để nhận biết Chúa Giêsu, mà Giáo Hội nhận ra hình ảnh của mình, hình ảnh của những người tin thuộc mọi thời đại.

Các bạn thân mến, giờ phút này chúng ta hãy kết nhập vào đoàn rước của những người trẻ thời đó - một cuộc rước lượn vòng đi qua toàn bộ lịch sử. Cùng với các bạn trẻ trên toàn thế giới chúng ta hãy đi đến gặp Chúa Giêsu. Chúng ta hãy tự để cho mình được Người hướng dẫn để đến với Thiên Chúa, để học hỏi từ chính Thiên Chúa con đường đích thật để là con người. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa cùng với Người, bởi vì nhờ Chúa Giêsu con Vua Đavít, Người đã ban cho chúng ta một không gian bình an và sự hoà giải ôm trọn lấy thế giới với Bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy cầu nguyện với Người, để chính chúng ta cũng trở nên cùng với Người và bắt đầu từ Người, những sứ giả xây dựng hoà bình, những người thờ phượng trong tinh thần và sự thật, để nước Người được tăng triển trong chúng ta và chung quanh chúng ta. Amen.

 

34. Vào thành để chịu chết

(Lm G. Nguyễn Cao Luật)

Nét bi đát của cuộc khải hoàn

Để sửa soạn vào thành, Đức Giêsu sai hai môn đệ đến ngôi làng trước mặt để mượn tạm con lừa. Có lẽ không nơi nào cho thấy sự mâu thuẫn như trong biến cố này: một bên là Thiên Chúa uy quyền, một bên là "tính con người". Cả hai đều thể hiện trong con người Đức Giêsu. Đó là sự pha trộn giữa quyền năng Thiên Chúa và sự lệ thuộc, giữa giàu sang và bần cùng. Và đó cũng là hiệu quả của mầu nhiệm nhập thể.

Vì lòng yêu thương con người, Đấng vốn giàu có đã trở nên khó nghèo, để con người được giàu có. Trong cuộc đời, có lần Đức Giêsu đã mượn chiếc thuyền của dân chài làm chôỵ đứng giảng dạy; lần khác Người đã mượn hai cái bánh và năm con cá của cậu bé vô danh để làm phép lạ nuôi cả đám đông; sau này, khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu còn mượn tạm ngôi mộ để gửi tấm thân trong khi đợi ngày sống lại vinh hiển.

Vẫn có những chuyện bi đát như thế trong cuộc đời Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Nhưng chưa hết.

Hãy bảo thiếu nữ Xi-on

Kìa Đức Vua đến với ngươi

khiêm tốn ngổi trên lưng lừa

lưng lừa con là con của thú vật chở đồ. (Mt 21,5)

Thời đó, các vị hoàng đế thường ngồi trên chiến mã, oai hùng tiến vào thành phố. Ngược lại, ở đây, Đấng khải hoàn khiêm tốn ngổi trên lưng lừa con. Nếu Phi-la-tô có dịp đứng quan sát cảnh này, hẳn ông phải bật cười vì tính cách khôi hài của con người tự xưng là Vua. Con người ấy đang ngổi trên lưng một con vật biểu tượng của sự tự huỷ, tượng trưng cho việc tiến dần đến cái chết.

Nếu Đức Giêsu tiến vào thành phố trong tiếng nhạc hùng tráng, trong tư thế của người chiến thắng, chắc sẽ có kẻ nghĩ rằng Người là Đấng giải phóng về mặt chính trị. Trái lại, Đức Giêsu chọn những hoàn cảnh để chứng thực cho lời tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Như thế, chẳng có gì cho thấy vị vua này có thể là đối thủ của Xê-da.

Phía sau những lời tung hô

Khi Đức Giêsu đến gần thành phố, một "đám rất đông" dân chúng ra đón Người. Trong số đó, không chỉ có những người cư ngụ tại Giêrusalem, nhưng còn có những người từ nơi khác về thủ đô dự lễ, và dĩ nhiên, cả những người Pha-ri-sêu.

Trong những lần trước đây, Đức Giêsu luôn ngăn cản lòng nhiệt thành, sự phấn khởi của dân chúng. Người đã lánh mặt khi đám đông hứng khởi, Người tránh tạo nên những quang cảnh náo nhiệt (x. Mt 16,20; Mc 5,43; Mc 9,9; Ga 6,15). Vậy mà, trong khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, các người Pha-ri-sêu phải thốt lên: "Kìa thiên hạ theo ông ấy hết" (Ga 12,19).

Điều này ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu. Trước đây, Người xoa dịu sự hứng khởi của dân chúng, còn bây giờ, Người lại khơi lên. Tại sao vậy?

Bởi vì "Thời" đã đến. Lúc này, sẽ đến giờ Người công khai tỏ cho dân chúng biết về uy quyền của Người, và đây là lần cuối cùng. Đức Giêsu biết rõ điều này sẽ đưa Người lên đỉnh Can-vê, đến việc Thăng Thiên và thiết lập vương quốc trên trần gian. Đây là cơ hội cuối cùng để Đức Giêsu đưa ra tiếng nói quyết định và đặt con người trước lựa chọn: hoặc tuyên xưng, hoặc từ khước.

Những cái áo được trải trên đường, những ngành ô-liu được phất cao; đám đông vui mừng tung hô:

"Hoan hô Thế tử nhà Đa-vít, hoan hô!

Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa!

Hoan hô Chúa ngự chốn cửu trùng" (Mt 21,9).

Đức Giêsu là Hoàng tử thuộc dòng dõi Đa-vít. Người là Đấng được sai đến để thực hiện công trình của Thiên Chúa. Hosana, khởi đầu là một lời cầu nguyện, giờ đây trở thành bài ca chiến thắng để đón tiếp Đấng Cứu Tinh. Mặc dù đám dân đang reo hò không hiểu rõ lý do Người được sai đến, họ cũng chẳng hiểu được bình an do Người mang lại, nhưng họ cũng biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến.

Đúng là một cuộc khải hoàn, nhưng Đấng Cứu Thế biết rõ rằng lời tung hô "Hosana" sẽ được đỗi thành "đóng đinh nó đi", và vòng gai sẽ thay cho ngành vạn tuế. Ngày hôm nay, người ta trải áo dưới chân Người, nhưng ngày thứ Sáu tới đây, cả áo của Người họ cũng lột hết. Mặc dù Người là Vua, và dân chúng nhận rằng Người là Ngôn Sứ, là Thầy... nhưng Đức Giêsu biết rõ hoàng cung được dành cho Người chính là đổi Can-vê.

* * *

Lạy Chúa,

dù con có thế nào chăng nữa,

cũng xin cho con được tung hô Chúa trong ngày hôm nay.

Ngày thứ Sáu, tất cả tội lỗi của con sẽ bị phơi trần,

nhưng con biết lòng thương xót của Chúa

sẽ ngập tràn trên con:

đó là ngày Phục Sinh.

Cùng với tất cả mọi người

con sẽ reo lên

"Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa"

Đó là hy vọng, là niềm cậy trông

cho suốt cả hành trình tăm tối của con.

 

35. Vui lòng vâng phục Thánh ý Chúa

Suy Niệm:

Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".

Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.

Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.

Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.

Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.

 

36. Lắng nghe cuộc khổ nạn

(André Sève)

Chúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào?

Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài.

Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình yêu.

Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương.

Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô.

Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn!

Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”.

 

37. Tôi không bán Chúa

(PM. Cao Huy Hoàng)

Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.

Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.

Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.

Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.

Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….

Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.

Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.

Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.

Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Kitô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?

Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?!

Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.

Vâng, không thể nói:

Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.

Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.

Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.

Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.

Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.

Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.

Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen.

 

38. Con đường Thập Giá

(Lm Đam. Trần Quang Hiền)

Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.

Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.

Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.

Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.

Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

 

39. Chúa chịu tử nạn trong tôi

(Lm. An Phong)

Vào đầu Tuần Thánh năm 1997, nhà văn Adolto Eskivei, người Ac-hen-ti-na bị cảnh sát bắt giam vì các hoạt động bất bạo động để bênh vực giới nông dân nghèo. Trong 32 ngày liên tiếp, ông bị giam trong một cái ống - một loại củi chật hẹp. Một hôm, ông tìm cách viết được một lá thư cho các người bạn ở Sao Paolo như sau:

Các bạn thân mến, tôi không muốn nói với các bạn về nỗi khổ đau, nhưng về niềm hy vọng và về ơn mà Chúa đã ban cho tôi, đó là được chịu khổ đau và sống với những anh chị em là nạn nhân của bất công, sống với những người mà, sau hai ba năm bị giam giữ, họ cũng không biết tại sao họ phải chịu những hình phạt như vậy.

Tuy nhiên, mỗi ngày có một ánh sáng chiếu soi các đau khổ này, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi giây phút, trong mọi cử chỉ, Thiên Chúa của tình yêu thương, Đấng tha thứ trên thập giá qua mọi thời đại: "Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm".

Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, đây không phải là một câu chuyện xảy ra ở đâu đó, để người ta kể cho nhau nghe chơi, để bàn tán xì xào hoặc để cảm thương cho Chúa của mình.

Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết vì mỗi người chúng ta và trong mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn chia sẻ trọn vẹn những khổ đau, vất vả và cái chết của cuộc sống con người.

Những đau khổ, vất vả, sỉ nhục, và cái chết vẫn còn đấy, nhưng nếu chúng ta hiệp thông vào cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu; thì những khổ đau đó không còn có thể đè bẹp con người nữa; thân phận phải chết của con người không còn là điều gì phi lý nữa; những vất vả không còn là gánh nặng xiềng xích con người nữa.

Tin vào Chúa, người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận khổ đau, vì biết rằng Thiên Chúa đã cùng chia sẻ cuộc đời với mình và đã đánh tan sức mạnh của thần chết bằng tình yêu tha thứ.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã trở thành người để đến với con người,

Chúa đã chịu bao khổ đau để cùng chia sẻ

những đau khổ chất chồng của cuộc sống con người

Chúa đã chịu chết

như bao nhiêu tội nhân,

như bao nhiêu bệnh nhân

như bao nhiêu người khác đang chết.

Và lạy Chúa Giêsu,

Ngày hôm nay Chúa lại hiện diện trong tấm bánh nhỏ bé này

để đến với con.

để chia sẻ gánh nặng của con,

để cùng con chết đi hằng ngày vì những khổ đau của con.

Con chẳng biết nói gì

hơn lời tạ ơn,

tạ ơn vì đời con có Chúa.

nguon:http://gplongxuyen.org/News