"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Lời Chúa: Lc 19, 1-10
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Gia-kêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.
Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi".
Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – C 2016
Lời Chúa: Kn 11,22–12,2; 2Tx 1,11–2,2; Lc 19, 1-10
1.Giakêu mừng rước Đức Giêsu - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Văn Hào Victor Hugo (Vích-to Huy-gô) viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là Những Kẻ Khốn Cùng (Les misérables) đã kể câu chuyện về Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp sát nhân bị tù 19 năm. Khi được thả ra, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi; vào trọ đêm, vừa thấy mặt người ta đóng sập cửa lại; vào ổ chó, chó sủa inh ỏi; vào trọ nhà Đức Giám Mục Myriet (Miriét) được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp năm cây đèn bạc chuồn mất. Chính quyền bắt được, giải tới Giám Mục. Ngài nói: Chính tôi tặng chàng và tặng thêm hai cây đèn nữa và nói với chàng: “Anh cầm lấy, người anh em hãy bỏ ác theo thiện, tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa”.
Từ đó, Văn Giang suy nghĩ, hối cải và sau này trở thành một Thị trưởng rất đạo đức.
Đức Giêsu cũng đã xử rất thân tình với một người thâu thuế mang tiếng là ông tổ tham nhũng, ăn cướp của dân, tên là Giakêu.
Phân tích bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba lối xử sự, lối thứ nhất sợ: “Gần mực thì đen,” - lối thứ hai “Gần đèn thì rạng” - lối thứ ba “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, còn làm cho bùn đượm vẻ thanh tao đẹp đẽ, hay đúng hơn đó là ánh sáng thế gian, là muối đất còn hơn là hoa sen.
Lối xử sự thứ nhất của những người xì xầm nói hành Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Theo quan niệm dân Do Thái bấy giờ coi những người dân ngoại, những người công chức bám gót đế quốc Rôma và nhất là hạng thâu thuế cho Đế quốc, bị coi là hạng tội lỗi ghê tởm. Họ phải xa tránh, lỡ phải tiếp xúc với những người ấy, khi về nhà, họ phải thanh tẩy bằng tắm rửa để khỏi ô uế. Lối xử sự đó gây ra hậu quả tai hại là phân chia giai cấp, chia rẽ chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, tự cô lập mình. Hậu quả tai hại thứ hai tạo ra hạng người kêu căng, tự coi mình là trong sạch, công chính hơn những người khác, hơn dân tộc khác. Họ không biết mình cũng đầy tội lỗi như mọi người. Họ phải đấm ngực ăn năn xin Thiên Chúa tha thứ. Họ không được phép kết án ai để khỏi bị Thiên Chúa lên án. Có lần họ đã kết án người đàn bà phạm tội ngoại tình và xin Đức Giêsu kết án ném đá chị. Nhưng Người bảo họ: Ai không có tội, hãy ném đá chị đi. Họ đã rút lui để khỏi bị Đức Giêsu kết án họ.
Lối xử sự thứ hai của ông Giakêu: “Ông đứng đầu những người thâu thuế và là người giầu có”. Chế độ thu thuế lúc bấy giờ là cho đấu thầu. Dĩ nhiên ai nhiều tiền lắm của mới trúng thầu. Ông Giakêu chắc trúng thầu mới là người đứng đầu những người thâu thuế. Người chủ thầu mặc sức thâu thuế để mau thu lại vốn và làm giầu. Sự giầu có của ông còn hơn cả những chủ thầu các thành khác, vì thành Giêricô, cách Giêrusalem 23 cây số, là đô thị cổ nhất thế giới đã có từ hơn mười nghìn năm, và nổi tiếng văn minh thương mại sầm uất, cũng là một đô thị chiến lược được xây cất rất kiên cố ngay thời ông Giosuê dẫn dân Do Thái về đất Hứa. Giầu có và sang trọng như thế, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Đức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung, như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được thấy Đức Giêsu. Đức Giêsu lúc đó, đối với ông chỉ là thường dân, khá lắm thì chỉ là một tiên tri nào đó đối với dân thôi, còn đối với chính quyền đời và đạo, Người không có một chức tước gì. Nhờ lòng khao khát mạnh mẽ đó, ông Giakêu đã được ơn soi sáng thấy một điều lạ lùng: ông đã được thấy Đấng Cứu thế, và cả gia đình ông được cứu độ: “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Đời ông đã đổi mới hẳn: ông sẵn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Đức bác ái của ông dâng cao. Đức công bằng cũng không kém: “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn”.
Ông Da-kêu chỉ rước Chúa vào nhà có một ngày, đời ông đã hoàn toàn đổi mới, đã hoàn toàn sống theo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa vào linh hồn không biết bao nhiêu lần, đời chúng ta đã đổi mới, đã nên giống Đức Giêsu chút nào chưa?
Lối xử sự của Đức Giêsu là lối xử sự của Thiên Chúa, Người làm cho mặt trời mọc soi sáng cho muôn loài, cho kẻ lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho mọi tạo vật, cho kẻ công chính cũng như bất lương; là lối xử sự của Đấng Cứu độ hằng thương xót những kẻ tội lỗi, hướng dẫn những kẻ lầm đường lạc lối, cứu chữa những kẻ yếu đuối, tìm kiếm nhũng kẻ hư mất, phục sinh những kẻ đã chết. Thật ra, “toàn thể vũ trụ trước mặt Người chỉ như là hạt sương sớm rơi trên đất, thế mà Người vẫn thương xót … Người xử sự thật khoan dung, vì chúng ta là của Người. Lạy Chúa tể tốt lành và hiếu sinh dường bao” (Bài đọc I). Thiên Chúa nhân hậu và quý trọng sự sống của chúng ta như vậy, cho nên thánh Phaolô cầu nguyện cho chúng ta vững tin: “Đừng hoảng sợ”. Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Lạy Chúa, xin cho con vững tâm tin tưởng mừng rước Chúa đến ngự vào nhà con, cho con được đổi mới và được ơn cứu độ như ông Giakêu.
2.Hai ánh mắt. Một tấm lòng – Anmai
Cố nhạc sĩ Xuân Hồng đã gởi gắm tâm tình của mình về cặp mắt qua bài hát "Đôi mắt":
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời
Để nhìn đời và để làm duyên
Đời cho em đôi mắt màu đen
để thương để nhớ, để ghen, để hờn
Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn
Là bài thơ hay nhất
Là lời ca không dứt
Là tuyệt tác của thiên thu...
Quả thật! Đôi mắt thật tuyệt vời và là tuyệt tác của Thiên Chúa - Đấng tạo dựng nên con người.
Đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Chính đôi mắt đã để cho tâm hồn của con người có thể đến với nhau, ở lại với nhau và ở lại trong nhau.
Ngày hôm nay, chúng ta bắt gặp hai đôi mắt dễ thương vô cùng đó là đôi mắt của Chúa Giêsu và người thu thuế mang tên Giakêu.
Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Dưới cái nhìn của xã hội Do Thái thời bấy giờ, người thu thuế là người ô uế và tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào túi riêng. Người tội lỗi dĩ nhiên thường bị người khác khinh thường và chà đạp.
Đã từ lâu Giakêu hẳn nhiên thường nghe nhiều người nói này nói nọ về Chúa Giêsu. Khi nghe như vậy, dĩ nhiên ông muốn và ao ước được gặp gỡ Ngài. Hôm nay, khi hay biết Ngài sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã phải trèo lên một cây sung vì ông là một người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Và rồi, giây phút tuyệt diệu đã đến, Chúa Giêsu đã nhận ra ông và ngỏ lời: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu lại tại nhà ngươi.
Một người như ông mà lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Giakêu chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Ông không phải muốn mua chuộc Chúa Giêsu hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ đoạn. Với ánh mắt chan chứa tình người của Chúa Giêsu dành cho Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời của ông. Qua ánh mắt này, cái nhìn này của Chúa đã cho ta thấy căn tính, thấy dung mạo đích thực của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian đã đến và đã hiện diện giữa nhân loại.
Hết sức nhẹ nhàng: "Giakêu hôm nay tôi lưu lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất". Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Chúa Giêsu cho thấy hình ảnh, tâm tình của một Thiên Chúa qua bài đọc sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Chúa Giêsu đã quan tâm, khiêm hạ, tha thứ, tin tưởng, yêu thương Giakêu. Thái độ, tâm tình ấy của Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu một cách đặc biệt và khó hiểu. Giữa đám đông ấy, chỉ có hai ánh mắt nhìn nhau và chạm nhau. Ngày hôm ấy, Giêsu đã chạm đến Giakêu và Giakêu đã chạm đến Giêsu. Và, đặc biệt, ánh mắt yêu thương, tin tưởng, quan tâm, tha thứ của Chúa Giêsu không dừng lại ở Giakêu hay dừng lại ngày hôm đó mà ánh mắt ấy vẫn dõi theo con người nhất là những con người tội lỗi và yếu đuối.
Và như vậy, chuyện quan trọng là chúng ta có chạy đến, có trèo lên cây sung để tìm Chúa và nhìn Chúa như Giakêu để đón nhận ơn tha thứ, ơn cứu độ từ Thiên Chúa hay không mà thôi. Chúa sẵn sàng yêu thương tha thứ nhưng chúng ta có cảm nhận, có đáp lời hay không mà thôi?
Và, khi chúng ta đón nhận được tình yêu thương, ơn tha thứ từ Chúa đó chúng ta có yêu thương tha thứ cho anh chị em đồng lại của chúng ta hay không? Nói anh chị em đồng loại cũng là nói một cách chung chung, gần nhất đó chính là chồng, là cha, là mẹ, là ông, là bà, là con, là cháu... đang sống chung trong mái nhà của ta đó. Liệu rằng ta có cảm thông, yêu thương và tha thứ cho những người đó khi họ phạm lỗi hay không? Ta có dành cho họ ánh mắt yêu thương và tha thứ hay không?
Trong lắng đọng của cuộc đời, hãy nhìn lên Thánh Tâm Chúa Giêsu, một ánh mắt yêu thương trào tràn từ cung lòng của Chúa Giêsu luôn dõi nhìn cuộc đời của ta. Xin cho ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa dành cho ta và ta cũng yêu thương tha thứ cho anh chị em đồng loại như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho ta.
3.Đấng đổi mới cuộc đời
Giakêu là người thu thuế giàu có tại Giêricô. Và như chúng ta đã biết, dân chúng, nhất là những người đạo đức thường khinh bỉ những làm làm nghề thu thuế, nối giáo cho quân đội Rôma để bóc lột đồng bào của mình. Họ thường bị đồng hoá với những kẻ độc ác, bất công và tội lỗi, do đó bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Ông Giakêu hẳn đã từng được nghe nói nhiều về Chúa Giêsu. Và quả thực lúc này Chúa Giêsu đã trở thành một nhân vật được đông đảo quần chúng biết đến, vì những lời Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm, nhất là về lập trường và thái độ của Ngài. Phúc Âm kể lại: Rất đông người vây quanh Chúa Giêsu khiến cho ông Giakêu muốn được nhìn thấy Ngài nhưng không sao được, vì ông thấp bé. Nhưng ông không chịu thua. Ông chạy lên phía trước, đón đường Chúa và để chắc ăn, ông đã trèo lên một cây sung. Thái độ của Giakêu có thể là vì tò mò nhưng lại cũng là một điều thuận lợi để ông đi vào quan hệ với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn là người đi bước trước. Vừa thấy Giakêu, trước cả khi ông kịp nói lên một lời nào đó, Chúa Giêsu đã ngỏ lời với ông và trong lời ngỏ cùng Giakêu, Ngài đã dành cho ông một ân huệ lớn lao hơn cả điều ông có thể tưởng tượng ra. Ngài ngỏ ý muốn lưu lại tại nhà ông. Đó quả là điều ông không hề nghĩ tới. Ông phải là người hiểu rõ địa vị của ông hơn ai hết, vì ngay cả khi Ngài đến tại nhà ông, thì mọi người vẫn còn lẩm bẩm: Ông này lại đến trọ nhà một kẻ tội lỗi.
Nhưng điều bất ngờ lớn nhất đã xảy ra đó là cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã hoàn toàn biến đổi con người ông. Cuộc viếng thăm ấy đã đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời một người thu thuế. Trước cả khi Chúa Giêsu nói một lời nào về tội lỗi của ông, thì ông đã tự động đề ra biện pháp để sửa đổi những lầm lỗi ông đã phạm. Biện pháp đó gồm hai phần: Phần thứ nhất là bố thí cho kẻ khó, và ông bố thí tới nửa phần ba gia tài của ông. Ông làm việc bố thí này hoàn toàn vì lòng đại lượng. Phần thứ hai là đền bù cho những người ông đã gây thiệt hại. Ông sẵn sàng đền bù gấp bốn lần, nghĩa là vượt quá điều luật buộc của người Do Thái, nhưng lại phù hợp với hình phạt của luật Rôma dành cho tội ăn cắp tỏ tường. Ông Giakêu quả là đã có được một sự độ lượng.
Lời Chúa Giêsu kết thúc có một ý nghĩa đặc biệt. Trước hết đó là lời tuyên bố ơn cứu độ được ban cho nhà, nơi Chúa Giêsu lưu lại, dù đó là nhà của Giakêu, người thu thuế. Đồng thời đây cũng là lời đặt ông Giakêu vào lại vị trí của ông trong cộng đồng dân Chúa, trong dòng dõi Abraham. Và cuối cùng Ngài đã mạc khải cho chúng ta chân lý lạ lùng này, đó là Ngài đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư đi.
Giakêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã đổi mới cuộc đời ông. Trong sự đổi mới này, ông đã không chỉ trở lại với Chúa mà còn trở lại với anh em, với những người chung quanh, nhất là với những người ông đã làm thiệt hại. Liệu chúng ta đã thực sự gặp gỡ Chúa hay chưa, và nhất là chúng ta đã thực sự đổi mới cuộc đời chúng ta hay chưa.
4.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Chúa cứu vớt người tội lỗi
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho ta thấy Chúa Giêsu đi tìm và cứu vớt một người tội lỗi là ông Dakêu. Chúa cũng đi tìm và cứu vớt chúng ta nếu chúng ta mở rộng cửa lòng cho Chúa vào.
Chúng ta hãy mở rộng cửa lòng mình và bắt đầu Thánh lễ.
II. Gợi ý sám hối
Rất nhiều lần Chúa đứng trước cửa lòng chúng con và gõ cửa, nhưng chúng con đã không mở ra.
Chúa biết chúng con nhiều tội lỗi và Chúa chờ chúng con sám hối để Chúa tha. Nhưng chúng con vẫn thờ ơ.
Nhiều lần Chúa nhìn chúng con và lên tiếng kêu gọi chúng con như Chúa đã nhìn và kêu gọi ông Dakêu. Nhưng chúng con không đáp lại.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 11, 22--12, 2)
Nhìn lại lịch sử, tác giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa: Ngài đối xử rất khoan hồng đối với những người tội lỗi.
Tác giả cũng thấy được lý do của cách hành xử ấy: "vì Chúa yêu sự sống" và không muốn ai phải chết. Bởi thế "những ai sa ngã, Ngài sửa dạy từ từ... để họ bỏ điều ác".
2. Đáp ca (Tv 144)
Ca tụng lòng nhân từ của Chúa: "Ai quỵ ngã Chúa đều nâng dậy. Kẻ bì đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên"
3. Tin Mừng (Lc 19, 1-10)
Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn "đứng đầu những người thu thuế") và lo thu tích của cải ("và là người giàu có") - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này"; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12, 33-34 16, 1-8 16, 9-13 v. v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
Có hai nhân tố tạo nên sự thay đổi đó:
một là những cố gắng của chính Dakêu: "tìm cách xem" mặt Chúa Giêsu, "chạy tới phía trước", "leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu".
hai là lòng nhân từ của Chúa Giêsu: Ngài "nhìn lên" ông, Ngài gọi ông "xuống mau đi", Ngài đưa đề nghị đến nhà ông "Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông". Chúa Giêsu tự giới thiệu là "Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất".
4. Bài đọc II (2 Tx 1, 11--2, 2)
Ở giáo đoàn Thêxalônica, một số tín hữu cho rằng ngày tận thế đã gần đến. Vì thế họ đâm ra lười biếng không muốn làm việc nữa.
Thánh Phaolô viết thư khuyên tín hữu đừng tin vào những luận điệu ấy.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ông Giakêu hoán cải trở lại
Câu chuyện được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay có nhiều tình tiết diễn biến như một vở kịch sinh động. Vậy chúng ta hãy theo dõi lần lượt những diễn biến đó.
- Khởi đầu nhân vật thứ nhất xuất hiện. Đó là Chúa Giêsu. Ngài đang đi trên lộ trình ngang qua thành Giêricô để tiện về thành Giêrusalem. Ngài chỉ đi như vậy thôi hay là còn có một mục đích nào khác nữa không? Câu chót của đoạn Tin Mừng này cho thấy Chúa không phải chỉ đi lang thang, mà có mục đích rõ ràng, đó là để "tìm cứu vớt những gì đã hư hỏng".
- Tới phiên nhân vật thứ hai xuất hiện, đó là ông Giakêu, một người giàu có nổi tiếng ở thành phố Giêricô này. Ông làm giàu nhờ nghề nghiệp của ông, trưởng ban thu thuế. Dĩ nhiên nếu chỉ có đồng lương hàng tháng thì ông không giàu như vậy được. Sở dĩ ông giàu là vì ông đã gian lận trong việc thu thuế. Ai cũng coi ông là một kẻ tội lỗi. Phần Giakêu dù giàu nhưng vẫn thấy thiếu thốn một cái gì đó trong tâm hồn, ông đang muốn tìm cái đó thì hay tin có Chúa Giêsu đang đi ngang qua thành phố. Ông vội vàng chạy tới để mong gặp được Ngài. Nhưng dân chúng thì đông, mà ông thì thấp lùn không thể nhón gót lên mà thấy Ngài được, nên ông trèo lên một cây sung cho dễ nhìn.
- Xin hãy chú ý nghĩa của những chi tiết này: Chúa Giêsu đang đi tìm người tội lỗi, và người tội lỗi cũng đang đi tìm Chúa. Hai bên gặp nhau và ơn cứu rỗi được thực hiện. Ơn Cứu rỗi là kết quả của sự găïp gỡ của 2 phía: phía Chúa và phía người tội lỗi. Nếu Chúa không đi tìm thì chẳng ai được cứu rỗi. Nhưng dù Chúa có tìm mà người tội lỗi không đáp lại thì cũng chẳng có ơn cứu rỗi. Phải có sự hợp tác của cả 2 phía.
- Khi hai nhân vật ấy gặp nhau, thì ai lên tiếng trước? Thưa là Chúa Giêsu. Ngài nhìn lên cây sung và nói với Giakêu. Xin chú ý lần nữa, chi tiết Chúa Giêsu lên tiếng trước cũng có ý nghĩa lắm: mặc dù ơn cứu rỗi là sự hợp tác giữa 2 phía, nhưng sáng kiến khởi đầu là từ phía Chúa.
- Chúng ta hãy theo dõi tiếp câu chuyện. Chúa Giêsu lên tiếng trước, nhưng Ngài nói gì? Chúa nói "Ông Giakêu ơi, xuống mau đi vì hôm nay tôi cần đến trọ ở nhà ông". Lại một lần nữa xin chú ý: Chúa Giêsu quả là người tế nhị. Chúa muốn giúp ông Giakêu nhưng lại nói là Chúa cần ông giúp đỡ. Tế nhị là ở chỗ đó, để sau đó ông Giakêu không ngại nhận sự giúp đỡ của Chúa.
- Bây giờ tới nhóm nhân vật thứ ba, là quần chúng. Khi họ nghe Chúa Giêsu nói là muốn đến ở trọ nhà một tên thu thuế tội lỗi như vậy thì họ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng: không lẽ nào một người thánh thiện như Chúa Giêsu mà lại đến ở nhà một người tội lỗi như ông Giakêu sao?
- Phần ông Giakêu thì quá mừng rỡ trước đề nghị của Chúa Giêsu. Ông tức khắc có một quyết định là từ nay sẽ chấm dứt lỗi làm ăn tội lỗi cũ. Ông sẽ lấy phân nửa tài sản của ông để bố thí cho những người nghèo. Còn đối với những người đã bị ông gian lận tiền bạc thì ông sẽ đền cho họ gấp bốn. Chúng ta nên biết rằng theo luật đạo Do thái ai phạm tội lỗi đức công bình mà muốn được tha thì tùy mức tội nặng nhẹ mà phải đền bù với mức độ khác nhau: nhẹ thì đền trả đủ số và cộng thêm 1/5; nặng thì phải đền gấp đôi. Ông Giakêu xin đền gấp bốn nghĩa là ông tự thú tội ông quá năng. Còn theo luật Rôma thì đối với những tội trộm cắp công khai thì phải đền gấp bốn. Ông Giakêu xin đền gấp bốn tức là ông cũng thừa nhận mình là một tên tội lỗi công khai. Cho nên quyết định của ông vừa là khiêm nhường, vừa là công bình vừa là bác ái.
- Nhưng khi Giakêu chịu bỏ ra phân nửa tài sản đó bố thí cho kẻ nghèo, lại sẵn sàng đền gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại thì tính ra số tiền ông phải bỏ thật quá nhiều. Ông làm như vậy có phải là quá đáng không? Hay hỏi cách khác: ông có tiếc vì phải bỏ quá nhiều như vậy không? Thưa chắc chắn là không, vì chính ông tự nguyện làm như thế. Vả lại cái mà ông bỏ đi so với cái mà ông nhận được, tức là ơn tha thứ, thì chẳng thấm tháp vào đâu cả. Cho nên ông không hề tiếc. Hơn nữa, cuộc trở lại nào mà không phải từ bỏ.
- Chúng ta hãy dừng lại ở tư tưởng chót này: Bất cứ cuộc trở lại nào cũng đòi phải từ bỏ. Một người từ trước tới giờ không có đạo, tin vào đủ thứ mê tín dị đoan, nay trở lại theo đạo thì phải từ bỏ tất cả những mê tín dị đoan ấy chỉ còn tin vào một mình Chúa duy nhất mà thôi. Một người bấy lâu nay không giữ đạo, sống bê tha tội lỗi, nay muốn ăn năn trở lại thì cũng phải từ bỏ con đường tội lỗi cũ. Đó là những cuộc trở lại lớn. Còn những cuộc trở lại nhỏ hơn thì cũng thế, cũng phải từ bỏ. Từ trước tới giờ, anh làm ăn bằng những mánh khóe gian lận, nay anh muốn trở lại sống tốt thì tức nhiên anh phải bỏ những món tiền gian lận ấy. Chứ không thể nào vừa muốn sống đàng hoàng mà vừa tiếp tục những kiểu làm ăn gian lận cũ được. Hay từ trước tới giờ anh quen nhậu nhẹt rượu chè say sưa, làm cho gia đình buồn khổ, làm cho phẩm cách mình bị hạ thấp, nay anh muốn sống tử tế lại thì đương nhiên anh phải bỏ tật rượu chè say sưa ấy. Có một số người ghiền rượu đã nói rằng: bỏ rượu thì nếu cố gắng một chút chắc sẽ bỏ được, nhưng cái khó là như người ta nói, muốn bỏ rượu thì phải bỏ bạn luôn. Gương từ bỏ hết sức quảng đại của ông Giakêu là câu trả lời cho thắc mắc đó: Nếu thực tình muốn sống đàng hoàng hơn, thì phải thực sự bỏ rượu, mà nếu vì bỏ rượu mà mất bạn, thì cũng phải đành mất vậy thôi. Bởi vì chân lý đã được nêu rõ trong bài Tin Mừng này: bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi ta phải từ bỏ hết.
Niềm vui sướng của ông Giakêu khi trở lại là một niềm vui rất lớn. Lớn đến nỗi ông trở thành một con người hết sức hào phóng, quảng đại bỏ đi hơn phân nửa tài sản của mình mà cũng không tiếc. Nếu chúng ta trở lại từ những gì xấu xa khuyết điểm cũ của ta để sống đàng hoàng tử tế hơn, thì chắc chúng ta cũng sẽ hưởng được niềm vui sướng to lớn như vậy trong tâm hồn. Nhưng, như Tin Mừng hôm nay dạy, bất cứ cuộc trở lại nào cũng đòi hỏi phải từ bỏ. Vậy, trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm ơn giúp chúng ta can đảm từ bỏ, để chúng ta được vui mừng trong niềm vui trở lại.
* 2. Có một cái nhìn như thế (Lc 19, 1-10)
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thoả thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
***
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Gia kêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lội, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn thân thiện, có sức cảm hoá tâm hồn; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: "Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" (Lc 19, 5). Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19, 8). Và chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: "Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham" (Lc 19, 9). Thật vậy, ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Ápraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Gia kêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa "tìm đến và cứu chữa" bao giờ cũng trỗi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
***
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa. Có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Ápraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Hoán cải bằng con tim
Chắc hẳn Dakêu đã nghe người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính mình gặp Ngài, lý do thứ nhất là để xem tướng mạo Ngài ra sao, và lý do thứ hai quan trọng hơn là để biết con người của Ngài thế nào.
Hôm đó cũng có rất đông người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ ở cạnh Ngài, họ bao quanh Ngài. Còn Dakêu thì không đến gần được, ông phải trèo lên một cây sung. Thế mà Chúa Giêsu lại đặc biệt để ý tới ông. Thật sung sướng khi được người khác để ý tới.
Tuy nhiên, để ý tới ai không hẳn chỉ là để chăm sóc hay khen ngợi người đó. Nếu người đó là kẻ xấu thì có thể người ta để ý tới để mà dò xét hay khiển trách. Dakêu là người xấu, nhưng Chúa Giêsu để ý tới ông không phải để khiển trách. Ngài dừng lại và nhìn lên ông. Dakêu hiểu là Chúa Giêsu quan tâm đến ông. Được để ý tới là sung sướng, được quan tâm lại càng sung sướng hơn.
Chúa Giêsu còn nói với Dakêu nữa. Đặc biệt là Ngài không nói một lời nào về những tội lỗi của ông. Thay vào đó Ngài gọi đích danh ông "Này ông Dakêu". Rồi Ngài gọi ông xuống "Xuống mau đi". Ngài còn ngỏ ý muốn đến trọ nhà ông "Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông". Điều này không ai ngờ. Dakêu không ngờ, mà tất cả mọi người có mặt ở đó cũng không thể ngờ một người đạo đức như thế mà lại đến trọ nhà một người tội lỗi công khai. Dakêu sung sướng quá, "Ông vội vàng trèo xuống và mừng rỡ đón rước Ngài". Ban đầu ông chỉ mong nhìn được Chúa Giêsu một cái thôi. Bây giờ ông được nhìn Ngài mặt đối mặt và sắp được ở chung với Ngài ngay trong nhà của ông nữa.
Dakêu đã biết chẳng những tướng mạo mà cả con người của Chúa Giêsu. Ông còn biết được tâm hồn dạt dào yêu thương của Ngài nữa.
Và khi nhìn thấy tâm hồn Chúa Giêsu rồi, Dakêu cũng nhìn lại tâm hồn của ông: một tâm hồn đầy tội lỗi. Ông thấy đời mình bấy lâu nay như một sa mạc khô cằn, thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại đến, như một cơn mưa rào.
Thế là Dakêu hoán cải. Cuộc hoán cải thể hiện bằng những hành động cụ thể: đền bồi tất cả những thiệt hại đã gây ra cho người khác, và phân chia tài sản mình cho những người nghèo. Đây không phải là hoán cải chỉ bằng ý muốn mà bằng cả con tim: Dakêu đã biết xót xa cho những người bị ông làm thiệt hại, và biết yêu thương những người nghèo khổ. Đây chính là sự hoán cải thật, vì con tim có hoán cải thì cuộc đời mới hoán cải thật.
Con tim của Dakêu hoán cải nhờ Chúa Giêsu đã để ý tới ông, quan tâm ông, đối xử nhẹ nhàng với ông. Goethe đã viết: "Hãy đối xử với một người như người ấy là, và người ấy sẽ xấu hơn. Hãy đối xử với người ấy như người ấy phải là, hoặc như người ấy muốn là, và người ấy sẽ tốt hơn. Bởi vì những ước muốn trong chúng ta chính là phần tốt nhất của con người chúng ta".
Chúa Giêsu hiểu rằng những việc làm xấu của Dakêu không phải là toàn phần con người của ông; Ngài hiểu trong ông còn có phần tốt, phần muốn làm điều tốt và có khả năng làm những điều tốt ấy. Ngài đã khơi lên chính cái phần tốt ấy.
Cuộc hoán cải của Dakêu là hoán cải con tim, là hướng con tim về điều tốt.
Cũng giống như Dakêu, trong con người chúng ta cũng có phần tốt mặc dù có thể phần tốt ấy xưa nay bị những việc xấu chèn ép và chưa phát huy ra. Hãy hoán cải con tim bằng cách để Chúa để ý đến ta, quan tâm ta, nói với ta, trọ trong tim ta và đánh động con tim ta.
* 4. Từ đứng nhìn đến tham dự
Nhiều khi chúng ta xem Tivi, thấy những cảnh nghèo, cảnh khổ, cảnh tai nạn... Chúng ta cảm động. Nhưng chỉ một thoáng thôi. Sau đó tới phần chiếu phim, chúng ta say sưa theo dõi chuyện phim, những xúc động kia đã tan biến đâu mất. Nghĩa là chúng ta thường là khách bàng quan, là khán giả.
Ông Dakêu cũng thế. Hôm đó ông muốn làm khán giả. Ông trèo lên một cành cây để nhìn xuống. Ở vị trí đó, ông có thể nhìn Chúa Giêsu và nhìn mọi người mà không bị ai nhìn ông. Ông là một người ngoài cuộc, không cùng đám đông đi theo Chúa Giêsu. Cũng như trước đó ông đã là một người ngoài cuộc: ông giàu có, đầy đủ, không cần đến ai, cũng không muốn dây dưa làm chi đến đa số người khác nghèo nàn thiếu thốn.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Chúa Giêsu gọi Dakêu xuống, Ngài ngỏ ý đến trọ nhà ông. Nghĩa là Ngài kéo ông ra khỏi tư thế khán giả bàng quan để nhập cuộc và tham gia. Và như chúng ta thấy, Dakêu đã tham gia tích cực như thế nào.
* 5. Dakêu, tấm gương hoán cải
Câu chuyện về ông Dakêu có nhiều chi tiết giúp chúng ta hiểu thế nào là hoán cải thật:
Ông tích cực đi tìm Chúa: "Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung".
Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: "Ông vội vàng tụt xuống"
Ông còn "vui mừng đón rước Ngài về nhà".
Ông nhìn nhận tội lỗi của mình và còn thú nhận trước mặt mọi người.
Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác
Hơn nữa, Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo.
Hoán cải thật là từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và tổ chức lại đời sống mới.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Người yêu thương và muốn cứu rỗi hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là đoàn chiên của Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử luôn noi gương Người / mà đối xử nhân từ với các con chiên lạc đã thật lòng sám hối ăn năn.
2. Ông Dakêu tìm cách để xem cho biết Chúa Giêsu là ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đi tìm Chúa / đều được Người chỉ lối đưa đường / trong cuộc hành trình tìm về nguồn chân thiện mỹ.
3. Trong đời sống thường ngày / lúc nào cũng có những người bị đồng loại của mình khinh dể / cô lập / và đối xử tệ bạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai là nạn nhân của áp bức bất công / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
4. Ý thức thân phận tội lỗi của mình / và quyết tâm đổi mới đời sống nên hoàn thiện hơn / là điều mà mọi Kitô hữu cần quan tâm thực hiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu được điều đó / và cố gắng thực hiện trong đời sống đức tin thường ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa, không ai trong chúng con là hoàn toàn trước mặt Chúa. Vậy xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa mà có một cái nhìn khoan dung đối với lỗi lầm của anh chị em mình. Chúng con cầu xin:
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong tâm tình của ông Dakêu, xin Thiên Chúa là Cha tha thứ những tội lỗi của chúng ta và giúp chúng ta hoán cải thật lòng.
VII. Giải tán
Anh chị em đã thấy ông Dakêu sau khi hoán cải đã rất rộng rãi đem tài sản mình phân chia cho người nghèo. Anh chị em cũng hãy cố gắng noi theo gương chia xẻ ấy.
5.Tình yêu kết trái nơi con người Giakêu - Huệ Minh
“Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình”, câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện hoán cải tận căn của một con người – một con người đã được đụng chạm tới tình yêu Giêsu.
Cũng như muôn ngàn định nghĩa về tình yêu thì “tình cho không biếu không” vẫn là định nghĩa triệt để nhất. Tình vốn dĩ là cho không biếu không - bất chấp cả dư luận, bất chấp của cải, bất chấp danh dự, bất chấp tội lỗi, bất chấp xấu xa, khiếm khuyết… bất chấp tất cả.
Câu chuyện Tin mừng hôm nay là câu chuyện tình yêu tuyệt vời; người tung, kẻ hứng thật đồng điệu và đã mang lại kết quả tốt đẹp. Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ tuyệt vời giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu.
Trước mặt người Do Thái, Giakêu là một kẻ tội lỗi. Không tội lỗi như bọn phóng túng đâu; nhưng đây còn là một tội nhân nguy hiểm. Giakêu là ty trưởng quan thuế ở một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Và điều này có thể làm sống lại một số kinh nghiệm cũ của chúng ta. Những người thu thuế cho hạng ngoại bang làm sao không bị coi là những tên hại dân hại nước! Huống nữa Giakêu là ty trưởng quan thuế.
Hôm ấy Giakêu nghe tin Ðức Giêsu đi ngang qua Giêricô. Tò mò ông muốn thấy Người... nhưng ông lại nhỏ con chẳng sao nhìn được Người vì thiên hạ bu đầy xung quanh Người.
Tình yêu luôn có sáng kiến và đi bước trước: Trong trình thuật Tin mừng, chúng ta thấy lòng mộ mến một Rabbi Giêsu lý tưởng đã khiến Ông Giakêu, một quan chức đứng đầu thuế vụ, giàu có, chạy lên trước đám đông và trèo lên cây sung để được thấy Người. Ông trèo lên cây, nấp trong đám lá, không biết ông đang đắc ý về diệu kế cho vóc người thấp bé của ông hay đang hồi hộp sợ có ai phát hiện, nhưng có lẽ là cả hai. Chỉ còn một cách: Phải tìm chỗ đứng trên cao nhìn xuống... Chẳng có nhà lầu nào ở gần. Hơn nữa, trèo lên một thân cây có lẽ đỡ phiền phức hơn. Giakêu đã làm như thế. Nhưng này Chúa đã gọi ông: " Giakêu, xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi".
Ông ngồi trên cao và nhìn xuống. Về hình thức, tưởng chừng như Ông là người đi bước trước, nhưng nội dung câu chuyện đã cho thấy người đi bước trước là Đức Giêsu - Người đã biết Giakêu từ trước. Người đã biết những mặc cảm cũng như những khát khao trong lòng Giakêu.
Tình yêu và lòng thương xót đã khiến Đức Giêsu ngước lên nhìn Ông đang trốn mình trong tán lá – Hai thái độ - hai nội dung trái ngược: Giakêu tìm Chúa: thay vì ngước mắt lên trời, Ông lại ở ‘vị trí của mình trên cao’ nhìn xuống. Đức Giêsu tìm Giakêu: Ngài ở dưới ngước nhìn lên; Thực ra, tình yêu và lòng thương xót của Người đã cúi xuống, chiếu cố đến Giakêu – con người thấp bé về hình vóc, nghèo nàn về phẩm hạnh trong mắt người Dothái.
Tuy nhiên, xuyên suốt qua cái gì là bề ngoài giới hạn ấy, Đức Giêsu đã nhìn thấy giá trị đích thực với những phẩm chất cao quí của con người – một con người mang hình ảnh của Đấng Tạo hóa. Đức Giêsu đã đi bước trước trong việc cởi bỏ những mặc cảm tự tôn, tự ti trong lòng Giakêu để Ông mở rộng lòng mình đón nhận Chúa trong tình yêu chân chất. Ngài gọi Ông xuống, trở lại vị trị để sẵn sàng làm một cuộc hoán cải.
Ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dể kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Ðối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Tình yêu kết tráí: Giakêu khát khao được nhìn thấy Đức Giêsu có lẽ vì những tiếng tăm tốt lành của Người khiến lòng Ông mộ mến và mong đợi một điều gì đó(?) Đức Giêsu tìm Giakêu như “người chăn chiên đi tìm một con chiên lạc” (x. Mt 18,12 - 14), như người đàn bà đi tìm đồng bạc đã mất” (x. Lc 15, 8 -10), như “người cha nhân hậu chờ đợi người con đi hoang trở về” (x. Lc 15, 11 - 32).
Tuy đã được nghe nhiều về Đức Giêsu, nhưng Gia kêu không ngờ ông lại được vinh dự và yêu thương như vậy. Và từ trái tim đã đụng chạm đến trái tim. Tình yêu được đáp đền bằng tình yêu đã nảy sinh hoa trái tốt đẹp: “Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Thật là niềm vui tràn vỡ vì “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Cũng như Phaolô, ông Giakêu đã cảm nghiệm được món lời hậu hĩ vì được biết Đức Giêsu (x. Pl 3, 8 - 9).
Vì thế, của cải đối với ông bây giờ không còn quan trọng nữa. Trước đây ông ra tay bóc lột, tích góp bao nhiêu, thì bây giờ ông sẵn sàng cho đi tất cả. Thật là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời! Một bước hoán cải tuyệt diệu!
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Chúa Giêsu đã đến để tìm cứu kẻ có tội: Người là ơn cứu độ Thiên Chúa gửi đến cho loài người. Người thực hiện những điều mà sách Khôn Ngoan đã viết. Tác giả sách này chỉ biết rằng: Thiên Chúa vì toàn năng và nhân ái sẽ làm cho tội nhân trở lại. Nhưng thế nào và nhờ ai, thì chúng ta phải chờ đến khi thấy Ðức Giêsu xuất hiện và cương quyết đi lên Giêrusalem để làm công việc cứu thế... Hôm nay Người đã làm cho Giakêu trở lại đang khi Người lên Giêrusalem để chúng ta thấy trước mục đích của việc Người sẽ chịu nạn và sống lại.
Và rồi ước chi trang Tin Mừng hôm nay giúp ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
6.Vòng tay tha thứ
Nhiều người trong chúng ta có một cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Đối với họ Thiên Chúa thường là một ông cảnh sát đầy quyền năng, luôn đứng bên lề cuộc đời để biên phạt những hành động sai trái. Trong khi đó Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người Cha nhân từ hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, và đặc biệt Ngài sẵn sàng tha thứ những lầm lỗi của chúng ta. Ngài hằng mong ước cho chúng ta, những người con của Ngài được hạnh phúc.
Sách Khôn Ngoan đã viết: Chúa thương xót mọi người và Ngài nhắm mắt trước những tội lỗi của những kẻ thực lòng sám hối. Lòng nhân từ và thương xót ấy ngày hôm nay được biểu lộ một cách cụ thể qua câu chuyện về ông Giakêu. Ông ta là một người thu thuế giàu có tại Giêricô. Dưới mắt những người Do Thái, thì những kẻ làm nghề thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi, vì họ tiếp tay với đế quốc Lamã, bóc lột đồng bào của mình, để nuôi sống kẻ thù và làm giàu cho bản thân. Chính vì thế mà họ bị loại trừ khỏi cộng đồng dân Chúa.
Từ lâu Giakêu hẳn thường nghe nói nhiều về Chúa Giêsu và ao ước được gặp gỡ với Người. Vì thế khi hay biết Người sắp đi qua nơi đó, Giakêu đã trèo lên một cây sung vì ông là một người thấp bé, và dân chúng thì lại đông đảo vây quanh Người. Thế rồi, Chúa Giêsu đã nhận ra ông, Ngài nói: Hỡi Giakêu hãy xuống mau vì hôm nay Ta muốn lưu lại tại nhà ngươi.
Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước một lời nói như thế. Ngài đã dành cho ông một vinh dự quá to lớn, phải chăng Ngài đã đảo lộn bậc thang giá trị? Phải chăng Ngài khích lệ những kẻ bóc lột, gian tham và độc ác? Chính Giakêu cũng ngạc nhiên không kém trước tình yêu Ngài dành cho ông. Trong khi mọi người thù ghét ông thì Ngài lại yêu thương ông. Chính tình yêu này đã chuyển hướng cuộc đời ông, đưa ông vào một khúc quanh mới, thắp lên trong tâm hồn ông một ngọn lửa nhiệt thành.
Từ thẳm sâu cõi lòng, ông cảm thấy chính mình cần phải uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm, đền bù những thiệt hại trong dĩ vãng để xứng đáng với tình thương yêu ấy. Lập tức ông đã quyết định: Thưa Thầy, con sẽ bố thí một nửa phần sản nghiệp của con. Và nếu như con đã làm thiệt hại ai thì con sẽ đền trả gấp bốn. Chúa Giêsu thấu suốt cõi lòng ông, Ngài đã cảm động khi nói với ông: Ngày hôm nay nhà này được ơn cứu độ vì cũng là con cháu Abraham. Chúa Giêsu đã chống lại những thiên kiến của người đời, Ngài đã xác quyết: Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư đi.
Dù cuộc đời chúng ta có chồng chất tội lỗi, chúng ta đừng vội thất vọng, hãy ngước nhìn Chúa, hãy tìm gặp Ngài với lòng yêu mến chân thành, bởi vì lúc nào Ngài cũng mở rộng vòng tay chờ đón để tha thứ cho chúng ta.
7.Đổi đời
Trong cuộc sống, có nhiều người đã thoát xác, đã đổi đời một cách bất ngờ để trở nên tốt lành và thánh thiện.
Phanxicô Borgia đã từ bỏ chức vị tại triều đình khi đứng trước thi thể rữa thối của hoàng hậu Isabella. Phanxicô Xaviê đã trở nên một vị tông đồ Á châu chỉ vì lời Kinh Thánh mà Ignatio không ngừng nhắc đến mỗi khi gặp gỡ: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Magueritte de Cortone đã xa lìa nếp sống tội lỗi và trở nên một vị thánh trước cái chết của người tình. Và ngày hôm nay, ông Giakêu cũng đã thực hiện một cuộc đổi đời, một cuộc thoát xác như thế.
Thực vậy, khi trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa Giêsu, có lẽ ông chỉ muốn thoả mãn tính tò mò của mình cứ chẳng có nghĩ ngợi xa xôi gì. Thế nhưng thật bất ngờ là sự việc tưởng như vô nghĩa này đã đưa ông đi rất xa, đánh dấu một khúc quanh, mở ra một huyết mới có tính cách quyết định toàn bộ cuộc đời của ông.
Từ đó chúng ta nhận thấy Chúa thường đến với chúng ta, thường bước vào cuộc đời chúng ta một cách bất ngờ, bằng những con đường đầy bí ẩn, hầu dẫn chúng ta tới những nơi thật xa lạ. Ngài luôn chủ động, đưa ra sáng kiến và chọn lựa chúng ta như lời Ngài đã phán: Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con.
Phần chúng ta là phải nắm lấy cơ hội một cách đúng lúc, chấp nhận sáng kiến của Chúa và cùng bước đi với Ngài trên nẻo đường Ngài đã mở ra. Điều quan trọng đó là đừng lỡ hẹn với Ngài. Bởi vì cơ hội bỏ qua sẽ không bao giờ trở lại.
Nếu như ngày hôm nay, ông Giakêu không muốn xem thấy Chúa hay không đón nhận Ngài đến thăm nhà ông, thì có lẽ đã chẳng xảy ra sự gì, để rồi ông mãi mãi vẫn là một người thu thuế, mải mê làm giàu một cách bất chính. Thế nhưng ngày hôm nay, một con đường mới đã mở ra cho ông, một cuộc sống mới đã bùng lên trong ông và một con người mới được khai sinh nơi cõi lòng ông. Cuộc đổi đời của ông đã diễn ra tức khắc và triệt để.
Tức khắc bởi vì ông không xin được gia hạn, được trì hoãn, và bởi vì ông biết rằng nếu không thực hiện ngay hôm nay, ngay lúc này thì cũng sẽ chẳng bao giờ thực hiện được.
Triệt để bởi vì ông sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của cuộc hoán cải: chia tài sản cho người nghèo túng, đền bù gấp bốn cho những thiệt hại mình đã gây nên. Cuộc hoán cải nào cũng có cái giá phải trả. Có sẵn lòng trả thì mới là hoán cải thực sự.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã quyết tâm trở lại với Chúa biết bao nhiêu lần, nhưng có lẽ chưa một lần chúng ta đã trở lại thật sự với Ngài. Phải chăng, vì sợ phải trả cái giá đắt ấy mà chúng ta cứ còn trì hoãn, và thoái thác mãi.
8.Ánh mắt yêu thương
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?
2) Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?
3) Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4) Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?
9.Chúa Nhật 31 TN
Anh chị em thân mến.
Nhạc sĩ Trần Tiến có một bài hát đi vào lòng người, không phải chỉ những người Việt Nam, nhưng cả người ngoại quốc đến Việt Nam và biết tiếng Việt khá một chút, cũng biết bài hát này.
Bài hát diễn tả tâm tình của một chú bé miền quê, mê tiếng đàn của anh lính xa nhà. Không biết “Đàn anh hát câu gì mà sao chú bé cười ngộ ghê, cũng không biết đàn anh hát câu gì, mà sao chú bé ngồi mơ màng. Hạnh phúc quá đơn sơ....”
Hạnh phúc quá đơn sơ thật, với tiếng đàn nghiệp dư, tiếng đàn để giải sầu cho riêng mình, mà cũng có người tìm được niềm vui. Chú bé tìm đến tiếng đàn của anh lính, chú bé ngất ngây dường như bước vào một cỏi thần tiên.
Cũng một cuộc đi tìm, một biến cố không chỉ làm ngất ngây lòng người trong phút chốc, nhưng cái tìm gặp nầy làm thay đổi cả một đời người. Đó là sự tìm gặp giữa Chúa Giêsu và Giakêô.
Giakêô muốn tìm Chúa, muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng lực bất tòng tâm, tầm vóc của ông không đủ để vượt qua đám đông để cho ông có thể nhìn thấy Chúa Giêsu. Thân phận của ông cũng khó công khai đến gần những người được gọi là đạo đức, vì ông là thủ lãnh người thu thuế, là người mang tội với dân tộc. Nhưng ông không chịu thua số phận, ông vượt lên số phận, tìm cách vượt qua những trở ngại.
Với những cố gắng như thế, ông đã nhận được hơn cái mình mơ ước. Ong chưa nhìn thấy Chúa Giêsu thì Ngài đã nhìn thấy ông, không chỉ thế, Ngài còn gọi đúng tên ông, ngoài sức tưởng tượng, Ngài còn nhả ý ngụ tại nhà ông. Niềm vui tràn ngập cỏi lòng, ông bất chấp những người chung quanh, bất chấp hoàn cảnh sống, cái hoàn cảnh không cho ông có cơ hội đỗi đời. Giờ đây ông ông không bỏ lở cơ hội mà ông có được. Ong làm một cuộc đỗi mới ngoạn mục, việc làm của ông còn hơn việc làm của một người đạo đức bình thường, ông đã sẵn sàng và Chúa Giêsu nhìn thấy sự đỗi mới này nên Ngài thốt lên: “Hôm nay nàh này được ơn cứu độ, vì ông cũng là con cái Abraham”.
Một sự tìm kiếm, một cái nhìn thông cảm, hơn cả tiếng sét ái tình, một cuộc chạm trán làm thay đổi đời người. Giakêô đi tìm và đã tìm được hơn cái mình muốn tìm, ông không thể nào ngồi yên bất động, nhưng ông nghe tiếng Chúa nên ông phải đi, phải hành động. Không phải chỉ hành động bằng đôi tay, nhưng bằng cả con người của ông. Ong không để cho con người mình bất động trong những gì mà người khác gọi là tội lỗi, ông đã bước ra khỏi đó, để trở thành một người mới hoàn toàn.
Câu chuyện của ngày xưa, nhưng không xưa, câu chuyện vẫn còn mang tính cách hiện đại cho những người thời nay, cho mỗi người trong chúng ta. Giakêô chỉ ao ước nhìn thấy Chúa, nhưng ông được Chúa đến ở tại nhà và như thế sự đỗi mới đã xẩy ra. Cũng như chú bé trong bài hát Mặt Trời Bé Con của nhạc sĩ Trần Tiến, chỉ cần tìm đến nghe tiếng đàn, chú bé có thể đỗi đời được từ buồn, đã đỗi sang vui và mơ màng. Còn chúng ta, chúng ta có tìm và chúng ta có gặp được gì chưa?
Mỗi người để ra một giây phút nhìn lại mình, xem đời sống mình có gì mới hơn so với những ngày tháng trước đó. Hay chúng ta vẫn tự hào về đời sống của mình, rồi tự cho là thánh thiện đạo đức, nên không cần phải thay đổi gì nữa. Nếu có thay đổi thì người khác, những người tội lỗi, những người mà chúng ta đã từng chỉ trích và khinh dể họ, vì họ có đời sống mà chúng ta cho là không xứng đáng. Như thế thì chúng ta đang đứng về phía đám đông đi theo Chúa Giêsu, họ cũng cho mình là đạo đức thánh thiện xứng đáng hơn Giakêô, họ đã che khuất tầm nhìn của ông, họ đã khinh dể chỉ trích ông và chỉ trích cả Chúa Giêsu. Họ cũng đã tự hào về chính mình. Nhưng Chúa Giêsu không ghé vào nhà của người nào trong họ, mà lại ghé nhà người mà họ khinh dể, vì ông ta nhìn thấy chính mình và biết thay đổi cuộc sống.
Còn chúng ta, không phải Chúa Giêsu chỉ ghé qua, nhưng Ngài luôn ở trongtâm hồn mỗi người. Ngài không chỉ nhìn và kêu gọi, nhưng Ngài hằng hoạt động và kêu mời liên tục. Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết từ bỏ những gì làm cho chúng ta trở thành không xứng đáng, khi đó chúng ta cũng được nghe Chúa Giêsu nói như đã nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”.
Xin Chúa chúc lành cho cuộc sống chúng ta mỗi ngày biết thay đổi cho tốt hơn.
10.Có một cái nhìn như thế – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa, có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Abraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.
11. Ánh mắt và tiếng gọi của Lòng Xót Thương
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Chúa Giêsu vẫn đang trên hành trình lên Giêrusalem và đây là chặng đường cuối. Thánh Luca đã kể cho chúng ta về cuộc gặp gỡ thật đẹp giữa Chúa và Giakêu- ông xếp của ngành thuế trong thành phố Giêrikhô, một người giàu có khét tiếng. Đó là cuộc gặp gỡ của Lòng Thương Xót đem đến ơn hoán cải cho Giakêu, một người mà đối với mọi người, nhất là với giới Pharisiêu, ông như kẻ đã hư mất. Người ta coi ông là người tội lỗi, người cộng tác với thế lực nước ngoài để hại dân mình, người gian lận và bất công, sống trong giàu có và xa hoa.
Dù sống trong danh vọng, tiền của dư thừa, nhưng Giakêu vẫn chưa thỏa mãn. Trong ông như còn thiếu thốn điều gì đó mà hôm nay ông đang tìm kiếm để thấy, gặp: Chúa Giêsu- Đấng mà ông muốn biết Người là ai? Giakêu nóng lòng thấy Chúa, mà đám đông lại như bức tường dựng trước con người thấp bé của ông! Ông phải chạy vượt lên phía trước. Ông không ngại người ta nhạo cười mình. Bằng mọi cách, ông phải thấy được Chúa Giêsu. Một phương cách đầy sáng tạo được ông áp dụng. Không bận tâm đến địa vị, gia thế, ông leo lên một cây cao, dưới những ánh mắt mỉa mai của người xung quanh nhận ra ông. Bất chấp tất cả, ông đã thỏa lòng...
"Khi Chúa Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên" Chắc hẳn Giakêu đã nghe người ta nói về Chúa Giêsu, nên ông chỉ mong ước một điều "được thấy Chúa". Thế nhưng, Chúa đã dừng lại, ngước mắt lên cành cây mà Giakêu đang vắt vẻo trên đó, nhìn ông và gọi đúng tên ông. Giakêu tìm mọi cách để thấy Chúa nhưng Chúa đã nhìn thấy ông, thấu rõ từng cử chỉ của ông. Chúa nhìn sâu trong trái tim ông và biết rõ lòng chân thành nơi ông. Từ khi ông chưa thấy Chúa, Chúa đã thấy rõ ông. Giờ đây, không chỉ thấy, nhưng ông còn được phúc đón rước Chúa vào nhà " Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" Chúa nói với Giakêu như với một người bạn lâu ngày Người gặp lại. Còn niềm vui nào lớn hơn. Vượt quá những gì ông mong ước. Có lẽ ông nghĩ đời mình đã tàn. Thế nên, nghe lời Chúa ngỏ, "Ông vội vàng xuống và mừng rỡ đón rước Người."
Từ cái nhìn của Chúa, Giakêu đã cảm nhận ông được yêu thương. Chúa có thể nhìn Giakêu, nói với ông một câu rồi tiếp tục đi. Chúa cũng có thể đến trọ nhà người Dothái tốt lành khác. Thế nhưng không, Chúa lại chọn ở lại nhà Giakêu, "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!" Chắc chắn Chúa đã biết lòng người Pharisiêu và nhiều lần họ lên án Chúa "Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!"( Lc 5,30) Dưới mắt họ, lại lần nữa Chúa đón tiếp người thu thuế, phường tội lỗi và ăn uống với họ. Đây là một cớ vấp phạm cho người Dothái vì họ chẳng nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Họ cũng không đón nhận được Lời mà nhiều lần Chúa đã nhắn nhủ "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn"(Lc 5,32) và "Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối"(Lc 15,10) Nhưng chỉ Giakêu, chỉ những con người khiêm hạ nhìn nhận thân phận tội lỗi trước Chúa, mới nhận ra lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa nơi Người.
Với cung cách hành xử đầy tràn lòng thương xót, Chúa đã cảm hóa lòng của Giakêu. Ông thưa với Chúa rằng "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Giakêu đã thực sự được biến đổi. Ông được ân sủng và tình yêu thương xót của Chúa đụng chạm. Ông cảm nhận Chúa xót thương ông, tha thứ cho ông là kẻ ngập tràn tội lỗi. Những gì ông có thể làm bây giờ là trao lại tình thương cho anh em qua lòng quảng đại chia sẻ phân nửa tài sản. Có Chúa, có tình yêu Chúa là tất cả đối với ông. Ông sám hối về những lỗi phạm, thiếu sót với tha nhân và cần phải đền trả thiệt hại.
Từ đây, Giakêu trở nên ngay lành và công chính, bởi vì: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến nhà này...Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." Vâng, hôm nay, Chúa Giêsu muốn cứu Giakêu, Người muốn cứu tất cả những ai tội lỗi, biết thống hối ăn năn. Chúa tha thứ, chữa lành và phục hồi phẩm giá là con cái Abraham cho Giakêu, và còn hơn nữa là con cái Thiên Chúa tình yêu. Lòng thương xót của Chúa thật lớn lao, bao phủ những con người tội lỗi. Người chỉ muốn đi tìm, yêu thương, tha thứ và cứu độ con người.
Hôm nay, Chúa vẫn mỗi ngày dừng lại trước chúng ta, ánh mắt Người vẫn nhìn chúng ta và nói với chúng ta như đã nói với Giakêu "Hôm nay Ta muốn ở lại nhà con" Điều quan trọng là ta có ước ao gặp Chúa, vội vàng, nhiệt tình đón Người, mở rộng cánh cửa tâm hồn để Người ở lại, yêu thương, tha thứ, ban ơn cứu độ và biến đổi chúng ta hay không? Chúa muốn đến với chúng ta và cứu chúng ta, nhưng phần ta có muốn hay chăng, như lời thánh Augustinô nói "Để cứu độ con, Chúa cần con đáp lời". Ước mong sao mỗi chúng ta hãy biết đứng lên, chạy đi trước, tìm mọi cách để gặp được Chúa. Khi ấy ta sẽ thấy bầu trời tình yêu và lòng thương xót bao la của Chúa bao phủ ta và ta sẽ được biến đổi.
Hôm nay, còn đó biết bao anh chị em mang hình ảnh của Giakêu với nhiều trạng thái. Những người chỉ vì hoàn cảnh, cuộc sống đưa đẩy, đã bị gạt ra khỏi xã hội và Giáo Hội. Những anh em thấp cổ bé miệng, bị khinh miệt, cô lập, không người thân cận. Những anh chị em sinh viên hay di dân nghèo, quê mùa,...đến sống giữa thành phố xa lạ chẳng quen biết ai và cũng khó hòa nhập với Giáo xứ mới! Nhiều lắm những Giakêu của thời đại hôm nay đang ở xung quanh chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng hãy noi gương Chúa "Tìm và cứu những gì đã hư mất", rẽ vào con đường của thành Giêrikhô là những ngôi nhà lụp xụp, cúi nhìn những người anh em sống bên cạnh ta để cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ và giúp họ hội nhập. Nhất là dẫn họ trở về với Chúa và đưa Chúa đến ở lại nhà của anh chị em. Có như thế, ơn cứu độ của Chúa mới đến được với muôn dân trên Quê hương Việt thân yêu của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Tình Chúa đã yêu thương chúng con. Xin từng ngày, hãy dõi mắt nhìn, xót thương gọi chúng con ra khỏi những đam mê tội lỗi, xuống khỏi những bóng cây kiêu căng và thực lòng thống hối trở về làm con cái của Chúa. Amen.
12.Tình thương làm thay đổi lòng người
“Giang sơn dễ đổi bản tính khó dời”. Đó là cái nhìn của nhiều người. Thế nhưng dù sao thì “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bản tính đó nhiều khi được hình thành do nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì thế chúng ta có cơ sở để nói rằng lòng người có thể thay đổi. Sự thay đổi ấy sẽ tùy thuộc vào cố gắng nỗ lực của bản thân đương sự và nhất là nhờ vào tình yêu thương của tác nhân bên ngoài.
Điều khẳng định trên đây được minh chứng qua hình ảnh ông Dakêu trong đoạn Tin mừng hôm nay. Trước hết chúng ta tìm hiểu những chi tiết cho thấy sự cố gắng nỗ lực của ông. Ông là thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có (Lc 19, 2). Có lẽ, bấy nhiêu vẫn chưa đủ đối với ông, tự đáy lòng mình ông vẫn còn khao khát một điều gì đó và ông nghĩ là chỉ có Chúa Giêsu mới có thể làm cho ông được thỏa lòng. Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêricô nên ông tìm cách thấy mặt cho được Người. Là thủ lãnh những người thu thuế và do dáng thấp bé quá nên chắc ông không được mọi người ủng hộ. Dầu vậy, ông không chịu đầu hàng với số phận. Đúng như ông bà chúng ta nói cái khó nó ló cái khôn nên: “Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”. (Lc 19, 4).
Những nỗ lực của ông đã được Chúa Giêsu đền bù thỏa lòng vượt khỏi những gì ông mong đợi. “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19, 5b). Câu nói này xuất phát từ một tình thương vô bờ bến của Chúa Giêsu dành cho ông. Một con người dường như không còn giá trị, không còn ích lợi gì cho đời nữa. Thể lý thì thấp bé, đã vậy còn là thủ lãnh những người thu thuế. Đối với xã hội Do thái nghề thu thuế được coi là nghề tội lỗi công khai. Cho nên, không ai còn ưa thích ông, mọi người đều tìm cách xa lánh. Thiết nghĩ ông sẽ rất đau khổ. Nỗi thống khỗ ấy không ai nhìn thấy nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy.
Chi tiết hết sức đẹp trong đoạn Tin mừng hôm nay là sự thay đổi của ông Dakêu: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19,8b). Từ một con người chỉ biết thu góp tích trữ cho mình bây giờ ông đã thay đổi trở thành một con người biết mở ra cho người khác.
Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình như lạc lỏng giữa cộng đoàn vì tội lỗi hay vì lý do nào đó. Không còn ai hiểu mình, mọi người đều xa lánh. Những lúc ấy chúng ta hãy tin tưởng đặt trọn con người mình vào vòng tay yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy noi gương ông Dakêu vượt qua số phận và dự luận để đến múc lấy nguồn ơn của Chúa Giêsu. Và rồi chúng ta cũng được kêu mời noi guơng Chúa Giêsu dùng tình thương mà đến với anh chị em mình. Biết đâu nhờ tình thương của mình mà họ được thay đổi tốt hơn.
13.Hôm nay nhà này được giải thoát.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sinh động và thú vị về thái độ của một tay trùm thu thuế có tên là Giakêu. Giakêu là một con người khá đặc biệt. Đặc biệt vì ông ta có vóc dáng quá khiêm tốn, vừa nhỏ vừa lùn. Đặc biệt vì ông ta là một người giàu có ai cũng biết, nhưng sự giàu có của ông là do nghề nghiệp thu thuế, một nghề mà đối với người Do thái bấy giờ là nghề tội lỗi. Tội lỗi với dân tộc vì làm tay sai cho ngoại bang, cho đế quốc đàn áp và bóc lột đồng bào. Tội lỗi với Gia vê Thiên Chúa và với lề luật, vì đã tham nhũng và thủ lận tiền chung bỏ vào túi riêng.
Một người như ông mà lại tò mò đến nỗi phải leo lên cây sung, vì ao ước chỉ được xem thấy Chúa Giêsu và cuối cùng không những được xem thấy mà còn đối diện với Ngài, tiếp đón Ngài vào nhà. Cuộc tiếp xúc này dẫn ông đến việc tự nộp mình vào cuộc đánh tư sản mại bản của chính bản thân ông: “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ phân phát cho người nghèo và nếu tôi có gian lận của ai, tôi sẽ đền gấp bốn”.
Thái độ của Giakêu không phải là thái độ rửa tiền hay chạy tội của một kẻ quan chức tham ô thủ đoạn. Nhưng là một thái độ chân thành hối cải, một thái độ của người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ của Ngài. Một lần và chỉ một lần giữa Đức Giêsu và Giakêu đã làm biến đổi cả cuộc đời. Nhưng dầu sao đi nữa, điều làm cho chúng ta lưu ý chính là dung mạo đích thực của Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại.
Giakêu hôm nay tôi lưu lại nhà ông và hôm nay ơn được cứu độ đã đến cho nhà này.Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất. Chúa Giêsu không những đã vượt qua và còn phá đổ những giới hạn và những gía trị của tập tục Do thái và những quan niệm của những người biệt phái. Ngài la cà tiếp xúc với những người tội lỗi, Ngài vào nhà và ăn cơm với những người thu thuế. Ngài để cho người đàn bà tội lỗi quấn quít rồi để cho bà lấy tóc lau chân Ngài. Ngài đã cứu chữa những người bệnh tật trong ngày Sabbat.
Hình ảnh của Đức Giêsu cho thấy một Thiên Chúa giống như bài đọc 1 sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới ứng kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa luật lệ và cứu sống. Ngài đến để gặp gỡ những người mà Ngài yêu thương, Ngài tìm kiếm và cứu độ họ”.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt uếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính.
14.Trở về – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi. Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.
Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất (Kn 11, 22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tùy thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hóa: Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa (Kn 11, 26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên Chúa từ đời này tới đời kia.
Luật Chúa như kim chỉ nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa (Kn 12, 2). Đừng coi thường những huấn lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan lạc.
Phúc âm kể câu truyện Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19, 8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hóa được một tâm hồn tội lỗi. Với lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham tội lỗi.
Chúa Giêsu rong ruổi đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở về. Chúa đã tìm và đi cứu: Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19, 10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết tin mừng cứu độ. Đôi khi chính chúng ta qúa quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng trụy lạc, chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.
Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi, tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.
Tội lỗi cứ bám sát cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn. Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.
Chúng ta có trí khôn để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lập đi lập lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần thiết.
Trong thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo rằng: Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ (2Thes 2, 2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân tình với Chúa và với anh chị em.
Lạy Chúa, thân con mỏi mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay.
15.Hoán cải đích thực – Radio Veritas Asia
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.
Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.
16. Chúa Nhật 31 TN C
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống người Kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện kiên trì, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ. Sở dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
Đời sống con người gắn liền với những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà người ta háo hức như gặp người yêu, gặp một nhân vật nổi tiếng, gặp một người thân xa cách đã lâu... Tuy nhiên, gặp kẻ khó ưa, gặp tên trấn lột, tên lường gạt... thì chẳng ai mong muốn. Ngoài ra lại có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa, có sức hoán cải, làm thay đổi cả con người. Cuộc gặp gỡ như thế không chỉ dừng lại ở gặp mặt, gặp gỡ xã giao, nhưng là cuộc gặp gỡ thâm sâu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Trang Tin Mừng hôm nay kể lại cho húng ta cuộc gặp gỡ hết sức thú vị giữa Đức Giêsu và Giakêu. Đức Giêsu lại muốn kết thân với Giakêu, kẻ tội lỗi bị mọi người xa lánh. Thế nhưng trong cuộc kết giao này, Đức Giêsu đã cứu được một tội nhân khỏi vòng tội lụy; còn Giakêu, dù là chia nửa gia tài của mình cho người nghèo, nhưng lại được mối lợi thật to. Ông và cả gia đình đón nhận được hồng ân cứu độ. Quả là một cuộc gặp gỡ diệu kỳ đưa đến hoán cải tận căn. Ông Giakêu không những là một người thu thuế, mà còn là thủ lãnh những người thu thuế, tức là một chủ thầu thuế má, nên ông cũng là một người rất giàu có. Người Do thái rất ghét những người thu thuế, coi họ là những người tội lỗi, không thể ăn năn hối cải, không thể tha thứ, làm tay sai cho ngoại bang: thu thế cho đế quốc Rôma. Trong nghề đó, người ta có thể bày rất nhiều trò ma giáo để ăn hối lộ những kẻ muốn trốn thuế, hay muốn giảm thuế phải đóng. Bởi đó, người Do thái ghê tởm những người thu thuế. Ông Giakêu là người như thế. Không những ông bị thiên hạ khinh dể mà còn có thân hình thấp lùn. Tuy nhiên, Ông muốn tìm cách để xem Chúa Giêsu là người như thế nào. Nhưng dân chúng chen chúc chung quanh Chúa đông quá. Ông quyết không bỏ lỡ cơ hội. Một người chủ thầu phải có nhiều sáng kiến. Ông chạy tới trước và leo lên một cây sung bên đường. Ông yên tâm chờ đợi, vì Chúa Giêsu sắp đi ngang qua đó. Lòng ước muốn của ông thật là mãnh liệt, vì ông không sợ đám đông chế diễu. Ông chỉ còn biết một điều là làm sao thấy được mặt Chúa Giêsu. Quả thực, ông đã có thiện chí. Bấy nhiêu đã đủ để Chúa trọng thưởng tấm lòng chân thành của ông.
Giakêu muốn gặp mặt Đức Giêsu, không kèn, không trống, không kẻ hầu người hạ. Ông đi một mình trơ trụi, bị đẩy lại sau những kẻ tò mò, và điều hạ nhục ông là ông phải làm một chuyện kỳ dị đối với một viên chức cao cấp. Có thể nói ông đã làm một bước nhảy vọt, vượt trên mọi dư luận, mọi thành kiến. Ông làm tất cả những điều đó cốt để tận mắt thấy Đức Giêsu. Quả là đáng khâm phục! Thế nhưng, Đức Giêsu lại làm một cử chỉ đáng kinh ngạc hơn. Trong lúc được đám đông dân chúng vây quanh và hết lòng ngưỡng mộ, Người lại tách mình ra khỏi đám đông hỗn độn ấy để đến với một kẻ tội lỗi. Vì lòng thương xót đối với tội nhân, Người chẳng màng đến những lời xì xầm, bàn tán hay dị nghị. Đấng Thánh của Thiên Chúa hạ mình xuống làm bạn với một người tội lỗi. Tình yêu vượt lên mọi thành kiến, mọi trở ngại, mọi rào cản.
Chúa Giêsu đi tới, Ngài nhìn lên và gọi đích danh ông. Điều quan trọng là Chúa không chỉ đi ngang qua cho ông Giakêu nhìn Chúa, chính Chúa nhìn lên và gọi tên ông: “Giakêu! xuống mau, hôm nay ta đến nhà ông”. Chúa muốn đến với ông và đến tận nhà ông. Được đáp ứng quá sự trông mong. Ông muốn thấy Chúa thì Chúa đến tận nhà để ông nhìn cho đã. Chúa quảng đại vô cùng. Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Nhưng đám đông lại xầm xì với nhau. Họ khó chịu với Chúa Giêsu, vì Chúa vào trọ nhà một người tội lỗi. Ông Giakêu đã tìm ra giải pháp để vượt qua cái giới hạn của tấm thân lùn. Liệu ông có tìm được giải pháp cho thân phận tội lỗi của ông để thắng được lời xì xầm kia không? Ông không sợ đám đông chế diễu khi leo lên cây sung để nhìn mặt Chúa, thì Chúa đã đáp lại, Ngài không sợ đám đông xầm xì khi yêu cầu ông đón Ngài về ở nhà ông. Đứng trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn. Ông sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, ông thưa với Chúa là đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo. Không những thế, ông thấy mình còn phải thực hiện sự công bình nữa: làm thiệt ai ông sẽ đền gấp bốn. Lòng quảng đại của ông sánh với lòng quảng đại của người đàn bà tội lỗi: ông yêu mến nhiều vì đã được tha nhiều. Lòng yêu mến của ông đối với Chúa Giêsu diễn tả thành lòng yêu mến người nghèo và những người đã bị ông bóc lột.
Sau khi ông Giakêu tuyên bố quyết định của ông, thì Chúa Giêsu nói: “Hôm nay nhà này được cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Ông Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ông Dakêu đã bị đám đông loại trừ, vì thân ông lùn và phận ông tội lỗi. Nhưng Chúa đã rời đám đông kiêu hãnh kia để đi tìm ông và đem ơn cứu độ cho ông. Chúa đã nhìn ông và cứu ông. Cái nhìn của Chúa, cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt. Ông Giakêu đã tìm cách nhìn thấy Chúa, nhưng ông cũng đã để cho Chúa nhìn ông và chinh phục ông. Ông được cứu độ.
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống Kitô hữu chúng ta, điều cốt yếu của Tin Mừng Đức Kitô chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải do nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp ông Giakêu sám hối và tìm lại được đời sống luân lý tốt đẹp hơn. Chính Thiên Chúa đã đi tìm Giakêu, trước khi ông tìm kiếm Ngài. Ngài đã mời gọi ông trước khi ông thấy gặp Ngài. Quả thực, đúng như điều thánh Phaolô đã xác tín trong thơ Rôma như sau: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Thiên Chúa đã luôn luôn tìm kiếm chúng ta, mọi người và từng người, chỉ có điều chúng ta có ao ước gặp Ngài hay không? Chúng ta có dám vượt qua đám đông xô bồ đang bon chen xô lấn cuộc đời để đến với Ngài hay không? Có dám mạnh dạn để đáp trả lời mời gọi của Ngài và đón tiếp Ngài hay không? Nếu chỉ một lần gặp gỡ Đức Giêsu mà Giakêu đã đánh đổi tất cả thì chúng ta hằng ngày đến nhà thờ để hiệp dâng Thánh Lễ, chúng ta có sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn và có dám để Thiên Chúa biến đổi chúng ta hay không? Điều còn lại của chúng ta là biết lắng nghe và sẵn sàng đáp trả, dám can đảm sám hối và canh tân đời sống để được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đời sống đức tin để nhận ra tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta. Xin cho chúng ta can đảm để sẵn sàng đáp trả và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
17. Giakêu, một con lừa chui qua lỗ kim – RC.
Ông Giakêu thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc. 19, 8b-10)
Ông Giakêu thân hình thấp bé, đứng đầu những người thâu thuế ở thành Giêricô, những đoàn người buôn bán từ Ả-rập qua thành đều phải chịu thuế nhập thị. Như thế, ông là người rất giàu, nhưng bị người Do thái khinh chê là hạng người tội lỗi công khai và cộng tác với quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính ông là người được Thiên Chúa gửi Thánh Thần đến lôi kéo ông về cùng Đức Giêsu.
Ông “Sếp” trở nên trẻ nhỏ
Các trẻ nhỏ sẵn lòng trèo lên cây cao quá tầm đám đông để xem. Ông Giakêu, mặc dầu là “xếp”, địa vị cao và giàu sang đã nên giống trẻ nhỏ. Ông không sợ thiên hạ nhạo cười và hạ nhục. Được tiếng nội tâm thúc đẩy, ông tò mò trèo lên cây nhìn xem Đức Giêsu bất kể ra sao thì sao.
Đức Giêsu vị ngôn sứ tuyệt vời, rất nhạy bén với hành động của Thánh Thần nơi người khác. Người nhìn lên và thấu suốt tận con tim của Giakêu. Người gọi tên ông, đó là tiếng gọi của tình yêu. Người ra lệnh cho ông: “Hãy xuống mau đi, vì hôm nay tôi ở lại nhà ông”. Sứ điệp của Đức Giêsu đã kêu gọi ông. Người phải dắt đưa chiên lạc của nhà Israel về.
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu chẳng hiểu gì sứ điệp của Người. Đức Giêsu vừa tỏ quyền phép của Thiên Chúa chữa người mù được thấy và bây giờ tự mời mình vào ở nhà một người tội lỗi. Vậy Người không thể là Đấng Thiên sai Cứu thế. Người trong sạch không thể đồng cư với kẻ ô uế. Như thế, Đức Giêsu đã nên cớ cho người ta vấp phạm trong suốt cuộc đời cứu thế của Người đúng như ông Si-mê-on nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được chỗi dậy” (Lc. 2, 34).
Và tự hủy mình đi
Niềm vui đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để trở về thật chứa chan, Giakêu đã vui mừng đón rước Đức Giêsu vào nhà. Ông vui mừng chính thức công bố trở về và hứa bồi thường đầy đủ gấp bốn lần luật buộc, cùng hiến nửa gia tài làm việc bác ái giúp người nghèo. Ơn Chúa đầy tràn, ông đáp lại bằng tấm lòng thiện chí đầy tràn.
Đức Giêsu quay lại phía đám đông giúp họ hiểu rằng Giakêu đã tỏ ra xứng đáng là con cháu thật của tổ phụ Áp-ra-ham, có lòng quảng đại đặc biệt, mặc dầu nghề nghiệp ông thuộc lớp người tội lỗi. Đức Giêsu đem ơn cứu độ đến nơi nào biết tiếp đón Người đến ở.
18. Chia sẻ – Lm Giuse Lê Minh Thông
Câu chuyện Giakêu quá quen thuộc, nhưng lại là một bức tranh sống động, phong phú, tinh tế và là lời chất vấn và mời gọi qua mọi thời đại. Trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi ngang qua Giê-ri-khô và xảy ra câu chuyện ông Giakêu với những nét tương phản hài hước và độc đáo. Nhân vật chính được giới thiệu qua bốn chi tiết: (1) Tên gọi: Giakêu, (2) Nghề nghiệp: Đứng đầu những người thu thuế, (3) Địa vị xã hội: Người giàu có, (4) Ngoại hình: thấp bé, ngôn ngữ bình dân gọi là lùn.
Trong câu chuyện, nhân vật Giakêu có những nét tương phản vừa theo quan điểm người đời, vừa theo quan điểm tâm linh. Theo người đời, Giakêu là người có địa vị, có quyền và có tiền, ba yếu tố này làm nên sức mạnh và uy thế của một con người. Ông ở cao hơn những người bình thường, nhưng ông lại thua kém họ về chiều cao, nên tầm nhìn bị thu hẹp và bị hạn chế. Ông muốn thấy Đức Giêsu, nhưng đám đông trở thành chướng ngại cho điều ông ước muốn. Tuy nhiên, con người không hơn nhau ở chiều cao mà hơn nhau ở cái đầu; Giakêu quyết định thực hiện ước muốn thấy Đức Giêsu bằng cách trèo lên cây sung. Quyết định này tạo nên tương phản giữa việc ông đạt được mục đích là thấy Đức Giêsu, nhưng phải hy sinh thể diện. Một người có quyền hành và địa vị như ông mà lại leo lên cây sung, mượn cây sung để cải thiện chiều cao của mình, thì chẳng gì đề cao cái sự thấp bé của ông trước mọi người.
Đáng chú ý hơn là tương phản theo quan điểm tâm linh. Ông Giakêu là người quyền thế trong xã hội, nhưng đám đông lại gọi ông là “người tội lỗi”, vì khi Đức Giêsu quyết định ở lại nhà ông, mọi người xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Câu kết của Đức Giêsu: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” đã xếp Giakêu vào loại những người đã mất, nhưng được Đức Giêsu cứu.
Tương phản trên bình diện tâm linh và cách xử sự của Giakêu để xem thấy Đức Giêsu đã được Người đánh giá cao. Việc ông dám trở trên trò cười cho thiên hạ để tiếp cận được Đức Giêsu cho thấy thiện chí của ông. Nhờ hành động này, ông trở thành nhân vật chính của câu chuyện với những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Khi Đức Giêsu nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (19,5) Bản văn chơi chữ khi viết Đức Giêsu nhìn lên và bảo ông xuống, nghĩa là trở về với chiều cao đích thực của mình, trở về với con người thực của mình, để không những thấy Đức Giêsu mà còn để đối thoại với Người, để quyết định bán nửa tài sản cho người nghèo và đền gấp bốn cho những ai mình đã làm họ bị thiệt.
Điều mới mẻ so với trình thuật người thu thuế Lê-vi ở chỗ Lê-vi đã bỏ nghề thu thuế và đi theo Đức Giêsu, còn ông Giakêu có bỏ nghề đứng đầu những người thu thuế hay không, bản văn không cho biết. Trình thuật chỉ nhấn mạnh tấm lòng của ông đối với người nghèo và việc ông chú trọng sự công bằng. Có thể hiểu Giakêu có thể tiếp tục đứng đầu những người thu thuế mà vẫn được cứu. Điều quan trọng là ước muốn gặp Đức Giêsu, thực hiện ước muốn này, và khi gặp thì mừng rỡ đón tiếp Người.
Trình thuật nói đến sự gặp gỡ tốt đẹp giữa hai con người với hai sự tìm kiếm. Giakêu tìm cách để thấy Đức Giêsu còn Đức Giêsu đang tìm và cứu những gì đã mất. Chính sự gặp gỡ giữa hai con người đang tìm kiếm này làm cho Giakêu trở thành người được cứu và làm tỏ lộ sứ vụ của Đức Giêsu.
Điểm độc đáo của bản văn ở ngay trong trong cách trình bày nhân vật Giakêu. Ông là người vừa thấp vừa cao. Cao về địa vị xã hội, nhưng thấp bé về chiều cao. Thấp bé thể lý nhưng cao quý trong thiện chí tìm gặp Đức Giêsu. Ông có quyền hành và giàu có trong xã hội nhưng bị coi là người tội lỗi, là người đã mất, cần được cứu. Nhân vật Giakêu trở thành điển hình cho hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Đức Giêsu là Người mang lại ơn cứu độ cho ông.
Đầu câu chuyện, Giakêu được giới thiệu như là người có mọi thứ: Chức vị, tiền bạc và quyền hành; nhưng ông đang thiếu và đang đi tìm cái mà tiền bạc và chức quyền không đem lại cho ông. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, mục đích trước tiên là xem cho biết con người mà ông chưa biết.
Điểm độc đáo thứ hai là Đức Giêsu không dạy giáo lý cho Giakêu, Người không bày tỏ tư cách Con Thiên Chúa của Người. Ngược lại Người chỉ nói một câu tỏ bày sự thân thiện và ưu ái của Người dành cho ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Bài học cho chúng ta hôm nay là liệu sự ở lại của Đức Giêsu có khả năng làm cho chúng ta hoán cải, có khả năng làm cho chúng ta thuộc về Người, làm cho chúng ta biết chia sẻ với người nghèo và tôn trọng sự công bằng hay không. Câu chuyện Giakêu vẫn là lời chất vấn, lời mời gọi chúng ta trong cách chúng ta tìm gặp và đón tiếp Đức Giêsu, trong cách chúng ta sống niềm tin và thể hiện niềm tin của mình.
19. Niềm vui của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi - như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và "vội vàng tụt xuống". Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: "Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ." Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy
20. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Cách đây không lâu, trên trang “Tuổi Biết Buồn”, tôi có đọc được đôi dòng tâm sự như sau: “Em năm nay 21 tuổi. Sang Mỹ được 3 năm. Năm đầu sống rất vui vẻ hồn nhiên, không buồn phiền gì về vấn đề tình cảm. Năm thứ hai thì con tim bắt đầu lúc lắc. Năm thứ ba em bắt đầu yêu thật. Em đã quen một anh tên A. Lúc đầu chỉ coi anh là anh trai, nhưng tình cảm len lỏi vào tim lúc nào không biết. Anh lo cho em từng li từng tí. Càng ngày em càng cảm thấy mến anh. Nhưng có điều anh hơn em đến cả 18 tuổi. Lấy anh thì cũng được, nhưng em lại sợ cái cảnh ‘cha già con mọn’. Thế rồi em lại quen một anh khác tên B. Anh này thương em, cũng lo lắng cho em. Hơn em chừng 7, 8 tuổi. Nhưng có điều cũng khó nghĩ vì B lại thấp hơn em, lại không có đạo nữa. Không trở lại, bố em không chấp nhận là cái chắc. Không lớn hơn vài 'inches' nữa thì tương lai của em sẽ không biết giầy, guốc cao gót là gì?”.
Đọc qua tâm sự đó, tôi chợt nhớ đến hình ảnh của một người rất thấp trong Phúc âm: Giakêu, một ty trưởng quan thuế tại thành phố Giêricô, nằm cách Giêrusalem 15 dặm về hướng đông bắc.
Giakêu không những được mô tả như một người thiếu thước tấc về thể xác, nhưng còn là kẻ quá thấp bé về tâm hồn, dưới cái nhìn của người Do thái. Không “thấp” lắm sao khi cấu kết với ngoại bang Rôma để vơ vét tài sản của dân tộc, đất nước! Không “bé” lắm sao khi đi làm giàu trên bao mồ hôi xương máu của những người lầm than khốn khổ!
Từ xưa đến nay, chẳng mấy ai ưa thích chuyện thuế má. Người Do thái lại càng chán ghét chế độ sưu thuế do chính sách đô hộ Rôma áp đặt. Số là tại các thuộc địa, để không phải trực tiếp bóc lột, chính quyền cai trị Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế tại từng khu vực. Tất nhiên chỉ có kẻ giàu mới có khả năng và mới có cơ may trúng thầu. Khi trúng, họ có quyền qui định mặt hàng cũng như giá thuế phải đóng. Lắm khi người trúng thầu phải ra giá thật cao để gỡ vốn. Và không ít khi cao thêm tí nữa để có lời. Thế nên, dân Do thái tự động xem hạng thu thuế là phường bán rẻ lương tâm, phá nước hại dân, làm giàu bất chính. Người ta tránh xa như gặp phải những con vật dơ nhớp, nguy hiểm. Thậm chí còn coi họ như quân ngoại đạo và tội lỗi.
Thành ra con người Giakêu hẳn là quá thấp bé trong tầm nhìn luân lý của những kẻ “đang bị bóc lột”. Đã vậy vóc dạng của ông cũng chẳng cao ráo sáng sủa gì. Lùn quá! Có nhón gót cũng chẳng thấy Đức Giêsu đâu. Đám đông che mất tầm nhìn của ông.
Mặt khác, danh xưng của ông còn khơi lên ý tưởng mỉa mai châm biếm khi nó tương phản với công luận. Giakêu là phiên âm từ chữ “Zakkay”, trong tiếng Do thái có nghĩa là “người công chính” hay “người thanh khiết”. Gọi một kẻ tội lỗi, nhơ uế là “công chính” và “thanh khiết”, nếu không phải là chế giễu và khinh bỉ thì là gì?
Nhưng dù thân xác và tinh thần có bị bao quanh bằng những hàng rào của mặc cảm tự ti, hay sự khinh thường ghét bỏ của dân chúng, lòng khát mong gặp Đức Giêsu đã như tác động đầu tiên đưa đến biến đổi và thăng hoa con người.
Ước ao nhìn mặt Đức Giêsu, đó là sự tò mò tự nhiên hay lời mời gọi của tình thương? Cứ tưởng tượng Giakêu xắn chiếc áo rộng thùng thình của một bậc trưởng giả để leo lên cây sung như một đứa con nít cũng đủ thấy đó là một khát khao vượt tính tự nhiên rồi. Phải chăng khi bị mọi người tránh xa, khi nghe đồn Đức Giêsu hay đến làm bạn với những kẻ không được thương yêu, trong ông đã hình thành nỗi niềm đi tìm yêu thương vỗ về.
Lòng khát khao mãnh liệt làm cho lòng Giakêu “cao lên” so với bao người chen chúc trong đám đông hiếu kỳ. Oâng muốn nhìn Chúa, nhưng đúng hơn, Chúa lại muốn tìm ông. Khi vừa đến chỗ cây sung có Giakêu đang trèo trên đó, Đức Giêsu “nhìn lên và trông thấy ông”. Giả như không có ánh mắt nhìn lên đó thì chuyện gì sẽ sảy ra? Có lẽ Giakêu cũng tuột xuống ra về trong âm thầm. Cái nhìn của Chúa làm biến đổi cuộc đời.
Nhìn và thấy diễn tả một sự chú ý kiếm tìm. Nhìn vào bao con người chen chúc chung quanh, với đủ mọi thành phần, trình độ, sang hèn, tuổi tác, nhưng Đức Giêsu lại chỉ thấy có một tâm hồn mà Ngài đang muốn tìm về. Niềm vui rạng rỡ đã bật thành lời: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Ngài đã tìm thấy “con chiên lạc” đang vướng trên cành, và lòng Ngài ngập tràn hân hoan.
Một nhà chú giải suy niệm: “Ôi chao! Ngày hôm đó, chắc là Đức Giêsu phải sung sướng hạnh phúc lắm! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem. Còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được dâng hiến để cứu chuộc con người. Mọi nỗi đơn độc chơ vơ của thập giá, mọi hình khổ Ngài sẽ gánh chịu, mọi vết thương xé nát bàn tay và đôi chân đẫm máu sẽ mang lại ơn ích cho nhân loại. Ngài biết điều đó. Ngài đã cứu thế gian khi tiến lên Giêrusalem. Và Giakêu là hoa trái đầu mùa”. (Noel Quesson)
Con tim cháy lửa yêu thương đã tìm gặp được tâm hồn khao khát thương yêu. Và thương yêu đã biến đổi phận người! Đúng là “gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình; Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”. Tình huynh đệ nảy sinh khi Giakêu tự nguyện “bố thí nửa phần gia tài cho người khổ đau”. Tình đệ huynh lại được hàn gắn khi Giakêu can đảm “đền trả gấp bốn cho người bị ông làm thiệt hại”.
Không gặp được Đức Kitô chẳng ai có đủ sức đền bù, chia sẻ, hay trao ban. Không có tình thương sưởi ấm chắc chắn chẳng ai có thể đổi đời. Nhưng khi có tình Chúa chiếu soi, người ta sẽ “cao lên” trong tình người. Và như thế, không ai có quyền kỳ thị hay gạt bỏ, vì họ cũng là “con cái của Abraham”. Không ai được phép xem họ như người ngoại hay kẻ lầm lạc, vì họ cũng là môn đệ của Tình Yêu Thiên Chúa.
Trở lại với lời tâm sự ban đầu. Thiết tưởng cao to thân xác mà thấp bé cõi lòng thì ăn thua gì. Mang danh có đạo mà không bác ái hy sinh thì cũng thiếu xót lắm thay. Thế nên, việc cần thiết nhất không phải là cao lùn, mập ốm, rửa tội hay chưa, nhưng là có được tình yêu đúng nghĩa chiếm ngự tâm hồn hay không.
Tình yêu đúng nghĩa chỉ có khi được Đức Giêsu lưu lại trong đời. Và như Lệ Vũ, người phụ trách “Tuổi Biết Buồn” xác quyết: “Tìm được tình yêu và yêu thật lòng, ba cái chuyện cao gầy, lùn mập, miệng méo, mắt Sài gòn, mắt Chợ Lớn, sẽ không thành vấn đề quan trọng”.
Xin tình yêu của Đức Kitô gặp gỡ đời con và đời người.
21. Sám hối
Khi còn học giáo lý rước lễ ở họ đạo, tôi được cha sở dạy rất kỹ về những việc mà hối nhân phải làm trước khi xưng tội gồm có: thật lòng ăn năn, xưng tội và thành tâm đền tội. Nhưng trong 3 việc đó thì ăn năn tội là điều quan trọng nhất. Ví ăn năn tội là đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa. Tương tự như thế hình ảnh Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một bài học về “sám hối”. Đó chính là tấm lòng mà Thiên Chúa luôn cần nơi mỗi người và đặc biệt trong cuộc sống mỗi người phải biết sám hối vì “nhân vô thập toàn”.
Có câu chuyện kể rằng một cha sở nọ nằm mơ, thấy Đức Giêsu thăm giáo dân đang tụ họp trong nhà thờ. Khi Đức Giêsu ra về khuôn mặt Ngài rất vui và hớn hở. Cha mới chạy theo hỏi Đức Giêsu tại sao thế? Và Chúa đáp: vì có những người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. Thưa Chúa đó là những lời nào vậy, những lời chúc tụng ngợi khen ư? Không phải. Vậy những lời ta ơn tri ân cảm tạ phải không? Chúa trả lời cũng không đúng nữa. Không chịu thua cha sở nọ lại hỏi tiếp: hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn no cho họ? Chúa Giêsu lắc đầu: con đoán sai cả rồi họ đã nói với ta: “Lạy Chúa xin hãy tha thứ tội lỗi chúng con”. Câu nói của Giakêu trong bài Tin mừng hôm nay, cũng có nội dung tương tự như thế và nó còn thể hiện việc sám hối bằng cả hành động nữa “thưa Ngài, này đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Do đâu mà những người giáo dân trong câu chuyện lại mau mắn sám hối như vậy. Vì lí do gì mà Giakêu lại quyết tâm hoán cải nhanh đến như thế. Chúng ta thấy cả hai đều có điểm chung là đã gặp được Chúa. Vậy để có thể sám hối tôi thiết tưởng phải cần có những yếu tố sau:
1. Thiên Chúa mời gọi
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu đặt chúng ta vào trung tâm vấn đề cơ bản của lòng chúng ta, làm sao nối lại tình thân với Thiên Chúa sau khi tội lỗi đã làm ta xa cách Ngài? Làm sao nhìn thấy Chúa Giêsu khi giữa ta và Ngài còn một “khoảng đám đông” đang chen lấn, mà ta lại là người đang “nhỏ bé như Giakêu”. Chúng ta không nên quá lo lắng về điều đó, vì Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người, nhất là những người tội lỗi “vì con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Mt 19,10). Thiên Chúa không chờ ta quyết định đến với Ngài, Ngài đi bước trước và đến với ta trước. Hầu hết các sách Tin Mừng không trình bày việc gì khác ngoài việc Thiên Chúa đến với loài người và gặp gỡ họ. Như trong Bài Tin Mừng không phải Giakêu đã nhận ra Đức Giêsu trước, nhưng chính Đức Giêsu đã nhân ra Giakêu trên cây. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu đã quan tâm đến chúng ta hơn là chính Người. Đức Giêsu chỉ đi ngang qua Giêrikhô một lần thôi, Ngài cũng chỉ gặp Giakêu ở đó một lần thôi, nhưng trong đời chúng ta Ngài sẽ đến mãi trong từng giây phút, nếu ta chưa tiếp xúc được với Ngài.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giêsu của Giakêu như bài học kêu gọi mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc sám hối như thế, và biết rằng sám hối là một đặc ân Chúa ban, chính Chuá là người đi bước trước và có sáng kiến chứ không phải nơi chúng ta, đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có bổn phận phải đáp lại.
2. Con người đáp trả
Thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi dựng nên con Chúa phải hỏi con”, nghĩa là Thiên Chúa luôn cần đến sự cộng tác nơi con người, không những thế Thiên Chúa còn muốn con người cộng tác một cách chủ động và trưởng thành. Chúa không đòi ai cũng phải chờ đợi để leo lên cây sung, nhưng quan trọng là phải đi gặp Chúa trong chính hành động của mình. Giakêu luôn ao ước được gặp Chúa và chính lòng khao khát đó đã được Chúa cho thoã mãn. Nhưng để phá rào cản tội tội, rào cản mă#c cảm, và nhất là rào cản giữa con người với nhau thật sự không dễ chút nào. Chắc chắn Giakêu đã nghe Danh Đức Giêsu từ lâu và hằng ao ước đến chỉ để nhìn mặt thôi, nhưng kết quả thật không ngờ, ông được hưởng hơn những gì mà ông mong đợi và hơn thề nữa “ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Giakêu được như vậy không phải do ông này nỉ, van xin, cũng không do công trạng lập được, lại không phải là một người tốt đáng khen, nhưng điều quan trọng là ông biết “đáp trả” lời Chúa mời gọi, trong khi những người được cho là tốt thì lại không biết làm. Như Giakêu chúng ta cũng hãy biết đáp trả tình yêu Chúa băng cách sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời, vì tình yêu Thiên Chúa luôn bai la rộng mở, dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào, cuộc đời chúng ta có xấu đến đâu cũng không sao. Chúa sẽ tẩy xoá hết để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thường trong bể tình thương bao la của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết ăn năn sám hối mỗi ngày, để con xứng đáng đáp trả tình yê mà Thiên Chúa đã ban cho con. Amen.
22.Thiên Chúa là Đấng Cứu độ – An Phong
Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính... một ranh giới rất "thiêng liêng", mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới "siêu hình" này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi... để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có "hành vi sám hối".
"Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất"
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới "hôm nay", thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
"Hôm nay nhà này được cứu độ"
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: "Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta"
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều "cần thiết" của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; "bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham", và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: "Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng".
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với Chúa,
nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa.
23. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: "Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
24. Biến đổi
Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, Để sửa chữa hay thay đổi một người nào đó là một điều rất khó. Ngược lại nếu không khéo chúng ta lại càng làm cho ra thêm tệ hơn. Trong thực tế, có những người nói hay, nói khéo, khuyên giỏi... nhưng kết qủa không mấy khả quan, mà còn làm cho cho họ càng khép kín, bảo thủ, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Hôm nay, Đức Giêsu với đường lối sư phạm đại tài, Ngài đã từng bước hoán cải một người thu thuế bị xếp chung với hạng trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Vậy Đức Giêsu đã làm gì mà lại có sực mạnh biến đổi kỳ lạ như thế?
Thông thường người có tội hay lẫn trốn, tránh xa những người được cho là công chính. Ở đây Giakêu lại càng không dám trực tiếp gặp thầy Giêsu, ông cũng không hoà nhập được với dân, ông như bị cô đơn giữa một rừng người xa cách không ai quan tâm đến ông. Lúc mà mọi người không ai để ý đến, không ai quan tâm đến thì Đức Giêsu lại quan tâm. Điều đó quá lạ đối với suy nghĩ của ông, từ trước đến giờ ông không bao giờ dám nghĩ đến: Chúa lại tìm một người “đứng đầu những người thu thuế” như mình. Dù đang mang mặc cảm tội lỗi, dù đang bơ vơ lạnh lẽo, ông vẫn cảm thấy ấm lòng vì được Thiên Chúa quan tâm, trong cuộc sống những người tội lỗi vẫn thường hay tự ty xa cách, họ không thể hòa mình với mọi người, họ vẫn cảm thấy cô đơn vì bị người khác bỏ rơi. Những điều đó càng làm cho họ ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi, không có ai đưa bàn tay để kéo họ lên. Vậy những lúc tuyệt vọng, những lúc chúng ta không còn chỗ nương tựa chúng ta hãy biết chạy đến cùng Chuá, cho dù tất cả bỏ rơi chúng ta thì Thiên Chúa vẫn cưu mang chúng ta, vì lúc nào Ngài cũng đang “nhìn” chúng ta, quan tâm chúng ta
Dân chúng cứ nghĩ Đức Giêsu sẽ quở trách Giakêu về những việc làm xấu xa của ông. Nhưng Đức Giêsu không những không quở trách mà còn muốn dùng cơm tối ở nhà ông. Việc làm đó không chỉ làm cho dân chúng kinh ngạc về cách hành xử của Đức Giêsu, mà cả Giakêu nữa cũng bị bất ngờ. Ông đã thay đổi tâm hồn từng bước một, bắt đầu từ lúc Đức Giêsu nhìn thấy ông, gọii ông rồi còn lưu lại nhà ông. Đáng lẽ ông là tội nhân đáng bị trừng phạt và lên án, thì Đức Giêsu lại đến với ông bằng sự tín nhiệm yêu thương, vì Người đến không phải để lến án nhưng là để cứu chuộc.
Thiên Chúa luôn nhìn người tội lỗi với một cắp mắt bao dung, Ngài không để tội nhân đi vào con đường bế tắc mà mở cho họ một hướng đi trong tương lai, Ngài tin ở sự hoán cải, nơi người tội nhân. Chính đường lối sư phạm này mà Thiên chúa đã làm cho Giakêu quay lại 180 độ. Từ một người tội lỗi trở thành tốt, nhưng để được thay đổi tâm hồn con người không phải “ngồi để chờ xung rụng”, mà phải có thiên chí, có lòng hoán cải ao ước thật sự... Vậy chúng ta hãy đến xin Chúa để người thay đổi cuộc đời, vì con người chỉ có thể đổi mới khi có ơn Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa lại luôn quan tâm đến tội nhân. Vì thế, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, sự trông đợi của Người... thì công việc mới hoàn thành cho dù chúng ta có tội lỗi xấu xa có đáng ghét đến dâu đi nữa thì thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta
Lạy Chúa, “không có một ông thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Xin Chúa cho con đừng vì quá khứ mà trở nên xấu xa. Nhưng cho con giống Giakêu biết hướng đến tương lai, nhờ ơn Chúa tất cả chúng con trở thành con người mới.
25. Đổi mới cuộc đời – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.
26. Hoán cải từ con tim
Nếu như tuần trước Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện để cho chúng ta thấy lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa. Thì hôm nay, qua câu chuyện ông Giakêu muốn thể hiện cách cụ thể lòng thương xót đó bằng việc Ngài thương xót và an ủi cho Giakêu khi đến viếng và ở lại nhà ông, một người tội lỗi.
Thế giới và những những gì chứa đựng trong nó chỉ là những hạt cát nhỏ bé, mong manh so với sự vĩ đại lớn lao của Thiên chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu thương tất cả các tạo vật ấy. Vì Chúa tạo dựng vũ trụ này chỉ vì tình yêu. Chúa không hề chê bất cứ tạo vật nhỏ bé nào. Vì nếu ngài chê ghét thì không một tạo vật nào có thể tồn tại. Vì thế, mọi vật hiện hữu quanh ta điều có giá trị trước mặt Thiên Chúa cho dù một vài thụ tạo không đi đúng đường lối Ngài thì ngài vẫn tỏ lòng khoan dung để nhắc nhở, sửa dạy hầu chúng biết được lỗi lầm mà bỏ đường gian ác. Đó là tư tưởng của bài đọc I
Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta một ví dụ về lòng thương xót Chúa qua việc Chúa Giêsu tìm được một người thu thuế tội lỗi Giakêu để kêu gọi ông ta sám hối. Sự sám hối này được ông ấm ủ trong lòng bấy lâu qua sự khao khát muốn gặp Chúa Giêsu.
Chắc chắn Chúa Giêsu không xa lạ gì đối với dân thành Giêricô. Vì tại đây, Ngài đã chửa cho một người mù tên Bartimê. Và không biết tình cờ hay ngẫu nhiên mà chúa Giêsu người Samaria nhân hậu xuất phát từ Giêricô. Vì thế, là người giàu có trong thành, Giakêu cũng đã nghe đồn đây đó về Chúa Giêsu và ông muốn gặp Ngài.
Dẫu biết sự khao ấy nơi ông có nhiều khó khăn cản trở: giới hạn về thân xác, là một người lùn “đừng chơi với thằng lé đừng ghé nhà thằng lùn”; giới hạn về tâm hồn, là người không có uy tín mấy, bị khinh khi. Nhưng tất cả những cản trở, những khó khăn đó không ngăn được ước muốn gặp Chúa và ngăn cản đôi chân ông cất bước đi tìm. Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy sự cố gắng nổ lực khát khao gặp Chúa xuất phát từ tấm lòng chân thành của ông.
Nhưng sự quảng đại và lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng đâu chịu thua sự nỗ lực và cố gắng của Giakêu. Vì Chúa Giêsu đã biết trước Ngài sẽ phải làm gì cho ông hôm nay. Giữa đám đông chen lấn vây quanh Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không mấy quan tâm. Vì ánh mắt của Ngài đã hướng lên ngọn cây sung cao chót vót, nơi Giakêu đang ngồi chờ đợi. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu đã quan tâm đến ông cách đặc biệt. Vì thế nếu chúng ta cảm phục trước tấm lòng khao khát Chúa Giêsu cách chân thật nơi Giakêu bao nhiêu thì chúng ta càng phải thán phục trước sự quảng đại và lòng khoan dung của Chúa gấp bội.
Vì Ngài đã không mấy quan tâm đến đám đông reo hò đón rước vây quanh mà lại đoái nhìn đến Giakêu, một người bị xã hội loại trừ khinh bỉ. “Này ông Giakêu hãy xuống mau đi vài hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác và vượt xa với suy nghĩ của con người. Việc Chúa Giêsu đến trọ nhà ông đã nói lên ơn cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ một ai. Vì Chúa không nhìn con người với những lầm lỗi của họ. Nhưng Ngài chỉ để ý đến phẩm giá cao quý được đặt để nơi người đó. Và chính cái nhìn thông cảm thấu suốt tâm can của Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu cảm phục và hoán cải đời sống. Một sự hoán cải chân thật xuật phát từ con tim bị đánh động bởi lòng quảng đại của Chúa Giêsu.
Chính khi cảm nhận được tấm lòng bao la quảng đại và tình thương của Chúa Giêsu dành cho mà Giakêu đã nhận ra, ý thức được chính mình. Con tim của ông đã bị đánh động và bị chinh phục. Chính sự khao khát của ông đã được đáp đền. Giakêu đã thật sự mặt chạm mặt và lòng gặp lòng với Chúa Giêsu.
Sự hoán cải liền xảy ra ngay lập tức, có thể thấy được và chắc chắn là sự hoán cải này sẽ chi phối suốt cuộc đời Giakêu. Đây không chỉ hoàn toàn là sự hoán cải theo lý trí mà bao gồm cả con tim. Đây mới là sự hoán cải thật sự, đúng nghĩa và là sự hoán cải quan trọng. Nó vượt ra ngoài những suy nghĩ của lý trí và đi đến một hiệu quả sâu xa. Sự sợ hãi của con người không thể có được sự hoán cải này mà chỉ có con tim, chỉ có gặp gỡ và tình yêu.
Chính sự hoán cải này mới có thể thay đổi được lòng người, thay đổi được cái nhìn, biết yêu thương người khác và biết chia sẻ cho nhau. Kỳ thị, ghen ghét... chỉ có thể làm cho con tim đóng kín và trở nên chai đá. Sự thông cảm đón nhận và cách đối xử thân tình của Chúa Giêsu sẽ làm cho con tim nhân lọai trở nên mềm mại và rộng mở. Không có gì có thể làm thay đổi hay có thể hoán cải một con người nếu không phải là con tim.
Để tỏ lòng sám hối thật sự và để Chúa Giêsu không phải thất vọng, Giakêu đã chứng minh bằng một sự từ bỏ và hứa hẹn một cuộc đời công chính. Danh lợi và vật chất giờ đây đối với ông chỉ là phù vân. Vì bấy lâu nay có nó nhưng đâu có ngày nào ông cảm thấy hạnh phúc, bình an. Sống trong nhung lụa nhưng tâm hồn ông vẫn cứ khắc khoải, lo lắng như còn thiếu một điều gì đó. Và Chúa Giêsu đã lấp đầy mọi khoảng trống trong tâm hồn và thỏa mãn mọi khát vọng cuả ông.
Giờ đây ông cảm thấy thư thái, bình an trước cuộc. Đây quả là một sự hoán cải sâu xa xuất phát từ nội tâm của Giakêu. Tất cả chúng ta cũng đang cần sự hoán cải đó. Mỗi người chúng ta cũng có khả năng hoán cải như Giakêu nhưng khả năng đó còn đang bị đóng kín và chưa được khơi dậy. Chúng ta đang sống trong sự khao khát hoán cải mỗi ngày để biến đổi một con tim hẹp hòi thành con tim quảng đại, từ một con tim chai đá cho đến một con tim bằng thịt biết yêu thương.
27. Tôi phải lưu lại nhà anh
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: - Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); - Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); - Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: - Con người và ước muốn (cc. 2-3); - Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.
Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.
28. Sống đức ái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla do một người bị bất toại đã 20 năm gửi tặng. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông sống trong cô đơn và chỉ có một người bạn duy nhất là điếu thuốc lá.
Hôm ấy, Mẹ Têrêsa đến thăm, an ủi ông và ông đã nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con đã ngừng hút thuốc từ một tuần nay, và đây là số tiền con dành dụm được. Con xin biếu Mẹ để Mẹ mua cơm bánh cho những kẻ nghèo khó.
Thật quý hóa cho một tâm hồn cao thượng. Biết tích góp từ những đồng tiền ít ỏi của mình để trao tặng tha nhân. Người ta nói rằng: trên đời này, không ai nghèo đến nỗi không có gì để chia sẻ với người khác và cũng không ai giàu đến độ không thể nhận thêm được cái gì của người khác! Với số tiền nhỏ bé 15 đôla kia, Mẹ Têrêsa đã mua cơm bánh cho người nghèo đói, và cả hai -người bất toại trong việc cho đi và người nghèo đói trong việc nhận lãnh- đều cảm nhận được một niềm vui sâu xa. Có lẽ nhiều lần chúng ta đã dễ dàng quên đi một sự thật căn bản này là: mỗi một dịp chia sẻ với người khác tức là một lần đón nhận niềm vui của một tâm hồn biết cho đi. Thế nhưng, chúng ta vẫn để cuộc đời trôi qua trong tẻ nhạt vì lạnh vắng tình người.
Thực ra, giá trị cuộc đời con người nằm ở chỗ có khả năng trao ban. Người càng trao ban nhiều thì càng có giá trị với cộng đoàn, với xã hội. Ai không biết trao ban sẽ trở thành vô ích với xã hội loài người. Cho dù họ có lắm tiền nhiều của hay chức vọng cao sang thì cũng vô giá trị với anh em nếu không biết sống trao ban. Trao ban còn cho ta niềm vui của cuộc sống khi nhận ra mình thật có ích với tha nhân. Chúng ta có thể trao ban cho tha nhân tiền tài, tình yêu, sự chia sẻ, lòng cảm thông. Chúng ta có thể trao ban lời nói và hành động ngay cả ánh mắt của sự đồng cảm yêu thương. Trao ban sẽ tạo cho ta mối giây liên hệ gắn kết với tha nhân, cộng đoàn. Trao ban sẽ tạo cho ta niềm vui vì thấy người khác vui nhờ sự chia sẻ của chúng ta.
Đây là niềm vui của Giakêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ đón nhận, chỉ biết vun quén, có khi vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giêsu, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Thầy Giêsu là động lực để ông dám trao ban cả một khối gia tài mà trước đây ông vun quén, ông xây kho lẫm để chất cho đầy. Khi có Thầy Giêsu, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.
Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao cơ hội để ta trao ban nhưng dường như chúng ta vẫn để cơ hội ấy lặng lẽ trôi qua. Chúng ta vẫn sợ cho đi mình sẽ thiệt thòi. Chúng ta vẫn ích kỷ không dám cho đi vì sợ người ta hơn mình. Chúng ta vẫn cố nắm giữ cho mình mà ít nghĩ tới việc trao ban. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn lặng lẽ trôi qua trong âm thầm tẻ nhạt.
Ước gì mỗi lần chúng ta đến với Chúa sẽ cho chúng ta cơ hội để trao ban. Có Chúa là gia nghiệp, là hạnh phúc vượt trội hơn mọi danh vọng, vật chất trần gian. Có Chúa là lẽ sống sẽ giúp chúng ta làm một điều gì đó cho Chúa vui lòng như Giakêu đã thành tâm sám hối chuộc lại lỗi lầm. Ông đã bố thí, đã trao ban nhờ đó ông ngập tràn niềm vui trong tâm hồn. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Amen.
29. Viếng thăm nhau – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II được coi là sứ giả của Thiên Chúa, và là con người của muôn người. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện trên 100 chuyến công du đến 129 quốc gia để gặp gỡ và chung sống với đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi dân tộc trên khắp Năm Châu. Dù tuổi già sức yếu, hai lần té gãy xương, thậm chí cuộc ám sát năm 1981 đã khiến ngài từng ngã qụy vì viên đạn bắn gần vào tim, nhưng tất cả vẫn không làm chùn bước chân của người mục tử đi đến với đoàn chiên và tìm chiên lạc trở về.
Ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm lịch sử, một chuyến viếng thăm đã chinh phục được toàn thể luơng tâm nhân loại. Đó là khi Ngài dừng chân bên bức tường Than Khóc. Tại đây, ngài lập lại lời xin lỗi cho cả một quá khứ hiểu lầm đầy đau thương. Đây quả thực là một cuộc viếng thăm đã san bằng con đường gồ ghề gai góc và mở ra một chân trời mới.
Chân trời của sự tha thứ lẫn nhau.
Chân trời của sự tin tưởng lẫn nhau
Chân trời của những chân lý chung
Chân trời của những trách nhiệm chung
Và chân trời của sự cầu nguyện chung.
Đức thánh Cha Đức Bênêdicto 16 cũng ra đi, để đến với muôn dân. Đặc biệt trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11/2006, ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm đầy mạo hiểm theo cái nhìn người đời, nhưng là bước đi đầy lòng cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài đã đánh đổ mọi cái nhìn lệch lạc về ngài khi ôm chúc bình an với Đức Thượng phụ Bathôlômêô I, và khi ngài bước vào Đền Thờ Xanh trong sự kính trọng và đầy thiện cảm của anh em Hồi Giáo. Chính chuyến tông du có tính lịch sử này, giới truyền thông trên toàn thế giới cho rằng ngài đã đóng góp: “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết”.
Trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu luôn đi đến với mọi người. Mỗi bước đi của Ngài luôn để lại dấu ấn đầy yêu thương cho những ai được tiếp xúc với Ngài. Hôm nay, Giakêu đã được Chúa viếng thăm. Đây là một hồng phúc dành cho Giakêu. Gia Kêu không ngờ mình lại được Thiên Chúa viếng thăm. Những người Do Thái năm xưa càng không ngờ Thầy Giêsu, một vị Thầy đáng kính, một người thánh thiện lại ghé thăm kẻ tội lỗi. Nhưng đây lại là đường lối của Chúa. Chúa đã dùng cách này để mang tình yêu đổi lấy cuộc đời Gia Kêu. Chúa dùng tình yêu để cải hoá người tội lỗi. Chúa đến để tìm kiếm, để cứu chữa những gì đã mất. Chính trong chuyến viếng thăm lịch sử này, Chúa đã đổi đời Gia Kêu để từ đây ông không còn tham lam quyền bính hay tham lam tiền bạc. Gia Kêu đã sám hối và chuộc lại lỗi lầm. Ông đã cho đi những của phù vân. Ông đã biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Ông còn bỏ tiền để đền bù những việc lỗi công bằng bác ái mà ông đã gây ra. Ông đã tìm được sự bình an của tâm hồn sau một lần được Chúa viếng thăm.
Con đường đến với anh em phải là con đường của các môn đệ Thầy Giêsu. Hãy ra khỏi chính mình để đến với anh em. Hãy tìm đến các con chiên lạc mà đưa về ràn. Hãy hội nhập với đời để đem đạo vào đời. Chúa đã đi vào đời để gieo chân lý, niềm tin và hy vọng. Là môn đệ của Chúa cũng cần bước theo dấu chân của Thầy Giêsu. Dấu chân luôn rong ruổi khắp mọi nẻo đường. Dấu chân của người môn đệ đi đến đâu, sẽ để lại cho đời một màu xanh của yêu thương và hạnh phúc bình an. Ước mong mỗi người chúng ta hãy can đảm vượt qua những trở ngại từ bản thân, từ môi trường để dấn thân cho Tin mừng của Chúa được đến với muôn người. Hãy xoá mọi thành kiến xấu nơi anh em để có thể hoà hợp với anh em. Hãy xoá bỏ mọi ngăn cách giầu nghèo hay địa vị cao thấp mà sống hoà đồng với anh em. Hãy xoá bỏ mọi hiềm khích hận thù để sống bác ái yêu thương nhau ngõ hầu làm sáng danh Chúa qua những dấu chỉ của tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã viếng thăm Giakêu xin cũng lưu lại nơi cuộc đời chúng con để biến đổi chúng con thành những tín hữu biết sống công bình bác ái và dấn thân hết mình phục vụ tha nhân. Amen.
30.Dám nhận cái sai để sửa
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Xã hội hôm nay sao kiếm được con người tử tế thật khó! Người tử tế biết nhận cái sai để sửa, biết nhận lỗi lầm mình mà ăn năn hầu sống đẹp hơn. Trái lại, người không tử tế dầu biết sai nhưng vẫn cố chấp, vẫn tìm cách bào chữa bản thân và không bao giờ nhận tội về mình.
Có một câu chuyện vui về Người Tử Tế như sau:
“Ði mua bao thuốc lá 20k đưa chủ tiệm 50k, được thối lại 40k, đút túi bỏ về. Anh chủ tiệm chạy theo kêu:
- Chú em, chú để quên không lấy bao thuốc lá nè.
Trên thế gian vẫn còn nhiều người tử tế, tôi nghĩ mình thật tồi tệ. Xúc động rút tờ 10k ra đưa lại cho anh:
- Lúc nãy anh trả dư em 10k này!
Anh chủ tiệm cũng cảm động:
- Thôi, chú đưa lại anh bao thuốc lá, anh đổi cho bao thuốc lá thật.
Hành động của anh lại làm tôi mủi lòng. Trên thế gian sao lại có người cũng thật thà như mình. Tôi tỏ vẻ hận:
- Anh đưa tờ 50k hồi nãy cho em, em đổi cho anh đồng tiền thật.
Cầm tờ giấy bạc, anh chủ tiệm rơm rớm nước mắt:
- Thôi chú đưa anh tờ 10 ngàn lúc nãy, anh đổi cho tờ thật.
Híc! Người ta tốt thế mà mình tồi tệ quá... Tôi rụt rè móc cái điện thoại ra:
- Cái này của anh, lúc nãy em lỡ tay... xin trả lại.
Anh chủ tiệm cảm động, tay run run... Anh rút ra một cái ví:
- Cái này của em, anh cũng xin trả lại em.
Dầu là người xấu nhưng thấy sai dám nhận, dám sửa vẫn đáng kính trọng biết bao. Xét cho cùng “nhân vô thập toàn” ai mà chẳng có lúc sai nhưng chỉ đáng xấu hổ là không dám nhận cái sai mà sửa, đôi khi còn “vừa ăn cướp vừa la làng” hay “cả vú lấp miệng em” để che lấp tội lỗi của mình.
Hôm nay tin mừng cho ta thấy hình ảnh thật đẹp của Giakêu. Ông đã từng lún sâu trong tiền bạc. Ông đã từng tham lam vô độ đến nỗi chỉ lo vun quén cho bản thân và lỗi công bình với tha nhân. Nét đẹp của ông là khi gặp được Chúa ông đã thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Ông không coi của cải là lẽ sống. Ông không tìm thỏa mãn nơi tiền tài. Ông dám nhìn nhận cái sai mà sửa. Ông nhìn nhận mình đã tham lam nên dùng nửa số tiền để đền bù. Ông đền bù cả lãi lẫn lời lên tới gấp 4 lần. Ông còn tiến tới đức ái hoàn hảo là làm việc phúc đức cho người nghèo với mong phần nào đền bù tội lỗi quá khứ của mình.
Xem ra người tử tế phải là người thấy sai là sửa. Người tử tế không cố chấp ở lì trong tội. Người tử tế dám nhận lỗi, dám chuộc lỗi và làm lại cuộc đời. Thực ra, không có cuộc trở về nào là quá muộn, chỉ cần quay trở về thì chúng ta đã bước ra ánh sáng và khuôn mặt chúng ta sẽ đẹp trước mặt Chúa và tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, biết can đảm chuộc lại lỗi lầm bằng sự đền bù, bằng sự dấn thân sống có ích cho cộng đoàn và xã hội. Xin đừng vì cố chấp mà đánh mất đi cơ hội làm lại cuộc đời, nhưng luôn trỗi dạy sau những lần vấp ngã để kiện toàn con người mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
31. Tầm cao của Phúc Âm
(Suy niệm của Achille Degeest)
Giakêu là một người giàu có. Sự giàu có của ông có thể khiến cho người ta có lý do chính đáng nghi ngờ ông tham nhũng. Thật vậy, phụ trách thu thuế cho người La mã chiếm đóng xứ sở mình, ông trích ra những khoản đáng kể làm của riêng, lấy ở những số tiền thuế do ông quản lý. Vậy mà Đức Giêsu đã không nề hà đến thăm, lưu lại nhà ông, đem đến cho ông ơn cứu rỗi. Đoạn kết bài tường thuật nhấn vào ý nghĩa sứ vụ của Chúa là đến cứu rỗi nhân loại. Vấn đề đặt ra ở đây là gì? Ơn cứu rỗi đối với ông Giakêu phải chăng là bố thí rộng rãi và hoàn trả gấp bội số tiền phù thu lạm bổ? Chúng ta không nên tách riêng đoạn Phúc Âm hôm nay với giáo huấn tổng quát của Đức Kitô về của cải thế gian. Mọi của cải thế gian, mọi sự giàu có, bất lương hay lương thiện cũng vậy, đều có xu thế chiếm đoạt tâm hồn, đều được chứa đựng hiểm họa gây thiệt hại cho kẻ khác. Muốn được cứu rỗi thì phải cố lên tới tầm mức Nước Thiên Chúa, ở độ cao ấy tâm hồn tự giải thoát khỏi sự chi phối của tiền bạc để có thể thờ phụng Thiên Chúa và đối xử với đồng loại bằng một tình huynh đệ thực tế và công bằng. Tình thương công bằng cho đồng loại, ưu tiên tuyệt đối cho Thiên Chúa, đó là tầm cao ơn cứu rỗi của Phúc Âm. Thế mới biết, những viễn ảnh muốn nhìn Phúc Âm như một hệ thống bình đẳng đáng ngờ trong hưởng thụ của cải đời này, quả là một lối nhìn thiển cận biết chừng nào. Phúc âm trong thực tế chủ trương công bằng xã hội, chính là vì Phúc Âm nhắm một mục tiêu vượt xa đời này vô cùng. Ơn cứu rỗi của Phúc Âm ở tầm cao của đức tin và trong trật tự đức tin. Do đó có hai câu hỏi:
1)Ai dám tự phụ hoàn toàn không mắc cái “tội” của ông Giakêu?
Kitô hữu nào thật sự giàu hoặc thèm muốn giàu mà không cần lo giải thoát tâm hồn mình khỏi sức hấp dẫn của tiền bạc? Tới đây, chúng ta phải đề phòng kẻo rơi vào một ảo tưởng. Sống trong hoàn cảnh đầy đủ, người ta có thể ngay lòng xác nhận mình không bận tâm về của cải thế gian. Nhưng trong hoàn cảnh may mắn ấy, người ta có đặt ưu tiên cho việc thờ phụng Thiên Chúa không? Vì ở đây không chỉ là giá trị của sự từ bỏ những điều giam hãm tâm hồn, ở đây là giá trị của sự thờ phụng và kính mến Thiên Chúa hằng sống.
2) Đức Giêsu có ghét bỏ Giakêu kẻ giàu có không?
Chúng ta biết rõ Đức Giêsu nghĩ gì về sự giàu có. Thế mà Người đối thoại với những kẻ giàu. Chúa đứng về phía những kẻ hèn mọn, nghèo khổ, Chúa bênh vực quyền lợi họ, nhưng không lấy đó làm vũ khí chống kẻ giàu có. Chúa không hô hào bần cùng hóa nhà giàu và tư hữu hóa kẻ nghèo. Tất nhiên Đức Giêsu tiếp lời các ngôn sứ giảng dạy về sự Thiên Chúa đòi hỏi gắt gao phải đối xử công bằng. Nhưng Đức Giêsu đi xa hơn nữa, Người nhắm vấn đề cơ bản. ‘Người này cũng là con cái Abraham’, Chúa nói như thế về ông Giakêu ăn năn trở lại. Vậy thì, con cái Abraham, nghĩa là gì? Là đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa và tin cậy sắt đá vào Thiên Chúa. Dòng dõi thiêng liêng Abraham tập hợp và liên kết chặt chẽ với nhau trong niềm tin vào Đức Kitô. Kẻ nào thành thật sống niềm tin ấy thì tìm được thái độ thích đáng là không gắn bó thiết tha với sự giàu có, giàu có thật sự hoặc giàu có trong mơ ước thèm khát cũng vậy.
32. Con Người đến để tìm và cứu
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Giakêu là một người thu thuế giàu có. Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên. Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy. Hẳn ông đã nghe người ta bàn tán về Đức Giêsu. Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông. Giakêu mong có ngày thấy Đức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi với đám đông theo sau Ngài, nhưng vẫn không sao thấy được Ngài, vì dân chúng thì đông, còn ông lại thấp bé. Giakêu không thất vọng. Lòng khát mong đích thực chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám đông và leo lên một cây sung. Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình, và tin chắc mình sẽ toại nguyện. Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy. Nào ngờ Đức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài. Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống, nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng: Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất.
Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ, nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất đi những mặc cảm thấp kém. Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông, bởi lẽ Đức Giêsu sắp đến thăm nhà ông, bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình: dịu dàng, tha thứ, yêu thương, tế nhị.
Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu.
Ánh mắt, lời nói, thái độ của Đức Giêsu đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu, và khiến lòng ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói buộc ông, làm ông say mê, bây giờ trở nên vô vị. Một cách hồn nhiên, ông dâng nửa gia sản cho người nghèo, và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.
Giakêu sẽ trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều, vì ông cũng là con cháu tổ phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao dung như Đức Giêsu và quảng đại như Giakêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giakêu muốn thấy Đức Giêsu và ông đã được quá lòng mình mong ước. Theo ý bạn, để thấy Đức Giêsu trong đời mình, cần có thái độ nào? Mẫu gương của Giakêu có giúp gì cho bạn không?
Xã hội hôm nay vẫn có nhiều Giakêu: những người bị coi thường hay loại trừ, những thanh niên đã có tiền án, trẻ bụi đời, gái điếm, những người nghiện ma túy... Họ cần những người có trái tim của Đức Giêsu. Bạn nghĩ mình có thể giúp gì để họ thay đổi cuộc sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari.
Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá,
Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con, để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.
Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người, và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
33.Hãy thương xót như Cha trên trời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Vào lúc Giáo hội đang chuẩn bị đóng Cửa Thánh bế mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, phụng vụ Lời Chúa lại vang lên như tiếng chuông nhắc bảo chúng ta chiêm ngắm Lòng Thương Xót và thực thi lòng thương xót.
Chúa thương xót mọi loài, và yêu thương mọi tạo vật (x.Kn 11,21-26). Thương xót đến đô “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người …không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa tác thành” (Kn 11, 23). Lòng thương xót ấy được cụ thể hóa nơi hành động của Chúa Giêsu đối với tội nhân và những người cùng khổ, Ðấng đã khẳng định rằng Người đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi (x. Lc 5,32). Trình thuật về cuộc hoán cải của ông Giakêu trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là một bằng chứng (x. Lc 19, 1-10).
Giakêu, người thấp bé. Đây không phải là một chuyện nhỏ, nhưng là một nỗi đau đối với ông. Trong trí ông luôn mang trong mình sự ảm ảnh mình bị chế giễu và loại trừ, ông là người đau khổ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trả miếng : thậm chí trở thành người thu thuế cho ngoại bang. Đây là nghề không lành mạnh, dễ bị loại ra khỏi đời sống tôn giáo và xã hội, vì thông đồng với người Rôma, kẻ chiếm đóng và bóc lột đồng bào. Nhưng điều đó không quan trọng đối với ông, ông biết, ông có thói quen bị loại trừ. Trở thành một viên thu thuế quyền thế giàu có. Giakêu, như những người khác, đã thu về một khoản tiền lớn từ bàn thu thuế, nhưng sự yêu mến tiền bạc không phải là động lực chính của ông, ông muốn có được sức mạnh trên những kẻ coi thường ông. Vì thế, ông xa cách họ, tránh xa các cuộc tấn công của họ, và ở trên họ.
Nhưng điều trên không làm cho Giakêu chìm vào bóng tối. Con người biết tính độc ác đích thực của mình. Trong sâu thẳm của coi lòng, có cái gì đó lợi hơn : khát khao Thiên Chúa. Giakêu là người con của lời hứa và Thiên Chúa đã không quên ông. Thế là, Chúa Giêsu rảo khắp các ngả đường, giảng dạy trong hội đường. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu thấu đến tai Giakêu như cá gặp nước, củi khô gặp lửa. Người đã nhóm lên trong lòng Giakêu ngọn lửa không hề bị dập tắt từ Thiên Chúa. Giakêu, kẻ thu thuế đã nghe nói về các phép lạ của Đấng Tiên Tri, và rằng Chúa Giêsu không bao giờ từ chối những người tội lỗi. Ông chộp lấy cớ hội, quyết định tiến lại gần Chúa Giêsu.
Để đến được với Chúa Giêsu không phải là dễ, ông gặp phải sự cản trở của bản thân vì thấp bé, của đám đông. Họ sẽ nhận ra và lại chế giễu ông thấp bé, quyền lực, giàu có, bóc lột đồng bào. Họ sẽ khinh thường ông, làm cho ông xấu hổ, báo thù khơi dậy báo thù. Nhưng Giakêu không bỏ lỡ cơ hội, ông sẽ thấy Chúa Giêsu đang đến gần, không gì có thể cản trở ông được.
Vì thế, ông trèo lên cây, ẩn mình trong những tán lá để xem Chúa Giêsu mà không bị ai nhìn thấy, ông tìm cách tiếp cận, với hy vọng những tán lá sẽ bảo vệ ông khỏi đám đông. Nhưng Chúa Giêsu đi ngang qua. Người tiến lại gần, ngước mắt nhìn ông và gọi “Giakêu”. Giakêu có nghĩa là “Chúa nhớ lại”. Thiên Chúa nhớ đến kẻ yếu người nghèo, với lòng thương xót “Giakêu, hãy xuống mau” (Lc 19,5).
Cố gắng của con người xem ra vô dụng, khi dùng cả sức mạnh của mình để vươn lên tới Chúa, tới Trời : “các ngươi sẽ nên như các thần” con rắn cám dỗ Ađam như thế. Giakêu khi ở trên cao, ông khám phá ra rằng để có được điều ông tìm kiếm, ông phải đi xuống. Thiên Chúa đã hạ mình xuống với con người. Thiên Chúa đã trở nên thấp và nhỏ bé, ở dưới gốc cây. Giakêu vui sướng thấy Chúa.
Chúa Giêsu đã giao hòa Giakêu với Thiên Chúa, và với mọi người. Tiếng gọi của Chúa Giêsu đặt Giakêu vào giữa cộng đoàn, khiến ông quên đi sự báo thù, mở lòng ra để đón nhận ơn tha thứ, niềm vui này Giakêu chia sẻ với anh em. Chúng ta đừng có nhầm : Giakêu không vứt bỏ tiền vì đã gặp được Chúa, ông không còn thích nữa. Chính sự dâng cúng này, Giakêu cho thấy ông không còn cần quyền lực để bảo vệ mình giữa mọi người nữa. Cuối cùng, ông đã nhận ra họ là anh em. Trước kia ông sống trong cô đơn, nay ông khám phá ra niềm vui của một tình yêu sâu thẳm vô điều kiện ở nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, hạnh phúc của ông là đáp lại anh em mình, bằng cách chia sẻ tài sản của ông, mở ra một mối quan hệ mới với họ, dựa trên công lý.
Trong một văn bản khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng, người giầu rất khó vào Nước Trời (x. Mt 19,23). Trong trường hợp của ông Giakêu, điều xem ra không thể, lại được thực hiện: thánh Girolamo giải thích rằng “ông Giakêu đã cho đi sự giầu có của ông và lập tức thay thế nó bằng sự giầu có của nước trời” (Bài giảng 83,3). Và thánh Massimo thành Torino nói thêm: “Ðối với những người dại dột, của cải giầu sang dưỡng nuôi sự bất chính, trái lại đối với những người khôn ngoan chúng trợ giúp nhân đức; cơ may cứu rỗi được cống hiến cho những người khôn ngoan, còn đối với những người dại dột sự vấp ngã khiến cho họ hư mất” (Bài giảng, 95).
Chúa Giêsu kết thúc: “Con người đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10), “điều đã hư mất” chứ không phải là “kẻ bị mất”. Đây không phải là Giakêu đã mất. Khi cô lập với anh em mình, ông đã mất niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang lại cho ông niềm hy vọng khi nói với ông : “Giakêu, hãy xuống mau!”.
Thiên Chúa không loại trừ ai hết, người nghèo cũng như người giầu. Thiên Chúa thấy nơi mỗi người một linh hồn cần cứu vớt. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta : hãy noi gương Chúa và thực thi lòng thương xót như Cha trên trên! Hôm nay ơn cứu độ của Chúa đến với chúng ta ; “Hôm nay, Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Mỗi ngày, hãy đến với Chúa Giêsu, là chủ nhà của tâm hồn chúng ta và là Thầy của đời ta. Amen.
34. Chúng ta thì giống như Giakêu
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Một số người khiếp hãi về cách cư xử của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu, người bị đóng nhãn như một người tội lỗi. Thật ra họ đã bị sốc và họ phải xì xào bàn tán chống lại Chúa Giêsu.
Mặc dầu không được chuẩn nhận từ đám đông, Giakêu đã làm một quyết định đúng. Ông nhận thấy rằng Chúa Giêsu, Đấng có thể làm cho ông trở lại đường ngay chính bằng cuộc sống của mình. Ông hiểu rằng, Chúa Giêsu có đầy đủ tình yêu và lòng nhân từ. Giakêu cũng đã xác định được, ông ta sẽ không đi đến với bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì có thể ngăn cản ông gặp gỡ Chúa Giêsu, không phải sự bất bình của những kẻ phán xét ông không có giá trị gì, và hình hài nhỏ bé của ông cũng không thể ngăn cách ông thấy Chúa Giêsu từ trên đầu của đám đông.
Tôi tưởng tượng ra Giakêu giống như một đứa trẻ khi cha mẹ chúng đang đi ngang qua. Ông bị những người trưởng thành che khuất tầm nhìn. Ông đã nhảy lên nhảy xuống nhưng vẫn không thể thấy những gì đang xảy ra. Giakêu biết rằng không một người nào giúp ông nhưng ông có một ý tưởng để tự giúp mình. Ông đã chạy tới phía trước để trèo lên một cây vả và ở đó ông có thể thấy Chúa Giêsu, khi ở trên đám đông ông cố gắng nín thở để quan sát một cách cẩn thận, nhưng sự kinh ngạc của ông thì không phải ông chỉ thấy có Chúa Giêsu nhưng ông đã thật sự nghe Ngài nói. Chúa Giêsu đã gọi đích danh tên ông, Giakêu đã ngạc nhiên làm sao Chúa Giêsu biết ông là ai. Có phải Chúa Giêsu đã nghe về những tội lỗi khủng khiếp của ông không? Một người nào đó đã chỉ ông cho Chúa Giêsu phải không? Tiếp đó, ông nhận ra những gì Chúa Giêsu đang nói: “Giakêu, hãy xuống nhanh lên, Ta sẽ lưu lại nhà ngươi hôm nay”. Ông vội vàng trèo xuống khi biết rằng ông đang ở trên cây và ông đã hộ tống Chúa Giêsu đến nhà ông. Ông hứa sẽ thống hối, sẽ thay đổi để theo những lời giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là một ngày hạnh phúc trong đời ông.
Những gì Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu, nay Ngài cũng làm cho chúng ta. Ngài đã bước vào trong thế giới của chúng ta, thế giới mà sự thật là nhà của người tội lỗi. Chúng ta đã được chúc phúc bằng cách cư xử bất ngờ của Con Thiên Chúa. Cho dù những người khác có thấy đó là gương mù hay không, chúng ta phải làm một quyết định đúng là tìm kiếm Chúa Giêsu, nâng tầm nhìn của chúng ta lên trên những người loại bỏ Chúa Giêsu hoặc nhìn Giáo Hội một cách khinh miệt. Với đôi mắt của đức tin, chúng ta tháy Chúa Giêsu như là Đấng cứu độ của chúng ta, và với đôi tai đức tin chúng ta nghe Ngài nói với chúng ta. Vào ngày chúng ta chịu phép rửa Ngài đã gọi tên chúng ta, Ngài đã biết chúng ta là ai bởi vì Cha Ngài là Đấng Sáng Tạo chúng ta, đã chỉ định chúng ta cho Ngài. Chúng ta đã trở thành con cái của Thiên Chúa.
Trở lại vấn đề, Chúa Giêsu đã không trở thành người khách của chúng ta như Ngài đã là khách của Giakêu, nhưng chúng ta đã trở thành khách của Người. Phép rửa đã mở ra cho chúng ta cánh cửa vào nhà Người là Giáo Hội, nơi mà Chúa Giêsu, chủ của chúng ta đang mời gọi chúng ta tới bàn tiệc thánh, là Thân Mình và Máu Người trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta có một đặc ân kỳ diệu vào mỗi ngày Chúa Nhật và mọi ngày nếu chúng ta muốn.
Chúa Giêsu trông đợi chúng ta sẽ thay đổi bất cứ những gì phải xếp đặt lại để theo giáo huấn của Ngài, như Giakêu đã làm. Vào lúc kết Thánh Lễ, chúng ta đã nghe nói: “Hãy đi trong bình an, để yêu thương và phục vụ Thiên Chúa”. Đó là lời hứa của chúng ta trung thành với ý muốn của Thiên Chúa.
Chúng ta không bị sốc bởi cách cư xử của Chúa Giêsu, chúng ta phải sung sướng nghĩ rằng Ngài đã đến để tìm kiếm chúng ta và cứu thoát những gì đã hư mất. Giống như Giakêu chúng ta phải là những kẻ được chúc phúc bởi tình yêu Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người.
35. Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình
(Trích dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại Boston ở Hoa Kỳ có một đại hội đặc biệt. Đó là đại hội người lùn. 400 người trong 3000 hội viên đã đến tham dự đại hội người lùn của nước Mỹ. Người cao nhất của hội chỉ có 4 feet (=1m40) và người lùn nhất chỉ có 2 feet (=0m70). Đây là đại hội thứ 25, có mục đích để người lùn gặp gỡ vui chơi với nhau và để cho mọi người bớt thiên kiến với thế giới người lùn.
Tin Mừng hôm nay nói đến một người lùn, một người lùn nổi tiếng trong thành Giêricô có tên là Giakêu. Con người lùn tịt ấy đã đi vào lịch sử vì đã được gặp Đức Giêsu. Giakêu là trưởng phòng thuế vụ của thành phố và là một người giàu có, do chức vụ, do việc làm của mình và cũng có thể do đã ăn của đút lót, đã bớt xén của công… Ông là người có tiếng tăm vừa được nể sợ, vừa bị chê ghét trong dân chúng. Có thể chỉ vì tò mò muốn biết Đức Giêsu là người thế nào, có thể trong lòng ông có sẵn một tâm tình ngưỡng mộ, yêu mến. Điều đáng ngạc nhiên là ông tìm bằng được mọi cách để có thể ngó mặt Đức Giêsu khi Ngài đi qua đường phố. Vì lùn, bị đám đông vây kín, Chúa khuất tầm nhìn, ông phải chui ra khỏi đám đông, chạy lên phía trước, leo lên một cây sung để xem thấy Đức Giêsu.
Kìa Giakêu đang ngồi trêng chạng hai của cây sung, ẩn mình trong cành lá. Trăm ngàn người đi theo Chúa Giêsu nào có ai để ý? Và nếu có bị để ý thì ông cứ để mặc. Nhưng Chúa Giêsu thì khác: Đến nơi gốc cây, chân Ngài dừng lại như thể đã hẹn hò; mắt Ngài ngước lên như âu yếm chào; miệng Ngài khẽ kêu đúng tên như người thân đã từng quen biết: “Ông Giakêu ơi! Hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông”. Hạnh phúc của Giakêu thật tràn đầy vượt quá lòng mong ước. “Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Chúa Giêsu”.
Giakêu đã ngỡ ngàng, nhưng phải nói là dân chúng thành Giêricô còn bị bất ngờ hơn nữa. Mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Thật quá sức, thật không thể chấp nhận được. Họ cùng trao đổi với nhau như người Pharisêu đã mời Chúa dùng bữa tại nhà ông: “Nếu quả thật ônt nầy là Ngôn sứ, thì ông phải biết người kia là hạng người nào chứ: Hắn là hạng người tội lỗi” (Lc 7,39).
Gặp Đức Giêsu, Giakêu thấy mỉnh phải thay đổi cách sống, phải chuộc lại những lỗi lầm, phải đền bù những bất công đã gây ra trong quá khứ. “Tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã lường gạt ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Dân chúng càng bàng hoàng kinh ngạc khi Chúa Giêsu chẳng những đến nhà Giakêu trú ngụ ở đó ít ngày, mà lại còn tuyên bố minh bạch: “Hôm nay nhà nầy đã được ơn cứu độ, bởi vì người nầy cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Chỉ có một cái dừng chân do tình thương và lòng nhân hậu thúc đẩy, Chúa Giêsu đã biến đổi một con người tội lỗi trở thành người công chính. Từ giây phút gặp gỡ ấy, cuộc sống của Giakêu đã hoàn toàn đổi mới: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruồng bỏ, ông được Chúa Giêsu cho hội nhập vào cộng đoàn con cháu tổ phụ Abraham.
Thưa anh chị em,
Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta về tình yêu thương của Thiên Chúa. Tình yêu thương đó là tinh yêu thương không giới hạn, không phân biệt tình trạng của đối tượng. Tình yêu thương ấy dường như ngả về người tội lỗi, nghiêng về những người sống bên lề xã hội, bên ngoài tôn giáo.
Qua đời sống trần thế của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu dành tấm lòng yêu thương, ưu ái cho những hạng người mà xã hội tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ gạt ra ngoài lề. Đó là những dân ngoại, những người nghèo, những cô gái điếm, những phụ nữ, trẻ em, những người bênh phong cùi, bỉ quỷ ám, những người thu thuế cộng tác và phục vụ ngoại bang… như Matthêu, như Giakêu hôm nay. Chính những hạng người đó lại là đối tượng của Thiên Chúa tình yêu. Vì, như Chúa Giêsu đã nói: “Không phải người khỏe mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những người đau bênh”. Và họ cần Chúa là thấy thuốc vạn năng, chữa bá bệnh, có thể làm hồi sinh người đã chết, có thể chữa lành mọi vết thương thân xác cũng như tâm hồn. Chính vì những người tội lỗi, những người yếu đuối, những người bệnh tật mà Chúa Giêsu đã đến.
Giakêu là một thí dụ, Madalenna là một thí dụ khác. Người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành lại là một thí dụ khác nữa. Trong bốn sách Tin Mừng, chúng ta gặp được nhiều khuôn mặt méo mó đã được trả lại vẻ đẹp, chúng ta thấy nhiều tâm hồn tan nát đã được ban đầy sức sống mới. Công trình cứu độ là như thế. Tình yêu thương của Thiên Chúa không bị chi phối bở sự trong sáng hay vẫn đục trong lý lịch con người. Trái lại, ai có một lý lịch càng nhiều vết đen, càng phức tạp thì tâm hồn lại càng được yêu thương cứu chữa. Điều cần thiết trước nhất là chúng ta dám mạnh dạn tin tưởng và tiến lại gần tình yêu thân linh vô vị lợi của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy cảnh giác, bao lâu chúng ta tưởng mình đã là người khỏe mạnh, đã là người đạo đức thánh thiện… thì lúc đó coi chừng, chúng ta khước từ tình yêu của Thiên Chúa đang nâng đỡ chúng ta từng giây từng phút.
Chúng ta cho rằng mình chẳng có tội gì ư? Có thể nhiều người nghĩ như thế, vì trong cuộc đời nhiều người không hề giết người, không hề gian dâm, không hề trộm cắp. Thế nhưng chãy coi chừng! Tội vì làm những điều ác thì có lẽ phần đông chúng ta không có, nhưng tội vì không làm những điều tốt mà Thiên Chúa truyền dạy thì chẳng ai cò thể vỗ ngực là mình không sai phạm. Vậy thì chúng ta cũng trở thành đối tượng của lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Gặp được Chúa Giêsu là cuộc đời chúng ta được biến đổi. Chúng ta phải biết tìm đến gặp cho bằng được Chúa Giêsu. Nếu thực sự chúng ta gặp Chúa như Giakêu, thì thế nào đời sống chúng ta cũng sẽ được đổi mới, tội lỗi chúng ta sẽ được xóa sạch và tâm hồn chúng ta sẽ trở nên trong sáng hơn. Càng gặp gỡ Chúa trong thâm sâu của cõi lòng, chúng ta càng được biến đổi. Nếu chung quanh chúng ta có bao người vẫn mang một nếp sống cũ rích, sói mòn, càng ngày càng nghèo nàn hơn về mặt chất lượng, thì đó là dấu chứng họ chưa thực sự gặp được Đức Kitô Giêsu. Nếu cuộc sống của chúng ta chưa thể hiện được một thay đổi quyết liệt, thì đó là dấu chứng chúng ta chưa gặp Đức Kitô thực sự. Bởi vì bất kỳ một cuộc gặp gỡ nào với Đức Kitô thì đều phát sinh một hiệu quả là thay đổi cuộc sống.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự ở giữa loài người chúng ta và Ngài mong ước mỗi người chúng ta gắt chước Giakêu mở rộng cõi lòng ra để đón nhận ngài. Khi gặp gỡ Chúa cách chân thành như thế thì chính Chúa sẽ ban ơn hoán cải cho ta và biến đổi ta thành những con người mới: trong sạch, liêm chính theo thánh ý Ngài.
nguon:http://gplongxuyen.org/News