Chúa Nhật 03/02/2019 – Chúa Nhật 4 Thường Niên năm C: Chúa Giêsu được sai đến với mọi người.

Chúa Nhật 03/02/2019 – Chúa Nhật 4 Thường Niên năm C. – Chúa Giêsu được sai đến với mọi người.

"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".

 

Lời Chúa: Lc 4, 21-30

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"

Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Ðiều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'". Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".

Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

  

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C

Lời Chúa: Gr 1,4-5.17-19; 1Cr 12,31 - 13,13; Lc 4,21-30

 

1. Truyền giáo

Hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri các ngươi vừa nghe. Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đã thực hiện tất cả những gì Cựu ước và nhất là các tiên tri đã nói về Ngài.

Thực vậy, Ngài đã đến cho những người nghèo túng, cho những người đau yếu và cho những người bị bóc lột. Trong suốt quãng đời công khai, Ngài đã cúi xuống xoa dịu mọi khổ đau cũa những người Ngài gặp thấy trên khắp các nẻo đường. Làm sao chúng ta có thể kể hết những phép lạ Ngài đã làm, những lời nói cảm động và những cử chỉ ủi an Ngài đã thực hiện.

Thế nhưng, Ngài không dừng lại ở những thiếu thốn vật chất, ở những khổ đau thân xác, mà Ngài còn đi xa hơn nhữa, tới những thiếu thốn của ơn sủng và những khổ đau của tâm hồn, bởi vì những khổ đau ngoài thân xác chỉ là một phản ảnh, một dấu chỉ của những khổ đau trong tâm hồn.

Chính vì thế, trong khi chữa lành những tật bệnh phần xác, trong khi làm cho người chết sống lại, cũng như trong khi làm cho bánh hóa nhiều, Ngài đã dẫn chúng ta vào một cảnh vực thần linh, vào thế giới siêu nhiên. Ngài muốn giải phóng con tim chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi. Ngài muốn khủ trừ ảnh hưởng của ma quỉ, cũng như muốn mở cho chúng ta cặp mắt đức tin.

Tuy nhiên, những hành động yêu thương này, không phải chỉ được thực hiện trong ba năm của quãng đời công khai, mà hơn thế nữa, còn được tiếp tục qua dòng thời gian trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.

Thực vậy, Giáo Hội là hiền thê của Đức Kitô, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, Giáo Hội chính là Đức Kitô được kéo dài trong lịch sử. Giáo Hội tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô. Nhờ các bí tích trong Giáo Hội, Đức Kitô tiếp tục giải phóng chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi,nuôi sống chúng ta bằng lương thực thần linh và bổ sức cho chúng ta bằng muôn vàn ơn sủng của Ngài.

Nhờ những lời giảng dạy và giáo huấn của Giáo Hội, Đức Kitô tiếp tục truyền thông ánh sáng cho những kẻ còn ngồi trong bóng tối. Thế nhưng, để Giáo Hội hoàn tất được sứ mạng của mình ở trần gian, thì mỗi phần tử, hay nói đúng hơn, mỗi người chúng ta phải ý thức bổn phận truyền giáo, bổn phận làm việc tông đồ, bổn phận góp phần nhỏ bé của của mình trong công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo Hội.

Thực vậy, trước khi về trời, Đức Kitô đã phán:

- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần…

Chúng ta cần phải đánh tan một quan niệm sai lạc cho rằng: việc tông đồ truyền giáo là việc riêng của các linh mục, tu sĩ, hay một số người nào đó. Không phải là như vậy. Đây là một trách nhiệm, một bổn phận của mỗi người Kitô hữu, bởi vì đã là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô, chúng ta có trách nhiệm, có bổn phận phải làm cho nhiệm thể ấy lớn mạnh và phát triển.

Nếu không thể đi rao giảng như các thánh tông đồ, như các vị thừa sai, hay như các nhà truyền giáo, thì ít nữa là chúng ta phải sống đức tin, phải làm chứng cho Đức Kitô ngay giữa lòng cuộc đời của mình, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái va yêu thương, vì:

- Lời nói như gió lung lay,

Việc làm như tay lôi kéo.

Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức hấp dẫn và lôi cuốn những người chung quanh, để rồi dẫn đưa họ trở về cùng Thiên Chúa.

Mỗi người chúng ta phải ý thức bổn phận tông đồ và phải kêu lên như thánh Phaolô:

- Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng.

Mỗi người chúng ta phải ý thức sứ mạng truyền giáo và phải van xin như thánh Phanxicô Xaviê:

- Lạy Chúa, xin ban thêm nữa cho con những linh hồn.

Mỗi người chúng ta phải cố gắng góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển của Giáo Hội và phải nói được như thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu:

- Nếu như tôi đã vào thiên đàng, mà thấy ở trần gian còn có một linh hồn sắp sa hỏa ngục, thì tôi xin tình nguyện trở lại trần gian để cứu vớt linh hồn ấy.

Mỗi người chúng ta đã đón nhận tình yêu thương của Chúa, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải chuyển thông tình yêu thương ấy cho những người chung quanh, như lời Chúa đã dạy:

- Được nhưng không, thì phải cho nhưng không.

Mỗi người chúng ta phải là một Đức Kitô khác, một Đức Kitô thứ hai, hay nói cách cụ thể, phải là một hiện thân, một chứng tá cho Đức Kitô giữa môi trường chúng ta đang sống. Mỗi người chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Đức Kitô trong thời gian và không gian. Mỗi người chúng ta phải tiếp nối những hành động của Đức Kitô bằng cách đem tình thương vào nơi oán thù, đem tha thứ vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem trông cậy vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu…

Ngày kia, khi sắp phải giao tranh một trận quyết liệt, Napoléon đã lên tiếng khuyến dụ các binh sĩ như sau:

- Hỡi anh em chiến hữu, tôi cần đến các bạn.

Giáo Hội cũng đang đứng trước một trận chiến đầy cam go, chống lại ma quỉ, thế gian và tội lỗi, nên đã nói với chúng ta:

- Hỡi các con, ta cần đến các con.

Napoléon kêu gọi các binh sĩ để giết chết những thường dân vô tội, nhưng Giáo Hội kêu gọi chúng ta để cứu vớt những người anh em. Napoléon kêu gọi các binh sĩ để giúp ông được vinh quang, nhưng Giáo Hội kêu gọi chúng ta để làm cho Nước Chúa được trị đến.

Người ta kể lại rằng: khi Ringhoff, một thương gia người Đức, mừng thượng thọ 80 tuổi,rất nhiều người đã gửi lời chúc mừng, trong số đó có ông bộ trưởng công chánh. Lý do: trong thời gian hành nghề, nhà thủy thủ này đã vớt được 120 người khỏi chết đuối.

Cứu thân xác kẻ khác khỏi chết đã là một công việc tốt đẹp, thế nhưng, công việc đó chẳng thể nào so sánh được với công việc của người làm tông đồ, cứu linh hồn kẻ khác khỏi chết, bởi vì chính Chúa sẽ chúc phúc cho họ.

Nếu mỗi người chúng ta đều trung thành với bổn phận tông đồ, thì hẳn lời tiên tri Isaia cũng đã được thực hiện trong thời buổi hôm nay, đó là: Tin mừng được rao giảng cho người nghèo khó, năm hồng ân được công bố và Nước Chúa dã hiện diện giữa chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, ngày hôm nay Chúa lên tiếng kêu mời chúng con cộng tác với Chúa trong công cuộc truyền bá Tin mừng. Xin cho chúng con bết quảng đại đáp trả tiếng gọi của Chúa. Bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng con góp phần nhỏ bé làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được trị đến và ý Chúa được chu toàn.

 

2. Thân phận ngôn sứ - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Một tân Linh mục tự nhiên bộc lộ tâm sự: Bao nhiêu năm làm thầy ở Giáo xứ, người ta coi thường mình quá! Thế mà chỉ sau một giờ thụ phong Linh Mục, ai ai cũng kính trọng cúi chào và chúc mừng nồng nhiệt.

Một cảm giác thật kỳ diệu!

Nếu Đức Giêsu cũng được tấn phong theo nghi lễ bên ngoài cho người ta trông thấy, chắc chắn sẽ được dân làng Nazareth kính trọng biết bao. Đằng này Đức Giêsu chỉ nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. Lời Kinh thánh đó đã được đọc Chúa nhật trước là: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi…”. Họ không thấy Thánh thần xức dầu tấn phong người làm Ngôn sứ như Êlia xức dầu tấn phong Êlisê (1V. 19,16), làm Linh mục như Môise xức dầu tấn phong cho Aharon (Lv. 8,13), làm vua như Samuel xức dầu tấn phong cho David (1S. 16,13). Dầu mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp Người đã nói. Họ không tin lời Tiên tri Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu vì hai lý do:

1) Thứ nhất: “gần chùa gọi bụt bằng anh”.

Họ nói: “Ông này không phải là con Ông Giuse đó sao?” cảm tưởng thán phục về Đức Giêsu thoát chốc biến mất khi họ nhận ra Người là con ông Giuse, con bác thợ mộc vẫn lang thang làm mướn cho hết nhà này cho đến nhà kia. Gần suốt ba mươi năm, Người sống với họ trong một miền quê nghèo nàn nhỏ bé, làm sao có thể bỗng chốc trở thành Ngôn sứ, trở thành vĩ nhân được. Họ đã biết rất rõ nguồn gốc Người thuộc dòng dõi những kẻ tầm thường từ Giuse đến Eli con ông Mátthát, tới ông cụ ông kỵ là dòng dõi Lêvi như thánh Luca đã kể đoạn gia phả (Lc. 3, 23. 24). Và họ đã vấp phạm vì họ quá bám vào thành kiến loài người: “Con Vua thì lại làm Vua. Con bác Sãi Chùa thì quét lá đa”.

Làm sao loài người thoát khỏi những thành kiến nô lệ đó. Họ phải biết rằng: Xưa kia đã có những kẻ mục đồng tầm thường như Saulê, như David đã được tấn phong làm Vua, những bác nông phu đi cầy, đang hái nho như Êlisê, Amos cũng được sai làm Ngôn sứ. Ở Việt Nam cũng có người dân áo vải đã trở nên những vị Vua anh hùng như Lê Lợi, Quang Trung. Nhiều con nhà nghèo cũng được bầu làm Giáo Hoàng như Piô 10, Gioan 23.

Đức Giêsu chẳng những là người dân lao động mà còn có nguồn gốc dòng dõi siêu phàm. Hôm nay Người tỏ ra cho họ biết Người đã thực hiện sứ mệnh siêu phàm đó là cho người nghèo được nghe Tin Mừng, những tâm hồn tan nát được băng bó, người mù được sáng…

Họ cũng đã nghe thấy Người làm ở Caphanaum “cho người què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt. 11, 5).

2) Thứ hai, từ coi thường đến thách thức và phẫn nộ:

“Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương Ông xem nào!”. Đây là một thách thức ghê gớm để thử Người như Satan đã thử Người từ trên nóc đền thờ lao mình xuống đất, như những kẻ đòi Người làm một dấu tạ từ trời (Lc. 11, 16). Họ cũng hy vọng như những kẻ lười biếng, ỷ lại ích kỷ muốn: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Họ muốn Đức Giêsu phải làm cho họ hơn những người khác vì họ đồng hương với Người. Đó là óc gia đình trị, bè đảng trị. Chúng ta cũng giống như những người làng Nazaneth muốn Thiên Chúa giải quyết cho chúng ta mọi vấn đề. Nhưng Thiên Chúa không thiên vị ai. Chỉ những ai thành tâm mến Ngài, trông cậy phó thác và thực thi Thánh ý Ngài, sống theo đường Thánh giá của Đức Giêsu, lúc đó Ngài mới ra tay cứu thoát.

Thấy họ ngạo mạn, ích kỷ vụ lợi như thế, Đức Giêsu đã nói thật về họ. Họ giống như tổ tiên họ thời các tiên tri Êlia và Êlisê.

Trong thời Êlia, nạn đói do hạn hán hoành hành trong ba năm sáu tháng, Thiên Chúa sai Êlia đến cứu giúp bà goá lương dân thành Sarépta, còn bao nhiêu bà nghèo đói khác trong dân Israel lại không được cứu giúp. Tại sao thế? Thưa vì bà góa dân ngoại này đã có lòng thương người biết chia cơm, sẻ nước cho người khách lạ là Êlia, còn các bà dân Israel theo nhà Vua A-kháp và Hoàng Hậu Iza-bel đi cầu khẩn tà thần Ba-al (1V. 16, 30-17,15)

Trong thời Êlisê, bao nhiêu người phong cùi trong dân Israel không đến xin Êlisê, tiên tri của Thiên Chúa cứu chữa, mà chỉ có đại tướng Naaman, người dân ngoại nước Syri, cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến nài xin Êlisê cứu và đã nghe lời tiên tri dậy bảo xuống sông Gióc-đan thanh tẩy và đã được khỏi (2V. 5,1-15). Những lời nói thật đó lại làm họ phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo lên đỉnh đồi, để xô Người xuống vực thẳm. Đáng lý ra, nghe những lời giảng dậy cao siêu lạ lùng đó, họ phải thán phục, kính trọng lãnh nhận để suy niệm. Đáng lý ra, biết Người làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, họ phải tin quyền phép Thiên Chúa nơi Người và khiêm tốn cầu xin cứu chữa. Đáng lý ra, khi Người vạch ra cho họ thấy rõ sự thật, họ phải đau đớn ăn năn sám hối, cải thiện để được ơn tha thứ. Nhưng họ lại khinh bỉ, tự ái kiêu căng lao đầu theo dục vọng phẫn nộ điên cuồng của tội ác giết người.

    Ngày nay, Đức Giêsu cũng đang nói với chúng ta những sự thật đó: Những sự thật phũ phàng đang xẩy ra, những nạn kỳ thị khủng khiếp đe dọa tiêu diệt lẫn nhau giữa các nước, các chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, trong xóm làng và trong gia đình. Có những người công chính dám nói lên những sự thật đó, đều bị thảm sát như Grandhi ngày 14/01/1948, Luther King ngày 04/04/1968, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị sát hại hai lần ngày 13/05/1981 tại Roma và 05/05/1982 tại Tây Ban Nha.

Lời Chúa hôm nay cho thấy: người ta cũng muốn sát hại Đức Giêsu và tiên tri Giêrêmia. Để mỗi người chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ tránh khỏi nạn kỳ thị lẫn nhau, thánh Phaolô trong bài đọc II kêu gọi chúng ta phải sống bác ái theo gương Đức Giêsu: Đem Tin Mừng đến cho nhau, chứ đừng đem sầu khổ ; băng bó những tâm hồn tan nát, chứ đừng đâm bị thóc, chọc bị gạo ; giải thoát cho kẻ bị áp bức, đem ánh sáng Đức Kitô cho kẻ ngồi trong bóng tối tội lỗi ; ban bố hồng ân của Chúa, chứ đừng gieo tai bay vạ gió.

Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn mỗi người chúng con làm ngôn sứ của Chúa ngay khi chúng con chịu phép Rửa tội: “Thánh Thần Chúa đã xức dầu chúng con để nhập đoàn dân Người, chúng con mãi mãi làm chi thể của Đức Kitô là tư tế, tiên tri và vương đế đến cõi sống đời đời”. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi sứ mệnh cao cả đó, dù có bị phẫn nộ, xô đẩy xuống hố sâu, thì Chúa cũng cho chúng con “băng qua giữa họ mà đi”.

 

3. Tiên tri

Giêrêmia là một vị tiên tri sống vào thời dân Do Thái bị băng hoại từ bên trong, và bị kẻ thù đe doạ từ bên ngoài. Tình hình ấy đã làm cho ông hết sức đau xót. Có lẽ vì thế Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho đồng bào của ông. Tuy nhiên, lần nào được Chúa kêu gọi, thì ông cũng đáp lại bằng một thái độ miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi quê hương mình là điều rất khó khăn. Nhưng rồi ông cũng phải lên tiếng và thẳng thắn nói với dân chúng con đường duy nhất họ phải đi là canh tân đời sống, quay trở về với Chúa. Nghe ông rao giảng dân chúng bèn nổi giận: Ông ấy là ai mà dám phê phán chúng ta.

Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và bẽ bàng khi lãnh nhận sứ mạng làm tiên tri ngay trong xứ sở mình. Đoạn Tin Mừng cho thấy, dân làng Nadarét đã tức tối và lẩm bẩm: Anh ta là ai mà dám tự nhận mình là Đấng Thiên Sai. Anh ta há chẳng phải là con ông Giuse thợ mộc đó sao? Sự căm tức lên tới cao điểm khi họ định xô Ngài xuống vực thẳm.

Hẳn chúng ta còn nhớ lời ông già Simêon nơi cửa đền thờ: Trẻ này sẽ là dấu chỉ cho người ta chống đối.

Nếu dân làng Nadarét đã đòi Ngài phải đưa ra bằng cớ chính mình Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng đòi buộc Ngài phải chứng minh giáo lý của Ngài là chân thật. Nếu dân làng Nadarét đã tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã thẳng thừng kết án Ngài là khí cụ của ma quỷ. Nếu dân làng Nadarét đã tìm cách giết Chúa thế nào, thì dân thành Giêrusalem cũng đã kêu la: Đóng đinh nó vào thập giá.

Số phận của Chúa Giêsu cũng là số phận của chúng ta, nhưng môn đệ của Ngài: Nếu họ đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Bất cứ ai sống đúng địa vị người Kitô hữu cũng sẽ nhận ra sự thật ấy.

Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta đón gió trở cờ, thấy khó khăn là xoá bỏ đức tin, khước từ lối sống lành mạnh và lương thiện. Bởi vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối ướp cho đời khỏi ươn thối. Các con là tấm men làm cho khối bột là xã hội đang băng hoại phề phương diện đạo đức, được dậy lên sự thánh thiện. Các con là ánh sáng chiếu soi vào thế gian tăm tối. Ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người, để họ nhìn thấy những việc thiện các con làm, mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.

Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thánh Phaolô viết: Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này.

 

4. Hiến thân làm chứng nhân cho ánh sáng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Hằng năm, cứ vào ngày thứ 40 sau lễ Giáng sinh, Giáo Hội cử hành lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ cũng gọi là lễ Nến. Các Giáo Hội Tây Âu đã chỉ bắt đầu cử hành ngày lễ này từ thế kỷ thứ VII và thứ VIII trở đi. Trước khi khởi sự thánh lễ có cuộc rước đèn trọng thể, mọi người cầm đèn sáng trong tay tượng trưng cho Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng cứu độ hiện diện giữa lòng trần gian tăm tối. Ánh đèn sáng cũng diễn tả ơn đức tin, mà mỗi tín hữu đã nhận lãnh trong bí tích Rửa tội, đồng thời nó cũng diễn tả ơn gọi Kitô, là phản chiếu ánh sáng ơn cứu độ của Chúa trong cuộc sống thường ngày. Ngày nay, trong lễ này, nhiều dòng tu đặc biệt là các dòng tu nữ có thói quen tận hiến trong thánh lễ này, nhất quyết dấn thân làm chứng nhân cho ánh sáng cứu độ của Chúa giữa lòng thế giới.

Trong ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ, Giáo Hội cũng kêu mời mỗi người trong chúng ta hiến thân làm chứng nhân cho ánh sáng cứu độ của Chúa và đem ánh sáng cứu độ đó đến cho tất cả những ai chưa biết Ngài. Giữa lòng xã hội, mỗi một Kitô hữu phải là một sứ giả dọn đường cho Chúa đến trong tâm lòng con người. Ðây là hình ảnh được tiên tri Malakia miêu tả trong chương 3,1-4. Trong dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã gởi các sứ giả của Ngài đến trước để dọn đường cho Ngài. Họ là các tiên tri có nhiệm vụ chuyển sứ điệp của Chúa đến cho con người và giúp mọi thành phần xã hội tẩy rửa tâm lòng thay đổi lối sống. Những lời rao giảng và khuyến cáo của các vị giống như lửa nóng trong lò luyện kim, đốt cháy và nung chảy mọi sự để thanh lọc vàng bạc khỏi tất cả mọi chất cặn bã dơ bẩn, hầu khiến cho chúng trở nên tinh ròng trong sáng. Những lời cảnh cáo kêu mời của các vị giống như thuốc giặt có sức mạnh gột rửa mọi vết ô uế trong tâm lòng và cuộc sống con người. Lửa và thuốc giặt, thiêu đốt và chà xát khiến cho tâm lòng và cuộc đời con người có đau xót thật, nhưng đó là cái đau xót cần thiết cho việc thanh luyện và biến đổi.

Tầng lớp xã hội đầu tiên mà vị sứ giả của Chúa phải thanh tẩy là hàng giáo sĩ, nơi người có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc sống tinh thần của dân. Bởi vì hàng giáo sĩ không thể chỉ đường cho dân đến với Chúa, nếu chính họ là những người sống xa Chúa, phản chứng, bê tha, tội lỗi mù lòa, tâm linh yếu ớt và bệnh hoạn tinh thần. Và cuộc thanh tẩy ấy sẽ lan dần cho các thành phần xã hội khác, đặc biệt là giới lãnh đạo xã hội, dân sự là những người có phần vụ liên hệ tới cuộc sống hạnh phúc hay khốn khổ của toàn dân. Mục đích tối hậu của cuộc thanh tẩy toàn diện ấy là chuẩn bị cho Thiên Chúa đến xét xử loài người và thế giới. Là các sứ giả của Chúa, Kitô hữu có một sứ mạng vô vùng cao trọng giữa lòng trần gian, ơn cứu độ của thế giới tùy thuộc một phần nơi ý thức trách nhiệm, nơi thái độ sống chứng tá và hành xử của họ. Chúa Giêsu Kitô nhập thể làm người, là hiện thân của Giavê Thiên Chúa vào trần gian để xét xử thế giới, và thánh Gioan Tẩy Giả là tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa gởi tới để dọn đường cho Ngài. Khi kể ra các nhân tố lịch sử và địa lý trong chương 2,22-40, thánh sử Luca muốn chứng minh rằng Chúa Giêsu đã thật sự nhập thể làm người, bởi vì Ngài đã chấp nhận sinh ra trong một gia đình, thuộc một dân tộc, sống trong một vùng đất nhất định của thế giới này với những tập tục và luật lệ riêng. Khi tuân phục các phong tục tập quán và lề luật đó. Ngài hoàn toàn chấp nhận mọi hệ lụy của kiếp sống con người. Trong tường thuật này của thánh Luca, cần phân biệt hai tập tục khác nhau. Thứ nhất là tập tục dâng hiến hay sát tế lễ vật và con trai đầu lòng cho các thần linh, và thứ hai là tập tục cha mẹ đem con cái lên đền thờ Giêrusalem, dâng chúng cho Thiên Chúa vào ngày thứ 40 sau khi sinh. Các dân tộc Sémite và nhiều dân tộc trên thế giới bên Châu Phi và Châu Mỹ Latinh thời rất xa xưa, đã có thói quen dâng hiến tất cả mọi thứ đầu mùa cho các thần linh, hoa trái đầu mùa, con đầu lòng của súc vật và con trai đầu lòng của họ nữa. Sở dĩ họ làm như thế trước hết vì xác tín rằng, tất cả đều thuộc về các thần linh. Sau đó vì tin rằng, hiến dâng hay sát tế cho các thần linh những súc vật và con đầu lòng nghĩa là những gì quí báu nhất đối với họ, là diễn tả lòng thành kính đối với các vị, và qua đó, kéo được phúc lành của các thần linh xuống trên cuộc sống của họ.

Dân Do Thái cũng lấy lại thói quen này nhưng không chấp nhận việc sát tế người, vì luật Do Thái cấm sát tế người như đã viết trong sách Lêvi đoạn 18,21. Sách Xuất Hành đoạn 13 có nhắc đến luật hiến tế con trai đầu lòng của người và vật cho Thiên Chúa, khi viết: "Thiên Chúa phán với Môisen: Hãy thánh hiến cho Ta tất cả con trai đầu lòng, lọt lòng mẹ giữa con cái Israel, giữa con người cũng như súc vật vì nó thuộc về Ta". Nhưng sau đó trong câu 13, thì lại cho chuộc lại đứa con đầu lòng với một con lừa, nếu không thì phải giết nhưng trong hình thức không đổ máu, bởi vì lừa lại là loại vật ô uế không làm loài vật sát tế như cừu được. Câu 13 cũng xác định rằng phải chuộc con trai đầu lòng. Luật thánh hiến con trai đầu lòng này được soạn giả lồng khung trong biến cố xuất hành và lễ nghi sát tế chiên vượt qua, lễ nghi này được dân du mục cử hành vào mùa xuân khi họ sát tế con chiên đầu lòng cho các thần linh. Chúa Giêsu sau này sẽ được các soạn giả Tân Ước coi là Chiên Vượt Qua bị sát tế để đền bù tội lỗi cho loài người.

Tập tục hay luật lệ tôn giáo thứ hai được thánh Luca nói đến trong tường thuật là thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, như ghi trong sách Lêvi chương 12: "Khi sinh nở phụ nữ bị băng huyết nên bị coi là ở trong tình trạng ô uế". Quan niệm về ô uế hay tinh sạch trong Kinh Thánh Cựu Ước không có ý nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu ngày nay, mà có nghĩa là thánh thiện. Tất cả những gì là ngoại lệ bất thường, tất cả mọi thái độ, trạng thái được bị coi là một đe dọa, biểu lộ quyền lực nhiệm mầu linh thiêng, quyền lực ấy có thể là tốt hay là xấu. Do đó con người phải làm một lễ nghi thanh tẩy để giải thoát mình khỏi bị lây quyền lực đó. Ðối với dân Do Thái, máu là một nhân tố diễn tả sự sống nhiệm mầu và thánh thiêng đáng sợ, vì thế khi ở trong tình trạng băng huyết sau khi sinh con, là người mẹ đang trong tình trạng ô uế, là mất bình thường, do đó, phải làm lễ nghi thanh tẩy. Lễ nghi này người mẹ phải thi hành sau mỗi lần sinh con. Con trai thì phải đợi 40 ngày sau lễ nghi cắt bì tức 48 ngày sau khi sinh; trong khi con gái thì phải đợi 70 ngày nên kể thêm 2 tuần kiêng cữ từ khi sinh thì tổng cộng là 84 ngày tất cả. Nếu là người giàu thì người mẹ dâng một con chiên một tuổi làm lễ vật toàn thiêu và một con bồ câu hay chim gáy làm lễ vật đền tội. Còn nếu nghèo không có khả năng thì dâng một đôi bồ câu hay một đôi chim gáy cho các lễ nghi này.

Nói cách khác, tường thuật dâng Chúa Giêsu trong đền thờ của thánh sử Luca, chọn lễ nghi dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa ghi trong chương 13 sách Xuất hành, với lễ nghi thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con của sách Lêvi chương 12. Khi lặp lại nhiều lần kiểu nói: "Theo luật Chúa truyền", thánh Luca muốn khẳng định rằng, sự kiện Chúa Giêsu và Mẹ Maria tuân hành mọi luật lệ tôn giáo, là một thứ dấu ấn của biến cố nhập thể làm người. Chúa Giêsu hiện thân của Thiên Chúa là đền thờ mới bằng xương bằng thịt, nơi Thiên Chúa ngự trị một cách toàn vẹn. Thân xác Chúa Giêsu chính là đền thờ thánh thiện của Thiên Chúa. Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể làm người đã cắm lều sống giữa chúng ta. "Các ngươi hãy phá hủy đền thờ này, trong ba ngày Ta sẽ xây cất lại." Chúa Giêsu có ý ám chỉ thân thể của Ngài. Nói cách khác, Chúa Giêsu là Hòm Bia mới vẹn toàn và sống động của Thiên Chúa.

Ý nghĩa thứ hai được nêu bật trong tường thuật của thánh Luca đó là Chúa Giêsu là ánh sáng cứu độ chiếu soi trần gian. Bài ca của cụ già Siméon là một trong những bài thánh ca mục vụ cổ xưa nhất, diễn tả tương quan giữa thị kiến và ánh sáng cứu độ mà những người thánh thiện như cụ được xem thấy trong cuộc sống của mình. Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi Israel và toàn thế giới. Sự kiện Chúa Giêsu, ánh sáng cứu độ, bước vào đền thờ cũng biểu tượng cho biến cố Ngài bước vào dòng lịch sử và thế giới con người. Nhưng để có thể nhận biết Chúa Giêsu là ánh sáng và là niềm hy vọng cứu độ, cần phải có ơn Chúa Thánh Thần trợ lực như cụ già Siméon và bà Anna. Cả hai người đều là những mẫu gương của đời cầu nguyện và cuộc sống thánh thiện và là các tiên tri của Thiên Chúa đã hiểu được biến cố lịch sử và sứ điệp của Thiên Chúa giấu ẩn trong đó. Cụ Siméon trông thấy Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ của sự chống đối và chia rẽ, bởi vì con người hoàn toàn tự do chấp nhận hay từ chối Chúa Giêsu, và sự kiện Ngài đã bị khước từ, bắt bớ, kết án và xử tử sẽ là lưỡi gươm đâm thấu con tim từ mẫu của Mẹ Maria. Khác với ông Siméon, bà Anna không trông chờ Ðấng Cứu Thế vì biết rằng Ngài hiện diện giữa trần gian. Sau khi được gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, bà bắt đầu loan báo Ngài cho mọi người dân trong thành Giêrusalem đang trông chờ ơn cứu độ.

Chương 2 thơ gởi giáo đoàn Do Thái cũng nêu bật sự kiện Chúa Giêsu nhập thể, bằng cách chấp nhận cuộc sinh ly của số phận làm người kể cả cái chết. Và Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện qua Lời Ngài, qua sự hiện diện sống động của Ngài trong bí tích Thánh Thể, trong tâm lòng và cuộc sống của chúng ta, mỗi một tín hữu là một đền thờ sống động nơi Thiên Chúa ngự trị và sứ mạng là Giáo Hội là Mình mầu nhiệm Chúa mà các kitô hữu là chi thể của Ngài.

 

5. Phản ứng của hội đường thành Nadarét

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Chúa nhật trước, chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự đi giảng đạo, Người đã vào hội đường Nadarét, xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ gởi đến cho dân Người. Hơn nữa, khi áp dụng lời sách Isaia về người Tôi tớ Thiên Chúa vào cho mình, Ðức Giêsu đã khẳng định Người là Cứu thế đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa tức là khai mạc thời đại cứu độ mọi người. Hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy phản ứng của người đồng hương với Ðức Giêsu trước những lời xác quyết của Người.

Ðó là thái độ cố hữu của người Do Thái, như Giêrêmia đã kinh nghiệm. Ðó cũng có thể là cách trả lời của chúng ta đối với mọi mạc khải của Thiên Chúa nơi các ngôn sứ của Người, nếu chúng ta không nghe lời thánh Phaolô mà đặt đức ái lên trên hết. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài Kinh Thánh hôm nay để hiểu mình và sửa mình cho xứng đáng với ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta.

1. Thái độ cố hữu của người Do Thái

Không dân tộc nào được Chúa yêu thương như cộng đồng con cái Israen. Không phải vì họ có những đức tính trổi vượt hơn hết mọi dân tộc; nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn họ làm dân riêng của Người. Họ có luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của Thiên Chúa. Họ còn thường được các tiên tri đến dạy dỗ. Ðó là những ngôn sứ thay mặt Thiên Chúa đến soi sáng và hướng dẫn họ sống theo luật pháp, hầu được đẹp lòng Chúa và hưởng các ân huệ Người ban.

Nhưng Do Thái lại là dân cứng đầu cứng cổ. Họ vứt bỏ đường lối của Thiên Chúa để đi theo lòng dục của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi tới cũng gặp nhiều chống đối và khó khăn. Một phần nữa cũng vì có quá nhiều những tay bịp bợm, lạm dụng sự mê tín của quần chúng tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa. Nên bên cạnh một số ít tiên tri thật, có nhan nhản những tiên tri giả và những kẻ "muốn làm nghề tiên tri". Vì sự hiện diện và hoạt động của những kẻ này, các ngôn sứ của Chúa phải tăng thêm nỗ lực để khẳng định Lời Chúa và ơn gọi của mình. Và thường khi các ngài phải "chết để nói lên lời". Giêrêmia là một trong những vị đại tiên tri. Ông là một trong 4 đại tiên tri còn để lại văn phẩm. Không vị tiên tri nào đã gặp nhiều đau khổ vì ơn gọi như ông.

Thế nên, xét về phương diện đau khổ, ông là vị tiên tri gần với Ðức Giêsu Kitô hơn hết. và Phụng Vụ hôm nay đã theo truyền thống coi ông là hình ảnh báo trước về nhà tiên tri thành Nadarét có định mệnh "phải chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại những chương 36-45 trong sách Giêrêmia để xem nhà tiên tri này đã khổ sở thế nào. Người ta chống đối, muốn bịt miệng ông, bắt ông phải vào tù ra khám, và có lần đã muốn chấm dứt đời ông rồi. Nhưng trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn cương quyết công bố Lời Chúa và khẳng định ơn gọi thiêng liêng của mình.

Bài đọc hôm nay không cố ý mô tả cuộc đời thơ ấu của Giêrêmia đâu. Nhưng đây là cái nhìn của một người rất đứng tuổi và chín chắn nghĩ lại ơn gọi của mình, để làm chứng cho mọi người thấy thiên mệnh đã đè xuống trên ông.

Ðồng bào của Giêrêmia, tức là cộng đồng con cái Israen vẫn tin rằng Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự và con người cũng do tay Người nặn lên. Nhưng điều ít ai để ý, là trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật hữu hình này, Người đã có một kế hoạch rất rõ ràng. Ơn gọi của các tiên tri nằm trong kế hoạch ấy.

Thế nên "trước khi Ta nắn ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươì làm tiên tri cho các dân tộc". Và để chứng minh điều này, Giêrêmia nói thêm rằng: khi được gọi, ông chưa biết nói, nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban Lời cho ông để ông chỉ có việc nói những lời của Người mà thôi.

Ðó là những lời thành thật. Chúng ta không có gì phải nói thêm. Chúng ta chỉ để ý đến lời Giêrêmia khẳng định mình đã được đặt làm tiên tri cho "các dân tộc". Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa, mạc khải của Người, không dành riêng gì cho dân Do Thái, nhưng cho mọi dân nước và thời đại. Tính cách phổ cập này thêm vinh dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao quý vì phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi này lại rất bi đát. Những lời sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh của ông.

Ông phải "nai lưng", tức là phải lấy thế để chiến đấu, vì người ta sẽ tuyên chiến với ông. Họ cưỡng lại mọi lời ông nói, vì lời của ông diễn tả ý Chúa chứ không chiều theo dục vọng của loài người.

Ðó là tiêu chuẩn để phân biệt các tiên tri giả và các tiên tri thật. Những người này dù bị chống đối và đau khổ vẫn như thành trì, trụ sắt và tường đồng, cự lại các vua và khanh tướng. Không phải vì họ có can đảm phi thường, nhưng chỉ vì Chúa đã giữ lời hứa với các tiên tri của Người "Ta sẽ ở với ngươi khiến chúng không làm gì được ngươi".

Thật ra không phải vị tiên tri nào cũng thoát khỏi bàn tay sát nhân của loài người độc dữ đến nỗi sau này có lần Ðức Giêsu phải kêu lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ giết hại các tiên tri" (Mt 23,37). Và có như thế, các tiên tri mới là những người báo trước vị tiên tri sẽ phải đến trong thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị giết, nhưng sự sống lại của Người sẽ làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến trước hầu cho thấy "thủ lãnh thế gian bị luận phạt".

Hôm nay bài Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy vị tiên tri này. Không những Người đã gợi lại mà còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta hãy quan sát Người theo lời thuật của Luca.

2. Phản ứng của hội đường thành Nadarét

Ðức Giêsu bấy giờ vừa giảng xong. Người ta thán phục Người. Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng thoát ra từ môi miệng của Người. Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao? Suy nghĩ này làm chứng họ không muốn khiêm nhường đón nhận sứ điệp cứu độ đến với họ qua một con người bình thường ở giữa họ. Ðức Giêsu chua chát nghĩ đến câu: "Không tiên tri nào được tôn trọng ở quê nhà".

Và từ đó, Luca nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa, không những Người thấy những kẻ đồng hương với Người ở Nadarét không muốn chấp nhận Người; nhưng qua họ, Người còn thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa cũng sẽ không đón nhận. Họ cậy mình đã có luật pháp và không muốn bị xáo trọn bởi một luồng gió mới nào nếu người khởi xướng không làm được những dấu lạ điềm thiêng như Môsê ngày trước. Nghĩa là họ chỉ muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi trọng những cái bề ngoài và không bao giờ muốn trở nên trưởng thành, biết ý thức về ý nghĩa của luật pháp như các tiên tri thường hướng dẫn. Tín ngưỡng của họ trở thành thứ tôn giáo của chữ viết, và của hình thức, chứ không muốn là sự sống tinh thần như Thiên Chúa kêu gọi. Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri. Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài. Thường khi họ còn giết chết các ngài nữa. Mà các ngài đâu có thiếu gì các quyền năng? Êlya không có quyền đóng góp cửa trời và làm mưa sao? Thế mà có ai trong dân Do Thái được nhờ ông? Trái lại một góa phụ ở Sarepta thuộc dân ngoại đã được ông cứu đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên tri rất mạnh thế.

Tuy nhiên cũng chẳng ai trong dân Do Thái được cho lành bệnh, đang khi Naaman, một bậc khanh tướng ngoại đạo đã được ông chữa khỏi bệnh cùi. Luca trích dẫn những câu chuyện này để phục vụ ý kiến của ông khi viết cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả rằng dân Do Thái đã không biết đón nhận nhà tiên tri ở giữa họ là Ðức Giêsu thành Nadarét. Và vì vậy sự nghiệp ân sủng của Người đã được chuyển sang cho dân ngoại là Hội Thánh hiện nay.

Luca đã không muốn lợi dụng câu chuyện đã xảy ra trong Hội đường Nadarét để tổng quát hóa công cuộc cứu thế của Ðức Giêsu Kitô và để báo trước đau khổ vinh quang đang chờ đợi Người. Người đã đến giữa dân Người, rao truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân của Người và dân Người đã không đón nhận, nên ơn cứu độ của Người mang đến đã chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh chúng ta ngày nay.

Lời khẳng định này, làm sao người Do Thái có thể chịu đựng được? Họ đã nhất tề đứng lên, hung hăng lôi Ðức Giêsu ra khỏi thành, đưa Người lên một sườn đồi và định tâm đẩy Người xuống cho chết đi. Nhưng Người đã nhẹ nhàng đi qua mặt họ để tiếp tục cuộc hành trình.

Bằng những lời đơn sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử nạn của Ðức Giêsu. Người sẽ bị người Do Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh trên sườn đồi... Nhưng Người sẽ nhẹ nhàng linh diệu thoát khỏi nơi họ đẩy Người tới để sống lại vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế của Người.

Như vậy, có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn sơ thuật lại những gì xảy ra trong hội đường ở Nadarét. Hoặc Luca đã dùng câu chuyện này để vẽ ra trước tất cả định mệnh của vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu độ cho dân Người. Người cũng bị đối xử không hơn gì các tiên tri đi trước. Như bài sách Giêrêmia đã nói. Nhưng cũng như tiên tri này đã loan báo, Người thật là sứ giả của Thiên Chúa gửi đến báo cho các dân tộc. Hoặc đúng hơn, Luca đã dùng những biến cố trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt những sự kiện tử nạn và phục sinh của Người, làm đèn chiếu sáng lên câu chuyện xảy ra tại hội đường ở Nadarét và thuật lại sự kiện theo ánh sáng mầu nhiệm chết và sống lại của Ðức Giêsu Kitô.

Dù sao, bài Tin Mừng hôm nay không những cho chúng ta thấy cuộc đời vất vả của Chúa Cứu Thế, nhưng còn muốn gợi lên phản ứng tự nhiên của loài người xác thịt đối với tin mừng cứu độ và hạnh phúc đang dành cho lương dân đón nhận tin mừng.

Chúng ta dĩ nhiên không muốn cư xử như người Do Thái. Nhưng để được như vậy, phải làm gì? Xin vị tông đồ các dân ngoại soi sáng giúp đỡ chúng ta.

3. Con đường chúng ta phải đi

Thánh Phaolô gởi thư cho giáo dân Côrintô. Ở đây người ta đang háo hức được các ơn lạ để phục vụ Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng đạo mạnh mẽ hơn. Nhưng thánh tông đồ thấy có nhiều khuynh hướng chuộng hào nhoáng trong những sự háo hức này. Ðó không phải là con đường nên đi vào. Nó sẽ biến những tín hữu trở thành những con người xác thịt như dân Do Thái ngày trước.

Và thánh nhân đã chỉ cho mọi người thấy con đường phải đi vào. Ðó là bác ái. Thiếu bác ái mọi đặc sủng kia sẽ rỗng tuyếch. Vì người ta muốn phục vụ ư? Ao ước làm được những sự ngoạn mục, thật là vô ích. Ðức Giêsu đến phục vụ không làm như vậy. Người đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho đến chết. Thế nên đối với thánh Phaolô, ở đây, con đường bác ái yêu thương rất cụ thể.

Nó có hai hạng người làm đối tượng: kiên nhẫn với kẻ thiếu nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu thốn. Ðối với cả hai hạng người, kẻ bác ái phải có những thái độ chứng tỏ lòng kiên nhẫn và bộc lộ lòng quảng đại. Tiêu cực, họ không được nóng nảy, bực tức, hoặc chán nản, tuyệt vọng; còn tích cực, họ phải duy trì niềm vui, tin tưởng và kiên trì. Ðược như vậy, đức bác ái sẽ toàn thắng sự dữ và giúp đỡ được hiệu năng.

Thế nên, so sánh với những đặc sủng mà người ta ao ước như các ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn giảng đạo, đức bác ái rõ ràng trổi vượt. Tất cả các ơn kia có ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho đời tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn tại mãi mãi đi theo ta sang cả thế giới bên kia. Mà sánh với hai nhân đức khác là đức tin và đức cậy, nhân đức bác ái vẫn trổi hơn. Cả ba nhân đức này đều cần thiết cho đời sống đạo và cho mọi nhân đức khác. Cả ba cũng theo ta sang cả đời sau, theo nghĩa đức tin là trạng thái cởi mở tâm hồn nhận biết Chúa thì đời sau vẫn cần; và đức cậy cũng sẽ cần vì là trạng thái của linh hồn muốn được Chúa yêu thương. Nhưng đức mến sẽ tồn tại và cao quý hơn hết vì nó làm cho chúng ta kết hợp với Thiên Chúa là bản chất của đời sóng hạnh phúc sau này ở trên trời.

Thế nên chúng ta hãy đi vào con đường bác ái. Trươc đây, người Do Thái không đi con đường ấy nhưng bước theo hướng xác thịt hời hợt bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với thời đại Thánh Thần yêu mến đã được đổ xuống trong Hội Thánh. Ngày nay được phúc ở trong thời đại sung mãn, chúng ta phải đi vào con đường trưởng thành là bác ái.

Và giờ đây hơn bao giờ hết khi cử hành thánh lễ, chúng ta được đưa vào con đường bác ái. Không những chúng ta được thấy Ðức Giêsu đến rao giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người còn thể hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia ngày trước... Và hơn cả hôm Người ở trong hội đường ở Nadarét.

Mầu nhiệm bàn thờ đây còn tuôn đổ Thánh Thần yêu mến cho những ai thành khẩn tham dự. Nhưng cử hành thánh lễ sốt sắng bao nhiêu, họ phải sống bác ái chân thật và cụ thể bấy nhiêu để lấy kiên nhẫn lướt thắng sự tội và lấy phục vụ xóa bỏ nghèo khó. Phấn đấu hết mình cả về phương diện tinh thần cả về phương diện vật chất là nhiệm vụ của những ai đi trong con đường bác ái. Ai đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào con đường ấy?

 

6. Mù quáng

Nhà văn Dickens có kể một câu chuyện như thế này: Số là có một anh thợ đóng giày vì quá nóng giận đã dùng búa đập chết một khách hàng. Anh ta liền bị bắt, ra tòa và bị giam cầm lâu năm ở ngục Castille. Trong thời gian ngồi tù, anh phải làm một công việc là đóng giày, vá giày. Suốt ngày anh ta cứ ngồi dán lưng vào tường, trong bóng tối mờ ảo và chăm chú làm các công đoạn: đóng, vá, cắt, may đều đều một cách vô vị đến nỗi có ai gọi hay bảo anh ta làm một việc gì đó thì hầu như điếc không nghe. Và rồi trong một dịp ân xá, anh ta được tha về nhà ở Luân đôn. Đáng lẽ như mọi người tù được thả về đều vui mừng, ăn uống vui vẻ, gặp gỡ thăm viếng bà con bạn bè để hàn huyên, đàng này anh ta vừa mới về nhà chân ướt chân ráo, liền bắt tay làm ngay một phòng giam ở giữa nhà. Trong lúc mọi người vui sống, hưởng trăng thanh gió mát, nghe chim chóc ca hót, riêng anh thợ giày tự giam mình trong phòng kín và mọi người chỉ nghe tiếng kéo kìm lạch cạch của anh thợ giày ngồi lì trong bóng tối.

Trên đời này không thiếu gì những chuyện kỳ cục và cũng có lắm người sống không giống ai. Và biết đâu chính chúng ta là những con người đang có lối suy nghĩ và cách sống kỳ cục đến khó tin mà chúng ta không biết

Vì thật ra, sự kỳ cục, bất thường đến khó hiểu của con người do một trong hai nguyên nhân này gây ra: một là điên, mát, khùng, bốc đồng dở hơi; hai là do suy nghĩ, hành động một chiều quá lâu ngày thành thói quen mất hết khả năng thay đổi, trở nên máy móc cứng nhắc. Chính vì thế mà anh thợ giày trở thành một con người có lối sống kỳ cục đến nỗi anh ta không còn cảm thấy mình kỳ cục nữa.

Và đây cũng chính là lý do khiến dân làng Nagiareth đã có những phản ứng kỳ cục, độc ác, bất công đối với Chúa. Bởi vì do thói quen thân thường ngày của họ nên anh chàng Giêsu, suốt trong 30 năm từ lúc còn bé đến khi lớn khôn, không có gì lấy làm đặc sắc, nổi bật và ngay cả cha mẹ, họ hàng cũng chả có gì nổi đình nổi đám cả. Thế mà, giờ đây anh ta phút chốc trở thành nổi tiếng khắp nơi. Điều đó vừa làm họ hãnh diện đôi chút, nhưng cũng vừa làm mích lòng tự tôn tự mãn của họ không ít vì nó đi ngược lại với cảm nghĩ, thành kiến xưa nay của họ về anh ta thuộc một gia đình tầm thường. Do đó, cho dù Chúa Giêsu có làm được những gì tốt đẹp, có ăn nói giỏi giang đến mấy cũng không thể vượt khỏi thiện kiến có sẵn trong ký ức của họ. Và nếu có điều gì trái ngược với cảm nghĩ xưa nay của họ thì họ lên án, tẩy chay ngay, bất xét phải trái.

Như thế thói quen, thành kiến đã làm cho anh thợ giày và dân làng Nagiareth trở nên kỳ cục, bất thường, lầm lạc. Vì những ai quá nặng óc thành kiến, quen thói chủ quan sẽ dễ dàng trở nên mù quáng khi đánh giá về người khác cách thiên lệch khiến ý kiến của họ chẳng những vô giá trị mà nhiều khi còn trở thành những mũi tên tẩm độc giết hại danh giá người khác nữa. Riêng đối với bản thân, kẻ hay phán đoán một chiều thường để lộ chân tướng xấu xa của mình vì thiên lệch, nặng chủ quan. Càng chủ quan càng cố chấp cứng đầu. Mà càng cố chấp càng biểu lộ sự ngu dốt và điên khùng của mình.

Nếu thế, xem ra ai trong chúng ta ít hay nhiều cũng đều đã có những thành kiến thiên lệch, những thói quen chủ quan khiến cách suy nghĩ, cách sống, cách đối xử với nhau, với Chúa kỳ cục, tai hại, sai trái xưa nay mà chúng ta cứ tưởng là đúng đắn.

Vì như người ta thường nói “xa thì thương, gần thì thường” nên khi chúng ta sống bên nhau lâu ngày như vợ chồng, cha mẹ, con cái, bạn bè, chòm xóm… và biết rõ tính tình nhau, giọng nói cử chỉ của nhau, thói quen, cách sống của nhau. Do quá hiểu nhau nên cách đối xử với nhau dễ sinh nhạt nhẽo, coi thường, thiếu kính trọng, ít thông cảm. Nếu có mang nặng thành kiến với nhau mà đã thương thì thương mù quáng, đã ghét thì ghét cay ghét đắng. Từ đó, người ta dễ làm bất công cho nhau như làm hại danh giá nhau bằng cách phê bình chỉ trích ác ý, phê phán sai lạc sự thật, nhất là lỗi bác ái nặng nề khi đối xử với nhau thiếu lòng quảng đại, khoan dung.

Có lẽ, nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng đối với Chúa mình không thể cư xử hỗn láo như dân làng Nagiareth, nhưng trong đời sống thực tế người ta tôn thờ Chúa, tìm đến Chúa không phải vì yêu mến Chúa hay vì giáo lý của Ngài mà là vì chính bản thân họ. Nói khác đi, lối sống đạo và cách suy nghĩ của chúng ta đã thành thói quen máy móc, đã coi trọng hình thức bên ngoài đến độ tê liệt mọi tình cảm bên trong. Bởi vì, người ta yêu mình hơn yêu Chúa, đặt mình làm trung tâm, bắt Chúa và giáo lý của Ngài phải phục vụ cho mọi ý đồ, ước muốn của chúng ta. Suốt đời ai mà chẳng nghe Lời Chúa răn dạy, thường xuyên tham dự các lễ nghi, năng lãnh nhận các Bí tích, nhưng vì quá quen thuộc, quá lặp đi lặp lại nên sinh ra coi thường, mất cảm giác sốt sắng, biến mình thành một cỗ máy vô hồn.

Tóm lại, thói quen và thành kiến đã đưa đẩy con người đến chỗ sống mất tình cảm, điên loạn. Hơn nữa, trong cuộc sống đừng bao giờ dại dột bắt Chúa phải làm theo ý nghĩ ngông cuồng của mình, nhưng hãy biết khiêm tốn thú nhận mình bất lực, thiếu sót, nghèo hèn, yếu đuối và chỉ tồn tại được là nhờ tình thương của Chúa mà thôi.

 

7. Ngôn sứ bị từ chối

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

"Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực"

(Lc 4,29)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Tục ngữ có câu "Lời thật mất lòng". Chúa Giêsu ưu tiên loan Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành, thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.

Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta đừng rơi vào thói xấu ấy.

II. Gợi ý sám hối

Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng chân thành của kẻ khác.

Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.

Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công: vui vẻ với người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)

Giêrêmia tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ: Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.

2. Đáp ca (Tv 70)

Thánh vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và phó thác: "Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ... Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ con".

3. Tin Mừng (Lc 4,21-30)

Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:

Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.

Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.

Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.

4. Bài đọc II (1 Cr 12,31--13,13) (Chủ đề phụ)

Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến.

Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực ("Giả như tôi có nói được các thứ tiếng... mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ xoang xoảng").

Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác ("Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến")

IV. Gợi ý giảng

* 1. Cần có ngôn sứ

Mỗi thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì "ngôn sứ" là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời Chúa sẽ bị yếu đi.

Thời Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa Giêsu, có các tông đồ... Thế kỷ XIII có Phanxicô Assisi... Thế kỷ XVII có Vinh Sơn Phaolô... Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.

Thực ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường: dân làng Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu "Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse đó sao?" Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém người khác nữa: Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa "Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ".

Nhưng ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa: ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.

Dù "hơn người", nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì "Lời thật mất lòng".

Tuy thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.

Sứ mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa.

Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài.

* 2. Kiên vững - Dịu hiền

Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức".

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:

"Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu".

Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.

****

Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: "Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành: Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi" (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.

Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng "Thần khí Chúa" lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc.

Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.

Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: "Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình" (Lc 4,24).

Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: "Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng" (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.

Nếu dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính thống.

Nếu dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.

Nếu dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.

Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì "Nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước" (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Người có căm thù những kẻ ruồng rẫy Người không? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này chăng? Nói như Martin Luther King: "Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu hiền".

Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng.

Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.

Nếu có một bài học nào được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay thì đó chính là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể "băng qua giữa họ mà đi", nhưng Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn "xô Người xuống vực thẳm", thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.

Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.

Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.

Thiên Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.

***

Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.

Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Ưu tiên cho ai?

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: "Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài". Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn: "Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành.... Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực"

Nguyên do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà: "Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào". Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người nghèo khổ: "Thần khí Chúa ngự trên tôi... để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức..."

Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.

Chúng ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.

* 4. Trở lại quê hương

Sau nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau: "Trở lại một nơi chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều". Vì thế Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.

Có lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi: họ vẫn mãi coi Ngài là con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia; họ vẫn quen lối suy nghĩ hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người Do Thái, chứ không thể chấp nhận rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.

Chúa Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)

* 5. Đức Mến

Có một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy rõ điều ấy:

George Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới tiếp tục đến phòng hòa nhạc.

Bình thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã trả lời như sau: "Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên dây đúng cung vậy."

Thánh Giacôbê đã nói: "Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết". Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.

Ngày nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là "tình yêu". Nhưng hình như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn với tình yêu.

Một trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp - hay phức hợp - trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ lợi.

Bởi thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì "không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc". Ngài còn nói "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi". (FM)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu những lời Kinh thánh chúng ta vừa nghe. Nhờ Người, chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:

1. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để đem Tin mừng đến cho muôn dân trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin mừng của Hội thánh / luôn đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

2. Khát vọng sâu xa nhất của con người ngày nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Chúa / ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.

3. Hiện nay đức tin / đức cậy / đức mến / cả ba đều tồn tại / nhưng cao trọng hơn cả là đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn cố gắng sống trọn vẹn nhân đức quan trọng này.

4. Nhờ bí tích Thánh Tẩy / người Kitô hữu trở nên anh em với nhau / vì có cùng một niềm tin và một Cha chung trên trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi kỳ thị hẹp hòi / những chia rẽ bất hòa / để tất cả chúng ta nên một trong Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đang ở trong ngôi Nhà Thờ này như những anh chị em ruột thịt sum họp trong mái ấm gia đình. Đúng vậy, vì chúng ta đều là con của cùng một Cha chung trên trời. Giờ đây chúng ta hãy nghĩ đến Cha chúng ta và hãy cùng nhau thưa chuyện với Ngài qua lời kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Do Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chia xẻ sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng vừa cao đẹp vừa khó khăn ấy. Nguyện xin ơn sủng Chúa luôn phù giúp anh chị em. Chúc anh chị em ra về bình an.

 

8. Những người thân.

Như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây được hứng khởi nơi người nghe. Thánh Luca viết về những hoạt động của Ngài trong lúc này như sau: Danh tiếng Ngài lan tràn cả miền chung quanh. Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Nhưng cũng chính thánh Luca đã cho chúng ta thấy một cách sống động rằng ngay từ điểm khởi đầu này, lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã tạo nên những chống đối. Chẳng hạn ngày hôm nay, những người làng Nadarét sau khi đã ca ngợi Ngài, thì họ bắt đầu thắc mắc về Ngài. Họ bàn tán: Ông này hẳn không phải là con bác phó mộc Giuse hay sao? Và từ thắc mắc, họ đi đến chỗ căm thù, thậm chí còn muốn thủ tiêu Ngài, như lời thánh Luca đã viết: Mọi người trong hội đường đều đầy lòng căm phẫn, họ đứng dậy, đuổi Ngài ra ngoài thành và điệu Ngài lên tận triền núi, nơi thành họ được xây cất, cố ý xô Ngài xuống cho chết.

Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta không khỏi liên tưởng tới lời mở đầu của Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó thánh Gioan cũng đã viết: Ánh sáng đã chiếu soi trong u tối, nhưng u tối không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài. Từ đó chúng ta đi tới hai nhận định cho việc sống đạo.

Nhận định thứ nhất đó là mầu nhiệm làm người và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu phải chăng chỉ là một? Cuộc khổ nạn ngày thứ Sáu Tuần Thánh và cuộc sống lại vinh hiển ngày phục sinh, chỉ là phần kết thúc của một tiến trình duy nhất, bắt nguồn từ lúc giáng sinh làm người? Thái độ từ chối và chống đối của người Do Thái, không phải chỉ xuất phát từ những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng bắt nguồn từ một lựa chọn căn bản giữa ánh sáng và u tối, giữa yêu thương độ lượng và hận thù ích kỷ. Chúng ta không thể vừa theo Chúa lại vừa phủ nhận chương trình và đường lối cứu chuộc của Ngài.

Nhận định thứ hai đó là như chúng ta đã biết: Dân làng Nadarét đã tỏ ra cứng lòng, không tin những điều Ngài giảng dạy. Sở dĩ như vậy là vì họ đã quá quen thuộc với bản thân Ngài, gia đình Ngài nên mới có thái độ: Gần chùa gọi bụt bằng anh. Tại Nadarét, Chúa Giêsu bị chống đối không phải bởi những người ngoại đạo, mà bởi những người có đạo, bị oán ghét không phải bởi kẻ thù địch, mà bởi những người họ hàng thân thích.

Hình ảnh những người làng Nadarét của thánh Luca, cũng như những hình ảnh gia nhân không tiếp đón Ngài của thánh Gioan, phải chăng là những hình ảnh tượng trưng cho người tín hữu chúng ta. Bởi vì mặc dù đã biết Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn không tin Chúa. Mặc dù nhận lãnh những ơn lành của Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn lăng nhục và thù ghét Chúa. Mặc dù đã được Chúa thứ tha, mà nhiều lúc chúng ta vẫn xua đuổi Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta không cứng lòng như những người làng Nadarét, cũng như không xua đuổi Chúa như những gia nhân mà thánh Gioan đã nói đến.

 

9. Thành kiến

Anh chị em thân mến!

Với thành kiến có sẵn đối với người da đen mà bà Anna cho là lười biếng, nếu không lười biếng thì cũng là những kẻ trộm cắp, những kẻ nghiền ma túy hay độc ác giết người không gớm tay. Với những thành kiến như vậy, bà Anna luôn luôn lưu ý đến những nơi mình đi qua. Mỗi lần thấy bóng dáng một người da đen là bà lánh sang một nơi khác ngay, nhưng một hôm bà vừa bước vào thang máy thì một bóng người da đen to lớn cùng bước vào thang máy sau lưng bà và cửa thang máy đóng lại làm bà không kịp trở lui, bà chết điếng người và té xỉu. Tỉnh dậy nơi nhà thương, bà rất lấy làm hổ thẹn trong lòng khi biêt được rằng chính người da đen to lớn kia cùng bước vào thang máy với bà là một ca sĩ nổi tiếng là Leonard Vichy được mọi người mộ mến và cũng chính anh này là người đã đỡ bà khi té xỉu trong thang máy và đưa bà đến nhà thương.Thành kiến đã làm cho ta ra mù quáng không thể nhận diện được thực tại hay những người anh chị em mà ta gặp hằng ngày một cách đúng thật. Những người làng Nagiareth của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe Phúc âm thánh Luca kể lại một biến cố về những người làng Nagiareth cũng mắc phải khuyết điểm như bà Anna trong câu chuyện trên.

Sau thời gian rao giảng tại thành Caphanaum, Chúa Giêsu trở lại rao giảng tại hội đường của chính quê hương Ngài tại Nagiareth. Dân chúng biết rõ nguồn gốc nhân trần của Chúa Giêsu: “Người này không phải là con ông thợ mộc Giuse sao?”. Họ đã nghe biết những sự lạ Chúa đã làm tại Caphanaum, và với những dấu lạ chứng minh nguồn gốc thần linh của Chúa, chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu rỗi con người. Nhưng những thành kiến đã không cho phép những người làng Nagiareth của Chúa Giêsu nhìn xa hơn, họ bị giới hạn trong những cảm nghĩ trần tục của họ, muốn Chúa Giêsu thực hiện những sự lạ để hưởng lợi, để làm ích cho quê hương. Họ không vượt qua khỏi khía cạnh nhân trần, khía cạnh lợi lộc vật chất, ích kỷ, để hiểu rằng người ta cần lòng tin thanh sạch hơn, thanh cao hơn vào Chúa Giêsu. Vì thế, họ đã bị Chúa nhăc khéo để nhớ lại câu chuyện xưa đã xảy ra trong cuộc sống của hai vị tiên tri nổi tiếng, đó là tiên tri Êlia và Êlisiêu. Một bà góa ở Sérepta, một viên quan ngoại giáo Naaman, là những kẻ duy nhất đón nhận những tiên tri này như là người của Thiên Chúa với hết lòng tin tưởng. Trong khi đó thì dân chúng ở Israel khinh thường các ngài, từ bỏ các ngài, không lắng nghe lời các ngài.

Lời nhắc nhủ của Chúa Giêsu làm cho những người làng Nagiareth bực tức, chống đối Chúa nhiều hơn nữa, họ bắt đưa Chúa lên nơi cao, toan tính xô xuống vực thẳm cho chết đi. Thành kiến đã làm cho họ mù quáng và bực tức đến hành động điên rồ như vậy.

Hôm nay, khi lắng nghe đoạn Phúc âm trên, chúng ta cũng được mời gọi để xét mình, chúng ta đang tin nhận và tôn thờ một Chúa Giêsu nào đây? Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta tin nhận và tôn thờ phải chăng là một Chúa Giêsu Kitô chỉ làm phép lạ để thỏa mãn cho những nhu cầu ích kỷ của riêng mình? Hay là một Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đâng ban cho mỗi người chúng ta một ơn thánh hóa, ban cho chúng ta sự sống đời đời. Làm sao để chứng thực trong đời sống của mình là chúng ta tin vào một vị Thiên Chúa làm người để cứu rỗi chúng ta, không có cách nào khác ngoài con đường sống tình yêu thương bác ái cụ thể trong đời sống hàng ngày.

Đây là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ và cũng là lời khuyên của thánh nhân mà chúng ta đã nghe qua bài đọc II. Thánh Phaolô đã ý thức mình là tông đồ của Chúa, là môn đệ của Chúa Kitô, là Đấng làm chứng cho Chúa. Thánh nhân nói: “Nếu không có đức bác ái thì tất cả những lời rao giảng, những lời chứng của ngài chỉ là vô ích mà thôi”.

Mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận Chúa, tin nhận Chúa Giêsu Kitô và làm chứng cho Chúa. Chúng ta cũng như thánh Phaolô tông đồ chỉ có thể làm chứng một cách hữu hiêu hơn, nếu chúng ta sống đức bác ái, như thánh Phaolô đã khuyên những người con tinh thần của ngài tại Côrintô.

Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi những thành kiến làm cho con không nhìn thấy Chúa đã đến với con nơi dung mạo nhân trần, nơi những anh chị em, nơi những biến cố của cuộc sống hằng ngày. Vì thành kiến, con không nhận ra điều tốt nơi anh chị em, mà nếu không nhận ra nơi anh chị em những điều tốt thật cụ thể, thì làm sao con có thể nhận diện ra Chúa nơi anh chị em được. Lạy Chúa, xin thương giải thoát con khỏi những tâm tình hẹp hòi, khỏi tất cả những gì không phù hợp với đức bác ái mà Chúa đã trao ban cho mỗi người chúng con để tâm hồn chúng con trở nên trinh trong hơn mà nhận ra Chúa và tin vào Chúa để được ơn cứu rỗi.

 

10. Tiên tri.

Có người đã mô tả các tiên tri trong Cựu Ước là những kẻ an ủi những ai phiền não, nhưng đồng thời cũng là những kẻ gây phiền não cho những ai tự mãn.

Chẳng hạn như tiên tri Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ dân Do Thái đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang đe doạ từ bên ngoài. Tình thế như vậy làm cho ông rất đau xót vì ông yêu mến tổ quốc và đồng bào của mình. Có lẽ vì thế, Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho quê hương mình. Thế nhưng lần nào được kêu gọi ông cũng đáp lại một cách miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi xứ sở mình là điều rất khó. Nhưng rồi ông cũng phải rao giảng cho dân chúng con đường sống còn duy nhất là phải canh tân đời sống, quay trở lại với Ngài. Nghe ông rao giảng như thế, dân chúng đã nổi giận và căm ghét ông, đến ỗi co lần ông đã bị đánh đòn, có lần ông đã bị cột vào trong bao, có lần ông đã bị xô vào đống phân.

Chúa Giêsu cũng đã cảm nhận được những khó khăn khi lãnh nhận sứ mệnh làm tiên tri ngay trên quê hương mình. Ngài đã từng bị bà còn lối xóm ruồng rẫy, họ định xô Ngài xuống vực thẳm cho chết luôn.

Suy nghĩ về thái độ của dân làng Nagiarét, chúng ta bỗng nhớ tới lời tiên báo của ông già Simêon: Trẻ nhỏ này sẽ nên như dấu chỉ cho người ta chống đối.

Lời tiên báo này đã trở thành sự thật. Nếu dân làng Nagiarét đã từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng buộc Ngài phải xác minh Ngài là Con Thiên Chúa như vậy.

Nếu dân làng Nagiarét đã từng tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã kêt án Ngài là dụng cụ của ma quỷ như vậy.

Nếu dân làng Nagiarét đã từng tìm cách giết Ngài thế nào, thì đám đông dân thành Giêrusalem cũng hò hét: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.

Chúa Giêsu quả là đã bị chống đối và bị khích bác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã nói với các môn đệ: Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì họ cũng sẽ ghét các con.

Bất cứ ai cố gắng sống đúng danh hiệu người Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên có giá trị như thế nào? Tuy nhiên, cho dù chúng ta có bị ghét bỏ, có bị nhạo cười, nhưng cũng đừng vì thế mà từ bỏ nếp sống lương thiện và trong sạch của mình. Lý do thật đơn giản vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối đất. Các con là ánh sáng. Người ta không đốt đèn rồi để dưới đáy thùng nhưng đặt trên giá đèn. Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người để họ nhìn thấy việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.

Hay như lời thánh Phaolô: Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa mời gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng một thế giới đầy tăm tối.

 

11. Hãy là ngôn sứ của Chúa - Huệ Minh

Mở đầu Trang Tin Mừng hôm nay là câu đầy ý nghĩa của Trang Tin Mừng tuần trước. Thật vậy, rõ ràng là sự gì Kinh Thánh đã nói về Người, thì “hôm nay” được ứng nghiệm. Điều đó đồng nghĩa với: “Tôi là Đấng Cứu Thế” đây. Từ “hôm nay”, có nghĩa là đã đến lúc Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa từ ngàn xưa.

Hình bóng của Giêrêmia chính là hình ảnh của Đấng Cứu Thế hôm nay. Trang Tin Mừng (Lc 4, 21) hôm nay, nhắc lại câu nói tuần trước của Chúa Giêsu. Vâng! Thưa quý vị: “Hôm nay đã ứng nghiệm Lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).

Giêrêmia là một trong bốn đại ngôn sứ thời Cựu Ước, đã được Thiên Chúa cho biết: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”.

Thật sự Thiên Chúa đã chuẩn bị và đã chọn Giêrêmia từ xa xưa. Thiên Chúa sai ông đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá”. Tiếc thay, sứ vụ của ông quả đã thất bại, chính ông cũng chết tại Ai cập, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết.

Nhìn vào cuộc đời, ta thấy ông là một người có tâm hồn hiền hậu. Ông vốn dĩ sinh ra để được yêu mến, luôn luôn nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa. Đọc kỹ cuộc đời ông, ta thấy ông đã quên mình, chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa và quả thật ông đã trở thành một dung mạo của Chúa Kitô.

Ta thấy ngôn sứ là người được sai đi để nói Lời của Thiên Chúa. Mặc nhiên, ngôn sứ chính là Lời của Thiên Chúa. Người được thay thế nói Lời của Thiên Chúa, như vậy chúng ta thấy ngôn sứ thật diễm phúc.

Trong lịch sử Thánh Kinh, ta thấy rất nhiều ngôn sứ, nhưng có một số ngôn sứ nổi bật như ngôn sứ Giêrêmia. Như trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Đây Ta đặt Lời nói Ta trong miệng ngươi”.

Ta thấy ngôn sứ Giêrêmia thật là diễm phúc, như vậy, lời của ông nói ra chính là Lời của Thiên Chúa được đặt vào miệng ông.

Chúa Giêsu cũng vậy khi ta thấy lời của Chúa Giêsu hôm nay cũng được mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài.

Thật vậy, Chúa Giêsu đúng là một “người đặc biệt nhất” trong những người đặc biệt, một “dị nhân” chính hiệu, khiến ai cũng phải tâm phục và khẩu phục. Thế nhưng đáng tiếc là người ta đã cố tình không nhận ra Chúa và dã tâm tìm cách hại Ngài.

Chúa Giêsu biết lòng dạ xấu xa của họ nên Ngài nói với họ như thế này: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” (Lc 4, 23).

Người ta có dã tâm không phải vì Chúa Giêsu làm gì sai trái, mà vì tính đố kỵ, thói ghen ghét, không muốn người khác hơn mình, sợ mình lép vế. Ngài thản nhiên nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Câu nói này vẫn đúng ngay trong những ngày này dù cây nói này quả là quá xa với thời đại của chúng ta!

Thấy họ im lặng, không đối đáp được câu nào, mà làm sao họ cãi lại chứ? Rồi Chúa Giêsu nói một hơi: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.

Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4, 25-27).

Quá rõ, thật thấm thía và đau điếng, trúng tim đen mà! Còn ai cãi được gì nữa?

Tưởng chừng họ ngưỡng mộ và tin vào lời của Chúa nhưng tiếc thay họ lật mặt như trở bàn tay, mới khen nức lòng mà lại chống đối ngay. Thánh sử Luca kể: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực” (Lc 4,28-29).

Nhìn họ, ta thấy lòng dạ của họ quá dã tâm và nham hiểm. Cũng chính vì lòng chai dạ đá nên họ chẳng làm gì được người chính trực. Thấy họ phẫn nộ, Chúa Giêsu thản nhiên “băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4, 30). Chắc hẳn lúc đó bọn ác nhân muốn lộn ruột gan và phát điên lên được.

Cũng vậy, ngày hôm nay ta thấy cũng không thiếu những lòng dạ mưu mô nham hiểm với người khác. Loại người này ở đâu cũng có, chẳng trừ nơi nào, y như ma quỷ có mặt mọi nơi để rình rập người tốt vậy!

Sự thật luôn phũ phàng, vì: “Không một ngôn sứ nào được đón nhận tại quê hương mình” (c 24). Vâng! Chính Chúa Giêsu đã nói như vậy. Tại sao? thưa, bởi vì họ không đón nhận sự thật, họ không muốn nghe sự thật, và không tin sự thật. Chỉ có ai muốn đón nhận sự thật, thì mới lắng nghe sự thật. Vì “sự thật thì mắc lòng”.

Và như thế! Là họ, người Nazaret không phải là những người nghèo được đón nhận Tin Mừng. Vì họ không đón nhận ngôn sứ đích thực của Thiên Chúa. Họ tìm vết bới lông, họ soi mói nguồn gốc lai lịch của Đấng Cứu Thế và như vậy, họ khinh dễ Chúa Giêsu.

Như vậy, họ hay Chúa Giêsu bị thất bại tại Nazaret, quê hương của Người Trước đó chính họ đã ngưỡng mộ Chúa Giêsu, họ khâm phục những gì từ miệng Người nói ra (c. 22). Nhưng chính Người đã đọc được ý nghĩ ngay trong thâm tâm của họ, vì Chúa không muốn họ khâm phục Người bằng môi miệng. Người đã kể tội của họ và tội của cha ông họ, thế là họ tìm cách trục xuất Chúa Giêsu ra khỏi họ.

Phần ta là Kitô hữu được kêu gọi làm ngôn sứ của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Chúa Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lập lại lời thánh Phaolô; “Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tăm tối này” (Pl 2, 15)

 

12. Cần cái nhìn mới để đón nhận sự thật

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng thành, để rao giảng.

Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu

“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao, vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.

Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu? Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào.

“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không có. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển hình.

Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc biệt những người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào Thiên Chúa hơn.

Khiêm tốn để đón nhận và cho đi

Sự đối kháng không chỉ ở mức độ không thích, không muốn nghe, nhưng đã đến độ người làng Nadarét muốn giết Đức Giêsu. Họ dẫn Đức Giêsu tới sườn đồi, và muốn xô Đức Giêsu xuống vực, nhưng Ngài đã băng qua giữa họ mà đi. Được sống với Đức Giêsu, được là người đồng hương (cùng làng) với Đức Giêsu, đáng lẽ là một ơn phúc, nhưng bây giờ lại là mối họa, là điều ngăn cản nhận biết Đức Giêsu. Tại sao vậy?

Tiên tri không được đón nhận tại quê hương mình. Vì người ta cho rằng họ đã biết rõ về con người đó. Và như vậy, con người đó đâu có gì để mình học, đâu có gì đặc sắc để mình phải lắng lòng. Không cần gì thêm, là một thái độ tự mãn, không thể đón nhận gì khác được, ngay cả Thiên Chúa. Người ta thường ví người tự mãn như một ly đầy nên không thể nhận gì hơn. Nếu không nhận, đâu có gì để cho. Một đại dương hay một dòng sông, luôn sẵn sàng đón nhận khe suối hay những giọt nước dù rất nhỏ, nên có thể cho mãi mãi mà không bao giờ cạn.

Một người tự mãn tự kiêu thường lấy mình làm tiêu chuẩn, và không mở lòng ra đón nhận sự thật. Vì coi mình vượt trên người khác, nên khi thấy người khác “có vẻ” coi thường mình, thì họ sẵn sàng hạ bệ hoặc tiêu diệt người khác. Đó là lý do tại sao người làng Nadarét muốn xô Đức Giêsu xuống vực.

Xin cho con có tâm hồn khiêm tốn, để con có thể đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ trong đời sống từng ngày của con.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Hiện tại không ai trong chúng ta thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng bạn có tin rằng Thiên Chúa đến với bạn mỗi ngày không? Xin bạn cho vài thí dụ.

2. Có khi nào bạn “thấy” Thiên Chúa đến với một người bạn quen qua biến cố nào đó, nhưng người đó không nhận ra? Tại sao vậy, và làm sao để có thể nhận ra Thiên Chúa đến với mình?

3. Tết này dịp bạn về quê, đâu là dự định của bạn? Điều bạn dự tính có ích lợi gì cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, người yêu không?

4. Năm mới, nếu cho bạn một điều ước, bạn sẽ ước điều gì?

 

13. Đức ái – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên Chúa đã gọi, thúc giục và tác động cách mạnh mẽ trong tâm hồn của ông ngay khi còn thơ trẻ. Giêrêmia chấp nhận sứ mệnh ra đi giữa bao thử thách và khó khăn. Sứ mệnh của ngài kéo dài qua nhiều thập niên trong lịch sử của cộng đồng Giêrusalem. Ngài đã tiên báo về sự đe doạ và sụp đổ của thành Giêrusalem. Tiên tri có cá tính riêng và rất mạnh mẽ chịu đựng những khổ cực cùng với đoàn dân. Giêrêmia đã giúp mọi người nhận ra những hậu qủa xấu mà họ phải gánh chịu do sự bất trung và tội lỗi gây nên. Đôi khi ông cũng cảm thấy đuối sức và ngại ngùng, nên đã muốn chối từ sứ vụ đặc biệt này. Nhưng cánh tay của Chúa luôn dẫn dắt ông trong mọi nẻo đường. Ông thố lộ tâm tư qua sự mạc khải: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." (Gr 1,5). Chúng ta biết rằng sứ mệnh tiên tri là một ơn gọi đặc biệt vì là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa hứa ban sức mạnh và đồng hành cùng ông trong cuộc hành trình đầy gian nan này. Đối diện với sự ruồng bắt và cái chết, ai mà không lo sợ cho tính mạng của mình. Giêrêmia cũng không ngoại lệ, ông cũng là con người mang nhiều sự yếu đuối và lỗi lầm như mọi người. Sứ điệp của ông là kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để trở về cùng Thiên Chúa. Ông đã đặt niềm tin vào Chúa là kiên thuẫn và dũng lực. Thiên Chúa hứa: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì sấm ngôn của Thiên Chúa, có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." (Gr 1,19) Giêrêmia đã trung thành với sứ vụ được trao ban và đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm của Dân Dothái từ năm 627 tới khoảng năm 587 BC.

Sứ mệnh khó khăn của các tiên tri là phải đối đầu với đời sống con người thế tục. Các nhà cầm quyền đã dùng mọi ảnh hưởng để loại trừ thần quyền ra khỏi cuộc sống. Họ dùng sức mạnh và bạo lực của thế quyền để đàn áp, tẩy chay và loại trừ các nhân chứng của sự thật và công chính. Lòng người thế trần bị nhuốm màu tội lỗi vì sống thả theo bản năng thú tính và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của tham sân si. Nhiều người không còn muốn nghe những lời khuyên răn luân lý đạo đức. Đôi khi họ cho rằng những người sống đạo hạnh, công chính và chân thật là những người dại khờ. Phải tranh đấu để sống. Sống là phải hưởng thụ. Chúng ta biết đời sống là cuộc chạy đua. Không phải mọi người đều nhận ra được con đường chính thật. Người ngu mà biết mình ngu là người có trí. Người ngu mà tưởng mình có trí thì càng ngu hơn. Không biết chính mình là người vô minh và ngu đần. Đôi khi họ lại tưởng nghĩ mình là người khôn ngoan và sành đời. Luôn tìm cách tiêu diệt những người công chính và coi họ như là cản mũi kỳ đà.

Chúa Giêsu biết rất rõ về số phận của các nhân chứng cho sự thật. Từ xưa, số phận các tiên tri hoặc ngôn sứ đã thường bị bách hại, xua đuổi và tẩy chay. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm điều này ngay tại quê quán mình: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình." (Lc 4,24). Làm nhân chứng cho sự thật giữa một xã hội bị tục hoá như hiện nay là một sự dấn thân hy sinh và từ bỏ. Các trào lưu xuôi dòng đang cuồn cuộn kéo lôi con người như thác lũ đi vào cuộc sống hưởng thụ thế tục. Nhiều nhà cầm quyền có xu hướng chạy theo thị yếu và mị dân chấp thuận những khuynh hướng của nền văn minh sự chết. Các thế hệ trẻ hiện nay dễ bị đầu độc bởi nền văn hóa thụ hưởng rất tinh tế và nhẹ nhàng qua cách suy tưởng và phán đoán thuận theo đa số. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chạy theo những trào lưu hào phóng bên ngoài, nhưng phải biết tìm kiếm nguồn chân thiện mỹ. Hãy yêu chuộng những vẻ đẹp của đời sống lương tâm tự nhiên đã được in ghi trong tâm hồn. Chúa Giêsu về lại làng quê mình để gặp gỡ và truyền rao sứ mạng cứu độ. Người đồng hương ngạc nhiên về lời giảng dạy của Chúa nhưng họ không mở lòng đón nhận chân lý. Họ đòi hỏi và thách thức quyền năng của Chúa: "Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực." (Lc 4,29) Chúa Giêsu đâu làm gì nên tội để bị đối xử tệ như thế. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và trái tim bị đóng băng lạnh lùng. Họ không chấp nhận lời giảng và cũng không đón nhận chính Chúa. Họ đã vào hùa với nhau chống báng và xua trừ Chúa để khỏi phải nghe những lời chân thật. Chúa Giêsu cùng đồng số phận với các tiên tri bị người đời ngược đãi và thế gian chống đối ghét bỏ.

Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối. Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc sống của người dân.

Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi." (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy: "Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật." (1 Cr 13,4-6)

Đức ái là nhân đức tuyệt hảo. Chỉ có tình yêu mới có thể tha thứ, bao dung và liên kết nên một. Tình yêu như lửa hun đốt và hâm nóng những tâm hồn nguội lạnh. Một thái độ cảm thông yêu mến có thể xoá nhoà mọi lỗi lầm. Một cử chỉ yêu thương có thể khơi dậy niềm hy vọng. Một dấu ấn tình yêu có thể đổi đời. Một lời nói dễ thương có thể vỗ về tâm hồn nguội lạnh. Ôi tình yêu thật diệu vời! Ai trong chúng ta cũng có trái tim để yêu, chỉ cần chúng ta biết mở cửa trái tim để trao ban và đón nhận. Tình yêu như dòng sông nước chảy, càng chảy càng thấm nhuần. Yêu là cho đi và cũng là đón nhận. Một tình yêu tuôn trào sẽ tạo nguồn sống tươi vui và hạnh phúc. Chúng ta đang ngụp lặn trong biển tình: tình Chúa, tình gia đình và tình nhân lọai. Tình yêu chính là lẽ sống. Lạy Chúa, Chúa là Tình Yêu. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ dám hiến thân mình vì bạn hữu. Chúa đã hiến mình vì yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Chỉ có đức mến mới tồn tại muôn đời: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến." (1 Cr 13,13).

 

14. Sự thật mất lòng – Lm. Anphong Trần Đức Phương

Trong tiếng Việt Nam có câu nói “Sự Thật mất lòng!” và Chúa Giêsu nói “Sự Thật giải thoát anh em!” (Ga 8: 32). Chúng ta thường không thích nghe những lời “nói thẳng và nói thật” vì va chạm tự ái của chúng ta; nhưng nếu biết khiêm tốn lắng nghe và sửa đổi, thì “Sự Thật lại giải thoát chúng ta” khỏi những khuyết điểm mà mình không nhìn ra, và như thế “Sự Thật” xây dựng chúng ta. Trái lại, những lời nịnh bợ tâng bốc thường làm chúng ta ra mù quáng và không nhìn được rõ những khuyết điểm để sửa đổi.

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy nhân dịp về thăm quê hương Nagiaret, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu cũng vào sinh hoạt tại Hội Đường và nhân dịp được mời đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã chia sẻ với cộng đoàn về lời trong Thánh Kinh: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó…” Thánh Luca ghi lại: “mọi người đều thán phục những lời Ngài nói…” Nhưng vẫn có những người đặt vấn đề “Ông này không phải là con bác thợ mộc đó sao?” Biết phản ứng của họ như vậy, Chúa Giêsu đã nói rõ sự thực về tâm tính ngang bướng của họ và của cha ông họ thời xưa, và đưa ra những bằng chứng rất rõ ràng. Thế là “mọi người trong hội đường (bị chạm tự ái) đã nổi giận, lôi Chúa Giêsu lên đỉnh đồi và định xô Ngài xuống vực thẳm.”

Đúng là sự thật mất lòng và đưa đến thù hận. Nhưng trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã không sợ nói sự thật và thường được dân chúng hân hoan đón nhận. Tuy nhiên, vẫn có những người đầy tự ái, như các kinh sư, biệt phái, họ không muốn nghe sự thật; họ căm phẫn, và nhiều lần họ đã âm mưu giết Chúa. Cuối cùng họ đã lên án và giết Người trên Thánh Giá. Nhưng đó lại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Thực ra, Chúa Giêsu không phải vì ghét họ mà nói sự thật. Nhưng Ngài muốn “nói thẳng, nói thật” để cảnh tỉnh họ và giúp họ sửa đổi, và có thể nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Chúa Giêsu. Bằng chứng là trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đến với người bệnh hoạn, nghèo khó, bị bỏ rơi để giúp đỡ và rao giảng cho họ và khi có dịp, Chúa Giêsu cũng vẫn đến thăm nhà và dùng bữa với những người biệt phái, những kinh sư, đến với những người tội lỗi, những người thu thuế (Matthêu 9: 10-13). Tất cả là vì tình thương của Chúa đối với mọi người, và mong muốn mọi người sửa đổi cuộc sống để được hưởng ơn cứu độ.

Nhìn vào đời sống của các Tiên Tri thời Cựu Ước, chúng ta thấy các tiên tri được Chúa sai đến để nói sự thật với Dân Chúa cũng chỉ với mục đích kêu gọi họ bỏ cuộc sống tội lỗi, vô luân để sống theo lề luật Chúa, sống xứng đáng con cái Chúa. Dân chúng thường đón nhận lời các tiên tri; nhưng cũng vẫn có những kẻ chống đối, và có những tiên tri bị bách hại, bị xua đuổi và có khi bị giết chết nữa (Matthêu 23: 34-36). Vị tiên tri cuối cùng là Thánh Gioan Baotixita cũng bị tù đày và giết hại.

Hôm nay, trong bài Đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn Giêrêmia (sinh khoảng 650 trước Chúa Giáng Sinh) làm Tiên Tri cho Chúa. Chúa bảo ông: “Hãy nói cho dân chúng những điều Ta truyền ngươi nói với họ. Đừng run sợ trước mặt họ!... Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ sẽ không thắng được ngươi, vì ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Đúng như lời Chúa nói, trong cuộc đời rao giảng những mệnh lệnh của Chúa, tiên tri Giêrêmia đã phải nói những sự thật để giúp họ sửa đổi ‘lòng chai đá của họ’, vì thế mà tiên tri đã gặp rất nhiều chống đối, thù ghét. Sau cùng tiên tri bị giết chết (vào khoảng 580 trước Chúa Giáng Sinh) trong thời bị lưu đày ở Ai-Cập. Chính sau cái chết thảm khốc của ông mà dân chúng càng hiểu ông hơn và đem lòng sùng mộ, và nhận ra những điều chân thật tiên tri đã giảng dạy ho.

Mỗi tín hữu chúng ta, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta cũng đều có bổn phận phải làm “tiên tri”, làm “chứng nhân” cho Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Trong khi loan truyền Lời Chúa, thường khi chúng ta cũng gặp được những con người vui vẻ đón nhận, nhưng cũng có những trường hợp bị phản ứng bất lợi. Chúng ta luôn phải kiên nhẫn chịu đựng, và cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa chính chúng ta, và thánh hóa những người chúng ta rao giảng; cầu nguyện đặc biệt cho những người chống đối chúng ta (Matthêu 5: 43-48). Tất cả chỉ vì lòng “mến Chúa và yêu người” mà chúng ta làm nhiệm vụ “tiên tri” và chứng nhân cho Chúa.. “Lòng mến Chúa yêu người” tức là đức Bác Ái, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay: “Đức Bác Ái thì nhẫn nhục… tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả…”

Mong rằng từ nay chúng ta biết ý thức hơn về bổn phận rao giảng Lời Chúa, làm chứng cho Chúa (nhất là bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta) trong cuộc sống hàng ngày nơi gia đình, sở làm, trường học, với mọi người chúng ta có dịp tiếp xúc. Trong cuộc hành trình Đức Tin, chúng ta không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với anh chị em chúng ta, chúng ta cần nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau, luôn giữ vững Đức Tin, duy trì Đức Bác Ái, và cùng nhau giúp đỡ những người chưa nhận biết Chúa được nhận ra Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế làm người rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc chúng ta; Người đã sống lại và về trời để mở đường cứu rỗi chúng ta. Ai tin và sống theo giới răn của Người, thì được ơn cứu chuộc.

Cuộc sống mỗi người ở trần gian này rồi sẽ qua đi, chúng ta hãy biết dùng mọi thời gian còn lại, mọi phương thế có thể được để giúp đỡ mọi người, không phải chỉ bằng vật chất, nhưng cả về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng, để mọi người có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa.

“Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi, Ngài sai tôi đi, Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, Mang Tin Mừng giải thóat, Thiên Chúa đã cứu tôi…”

(Thiên Lan: Thánh Ca: “Thần Khí Chúa”)

 

15. Không được chấp nhận.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống. Chẳng ai có thể sống mà không tin. Không tin người này nhưng lại tin người kia. Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ. Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin. Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng, nhưng một cách sáng suốt và tự do.

Điều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát, không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối, nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật, dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ, và xoay lại hướng đi của cả đời ta.

Có lẽ dân làng Nagiarét ít có thứ tự do này.

Khi Đức Giêsu giảng trong hội đường Nagiarét thân quen, họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói. Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê! Nhưng tin Đức Giêsu là một ngôn sứ lại là điều họ không làm được.

"Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?"

Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh của Đức Giêsu sống tại đây hơn ba mươi năm qua. Một cuộc sống quá đỗi bình thường! Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Đức Giêsu, họ đều nắm rõ. Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.

Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào, và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.

"Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem."

Người làng Nagiarét không tin Đức Giêsu là ngôn sứ. Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ. Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi. Nhưng Đức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.

Chính lòng tin đưa đến phép lạ, mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương. Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ, khi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.

Dân làng không giữ được Đức Giêsu cho riêng mình. Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi, thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.

Tin Đức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.

Điều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.

Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.

Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Đức Giêsu, nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nagiarét: tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm hay muốn độc quyền giữ Đức Giêsu cho mình.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, dựa vào đâu để bạn tin người khác? Dựa vào đâu để bạn biết người đó thành thật?

Người dân làng Nagiarét gặp khó khăn khi phải tin Đức Giêsu. Con người hôm nay gặp khó khăn nào khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thính ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

 

16. Để tiếp đón Chúa – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghĩ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?".

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: "Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon". Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài "mất trí". Kinh sư chụp mũ Ngài "nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ". Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: "Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh". Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên...

Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của "chủ nghĩa lý lịch". Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: "Không ai là tiên tri cho xứ sở mình". Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn "Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận". Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.

Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta... Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.

 

17. Nói lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy - Jos Hiền

1. Lời Chúa thường hay gây “dị ứng”:

Lời Chúa là “Lời sáng tạo”, “Lời quyền năng”, “Lời yêu thương”, “Lời an ủi”… nhưng cũng là “Lời thường gây dị ứng”. Thông thường, ai cũng thích gặp được những “lời yêu thương”, “lời an ủi”. Nhất là cứ mỗi độ Tết đến, ai ai cũng mong “bốc” được một câu Lời Chúa đầy khích lệ, an ủi như “Hỡi những ai lao đao vất vả, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho…”, hoặc “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ gặp…”, hoặc “Phúc cho biết xót thương vì họ sẽ được thương xót”, v.v... hoặc ít ra, một Lời khuyến thiện chung chung như “Thầy là đường, sự thật, sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nhưng nhiều người sợ nhất là “bốc phải” những câu như “Khốn cho các ngươi bọn biệt phái giả hình…”, hoặc “hỡi nòi rắn độc, trốn đâu cho khỏi cơn thịnh nộ sắp đến…”; thậm chí có người sợ những câu có liên hệ tới tài chánh như “Ngươi hãy về bán hết của cải phân phát cho kẻ nghèo rồi hãy đến theo ta”, hoặc dị ứng cả với những câu có liên quan tới việc làm hòa, nhường nhịn, tha thứ: “Ta không bảo phải tha bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần”, “hãy về làm hòa đã rồi đến dâng lễ…”

Tại sao lại sợ những câu Lời Chúa như thế. Đơn giản, vì tin và hiểu rằng: Chúa đã nói thì không thể sai được, và Chúa Phán mà cố tình không thực hiện là mắc lỗi với Chúa, là không toàn tâm toàn ý với Lời Chúa.

Trích đoạn Tin Mừng thánh Luca liên tiếp hai Chúa Nhật, vừa rồi và hôm nay, đã cho thấy rõ hai thái độ của dân Na-da-rét trước Lời Chúa. Vừa nghe Chúa công bố lời của Ngon sứ I-sa-ia “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó…” họ liền phấn khởi “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”. Nhưng sau đó, khi nghe chính những Lời của Đấng là “Ngôn sứ trên mọi sứ ngôn” phán “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình … vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phung hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Sy-ri thôi”, thì “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, đến độ muốn thủ tiêu Người bằng cách xô xuống núi.]

Quả thật, Lời Chúa thường hay gây dị ứng là thế. Cho nên bài học đầu tiên của “chương trình lời Chúa” hôm nay đó chính là: xin cho con thành tâm đón nhận Lời Chúa, cho dù Lời đó có gây dị ứng, có làm “trầy vi tróc vảy”, có kết án con, có bôi nhọ con, có làm cho con bầm dập, có khiến con hổ ngươi… đúng như lời trong thư Do Thái đã dạy :

"Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi : xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12).

Để có được một thái độ như thế trước Lời Chúa không phải là chuyện của một sớm một chiều, mà là một cuộc “trường chinh” của nguyện cầu và cố gắng, và trên hết, là thái độ khiêm hạ. Khiêm hạ tự nhận sự yếu đuối, tội lỗi, bất toàn trước Lời Chúa, như người trộm lành thuở xưa: “Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông nầy đâu có làm điều gì trái” (Lc 23,41). Chỉ với thái độ đó, Lời Chúa sẽ đưa chúng ta đến ngưỡng cửa của sự giải thoát đích thực, của hạnh phúc vĩnh hằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đường” (Lc 23,43).

2. Không tránh né sứ vụ “mang lời Chúa”.

Chính vì “Lời Chúa hay gây dị ứng cho người nghe” như thế, nên, không ít người đã thoái thác nghĩa vụ mang lời Chúa, tránh né “sứ vụ ngôn sứ”. Chuyện nầy đã từng xảy ra với các vị đại ngôn sứ như Mô-sê: “Con là ai mà dám đến với vua Pha-ra-ô…” (Xh 3,11), như Ê-li-a xin cho được chết “Lạy Chúa, đủ rồi ! Bấy giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con” (1 V 19,4), như Giê-rê-mi-a: “Ôi lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói” (Gr 1,6), và đặc biệt như trường hợp Giô-na: Chúa bảo “mang Lời Chúa tuyên rao” ở Ni-ni-vê, ông ta đã trốn đi lối khác: “Ông Giô-na đứng dậy nhưng là là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa” (Gn 1,3).

Đức Kitô trong Tin Mừng vừa được công bố, không dừng lại ở “khoản” dân chúng thán phục, hoan hô để tận hưởng cái “thành công ban đầu tại quê hương” trong sứ vụ ngôn sứ vừa mới khởi sự ; mà Ngài đã “tới luôn bác tài”, sẵn sàng vạch trần thói xấu của dân chúng đồng hương Na-da-rét, cái thói “coi mặt mà bắt hình dong”, đánh giá con người chỉ bằng cái mã hình thức và coi thường những thân phận thấp cổ bé miệng. “Ông nầy không phải là con ông Giu-se đó sao?” Và dĩ nhiên, cái cung cách hành xử sứ vụ ngôn sứ như thế, hầu hết đều dẫn tới “thiệt thân”. Nhẹ là bị săn đuổi như Ê-li-a, Giê-rê-mia…nặng là “đi đứt cuộc đời” như Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, mục sư Luther King, Đức Giám mục Rômêrô…

Và như thế bài học thứ hai trong “câu chuyện Lời Chúa” hôm nay đó chính là hãy can đảm “mang lấy Lời Chúa và tuyên rao” cách thành tâm, can đảm. Dĩ nhiên, không đợi đến lúc có được quyền cao chức trọng mới thi hành hiệu quả sứ vụ nầy, mà mỗi một cuộc đời đều là một cuộc lên đường thi hành sứ vụ ngôn sứ.

3. Nói Lời Chúa làm sao cho thuyết phục:

Còn nếu hỏi : Phải rao giảng Lời Chúa làm sao, phải thể hiện sứ vụ ngôn sứ thế nào ? thì Bài Đọc II hôm nay với chủ đề “Bài ca Đức Mến” trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô là một câu trả lời tuyệt vời nhất: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người, và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì…” (1Cr 13,1-2)

Hình như có một điệp khúc trong một bài ca của nhạc sĩ Trần Tiến đó là “hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy, háy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu…” Vâng, làm ngôn sứ, thi hành sứ vụ rao giảng Lời Chúa đó chính là “nói lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy”. Nếu lời Chúa không được chuyển tải bằng ngôn ngữ của tình yêu, một tình yêu đã được cảm nghiệm, đã được sống, thì chỉ là một cuộc “tuyên truyền, một cuộc vận động chính trị, một cuộc ba hoa quảng cáo…” của trường phái “mồm loa mép dãi”, chứ không bao giờ là thuộc trường học của Chúa Giêsu, của Tin Mừng. Mà để “nói lời tình yêu” như thế, thì người mẹ người cha nào không nói được với con cái trong mái ấm gia đình của mình, người chồng người vợ nào không nói được với nhau trong cuộc sống lứa đôi ? Anh chị em ruột thịt lẽ nào không nói được hai tiếng thương nhau, bạn bè cùng trang lứa, cùng học hành, cùng nghề nghiệp, cùng cảnh ngộ… lẽ nào không trao cho nhau được một ánh mắt thân thiện, một tiếng nói chân tình? Những người chưa một lần được nghe nói đến giới luật tình yêu, chưa một lần nhìn thấy cây Thánh giá với một con người bị chết trần truồng vì yêu… thì có thể ngập ngừng với hai tiếng “yêu thương”, chứ chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta đã được đào tạo, trui rèn trong cái trường dạy yêu thương từ Bê-lem đến Đồi Sọ, từ cái dấu chỉ Thánh giá đơn sơ nhất được vẽ trên mình đến cả 365 ngày cử hành hy lễ tình yêu, thì không thuộc được hai chữ “yêu thương” mới là lạ.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau đừng để hôm nay “Chúa Giêsu băng qua giữa chúng ta mà đi” như một người khách lạ, nhưng xin Người hãy ở lại trong tâm hồn mỗi người chúng ta để dạy bảo chúng ta học thuộc ngôn ngữ tình yêu của chính Ngài, hầu ra đi mang Lời Chúa chia sẻ cho anh em chung quanh bằng chính cuộc sống thấm tràn Đức Mến. Amen.

 

18. Tin Mừng vượt biên cương - Cố Lm Hồng Phúc

Trong đạo cũ, Thiên Chúa thường gửi những nhà Tiên tri đến dạy dỗ dân riêng của Ngài. Thánh Kinh nhắc đến tên 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 vị Tiên tri lớn và 12 vị Tiên tri nhỏ.

Tiên tri là người phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Và làm phát ngôn nhân của Thiên Chúa không phải là dễ. Ông không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Chúa muốn ông nói và nói nhân danh Chúa. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà Tiên tri phải chết vì sứ mạng. Nhiều đấng run sợ bị chọn làm Tiên tri. Tiên tri Giona nghe Chúa gọi đã xuống thuyền trốn tiệt.

Chúa Giêsu, vị phát ngôn nhân của Đức Chúa Cha, cũng không tránh khỏi định luật hy sinh ấy. Bài Phúc Âm hôm nay kể lại diễn tiến của cuộc thuyết giảng trong Hội đường Nagiaret, quê hương Ngài.

Ngài tuyên bố thẳng thừng: “Lời tiên báo của Thánh Kinh về Đấng Messia hôm nay đã thực hiện”. Thính giả đều hiểu: Ngài tuyên bố mình là Đấng Messia phải đến và đã đến.

Sau những phút kinh hoàng bở ngỡ, họ đòi Ngài phải đưa ra bằng chứng: “Chúng tôi nghe ông làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở đây nơi quê hương ông, cho chúng tôi xem nào!” (Lc. 4, 23). Nhưng, Chúa Giêsu không muốn cho họ một dấu, một phép lạ nào cả, để họ khỏi lầm tưởng về sứ mạng của Ngài… Sứ mạng đó không bị gò bó hạn hẹp trong phạm vi gia đình quê quán, không dành riêng cho dân Do-thái thôi. Tin Mừng sẽ vượt biên cương, kêu gọi mọi người thiện chí. Để chứng minh, Chúa nhắc đến gương của hai nhà Tiên tri Elia và Êlisê mà dân chúng đều biết. Hai vị đã thi ân giáng phúc cho bà góa xứ Sêrepta và Naaman, sĩ quan ngoại bang thuộc xứ Syria.

Ơn cứu độ không dành riêng cho một số người được đặc ân mà là một ân sủng cho hết mọi người. Phản ứng đồng hương của Ngài rất dễ hiểu; lòng tự ái bị tổn thương, họ căm phẫn, đồng loạt đứng dậy, tống xuất Ngài ra khỏi thành và muốn xô Ngài xuống hố thẳm cho chết đi.

“Không một Tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”.

Câu chuyện Nagiaret mở màn cho những diễn tiến tương lai. Các Giáo phụ coi đó là điềm báo của lối đối xử của toàn dân Do-thái dành cho Chúa. Ngài cũng sẽ bị kết án, dẫn ra khỏi thành và bị đóng đinh trên cây Thập giá. Luca, tác giả sách Công vụ Tông đồ còn muốn đối chiếu việc Chúa bị tống xuất khỏi thành với việc Stêphanô bị lôi ra khỏi thành và bị ném đá chết (CV. 7, 58). Cuộc bách hại tiếp theo sau cuộc tuẫn tiết của Stephanô đã làm cho Tin Mừng loan đi khắp vạn nẻo đường thế giới. Lịch sử của Chúa Giêsu tiếp diễn trong lịch sử Giáo hội. Giáo hội mở rộng vòng tay đón cả nhân loại.

Lạy Chúa, xin đừng để con ỷ lại vào ơn cứu độ đã được Chúa ban nhưng không. Trái lại, biết làm lợi cho mình và làm lợi cho kẻ khác để Nước Chúa trị đến.

 

19. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA.

Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.

Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.

Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.

Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.

Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?

2. Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?

3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?

 

20. Biết can đảm chấp nhận lỗi lầm.

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng hương, Ngài ưu tiên tỏ cho họ nhận biết vai trò và sứ mạng của Ngài là Người được Thánh Thần xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ân xá cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù tối đón nhận ánh sáng, cho người bị áp bức được tự do và công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa... với hy vọng là những người đồng hương cốt nhục của mình được đón nhận ơn cứu độ trước hết.

Thế nhưng đôi mắt của người dân Na-da-rét đã bị che phủ bởi thành kiến nên họ đã không nhận ra vai trò và sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu. Với thành kiến rằng Đức Giêsu chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Ngài đâu có ai sáng giá... nên họ đã không tin Ngài. Họ đã để tuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.

Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến cho mình, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Isaia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Isaia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.

Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Israen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.

Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài khủng khiếp!

Họ oán ghét và nổi cơn phẫn nộ với Ngài chỉ vì Ngài đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi Ngài ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.

Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống, vì Ngài đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng, đen tối liên quan đến họ...

Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!

Hành động như thế là thiếu tinh thần phục thiện, là hèn nhát không dám đối diện với sự thật. Đúng ra, họ phải cám ơn Chúa Giêsu vì Ngài đã giúp họ thấy được sai lầm của mình để sửa chữa cho tốt hơn. Đúng ra họ nên nhìn lại sai lầm của mình thật rõ và những hậu quả do đó mà ra để rồi không còn tái phạm nữa.

Tiếc thay họ đã đi vào vết chân của cha ông họ nhưng còn tồi tệ hơn. Cha ông họ bạc đãi các tiên tri, còn chính họ thì toan giết hại Con Thiên Chúa.

Thế nhưng hôm nay soi lại bản thân, chúng ta cũng thấy đôi khi mình cũng đi theo vết chân đó. Khi có ai đó chỉ cho ta thấy những lầm lỗi khuyết điểm của chúng ta, những sự thật đen tối về bản thân ta, thì thay vì cám ơn người đã chỉ bảo cho mình điều hay lẽ phải, chúng ta lại lồng lên như một thú dữ bị thương, gầm lên dữ dội và có thể có thái độ hung hãn đối với người đã vạch ra lầm lỗi của mình. Thế rồi mình cứ cố chấp trong tội lỗi của mình. Và như thế, chúng ta cứ mang thói hư tật xấu xuống mồ và sẽ không bao giờ biết cải thiện. Thật đáng tiếc lắm thay!

Nếu ngôi nhà chúng ta bén lửa, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để chữa cháy, thì hẵn là chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và khẩn trương chữa cháy cho ngôi nhà.

Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.

Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có 'lửa' đang bén vào 'căn nhà cuộc đời' của mình, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Nadarét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những 'ngọn lửa' lầm lỗi, âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình.

Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.

Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con...

May ra lúc đó, chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.

 

21. Ta về ta tắm ao ta – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Theo báo chí nhận xét: "Tết năm nay (2010) lượng trái cây của Trung Quốc nhập về giảm mạnh. Các năm trước, đến thời điểm này, hàng trái cây Trung Quốc đã chất hàng ngàn tấn tại chợ nhưng năm nay thì lại chưa thấy gì". Có người còn độc miệng nói rằng: các loại trái cây của Trung Quốc chủ yếu là lê, táo, nho... màu đẹp, bóng, để được lâu (khoảng tháng rưỡi) nên một số người mua để cúng chứ không dám ăn. Không chỉ trái cây nhưng rất nhiều mặt hàng Trung quốc đến nay người dân đã tẩy chay vì hàng kém chất lượng, nhất là lại chứa nhiều độc tố. Điều đó dẫn đến một làn sóng trở về với dân tộc: "Ta về ta tắm ao ta - Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn".

Thực vậy, với xu hướng xính ngoại, lâu nay nhiều người không dùng hàng Việt. Thích dùng hàng ngoại. Hậu quả là hàng ngoại kém chất lượng, quá date, hàng giả... tràn ngập thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ dừng lại ở hàng hóa mà ngay cả trong vấn đề hôn nhân cũng vậy. Nhiều cô gái thích lấy chồng ngoại. Đến nỗi có cả một thị trường tuyển chọn cô dâu. Nhưng có mấy ai lấy chồng ngoại được yên bề gia thất? Có mấy ai thực sự hạnh phúc với hôn nhân thiếu vắng tình yêu?

Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để thốt lên rằng: "không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình". Người ta dễ "gần chùa gọi Bụt bằng anh". Người ta xem thường đồng hương. Dù biết rằng tình đồng hương rất cần vì "tối lửa tắt đèn có nhau". Dù biết rằng kẻ láng giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông đã nói: "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Thế nhưng, thực tế cho thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với bầu "tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"? Chúa Giêsu cũng từng bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã có lần người ta cho rằng Người đang bị mất trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương mình. Hôm nay, sau thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái nhìn xem thường của đồng hương. Họ không tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật về con người Giêsu mà họ đã biết từ khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa họ mà đi.

Vâng, cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.

Ước gì mỗi người chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang lại hạnh phúc cho nhau. Con cái cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm cần đến nhau để "tốt lửa tắt đèn có nhau". Và một khi đã nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính trọng lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh phúc. Amen.

 

22. Khổ vì đồng hương - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có hai thanh niên lớn lên trong gia đình có một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ, mỗi cậu sống theo ý riêng mình.

Nhiều năm sau, một cậu trở nên người nghiện rượu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rượu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”

Cả hai có cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi?”

Đôi khi gia đình có thể trở thành trợ lực cho ta thăng tiến, nhưng cũng có thể là trở lực khiến ta không thể làm người. Gương sáng hay gương mù của người thân luôn ảnh hưởng đến chúng ta. Sự khích lệ hay chê bai cũng ảnh hưởng đến công việc của chúng ta.

Trong đời sống tôn giáo, cộng đoàn đôi khi cũng giúp cho một con người nên thánh nhưng cũng có thể đẩy một người lao xuống hảo ngục. Nhất là thực trạng “Bụt nhà không thiêng” đã khiến bao nhiêu người không thể phát huy tài năng ngay giữa anh em mình. Sự chê bai, xem thường còn làm cho chính những người đang sống với mình luôn cảm thấy bất an, đau khổ vì những lời chê bai, vu khống bâng quơ, đầy ác ý.

Thật khó tin, nhưng vẫn có những người Kitô hữu bách hại anh em mình: Họ luôn làm mất bình an trong tâm hồn và thanh danh của người lối xóm bằng những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách, họ khinh dể những người khác địa vị xã hội và kinh tế, họ dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh, kẻ thiếu thốn ngay bên cạnh mình. Họ sống như thể chưa bao giờ nghe Chúa nói: “hãy yêu mến người thân cận”, như thể họ chưa bao giờ nghe thánh Phaolô tông đồ khuyên: Tình yêu thì nhân hậu, khoan dung, không đố kỵ, ghen tương và luôn lấy mối dây thân ái để sống liên đới với tha nhân. Trái lại họ sống quá tàn nhẫn với người lân cận. Họ dùng thủ đoạn để lừa dối anh em, để kết án, hạ bệ và xô đẩy anh em nhằm thỏa mãn tính tự tôn tự đại của mình. Năm xưa Chúa Giêsu đã bị người đồng hương kết án, phải chăng hôm nay vẫn còn đó những người kytô hữu bị những người đồng đạo hãm hại, nhục mạ và đẩy vào đường cùng của lầm than?

Vâng, vẫn còn đó sự khinh dể, xa lánh của người đồng đạo với những người nghèo khổ, bệnh tật và lầm than...

Vẫn còn đó sự kết án vô căn cứ bằng lời ra tiếng vào, thêm mắm thêm muối để hại người vô tội.

Vẫn còn đó sự toa rập với nhau để loại trừ kẻ yếu, kẻ thân cô thế cô...

Và vẫn còn đó những giọt nước mặt bị hàm oan, bỏ rơi ngay giữa anh chị em mình.

Thế nhưng, chúng ta vẫn cảm tạ Chúa, vì nhân loại hôm nay vẫn còn có những con người đang cố gắng thực hành giới luật yêu thương với những người thân cận mình. Họ vẫn sống bao dung, độ lượng. Họ vẫn miệt mài xây dựng tình hiệp nhất cho cộng đoàn mình.

Ước gì những người mang danh Kytô hữu đừng bao giờ hạ thủ anh em mình chỉ nhằm thoã mãn thói kiêu căng, tự cao tự đại của mình. Xin đừng tiếp tay với những kẻ muốn xô đẩy Đức Kitô xuống vực thẳm bởi hành vi tàn bạo với người lân cận. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống theo lòng nhân hậu của Chúa để mở rộng đôi tay đón nhận anh em, để nâng đỡ, bảo vệ anh em và biết nắm lấy tay nhau tạo thành một vòng tròn thân ái, hiệp nhất và yêu thương. Amen.

 

23. Người Việt hay dìm hàng

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Người Việt có câu "thà chết cả đống còn hơn sống một mình". Đây là câu cô đọng về thói đố kỵ, không muốn ai hơn mình, đôi khi lại còn muốn kéo mọi người xuống ngang bằng với mình. Tôi cũng từng nghe một người đã nói giỡn vui rằng: “nếu mỗi quốc gia đều có một chiếc chảo dầu dưới âm phủ cho những kẻ phạm tội bị thảy vào thì chắc chắn chảo dầu của người Việt Nam không cần đậy nắp. Đơn giản, nếu kẻ nào ngoi lên là ngay lập tức bị kéo xuống”.

Sự đố kỵ là lý do dẫn đến người Việt hay ghen tương, dìm hàng, nói xấu, tẩy chay nhau. Sự đố kỵ ấy lại thường xảy ra nơi những bà con láng giềng với nhau.  Hai nhà đang sống cạnh nhau có thể rất thân thiết khi cơ hàn như nhau, nhưng chắc chắn sẽ có chuyện khi một nhà tự dưng phất lên. Sống trong một tập thể dường như có ai thành công thì ắt sẽ bị gièm pha, nhòm ngó.

Sự đố kỵ không chỉ muốn người khác thua kém mình mà thậm chí còn cầu mong cho họ gặp thất bại cay đắng mới hả dạ.

Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái thần thánh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và thần tiên xuất hiện và ban cho ông ta những điều ước, nhưng với điều kiện sẽ cho hàng xóm ông được gấp đôi. Ông vui mừng, nhưng rồi lại buồn, vì nếu:

- Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ tiên lại cho họ hai chiếc.

- Xin một căn nhà thì sợ họ được hai căn.

- Xin 1 tỷ thì hàng xóm được 2 tỷ.

- Và cứ thế, ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng lại không chọn gì cả, vì sợ mình được một thì người khác được hai.

- Cuối cùng ông quyết định: xin thần tiên cho con bị mù một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị mù một thì người kia sẽ bị mù hai con mắt.

Những người biệt phái năm xưa dường như cũng muốn dìm hàng với Chúa Giê-su. Họ không muốn Chúa Giê-su nổi lên giữa họ. Họ chỉ muốn Chúa sống bình dị an phận trong sự dẫn dắt của họ. Đó là lý do họ gièm pha, khó chịu khi Chúa Giê-su nổi lên với lời giảng dạy và việc làm đầy uy quyền. Họ không phục vì bản tính cố chấp không muốn ai hơn mình. Họ đã đánh mất niềm vui khi nhìn thấy thành công của người đồng hương. Và dường như Chúa Giê-su cũng không thể làm điều gì cho họ vì họ quá cứng lòng tin.

Ở đời vẫn còn đó sự đố kỵ dẫn đến ghen tương mà làm hại lẫn nhau.

Tôi vẫn nghe những lời nói xấu ông A, bà B nhưng đều phát xuất từ ghen tỵ mà dựng chuyện bêu xấu nhau.

Tôi vẫn thấy những người làm việc tông đồ nhưng vẫn rỉ tai nhau để kết bè, kết phái để loại trừ nhau.

Tôi vẫn thấy những ý tốt bị mọi người loại trừ chỉ vì “trứng mà khôn hơn rận” nên cố chấp loại trừ nhau.

Tôi vẫn thấy những người môn đệ của Chúa vẫn đố kỵ dìm hàng nhau bằng nói xấu, gièm pha và bất hợp tác với nhau.

Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu sống bên nhau mà thôi đố kỵ nhau. Cuộc sống sẽ thăng tiến nếu ai cũng hợp tác và khích lệ nhau thay cho sự chê bai, dìm hàng nhau. Đặc biệt những người trong một tổ chức, một hội đoàn cần có tình yêu thương hiệp nhất với nhau. Xin đừng đố kỵ ghen tương với nhau nhưng luôn hợp tác và chia sẻ thành công và thất bại với nhau.

Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa Giê-su luôn hiền lành và khiêm nhường để hòa hợp với mọi người. Xin đừng vì cố chấp mà dèm pha lẫn nhau gây mất tình hiệp nhất trong cộng đoàn. Xin loại bỏ trong chúng ta tính đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.

 

24. Khiêm nhường để khám phá sự thật

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Tắc… tắc… tắc… cụp! Đêm đã khuya lắm, những âm thanh nghe khô khốc ấy còn vang. Một chú bé dáng nhỏ nhắn, đi mải miết vào lòng con hẻm nhỏ, tiếp theo sau là những tiếng gõ. Chú bé bước nhanh nhưng gật gà gật gù, chắc cậu ta buồn ngủ.

- Ê! hủ tiếu mì…! Bộ điếc hả?

Sực tỉnh vì tiếng gọi giật giọng từ ban-công một căn lầu, chú bé quay bước tiến tới, hỏi:

- Thưa chú, mấy tô?

- Ba!

- Dạ! Chú bé đáp nhanh và chạy vụt đi.

Một lát sau, chú bé khệ nệ bưng cái mâm xếp đầy những tô hủ tiếu đến trước căn lầu khi nảy. Anh thanh niên gắt gỏng:

- Tưởng mày ngủ quên ở ngoài đó rồi.

Chú bé lại cố nở nụ cười để làm dịu lòng người khách khó tính rồi tất tả bưng tiếp những tô mì còn lại đi về cuối hẻm. Vô ý thế nào mà… oạch, chú bé trợt chân vào vũng nước té sóng soài trên mặt sàn xi-măng. Những sợi hủ tiếu trộn lẫn cát bụi, xà lách, giá, thịt nằm vương vãi, tô đũa lăn lóc khắp nơi. Tiếng cười trong đêm vắng của mấy thanh niên kia lại ré lên, đeo lấy chú bé.

Chắc hẳn thằng bé tủi buồn, mà tôi cũng thấy xót xa trong dạ. Xót xa cho chú bé nghèo, phải vất vả lặn lội, bằng ấy tuổi phải cõng trên vai cuộc đời đã vậy. Càng xót xa hơn cho những người giàu tiền của lại nghèo yêu thương, sao nỡ nhẫn tâm cất tiếng cười không đúng lúc, đến mức quá quắc như thế. Một tràn cườI chẳng những không vui cho những ai phải nghe nhưng chẳng muốn nghe, ngược lại còn khắc trong lòng một sự đáng giá chẳng hay ho gì: khả ố. Ai đó hay chăng, nụ cười khả ố là nụ cười đánh mất giá trị của chính con người mình…

Những tràng cười như thế, chắc không bao giờ xuất hiện nơi những anh chị em lấy đức khiêm nhường làm thước đo cho mọi tương quan sống của mình. Chắc chắn chỉ có những kẻ kiêu ngạo, trong lòng chứa đầy nỗi tự phụ, hóng hách… mới có thái độ khiếm nhã đến thế.

Trong cuộc sống thường ngày của bạn và tôi, xét lại bản thân, có lẽ chúng ta đã từng cũng có những kiểu cười khả ố tương tự. thêm một lần nhắc lại những hình ảnh như thế này, để một lần nữa, chúng ta ý thức rằng, mình phải sống đẹp và đừng vô tình trước nỗi bất hạnh của anh chị em. Nhất là hãy loại trừ thái độ kiêu căng, tự phụ để có thể đón nhận và sống Lời Chúa trong cuộc sống thường ngày với anh chị em.

1. Giêsu trong Tin Mừng

Đi từ cụ thể của đời thường, ta lại bắt gặp hình ảnh của một Giêsu trong Tin Mừng. Bởi Chúa Giêsu cũng đã từng bị khinh miệt như thế. Đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay, người đồng hương của Chúa đã có thái độ coi thường Chúa. Phải chăng đó cũng là biểu hiện của lòng kiêu căng, của thái độ tự phụ, hách dịch? Một mặt nghe những lời giảng dạy, họ khen ngợi nhưng liền sau đó, do lý lịch không mấy nổi nang, có khi còn tầm thường, những người đồng hương của Chúa đã vấp phạm.

Từ lời nhận xét thiếu thiện cảm, thiếu tế nhị: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”, cho thấy cả một cái nhìn đầy thành kiến, tiêu cực, có cái gì như xoi mói và thiếu chấp nhận nơi những người đồng hương của Chúa Giêsu. Từ đó phản ánh lòng đầy kiêu căng qua thái độ mà họ dành cho một người con của quê hương của họ là chính Chúa Giêsu. Họ thật đáng trách, vì lẽ ra, khi nhận thấy sự khôn ngoan lạ thường của Chúa, họ phải chân thành ghi nhận, đàng này chỉ vì một chút tự phụ, họ đã để ký ức về gia cảnh của Chúa ngự trị trong tim não: Và như thế, họ chỉ thấy một Giêsu hơn ba mươi năm bình dị đến mức tầm thường. Người có một cuộc sống quá đơn sơ: Một thợ mộc, con của một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Giêsu cũng chẳng lạ gì, chẳng hề nổi danh nổi tiếng bao giờ. Chính lòng kiêu ngạo mà đôi mắt của họ bị che mù.

Cũng chính lòng kiêu ngạo ấy đã biến họ thành những kẻ thiệt thòi lớn. Nếu từ xa xưa, vào thời đói kém, tiên tri Êlia đã không thể làm gì cho quê hương ông; Hay tiên tri Êlisêô cũng đã từng không chữa một người cùi nào ở chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng chẳng làm được gì hơn trên chính nơi mà Người sinh ra và lớn lên.

Lấy tích xưa để nói chuyện mình, Chúa Giêsu như muốn dạy người đồng hương và cả chúng ta nữa, kinh nghiệm ngu dại của thói kiêu căng. Sự kiêu ngạo làm ta bị đánh mất, bị tước mất tất cả những gì là ân huệ, là tốt đẹp. Và cái mất lớn nhấn là mất chính Chúa.

Tưởng chỉ có cha ông mình từ ngàn xưa, vì thiếu hiểu biết mới tự phụ như thế. Nào ngờ, bài học của cha ông đã qua bao nhiêu thế hệ, con cháu vẫn chưa thuộc. Vì thế, bạn và tôi càng đáng trách hơn, trách nhiệm của chúng ta càng nặng hơn. Thật là xót xa và đáng thương, nếu chúng ta thiếu ý thức điều này.

2. Giêsu trong đời

Nếu đã có lần Chúa Giêsu khẳng định: Ai cho anh chị em mình, dù chỉ một chén nước lả là làm cho chính Chúa (Mt 10, 40-42), hơn thế, Người đã tự đồng hóa mình với biết bao nhiêu anh chị em nghèo đói, bất hạnh, bị bỏ rơi… (Mt 25, 40), thì hôm nay, Người vẫn hiện diện với ta, trong ta và nơi mọi người cùng ta đang sống, nhất là nơi những anh chị em khổ nghèo.

Bởi đó, nếu một Giêsu trong Tin Mừng bị khinh miệt, thì khi Giêsu ấy hiện diện giữa đời, chắc còn chịu nhiều khinh miệt hơn. Câu chuyện về cậu bé bưng hũ tiếu mì bên trên là một bằng chứng rất thật trong cuộc đời, xung quanh chúng ta.

Chỉ có khiêm tốn mới có thể yêu thương. Và khi yêu thương, người ta sẽ càng khiêm tốn hơn. Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới trao cho nhau tâm hồn khả ái, chứ không phải những cái cười vô tình đến mức vô tâm và khả ố.

Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới có thể có lòng chân thành tìm kiếm sự thật. Nhưng sự thật ấy, có khi như ngọc lẫn trong đá, phải bới, phải tìm mới thấy, mới khám phá. Những người đồng hương của Chúa Giêsu vấp phải khuyết điểm này, bởi họ đã không đủ thiện chí để tìm kiếm, ngược lại còn kiêu căng, tự phụ, nên họ chẳng những bị Chúa chê trách, mà còn không nhận được bất cứ điều gì do Chúa ban.

Nguyện xin cho lòng chúng ta luôn khiêm nhường để có thể nhận ra Chúa nơi anh chị em; Và khiêm nhường để nhờ đó, chân thành tìm kiếm những sự thật khác nhau, được khoác những màu sắc khác nhau trong cuộc đời. Có chân nhận như thế, ta mới không lên án, không kỳ thị anh chị em, nhưng luôn sống điều mà trong bài đọc II, thánh Phaolô dạy: khoan dung, nhân hậu, tha thứ, “không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công…” (1Cr 13, 4-7).

Chỉ có một đời sống khiêm nhường, ta mới khám phá được điều mà thánh Phaolô đã khám phá. Đó mới là sự thật mà mỗi một Kitô hữu cần phải sống. Bởi vậy, khiêm nhường thật cần thiết để ta nhận biết Thiên Chúa, nhận biết cuộc đời, và nhận biết anh chị em quanh mình. Nhờ đó, sống cho Thiên Chúa, sống vì cuộc đời và bác ái với anh em.

 

25. Người đồng hương - Nguyễn Thái

“Chúa Giêsu, như Elia và Elisa, không phải chỉ được sai đến với người Do Thái”.

Trong thời gian theo học tại đại chủng viện St. Mary of The Lake, Mundelein thuộc tổng giáo phận Chiacago, tôi có dịp học chung với một thầy người Nigeria ở Phi Châu sang Mỹ du học. Thầy chia sẻ lý do tại sao người dân Nigeria vẫn còn giữ tục lệ đa thê. Sự chênh lệch giữa những người giầu và nghèo là một trong những nguyên nhân làm cho vấn dề đa thê vẫn còn phổ biến. Các ông điền chủ giàu sang có nhiều ruộng đất, một mình không thể trông coi hết được. Ông cần có nhiều người coi sóc và nhiều con cháu chia nhau trách nhiệm lo việc ruộng rẫy. Vì thế cứ mỗi nơi có ruộng ông điền chủ để lại đó một bà vợ cùng với một bầy con chăm sóc mùa màng. Có nhiều ông có đến trên 10 bà vợ, vì ruộng đất ở rải rác nhiều nơi.

Chuyện kể về một trong những vị giám mục đầu tiên người bổn xứ Nigeria. Sau khi đã được thụ phong Giám mục, ngài trở về quê quán cho dâng làng chúc mừng. Dân làng của ngài là những điền chủ giàu có, nên họ tổ chức một buổi tiệc liên hoan vĩ đại để vinh danh ngài. Nhưng họ cũng lại là những người không mấy có thiện cảm với luật lệ hôn nhân của Công giáo. Trong bài diễn văn, vị bô lão đại diện lên phát biểu. Họ rất hãnh diện vì một trong những người con cháu được cất nhắc lên một chức vị danh dự và lớn lao trong giáo hội, đại diện cho Thiên Chúa. Họ hứa sẽ gia nhập đạo Công giáo, nếu với tư cách là Giám mục, ngài dùng quyền của ngài bỏ đi một trong 10 điều răn cho họ. Đó là điều răn thứ sáu, “chớ mê dâm dục!”

Trong bài đáp từ, vì tân giám mục trẻ mượn cơ hội này để giảng cho những người đồng hương một bài học. Mười điều răn là luật lệ và ý muốn của Thiên Chúa chứ không phải của loài người. Do đấy không thể thay đổi được. Buổi tiệc chúc mừng bỗng trở nên ngột ngạt và tuyệt vọng. Sau đó vị tân Giám mục bèn vội vã từ biệt dân làng ra đi.

Giống như vị tân giám mục, Chúa Giêsu về thăm gia đình và những người đồng hương ngay sau khi chịu phép rửa ở sông Giodan, nơi Thần khí ngự xuống trên Ngài và công khai tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa.

Giống như vị tân Giám Mục, đồng hương của Chúa Giêsu cũng đón tiếp Ngài với sự kinh ngạc và ca ngợi: “Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: Người này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4:22)

Giống như vị tân giám mục, đồng hương cũng mong chờ Ngài dùng quyền bính làm cho họ được hưởng những ân huệ đặc biệt, vì họ tự coi mình là dân riêng của Ngài.

Và sau cùng, giống như vị tân giám mục, Chúa Giêsu đã nói sự thật rằng Thiên Chúa không thiên vị một người nào, nhưng đối xử với toàn thể nhân loại như nhau. Nghe thế họ tuyệt vọng, quay ra chống đối Ngài, tìm cách xô Ngài xuống vực thẳm. Nhưng Ngài thoát khỏi họ mà đi. Vì: “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình” (Lc 4:24).

Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước nỗi tuyệt vọng của những người đồng hương, vì Ngài đã hiểu thấu đáo sứ mệnh tiên tri của ngài. Theo từ ngữ của Thánh Kinh, một tiên tri không chỉ là người nói trước việc tương lai sẽ xảy đến, nhưng tự bản chất, tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, là xướng ngôn viên của Thiên Chúa. Vì thế, ngôn ngữ của vị tiên tri được Thánh Kinh diễn tả theo khuôn mẫu như sau: “Do đó, Thiên Chúa phán…” Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả lời của Chua, cho dù được dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9:15-16). Các tiên tri phải nói lên sự thật (2Cr 11:10; 13,8). Mà sự thật thì mất lòng. Sự thật làm các ngài bị từ chối, bị bắt bớ, và khốn khổ! (Pl 1:29-30; 1Pr 4:12-14).

Chúa Giêsu phải nói cho những người đồng hương Do thái biết sự thật rằng đức tin, ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa được ban phát cho tất cả mọi người (Rm 1:16), gồm toàn thể nhân loại, chứ không riêng gì dân Do Thái, hay đồng hương. Sự cứu rỗi đã đến với toàn thể nhân loại, không phải chỉ giới hạn cho dân tộc được “tuyển chọn”. Óc địa phương, phe nhóm, chủng tộc, màu da… đều không phải là tiêu chuẩn của một Thiên Chúa yêu thương và công bằng.

Đối với Thiên Chúa, tiêu chuẩn để ban ơn cứu rỗi là đức tin và lòng sám hối.“Con người cần phải được mời gọi để tin và hoán cải” (Sacrosanctum Concilium đoạn 9), “Giáo hội phải tiến bước trên con đường của sám hối và đổi mới” (Lumen Gentium đoạn 171; GLCG #827,853). Bởi Chúa Kitô đã chết cho tất cả chúng ta là những người tội lỗi (Ga 3:14-16; Rm 5:8-10; Gaudium et Spes đoan 38).

Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó mà quỷ chờ lệnh cuả Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào đó bà đã làm để bầu cử cho bà trước tòa Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều; nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. “Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó,” thiên thần nói với Thiên Chúa. Thiên Chúa trả lời: “Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời”.

Thiên thần đưa cho bà cọng hành: “Nào, mau lên! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.” Và thiên thần bắt đầu kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng: “Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi!” “Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi!” Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa. Vị thiên thần bản mệnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi!

Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã nghe bản tuyên ngôn của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nagiaret. Phần đầu của bài giảng đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc. 4:21-30, Chúa Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài để chứng tỏ cho những người Do Thiếu thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những người dân ngoại. Để chứng minh, Người đã dùng câu chuyện của tiên tri Elia đang bị đói và người đàn bà góa đã giúp ông lại là một người dân ngoại xứ Xiđon. Thời tiên tri Êlisa, những người cùi Do Thái đã không được chữa lành, mà là một người cùi dân ngoại, Naaman, xứ Syria. Điều này đã làm cho họ giận dữ!

Dân chúng ngày nay cũng vẫn tự hào rằng họ tốt hơn những người khác. Dân tộc, quốc gia, cộng đoàn, gia đình, và bản thân mình là nhất! Nhìn vào các biểu tượng của lá cờ và huyền thoại của các quốc gia đủ biết rằng lòng tự ái dân tộc trong tâm tư của con người rất cao độ.

Các nhà đạo đức thường khuyên rằng lòng kính sợ Thiên Chúa chính là khởi điểm của sự khôn ngoan (Hc 1:14; Gn 1:7). Vì biết kính sợ Thiên Chúa tức là biết mình tội lỗi và cần đến ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.

Câu chuyện thần thoại Hy lạp cổ kể rằng ở bên ngoài thành phố Thebes có một quái vật gọi là Sphinx. Mọi người đi ngang con quái vật này phải trả lời một câu đố, nếu trả lời sai sẽ bị giết chết. Câu đố như sau: Con vật nào vào ban sáng bước đi bằng bốn chân, vào ban trưa, bước hai chân, và vào ban tối bước đi bằng ba chân? Nhiều người đã phải chết vì không trả lời được! Cuối cùng chỉ có Oedipus trả lời đúng câu hỏi này mà thôi. Đó là con người, khi còn nhỏ bò bằng hai tay và hai chân, khi trưởng thành bước đi bằng hai chân, và khi về già phải chống thêm cây gậy nữa mới bước đi được.

Thế hệ của chúng ta cũng đang đối diện với cùng một câu hỏi, trả lời được câu hỏi này hay không sẽ liên hệ tới sự sống còn của đời sống tâm linh. “Tôi là ai? Cuộc đời có nghĩa lý gì?” là câu hỏi rất quan trọng. Thái độ của chúng ta đối với chính chúng ta, sự liên hệ của chúng ta với tha nhân và Thiên Chúa, sự tham gia của chúng ta vào trong thế giới đều tùy thuộc vào câu trả lời này.

Vào những năm xảy ra chiến tranh tại Sarajevo, thủ đô Bosnia. Báo chí đã đăng tải câu chuyện sau đây của một anh phóng viên chiến trường. Trong khi đôi bên đang bắn nhau dữ dội, một em bé gái bị trúng đạn. Người đầy máu, em bước đi thất thểu dọc theo vệ đường nơi hai bên đang giao tranh. Trước khi anh phóng viên ra tay hành động, đã có một người đàn ông nhào ra ôm lấy em, và năn nỉ anh phóng viên lái xe đưa họ tới bệnh viện:

“Anh có xe không?” người đàn ông hỏi. “Anh làm ơn đưa chúng tôi đến bệnh viện ngay được không?” không do dự, anh phóng viên chiến trường vội vàng đưa họ lên xe ngồi ở băng ghế phía sau đưa tới bệnh viện. Sau đó vài phút, người đàn ông hối thúc: “Làm ơn chạy mau đi! Cháu vẫn còn sống!” Anh phóng viêng tăng ga, chạy mau hơn. Vài phút sau, người đàn ông lại hối thúc: “Chạy lẹ đi, làm ơn làm phúc mà! Cháu vẫn còn thở!” Anh phóng viên nhấn thêm ga, chạy mau hơn nữa. Tuy nhiên, sau đó, người đàn ông lại hối: “Làm ơn chạy lẹ nữa đi! Cháu vẫn còn ấm!”

Sau cùng, họ đã đậu xe ngay trước cửa bệnh viện. Nhưng em bé gái đã chết! Người đàn ông và anh phóng viên chiến trường cùng đi vào phòng vệ sinh để rửa những vết máu dính trên tay. Người đàn ông nói: “Và bây giờ đến phần khó khăn nhất đây!” “Chuyện gì vậy?” Anh Phóng viên hỏi. “Bây giờ tôi phải đi tìm người cha của em bé gái này để báo cho biết, con gái ông ấy đã chết!” Trong kinh ngạc anh phóng viên nói: “Tôi lại cứ tưởng ông là cha của em gái ấy! Và em gái là con của ông chứ!”

Tất cả chúng ta lại không phải là con cái của Thiên Chúa sao? (1Ga 3:1-2; Rm 8:16-17). Trong tình thương - sự nhân đạo và ơn cứu rỗi – tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương như nhau, không thiên vị (1Pr 1:17; Rm 2:11; Cv 10:34; Gl 2:6).

 

26. Thân phận ngôn sứ.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ)

Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những kẻ giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia phải giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.

Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: “Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?”. Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.

Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép Rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: “Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiareth sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?”. Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: “Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác”.

Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.

Bài mô tả của Thánh Luca về những khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiaret khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị “té cái bịch” xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh: “Trẻ nầy… là một dấu chỉ cho người ta chống đối” (Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như thế (x. Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiaret đã từng cố công tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!” y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài.

Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hòa tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Ngay nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.

Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh… biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.

Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội chúng ta đang sống.

Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:

“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước nhữn gánh quá nặng đè lên chúng con.

Xin giúp chúng con là muốn ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy”. Amen.

Nguồn:http://gplongxuyen.org