Chúa Nhật 03/01/2021 – Chúa Nhật CHÚA HIỂN LINH. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân. – Chúng tôi đến để triều bái Người.

Chúa Nhật 03/01/2021 – Chúa Nhật CHÚA HIỂN LINH. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân. – Chúng tôi đến để triều bái Người.

"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".

 

Lời Chúa: Mt 2, 1-12

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ.

Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người".

Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược.

Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

SUY NIỆM LỄ HIỂN LINH – Năm B

Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12

 

1. Ra đi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel.

Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác,

vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.

Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.

Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách,

các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu.

Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao

để báo hiệu Con Ngài chào đời.

Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó

để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.

Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài

bằng muôn vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.

Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao,

không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.

Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt:

khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?

Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm,

và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.

Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà,

ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến,

để đón tiếp cái bất ngờ.

Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh.

Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang,

mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.

Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường,

sống trong một căn nhà bình thường.

Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.

Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh,

nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.

Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ,

nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm,

tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.

Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu

đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực,

khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng...,

đang gắng công tu tập trong các tôn giáo,

hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn.

Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi.

Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.

Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.

Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi.

Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay.

Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.

Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra

và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa

nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.

Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư

tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa,

nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.

Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy,

nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?

Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

 

2. Ngôi sao dừng lại

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ.

Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17).

Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia

là chờ đợi một vì sao xuất hiện.

Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái

niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ

cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).

Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ.

Theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu,

cả dân ngoại cũng tin rằng

Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.

Phải chăng đó là lý do

khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi

đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương,

khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?

Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau

trước sự hạ sinh của Vua dân Do Thái.

Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay.

Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh của vị Vua mới

để âm mưu loại trừ một đối thủ.

Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem

lại có thái độ dửng dưng thụ động.

Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia,

nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem.

Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại,

đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm.

Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương.

Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc,

nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với cả lòng thành.

Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.

Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao.

Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa?

Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng.

Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng.

Chúng ta phải tìm hiểu xem

đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người.

Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;

Ánh sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.

Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ

cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao.

"Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng

như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).

Chúng ta chỉ là những vì sao sáng

khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19)

ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).

Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao:

ánh sao nói được điều gì đó với người đang chờ đợi,

ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường,

ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa

để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.

Gợi Ý Chia Sẻ

Những người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?

Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,

và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.

Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.

Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Xin cho chúng con có khả năng

đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,

của buồn phiền và thất vọng.

Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa

mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,

và biết vâng theo những soi sáng của Chúa

qua từng phút giây của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu,

cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối

vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.

Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,

nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,

để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

 

3. Ngôi sao dẫn đường

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại

theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi

Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay:

Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi?

Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng

thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết?

Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem?

Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không?

Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ.

Một ngôi sao như thế có thật không hay đây chỉ là một truyền thuyết?

Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này

theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái.

Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen.

Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ,

một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường.

Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta:

Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái,

Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.

Các nhà chiêm tinh là dân ngoại.

Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta.

Họ khao khát tìm ơn cứu độ.

Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ,

họ nghe thấy lời mời gọi lên đường.

Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả

và bước đi trong đêm tối.

Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác

ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ.

Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế.

Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng

vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem,

chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy.

Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào

mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi,

và tiến dâng lễ vật quý giá.

Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại

đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.

Không phải là ánh sao trên trời cao,

mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.

Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó,

và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm,

như các nhà chiêm tinh ngày xưa.

Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê,

sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ.

Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn,

đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh,

để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp được một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?

Thiên Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,

và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.

Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.

Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Xin cho chúng con có khả năng

đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,

của buồn phiền và thất vọng.

Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa

mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,

và biết vâng theo những soi sáng của Chúa

qua từng phút giây của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu,

cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối

vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.

Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,

nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,

để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

 

4. Hành trình tìm Chúa - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Các đạo sĩ là ai? Chắc các ông thuộc hàng vương giả của các miền Tarsi, Saba và Sêba ở phương Đông (Tv. 72, 10), vì các ông dám vào cung điện hỏi thẳng vua Hêrôđê: “Vua người Do thái sinh ra ở đâu?”. Nhưng các ông không phải là thứ hôn quân như Hêrôđê, mà là các bậc anh quân yêu nước thương dân như các vua Nghiêu, vua Thuấn. Có thể các ông là các nhà bác học như Thales, Pythago, Hypocrate đã lập ra các trường tu, vừa tập luyện đạo đức vừa nghiên cứu khoa học, thiên văn, y học. Nhưng hơn hết, các nhà đạo sĩ này là những người dầy công đi tìm chân lý.

Khi các ông chiêm ngắm các hành tinh vĩ đại vận chuyển lạ lùng trong vũ trụ và nghiên cứu muôn vật sinh sống kỳ diệu, các ông nhận ra rằng: phải có Đấng toàn năng vô cùng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật này.

Thêm vào đó các ông sưu tầm kinh điển cổ kim đông tây, các ông đã hiểu hết các thần tượng được tôn thờ ở Ba tư, Ả rập, Ai cập, La mã, Hy lạp, các ông nhận thấy thần nào cũng đầy tính mê nết xấu như loài người.

Nhưng tìm đến Kinh thánh của Do thái, các ông thấy đầy những sự lạ lùng tốt đẹp: từ Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật trong sách Sáng Thế, đến những việc Ngài tỏ cho lãnh tụ Môsê: Ta là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng sống đầy lòng thương xót đã giải phóng dân Do thái thoát ách thống khổ nô lệ Aicập. Các ông càng phấn khởi khi đọc sách tiên tri Isaia cho các ông biết Thiên Chúa sắp đến tỏ mình ra cho mọi xác phàm, các dân ngồi trong bóng tối sự chết sẽ nhìn thấy ánh sáng muôn thuở của Ngài “Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là cố vấn kỳ diệu, vua muôn thuở, Cha đời đời và là Hoàng tử thái bình vô tận”. Ngài thật là Đấng muôn dân đang trông đợi (Is. 7, 14 ; 9, 1-6 ; 40, 5. 10).

Sau bao nhiêu năm tháng sưu tầm học hỏi hòa nhịp với tâm tư suy nghĩ và cầu nguyện trông cậy, đột nhiên các ông thấy trên không trung xuất hiện một ngôi sao lạ đang từ từ tiến đến các ông. Các ông reo lên: “Thôi đúng rồi, một ngôi sao lạ mọc lên từ nhà Gia cóp, một vương trượng xuất hiện từ Israel” (Ds. 24, 17). Thế là các ông sung sướng hối hả lên đường theo ánh sao hướng dẫn. Các ông bỏ nhà, bỏ nước, bỏ mọi tiện nghi sang trọng, dấn thân đến miền xa lạ. Dù đường xa chông gai núi non hiểm trở, vực thẳm cheo leo, rừng hoang sa mạc, dù nóng bức thiêu đốt, dù phong ba bão táp, dù sương tuyết lạnh lùng, dù nguy hiểm tính mạng, không làm cho các ông sờn lòng nản chí, ánh sao là hy vọng vô tận của các ông rồi. Suốt cuộc lữ hành tìm Chúa, các ông luôn luôn nhìn lên ánh sao cầu nguyện để được can đảm, mạnh sức thắng vượt mọi gian khổ.

Khi tới Giêrusalem, ánh sao biến mất, các ông tưởng đã gặp được Đấng Cứu thế. Nhưng chưa, các ông phải đi tìm Ngài mọi nơi, mọi người, từ dân quê mùa đến hàng trí thức, từ kẻ tốt lành đến kẻ gian ác như Hêrôđê. Làm thế, Thiên Chúa muốn dẫn dắt các ông bằng mọi phương tiện đều có thể giúp các ông đến với Chúa, miễn là các ông vững tin Ngài. Nhờ đó, Ngài càng gia tăng sự vui mừng cho các ông. Chính trong lúc các ông băn khoăn, bối rối nhất, Thiên Chúa đã cho các ông được ơn gặp Hài Nhi Giêsu, Đấng cứu độ các ông. Các ông phục xuống kính bái Ngài: Một Hài Nhi thanh tú tuyệt vời như thuở con người mới được tạo dựng. Các ông cảm thấy gần gũi Ngài quá, lòng các ông ấm áp, trí các ông sáng suốt, ánh sáng thánh thiêng của dung nhan Ngài đang truyền sang toàn thân các ông, lửa yêu mến của Ngài đang cháy lên trong con tim rạo rực của các ông. Các ông dâng lên Ngài trọn vẹn hồn xác và toàn thể dân tộc các ông. Các ông ra về lòng chan chứa hân hoan trong âm vang du dương của muôn tiếng hát thiên thần:

“Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,

Bình An dưới thế cho người thiện tâm”

Những con người thiện tâm như Ba Vua đang đi khắp thế giới loan báo Tin mừng bình an cho muôn dân. Tin mừng bình an của Hài nhi Giáng Sinh đã đến với chúng ta. Tâm hồn chúng ta có trong sạch, có thiện tâm và sáng lên để đón mừng bình an của Chúa Cứu thế chưa?

Lạy Chúa, các đạo sĩ dù là dân ngoại, đã dầy công tìm Chúa và gặp được Chúa nơi hang đá và trong vinh quang muôn đời. Xin cho chúng con thành tâm thiện chí ra sức tìm Chúa trong cầu nguyện, trong lời Chúa, trong hy sinh và bác ái với mọi người, vì Chúa đã phán: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ cửa sẽ mở cho”.

Xin mở cửa cho chúng con được gặp Chúa trong bình an và chan chứa tin yêu.

 

5. Lễ vật lòng thành – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Các đạo sĩ là ai?

Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước ngươi” (Is. 60, 1-6).

Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ tìm Chúa làm gì? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa. Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết, qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua lương tâm trong sáng của lòng họ: “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm. Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể làm con Chúa.

Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời:

“Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).

Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn toàn không trái phép trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).

Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng: “Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên mười hai tuổi, Người cũng đã thưa với thân mẫu trần gian rằng: “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của Cha con đó” (Lc. 2, 49).

Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn hảo nhất mà ba vua đem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình: vàng, nhũ hương và mộc dược.

Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ, tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm nay và mãi mãi.

Nhũ hương: một thứ nhựa cây tầm thường, không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.

Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. Ba vua dâng lễ vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi bác ái, cứu giúp đồng bào.

Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi. Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn thâm trầm như hương thơm ngọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng lên Ngài chưa?

Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao? Xin cho con biết hiến dâng cho Người: một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.

 

6. Lương tâm là ngôi sao sáng

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Trong Sứ Điệp Hòa Bình thế giới đầu năm nay 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Trên thế giới ngày nay đến hơn 250 triệu người di dân, trong đó 22,5 triệu người là những người tị nạn, họ là những người nam và người nữ, trẻ em, thanh thiếu niên và những người già cả đang tìm kiếm một nơi để sống trong hoà bình. Để tìm được nơi ấy, nhiều người trong số họ sẵn sàng liều mạng dấn thân vào một hành trình mà đa phần vừa lâu dài vừa đầy nguy hiểm; họ sẵn sàng chịu đựng nhọc nhằn gian khổ, đối mặt với những hàng rào kẽm gai và những bức tường được dựng lên để ngăn không cho họ đến”. Tại sao có tình trạng này xảy ra? Đức Giáo Hoàng trả lời vì con người này nay đánh mất lương tâm trong sáng mà ngay từ đầu Thiên Chúa đặt để nơi con người. Một trong những sự trong sáng đó là tình huynh đệ, tình người.

Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Ba Vua. Ba vua cũng là các nhà chiêm tinh tìm đến bái thờ Chúa Giêsu mới sinh, Vua Trời xuống thế, nhờ thấy một vị sao sáng chiếu sáng trên bầu trời ở Phương Đông. Điều đáng chú ý ở đây là sự nhiệt tình, tích cực và kiên trì của Ba vua tìm cho được Chúa dù ánh sao lúc ẩn lúc hiện. Khi ánh sao sáng, họ đi theo ánh sao dẫn đường. Khi ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường nhưng họ vẫn hy vọng, không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Cho nên, khi không có ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han, đến tận vua nước này hỏi. Vua Hêrôđê không biết, triệu tập các thượng tế và kinh sư hỏi họ cũng không biết nhưng mở Thánh Kinh họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê". Thế là các đạo sĩ tìm thấy Chúa Giêsu.

Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi người Chúa dựng nên đều có lương tâm. Lương tâm giống như là tấm bản chỉ đường, là ánh sao trong đêm tối để con người phân biệt được ranh giới giữa thiện và ác. Lương tâm chính là đền thờ Chúa ngự và ở đó Chúa tỏ mình cho chúng ta để ta đi đến Thiên đàng bình an và hạnh phúc. Vâng, quả thế, con người ngay đầu đã có tâm thiện, “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính lương tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ. Vì vậy, con người có giá trị cao hơn mọi loài thụ tạo khác, và hơn nữa giá trị đó được đánh đổi bằng cái chết của Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người (Ep 1,3-7). Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn chúng ta rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Quả thật, người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình” (Lc 6,36-38.44), và “Hễ ‘có’ thì nói có; ‘không’ thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).

Trong cuộc sống, lương tâm của chúng ta bị điều kiện hóa bởi xã hội, có nghĩa rằng vì cuộc sống cơm áo gạo tiền cho nên tôi phải mua gian bán lận, ở trường ai ai gian lận trong học tập thi cử nên tôi cũng làm được hay là vì xã hội cho phá thai, bạo lực gia đình nên tôi làm theo mà lương tâm không thấy cắn rứt, đáng nguyền rủa và không cảm thấy đau lòng và xót xa khi tôi đã đánh hay đã giết người, người đó đâu ai xa lạ chính vợ con của mình, máu mủ của mình. Vì lương tâm bị điều kiện hóa nên lương tâm của chúng ta không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong thâm tâm của mình nữa, tại sao? Vì lương tâm của chúng ta đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng chúng ta đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt, hay chẳng cần nghe tiếng nói lương tâm, nói của Chúa hãy làm lành lánh dữ. Chính lúc ấy, ánh sao trong lương tâm không sáng lên, bị chai lì đi bởi vì nó bị bóng đêm tội lỗi che phủ.

Khi ánh sao lịm tắt, các đạo sĩ nhờ Thánh Kinh tìm đến Chúa Giêsu. Cũng vậy, Khi lương tâm của chúng ta lịm tắt thì hãy mở Thánh kinh, mở Lời Chúa ra mà đọc và sống Lời Ngài để ánh sao lương tâm ta bừng sáng lên các nhân đức thánh thiện. Cho nên người Kitô hữu không chỉ có lương tâm thiện mà có giáo huấn Tin Mừng giúp ta sống đời người thiện hảo, trong sáng và chân thật nhờ Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ làm nên sự sống, tâm hồn và mọi sự tốt đẹp cho chúng ta.

Vì vậy, là cha mẹ, là những người lớn phải có trách nhiệm với con cái, phải huấn luyện lương tâm con cái theo tinh thần Kitô giáo: (1) đừng dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt; (2) hãy làm cho người khác đều ta muốn người khác làm cho ta; (3) đừng xúc phạm đến thể xác và tinh thần người khác; (4) đừng làm gương mù gương xấu cho người khác. Như vậy, chỉ với lương tâm này, chúng ta mới sống đúng với phẩm giá con người và phẩm giá một người kitô hữu, xứng đáng là con cái Thiên Chúa, con cái của Sự Sáng. Cho nên, trong sứ điệp Hòa Bình thế giới năm nay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Vì tự bản chất, con người là hữu thể có tương quan, được an bài là phải đi tìm sự tròn đầy qua các tương quan liên vị, được gợi hứng bởi sự công bằng và tình yêu, nên việc nhân phẩm, tự do và tính tự trị được thừa nhận và tôn trọng, công bằng và tình yêu. Vì vậy, hãy để ánh sáng Lời Chúa vào lương tâm, chúng ta có thể xem tất cả mọi người “không còn là những nô lệ, di dân, kẻ thù… nhưng là anh chị em với nhau” (số 1).

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, các đạo sĩ nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn đã bước vào hang đá và thấy Hài Nhi, Đức Mẹ và Thánh Giuse, họ liền sấp mình thờ lạy Ngài. Chúng ta cũng hãy bắt chước các đạo sĩ: siêng năng học hỏi Thánh Kinh và sống Lời Chúa dạy để lương tâm chúng ta thật sự bừng lên ánh sáng: Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương; của niềm vui an bình, của can trường bất khuất hay của tha thứ sẻ chia... để “Trong Đức Ki-tô Giêsu và nhờ Tin Mừng của Ngài, anh chị em chưa biết CHÚA cùng thừa kế gia nghiệp với chúng ta, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6) như trong bài đọc 1 rằng: “Mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi”. Alleluia!

 

7. Gặp Chúa

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về thái độ của những nhân vật liên hệ.

Trước hết là các thượng tế và kinh sư. Khi được hỏi Đức Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách: Tại Bêlem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời. Sự hiểu biết của họ thật chính xác, nhưng mới chỉ là một sự hiểu biết hoàn toàn theo sách vở, cho nên đã không đủ mạnh để thúc đẩy họ đi vào hành động. Không một ai trong hõ đã nghĩ tới chuyện đến Bêlem xem lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm như thế nào?

Tiếp đến là thái độ của dân thành Giêrusalem. Trước nguồn tin một vị vua của họ mới chào đời, Đấng họ trông chờ và tin rằng sẽ đến để giải thoát họ, thay vì vui mững và chuẩn bị nhập cuộc, thì họ lại hoảng hốt như chính Hêrôđê, kẻ thống trị họ đã hoảng hốt. Họ đã quen với cuộc sống mà họ biết là sẽ phải chấm dứt, để bước sang một cuộc sống mới, nhưng khi thời cơ đến, họ lại e ngại, sợ hãi vì phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, bởi vì con đường giải thoát thực sự là một cuộc dấn thân và chỉ dành cho những ai biết chỗi dậy và lên đường.

Cuối cùng, chính các nhà đạo sĩ từ một phương trời xa lạ, không phải chỉ xa lạ về mặt địa dư, mà còn xa lạ cả về mặt tôn giáo và tín ngưỡng, lại gặp được Chúa, mà họ gọi là Vua dân Do Thái mới sinh ra, không phải tại Belem mà thôi, mà còn cả trong một thứ lòng tin nào đó. Ba nhà đạo sĩ được ngôi sao dẫn đến nơi Hài Nhi Giêsu ở, họ đã quì lạy Ngài và tiến dâng Ngài lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.

Câu chuyện thánh Matthêu kể lại và chúng ta vừa nghe, đã không chấm dứt với ba nhà đạo sĩ, với các thượng tế và kinh sư, với Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, mà còn được tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bởi vì người hôm qua là đạo sĩ, nghĩa là người ngoại đạo, thì hôm nay rất có thể đã trở thành những thượng tế, những kinh sư, những người thành Giêrusalem, nghĩa là những người trong nhà. Đồng thời cũng rất có thể xảy ra trường hợp những người trong nhà đã đánh mất khả năng nhận ra Đấng Cứu Thế và tiếp nhận Ngài, cũng như đã đánh mất khả năng nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài trong thế giời hôm nay.

Đúng thế, trong thế giới hôm nay cũng như hôm qua và mãi mãi về sau, không biết có bao nhiêu người bị xếp vào phía bên tả trong ngày phán xét, chỉ vì đã không cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm. Họ đã không nhận ra Thiên Chúa nơi những người anh em cùng khổ.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta hay chưa? Và như ba nhà đạo sĩ, chúng ta có biết dâng lên Chúa lễ vật là những sự trợ giúp chúng ta dành cho những người anh em bất hạnh hay chưa?

 

8. Đi theo ánh sao

Rất nhiều người đã tới nhà thờ trong đêm Giáng sinh, nhưng thử hỏi có mấy ai đã thực sự gặp gỡ Chúa như ba nhà đạo sĩ phương đông?

Chúa Giêsu không phải là người khó tính, đến như các trẻ mục đồng, thuộc hàng khố rách áo ôm, cũng có được một chỗ đứng bên máng cỏ. Nhưng rõ ràng là qua đoạn Tin Mừng chúng ta thấy được rằng sự kiện Chúa ra đời đã thực sự khuấy động khá nhiều người từ vua Hêrôđê, các thượng tế và luật sĩ, đến quần chúng nhân danh thành Giêrusalem và cả những nhà đạo sĩ xa xôi.

Tuy nhiên những người đã để cho sự kiện Chúa ra đời khuấy động tới cùng lại chỉ có ba nhà đạo sĩ vốn bị liệt vào hạng những kẻ ngoại, những người ở ngoài. Hêrôđê quả có đi tìm Chúa, nhưng là để thủ tiêu Ngài chứ không phải để gặp Người. Các thượng tế và các luật sĩ thuộc giới đền thờ, là những người có đầy đủ các điều kiện tạm gọi là khách quan rát thuận lợi để gặp Chúa. Họ là những nhà thông hiểu thần học và Thánh Kinh. Kẻ khác còn phải nhờ đến họ để biết được Người sinh ra ở đâu. Nhưng theo Tin Mừng thì xem ra họ không rời đền thờ nổi. Trong khi đó Chúa lại sinh ra nơi máng cỏ Bêlem. Làm sao họ có thể gặp được Người? Còn những người dân khác của kinh thành Giêrusalem thì lại hoảng hốt, thay vì vui mừng trước cái tin Đấng mình mong đợi đã sinh ra.

Và cuối cùng chỉ còn lại ba nhà đạo sĩ đã đến được bên máng cỏ cùng với những trẻ mục đồng. Các nhà đạo sĩ tới được với Chúa là vì các ông đã nhận ra dấu lạ, hay cái mới trong lúc các ông làm công việc thường ngày của mình. Các ông đã tìm hiểu ý nghĩa của cái mới và chân thành theo dõi, cho dù phải thực hiện một cuộc hành trình ngàn dặm với bao nhiêu là vất vả.

Ai gõ thì sẽ mở cho, ai tìm thì sẽ gặp. Đến nhà thờ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải có cả một cuộc hành trình tìm kiếm Chúa. Ngài mời gọi bằng những dấu chỉ của thời đại. Phải tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ ấy, hay đúng hơn, để biết được giữa muôn vàn sự kiện của cuộc sống thường ngày, giữa muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, sự kiện nào có giá trị của một ánh sao lạ, dẫn chúng ta đến với ơn cứu rỗi.

Chúa đến cho tất cả mọi người, thế nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy không phải tất cả mọi người đều đã được gặp Ngài.

 

9. Chúa Hiển Linh

(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Phương, CSsR)

Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo.

Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận Thiên Chúa là Đấng tối cao trong lòng họ.

Phần mình, người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua thiên nhiên diệu kỳ, qua dòng lịch sử nhân loại và tôn giáo, và nhất là qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.

I. QUA THIÊN NHIÊN

Thánh Mátthêu đề cập đến ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên qua hiện tượng ánh sao. "Chúng tôi thấy ngôi sao của Người xuất hiện" (Mt 2, 2).

Theo ánh sao chỉ dẫn, các nhà chiêm tinh đã lên đường tìm kiếm Đức Vua của dân Do Thái. Rất có thể, ba nhà chiêm tinh chưa hình dung ra ngôi vị Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giêsu. Có chăng, họ mới mường tượng về một vị vua mới ra đời và họ phải đến triều bái theo nghi thức ngoại giao. Nhưng dù sao, sự hiện diện của ba nhà chiêm tinh bên máng cỏ Bê-lem cũng đủ nói lên phép ứng cử ngay lành và thiện chí khát khao kiếm tìm chân lý và sự thật nơi các ngài.

Thiên Chúa đã dùng hiện tượng thiên nhiên (ánh sao), đã dùng ngôn ngữ, cách sử thế của con người (vị vua) để từng bước tiệm tiến mạc khải về Người cho nhân loại.

Đời người được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: ánh bình tỏa rạng báo hiệu một ngày mới, mặt trời lên chiếu sáng và mang lại hơi ấm, ánh trăng soi tạo cảnh sắc cho đêm, ngọn gió mát thổi đến mang lại hơi thở cho sự sống làm thanh thỏa lòng người, hạt mưa rơi làm phát sinh mầm sống mới...Tất cả những hiện tượng thiên nhiên ấy như đang nhắc nhở cho con người ý thức về bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.

Tiếc rằng, đang hưởng thụ hồng ân Chúa qua thiên nhiên nhưng không ít người lại tỏ ra vô ơn phủ nhận Thiên Chúa. Xem ra, những gì hưởng thụ miễn phí thì người lại không biết trân trọng nguồn gốc.

Mong sao, mỗi hiện tượng thiên nhiên đều là một câu hỏi để người ta tìm về cội nguồn sự sống. Xa hơn nữa, họ tìm về Đấng Tạo Hóa. Về điều này, người tín hữu phải nêu gương trước tiên với những khắc khoải gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể. Lịch sử là những ghi nhận diễn biến tôn giáo nơi con người.

II. LỊCH SỬ

Kể từ ngày thảm họa tội lỗi làm mất đi vẻ đẹp nguyên tuyền Thiên Chúa ban cho con người, dân Chúa rơi vào cảnh lầm than "bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân" (Is 60, 2).

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn dõi theo con người và không để họ rơi vào vô vọng. Khi tình thương đã đến đỉnh điểm, Thiên Chúa cho bừng lên ánh sáng, vinh quang của Người "như bình minh chiếu tỏa" (Is 60, 1) chiếu soi lòng người.

Ngày ấy, để gặp gỡ Thiên Chúa, dân Chúa đi về phía ánh sáng, vua chúa trần gian phải hướng về ánh bình minh (x Is 60, 3). Từ muôn nơi, con trai, con gái của Thiên Chúa quy tụ loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa, cùng làm nên một cộng đoàn dân thánh: mặt mày rạng rỡ, lòng dạ hớn hở tưng bừng...

Ánh sáng bừng lên, bình mình đã ló dạng, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người nhưng trong thực tế rất nhiều người vẫn còn thơ ơ lãnh đạm, thậm chí khước từ Người. Ước mong sao, người tín hữu cảm nhận được ánh sáng chúa đang chiếu soi tâm hồn của họ, cảm nhận được ánh bình minh của Chúa đang là những tia sáng hy vọng hướng dẫn cuộc đời họ, trở nên dấu chứng niềm tin cho nhân loại.

III. NGÔI LỜI NHẬP THỂ

Lịch sử cứu độ là cả một lịch sử khát khao Đấng Cứu Thế. Vậy mà Cứu Thế đã đến nhà mình nhưng người nhà không đón nhận (x.Ga 1,10-14). Sao thế?

- Sự cực đoan nơi con người: Khi nghe các nhà chiêm tinh nói về vị vua dân Do Thái ra đời, vua Hê-rô-đê đã cho triệu tập các kinh sư và các thượng tế để trao đổi. Về lý thuyết, tất cả họ đều biết rất rõ Vị Lãnh Tụ chăn dắt It-ra-en sẽ ra đời tại Bê-lem. Trong lòng tin, thì Vị Lãnh Tụ này không khớp kinh nghiệm của họ nên họ khó chấp nhận một sự tương phản. Bê-lem nhỏ bé không thể sánh với Giê-ru-sa-lem. Bê-lem không thể là nơi sinh ra của một vị vua được.

Sự tự phụ nơi con người: Về kiến thức tôn giáo, những kinh sư và những thượng tế là những người thông thái, là những bậc thầy trong dân Do Thái, nhưng về lòng tin thì xem ra họ mới chỉ biết một mớ lý thuyết chứ chưa hề biết về Thiên Chúa nhập thể làm người. Thế mới hay, sự duy lý đã khóa chặt con người trước mạc khải của Thiên Chúa: người có đạo chưa chắc đã có Chúa; người có Chúa rồi sẽ có đạo..

- Lòng gian ác: Thông tin về một vị vua Do Thái ra đời đã làm cho vua Hê-rô-đê run sợ về sự an nguy ngai vàng của ông. Từ đó, mọi sự tiếp đón của ông đối với những nhà chiêm chiêm tinh chỉ là trò giả hình, gài bẫy, mưu đồ giết hại Hài Nhi Giêsu; bằng chứng là sau đó ông đã hạ lệnh giết sách các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Rõ ràng lòng dạ độc ác của con người đã ngăn lối họ đến với Thiên Chúa.

Chúa đã đi vào trần gian và mang tên Giêsu nhưng sự cực đoan, tự phụ và lòng gian ác đã khép kín tâm hồn người ta, ngăn bước họ đến với Chúa. Thánh Phao-lô kinh nghiệm Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải mầu nhiệm: "Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người DoThái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Chúa hứa" (Ep 3, 5).

Như thế, nhờ Chúa Thánh Thần Thiên Chúa đã tỏ mình nơi Đức Kitô. Trong Đức Kitô, muôn dân được hiệp nhất. Ước mong người tìn hữu mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, xin Người dẫn đến Chúa Giêsu. Nơi Chúa Giêsu, tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày.

KẾT

Thiên Chúa đã đến trần gian và từng buớc tiệm tiến tỏ mình cho nhân loại qua lịch sử, qua thiên nhiên, nhất là qua Ngôi Lời Nhập Thể.

Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng đã tôn trọng sự tự do nơi con người và con người đã sử dụng tự do để thuận theo hoặc khước từ Người.

Cách riêng người tín hữu sẽ chọn lựa đi về phía ánh sáng để thờ lạy Chúa là chân lý và sự thật. Tin vui cứu độ phải được loan báo cho toàn dân.

 

10. Lễ vật dâng Chúa - Lm Phạm Quốc Hưng, CSsR

"Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược"

Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là "You can give without loving, but you can"t love without giving". Tạm dịch là "Bạn có thể cho mà không yêu, nhưng bạn không thể yêu mà không cho".

Mùa Giáng sinh là mùa chúng ta thấy rõ sự thật chứa đựng trong câu nói trên. Thật vậy, trong những ngày này người ta thường quan tâm đến việc mua sắm quà cáp tặng nhau. Các món quà tặng nhau có thể khác biệt từ những thứ đơn sơ như một lá thư, một cánh thiệp, một cú điện thoại chúc lễ, một phong bì với mấy tờ giấy bạc, một chiếc áo ấm, một chiếc quần tay hay đến những thứ mắc tiền như chiếc nhẫn kim cương, hoặc một chiếc xe mới. Giá trị vật chất của các món quà có thể khác nhau, nhưng mục đích của chúng thì giống nhau: chúng bày tỏ sự lưu tâm thương mến quý trọng của người cho dành cho người nhận.

Nếu việc trao tặng không phát xuất từ tình thương mà chỉ cốt để thỏa mãn các đòi hỏi của sự công bình, để cầu cạnh trục lợi hay dụ dỗ, thì người ta không gọi tặng phẩm là quà tặng nữa, nhưng là tiền công, là của hối lộ hay miếng mồi đặt bẩy.

Tương quan giữa Thiên Chúa và con người là tương quan yêu thương. Hơn nữa, Thiên Chúa chính là Tình Thương. Mọi việc Người làm cho nhân loại đều phát xuất từ tình thương vô biên của Người dành cho họ. Vì vậy, mọi sự con người đón nhận từ Thiên Chúa đều là những quà tặng tình thương và nhằm mục đích giúp chúng ta bước sâu hơn vào liên hệ yêu thương với Người.

Trong tất cả những quà tặng Thiên Chúa trao ban cho con người, Chúa Giêsu chính là món quà vượt trên tất cả. Ngài chính là món quà tự thân của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là Thiên Chúa đã trao ban chính mình Người cho nhân loại nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, như thánh Gioan viết: "Quả Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó) đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời" (Jn 3:16).

Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa nhất của lễ Giáng sinh.

Tình thương chỉ có thể đáp trả bằng tình thương. Nếu trong lễ Giáng sinh, chúng ta đã có dịp chiêm ngắm tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người nơi Chúa Hài Đồng, thì hôm nay - lễ Hiển linh - chúng ta có dịp học hỏi với ba nhà Đạo sĩ mà ta thường gọi là ba Vua về sự đáp trả của con người trước quà tặng tự thân của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và những lễ vật mà Thiên Chúa muốn đón nhận từ con người chúng ta.

Theo Tin mừng thánh Matthêô, lễ vật ba Đạo sĩ dâng lên Chúa là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là quý kim và là biểu tượng của hàng vương giả; nhũ hương là loại hương dùng trong việc thờ phượng Thiên Chúa và các bậc thần linh; và mộc dược là thước dùng trong việc tẩm liệm người chết.

Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.

Vàng, nhủ hương và mộc dược ở đây cho ta thấy địa vị siêu việt của Chúa Giêsu. Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu" của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1 Pet 2:9).

Qua việc mạc khải cho chúng ta biết những lễ vật ba Đạo sĩ - những người đại diện đầu tiên của Hội thánh - đã dâng tiến Chúa Hài đồng, Chúa muốn chúng ta cũng phải dâng tiến Chúa những lễ vật mà vàng, nhũ hương và mộc dược đã được chọn làm biểu tượng. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người vàng ròng là lòng mến yêu tuyệt đối dành cho Người qua việc sống trọn vẹn giới luật mến Chúa yêu người. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người nhũ hương của một đời sống được thấm nhuần bầu khí nguyện cầu mà đỉnh cao là hy lễ Thánh thể, khi chúng ta được nên một với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa một động tác yêu mến tôn thờ cao trọng nhất. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Chúa mộc dược của một sự bỏ mình liên lỉ qua những hy sinh to nhỏ trong cuộc sống hàng ngày như một sự nối dài của cái chết hy sinh trên thập tự của Chúa Giêsu, để qua đó chúng ta được chia xẻ vinh quang phục sinh của Người.

Với tinh thần yêu thương hiệp nhất, cầu nguyện và hy sinh, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên giống cuộc sống của chính Chúa Kitô và làm thành một lễ vật sống động đẹp lòng Chúa. Đây chính là điều thánh Phaolô từng kêu gọi các tín hữu tiên khởi phải nỗ lực thực hiện: "Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em. Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao cho anh em thẩm định được ý định Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo" (Rm 12:1-2).

Chúng ta còn phải học với ba Đạo sĩ cách thức dâng tiến lễ vật lên Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật rằng "Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng MariaMẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược" (Mt 2:11).

Khi ấy, Chúa Giêsu là một Hài Nhi mới sinh còn hoàn toàn tùy thuộc sự chăm sóc của Mẹ Maria. Chúa chưa thể tự mình đón nhận lễ của ba Đạo sĩ. Người muốn Mẹ Maria thay Người đón nhận lễ vật của các ông. Về phía ba Đạo sĩ, khi gặp Chúa Hài Nhi và phục bái Người thì các ông luôn gặp Chúa và phục bái Người bên cạnh Mẹ và có lẽ Chúa Hài Nhi đang ở trong vòng tay Mẹ. Chắc chắn lúc ấy các lễ vật của ba Đạo sĩ chỉ được Chúa đón nhận bằng một cách duy nhất: qua tay Mẹ Maria!

Đó là lý do tại sao các tín hữu đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại luôn noi gương ba Đạo sĩ và làm theo ý Chúa khi biết nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và để tận hiến cho Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ day chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa bằng tinh thần yêu thương bác ái, cầu nguyện và hy sinh, để xứng đáng với ơn gọi làm con Chúa, là Kitô hữu của mình. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết nhờ Mẹ để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và tận hiến cho Chúa, như gương ba Đạo sĩ năm xưa. Amen.

 

11. Ông vua thứ tư - Lm. Thu Băng, CRM

Trong cuốn "Những chuyện hay về Giáng Sinh - Les Contes de Noel" có thuật chuyện như sau: Theo Thánh Kinh, sau khi Chúa Giêsu Giáng Sinh, chỉ có ba vua đến thờ lạy và bái kiến Người. Nhưng theo tục truyền, có một ông vua thứ tư, khi thấy ánh sao cũng vội vã lên đường, đem theo nhiều của cải và 3 hạt ngọc quí để dâng tiến Chúa Hài Nhi.

Khi đi đàng, ngài gặp nhiều kẻ nghèo đói xin xỏ, ngài bỏ hết cả của cải đem phân phát cho người nghèo. Sau một tuần lễ, mọi của cải đã hết. Đến lúc lên đường, ngài gặp một ông già ăn xin đói khổ, rách rưới, ốm o gần chết bên lề đường tuyết lạnh. Ngài động lòng thương lấy ra một viên ngọc cho ông an ủi lúc tuổi già và trộm nghĩ: Còn hai viên ngọc nữa dâng Chúa cũng được.

Đến xế chiều ngày hôm sau, ngài lại gặp một đám cháy nhà. Người nhà khóc lóc om xòm vì mất của, nhà tan, bơ vơ không chốn nghỉ, các con đói khổ. Động lòng thương, ngài lấy ra viên ngọc thứ hai làm phúc cho qua cơn hoạn nạn. Thế là chỉ còn một viện, nhất định giữ để dâng kính Chúa.

Đến gần tới thành Jerusalem, ngài gặp một toán lính đang săn đuổi một cô gái. Cô lo sợ van xin chúng cũng không tha. Trong lúc khẩn cấp, ngài lại lấy nốt viên ngọc để chuộc cô gái và xin tụi lính tha cho cô. Và thế là hết chẳng còn gì dâng cho Chúa nữa.

Chiều tối mới tới hang Belem, nhìn vào thấy ba vua đang sửa soạn lễ vật dâng tiến Chúa. Ngài buồn bã ngậm ngùi và mắc cỡ không dám vào trong, bèn qùi xuống hang tối ngoài cửa, chắp tay kính thờ Chúa cách xa xa. Lòng thầm nguyện: "Lạy Chúa, con đã ráp tâm đến dâng Chúa 3 viên ngọc quí, nhưng vì cảnh khốn cùng trên đường, con đã đem cho hết họ rồi, nay con chả còn gì để dâng cho Chúa nữa. Con thật xấu hổ. Xin Chúa tha thứ cho con". Rồi ngài khóc lóc vì buồn.

Đức Mẹ nghe có tiếng động ngoài cửa, chạy ra coi, thấy vậy thì dắt ngài vào. Vào trong hang rồi ngài cũng không dám đứng ngang hàng ba vua, chỉ đứng đàng sau thập thò. Chúa giơ tay nhận lễ vật của ba vua, nhưng lại trườn người ra nắm tay và mìm cười với vị vua thứ tư, tỏ ý hài lòng.

Của lễ: Vàng, Nhũ hương, Mộc dược thật quí, nhưng của lễ do lòng bác ái từ thiện còn quí hơn. Khi đến hang đá với Ba Vua hôm nay, Chúng ta dâng Chúa lễ vật gì? Vàng, Nhũ hương hay Mộc dược? Dâng ba lời khuyên Phúc Âm: Đức Khiết Tịnh, Đức Vâng Lời, Đức Khó Nghèo và tinh thần bác ái? Dâng Đô la hay Chi phiếu, Của cải vật chất đời này hay tấm lòng bác ái vị tha của ông vua thứ tư mà Chúa ứ thích hơn cả? “Của lễ toàn thiêu, của lễ hiến dâng, Chúa chẳng ưng. Thì lạy Chúa với tấm lòng tan nát khiêm cung”.

Theo tiếng Hy Lạp thì chữ Epiphany có nghĩa là tỏ mình ra. Việc Chúa giáng trần là một biến cố quan trọng, bắt đầu một trang sử cứu độ, Ngài đã tỏ mình ra cho các người chăn chiên, đặc biệt Ngài tỏ mình cho ba nhà đạo sỹ từ Đông Phương mà người ta gọi là dân ngoại, những người có lòng thành thực đi tìm kiếm Chúa nhờ việc nghiên cứu các lời loan báo về Đấng Cứu Thế của các nhà Tiên Tri, nhờ việc sẵn sàng tìm kiếm sự thật đã được loan báo qua sách Thánh, mà các nhà Đạo Sỹ đã được ngôi sao lạ dẫn đường chỉ lối cho được gặp Thiên Chúa, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại.

 

12. Lễ vật của dân tộc

Cách đây 20 thế kỷ, một nhóm chiêm tinh rời bỏ xứ sở để bước theo một ngôi sao lạ. Họ nhận ra ngôi sao ấy, có lẽ do họ được ơn soi sáng và được biết trước. Vì thế, khi ngôi sao xuất hiện, họ liền ra đi vì lòng họ đang mong mỏi trông chờ. Quả thực, từ rất xa xưa, con người vẫn trông đợi một Đấng cứu tinh. Tội lỗi và đau khổ của kiếp người khiến cho những ai biết suy nghĩ đều cảm thấy bâng khuâng, như luyến tiếc một thiên đàng đã mất. Chính vì mong mỏi Đấng Cứu Thế, khao khát một thứ ánh sáng siêu việt và một thứ ơn huệ từ trên ban xuống, mà nhiều khi con người đã tự tạo ra cho riêng mình những vị cứu tinh.

Lòng mong mỏi ấy càng trở nên tha thiết hơn nơi dân Do Thái, dân được tuyển chọn để bảo tồn lời giao ước. Thế nhưng, con người không thể trở về với Thiên Chúa mà không có hoà giải, mà không có phần đóng góp của mình.

Thực vậy, nếu hoà giải là một cuộc trở về của con người, sau những năm tháng bất hiếu và chìm đắm trong tội lỗi, thì cái phần hy sinh ở chính bản thân lại càng cần thiết hơn nữa, đó là dứt khoát từ bỏ con người cũ. Như ba nhà đạo sĩ đã lên đường theo ánh sáng của ngôi sao lạ thế nào, thì chúng ta cũng vậy, tâm tình sám hối ăn năn chính là bước chân đầu tiên của chúng ta trên con đường trở về tìm gặp Thiên Chúa.

Đọc lại Phúc Âm chúng ta còn thấy, sau khi gặp gỡ Hài Nhi Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã dâng tiến những lễ vật, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, là những sản phẩm đặc biệt của quê hương mình. Chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ cá nhân chúng ta, đó là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời chúng ta cũng hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ đóng góp của dân tộc mình, để nhờ đó ơn cứu độ có thể đến cho mọi người trên quê hương đất nước. Vậy của lễ dân tộc là gì?

Trước hết đó là những lầm than của dân tộc từ xưa đến nay. Có khi dân tộc ta đã kiên nhẫn chịu đựng và đó là một hành vi tùng phục đối với Chúa, mở đường cho ta tìm thấy Chúa hôm nay. Có khi dân tộc ta chưa kiên nhẫn chịu đựng, chưa tham dự vào cùng khổ giá ấy, thì ta có thể thay mặt dân tộc để tùng phục Chúa, và để, ở cương vị con cái Chúa, dâng phần đóng góp thay cho dân tộc. Như thế, càng hoà mình trong những chuyển biến thăng trầm của dân tộc, ta lại càng có thể đồng công cứu chuộc dân tộc nhiều hơn. Càng hoà mình với những người nghèo túng và bị hất hủi, ta lại càng góp được phần nhiều hơn vào của lễ của dân tộc. Của lễ dân tộc còn là những tinh tuý, những giá trị văn hoá và luân lý, đó là những cố gắng trong tối tăm của cha ông từ hàng ngàn vạn năm đã vươn mình về phía Chúa. Của lễ ấy phần nào đang hiện diện nơi ta, bởi lẽ rằng, cũng như một người càng thông thái bao nhiêu, thì khi tòng giáo rồi, họ càng dễ sống đạo sâu xa bấy nhiêu.

Như thế, ta sẽ đưa những cố gắng của cha ông thuở trước tới đích nơi ta, để những cố gắng này trở thành một của lễ ba vua, của lễ đóng góp của dân tộc nhỏ bé chúng ta.

 

13. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh

Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hài Nhi GiêSu đã tỏ mình ra cho các mục đồng, đại diện cho dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa. Người còn tỏ mình ra cho Các Đạo Sĩ Phương Đông, đại diện cho lương dân, qua ánh sao lạ. Các Đạo Sĩ này là những người thành tâm, thiện chí, họ khao khát đi tìm ý nghĩa của ánh sao lạ ấy.... Khi đã gặp được Hài Nhi, họ dâng lễ vật cho Ngài.

Trước đó bảy thế kỷ, Isaia đã hé mở cho dân Chúa thấy ý nghĩa lớn lao ngang qua sự xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa “Hãy bừng lên, hãy tỏa sáng ra hỡi Giêrusalem. Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân”. Điều Isaia loan báo, đã không chỉ làm nức lòng những trái tim héo úa, làm phấn khởi những ngón tay rã rời. Khơi lên niềm hy vọng lón lao cho dân, mở ra con đường trở về cho dân ngoại. Chính trong bối cảnh đó, Thiên Chúa đã nhìn đến con người, và Ngài đã sai Con của Ngài sinh bởi người nữ. Ngài đang tỏa sáng trên dân Ngài, nhưng không phải chỉ riêng cho người Do Thái mà là cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.

Thật vậy, hôm nay bằng ánh sao lạ, Ngài đã chỉ cho các đạo Sĩ của Phương Đông, trông lên trời cao và tìm đến để thờ lạy vị Vua Cứu Tinh vừa mới giáng sinh. Vượt lên trên mọi tính toán, mọi khó khăn, mọi nguy hiểm, mọi vất vả, các đạo sĩ đã vội vã lên đường. Bằng tấm lòng chân thành khát khao tìm chân lý và ánh sáng, các đạo sĩ đã chấp nhận dấn thân vào cuộc phiêu lưu, mang trong mình hành trang là niềm tin để bước theo ánh sao lạ. Tuy nhiên, cũng không thiếu giây phút mà ngay cả một chút ánh sáng của niềm tin cũng vụt tắt để nhường lại cho những mò mẫm của đêm tối tăm. Cho dù găp phải hoàn cảnh bất lợi như thế, ba đạo sĩ không thất vọng, không chán nản bỏ cuộc, trái lại bằng tất cả sự nổ lực, các ngài đã tìm đấn với Vua Hêrôdê, để khơi thêm ánh sáng cho niềm tin đã sắp tắt lịm. Quả thật, Thiên Chúa không để cho những kẻ tìm kiếm Ngài phải hổ ngươi thất vọng. Đáp lại tấm lòng của họ, Thiên Chúa đã tỏ mình, hiển linh trước mặt họ trong thân phận của một Hài Nhi, hiền hòa trong trắng nằm trong máng cỏ. Sự kiên trì, chân thành tìm kiếm của họ nay đã được toại nguyện. Với tất cả sự thành kính, họ đã dâng lên Hài Nhi Giêsu: Vàng, Nhũ hương, Mộc Dược..tượng trưng cho lòng tin, cậy, mến yêu của mình. Đáp lại lòng thành kính và những lễ vật của họ, Ngài đã ban tặng họ niềm vui, sự an bình,..và mở ra cho họ con đường mới, một lối đi của tình thương và hạnh phúc, không còn âm mưu và nguy hiểm.

Còn Hêrôđê và Giêrusalem khi nghe biết về ánh sao lạ mà các nhà đạo sĩ cho biết thì đâm ra lo lắng, hoang mang, bối rối,...Họ chỉ lo cho cuộc sống trước mắt, cơm áo gạo tiền.Danh vọng và quyền uy đã chiếm hết trong cuộc sống của họ. Sự ảnh hưởng, quyền lợi ích kỷ...đã làm cho mắt họ không còn nhìn thấy ánh sao lạ, lòng họ không còn trong sáng đủ để khám phá ra tiếng Chúa đang hối thúc, và không còn sự khát khao đi tìm kiếm chân lý...Cuộc sống của họ đang “ngon cơm ngọt canh” mà bổng dưng Vị Vua mới lại xuất hiện...Có thể Ngài sẽ phá vỡ nồi cơm hay chăng? Và Ngài sẽ làm họ mất ảnh hưởng, cùng đi theo là mất luôn những quyền lợi trần thế...Do đó, họ phải hoảng sợ và lo lắng.

Khi đặt mình trước bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy mình đang được Chúa tỏ mình ra qua các dấu chỉ và các biến cố xảy đến hằng ngày. Vậy ta lấy mắt đức tin để nhìn ra các ánh sao mà Chúa đang gởi đến: Lời Chúa, Giáo Huấn của Giáo Hội, các Bí Tích, qua lương tâm, qua các biến cố trong cuộc sống, để giống như các đạo sĩ, ta quảng đại dấn thân, quên mình không ngại khó, kiên trì và nhẫn nại đáp lại lời mời gọi của Chúa.

Ngôi sao đã vụt tắt khi các đạo sĩ dừng chân tại Giêrusalem. Trong cuộc sống, tiền bạc, quyền lực khôn ngoan, … không phải là chỗ dựa vững chắc để ta tìm gặp Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy giúp ta dứt mình ra khỏi những níu kéo của tiển bạc vật chất, mà ngược lại ta phải bám chắc vào Lời Chúa để làm hành trang tìm kiếm Chúa cho cuộc đời mình.

Gặp được Chúa, Các đạo sĩ đã được đổi mới. Mỗi lần gặp Chúa, phải được đánh dấu bằng cuộc đổi mới. Nếu ta thành tâm thiện chí, khao khát muốn gặp Chúa, thì Chúa sẽ có cách tỏ mình ra, Ngài sẽ thánh hóa, thăng tiến và biến đổi con người chúng ta nên tốt hơn, thánh thiện hơn.

Xin cho chúng ta biết lấy đức tin để nhìn ra ánh sao Lời Chúa, dâng lên Chúa tấm lòng yêu mến chân thành, những nổ lực, hy sinh,...từ bỏ con đường cũ để theo ánh sáng Chúa, ta đến với Chúa để đón nhận niềm vui, bình an và hạnh phúc của Chúa.

 

14. Mầu nhiệm ánh sáng

(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)

1/ Lễ Hiển Linh là lễ Ánh Sáng. Mầu nhiệm Ánh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi: "Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2.31)

Ngôi sao Đông Phương hướng dẫn các Đạo Sĩ đến thờ lạy Chúa, đó là biểu tượng nói lên Hài Nhi Giêsu chính là Anh Sáng đã đến thế gian, như lời Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã tiên báo:"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi."(Is 60.1) Nhưng Chúa Giêsu còn là Anh Sáng soi chiếu cho hết mọi dân tộc như lời cụ Simêon đã nói về hài nhi Giêsu "là Anh Sáng soi đường cho dân ngoaị, là vinh quang của Israel dân Người ".(Lc 12.32)

2/ Nhưng thử hỏi: Chúa Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian, vậy tất cả những người thời bấy giờ có tiếp nhận Ngài không? Ta chỉ thấy ngoài Mẹ Maria, Thánh Giuse, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ là những người đại diện cho dân tộc Israel và cho các dân trên mọi nước tiếp nhận Đức Giêsu. Còn hầu hết thì còn chưa tiếp nhận Ngài hay không nhìn nhận Chúa Cứu Thế là Anh Sáng. Vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:" Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng đón nhận",(Ga 1. 11) vì " người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ xấu xa". (Ga3.19) Một khi con người khước từ Đức Giêsu thì con người sẽ chìm đắm trong đêm tối. Vì Chúa nói:"Ta là ánh sáng trần gian, để bất cứ ai tin vào Ta, thì không ở lại trong bóng tối."(Ga12.46)

3/ Khi con người đang sống trong một Thế giới đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển: phát triển trí tuệ; phát triển kinh tế; phát triển mối tương quan đại đồng giữa các quốc gia với nhau; phát triển những lối sống văn minh hiện đại..... Vậy nhìn vào thế giới hiện tại hôm nay, ai dám nghĩ rằng đó là một thế giới hoàn hảo? Chắc hẳn là không. Vì sau những vẻ hào nhoáng của Thế giới mau qua này, thì lại xuất hiện mảng bóng đêm tăm tối đang lan tràn vào thế giới như: sự thù hận và tìm cách hạ bệ lẫn nhau giữa người với người mỗi ngày thêm gia tăng; sự chia rẽ trong hôn nhân được báo động tới mức trầm trọng; nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng và khủng khiếp; mại dâm ma tuý bị coi như đó là chuyện bình thường, tệ nạn này đang lan tràn đến những miền quê và nông thôn; đời sống công bằng và bác ái càng ngày càng mất dần trong cộng đoàn, xem đồng tiền, xem của cải hơn là phẩm giá của một con người. Nói chung, Thế giới hôm nay đang đạt tới tầm vóc của sự phát triển, thì đời sống tâm linh và nhân bản của rất nhiều người cũng bị rơi vào tình trạng đen tối và bị huỷ hoại. Một khi sự sống của con người đang bị chết dần bởi hành vi đen tối của họ, thì đó cũng là lúc vinh quang của Thiên Chúa đang bị mọi người chà đạp và loại trừ ra khỏi đời sống họ. Vì "Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống".(Irênê) Mà một khi đánh mất vinh quang của Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình, thì cuộc sống của con người sẽ là bộ xương khô, cuộc sống sẽ giả tạo. Sống giả tạo thì đời sống làm gì có ý nghiã, làm sao họ có thể đạt được mục đích cuối cùng của kiếp người.

4/ Vì thế, trong khung cảnh của ngày lễ Hiển Linh, lễ Anh Sáng, là người Công Giáo chúng ta hãy ý thức lại sứ mạng của mình. Sứ mạng của chúng ta là phải trở nên" Anh sánh cho trần gian",(Mt 5.14) và Anh Sáng của chúng ta phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp của chúng ta làm, mà tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời.(x,Mt 5.16) Vậy việc làm tốt đẹp của chúng ta đó là việc gì? Trước hết, chúng ta "hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thịên".(Mt 5.48) Sống hoàn thiện như Thiên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải trở nên sứ giả gieo rắc "nền văn minh tình thương", "nền văn minh sự sống" trong môi trường chúng ta đang sống. Đây là lời mời gọi mang tính tổng quát, nhưng khi chúng ta khám phá và sống một trong những điều tổng quát này, thì đời sống chúng ta sẽ trở thành ngọn đèn soi sáng cho những ai đang lần bước trong đêm tối.

Xin Mẹ Maria là Ngôi Sao Mai, giúp cho đời sống chúng con cũng trở thành ánh sao sáng trong việc sống đạo hôm nay. Amen.

 

15. Ngôi Sao Giáng Sinh

Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?

Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.

Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?

Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt, nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.

Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu, bậnh tật khổ đau.

Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.

 

16. Ai chuộng bóng tối hơn ánh sáng?

Giữa biển trần gian mịt mù sóng gió, những người có thiện chí vẫn khát mong tìm về bến bình an. Thật ra, bến đỗ cuộc đời toạ lạc nơi đâu? Có phải là nơi cái chết do bệnh tật và tuổi già? Những người không biết Chúa, không tin có đời sau vẫn nghĩ như vậy và họ cảm thấy cuộc đời là vô vị, là tuyệt vọng. Nếu chỉ có đời này thì người ta lao vào tìm kiếm những gì? Phải chăng là tiền bạc, địa vị và lạc thú chóng qua, để rồi khi chết thì ai cũng như ai!

Xem ra, không có mấy người phủ nhận hoàn toàn đời sau, chỉ là không muốn để thời giờ tìm hiểu cho cặn kẽ thôi. Nhiều người chủ trương sống tự tiện, buông thả theo thói đời và lấy sự hơn thua vật chất làm tiêu chuẩn cho cuộc đời mình.

Nói như vậy thì những người không biết Chúa có phải là lỗi của họ chăng? Có thể nhưng không hẳn là như vậy. Một phần do hoàn cảnh, một phần do thành kiến. Có người lý luận theo vòng lẩn quẩn: cha mẹ tôi theo Hồi giáo, tôi tuy thấy đạo Kitô giáo hay hay nhưng vì cha mẹ tôi không giữ đạo này nên tôi cũng vậy. Họ không có sự bứt phá, không muốn tìm hiểu thêm.

Thế nhưng, giới trẻ ngày nay rất thích khẳng định mình, muốn vượt qua ranh giới thuần phong mỹ tục. Họ cho rằng cha mẹ không hợp thời, họ không chấp nhận kiểu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó như ngày xưa, họ thích sống tự do với bạn bè, thích nhạc rap, nhạc hip- hop, thích sống thử... Những điều này làm các phụ huynh phải đau đầu, thấy mình bất lực khi con cái mình trở thành những con thiêu thân đi vào chỗ chết, đánh mất lễ nghĩa gia phong, đạo đức của cha ông.

Giới trẻ và loài người ngày nay muốn tìm cái mới lạ và tự do theo ý mình. Họ muốn tìm một cuộc sống riêng tư, theo ý riêng và họ nghĩ như vậy mới là hạnh phúc, sung sướng. Nhưng nhiều nhà đạo đức thấy rằng: nhiều người trong thế hệ này lầm lạc. Nếu như giới trẻ muốn tự do vì cần tìm hiểu nghiên cứu để phát minh những cái hay cái tốt thì đáng hoan nghênh. Nhưng vẫn có rất nhiều người chạy theo trào lưu phóng túng chỉ vì để cho giống bạn mình! Họ không biết tại sao. Họ cũng không cần biết đến mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Họ chỉ theo phong trào ai làm sao tôi làm vậy, không có lập trường của riêng mình, không có định hướng riêng.

Thật ra, giữa thế gian nhiều hỗn độn này, bao nhiêu bóng tối bủa vây, bóng tối của hận thù, chiến tranh xuất phát từ sự ích kỷ của con người, bong tối của đam mê tiền bạc hay dục vọng ươn hèn. Giữa thế gian đầy bong tối đó, người Kitô hữu hãy trở nên ánh sáng soi lối cho tha nhân. Tuy chúng ta không toả ánh sáng như mặt trời nhưng có thể là ngọn nến trong gia đình và làng xóm của mình, chúng ta hãy phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa qua những hành động yêu thương, vị tha, hy sinh, giúp cho đời bớt khổ, cho những ai thành tâm tìm Chúa được gặp thấy Ngài nhờ ánh sáng đức tin của chúng ta.

Ước chi thế nhân hôm nay năng biết hướng lòng lên cao để nhận ra ánh sao Chúa ban và tìm đến thờ lạy Con Thiên Chúa.

Ước chi đừng ai giống Hêrôđê chỉ biết đến bản thân mình, chỉ biết thu vén cho mình. Ông ở gần Bêlem mà không tìm hiểu về Chúa, chỉ muốn hiểu Kinh Thánh theo kiểu trần gian nên đã tàn sát các con trẻ ở Bêlem.

Ước chi chúng ta biết bắt chước Ba Vua lên đường, ra khỏi sự ích kỷ và thành kiến của mình để nhận ra Chúa đang hiện diện trong Hội Thánh Công giáo, trong những người nghèo hèn bé mọn đang cần sự giúp đỡ. Ước chi toàn thể nhân loại trên thế giới này biết có đời sau, nhận ra sự chóng qua và bất toàn của đời này. Phải chi loài người thức tỉnh, nhận biết giới hạn của đời mình và tìm đến hạnh phúc chân thật mà Chúa đã hứa ban cho nhân loại.

SỰ SÁNG là Chúa Giêsu Kitô đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng(x. Ga 3, 19). Xin Chúa cho chúng con đừng chạy theo thế gian nhưng biết chọn Chúa là nguồn hạnh phúc cho đời mình.

 

17. Gặp gỡ Chúa

Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.

Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.

Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.

Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.

Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.

Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?

 

18. Thiên Chúa tỏ mình

Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.

Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.

Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?

Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?

 

19. Hiển Linh - Marcellino D'Ambrosio

(GB. Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ)

Lúc bấy giờ, tất cả cũng đều khá khiêm tốn, một xe lừa đến một thành phố bụi bặm phía nam Giêrusalem. Tất cả các phòng khách sạn đã được đặt trước. Sinh con trong một chuồng ngựa và đặt nằm trong một máng ăn gia súc thay vì một cái nôi ấm áp.

Trong cảnh nghèo nàn ít ai biết đến này đột nhiên xuất hiện một đoàn tùy tùng kỳ lạ từ một nơi xa xôi. Những kẻ sang trọng trong lễ phục tặng cho hài nhi mới sinh những món quà đắt giá mà dường như không có ở những nơi tầm thường này.

Biến cố này có ý nghĩa đến mức nó được nhìn nhận như một ngày lễ trong phụng vụ Rôma, được cử hành một cách truyền thống vào ngày 6 tháng Giêng ngay sau ngày thứ 12 từ lễ Giáng Sinh. Lễ trọng này được gọi là Lễ Hiển Linh [Epiphany], có nghĩa là “tỏ mình” hay "tỏ hiện".

Một em bé cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nghèo khổ, xem ra không hơn gì những đứa trẻ khác, nhưng "hóa ra" Ngài thật sự là Vua muôn vua, Chúa các chúa. Món quà Ngài nhận, được tiên báo trong sách Isaia 60,6 qua câu chuyện: vàng tương xứng với một vị vua, nhũ hương dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa và mộc dược – cay đắng nhưng quý giá – dành cho vị anh hùng hi sinh mạng sống mình vì dân.

Có một vài điều quan trọng đáng chú ý về những vị khách danh giá này. Họ là những dân ngoại, không phải người Do Thái. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống nhân loại, rõ ràng Chúa Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia của người Do Thái, Đấng đến để giải thoát dân Israel khỏi ách ngoại bang. Không, Người còn là vua vũ trụ, Đấng thống trị tất cả, Đấng đã đến để phá hủy bức tường hận thù chia cắt giữa người Do Thái với dân ngoại, nước này với nước kia.

Nếu bạn đã từng tự hỏi “Công Giáo” có nghĩa là gì, thì đây là nghĩa của nó. Được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa “theo tất cả”, nó có nghĩa rằng Chúa Kitô không đến để thiết lập một giáo phái địa phương nào đó cho số ít người được tuyển chọn, một lối “thờ cúng” giữa nhiều lối khác nhau. Không, Ngài thành lập Giáo Hội là “Công Giáo” hay phổ quát, lan rộng khắp trần gian, đón nhận toàn thể nhân loại thành một nước, một gia đình, dưới một vị vua.

Vài điều nữa về những vị khách nổi tiếng này. Không phải là người Do Thái, họ là người ngoại giáo. Trên thực tế, thuật ngữ “Magi” rõ ràng liên quan đến “ma thuật”. Nó không có trong Kinh Thánh nơi mà bình thường họ tìm kiếm sự thông thái (nếu không thì họ đã biết đường thẳng tới Bêlem rồi). Nhưng, trong phần thưởng dành cho sự hăng hái của họ, dẫu cho có sai lạc trong việc tìm kiếm chân lý, dù sao đi nữa Thiên Chúa đã dẫn họ đến với Chúa Kitô bằng lòng thương xót bao la của Ngài.

Kể từ thời Balaam, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta biết rằng dân ngoại có thể được đến gần Ngài một cách huyền nhiệm và được Ngài dùng, thậm chí qua những truyền thống khôn ngoan bất toàn của chính họ. Nếu bạn đến nhà nguyện Sistine và nghiên cứu tác phẩm của Michelangelo bạn có thể thấy bằng chứng về điều này. Hàng trên cùng của một bức tường của nhà nguyện là những bức tranh nổi tiếng về các ngôn sứ thời Cựu Ước. Đối diện với những bức tranh này không phải là hình các tông đồ thời Tân Ước như người ta mong đợi. Nhưng đúng hơn là, một dãy các bà đồng bà cốt, những nữ ngôn sứ thời xưa, mà trong những lời sấm của họ có nhiều lời ám chỉ không rõ ràng được khám phá về một vua cứu thế trong tương lai. Một trong các nữ ngôn sứ của Michelangelo miệng há hốc vì kinh ngạc, mắt nhìn chăm chăm vào bức họa Chúa Giêsu phục sinh nằm phía sau nhà nguyện. Quả thật, những khao khát sâu thẳm nhất của tất cả các dân tộc, những yếu tố của chân lý được tìm thấy trong tất cả các tôn giáo và triết lý của họ đều được thực hiện trong Chúa Kitô.

Có phải điều này có nghĩa là tất cả các tôn giáo đều như nhau và chúng ta không nên áp đặt ý tưởng của mình lên người khác không? Không phải tất cả. Thánh Giustinô nói rằng có “nhiều hạt giống Lời Chúa” nằm rải rác ở khắp thế giới. Nhưng những hạt giống đều được nhắm tới việc nảy mầm, phát triển và sinh hoa kết quả. Nghe Tin Mừng đầy đủ và dự phần vào tất cả những phương tiện của ân sủng nói chung thì cần thiết để làm cho điều đó xảy ra. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền đến với sự tràn đầy Công Giáo này. Và đó là bổn phận của chúng ta để chia sẻ nó. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đúng khi nói rằng: “Những người khác có thể có khả năng được cứu độ mà không cần lắng nghe Tin Mừng, nhưng liệu chúng ta có thể được cứu độ nếu chúng ta sao lãng việc rao giảng Tin Mừng không?”.

 

20. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.

Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

 

21. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”

Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.

Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:

- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.

Anh liền đáp lại:

- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.

Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.

Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gian nan thử thách.

Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên dường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất, họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức Tin, con đường của họ là con đường thánh giá.

Để giữ vững Đức Tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng Giám Mục Fulton Sheen khẳng định: “Để trắc nghiệm Đức Tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không pải lúc đời lên hương, thuận buồn xuôi gió”.

Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao sau khi lạc mất, người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.

Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:

- Một câu kinh thánh đánh động lòng ta.

- Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.

- Một lời khuyên nhắc nhớ chân tình.

- Một gương sáng làm ta xúc động.

Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:

“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng,

Thì hãy là ánh lửa non cao.

Nếu không thể là ánh lửa non cao,

Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 có viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.

***

Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.

Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng và lan tỏa khắp thế giới. Amen.

 

22. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Theo một cổ truyền mà Thánh Giustinô thế kỷ thứ II đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Mẹ Maria đem Chúa lên Giêrusalem dâng cho Thiên Chúa. Theo Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh. Trong khoảng thời gian đó đã xảy ra nhiều việc quan hệ. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính ở đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.

Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.

Việc các Đạo Sĩ đên tôn thờ Chúa Giêsu đã mau được nhìn nhận như là việc làm cho trọn những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Trong sách Tiên Tri Isaia có viết như sau: "Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.

Các thượng tế tại Giê-ru-sa-lem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô "(Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.

Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng phải được mở ra để tìm kiếm sự thật đôi khi do dự, dao động hoặc biến thái, mà vẫn còn là trung tâm của nhân loại, và phản ánh những mong muốn của cuộc sống về hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho.

Trong bối cảnh cử hành Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tưởng nhớ, và vui mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Thiên Chúa. Năm Đức Tin là cơ hội để chúng ta tự hỏi: chúng ta làm gì với những gì chúng ta đã nhận được, những điều chúng ta tin? Chúng ta đã, đang và sẽ làm điều gì trong Năm Đức Tin?

Là những người đã chịu Phép Rửa tội, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa sứ mạng, và khả năng để làm chứng nhân cho đức tin trong mọi tình huống của cuộc sống, như trong gia đình, khi gặp gỡ bè bạn, nơi công xưởng, xí nghiệp, nơi học đường, tóm lại là ở bất cứ nơi nào người Kitô hữu có mặt. Chúa Giêsu đã mở cánh tay của mình ra chào đón dân ngoại. Là Kitô hữu, chúng ta tự hỏi: làm thế nào con người thời nay có thể tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống? Làm thế nào để con người ngày hôm nay yên mến tha nhân, và sẵn sàng giúp giúp đỡ anh em? Đó là nhiệm vụ của chúng ta.

Giáo Hội của Chúa Kitô là kết quả của một câu chuyện tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài là Giao Ước Mới. Nơi Giáo hội của Ngài, con người có thể đặt câu hỏi, tìm câu trả lời, và dần dần khám phá ra Hài Nhi năm trong máng cỏ, là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, là Thiên Chúa Cứu Độ.

Năm Đức Tin mời gọi chúng ta: "Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa! Hãy để cho Chúa Kitô chạm đến chúng ta! Hãy mở ra những cánh cửa, để đón nhận tình thương nhân từ của Thiên Chúa! Hãy trình bày cho Chúa Kitô những niềm vui cũng như những nổi buồn của chúng ta! Hãy để cho ánh sáng của Chúa soi sáng trí khôn chúng ta bằng ánh sáng của Người, và chạm đến tâm hồn chúng ta bằng ân sũng của Chúa".

Trong tinh thần này, chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng cho muôn dân trên khắp địa cầu được ơn Đức tin, để họ tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa Cứu Độ duy nhất. Chúng ta cũng cầu cho sự hiệp nhất trọn vẹn của tất cả mọi người tin vào Đức Kitô, ngõ hầu chứng tá của họ trở nên chất men hiệp thông cho toàn thế giới. Xin Mẹ Maria Rất Thánh, Mẹ của Chúa Kitô và là Mẹ của Giáo Hội nguyện giúp cầu thay.

 

23. Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

“Họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11)

Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa không những chỉ xuống thế làm người trên mặt đất này, mà còn để cho con người nhìn thấy ; Người không chỉ có sinh ra, nhưng còn để con người biết đến và thờ lạy. Đây là sự thật nhãn tiền được biểu lộ trong ngày lễ Hiển Linh, ngày Chúa tỏ mình ra cách rõ nhất mà hôm nay chúng ta mừng kính.

Hôm nay, các đạo sĩ từ phương Đông đến tìm, họ tìm ai? Tìm “sự lóe rạng mặt trời đức nghĩa” (Ml 3, 20) như Malaki đã loan báo, tìm Đấng mà chúng ta đọc thấy trong sách Dacaria: “Này có một người, hiệu là ‘Chồi lộc’” (Dc 6, 12). Ai tìm thì sẽ thấy. Họ mỏi công đi tìm theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ và họ đã thấy, họ đến thờ lạy Hài Nhi mới sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do lòng nhân hậu, Chúa tự tỏ mình ra cho người ta thấy như thánh Phaolô viết: “Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh… không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người” (Tt 3,4-5).

Xin hỏi các đạo sĩ: Các ngài đang làm gì, hỡi các đạo sĩ, các ngài làm chi vậy? Các ngài thờ lạy một Trẻ Thơ măng sữa, mới sinh nơi xóm nhỏ đơn nghèo ư? Các ngài tin rằng, Trẻ Thơ ấy là Thiên Chúa sao? Nhưng “Thiên Chúa ở trong thánh điện của Người, ngai của Người đặt ở trên cao” (Tv 10,4). Còn các ngài, các ngài tìm Chúa nơi hang bò lừa đang nằm trong vòng tay mẹ ẵm sao? Các ngài làm chi vậy? Tại sao các ngài lại dâng vàng? Trẻ Thơ này là vua ư? Nhưng đâu là cung điện cũng như ngai vàng của nhà vua, và đâu là quần thần của nhà vua? Chuồng bò là cung điện, máng cỏ là ngai vàng, Đức Maria và thánh Giuse là quần thần của vua sao? Làm sao những người thông thái không thờ lạy Hài Nhi, họ đã bị điên dồ hết rồi sao, phải chăng họ coi thường sự non nớt và cái nghèo của Trẻ Thơ?

Để nên người thông thái, các đạo sĩ đã trở nên điên dồ; Thánh Thần đã dạy bảo họ trước: “Vì chưng một khi thế gian, đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không lợi dụng khoa khôn ngoan mà nhìn biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã quyết ý dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu những kẻ tin” (1Cr 1, 21). Vì vậy, họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Hài Nhi nghèo này, thờ kính như một vị vua, vị thần. Một ngôi sao hướng dẫn họ bên ngoài đã chiếu tỏa nơi họ ánh sáng huyền nhiệm của chính vì sao.

Chúa là Ánh Sáng

Lễ Hiển Linh là mầu nhiệm ánh sáng, ánh sáng được diễn tả qua biểu tượng ngôi sao hướng dẫn cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ. Chúa Kitô chính là Nguồn Sáng thật, là “Mặt Trời mọc lên từ trên cao” (x. Lc 1,78) chiếu tỏa trần gian và lan ra theo những vòng tròn đồng tâm. Trước hết trên Ðức Maria và Thánh Giuse được chiếu sáng bởi sự hiện diện thần linh của Hài Nhi Giêsu, kế đến là các mục đồng tại Bêlem; khi được thiên sứ báo tin, các ngài mau mắn chạy đến hang đá và gặp thấy nơi đó “dấu chỉ” đã được báo trước cho họ: một con trẻ được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ (x. Lc 2,12). Các mục đồng, cùng với Đức Maria và Thánh Giuse, đại diện cho “nhóm nhỏ còn lại của Dân Israel”, những người nghèo, những kẻ đã được loan báo Tin Mừng.

Ánh sáng của Chúa Kitô cuối cùng chiếu toả đến các vị đạo sĩ, quả đầu mùa từ các dân ngoại: “Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng… và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11). Trong khí đó, “cả nhà vua cùng các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân” (Mt 2,3) còn nằm trong bóng đêm, nơi mà tin tức về Ðấng Thiên Sai sinh ra, được thông báo một cách nghịch lý cho họ biết qua các vị đạo sĩ, và khơi dậy không phải niềm vui mừng, nhưng sự lo sợ và những phản ứng thù nghịch (x. Mt 2,3). Ý định của Thiên Chúa quả thật là nhiệm mầu: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu” (Ga 3,19).

Nhưng thử hỏi ánh sáng đó là gì đây? Nó chỉ là một biểu tượng gợi ý, hay có một thực tại thật được nói lên qua hình ảnh này? Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là sự sáng, tối tăm không hề có nơi Người” (1Ga 1,5). Và thêm: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Hai lời quả quyết trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng: Ánh sáng bừng lên trong đêm Giáng Sinh là Tình Yêu Thiên Chúa, được mạc khải nơi chính Lòng Thương Xót Nhập Thể.

Chúa Giêsu “là Ánh sáng đã chiếu soi lương dân và Vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2,32); Ðược Thiên Chúa linh ứng, cụ Simêon đã thốt lên như thế. Ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc, ánh sáng của lễ Hiển Linh phát xuất từ vinh quang của Israel dân Chúa, vinh quang của Ðấng Thiên Sai, mà theo Kinh Thánh, đã giáng sinh tại Bêlem, “thành của Vua Ðavít” (x. Lc 2, 10-11). Các đạo sĩ thờ lạy một Hài Nhi đơn sơ nằm trong đôi tay Mẹ Maria, bởi vì các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ này nguồn mạch của hai ánh sáng đã hướng dẫn các ngài: ánh sáng của ngôi sao và ánh sáng của Kinh Thánh. Các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ vị Vua của người Giuđêa, vinh quang của dân Israel, và cũng là Vua của tất cả mọi dân nước.

Giáo hội là ánh sáng

Trong khung cảnh phụng vụ của lễ Hiển Linh cũng được biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội và chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Giáo Hội được mời gọi chiếu sáng trong thế giới ánh sáng của Chúa Kitô, vừa phản chiếu ánh sáng đó nơi chính mình, như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của mặt trời. Trong giáo hội đã được hoàn tất những lời tiên tri xưa nói cho thành thánh Giêrusalem: “Hãy chỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng, bởi vì ánh sáng của ngươi ngự đến... Các dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của ngươi, các Vua Chúa sẽ đi theo vinh quang của Nguồn Sáng ngươi” (Is 60, 1-3). Người kitô hữu sẽ phải thực hiện điều này: sau khi đã được Chúa huấn luyện sống theo các Mối Phúc, nhờ qua chứng tá của tình thương, phải lôi cuốn mọi nguời đến cùng Thiên Chúa. “Như thế phải chiếu toả ánh sáng của chúng con trước mọi người, ngõ hầu nhờ thấy những việc tốt chúng con làm mà họ tôn vinh Cha chúng con trên trời” (Mt 5,16).

 

24. Ánh sáng soi đường

Nhờ Ánh Sao dẫn đường, ba nhà đạo sĩ từ Phương đông đã đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có thể nói, họ là những con người khao khát chân lý và qui phục sự thật. Theo quan niệm vẫn có nơi nhiều nền văn hoá trên thế giới, mỗi khi có vị quân vương ra đời thì trên bầu trời xuất hiện một ánh sao lạ. Và người ta cũng thường nghĩ rằng, cuộc đời của một con người gắn liền với một vì sao nào đó!

Khi Chúa Giêsu giáng sinh, Ngài đã tỏ mình ra nhiều người, bằng nhiều cách thế khác nhau. Trước hết, Ngài tỏ mình ra cho những con người đơn sơ, nghèo khó như các mục đồng chăn chiên ngoài đồng; cho những con người thánh thiện và tốt lành như cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna. Hôm nay, với việc các nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói được rằng: Chúa đã tỏ mình ra với muôn dân, ngay cả với Dân ngoại. Nói cách khác, Chúa đã tỏ mình ra nơi mọi tâm hồn thành tâm thiện chí đi tìm Ngài bất luận họ là ai, thuộc dân tộc nào!

Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều này là: với việc Giáng sinh làm người của Chúa Giêsu, thì Ánh Sáng đã đến trần gian. Ánh sáng này đã xoá tan ranh giới phân biệt Do thái và Hy Lạp, tuyển dân và Dân ngoại. Nhưng cũng từ đây, một "ranh giới" mới xuất hiện, không phải Thiên Chúa muốn nhưng do con người tạo ra, đó là cuộc đối đầu giữa Ánh sáng và Bóng tối. Theo thánh Gioan tông đồ, vẫn có Ánh sáng thật và cũng có Bóng tối thật! Chúa Giêsu là Ánh sáng - Ánh sáng ban sự sống, xuất phát từ Chúa Cha và những ai tìm đến với Ngài với tâm hồn ngay chính cũng được Ánh sáng soi dẫn và sống trong Ánh sáng. Nhưng khi Ánh sáng xuất hiện thì Bóng tối cũng lộ diện rõ ràng, mà Hêrôđê chính là đại diện cho những con người sống trong Bóng tối. Bóng tối trong cuộc đời này xem ra rất mạnh thế. Bóng tối cũng vô cùng tinh xảo và khôn ngoan theo kiểu thế gian. Vua Hêrôđê căn dặn những nhà đạo sĩ rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người". Đó là những lời nghe có vẻ rất đạo đức và thánh thiện của vị bạo Chúa Hêrôđê, nhưng tận đáy lòng của vị vua này là muốn tiêu diệt Hài Nhi Giêsu vì ông lo sợ rằng: với việc ra đời của Chúa Hài Nhi thì ngai vàng của ông bị lung lay. Ông sợ Vua Giêsu sẽ cướp mất quyền làm vua của ông. Thật là một suy tính tiểu nhân và trẻ con vô cùng! Ông đâu biết rằng: "mọi quyền hành ở trần gian này đều do Chúa ban và thiết định". Ông cũng đâu hiểu rằng: Chúa Giáng trần cũng là để cứu chuộc mọi người trong đó có ông nữa. Thật tội nghiệp cho ông, một vị vua sống trong bóng tối vì bị đam mê dục vọng lôi cuốn.

Trong con người chúng ta, hình như cũng có bóng dáng của ba nhà đạo sỹ mà cũng có bóng dáng của Hêrôđê ẩn hiện đâu đó. Có những lúc tâm hồn chúng ta bay bổng, tha thiết muốn đi tìm Chúa, muốn sống chết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Những lúc đó, chúng ta muốn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa tất cả: "Đây tâm tư con, thân xác con, nguyện hiến dâng Ngài từ đây đến trót cuộc đời...!" Đó cũng là những khi chúng ta thấy Chúa luôn hiện diện bên cạnh mình, thấy mình được mọi người thương mến và quí trọng... Đời thật đáng sống làm sao! Yêu Chúa và yêu người dễ dàng làm sao!

Nhưng rồi có những lúc, chúng ta gặp phải những thất bại, những chống đối, những hiểu lầm; những lúc cuộc đời của ta không thuận buồm xuôi gió, thiếu trước hụt sau... Chúng ta cầu xin Chúa hoài mà Chúa vẫm im lặng, thì tự nhiên chúng ta cũng muốn buông xuôi tất cả. Những lúc đó, chúng ta dễ hành xử như những người không có niềm tin và hy vọng. Chúng ta rất dễ có những hành động như Hêrôđê là muốn phá đổ, muốn huỷ diệt tất cả vì mình không thấy hạnh phúc và mất bình an. Những lúc đó, ta dễ dàng nghĩ rằng: "Tha nhân là hoả ngục đối với tôi". Tôi không còn muốn tin ai ngay cả Thiên Chúa! Thật nguy hiểm biết bao! Khi trong chúng ta, hình bóng của Hêrôđê làm chủ rồi thì Chúa phải ra đi! Bóng tối không muốn tiếp nhận Ánh sáng nữa. Nhưng người con cái của Chúa đích thực thì không nên sống như thế. Chúng ta phải kiên quyết xua trừ Bóng tối ra khỏi con người của chúng ta để Ánh Sáng là chính Chúa vào làm chủ trong ta. Bất cứ lúc nào, chúng ta biết nói lời yêu thương, tha thứ, nâng đỡ nhau thì khi đó trong ta Ánh sáng đã chiến thắng Bóng tối.

Có chuyện kể rằng: Đứng trước hung tin: Jacques, cậu con trai yêu quí vừa từ trần, nữ bá tước Littry vô cùng đau khổ và cảm thấy tiêu tan hết nghị lực; tuy nhiên, bà vẫn cố gắng lao mình vào công việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Eperny. Ngày nọ, một thương binh người Đức được cho đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch đã giết chết con trai bà bá tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận một cách vui vẻ. Đến khi lúc soạn đồ đạc, áo xống của người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, nữ bá tước Littry chỉ biết thốt lên: "Đúng đây là tên lính đã giết con trai mình!". Nhưng kìa, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đập mạnh vào mắt bà: "...Mẹ yêu quý! con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con..." Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y, một giọt nước mắt của bà rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như hạt sương mai...!.

Nữ bá tước Littry đã để cho Ánh sáng xoá tan Bóng tối trong tâm hồn bà, để bà được tiến bước trong cuộc đời tràn ngập Ánh sáng của tình yêu.

Các nhà đạo sỹ ngày xưa đã để cho Ánh sao lạ soi dẫn đường mình đi và họ đã đến được với Chúa nhờ lòng nhiệt huyết và đầy tin tưởng của họ. Ngày nay, chúng ta cũng có những Ánh sao soi đường để chúng ta đến được với Chúa. Ánh sao đó chính là Lời của Ngài. Nhưng thử hỏi, chúng ta có sẵn sàng để cho Lời Chúa dẫn đường mình đi không? Câu hỏi ấy đang chờ từng người chúng ta trả trời trước Chúa Giêsu Hài đồng trong Mùa Giáng Sinh này cũng như trong suốt cuộc đời chúng ta.

 

25. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Bêlem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Bêlem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà mới trở về Nagiarét (x. Mt 2).

Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà ba nhà đạo sĩ là những đại diện.

"Epiphaino" có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Đức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho ba đạo sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự ẩn mình của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, nơi Trẻ Thơ Bêlem. Thì lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.

Việc các đạo sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết: "Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.

Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: "Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi" (Is 66,1-3).

Đây là một lời mời hướng tới Giáo hội Chúa Kitô và hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp địa cầu. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: "Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật" (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta.

Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc ba nhà đạo sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nagiarét mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô chứng tỏ sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.

Tước hiệu "Vua Do Thái", mà ba nhà đạo sĩ ám chỉ Hà Nhì mới sinh sẽ xuất hiện trên miệng của Philatô vào lúc ông xét xử Chúa Giêsu và trên bảng ghi trên thập giá.

Trước câu hỏi của ba nhà đạo sĩ, "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? " khiến nhà vua, các đại giáo trưởng và luật sĩ thông thạo Thánh Kinh bối rối. Đó cũng là thái độ của các nhà lãnh đạo Do Thái trong đời sống cộng đoàn và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sau này.

Vì thế sự tỏ mình của Chúa Giêsu cho các đạo sĩ chính là khởi điểm của việc thể hiện tỏ tường sẽ được thực hiện trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô, nhất là bừng sáng vào ngày Ngũ Tuần.

Giáo hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Người đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo hội cũng mời gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà đạo sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởng và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.

 

26. Vui mừng vì được ngôi sao lạ dẫn đường

Thông thường khi muốn đến một nơi nào chưa biết, người ta sẽ bằng nhiều cách: tìm xem qua bản đồ, nhờ người biết trước chỉ hay dẫn đường. Nếu không người ta sẽ rất dễ bị lạc đường. Càng đến nơi quan trọng bao nhiêu thì người ta lại càng phải tìm hiểu kỷ bấy nhiêu.

Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Hiển linh hay còn gọi là lễ Ba vua. Nói đúng hơn đây là Ba vị hiền sĩ từ Phương Ðông. Họ được báo tin có Vua dân Do thái mới sinh ở Bêlem. Vì thế, họ cùng nhau lên đường theo sự hướng của Ngôi sao lạ đến Bêlem. Trên đường đi, chẳng may Ngôi sao lạ biến mất nên họ vào hỏi thăm vua Hêrôđê.

Không ngờ chính vua Hêrôđê cũng chẳng hay biết gì. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Ðấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu (Mt 2, 4). Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt 2, 5 - 6). Sau khi chỉ đường cho các nhà đạo sĩ vau Hêrôđê căn dặn kỷ lưỡng:: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8b). sau đó, họ đã tiếp tục lên đường. May mắn thay, Ngôi sao lạ đã tiếp tục xuất hiện và dẫn đường cho họ. "Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng." (Mt 2, 10)

Các Hiền sĩ là những người rất thành tâm thiện chí. Họ đã nhờ Ngôi sao lạ dẫn đường đến thờ lạy Hài nhi Giêsu. Mặc dù, khi Ngôi sao biến mất thì họ vẫn không nản lòng. Họ đã tìm cách hỏi thăm cho bằng được. Nhưng rồi họ lại hết sức vui mừng khi Ngôi sao lạ lại xuất hiện để tiếp tục dẫn đường cho họ.

Ngôi sao lạ ấy chính là thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Có thể lúc Ngôi sao biến mất là lúc Thiên Chúa muốn thử thách sự kiên trì của họ. Với sự kiên trì và tấm lòng yêu mến sự thật họ đã tìm được nơi và người họ muốn tìm.

Trong đời sống đức tin của chúng ta, chính lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội là Ngôi sao dẫn đường cho ta đến Thiên đàng. Những lúc cảm thấy như Ngôi sao biến mất là những lúc Chúa muốn thử thách lòng tin của chúng ta. Xin cho chúng ta luôn biết kiên trì và thật lòng như các Vị Hiền sĩ để mỗi ngày theo sự hướng dẫn của Chúa và Giáo hội đi về Thiên đàng.

 

27. Vinh quang đích thực của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được hiển trị. Đó là một tình cảm tôn giáo đáng quí nhưng cũng thật đáng sợ, vì chính nó đã từng là nguyên nhân của biết bao cuộc bắt bớ hay triệt hạ phe đối nghịch. Lịch sử đã ghi nhận không ít cuộc chiến tranh tôn giáo. Hiển Linh là Chúa được biểu dương, là biểu lộ quyền năng của Ngài ra bên ngoài, vì hình như hình hài một hài nhi bé bỏng không xứng với Ngài? Có một thời tôi đã từng nghĩ như thế: Có thế chứ... phải là những vị vua tới thờ lạy ngài, tới cống tiến ngài những lễ vật đắt giá mới xứng; phải có những ánh sao lạ để cả thiên hạ phải trầm trồ! Và tôi lấy làm hả dạ. Tôi có tinh thần tôn giáo sốt sáng chẳng?

Thật ra câu chuyện về các nhà chiêm tinh (thường được dân có đạo nâng lên hàng vua chúa cho nó oai) đến bái lậy Hài Nhi Giêsu chỉ được Phúc Âm Mát-thêu ghi lại với chủ đích, như ông vẫn quen làm nhiều lần, là để khảng định: "thế là ứng nghiệm" việc Hài nhi ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê... việc ngài trở về từ Ai-cập... như những gì đã từng được các tiên tri loan báo. Dầu câu chuyện mang rất nhiều tính truyền thuyết, tôi nghĩ nó không chỉ đơn thuần là để nâng cao thứ tình cảm tôn giáo nói trên.

Hài Nhi mới sinh tại Bê-lem Hiển Linh, nhưng hiển linh điều gì? Đâu là vinh quang đích thực của ngài?

Ba nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) là những con người có hiểu biết và chuyên tìm tòi những qui luật của trời đất. Các ông biết về một vị nào đó rất quan trọng mới xuất hiện và các ông đi tìn ngài. Theo lô-gic, nhân vật này chắc chắn phải là một vị vua và phải tìm thấy trong chốn cung điện. Và thế là họ tìm tới Giê-ru-sa-lem là kinh thành của vương triều Da-vit; nhưng ở đó họ chỉ gặp được Hê-rô-đê, con người của quyền lực và mưu mẹo. Chỉ có 'ngôi sao' mới có thể dẫn họ tới một nơi không ngờ: làng quê Bê-lem hẻo lánh, và tìm thấy một hài nhi với thân mẫu trong sự đơn sơ và nghèo hèn. Chúng ta tất cả đều biết ngôi sao đó chính là biểu tượng của niềm tin vào Tin mừng. Chỉ có Tin Mừng của đức Giêsu Ki-tô mới chỉ cho chúng ta tới gặp được một Thiên Chúa, không phải trong vinh quang của quyền uy và đầy công thẳng, mà là trong một diện mạo thơ nhi quá gần gũi: Thiên Chúa của lòng từ nhân và hay thương xót... cứu độ chứ không phải một Thiên Chúa luận phạt. Nếu ba nhà chiêm tinh phải từ bỏ lô-gic thông thái của họ (điều này không dễ mấy đâu) để có thể sấp mình bái lậy một hài nhi nghèo hèn, thì mọi người, kể cả tôi và bạn, (nhất là khi càng cho mình là thông minh chính trực) còn cần phải làm một cuộc cách mạng trong niềm tin để có thể bái lạy vinh quang Thiên Chúa trong sự hiền lành, từ nhân và hay thương xót.

Câu truyện còn cho tôi thấy có sự đối kháng thâm sâu giữa một bên là uy quyền thống trị và trừng phạt (điển hình là vua Hê-rô-đê) với bên kia là sự yếu đuối ẩn dật của một Hài Nhi bé bỏng nép mình bên lòng mẹ. Sự công thẳng có sức mạnh của nó và xem ra không thể đội trời chung với lòng trắc ẩn nhân ái. Uy quyển của bạo vương Hê-rô-đê không thể được chia sẻ với Tân Vương cứu độ mới sinh ra. Ở đâu có sự công thẳng ở đó không thể có chỗ cho lòng trắc ẩn thương xót, và ngược lại. Sự công thẳng nổi cộm như một quyền lực thống trị trong khi lòng nhân ái lại luôn tỏ ra quá yếu đuối ẩn dật. Chính vì thế mà khi đề cao lòng trắc ẩn thương xót thì nhiều người lại tỏ ra e dè sợ sệt. Họ lo sợ sự hợp lý đầy uy quyền của 'lành thưởng dữ phạt' sẽ bị phá đổ, và thế là họ rắp tâm 'tiêu diệt' lòng thương xót, ít là trong hiểu biết và suy nghĩ của họ. Thiên Chúa giáng trần đã chọn hình hài của một thơ nhi yếu đuối ẩn dật để biểu lộ lòng xót thương cứu độ loài người quả là điều thích hợp... có điều Ngài phải chịu sự toan tính tiêu diệt của bạo vương quyền uy thì cũng là tự nhiên thôi.

Lạy Hài Nhi đang ngủ yên trong vòng tay âm yếm của Mẹ, xin cho con dặt cược toàn bộ cuộc sống con trên sự nhỏ bé, yếu đuối của lòng thương xót Chúa. Chính những lúc tâm hồn con lo sợ cuống quýt trước quyền lực ghê gớm của sự công thẳng Chúa, xin đưa con vào vòng tay hiền mẫu để con cũng có được giấc ngủ của an bình trong tin tưởng phó thác vào lòng thương xót. Xin che chở để con không bao giờ bị sự công thẳng Chúa nhấn chìm trong lo âu sợ hãi. Amen.

 

28. Chiếu tỏ đức tin và tình thương của Chúa

Biến cố Chúa Giáng sinh là biến cố trọng đại cho vũ trụ, cho muôn dân muôn nước. Thiên Chúa đã cho các mục đồng chứng kiến biến cố này. Đồng thời Ngài cũng cho lương dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ như những tâm hồn chân thành tìm kiếm Thiên Chúa được chứng kiến tận mắt biến cố lớn lao này.

Lễ Hiển Linh được gọi là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng dân tộc Do Thái mà còn cho muôn dân khác nữa. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã mở ra cả một viễn tượng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng qui về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa. (x Is 60, 1 - 6)

Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Đức Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là ba vua, do đó lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là các đạo sĩ. Họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đới với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại đội của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua người Do Thái mới sinh", Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng "dân ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do Thái", cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.

Lễ Hiễn Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta" (Ga 1, 18; 6, 46). Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.

Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định là chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: "Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô", thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chính cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.

Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngừng đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?". Thế nên, chúng ta có trách nhiệm trả lời cho họ. Trả lời một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta, qua cách sống của mình. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài cách sống đức tin của mình, lòng quảng đại, sự tha thứ, tinh thần quan tâm, chia sẻ trong tình yêu thương của Chúa Kitô. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.

Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.

Thiên Chúa là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu. Trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, có nhiều mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Có nhiều người đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân không gia đình thăm viếng, chăm sóc. Những con người đó đang sống đức tin của mình cách công khai, họ chính là những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.

Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho mọi người được thấy Thiên Chúa tình thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống quảng đại, vị tha, quan tâm giúp đỡ đến nhu cầu của tha nhân. Xin cho chúng con trở nên những ánh sao chiếu toả đức tin, tình thương, lòng nhân hậu của Chúa cho mọi người. Amen.

 

29. Hãy là sao lạ dẫn đường giới thiệu Chúa

Epiphany: manifestation or striking appearance có nghĩa là Lễ Hiển Linh.

Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’).

Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng theo truyền thống xa xưa. Vào Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại.

Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1.

Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới.

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.

Lời ngôn sứ Isaia đã vang vọng từ 700 năm trước Công Nguyên về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1).

Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60, 3).

Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.

Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6).

Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước.

Chúa Giêsu đã dạy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).

Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá.

Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).

Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa.

Ánh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).

Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Ep 13, 1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.

Qua Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."(Mt 2, 2).

Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua trang Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.

Việc đi theo ngôi sao lạ để đến bái thờ và dâng Chúa những của lễ thật sự chẳng phải là việc giản đơn và cũng không phải ai cũng làm được như 3 nhà đạo sĩ.

Muốn như vậy, trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.

Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.

Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.

Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường.

Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ. Chúa mời gọi ta loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Và như vậy, ta hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những luồng sáng tự nhiên phát ra từ ta ấy, chắc chắn mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.

 

30. Thừa kế

"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lại Người".

Thừa kế là thừa hưởng một điều gì đó, chẳng hạn là gia sản. Thông thường, giữa người để lại gia sản và người được thừa kế gia sản đều có quan hệ thân tộc hoặc một mối ràng buộc nào đó. Tuy nhiên, đôi khi có quan hệ nhưng chẳng được nhận một thứ gì. Điều này không bất thường so với như việc chẳng quen chẳng biết, chẳng có dây mơ rể má gì mà lại được nhận thừa kế mới là chuyện đáng nói. Ấy vậy, chuyện ngược đời đó lại trên lại đúng cho trường hợp của chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một gia sản tuyệt vời từ những người không hề quen biết. Đó là đức tin từ các tông đồ. Thực sự phải nói là từ Đức Kitô.

Chúng ta được thừa kế không do công trạng của mình mà do tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ việc thừa kế đó mà chúng ta trở nên có quan hệ huyết thống với các tông đồ và với cả Thiên Chúa nữa. "Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Eph 3, 6). Đây thật là một mầu nhịêm.

Trở lại lịch sử, Do thái là dân riêng của Chúa, là dân được Chúa tuyển chọn và lập giao ước. Có thể nói, mọi vinh quang danh dự Thiên Chúa đã dành hết cho dân tộc này. Nhưng trớ trêu thay, khi con Thiên Chúa làm người thì người Do thái là dân đầu tiên từ chối Thiên Chúa. Nên giờ đây, ơn cứu độ không còn chỉ cho dân Do thái nữa. Chúng ta thừa kế là như thế đó.

Khi ba đạo sĩ đến gặp Hêrôđê để hỏi thăm về nơi hạ sinh của Vua dân Do thái thì từ vua đến dân đều xôn xao, bối rối, cả thành Giêrusalem náo loạn lên. Hêrôđê bối rối không phải vì chợt tỉnh ra, thấy mình sao vô tâm để rồi tìm cách để đến bài thờ Vua cả trời đất. Một người độc ác như Hêrôđê nếu có bối rối thì tại vì hắn sợ ngai vàng của mình bị lung lai. Hắn sợ, bởi nếu đây là sự thật thì thời cuộc sẽ thay đổi, điều này đồng nghĩa hắn mất vương quyền. Còn chuyện dân chúng xôn xao thì cũng đáng để luận bàn lắm. Vì thật ra điều này đã được tiên tri Malakhia nói rồi: "Và người, Bêlem , đất thuộc Giuđa, hẳn ngươi không nhỏ bé trong hàng tướng lãnh Giuđa, vì bởi nơi ngươi sẽ xuất hiện vị thủ lãnh, Đấng chăn dắt Israel dân ta" (Mk 5,1-3). Nhưng tiếc thay khi điều đó xảy ra thì không có ai tỏ vẻ mừng vui. Cũng chẳng ai tha thiết đi tìm, đi kiếm mà thờ lạy chúc tụng vị thủ lãnh Israel đó. Ngoại trừ những mục đồng nghèo nàn, khốn khó.

Thế nên, cũng sẽ chẳng có dấu chỉ nào cho dân Israel mà điều này đựơc tỏ ra cho người ngoại giáo mãi bên Phương Đông. Căn cứ theo các lễ phẩm dâng Chúa Hài Đồng thì ba đạo sĩ này đến từ Babilon. Họ được gọi là những Magi - nhà hiền triết thông thạo thiên văn và nhiều sự khôn ngoan khác. Họ là dân ngoại nhưng với sự khao khát tìm chân lý, với lòng thành kính trước sự ra đời của một vị vương tử, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ.

Chúa Nhật Chúa Hiển Linh giúp ta tra vấn lại lòng tin của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là dân thánh của Chúa nhờ phép rửa. Chúng ta giờ đây không là dân ngoại, nô lệ mà chúng ta con Cha trên trời, là "bạn hữu" của Đức Kitô. Thêm một lần mừng sinh nhật của Đức Giêsu là thêm một lần để ta vui mừng và hy vọng. Chúa giáng sinh không là lý do để chúng ta lo sợ. Đó là tâm trạng của người nô lệ. Họ sợ thời cuộc thay đổi sẽ ảnh hưởng đến sự bình yên của cuộc sống, họ sợ bị bấp bên, sợ liên luỵ trong cuộc đời.

Hãy lên đường theo sự hướng dẫn của Ánh Sao.

 

31. Ánh sáng soi đời

Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Qua dấu chỉ ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, đặc biệt là cho những ai thành tâm tìm kiếm Chúa.

Ngày xưa, người ta thường cho rằng, việc giáng sinh của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng việc xuất hiện những ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán định mệnh của con người. Ba nhà đạo sĩ mà Tin mừng vừa tường thuật cho chúng ta nghe là những người rất thành thạo về khoa chiêm tinh, nhìn thấy ngôi sao lạ, họ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu thế, Vua dân Do thái nên họ đã quyết lòng đi tìm gặp Đấng Quân vương mà họ khao khát mong chờ.

Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh rất tế nhị nhưng cũng rất thời sự trong cuộc sống của con người. Đó là sự tồn tại của hai hạng người đối nghịch nhau trong cách sống. Hạng người thứ nhất là hạng người xem ra rất trí thức, thông biết nhiều điều, nhưng biết chỉ để cho biết chứ không dẫn đến hành động. Đó là trường hợp của những đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân Do thái. Những người này biết rõ nơi Đức Giêsu sẽ sinh ra, nhưng họ không tha thiết gì trong việc tìm gặp Đấng cứu thế, Đấng thủ lãnh chăn nuôi dân Israel dù sau khi họ nghe những nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến nói cho họ biết điềm lạ ấy. Hạng người thứ hai là những người khao khát chân lý, say sưa kiếm tìm và quyết tâm đạt đến chân lý. Đó là trường hợp của ba nhà đạo sĩ mà chúng ta được nghe nói đến trong đoạn Tin mừng hôm nay. Các ông hăng hái lên đường khi đã thấy điềm lạ là ánh sao lớn xuất hiện. Với ánh sao này, các đạo sĩ nhận ra có một vĩ nhân, một Quân vương mới vừa ra đời. Thái độ tích cực tìm kiếm sự khôn ngoan và chân lý của ba nhà đạo sĩ hoàn toàn đối lập với thái độ của các đại giáo trưởng và những luật sĩ trong dân Israel.

Nếu biết chỉ để cho biết, chỉ để tỏ ra cho người ta thấy mình uyên bác mà thôi thì quả thật đáng chê trách và đáng tội nghiệp cho họ. “Cái biết” thật sự phải dẫn đến cách sống và lối sống phù hợp với sự thật thì mới làm trổ sinh hoa trái được. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo rằng: “Ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành thì ví như người ngu xây nhà mình trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt 7, 26-27). Trong cuộc sống chúng ta cũng thấy có nhiều người rất uyên thông nhiều vấn đề, đặc biệt là đối với tôn giáo, nhưng họ lại là những người vô thần hoặc trở thành những người đả kích các tôn giáo. Cái biết của những con người kiêu căng, muốn dạy đời cho thiên hạ nhưng không biết dùng cái biết đó để kiếm tìm chân lý và sự thật. Rốt cuộc, họ chỉ là những con người kiêu căng đáng thương.

Chuyện kể rằng, có một sinh viên đang theo học tại một trường Đại học nổi tiếng bên Pháp. Một hôm, anh bước lên chiếc xe buýt và bắt gặp một ông cụ già đang ngồi lần chuỗi ở một dãy ghế dưới cùng của chiếc xe. Anh bước tới và làm quen với ông cụ ấy. Anh ta khuyên ông cụ thôi đừng làm những trò nhảm nhí ấy nữa. Sống trong thời đại văn minh rồi mà còn tin dị đoan như thế thì lạc hậu vô cùng. Anh ta lần lượt giới thiệu hết tác phẩm nổi tiếng này đến các sách bách khoa khác cho ông lão để ông mở mang trí thức và mở rộng tầm nhìn của mình ra thế giới. Gần đến tạm xe, anh ta xin địa chỉ của ông lão để có dịp anh ta sẽ gửi sách cho ông hoặc giới thiệu những quyển sách hay cho ông lão tìm mua. Ông lão khiêm tốn lấy tấm danh thiếp của mình ra trao cho chàng sinh viên, anh ta vô cùng hốt hoảng và xấu hổ bước đi, vì tấm danh thiếp ấy ghi “Pasteur, Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp”. Như thế, đức tin, sự khiêm tốn, cách sống cao thượng... không là kết quả của những hiểu biết trên sách vở hay qua những phương tiện truyền thông.

Ngày nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho chúng ta trong cuộc sống qua nhiều dấu chỉ khác nhau: qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống, qua những thay đổi của đất trời, qua những biến chuyển của thời gian và lịch sử... nhưng chúng ta đã có thái độ nào trước những dấu chỉ ấy? Chúng ta chỉ nhìn ngắm những dấu chỉ ấy để bàn luận và đùa cợt hay để suy gẫm và thay đổi cách sống? Hoa trái của đời sống đức tin tuỳ thuộc vào việc tích cực sống theo thánh ý của Thiên Chúa được biểu lộ qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời chúng ta.

Đọc Tin mừng, chúng ta thấy được sự thật này: những chân lý mà Thiên Chúa mặc khải cho con người thường được những người bị coi là thấp cổ bé miệng và nghèo khổ đón nhận hơn là những người giàu có và trí thức trong xã hội. Quả thật, những ai tự phụ, kiêu căng thì không thể đến gần Thiên Chúa và tiếp cận với Thiên Chúa được. Họ không còn sự khát khao Thiên Chúa nữa những lòng họ đã đầy ắp những dự định, tính toán tham lam trong lòng mình rối. Thời đại nào cũng có những con người như thế. Vì thế, Chúa Giêsu đã có lần cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải những mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn nhưng lại giấu không cho những người thông thái và khôn ngoan được biết. Hay nói đúng hơn là những người tự hào mình là khôn ngoan đã không đón nhận những mầu nhiệm Nước trời mà Đức Giêsu đã mặc khải cho họ. Họ chỉ tìm cách chống lại và đả phá những gì Đức Giêsu rao giảng. Chân thành và khiêm hạ trước Thiên Chúa luôn là thái độ cần thiết và khôn ngoan đối với con người. Những ai tự hạ mình trước Thiên Chúa sẽ được Ngài nâng dậy và được Ngài cho hiểu biết sự thật và được Sự thật giải thoát cho khỏi những mê lầm trong cuộc sống thế trần này.

Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta hãy noi gương các nhà Đạo sĩ biết hăng hái lên đường tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa để được Thiên Chúa cho gặp Ngài và được Ngài đong đầy tâm hồn chúng ta tình yêu Chúa để chúng ta được sống hạnh phúc với Chúa mãi mãi trong vinh quang Nước trời mai sau.

 

32. Hành trình Ba Vua – AM Trần Bình An

Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người. Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào ngày 9 tháng 2 năm 1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào ngày 28 tháng 7 năm 2061.

Theo thuyết Newton, một số sao chổi quay chung quanh Mặt trời trên những quỹ đạo hình ellip. Nhà thiên văn học Edmund Halley, người Anh (thế kỷ thứ 17-18) áp dụng định luật Newton để tính quỹ đạo cho biết là các sao chổi hiện ra những năm 1531, 1607 và 1682, có quỹ đạo giống nhau và chỉ là một thiên thể. Cứ khoảng 74 - 76 năm thì sao chổi lại quay trở lại gần Mặt trời và được nhìn thấy từ Trái Đất. Ông tiên đoán là sao chổi này sẽ trở lại năm 1758.

Đúng hôm lễ Giáng sinh năm đó, sao chổi hiện lên bầu trời, nhưng tiếc thay ông đã mất trước và không được biết là tiên đoán của ông được xác minh. Sao chổi này được đặt tên là sao chổi Halley để ghi nhớ thành tích khoa học của ông. (Wikipedia)

Chưa có tài liệu nào xác nhận sao chổi Halley đã dẫn dắt ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Nhưng điều quan trọng là các nhà chiêm tinh đã tìm được Đấng Cứu Thế, sau cuộc ra đi gian nan, đầy thách đố. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin của từng Kitô hữu thiện tâm.

Tỉnh thức

Chẳng lẽ không có ai, ngoài ba nhà chiêm tinh dân ngoại, nhìn thấy một ngôi sao bỗng dưng rực sáng trên bầu trời? Hẳn nhiên có nhiều người Do Thái cùng nhìn thấy, nhưng chắc chắn chẳng thể nào hiểu được dấu chỉ Đấng Messia nhập thế. Như thế, để có thể giải mã được dấu chỉ của Thiên Chúa, tiên quyết cần thành tâm, ao ước, khao khát Đấng Cứu Thế với tinh thần nhạy bén, sẵn sàng và tỉnh thức. Đức Chúa Thánh Thần luôn rộng ban ơn Thông minh, ơn Hiểu biết cho những người thiện tâm. “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2)

“Một hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà Tạm gần con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 233)

Dấn thân

Các vị chiêm tinh không phái người hầu, kẻ hạ đi tìm Đức Giêsu, mà đích thân họ cất bước ra đi. Chẳng hề quản ngại lời dèm, tiếng chê, hay do dự vì cách trở, xa xăm, hiểm nguy, khó nhọc, họ dám lấy chính mạng sống đánh cược, can đảm, xông pha lên đường, liều lĩnh viễn du tìm Đấng Thiên Sai.

“Đã ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Đạo sĩ ra đi, hy vọng gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xaviê ra đi, hy vọng cứu các linh hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị đã gặp.” (Đường Hy Vọng, số 7)

Thử thách

Rồi bỗng dưng ngôi sao lạ biến mất, biết đâu mà lần? Biết đâu mà đi? Thách đố đã không hề thiếu trên con đường thiên lý tìm Chúa. Cạm bẫy, cám dỗ, lạc lối, trộm cướp, đạo tặc, ma quỷ, không thiếu. Bệnh hoạn, đuối sức, đói khát chẳng thiếu trong suốt hành trình. Nếu không vững niềm Tin, Cậy, Mến, làm sao các nhà chiêm tinh vượt qua nổi?

“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo. Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)

Tín thác

Dù mất dấu vết ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh vẫn không hề nao núng, lung lạc, ê chề thất vọng, bỏ cuộc, dang dở hành trình. Họ chủ động dò hỏi khắp nơi. Thậm chí vào cả hoàng cung, trực tiếp hỏi thẳng Vua Hêrôđê. Gián tiếp qua các thượng tế và kinh sĩ, họ tìm đến Kinh Thánh, Lời Hằng Sống, để được hướng dẫn đi đúng đường. Đây chính là chánh đạo để gặp được Đấng Cứu Thế. Họ đã hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2, 9)

“Thành tín trên con đường con đi, Phêrô không nộp Chúa, không cáo Chúa, nhưng Phêrô không được một lời bênh Chúa, “Tôi không biết người ấy,” Phêrô muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.” (Đường Hy Vọng, số 46)

Vâng phục

“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10) Hành động theo Lời Chúa đương nhiên gặp Chúa mọi nơi, mọi lúc. Khi các vị chiêm tinh nghe theo chỉ dẫn của Kinh Thánh qua lời các thượng tế và kinh sư, thì họ lại trông thấy ngay ngôi sao dẫn đường, thoát khỏi sự mù lòa, lầm lạc bi đát. Vâng phục luôn là đức tính quan trọng và cần thiết để tìm Chúa và theo Chúa.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2, 12)Ba vị Chiêm tinh lần nữa tiếp tục vâng theo sứ thần, để được sống, thoát khỏi bàn tay nhuốm máu của vua Hêrôđê.

“Có người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có người vâng và phục, vì thượng cấp”đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 397)

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, khấn xin Người ban cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, để lửa Tin, Cậy Mến bùng cháy trong lòng chúng con, để Tình Yêu Chúa chiếm hữu hoàn toàn tâm can chúng con. Hầu chúng con luôn cố gắng, quyết tâm ra đi tìm Chúa, gặp Chúa và theo Chúa, vượt qua bao gian nan, thử thách cam go, như ba vị chiêm tinh ngày xưa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương cứu giúp chúng con đang trầm luân trong thung lũng đầy nước mắt, đang lặn lội, mê muội, mù lòa, trong những cám dỗ phù phiếm thế gian. Mẹ là ngôi sao sáng giữa biển khơi mịt mù, xin dẫn dắt chúng con tìm đến Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi. Amen.

 

33. Tìm Chúa

Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng ba vua ở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thõa mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của ba vua tiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà... Lễ ba vua còn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đâu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đâu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức... còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ... Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống ba vua cả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.:

1. Trong đức tin

Ba vua chính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phài luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban nhưng cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với ba vua không như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường , ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ ba vua nhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.

Ngày xưa ba vua nhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thõa lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?

2. Hành động

Thánh Giacôbê nói: "Đức tin không có hành động là đức tin chết". Nếu ba vua nhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. Ba vua vừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Dứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy "ngôi sao đức tin" phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lim và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiêng đàng nữa.

3. Can đảm

Ba vua đã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân... Như ba vua đã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.

Không, phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như ba vua hôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đá cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như ba vua xưa đã thấy.

Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.

Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa. Amen.

 

34. Thiên Chúa tỏ mình – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu. Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó.

Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.

Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái.

Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.

Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.

Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng.

Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ.

Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao?

2. Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao?

3. Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô?

 

35. Đi tìm Chúa hôm nay – Lm. Damien OFM

Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đấng Messia không còn là của riêng người Do thái nữa, nhưng Ngài tỏ mình ra cho mọi dân tộc.

Ngôi sao dẫn đường.

Do thái thuộc đông phương; và theo văn hóa và khoa chiêm tinh của người đông phương thì mỗi vị vua sinh ra đêù có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ có lẽ là những nhà chiêm tinh học, nên đã nhận ra ngôi sao chiếu mệnh của vua người Do thái mới sinh ra.

Ngôi sao chiếu mệnh nầy không như những ngôi sao chiếu mệnh của các vị vua khác, vì nó còn là ngôi sao đi trước ba nhà đạo sĩ, dẫn đường cho họ đến với Chúa. Thiên Chúa đã dùng các thiên thần để báo cho các mục đồng biết Chúa đã đến trong thế gian. Nay Thiên Chúa dùng một tinh thể làm dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Giêsu và dẫn ba nhà đạo sĩ đến với Chúa. Xưa trong sa mạc, Thiên Chúa cũng đã dùng cột mây và cột lửa để nói với dân về sự hiện diện của người giữa dân. Thiên Chúa có thể dùng thiên thần, con người(các mục đồng) hay một vật(ngôi sao) để làm dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.

Ngày nay, ai là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa? Ngôi sao đó trước hết la Giáo Hội(“chúng con là ánh sáng thế gian”), là một vị thánh, là một linh mục, là một kitô hữu gương mẫu…Và ngôi sao soi sáng và dẫn đường cách đặc biệt là Phúc Âm.

Với lời dạy của Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian… ngọn đèn phải để trên đế, để soi sáng cho mọi người trong nhà”, mỗi người kitô hữu phải là một ngọn đèn, nghĩa là một ngôi sao dẫn đường cho kẻ khác. Cha mẹ là ngôi sao dẫn đường cho con cái, những người có trách nhiệm phải là ngôi sao dẫn đường cho những người mình chịu trách nhiệm; linh mục tu sĩ phải là ngôi sao dẫn đường cho dân Chúa; và mỗi người kitô hữu phải là ngôi sao dẫn đường cho những ai chưa biết Chúa.

Tính phổ quát của vì Vua mới.

Sự hiện diện của các mục đồng, của ngôi sao và của ba nhà đạo sĩ nói lên rằng: Đấng Messia mới sinh ra không còn là của riêng của những kẻ tử tế, Biệt Phái và Kinh sư nữa, nhưng trước hết Ngài là của những kẻ thấp hèn tội lỗi hay bị khinh chê, như các mục đồng, vì họ là những người đầu tiên được vinh dự đến với Chúa. Ngài không còn là của riêng của dân Do thái mà thôi, nhưng còn là vua của những kẻ ngoại giáo, xa xôi mà ba nhà đạo sĩ là ba đại diện; sự hiện diện của ngôi sao cũng nói lên rằng, Ngài còn là vua của cả vũ trụ nữa. Ngôi sao cũng phải phục vụ Chúa.

Vua Herôđê bối rối

“Nghe nói thế,vua Herôđê bối rối, và tất cả Giêru- salem cùng với nhà vua”: Chúa sinh ra, các thiên thần ca hát, các mục đồng vui mừng, ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến thờ lạy, còn vua Herôđê và cả Giêrusalem thì bối rối. Hêrôđê bối rối lo lắng vì sợ mất ngôi vua của mình. Các giáo trưởng và luật sĩ bối rối vì vị vua nầy đến mà không thông báo gì cho họ lại tỏ mình ra cho dân ngoại. Họ thấy chỗ đứng của mình bị lung lay. Thế là họ tìm cách tiêu diệt Ngài.

Họ không hiểu rằng vị vua nầy đâu có thèm gì ngôi báu một khi đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Họ không hiểu rằng vị vua nầy, đâu phải để cai trị nhưng để cứu vớt.

Ngày nay cũng thế, người kitô hữu phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là của riêng người công giáo mà là Thiên Chuá của mọi người, và Giáo Hội không chỉ là của riêng người có đạo mà là Giáo Hội của mọi dân tộc, của kẻ lành cũng như người bất lương. Vì Con Thiên Chúa đến để cứu vớt chứ không phải để lên án hay cai trị. Chúa sinh ra trong ngheo khó và sau nầy bị khinh chê và bắt bớ. Nên phải bỏ đi cái mơ ước hảo huyền một Giáo Hội giàu sang và quyền thế trước mặt người đời. Phải bỏ đi cái quan niệm một thứ đạo phô trương. Đừng lặp lại cái lỗi lầm của người Do thái, mơ ước một vị vua quyền thế và cao sang. Nếu không thì Chúa sẽ làm cho chúng ta thất vọng vì ngài không hề đáp ứng những mơ ước hảo huyền của ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ bối rối như Herôđê, các Biệt Phái và kinh sư xưa trước sự hiện diện khiêm tốn của Chúa.

Đi tìm Chúa hôm nay.

Chúng ta đã thấy, một những ngôi sao dẫn đường cho chúng ta hôm nay đến với Chúa là Lời Chúa.Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta. Phúc Am sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.

Vị vua thứ tư.

Chuyện kể rằng, khi Ba vua Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng vừa đi khỏi làng Bêlem, thì vị vua thứ tư hớt ha hớt hải chạy đến. Ông cũng đã thấy ngôi sao, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí, gia sản quí nhất của ông và vội vã lên đường cho kịp Nhưng ông đến trễ, ba vua kia đã về mất rồi!…Ông đến trễ và nhất là đến với hai bàn tay không… ông không còn các viên ngọc quí nào nữa…

Ông từ từ nhẹ tay mở cửa chuồng bò, nơi có Con Thiên Chúa, Mẹ người và người cha nuôi của Người. Trời tối, Giuse đang trở mớ rơm để qua đêm, bé Giêsu nằm trên tay Mẹ.

Rón rén, vị vua thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé Giêsu và Mẹ Người và bắt đầu nói qua giòng nước mắt:

- Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật như ba vị vừa rồi, dâng cho Chúa ba viên ngọc to như trứng bồ câu, ba viên ngọc thứ thiệt. Nhưng giờ đây không còn nữa…Con thấy ba vị kia đi trước con trên lưng lạc đà, con định tiến lên đi với họ. Nhưng rồi rượu ngọn, tiếng chim họa mi hót làm con say mê. Đêm đó con ở lại trong một quán trọ. Khi con bước vào, con thấy một cụ già lên cơn sốt rét, nằm co quắp bên lò sưởi. Không ai biết ông ta là ai. Túi tiền ông rổng tuếch. Ông không có tiền trả tiền thuốc và những thứ cần thiết. Ngày mai, ông sẽ bị đuổi ra ngoài. Lạy Chúa, đó là một cụ già, rất già, nước da sậm và có bộ râu trắng. Ông làm con nhớ đến cha con. Lạy Chúa, xin tha cho con, con lấy một viên ngọc trong túi và đưa cho chủ quán để ông lo tìm thầy chạy thuốc và nếu ông ấy chết, thì có một cỗ quan tài che xác ông.

Ngày hôm sau, con ra đi, dục con lừa của con chạy cho kịp ba vị kia vì lạc đà họ đi chậm. Con đường con đi qua vắng vẻ, có nhiều bụi rậm. Bổng con nghe tiếng kêu cứu từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy chú lính đang bắt nạt một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con thấy mình không đủ sức đọ lại với họ. Hơn nữa con đã già rồi. Lạy Chúa, xin tha cho con lần nầy nữa. Con đưa tay vào túi lấy một viên ngọc thứ hai và chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn tay con rồi chạy như bay vào miền núi như một con sóc.

Giờ đây chỉ còn lại có một viên nữa thôi, nhưng con nghĩ, có còn hơn không. Lúc đó đã quá trưa, và con nghĩ mình có thể đến Bêlem trước lúc trời tối. Nhưng kìa lính Hêrôđê đang hung hăng đốt cháy một làng gần Bêlem. Con chạy tới và và hỏi thăm thì con biết lính tráng đang thi hành lênh của vua: giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống. Ngoài một căn nhà đốt cháy, một tên lính to khỏe, đang nắm trong tay một em bé trần truồng, đưa đi đưa lại. Đứa bé hết sức dãy dụa và khóc thét lên vì sợ. Người mẹ thì đang quì lạy và khóc ngất. Anh lính nói với mẹ nó ”Bây giờ tao sẽ cho nó vào lửa và nó sẽ cháy như một con heo sữa quay!” Mẹ nó la lên thảm thiết…

Lạy Chúa, xin tha cho con! Không chịu nổi, con lấy viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để nó trao em bé cho mẹ nó. Mẹ nó ôm chặt lấy con, áp cứng vào lòng, không một tiếng cám ơn, chạy trốn như một con chó tìm được miếng xương. Lạy Chúa thế là con đến đây với hai bàn tay không. Xin Chúa tha cho con, xin tha cho con…

Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi ông ngước đầu lên, thấy Giuse đã trở rơm xong, Chuá vẫn nằm trong tay Đức Mẹ. Từ từ, Chúa quay về phía ông, gương mặt Ngài rạng rỡ. Chúa chìa đôi tay tí hon cho đôi tay trống không của vị vua thứ tư, bé Giêsu và Mẹ đều mỉm cười…

 

36. Hiển Linh – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Lễ Hiển Linh ngày xưa thường được gọi là lễ Ba Vua. Tin Mừng hôm nay cho thấy các đạo sĩ đi tìm để dâng lễ vật lên vua người Do Thái. Các đạo sĩ là những người có học, họ đại diện cho những người luôn quan sát thiên nhiên và truy tìm chân lý. Họ đã không quản ngại đường xa để tìm đến với Sự Thật.

Nhận biết Thiên Chúa nhập thể là một ân sủng

Các mục đồng được Thiên Chúa cho biết về Đấng Cứu Thế, Đấng là qùa tặng của Thiên Chúa cho tất cả loài người, qua các thiên thần. Còn những người học thức, được Thiên Chúa cho biết về Đấng Vua đặc biệt của người Do Thái qua ánh sao, qua những dấu chỉ tự nhiên. Các mục đồng đơn sơ được gặp Đức Giêsu cách dễ dàng và giản dị, còn ba nhà đạo sĩ uyên thâm đã phải trải qua khoảng đường dài, những cuộc truy tìm qua những trung gian, chẳng hạn với vua Hêrôđê, mới có thể gặp được Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.

Tất cả đều nhờ ân sủng của Thiên Chúa, nhờ sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa để các vị đạo sĩ có thể tìm được và nhận ra vị Vua đặc biệt nhưng bình thường này. Vì làm sao chỉ với ánh sao, các vị đạo sĩ có thể biết đâu là em bé giữa bao nhiêu em bé ở Bêlem? Vua Hêrôđê không thể nhận ra đâu là vị vua đặc biệt này, nên đã giết tất cả các em bé, còn các vị đạo sĩ làm sao nhận ra được “chính là Ngài”? Dù là người đơn sơ hay người có học, nhận ra được Thiên Chúa, đều là ân sủng.

Đón nhận con người, là đón nhận Thiên Chúa

Người làng Bêlem không đón nhận Đức Mẹ, thánh Yuse, là không đón nhận Thiên Chúa. Vua Hêrođê không đón nhận hài nhi “vua người Do Thái”, là không đón nhận Thiên Chúa. Dân chúng và những người lãnh đạo dân tìm cách giết Đức Giêsu, là họ giết Thiên Chúa.

Dân Do Thái không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể nên đã giết Ngài. Người Bêlem không biết hài nhi trong dạ người phụ nữ trẻ đói nghèo là Thiên Chúa nhập thể, nên đã từ khước cho các ngài một chỗ trú chân. Người làng Nazarét không biết em bé Giêsu là Thiên Chúa làm người, nên không nhận ra ân sủng mà họ đang được hưởng: sống gần bên Thiên Chúa nhập thể. Không biết, nên không đón nhận. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người về điều này, ngay cả với những người giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34).

Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người, nhưng những mục đồng thì nhận biết còn người giầu làng Bêlem thì không nhận biết, các đạo sĩ nhận biết nhưng Hêrôđê và những người thông luật ở Yêrusalem không nhận biết, ông già Simêon nhận biết nhưng tư tế dâng tiến Ngài cho Thiên Chúa thì không nhận biết Ngài. Xin cho chúng ta có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn để nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với chúng ta trong từng giây phút của cuộc đời.

Mầu nhiệm dấu kín nay được tỏ lộ

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, mọi tầng lớp dù vô học hay trí thức. Ba nhà đạo sĩ là những người có học, quan sát thiên nhiên để truy tìm chân lý, và Thiên Chúa đã tỏ lộ cho họ qua thiên nhiên. Vì thế rất có lý để tin rằng những người nghiên cứu khoa học xã hội hay tự nhiên đều có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc của họ.

Thiên Chúa dùng mọi cách để đến với con người. Có thể là ánh sao, có thể là lời thỉnh vấn, có thể là dấu chỉ đơn sơ đối với người tin chất phác như “hài nhi vấn tã nằm trong máng cỏ” (Lc.2, 12). Trong mọi trường hợp, đều cần tấm lòng đơn sơ, dù là người chất phác vô học hay người trí thức. Một người ít học hay có học, nhưng không có lòng sẵn sàng đón nhận chân lý thì không thể gặp gỡ Thiên Chúa được, cụ thể như người làng Bêlem hay các luật sĩ ở Yêrusalem.

Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Đây là mầu nhiệm vô cùng lớn, được ẩn dấu từ muôn thuở nay tỏ lộ cho con người. Làm sao Thiên Chúa lại có thể thành người? Làm sao Đấng vô hạn lại có thể thành con người “hữu hạn”? Làm sao Thiên Chúa duy nhất lại có thể là ba? Người Hy-Lạp không thể chấp nhận điều này, vì không hợp lý. Người Do Thái không thể chấp nhận Đấng Thiên Sai có thể bị giết trên thập giá. Kitô-hữu là người “không logic” theo một nghĩa nào đó, vì đã chấp nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, đã tin Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi Vị.

Xin cho con người vâng phục Thánh Thần, để có thể đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, người ít học và người học cao hiểu rộng, ai dễ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể hơn? Tại sao?

2. Làm sao con người biết rằng Thiên Chúa yêu thương con người?

3. Thiên Chúa có yêu thương những người ngoại không? Tại sao?

 

37. Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà

Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.

Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”

Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”

Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”

 

Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những người hiện diện.

Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)

* * *

Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.

Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.

“Hãy đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.

Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.

Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;

còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,

vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.

Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,

vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1)

Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)

Phải tỏa sáng cách nào?

Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.

Như giọt sương mai

Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.

Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai.

Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin Mừng Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin Mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng”.

 

38. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.

Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)

Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)

Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.

Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.

Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)

Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ!

Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.

Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình."

Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)

Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).

Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.

Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.

 

39. Ánh nến toả sáng trong gia đình

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.

Chính vì thế, khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới hạ sinh.

Đoạn Tin Mừng Matthêu (2, 1-12) trích đọc trong phụng vụ lễ hiển linh mời gọi chúng ta trở thành những ngôi sao nhỏ để dẫn đưa anh chị em lương dân đến với Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta làm ánh sáng chỉ đường cho lương dân.

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sa-i-a mà phán dạy dân Người: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất." (Is 49,6)

Chúa Giêsu cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ..." (Mt 5, 14):

Và Thánh Phaolô tiếp tục kêu mời chúng ta: "Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời." (Pl 2,15)

Ít ra, xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình

Trở nên ánh sáng soi đường là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:

"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,

Thì hãy là ánh lửa non cao.

Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,

Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình."

Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì 'gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.' Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.

Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:

Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích rửa tội cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.

Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.

Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được các nữ tu dạy cho biết Chúa và giáo lý, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày chúa nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa trong các ngày chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: "Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây."

Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho Cô Dượng.

Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:

"Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,

Thì xin hãy là ánh lửa non cao.

Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,

Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình."

 

40. Ánh sao lạ - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện...

Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi:

“Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu”

Và được kết quả như sau:

- 61% cho rằng thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.

- 47% nói rằng sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại trên thế giới này.

- 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.

- 58% cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu.

- 59% cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi

- 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.

- 26% cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[1]

Tại sao lại có những kết quả trái ngược như thế?

Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ của nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử. Ba thái độ đó là:

1. Con người và phản ứng của Hêrôđê

Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.

Chính vì ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình, nên đã quyết tâm tiêu diệt Hài Nhi.

Ngày nay cũng vậy, vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu và luôn tìm cách loại trừ Ngài.

2. Phản ứng của các tư tế và các Kinh Sư

Họ hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật lệ, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng của mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa, không đáng quan tâm.

3. Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ

Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên.

Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng phẩm cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì họ sẽ đắm chìm trong sự kinh ngạc, yêu mến và ca tụng Ngài.[2]

Quả thế, các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.

Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.

Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[3]

Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta khao khát và quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa trong cuộc đời chúng ta. Amen.

----------------------

[1] Báo Công Giáo và dân tộc, số 1487-1488, trg. 53

[2] William Barclay

[3] TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Lễ Hiển Linh

 

41. Hành trình đức tin - Lm Vũ Đình Tường

Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng đầu tiên vào thập niên sáu mươi của các phi hành gia Hoa Kì. Xa hơn nữa, lần ngược về quá khứ, là những cuộc hải hành của các nhà thám hiểm đi tìm đất mới. Những chuyến đi lừng danh đó nhiều khi được cả quốc tế biết đến nhưng bản chất của nó vẫn mang tính cách quốc gia. Mang tính cách quốc gia vì nó được chính quyền các quốc gia đó ủy thác trọng trách trong việc làm nên lịch sứ cho quốc gia họ. Hầu như lịch sử thế giới không phân biệt chuyến đi mang tính cách cá nhân, tự chi phí cho chuyến đi riêng của mình nhưng trân trọng ghi lại mọi chuyến đi làm lên lịch sử. Sau khi làm lên lịch sử, trang sử đó được gấp lại và chỉ mở ra khi cần tham khảo.

Tôn giáo hoàn toàn khác biệt với ghi nhận của lịch sử của nhân loại. Những chuyến đi xem ra tầm thường, hoàn toàn có tính cá nhân, riêng tư hay tình gia đình lại được để cập đến trong lịch sử ơn cứu độ. Đức trinh nữ Maria đi thăm người bà con thân thuộc là Elizabeth được ghi dấu trong lịch sử ơn cứu độ. Đây là chuyến đi hoàn toàn có tính cách cá nhân, gia đình lại trở thành mẫu mực cho việc thăm viếng, mang tin vui tới cho người mình thăm. Chuyến đi đền thờ cầu nguyện và con trẻ Jesu bị lạc mất ba ngày cũng ghi đậm nét trong lịch sử cứu độ và được công bố hàng năm trong lịch phụng vụ. Chuyến đi này hoàn toàn có tính cách gia đình, một gia đình thời đó vô danh, không mấy ai để í đến. Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông cũng là chuyến đi có tính cách cá nhân, cá biệt cũng được nhắc đến đầy đủ chi tiết. Vì thế những chuyến đi mang tính cách đức tin có chiều dài lịch sử dài hơn, chiều sâu sâu hơn là những chuyến đi mang tính cách khám phá đất mới hay tìm hiểu về khoa học. Chuyến đi vì đức tin có thể không được quảng bá rầm rộ trên báo chí hoặc truyền thông trong đại chúng nhưng những chuyến đi đó thường mang tính cách quốc tế nhiều hơn là tính cách quốc gia vì ở đâu có người chung niềm tin, ở đó những chuyến đi đó được mừng kính hàng năm để ghi nhớ dấu ấn đức tin của con người tin vào Thiên Chúa.

Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông còn mang một í nghĩa quan trọng hơn đó là một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Lòng họ ao ước bỏ công việc riêng, ra đi tìm hiểu rõ sự thật. Sự thật đó là ngày sinh của Đấng Cứu Thế. Với đại chúng mừng Giáng Sinh là mừng ngày Chúa sinh ra. Với ba vị đạo sĩ Phương Đông mừng Giáng Sinh khởi đẩu từ lúc gặp Chúa trong máng cỏ. Nói rõ hơn mừng Giáng Sinh là mừng ngày nhận biết Chúa tỏ mình ra cho con người. Theo í nghĩa đó thời điểm mừng Giáng Sinh khác nhau và kéo dài nhiều ngày sau ngày Chúa Giáng trần. Chúa tỏ mình ra cho nhiều nhóm khác nhau, đầu tiên là các mục đồng, sau đó là đến các vị đạo sỉ rồi ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia thất, lễ Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa, lễ Chúa tỏ mình ra trong đền thờ và chấm dứt vào ngày lễ Chúa nhận phép rửa. Vì sau ngày này không còn đọc kinh Tiền Tụng Giáng Sinh nữa. Với các nhà làm thương mại Giáng Sinh chấm dứt khi không còn người trao đổi hàng hoá, quà cáp Giáng Sinh ế ẩm. Với Giáo Hội Giáng Sinh kéo dài theo í nghĩa

Con Người xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.

Bất cứ khi nào Chúa tỏ mình ra thì í nghĩa Chúa Giáng Sinh lại sống lại trong cá nhân đó. Đừng mừng giáng Sinh theo tinh thần xem bắn pháo bông. Cần nhiều tuần tổ chức cho ngày đó nhưng pháo bừng sáng rồi tắt lịm trong năm mười giây. Chúng ta nói là mùa Giáng Sinh vậy mùa thường kéo dài vài ba tuần mới đúng ý nghĩa của mùa.

 

42. Khát vọng tìm Chúa – Lm. Nguyễn Chánh

1/ Nếu thử hỏi: Khát vọng sâu xa nhất của con người là gì?

Trước câu trả lời này ta thấy có những thái độ chọn lựa khác nhau: Sẽ có nhiều người nghĩ rằng tiền của, vật chất, địa vị, danh vọng, quyền lực, có khi ngay cả lạc thú, những thứ này sẽ là nguyên nhân khơi lên lòng ước muốn nơi họ. Từ xác tín mơ hồ đó, sẽ phát sinh những cách sống chỉ biết tôn thờ vật chất, tôn thờ quyền lực, cùng với những thứ giả dối khác...

Ngược lại, cùng một câu hỏi, nhưng ta lại thấy những tương phản với sự lựa chon theo chiều hướng duy vật trên. Đó là vẫn còn rất nhiều người xác tín rằng: Chúa chính là Đấng luôn đáp ứng cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Đây chính là xác tín đúng nhất và sâu xa nhất.

Từ xác tín khiêm tốn trên, thực tế ta thấy rất nhiều tâm hồn trong cuộc sống họ không ngừng khao khát tìm gặp Chúa, cho dẫu họ phải hứng chịu nhiều thử thách cam go trong cuộc hành trình tìm Chúa.

Như vậy, cùng một câu hỏi, nhưng câu trả lời thì không giống nhau, luôn có sự tương phản với nhau. Bởi vì có những thái độ chon lựa khác nhau. Sự tương phản này chúng ta cũng tìm thấy nơi thái độ của các nhân vật trong trang Tin mừng hôm nay, khi Chúa sinh hạ tại Bêlem.

2/ Thái độ của Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và Dân chúng:

Đây là thái độ thờ ơ, không cần bận tâm trước một sự kiên vĩ đại là Vua Israel hạ sinh. Mặc dù Đấng Cứu Thế giáng sinh cách Giêrusalem không xa, hay sau khi đã tra cứu Kinh thánh và biết rằng tại Bêlem, miền đất Giuđa, Vị lãnh tụ của Israel ra đời. Đây là những yếu tố khách quan để Hêrôđê và mọi thành phần trong dân Israel nhận biết Chúa, tìm kiếm Chúa. Nhưng cũng vì quá mải mê với cách sống giàu sang, quá ham muốn với cuộc sống danh vọng và địa vị, nên những người này cảm thấy Đấng Cứu Thế cũng không cần thiết mấy so với những quyền hành và bổng lộc mà họ đang nắm trong tay. Vì thế họ cố tình không dò xét và tìm hiểu Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Vua Israel là Đấng Kitô.

3/ Thái độ của các nhà chiêm tinh:

Đó là thái độ ngược hẳn với Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và dân Israel. Các nhà chiêm tinh luôn kháo khát Đấng Cứu Thế. Vì qua sự thiện chí nghiên cứu thời giờ, tín hiệu, nhất là qua ánh sao lạ, họ đã biết Đấng Cứu Chuộc muôn dân đã hạ sinh. Vì thế, họ quyết tâm lên đường tìm Chúa cho bằng được.

Tuy nhiên, trong chặng hành trình kiếm tìm Đấng Cứu Thế, các nhà chiêm tinh cũng đã gặp không ít những khó khăn. Khó khăn về thời gian, đi mà không biết đến lúc nào mới gặp được Chúa. Khó khăn về địa lý, bởi vì đường xá xa xôi hiểm trở. Khó khăn về những dự định cho công việc tại quê nhà. Khó khăn về sức khoẻ, thời tiết. Và khó khăn lớn nhất đối vời các nhà chiêm tinh là ngôi sao lạ dẫn đường biến mất trong chặng hành trình họ đang tìm Chúa.

Cho dù có đối diện với rất nhiều khó khăn, hay có phải rơi vào những hiểm trở chông gai. Các nhà chiêm tinh vẫn cương quyết đi tìm Chúa cho đến cùng. Vì lúc này đối với các ông Chúa chính là tất cả. Và nơi Ngài sẽ đáp ứng cho tất cả những khắc khoải của con người.

Và rồi "kiên nhẫn đã thắng mọi sự". Các nhà chiêm tinh đã gặp được Chúa. Cử chỉ các ngài sụp xuống thờ lạy Chúa, dâng vàng, nhũ hương và mộc dược, tất cả đều thể hiện niềm xác tín: Chúa là tất cả. Chúa là Đấng duy nhất để con người theo đuổi. Chúa là đối tượng duy nhất để đem niềm vui cho con người. Chúa là đối tượng duy nhất để con người tôn thờ và kính bái. Đây chính là thái độ đức tin của các nhà chiêm tinh. Nhờ thái độ đức tin kỳ diệu ấy, chúng ta đã thấy có sự biến chuyển cách sống nơi họ.

4/ Sau khi đã gặp được Chúa và thờ lạy Chúa.

Các nhà chiêm tinh ra về mang theo tâm trạng của những con người đang dâng trào niềm vui mới và cách sống mới. Niềm vui mới đã đem đến cho họ một chon lựa mới. Đó là phải sống theo đường lối mà họ mới nhận ra nơi Chúa. Đường lối mới là họ phải xa tránh và không đi trên lối mòn của con đường cũ, nhưng phải bước đi trên những nẻo đường mới của con người mới. Đây là kết quả của những thiện chí, thể hiện qua sự hy sinh và khao khát kiếm tìm Chúa nơi các nhà chiêm tinh. Những thiên chí của các nhà chiêm tinh đã được Chúa bù đắp bằng sự biến đổi đột ngột nơi bản thân các ngài. Sự biến đổi bằng ơn thánh của Chúa đã đem đến cho các nhà chiêm tinh niềm hạnh phúc thật sự, cũng như những khát mong Thiên Chúa xuất phát từ cõi lòng khiêm tốn chân thành nơi các ngài, đã được lắp đầy bằng ơn thánh Chúa đã tặng ban. Chắc chắn từ giây phút bất ngờ sau khi đã được biến đổi, sẽ là mốc điểm để các nhà chiêm tinh khởi sự bằng đời sống mới liên tục trong Đấng Cứu Độ trần gian.

5/ Khi con người cứ mải mê kiếm tìm

Khi con người cứ mải mê kiếm tìm và sống trong sự hưởng thụ thoả mãn nơi vật chất, tiền của, địa vị, danh vọng, lạc thú. Chắc chắn lối sống ấy không bao giờ đem lại ích lợi gì cho con người. Đó là một cuộc sống vô nghĩa. Đôi khi nó sẽ hướng hành động của con người đi đến tính ích kỷ, bất công, tham lam, tham ô, gian dối... Vì con người có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt tới cách sống giả dối, luôn lệ thuộc những thứ mau qua của trần gian.

Ngược lại, khi con người biết khiêm tốn kiếm tìm chính Chúa là nguồn hy vọng của con người. Chắc chắn cuộc kiếm tìm ấy sẽ mang đến cho con người một cuộc sống lý tưởng cao đẹp. Một cuộc sống đã được Chúa đổi mới bằng ơn thánh. Một cuộc đời luôn có " Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" hiện diện trong mỗi hoàn cảnh. Một cuộc sống mà Chúa sẽ hướng dẫn mỗi người phải hành động như thế nào cho phù hợp với ý Chúa. Đó là một cách sống luôn tôn trọng sự thật, luôn quý trọng công bình, luôn tôn trọng quyền lợi của cá nhân và tập thể, luôn biết xây đắp bình an và gieo rắc công bình cho mọi người và mọi nơi đang cần sự công bình.

Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn tin tưởng rằng, Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, là Đấng luôn đem lại lý tưởng cao đẹp cho con người, luôn bù đắp cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Xin Mẹ hướng dẫn đời sống chúng con, luôn là cuộc lên đường để tìm Chúa không ngừng. Nhờ vậy đời sống chúng con sẽ được biến đổi thật sự, khi đã gặp được Đức Kitô Đấng muôn dân mong đợi, như các nhà chiêm tinh trong bài Tin mừng hôm nay. Amen.

 

43. Bày Mưu, Hoán Kế - Lm. Vũ Đình Tường

Bày mưu, hoán kế là việc làm của đầu óc. Sống yêu thương và tha thứ là đường lối của con tim. Đôi khi ta có chung kế hoạch nhưng đạt mục đích của kế hoạch chung lại khác nhau, tùy người. Bày mưu hoán kế đến từ trong đầu; ước mong đến từ con tim. Có thể nói Thiên Chúa tạo dựng bộ óc giúp ta nuôi thân nơi trần gian và ban cho con tim để con tim giúp tìm cách vào nước trường sinh. Vì thế đầu óc thường tìm hết kế này, cách khác tìm lợi nhuận cho riêng mình; trong khi con tim giúp chia sẻ tình thương. Vì hai đường hướng khác biệt mà có chiến tranh nội tâm. Một đàng là cách thức của khối óc; đàng khác là đường lối của con tim. Khi hai con đường đi ngược chiều, nội chiến xảy ra. Hai con đường đi cùng chiều, tâm hồn bình an. Khi đường lối đen tối khối óc thắng đường lối trong sáng của con tim thì khối óc biến con tim yêu thương thành con tim sỏi đá; Khi đường lối yêu thương con tim thắng đường lối khối óc thì khối óc đi theo đường chân lí, ánh sáng Phúc Âm. Khi không bên nào nhường bên nào thì đường ai nấy đi; óc theo đường của óc và ctim quyết theo đường riêng mình. Lúc đó chiến tranh lạnh xảy ra, đêm đến nghe tiếng con tim khuyên bảo, kêu gọi trở về con đường yêu thương. Khi khối óc từ chối, lâu ngày con tim mệt mỏi, tạm yên, nhỏ nhẹ hơn. Nó tạm đình chiến trong một thời gian, rồi sẽ trở lại. Đường lối của con tim là thế, kiên trì cho đến khi khối óc phải chào thua, lúc đó nó mới chính thức yên nghỉ. Tiếng nói nhỏ nhẹ trong tâm hồn đó được nhiều người biết đến là tiếng nói của lương tâm.

Đại diện cho đường lối đen tối và con tim sỏi đá là vua Hêrôdê bởi mục đích tối hậu của vua là tìm lợi ích cho riêng vua mà không loại trừ bất cứ âm mưu tàn ác nào, miễm âm mưu đó có lợi cho cá nhân vua. Chính vì thế mà vua không quan tâm đến tiếng than khóc nức nở của những người mẹ có con bị vua ra lệnh giết chết. Cái ngai vàng của vua quan trọng hơn sinh linh trẻ thơ. Nhà vua sống trong lo sợ, sợ mất ngai vàng, sợ mất chức tước, quyền hành nên vua ra lệnh giết tất cả các trẻ trai hy vọng giệt được ấu Chúa. Vua sợ một cách vô lí nhưng vì quá sợ nên vua không quan tâm đế dân. Vua để cho nỗi sợ hoành hành, quyết định. Vua dối trá với các nhà đạo sĩ đến hỏi vua làm sao để tìm ấu Chúa mới sinh. Miệng vua nói sẽ đi thờ ấu Chúa, thực tế lòng vua lo sợ và nghĩ kế tìm cách giết ấu Chúa.

Đại diện cho đường lối trong sáng và con tim yêu thương là ba nhà đạo sĩ bởi mục đích tối hậu của họ là đi tìm ấu Chúa để thờ lậy. Họ không ngại từ bỏ ngai vàng, ra đi, dấn thân tìm ấu Chúa. Dù ra đi tìm kiếm nhưng tâm hồn họ thanh thản, thân xác có mệt mỏi vì đường xa, xứ lạ nhưng an tâm, ấm lòng, đầy hy vọng. Họ mang theo lễ vật dâng tiến ấu Chúa nhưng họ nhận nhiều hơn là cho đi. Nhờ sao lạ dẫn đường họ đã tìm gặp ấu Chúa, thờ lậy xong họ được báo trong giấc mộng hãy theo đường khác mà về. Con đường đó lại được sao lạ đi trước dẫn đường. Chúng ta không biết họ đến từ nước nào, vương quốc họ ở đâu. Họ đến từ nơi xa vì nhận được dấu lạ, sao sáng dẫn đường. Họ đại diện cho tâm hồn trong sáng, tìm kiếm ánh sáng chân lí và tìm được. Hêrôđê cũng tìm kiếm nhưng không gặp ấu Chúa bởi lòng ông chai đá, tâm hồn thiếu ngay thẳng và đầu óc đen tối vì thế không thể nhìn thấy ánh sáng. Vua sống trong thất vọng, triền miên lo sợ. Thiên Chúa bằng cách riêng của Ngài, nhẹ nhàng phá tan mọi âm mưu đen tối mong phá kế hoạch của Ngài. Họ thất bại nhưng mắt vẫn không nhận ra vì thế họ tiếp tục sống trong bóng tối.

 

44. Ánh sao chỉ đường

Ngày xưa, lúc chưa có la bàn, các thủy thủ hay ngắm sao trời để định hướng đi. Vào thời CG, người ta cũng hay dựa vào việc chuyển động của các ngôi sao để dự đoán về chuyện đất trời liên quan đến sự sống của nhân loại. Các nhà chiêm tinh mà chúng ta quen gọi là Ba Vua hôm nay cũng dựa vào điềm sao để tìm đến với Hài Nhi Giêsu.

Thực sự ra, ngôi sao chỉ đường cho Ba Vua đến yết kiến Ấu Chúa Giêsu ra sao? Một nhà khoa học nói rằng: vào khoảng năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng lạ thường xảy ra trên bầu trời. Đó là hai ngôi sao Jupiter và Saturn năm đó sáp lại gần nhau tạo ra sự cộng hưởng ánh sáng, khiến cho vầng trời đông có một luồng sáng khác thường và kéo dài suốt mấy tháng. Chúng ta không sống vào thời điểm đó nên không biết có phải đó là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi hay không. Nhưng có một điều chắc chắn là Chúa Giêsu đã đến trần gian. Ngài là ánh sáng Sự Thật chiếu soi cho nhân loại đang sống trong u tối. Ngài đến để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết.

Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, tỏ mình ra cho Ba Vua đại diện cho muôn dân đến thờ lạy và dâng lễ vật quý giá lên Hài nhi Giêsu. Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc là vua Hêrôđê đang coi sóc miền Giuđêa, trong đó có làng Bêlem lẽ ra phải thông báo cho dân chúng về việc Đấng Cứu Thế ra đời để mọi người cùng tháp tùng với Ba Vua đến chiêm bái Chúa. Đàng này, vua âm thầm giữ lấy tin tức này một mình và hơn nữa lại nuôi ý đồ mưu sát Đấng cứu thế.

So sánh việc làm của Hêrôđê và Ba vua cho thấy loài người có hai thái độ khác nhau trước ơn cứu độ. Nhiều người vui mừng vì Chúa đã đến dạy cho mình điều hay lẽ phải để con người sống thanh cao, thánh thiện, xứng đáng trở nên con cái Chúa. Một số khá đông khác lại muốn khước từ chân lý, muốn sống trong bóng tối của sự giả trá, mê lầm. Họ muốn tạo lập một thế giới riêng, và bỏ qua tiếng nói của lương tâm, họ chỉ sống theo sở thích, chiều theo những dục vọng đam mê của bản năng.

Ánh sáng thật đã đến trần gian nhưng người đời chuộng tối tăm hơn sự sáng. Trong thời đại hôm nay, người ta cổ võ cho nền văn minh của bóng tối và họ cho đó là tự do: tự do làm điều xấu mà không ai dèm pha, rầy rà, người ta nhân danh quyền lợi của cha mẹ để tiêu diệt con cái mình từ trong trứng nước, sẵn sàng giết con ruột của mình lúc chưa kịp chào đời; người ta nhân danh tự do để quan hệ ngoài giá thú, trước hôn nhân... Và để lương tâm không cắn rứt khi làm những việc xấu đó họ đã lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhất là phim ảnh để làm lương tâm giảm nhạy bén về những tội này và tất cả mọi người cùng lầm lạc như họ. Có những người đang cố ý gieo rắc và cổ võ điều xấu, trong khi đa số loài người thì thờ ơ và không kiên quyết chống lại sự ác nên cũng gián tiếp làm cho sự ác lan tràn cách mau chóng.

Hêrôđê ngày xưa và thế gian ngày nay có xu hướng dập tắt ánh sáng chân lý để mọi người tiếp tục sống trong mù tối và đi vào con đường của sự chết. Đứng trước nền văn minh của bóng tối đó, Kitô hữu chúng ta hãy là những ngôi sao dẫn đường cho những ai thành tâm tìm chân lý được nhận biết Chúa và sống theo lời người để được ơn cứu độ. Mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao ở tại nơi mình sống. Mỗi người hãy tỏ lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người, từ thân nhân trong gia đình mình đến những người xung quanh đang cần chúng ta giúp đỡ. Nếu chúng ta biết chân thành yêu thương, hiền hòa, bác ái, thì chúng ta thật sự là những ánh sao dẫn đưa mọi người tìm đến với Chúa để được ơn cứu độ.

 

45. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).

1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)

Qua cái nhìn của ngôn sứ Isaia, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một vương quốc mới.

Ngôn sứ Isaia sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.

Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.

2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)

Thần học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là “Mầu nhiệm Đức Kitô”.

Thánh Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).

Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.

Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong Đức Kitô Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên hạ” (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).

Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”, tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ Isaia đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).

3. “Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)

“Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.

Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.

Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.

4. Sống Lời Chúa

Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.

Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).

 

46. Tỏa sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lễ Hiển Linh theo nguồn gốc văn tự Epiphaneia (Epiphany: manifestation or striking appearance). Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’). Theo truyền thống, Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới. Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua.

Từ 700 năm trước Công Nguyên, tiên tri Isaia đã loan tin vui về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1). Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60. 3). Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.

Tiên tri Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6). Các biến cố được ghi lại như một câu truyện xảy ra gọn gàng trong một thời gian ngắn ngủi. Thật ra lịch sử ơn cứu độ được mạc khải một cách tiệm tiến qua từng biến cố trong thời gian dài. Trong đêm hồng phúc, trước tiên Chúa tỏ hiện cho những mục đồng đơn sơ và nghèo nàn, tiếp đến là Chúa bày tỏ mình cho những người đại diện bên ngoại giáo đến từ xa và sau cùng Chúa đã tỏ mình cho toàn thể nhân loại trên thế giới.

Dựa vào Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."(Mt 2, 2). Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước. Chúa Giêsu đã dậy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).

Truyện kể có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ? Một tấm lòng và một sự quan tâm thực sự, cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống thật. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của lòng người. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).

Hình ảnh Ba Vua hay các Đạo Sĩ bái quỳ dâng tiến lễ vật và thờ lạy Chúa Hài Nhi bày tỏ lòng tin kính và bái phục. Họ không nghĩ về thân phận hay địa vị của mình nhưng thần phục trước Đấng được sai đến. Vất vả đường xa lặn lộn kiếm tìm nguồn sự sáng, các nhà đạo sĩ đã thỏa tâm. Sau khi gặp được Chúa Hài Nhi, họ đã theo đường khác để trở về quê hương xứ sở. Chúng ta chắc rằng họ là những người khôn ngoan biết ngước nhìn lên để tìm hướng đi. Mỗi người chúng ta cũng có những ước vọng và khao khát những điều cao thượng. Sự cao siêu phải từ trên dọi chiếu. Chúng ta không thể cúi mặt chỉ đi tìm những của cải trần gian mau qua chóng hết. Cuộc đời của con người không chỉ tìm kiếm của ăn, áo mặc, danh vọng, địa vị và tìm thỏa mãn bản năng, nhưng có sứ mệnh và mục đích cao cả hơn bội phần. Chúng ta cần phải hướng tới, nhìn lên và khát mong niềm vui bất diệt của cuộc sống thật mà Thiên Chúa đã an bài: Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em (Eph 3, 2).

Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân ngoại. Chúng ta thuộc về dòng dõi những người dân ngoại, nhưng lại được thừa hưởng ân sủng ơn cứu độ. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô để cùng chia phần sự sống. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm cao siêu được truyền ban cho các thế hệ. Nay Chúa cũng đang tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại qua đời sống của Giáo Hội: Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người (Eph 3, 5). Tuy không phải là dân Do-thái, như những kẻ được chọn, nhưng chúng ta hãnh diện tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô qua ân sủng của Ngài. Chúng ta trở thành dưỡng tử và được dự phần trong tiệc cưới Nước Trời.

Cùng đến máng cỏ Bêlem, ngắm nhìn Chúa Hài Nhi, các mục đồng và các đạo sĩ tiến dâng lễ vật, hôm nay chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa Hài Nhi? Kể câu truyện của thánh Giêrôm. Chúa Giêsu hỏi: Giêrôm, con lấy gì mừng Ta nhân ngày Ta sinh ra? Thưa, con xin dâng lòng con. Được, nhưng còn gì nữa? Con xin dâng mọi kinh nguyện và tất cả tâm tình của con. Còn gì nữa? Con xin dâng tất cả những gì con có và tất cả con đây. Ta muốn nữa? Thưa Chúa Hài Nhi, con chẳng còn chi cả? Chúa muốn con dâng gì nữa đây? Hãy cho Ta các tội của con. Ủa, để làm gì? Hãy cho Ta các tội của con, để Ta có thể tha thứ cho con tất cả. Ôi Chúa Giêsu, Chúa làm con phát khóc lên được.

Lạy Chúa, con có nhiều quà lắm nhưng không biết dâng Chúa món gì. Món quà mà con thích thì Chúa lại không ưa. Những món qùa Chúa mong, con lại muốn giữ lại cho mình. Xin cho con biết rộng mở tâm hồn để biết cho đi mà không cần phải so đo tính toán. Con xin dâng Chúa khả năng, thời giờ, của cải và cả những điều con ưa thích. Con dâng cả tội lỗi yếu hèn và sự bất toàn của con, xin Chúa đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.

 

47. Hướng lên – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Với niềm hy vọng phấn khởi, Tiên tri Isaia đã hân hoan loan báo với đoàn dân tin vui: Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi (Is 60, 1). Tuy dù còn cả hơn nửa thiên niên kỷ nữa, Đấng Cứu Thế mới giáng trần, Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng của ơn cứu độ. Thiên Chúa kiên trì dẫn dắt lịch sử của dân tộc Do-thái qua từng giai đoạn. Mọi biến cố xảy ra trong cuộc lữ hành đều in ghi dấu vết sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng hơn ba ngàn năm để chuẩn bị ban cho Dân Thánh một sự kiện trọng đại. Con Thiên Chúa sẽ giáng trần làm người. Đây là một hồng ân tuyệt vời cho cả dòng dõi nhân loại. Ngài sẽ đến giải thoát dân khỏi vòng nô lệ tội lỗi và dẫn lối vào ánh sáng chan hòa: Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi (Is 60, 3).

Lữ hành cuộc sống, vinh quang hay thất bại (ups and downs) là lẽ thường. Người ta thường nói: Năm chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh. Dòng đời con người có lên, có xuống và có thăng trầm, thành bại. Nhưng cuộc đời hầu như ai cũng muốn vươn lên. Mỗi ngày sống là một mời gọi tiến tới. Bước tới trên con đường trọn lành sẽ không bao giờ tròn đủ. Cũng như khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm trong tất cả mọi lãnh vực. Trong cuộc lữ hành trần thế, con người phát triển qua từng giai đoạn từ thơ ấu tới trưởng thành, từ ngây thơ tới sự hiểu biết, từ vô tri tới tri thức và từ yếu đuối tới sự mạnh mẽ. Lớn lên từ đơn côi tới tình yêu, từ sự an vui hoan lạc tới lòng tri ân cảm mến, từ đau thương tới lòng thương xót và từ sự sợ hãi tới niềm tin.

Hôm nay chúng ta cùng suy tư về sự hướng thiện qua bảy cửa ngõ (Seven-ups): Tỉnh dậy, tỉnh thức và thức dậy (Wake up), mỗi ngày khi mở mắt thức dậy, chúng ta đón chào một ngày hoàn toàn mới với nhiều ân lộc. Thiên Chúa đã an bài mọi sự trật tự lạ lùng trong vũ trụ để có ánh nắng mặt trời chiếu dọi sưởi ấm, có mưa tuôn hồng ân tưới gội đất đai mầu mỡ phì nhiêu, có tuyết rơi luyện lọc khí trong lành và có những làn gió thoảng đẩy xa bụi trần đời. Mỗi giây phút chúng ta sống là những phút giây hồng ân. Chúng ta không thể kéo dài và cũng không thể cắt bớt thời gian. Mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta hãy chọn thái độ sống và quyết định cho mình một ngày sống vui vì: Hôm nay là ngày Chúa đã làm ra, chúng ta hãy vui mừng hoan hỉ (Tv 118, 24).

Lên đồ, mặc quần áo hay trang sức (Dress up), mỗi buổi sáng, chúng ta sống thêm một ngày với những sự cố hoàn toàn mới. Đứng trước gương soi, quần áo ăn mặc chỉnh tề, khuôn mặt rạng rỡ, đầu tóc gọn gàng và trang điểm dễ coi và mỉm nụ cười, chúng ta hài lòng với khuôn mặt dễ thương của mình. Tướng mạo sẵn sàng để đối diện với mọi người và với đời. Trước khi rời gương soi, chúng ta cũng nên để tâm nhìn lại khuôn mặt thật của mình, hồn của chúng ta có trong sáng, tâm có chân thành, ý hướng có ngay lành và có quyết tâm hành thiện không? Bắt đầu một ngày sống, hãy mặc cho mình một bộ hành trang tương xứng với thân, tâm hài hòa.

Nhìn lên, ngước mắt lên, ngẩng đầu lên (Look up), muốn thấy bầu trời và các tinh tú, chúng ta phải ngước nhìn lên. Các nhà Đạo Sĩ đã nhìn lên để đi tìm kiếm dấu chỉ của Đấng Thiên Sai. Dấu chỉ là ngôi sao lạ xuất hiện: Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng (Mt 2, 10). Thượng đế ban cho con người có đôi mắt để quan sát và nhìn xem. Đôi mắt có thể nhìn xuống để đi tìm của cải vật chất và đồ ăn thức uống. Cặp mắt cũng có thể nhìn sang ngang để nối tình thân hữu và tìm kiếm sự liên đới xã hội. Hơn thế nữa, đôi mắt có thể ngước nhìn lên bầu trời bao la để nhận biết Đấng Tạo Thành vũ trụ và nhận ra những dấu chỉ thời đại qua sự vận chuyển của tinh tú. Các nhà Đạo Sĩ đã biết ngước nhìn lên trời cao để tìm kiếm những dấu chỉ hướng dẫn. Các ngài đã được đáp lại theo ý sở nguyện. Họ đã tìm gặp được Hài Nhi Cứu Thế nơi làng Belem nhỏ bé: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta (Mt 2, 6).

Đứng dậy hay đứng lên (Stand up), là một thái độ sẵn sàng để bước tới. Dấn thân như các vị Đạo Sĩ, bỏ nhà cửa quê hương và gia đình tìm theo tiếng thúc dục nội tâm. Các ngài không ngồi đó để chờ đợi, nhưng đã tiến bước trong sự tìm kiếm. Các Đạo Sĩ không giống như vua Herôđê ngồi ở nhà chờ đợi được báo tin. Các ngài đã tìm tòi hỏi han: Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2, 2). Với tâm hồn đơn sơ và chân thành, các Đạo Sĩ không ngần ngại vào nơi cung đình để hỏi han tìm đường. Họ muốn tìm đến Vua thật. Họ đã chuẩn bị qùa quí và lễ dâng để triều bái Vua người Do-thái: Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở (Mt 2, 9).

Hướng tới hay vươn tới (Reach up), con người luôn mong tìm đạt tới những kỷ lục hơn nữa trong mọi ngành nghề. Tất cả mọi loài động vật đều sống theo bản năng đã được phú bẩm. Con ong, con kiến, con chim từ đời này qua đời khác vẫn một mẫu sống như nhau, rất ít thay đổi. Lịch sử cuộc sống con người phát triển không ngừng. Qua mọi thời, khả năng của con người được in ghi và lưu truyền. Từ cuộc sống đơn sơ đi đến xã hội văn minh hiện đại. Khả năng của con người vươn tới theo thời gian và không gian. Trong tất cả mọi sinh hoạt cả tâm linh lẫn thể chất đều có sự đổi mới và thăng tiến mỗi ngày. Đời sống xã hội con người có mục tiêu và cùng đích, không chỉ đời này mà cả đời sau. Con người không chỉ bao gồm xác thân hay hư nát nhưng có một linh hồn bất tử hướng tới cuộc sống viên mãn.

Nâng lên, ngẩng lên hay hướng lên (Lift up), nâng tâm hồn lên tới Chúa qua lời khấn nguyện. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Philiphê khuyên rầng: Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4,6). Cầu nguyện là hướng lòng lên cùng Chúa để ngợi khen, cảm tạ và xin ơn tha thứ. Sự kết hợp với Chúa trong tâm trí và linh hồn đòi hỏi sự tập trung nối kết một cách mật thiết. Chúng ta không tôn thờ ngẫu tượng bằng gỗ đá vô hồn mà là Thiên Chúa, chủ thể hiện hữu sống động. Sự cầu nguyện của chúng ta phải luôn tập trung tâm ý và gắn bó với Chúa đừng để bị chia trí và xao lãng lo ra. Tâm tình cầu nguyện kết nối liên tục đừng để bị cắt đoạn, chia lìa hay rớt mạng.

Đóng, khép lại và im miệng (Shut up), Thiên Chúa tạo dựng con người có hai lỗ tai và một cái miệng. Hai tai để nghe cho rõ và một cái miệng để phát biểu. Hãy học lắng nghe và nói những điều chân thật. Trong bài hát 'Cao Cung Lên' của nhạc sĩ Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên, tiểu khúc một, có câu: "Thôi hỡi trần gian, im tiếng đi mà cung kính..." Chúng ta cúi mình thờ lậy và suy gẫm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể. Không thể diễn tả bằng lời mà hãy nhìn xem và cung kính như các nhà Đạo Sĩ: Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược (Mt 2, 11). Các nhà Đạo Sĩ không đặt câu hỏi hay nghi ngờ vì cảnh vẻ qúa nghèo nàn của gia đình thánh. Khi nhận biết dấu chỉ của Đấng Thiên sai, các ông đã cúi bái, phục lạy, tôn thờ và hiến dâng lễ vật.

Các nhà Đạo Sĩ không phải là người Do-thái. Họ đại diện cho các dân ngoại đến tôn nhận Con Thiên Chúa giáng trần. Ơn cứu độ phổ quát được ban phát cho mọi dân tộc. Thánh Phaolô trình bày: Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô (Eph 3, 6). Qua Bí Tích Rửa Tội và niềm tin, chúng ta cùng được thông phần ơn cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Cùng với các nhà Đạo Sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy, cảm tạ và tôn vinh danh thánh Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn gọi chúng con làm con dân của Chúa. Xin cho chúng con tiếp tục truyền rao chân lý phúc âm để nhiều người nhận biết Danh Thánh Chúa. Xin ánh sáng của Chúa tỏa chiếu trong tâm hồn chúng con và trên khắp cùng bờ cõi trái đất.

 

48. Ánh sáng cho mọi dân tộc – Flor McCarthy.

Bài giảng 1: Họ mở các kho tàng ra

Một trong những dụ ngôn của Aesop như sau: Một bé gái đang ngồi bên cạnh bức tường, thì đột nhiên, có một con cóc ló ra từ một cái hang. Cô bé này liền trải chiếc khăn quàng lụa của mình ra trước mặt con cóc, đây là loại vải mà con cóc rất thích được bước lên đó. Ngay khi vừa nhìn thấy chiếc khăn quàng, con cóc liền quay trở vào hang, và trở ra ngay, mang theo một vương miện nhỏ bằng vàng đính trên chiếc khăn quàng, rồi lại quay trở về hang.

Ngay tức khắc, cô bé liền cầm lấy cái vương miện, và bỏ vào túi. Ít lâu sau, con cóc lại trở ra, nhưng khi không nhìn thấy vương miện trên chiếc khăn quàng, thì con cóc liền bò lên bức tường, nó cứ đập cái đầu nhỏ xíu của nó vào bức tường một cách đầy đau khổ, cho đến cuối cùng nó bị vỡ đầu và chết. Nếu cô bé cứ để cái vương miện ở nguyên tại chỗ, thì chắc chắn con cóc sẽ còn mang thêm những kho tàng của nó ra khỏi hang nữa.

Mục đích của câu chuyện ngắn này cho thấy rằng mỗi người đều có một kho tàng để chia sẻ. Vấn đề là: Làm thế nào để chia sẻ kho tàng đó ra. Điều này đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn. Bí quyết hệ tại ở việc chia sẻ một cách tự nguyện. Không có lý do nào để bắt buộc mọi người phải hy sinh. Nếu bạn lấy đi những thứ của người khác, thì chúng bị nghèo nàn đi. Nhưng nếu bạn trao tặng chúng, thì chúng lại được phong phú lên. Con người về căn bản đều tốt, nhưng nếu họ đi vào vương quốc của tình yêu, thì họ phải đánh thức và kêu gọi tấm lòng tốt này.

Ở đây, Lễ Giáng Sinh đến hỗ trợ chúng ta. Nếu Con Thiên Chúa đến trong sự giàu sang, thì Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo hèn của mình. Từ đó, Người sẽ khơi gợi một cảm giác thèm thuồng nơi chúng ta, và làm huỷ hoại tâm hồn chúng ta. Nhưng Người đã đến trong sự yếu đuối, do đó, Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự giàu có của mình. Sự nghèo khó của Người khơi gợi nơi chúng ta một cảm giác thương xót, từ đó, mang tâm hồn chúng ta đến với sự sống. Khi nhìn vào cảnh nghèo hèn của Hài Nhi Vua Vũ Trụ, giúp chúng ta biết cởi mở tâm hồn của mình ra.

Chính sự nghèo hèn của Đức Giêsu đã làm cho các đạo sĩ mở ra kho báu của họ, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, đặt tất cả trước mặt Người. Thay vì bị nghèo nàn đi, các đạo sĩ lại được trở nên giàu có. Chính nhờ biết cho đi, mà chúng ta trở nên phong phú, bởi vì thông qua sự cho đi, chúng ta phát hiện được sự phong phú của bản thân mình.

Lễ Hiển Linh thách thức chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta. Nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Chúa Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở ra kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú.

Bài giảng 2: Tìm kiếm Chúa

Alan đang hồi phục trong bệnh viện, sau một tai nạn xe cộ. Lễ Giáng Sinh sắp đến. Một đêm kia, trong khi đang nằm trên giường, anh nhìn ra bên ngoài cửa sổ, và nhận thấy bầu trời đầy sao. Đột nhiên, anh bắt đầu suy nghĩ về các đạo sĩ, và cuộc hành trình đi Giêrusalem của họ, để tìm kiếm Đức Kitô.

Thế rồi anh lại bắt đầu suy nghĩ về bản thân mình, có một điều gì đó mà cho đến nay, chưa bao giờ anh thực sự làm. Và anh tự nhủ “Mình đã 22 tuổi rồi, mình đã làm được gì cho cuộc đời mình? Mình đã đi đến đâu?”. Câu trả lời là “Không đi đến đâu”. Anh vẫn còn sống theo những chuyện kích động và phấn khích. Anh đã lãng phí những năm tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình, những năm tháng mà một nhà thơ đã gọi là “những năm tháng rực rỡ”.

Sau đó, anh suy nghĩ về mối tương quan của anh đối với Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã không có được Chúa ngay từ đầu. Nhưng họ đã tìm kiếm Người, và kiên trì tìm kiếm, cho đến khi phát hiện ra Người. Đối với anh, thì trái ngược lại. Anh không hề tìm kiếm Chúa. Anh đã có được Chúa ngay từ đầu. Anh được lãnh bí tích Thanh Tẩy và được huấn luyện thành người Công giáo. Anh đi lễ nhà thờ thường xuyên, cho đến năm 15 tuổi. Nhưng đến nay, anh đã bỏ tất cả. Anh đánh mất Chúa. Và thay vì tìm kiếm Người, thì anh lại cố tình quay lưng lại với Người. Anh đã hoàn toàn rời xa Người. Ngoài ra, anh còn chống lại Người nữa.

Đối với anh, đó là một điểm rất tối tăm, khi tất cả những điều này dồn dập đến trong tâm hồn anh. Nhưng khi bóng tối đạt đến độ dày đặc nhất, thì một điều tốt đẹp xảy ra. Dường như ngôi sao của Chúa mọc ngay trước mặt anh. Anh nhận ra rằng ánh sáng của Chúa không hề bị dập tắt, nhưng vẫn còn tiếp tục toả sáng trong tất cả những năm tháng của cuộc đời anh, ngoại trừ có khi ánh sáng đó bị những đám mây che khuất. Và một sự thật tuyệt vời đã ló dạng trên anh: Mặc dù anh đã từ bỏ Chúa, nhưng Người vẫn không hề bỏ anh. Trong tất cả những năm tháng này, Chúa vẫn đang tìm kiếm anh.

Tâm hồn anh tràn đầy niềm vui. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng mình đáng giá đối với bất cứ ai, nhất là đối với Thiên Chúa. Và anh đã tự nhủ “Kể từ bây giờ, tôi có một ngôi sao sẽ không đánh lừa tôi, tôi có một chiếc la bàn sẽ không nói dối tôi”.

Khi các đạo sĩ tìm thấy Chúa, họ dâng lên Người những lễ vật tuyệt vời –vàng, nhũ hương, mộc dược. Bây giờ Alan đã gặp được Chúa, vậy anh có thể dâng lên Người cái gì đây? Có một thời gian, anh đã từng hoàn toàn bị lạc lối. Nhưng rồi anh nhận ra rằng có điều gì đó mà anh có thể dâng lên Chúa. Anh có thể dâng lên Chúa chính bản thân mình. Nhưng tất nhiên là trước hết, anh phải tìm thấy bản thân mình, trước khi anh có thể hiến tặng bản thân mình như một quà tặng cho bất cứ người nào khác. Tuy nhiên, ít nhất là anh có thể khởi sự, và anh xác định là phải làm điều đó ngay tức khắc.

Lễ Giáng Sinh đến, mà Alan vẫn còn trong bệnh viện. Nhưng mọi người đều ngạc nhiên khi nhận thấy sự thay đổi nơi anh. Cho đến nay, anh luôn mang đầy vẻ cay cú về cuộc sống nói chung, vụ tai nạn của anh nói riêng. Bây giờ, anh đã có nụ cười và lời nói vui vẻ với tất cả mọi người. Ai cũng bối rối không biết điều gì đã làm anh thay đổi. Nhưng chính Alan đã biết điều đó: Chính nhờ sự kiện anh đã gặp được Chúa. Không ai có thể thực sự tìm thấy Chúa, mà không thay đổi.

Những năm sau đó, anh nói “Đó là ngày Lễ Giáng Sinh đích thực đầu tiên trong cuộc đời tôi. Không, tôi không thể nghe được các thiên thần hát trên bầu trời. Nhưng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an, mà các thiên thần đã hát trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó”.

Mọi người đều cần có một ngôi sao để đi theo, giống như những con tàu cần đến ngọn hải đăng mang ánh sáng, để hướng dẫn chúng vào bến bờ một cách an toàn. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đi theo ngôi sao của Chúa ở trước mặt chúng ta, và chúng ta càng được chúc phúc gấp bội, nếu chúng ta kiên vững đi theo ngôi sao đó trong toàn bộ cuộc sống của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta gắn bó toa tàu của chúng ta vào ngôi sao đó, một ngôi sao của hy vọng, ngôi sao của Bêlem. Nhiều người trải qua cuộc sống của họ trong sự tìm kiếm những điều mà chúng ta có, mà vẫn không tìm thấy được.

Và chúng ta không được sợ hãi, nếu kết quả đưa đến là chúng ta nhận thấy cuộc sống của mình thay đổi –sự thay đổi sẽ tốt đẹp hơn. Điều này sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, mà thế gian không thể đem lại được.

CÂU CHUYỆN KHÁC: Bức màn được vén lên

Chữ Hiển linh có nghĩa là sự mặc khải. Sau đây là một ví dụ ngắn gọn và đơn giản: Đôi khi, trong một ngày u ám, lạnh lẽo của mùa đông, một tia sáng xuất hiện trong một lớp mây dày đặc, và qua đó, chúng ta thoáng bắt được ánh nắng lấp lánh của mặt trời. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, tia sáng bị che khuất, và mặt trời lại biến mất. Nhưng sự thoáng hiện ngắn ngủi của một thế giới sáng sủa hơn, ấm áp hơn, vẫn có thể đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Chỉ cần nhớ lại điều này thôi, sự lạ lùng của nó vẫn có thể tác động trong tinh thần của chúng ta.

Cuộc sống hằng ngày đầy rẫy những sự mặc khải nhỏ bé, đối với những ai có đôi mắt để nhìn, và có tâm trí để suy gẫm. Chúng len lỏi xuyên qua những khe hở của cuộc sống bận rộn của chúng ta – một giây phút của sự bình an, hoặc của nét đẹp, hoặc của tấm lòng tốt.

Vào ngày này, ngày Lễ Hiển Linh, bức màn bí nhiệm được vén lên, giúp cho các đạo sĩ có thể thoáng bắt được tia sáng lấp lánh của Hài Nhi ở Bêlem. Một số người nhìn vào con trẻ Giêsu Kitô, và chỉ nhìn thấy giống như một đứa trẻ khác. Những người khác, chẳng hạn như Hêrôđê, đã nhìn vào Hài Nhi như một mối đe doạ. Nhưng các đạo sĩ đã nhận ra con trẻ Giêsu như là Đấng Cứu Độ. Tất cả những người đó đều cùng có đôi mắt như nhau, tuy nhiên, với những đôi mắt đó, họ không nhìn thấy cùng những sự việc như nhau. Chính lòng tin đã đem lại khả năng cho các đạo sĩ, để nhìn xuyên thấu qua bức màn, và “thấy” sự thật ở phía sau đó.

Tuy nhiên, ngay cả đối với họ, bức màn cũng khép lại, ngôi sao biến mất, và họ phải quay trở về nhà. Kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Chúa đã tạo ra được sự khác biệt gì cho họ? Xét về một khía cạnh, thì cuộc gặp gỡ này không hề tạo ra sự khác biệt nào cả: Họ vẫn phải trở về với cuộc sống cũ, công việc cũ của họ v.v… Tuy nhiên, xét về một khía cạnh khác, có thể nói rằng điều đó đã tạo ra cả một thế giới, thay đổi đối với họ. Bấy giờ, họ đã có được một tầm nhìn mới, một hy vọng mới.

Đối với họ, mặc khải này đã là những giây phút đưa dẫn họ đến với chân lý bằng con đường tắt. Đó là một ánh sáng loé lên, chiếu tỏ vào cuộc sống của họ, và đem lại cho từng giây phút của cuộc sống một ý nghĩa mới. Chắc hẳn họ đã dành ra thì giờ suy gẫm, để thấu hiểu được ý nghĩa của điều mà họ phát hiện được, vào cuối cuộc hành trình đi đến Bêlem. Nhưng trong những ngày bị mây che phủ, họ rút ra được lòng can đảm và niềm hy vọng, từ mặc khải mà họ đã được ban.

Giống như các đạo sĩ, trong ngày lễ này, chúng ta phải đến thờ lạy con trẻ Giêsu Kitô. Và lại cũng giống như các đạo sĩ, chúng ta phải trở về nhà mình, và tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ nhận thấy cuộc sống khác biệt hẳn, bởi vì chúng ta tự nhận thấy bản thân mình cũng khác đi. Nơi Hài Nhi thần thánh, chúng ta nhận ra được thần tính của chính mình.

Đôi khi, người ta đi hành hương những quãng đường thật dài, để tìm kiếm nhưng kinh nghiệm thiêng liêng, mà họ vẫn có thể có được ngay tại chỗ ở của họ. Chúng ta không cần phải đi đến bất cứ nơi đâu. Ngôi sao của Chúa chiếu toả ngay trước mặt chúng ta ở nơi đây. Nhờ Đức Kitô ngự đến, chúng ta không cần phải sợ hãi bóng tối nữa. Một ánh sáng đã đến với thế giới, một ánh sáng chiếu toả trong bóng tối, một ánh sáng mà không ánh sáng nào khác có thể chế ngự được.

 

49. Cuộc hành trình đức tin

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…

Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:

Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)

Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.

“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).

Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…

“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).

"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).

Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.

“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).

Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.

“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.

Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.

Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.

Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.

Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.

Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.

“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).

Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.

Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.

… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ

Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.

Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.

Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.

Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).

Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.

Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.

Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.

Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.

Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.

Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.

Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.

Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.

Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.

Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.

Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.

Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.

Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.

Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.

Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.

Lạy Chúa,

Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:

-“Vì sao Thánh Giá”

tỏa sáng muôn nơi,

khắp mọi phương trời,

dẫn đưa con người,

về miền đất hứa:

-“Thế giới đệ huynh

anh em một nhà,

Thiên Chúa là Cha.” Amen.

 

50. Câu chuyện về ngôi sao lạ

Ý của tác giả là gì? Trước là Ba Vua, nay là Hiển Linh? Bản văn rất khó hiểu vì là thể văn "thần hiện" có nhiều chi tiết hoang đường khó giải thích.

Các bản văn về thời thơ ấu có muộn nhất trong các bản văn Phúc Âm Khi Đức Giêsu được tin chắc chắn và phổ biến là Đức Chúa và là Đấng Cuứ Thế "Messia" (Lc 2,36). Thì các lời Kinh Thánh đã được thực hiện. Mọi sự phải xảy ra theo như các lời Kinh Thánh đã tiên báo. Lấy những lời Kinh Thánh đã tiên báo mà viết lại về thời thơ ấu dệt thành những câu chuyện tường thuật theo cách riêng của mỗi tác giả như chúng ta thấy Luca khác Matthêu khác cộng với óc thần thoại và các chi tiết hoang đường để diển tả tính cách thần thánh của các sự việc. Gọi là thể văn "thần hiện". Thánh Âu Tinh cho là không nói sai mà là nhằm chuyển tải một ý tưởng thần học. Ý tưởng thần học thì rất thật. Cha Gomez: Phúc Âm là thần học. Đơn giản nhưng táo bạo vì là lần đầu tiên được nói lên. Trước kia vì bảo thủ và tôn sùng Kinh Thánh là của Chúa từ chấm từ phết nên cứ tin không nghi ngờ gì hết. Ngày nay Giáo Hội "để cho nói" và nhiều người dám nói và thử nói sau những nghiên cứu công phu của nhiều người và suốt thời gian chừng năm mươi năm.. Phải làm sao đi đến được ý của tác giả. Các vật liệu làm thành câu chuyện là miếng trầu làm đầu (giàu) câu chuyện. Cũng gọi là thể văn bình giải: giải thích Cựu Ước bằng Phúc Âm. Đúng hơn là để Đức Giêsu giải thích Cựu Ước.

Người ta đã phí nhiều công sức để tìm giải thích ngôi sao lạ là một sao chổi lệch quỹ đạo, vua hay đạo sĩ..v..v. Ngày nay: Đừng mất công vô ích. Đó chỉ là những chi tiết hoang đường (thần thoại) mà thể văn thần hiện thường dùng làm chất liệu.

Ba nhân vật chính làm thành bức tranh, đến từ phương đông mang lễ vật "vàng nhủ hương mộc dược" để cống bái là thực hiện Is.60,5: kho tàng bể khơi, nguồn phú túc của chư dân, những con lạc đà......họ sẽ loan truyền lời ca ngợi Chúa:

- Ba là con số của Thiên Chúa

- Phương đông: Văn hóa Á đông dùng chỉ người hiền "hiền triết".

- Ngôi sao lạ thực hiện Ds.24,17b: Một ngôi sao gốc từ Giacob mọc lên dẫn đầu, (cũng gọi là ngôi sao Giacob). Một vương trượng gốc từ Israel đứng lên: Vương trượng là vua. Vua chư hầu đến triều bái và triều cống Thiên Tử. Hài Nhi mới sinh là Thiên Tử, là vua Israel. Do thái gọi là Messia-Vua. Không biết ba vị ấy là nhân vật thế nào nhưng có lẽ ý của Matthêu muốn nói vua chư hầu đến triều cống Thiên Tử. Nên gọi là lễ Ba Vua.

- Bêlem vì Mk 5,1-3 đã tiên báo: Hởi Bêlem, đất Giuda... nơi ngươi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ sinh ra.

- Đức Giêsu là Đức Kitô thì mọi lời Kinh Thánh tiên bào về Messia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu hay Đức Giêsu đã thực hiện những lời tiên báo ấy nơi bản thân Người. Phải hiểu và giải thích theo cách mà Đức Giêsu thực hiện. Nên nói Đức Giêsu làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng.

- Ba Vua: Vua chỉ vương trượng gốc từ Israel (Ds.24,17b).

- Lễ vật "vàng nhủ hương môc dược": quí nhất tượng trưng cho Is,60,5. Ý của Matthêu là Triều cống Thiên Tử, tuyên xưng Đức Giêsu là Messia- Vua người do thái mong đợi như đã tiên báo.

Ba Vua, sao lạ, lễ vật là ba chi tiết quan trọng nhất làm thành ngày lễ và có lý mà gọi là lễ Ba Vua. Các chi tiết khác là hoa lá râu ria trang điểm cho bài viết hấp dẫn.

Không giải thích cách nầy thì hoàn toàn bế tắc về những khác biệt giữa Mt và Lc và những sai lệch về lịch sử nếu cứ nói Kinh Thánh là Thiên Chúa mạc khải cứ tin không được nghị luận.. dù là chấm phết.

Phải nói là Phúc Âm không viết lịch sử. Chi tiết lịch sử được mượn tạm làm chất liệu nên không được quan tâm lắm tới tính chính xác. "Lịch sữ" có nghĩa là có xảy ra còn thời giờ và địa điểm thì lơ mơ thôi.

Quan tâm chủ yếu là thần học, là câu chuyện cứu độ. Phải đến càng gần ý của tác giả thì tốt.

Truớc Giáng Sinh Đức Maria và Giuse ở Nazarét hay Bêlem?

Lc: Nazaret để nói người là Nazareus (người của Nazaret). Không quan tâm tới dòng tộc Đavít. Sau bốn mươi ngày, dâng Đức Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy cho Đức Maria rồi thì trở về Nazaret. Không có trốn sang Ai cập. Luca bỏ qua nhiều chi tiết "do thái".

Mt: ở Bêlem. Trốn sang Ai Cập vì có lời Kinh Thánh "ta sẽ gọi con ta ra khỏi Ai Cập" (Để trốn sang Ai Cập thì phải bị đuổi giết). Sau khi ở Ai cập về vì sợ Archelao độc dữ mới về Nazaret. Bêlem: dòng tộc Đavít. Nazaret để người cũng được gọi là Nazareus. Matthêu kỹ lưỡng không bỏ sót chi tiết nào về do thái.

Những sai lệch về lịch sử thì giải thích thế nào? Luca sau bốn mươi ngày thì về Nazaret. Còn Matthêu thì khi đi Ai Cập Đức Giêsu đã hai tuổi. Hêrôdê chết năm 4 sau CN. Ít là bốn năm sau mới về Nazaret. Định về Bêlem nhưng sợ Archêlao mới lánh về Nazaret.

Kiểm tra dân số là vào năm thứ sáu sau Đức Giêsu thời Quirinô là thủ hiến Syria.

Lc chỉ muốn nói: Đức Giêsu là người Nazaret, ở Nazaret. Nhưng để có họ Davit thì có kiểm tra dân số dể lên Bêlem, sinh ra tại đó vì Giuse là dòng tộc Davít. Bêlem là thành của Đavít.

Còn Matthêu thì Đức Giêsu là Messia con vua Đavít (ở Bêlem), Ta gọi con ta ra khỏi Ai Cập (phải sang Ai cập rội trở về). Để là Nazareus thì về ở Nazarét.

Hêrôdê là tiểu vương của Galilê, miền bắc. Giêrusalem ở Giuda miền nam. Cho Hêrôdê ở Giêrusalem và tàn sát các anh hài vô tội là để thực hiện lòi Kinh Thánh: Gr 21,15: ở Rama...bà Rachel than khóc...vì con bà không còn nữa.(lịch sử đời không có ghi cuộc tàn sát nầy).

Hai bản gia phả cũng không giống nhau.

Luca thay vì Ba vua thì có thiên thần bảo mục đồng và các chi tiết kèm theo là cách chứng minh riêng Đức Giêsu giáng sinh là "Đấng Cứu thế đã giáng sinh", là Đức Kitô, là Đức Chúa ví có các dạo binh thiên quốc hợp với các thiên thần ca tụng Thiên Chúa.

Rồi Simêon nói tiên tri, bà Anna nói tiên tri.

Tất cả nhằm chứng minh "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Luca không quan tâm Đức Kitô do thái, con Davít. Matthêu thì phải làm sao cho Đức Kitô là con Đavít do thái.

Đơn giản là mượn tạm những chi tiết lịch sử để phục vụ những muc đích thần học về cứu độ, mỗi vị theo cách của mình.

KẾT

Bài tường thuật là nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đức Kitô. Nhưng Matthêu thì là Đức Kitô-Vua do thái. Luca thì là Đức Kitô của muôn dân. Đức Kitô đã được tiên báo nay thực hiện, Mathêu thì đầy đủ mọi lời đã tiên báo còn Luca thì một ít.

Nghĩa 'áp dụng' của bài tường thuật là loan báo Đức Kitô cho muôn dân như ánh sáng muôn dân. Ngôi sao trên nền trời chung ai cũng thấy được. Nhưng thấy mà cất công tìm găp thờ lạy "tin" và dâng lễ vật quí nhất là suy phuc bằng tất cả cuộc đời chỉ có ba vị. Đó là "hành trình của đức tin" gian nan, phải vượt khó, đến nơi, gặp được Chúa mới được vui mừng. Có những tín hữu không được vui mừng vì chưa vượt khó, chưa gặp Chúa. Tín hữu mà chưa tin nên chưa có gì. Chúa ban nhiều trợ lực trên hành trình nhưng mỗi người phải cất công lên đường, quyết tâm vượt khó đi tìm Chúa, phải tới nơi, gặp được, tin mới có vui mừng.

Chúa Giêsu là ánh sáng muôn dân, ánh sáng mời gọi mọi người và chờ đợi đón tiếp niềm nở để trao cho niềm vui ơn cứu độ Người đã sắm sẳn qua sự Phục Sinh vinh quang, đang sống, dang hiện diện và đang hoạt động cứu dộ mọi người.

Thấy ngôi sao họ mừng rở vô cùng (c.10). Ngôi sao là cứu tinh, là Đức Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh mà có thấy, có gặp và có vui mừng để rồi tiếp tục được vui mừng trong cuộc sống hằng ngày không.

 

51. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc

Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.

Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?

“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.

Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1)

Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.

Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.

Sau này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12)

Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.

Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.

Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.

Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.

Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.

nguon:http://gplongxuyen.org/News