Chúa Nhật 01/05/2022 – Chúa Nhật 3 Phục Sinh Năm C. – Chăn dắt chiên mẹ, chiên con của Thầy.

Chúa Nhật 01/05/2022 – CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH Năm C. – Chăn dắt chiên mẹ, chiên con của Thầy.

"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

 

Lời Chúa: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.

Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy.

Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".]

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Suy niệm CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH - Năm C

Lời Chúa: Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19

 

1. Chúa đó--‘Manna’

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,

trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.

Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.

Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:

"Tôi đi đánh cá đây.”

Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:

"Chúng tôi cùng đi với anh”.

Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.

Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.

Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,

và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.

Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến

thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.

Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.

Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,

nhảy tùm xuống nước bơi vào,

vì nóng lòng muốn gặp Chúa.

Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.

Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.

Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.

Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.

Đây không phải là một nhóm bạn khép kín,

nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.

Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài

là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.

Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.

"Không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).

Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.

Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,

được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.

Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.

Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.

Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.

Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn,

qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.

Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.

Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.

Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi,

vừa tập trung nơi thánh lễ.

Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.

Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.

Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy,

nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo.

Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu:

"Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy".

Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:

"Hãy chăn dắt chiên của Thầy."

Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh,

cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên.

Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến.

Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một "mẻ cá lớn”không?

Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Đó có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và được lãnh đạo bằng tình yêu không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,

xin hãy gọi tên chúng con

như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,

xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài

như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,

xin hãy đến và đứng giữa chúng con

như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,

xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con

như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì,

xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,

như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,

xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,

để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,

và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

 

2. Mầu nhiệm Giáo Hội--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.

Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.

Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.

Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?

2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?

3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?

 

3. Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển"-- Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.

Khung cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy: chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.

Xin cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng nàn hơn.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Rất nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của Chúa.

- Rất nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do chính Chúa dọn cho chúng ta.

- Rất nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I (Cv 5,27b-32.40b-41)

Trích đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh:

- Vì rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng do thái bắt.

- Dù vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.

- Sau khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu, và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.

2. Tin Mừng (Ga 21,1-9)

Phần cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria:

- Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.

- Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)

- Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.

- Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.

3. Bài đọc II (Kh 5,11-14)

Trong một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con Chiên:

- Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và vinh quang.

- Tất cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn thờ và tung hô Con Chiên.

IV. GỢI Ý GIẢNG

1. Sức khám phá của tình yêu

Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.

Như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế: lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.

Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? thích chở nhau đi chơi? thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng: "Ubi amatur, non laboratur": khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

2. Thủ lãnh giáo hội (Ga 21,1-19)

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:

Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.

Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: "Quo vadis?" nghĩa là "Người đi đâu đó?" Người ấy trả lời: "Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa". Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa" (Ga 21,18-19).

Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm "Đá tảng", thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:

Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: "Tôi đi đánh cá đây". Các môn đệ khác cũng đồng tình: "Chúng tôi cùng đi với anh". Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: "Chúa đó!" Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?". Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn" (x. Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy" (Ga 21,17).

Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy Đã Yêu".

****

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã yêu mến Người thiết tha.

Xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.

Như thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng: Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận, nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (Thiên Phúc)

3. Tình yêu và lý luận

Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh: Tôma đã tuyên bố "nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa: một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. và Tin Mừng ghi chú "Gioan là người môn đệ Chúa yêu". Chính Tình Yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.

Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin: Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.

Trong vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay: "Phải mày là thằng Chơn đó không?" Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời "Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà". Nhưng bà mẹ nói "thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà". Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của Thánh Gioan cũng vậy: trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.

Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là: ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.

Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giêsu đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giêsu hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.

Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy!

4. Sự hiện diện của Đấng phục sinh

Các bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu biết về cách thức hiện diện của Ngài:

- Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc bình thường của chúng ta.

- Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.

- Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.

- Mặc dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng về Ngài.

5. Đừng xóa sổ người ta

Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị "xóa sổ". Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời?

Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.

Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi: "Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không?" Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa: "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy". Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.

Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.

Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài: chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết: "Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pr 4,8).

Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.

Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.

Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.

Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)

6. Ơn gọi thứ hai

Ngày xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.

Nhưng mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ, có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy anh, mọi người đều vui mừng reo lên: "Tới đây, tới đây". Không chờ mời lần thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh "Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng tôi".

Về đến nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra nói: "Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng". Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao đẹp thế nào; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã đông cứng.

Nhưng đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.

Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng "Vâng" thứ hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng "vâng" lần thứ nhất.

Câu chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và xác tín hơn.

Mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương: yêu thương Chúa, và yêu thương những chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của ta. (FM)

7. Chịu khổ vì Chúa

Bài trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền do thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế? Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.

Từ thời các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.

Rất dễ tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.

Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người thời nay.

Chúng ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo. Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy. Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu xin:

1. Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.

2. Vâng lệnh Chúa Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.

3. Không có Thầy / anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả bất ngờ.

4. Hãy đi theo Thầy / Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ trong đời sống thường ngày.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.

- Sau kinh Lạy Cha: Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…

VII. GIẢI TÁN

Chúa đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta. Anh chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.

 

4. Hãy chăn dắt chiên của Thầy--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều nhằm một mục đích nào đó chứ không phải cứ hiện ra khơi khơi, thích hiện ra thì hiện. Theo bài Tin mừng hôm nay, đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ sau ngày Phục sinh. Trong khi các môn đệ còn ở trong tâm trạng hoang mang, vui buồn lẫn lộn thì Chúa hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông, trao ban cho các ông một sứ vụ mới: trao quyền lãnh đạo cho Phêrô và trao cho các ông sứ mạng đi truyền giáo.

Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn báo cho các ông biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5,29).

Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu dộ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.

Ngoài ra, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã trở nên những thành viên trong Giáo hội, mỗi người đều được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, xóm làng và cộng đồng, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta  cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhậïn thức rằng Chúa hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù chúng ta không cảm thấy.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1: Cv 5,27-32.40-41.

Sau khi chữa lành một số bệnh nhân, các Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, nhưng được giải thoát một cách lạ lùng. Phêrô cùng các Tông đồ khác lại xuất hiện và rao giảng cho dân chúng trong Đền thờ. Các ngài lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét xử. Phêrô trả lời cách quả quyết: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Lời biện hộ của Phêrô  có thể làm cho ngài bị kết án tử hình, nhưng Gamaliel, một tiến sĩ luật, đã can thiệp và các ngài được tha sau khi bị đánh đòn.

Nhưng vị thủ lãnh các tông đồ luôn kiên quyết bảo vệ quyền tự do của các Kitô hữu đối với quyền bính đời này, không gì có thể ngăn cản các ngài giảng dạy và loan báo Tin mừng về Đức Giêsu; các ngài vui mừng vì được coi là xứng đáng bị khổ nhục vì danh Đức Kitô, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở với các ngài.

+  Bài đọc 2: Kh 5,11-14.

Thánh Gioan kết thúc thị kiến thứ nhất về Con Chiên Thiên Chúa, tượng trưng cho Đức Giêsu, bằng một nghi lễ phụng vụ, trong đó vũ trụ  hiệp cùng các thiên thần ngợi khen tung hô quyền năng vô hạn của Con Chiên đã bị sát tế. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như vị vua và Thiên Chúa: “Xin chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Đấng ngự trên ngai và Con Chiên đến muôn thở muôn đời”.

+  Bài Tin mừng: Ga 21,1-19.

Đoạn cuối của Tin mừng Gioan tập trung kể lại câu chuyện thánh Phêrô nhận lãnh chức vụ thủ lãnh tối cao của các Tông đồ. Lúc đó các môn đệ gồm 7 người sinh sống tại Galilê, nơi lao động thường xuyên của các ông…. Sau mẻ cá lạ lùng, Đức Giêsu Phục sinh trao cho thánh Phêrô chức vụ chủ chăn. Vì thánh Phêrô đã ba lần chối Thầy nên Đức Giêsu cũng ba lần đòi ông tuyên xưng lòng yêu thương. Ba lần hỏi như thế để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát (bù lại ba lần chối) để Đức Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: “Lãnh đạo toàn thể Giáo hội” mà vị lãnh tụ tiên khởi vềà sau đã phảiõ trả giá bằng cuộc tử đạo (+64) thời Néron để nên giống Thầy mình.

Địa vị tối thượng trao cho Phêrô là một thể chế chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô đối với loài người, và nếu vị chủ chăn thật sự yêu thương đoàn chiên của mình thì dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối vớ nhân loại sẽ được bầy tỏ cho thế giới.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Sứ mệnh làm chứng cho Chúa.

I. MỘT MẺ LƯỚI LẠ LÙNG.

1. Tâm trạng của các môn đệ.

Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn đệ tỏ ra hoang mang lúng túng, có ông tỏ ra thất vọng trước ý đồ của mình như hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng sau khi Đức Giêsu hiện ra với họ thì tâm trạng của họ lúc này trở nên khó tả: buồn vì cuộc tử nạn của Thầy mình, vui vì thấy Thầy mình đã sống lại, nhưng vẫn còn hoang mang vì sự hiện diện của Thầy sống lại không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khỏa và để kiếm gì để ăn chứ! Các ông theo Phêrô, xuống thuyền đánh cá, nhưng suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Kinh nghiệm đánh cá của Phêrô cũng chẳng giải quyết được gì.

2. Đức Giêsu hiện ra lần thứ ba.

Trong lúc hiện ra lần thứ nhất với các môn đệ (Ga 19,23) các ông đều nhận lấy từ nơi Thầy những ơn là: sự bình an, sứ mạng, ơn Thánh Thần, ơn “tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha”(Ga 19,23). Phêrô và Gioan không có vai trò gì trổi vượt. Lần hiện ra thứ hai với các môn đệ (Ga 19,24-29), Tôma chứ không phải là Phêrô hoặc Gioan nhận được sự chú ý của Thầy. Chính Tôma, tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”! mà Thầy Giêsu đã chúc lành cho những người không thấy mà tin”(Ga 19,29). Rồi đến lần hiện ra thứ ba với các môn đệ (Ga 21,1-19), xem ra hai ông Phêrô và Gioan  tìm kiếm  điều hai ông đã đạt được. Các ông được thấy Thầy các ông trong sự sống và hoạt động hoàn toàn mới: tất cả qui về tập thể mà các ông là thành viên và các ông chính là người đứng đầu điều khiển mọi sự trong hậu trường.

3. Một mẻ lưới kỷ lục.

Sáng sớm, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, các ông từ thuyền trông thấy, nhưng không nhận ra Ngài. Ngài hỏi các ông  câu hỏi thường thức  như người ta quen hỏi các người đi đánh cá: Có kiếm được gì ăn không? Các ông đồng thanh trả lời: “Thưa không”. Ngài bảo họ: “Cứ thả lưới bên phải thuyền thì sẽ có cá đấy”. Họ thả lưới, và kết quả là mẻ lưới của các ông đầy cá. Lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Và do đó, các ông nhận thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng của Chúa, chứ không do sự chuyên nghiệp của các ông  vì các ông đã thất bại suốt một đêm trắng.

Các ông kéo lưới vào bờ và đếm được 153 con cá lớn mà lưới vẫn không rách. Lưới không rách là hình ảnh Giáo hội, sự hiệp nhất không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,47-50), những con cá là hình ảnh giáo hữu đã chinh phục cho Chúa  bằng lời giảng dạy của các Tông đồ.

Còn về vấn đề 153 con cá lớn, theo thánh Giêrônimô, một học giả Thánh Kinh, thì con số 153 có nghĩa là  các nhà chuyên khảo cứu về cá lúc bấy giờ biết được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất nhiều cá  chứ không nhất thiết là 153 con. Nếu con số 153 mang ý nghĩ như vậy, thì Chúa muốn các Tông đồ phải đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho cả thế giới và như vậy con số 153 là biểu tượng con số đông đảo những tân tòng, những người lãnh nhận đức tin sau này.

II. PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH GIÁO HỘI.

1. Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh.

Để qui tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều Đức Giêsu muốn  là phải có một người dẫn dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô – vị Tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt thì tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không”? Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta  dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại, với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người.

Chính vì thế, Đức Giêsu đã phải hỏi Phêrô đến ba lần – có thể là sự gợi nhớ  ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói quen thời đó, để chính thức ủy thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo Thầy của mình trong quãng đời còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Đức Giêsu - Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.

2. Con người thủ lãnh Phêrô.

* Yêu Chúa tận tình.

Ai cũng biết tính tình của Phêrô là nóng nảy, vụt chạc, nghĩ sao nói vậy. Liên hệ đến tính tình nóng nảy của ông là sự cứng đầu của ông. Trong bài đọc 1 trích từ sách Công vụ tông đồ, chúng ta thấy rõ một hình ảnh khác của Phêrô, không phải chỉ là một Phêrô đã ăn năn hối cải, nhưng còn là một con người mới, một tạo vật mới, rất can trường. Ôâng rất cứng đầu vì tình yêu Chúa Kitô. Khi Phêrô bị điệu ra trước thầy cả thượng phẩm để bị tra hỏi vì đã rao giảng nhân danh Đức Giêsu, Phêrô không chút sợ hãi mà tuyên xưng rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5,29). Sau này Phêrô đã xin được đóng đinh vào thập giá, nhưng để khác với Thầy vì cảm thấy mình không xứng đáng, Phêrô đã xin treo ngược đầu xuống. Có tình yêu nào sánh được với ngọn lửa tình yêu của Phêrô dành cho Đức Giêsu không?

* Yếu đuối và gan dạ.

Chúng ta thấy trong con người Phêrô có pha trộn sự yếu đuối và can đảm, gan dạ. Ôâng yếu đuối vì đã chối Chúa nhưng ông trở nên gan dạ sau khi đã chỗi dậy.Tôi tin chắc rằng Phêrô không bao giờ quên sự kiện ông đã chối Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi hồ nghi không biết lỗi lầm này có ảnh hưởng ông hay không, giống như một số người đã bị ám ảnh vì những tội lỗi của họ.Ôâng đã học được một bài học vĩ đại từ sự vấp ngã của mình. Ôâng nhận ra rằng ông không được can đảm giống như ông đã nghĩ về mình. Khi học được một bài học, thì đó là một điều tốt đẹp và bổ ích hơn, so với khi được dạy một bài học. Một khi chúng ta rút ra được kinh nghiệm từ một lần vấp ngã, thì lúc nhắc lại sự vấp ngã này, thì chắc chắn càng khơi gợi lòng biết ơn, hơn là tự buộc tội bản thân mình.

Và Phêrô cũng học hỏi được một sự thật tuyệt vời về Đức Giêsu. Ôâng nhận ra rằng bất chấp những lần ông chối Ngài, Ngài vẫn cứ yêu thương ông. Chính tình yêu đó đã dẫn đưa Phêrô quay trở lại với cuộc đời. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng yếu đuối và tội lỗi. Khi người ta đươc yêu thương vì sự tốt lành của mình, thì điều đó không có gì là vĩ đại cả. Nhưng khi được yêu thương trong tình trạng xấu xa, đó mới quả thật là một tình yêu bao la. Và đó là một ân sủng

Phêrô có sự gan dạ, để lại chỗi dậy sau khi vấp ngã. Chúng ta có thể hình dung ra rằng ông là một nhà lãnh đạo rất tốt, một nhà lãnh đạo có ý thức về sự yếu đuối của bản thân mình. Kinh nghiệm này đã loại trừ nơi ông  thói tự hào  và tin tưởng một cách mù quáng vào những năng lực riêng của bản thân, đồng thời, làm cho ông có khả năng thấu hiểu được sự yếu đuối của người khác (McCarthy).

3. Phêrô can đảm thi hành sứ mệnh.

Sau khi Đức Giêsu về trời, Phêrô sang Rôma lãnh đạo giáo đoàn và thiết lập tòa thánh ở đó. Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Néron đang ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ôâng vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân chúng  sống trong các khu ổ chuột tồi tàn để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Néron đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắr bớ những ai theo đạo, kết án tử hình và xử tử tại khu hí trường ở thủ đô Rôma. Một số khá đông tín hữu  đã trở thành miếng mồi ngon  cho lũ sư tử đói khát vồ xé, một số khác thì bị chết  trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh chân tay vào thập giá… Trước tình thế nguy hiểm ấy, công đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.

Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ôâng nhận ra đó là Đức Giêsu, ông lên tiếng hỏi: “Thầy đi đâu” (Quo vadis)? Đức Giêsu đáp: “Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Ngài biến mất. Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm theo lời Chúa. Ôâng bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng, ông đã lãnh nhận lấy cái chết trên thập giá theo gương Thầy mình.

III. SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

1. Phải biết nhận ra Chúa.

Thật là mâu thuẫn đến độ khó hiểu vì cùng một Con Người Giêsu đã đến trong thế gian, đã sinh sống trên đất Galilê, đã chịu khổ hình đến chết và nay đã sống lại, hiện ra nhiều lần với nhiều người đương thời, thế thì tại sao xưa cũng như nay có kẻ tin người không, kẻ phục người chối bỏ? Dĩ nhiên, có sự trái ngược này không  do Chúa không hiện diện khắp mọi nơi, nhưng do nơi cách thức mà con người sử dụng để tìm kiếm sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nói khác đi, ai biết tìm Chúa đúng cách thì dù Ngài có khuất dạng họ vẫn nhận ra, trái lại kẻ không biết cách tìm Chúa dù Ngài có hiện ra một bên cũng chẳng thấy được Ngài…

Muốn nhận ra được Chúa hiện diện trong đời mình, phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn muốn thao thức tìm Chúa. Nhưng trong thực tế, rất nhiều người rất hững hờ với sự hiện diện của Chúa. Họ không tìm thấy sự hiện diện của Chúa là vì họ hững hờ, không muốn tìm ra Chúa.

Truyện: Chỉ vì vô tình.

Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ Aán giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông: Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi ẩn sĩ Aán giáo cho biết nguyên do nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng hiện nay. Tu sĩ Aán giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xẩy ra  trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ôâng tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứùu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có  thể là Đấng Cứu Thế.

Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích trong Món quà Giáng sinh).

2. Làm cho nhiều người trở lại với Chúa.

Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phêrô đứng lên cùng với mười một Tông đồ giảng cho dân chúng một bài rất hùng hồn (x. Cv 2,14t). Nghe xong bài đó, dân chúng bị cảm kích đến cực độ nhao nhao hỏi: “Chúng tôi phải làm gì”? Phêrô bảo: “Hãy hối cải và mỗi người hãy chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các ngươi sẽ được ơn Chúa Thánh Thần”.

Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng Tin mừng… Thiên Chúa hằng hiện diện giữa chúng ta. Chính những khi các Tông đồ cảm thấy thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thầy mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành với họ trên đường  đi Emmau, Chúa hiện ra với họ khi họ không bắt được cá. Chúng ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.

Truyện: gương bày lôi kéo.

Một cô xướng ngôn viên đài phát thanh ở tỉnh kia tự nhiên đến xin học đạo với một Linh mục. Nguyên nhân thúc đẩy cô theo đạo, như cô kể, là nhờ sống gần gia đình công giáo tốt mà cô thấy hấp dẫn và đánh động: họ sống đầm ấm yên vui, giữ đạo chân thành, thân thiện với hàng xóm. Gia đình này không những đã tìm được hạnh phúc cho chính họ, cho vợ chồng con cái an vui, mà còn làm chan hòa hạnh phúc đó sang người lối xóm. Không giảng đạo mà cụ thể đã lôi kéo người khác đến với Chúa.

3. Phải dựa vào quyền năng Chúa.

Bài học mà Chúa muốn dạy các Tông đồ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài. Các ông phải nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết bắt được cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành công cuộc cứu độ không tùy thuộc vào tài năng và sự hiểu biết của con người, nhưng tùy thuộc vào sự cộng tác của loài người với ơn Chúa. Quyền năng Chúa Phục sinh đã biến đổi các Tông đồ. Trước đó các ông còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay ghi lại việc các ông trả lời công nghị: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Là chứng nhân, các Tông đồ phải nói lên sứ điệp đã lãnh nhận dù sứ điệp đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe dọa đến tính mạng.

Trong việc chọn Phêrô làm thủ lãnh các Tông đồ, thủ lãnh Giáo hội, Đứùc Giêsu không dựa vào những điều kiện như “văn hay chữ tốt” hoặc “tài đức vẹn toàn” mà chỉ dựa theo con người biết “yêu mến” và tuân theo ý Chúa như những dụng cụ hữu hiệu. Do đó, trong khi tham gia vào trong công cuộc rao giảng Tin mừng, chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình mà chỉ cậy dựa vào ơn Chúa như những dụng cụ trung thành.

Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ: 000.0001.

Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ: 1.000.000.

Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Frank Mihalic).

 

5. Thầy đấy-- ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá--Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Trong tác phẩm Quo vadis được giải Nobel văn chương 1905, Đại Văn Hào Sienkievich tả những cảnh cực hình rùng rợn mà hai thánh tông đồ Phêrô, Phaolô và các tín hữu chịu dưới thời Hoàng Đế Nêrông, biệt danh: Râu đỏ. Các tín hữu phải sống ẩn danh. Họ chỉ nhận biết nhau qua tín hiệu về hình con cá.

Một hôm, chàng quý tộc Markus là cận vệ đặc biệt của Nêrông, là tướng hùng bách chiến bách thắng, gặp công chúa Ligia nước Ba Lan bị bắt làm con tin. Chàng cảm động nói những lời tán tụng mến phục làm Ligia bối rối cúi đầu vẽ trên cát hình con cá, rồi bỏ chạy. Hình con cá thổ lộ gì với Markus. Đầu óc chàng suy nghĩ đến quay cuồng mà chẳng hiểu gì? Chàng đành hỏi ông cậu Pêtrônius nổi tiếng khôn ngoan nhất trong các cố vấn của Nêrông cũng không biết gì hơn.

Nhưng đối với các tín hữu thời đó hình con cá là một tín hiệu tin mừng vô hạn giữa những đau khổ để họ nhận ra nhau là những người tuyên xưng Đức Kitô Phục sinh. Người đã dùng hình ảnh con cá để ám chỉ về Người.

Lần thứ nhất, Người làm phép lạ từ hai con cá và năm chiếc bánh cho cả chục ngàn ngưới ăn, nếu kể cả đàn bà con trẻ, rồi Người tuyên báo về Bánh Hằng sống đời đời (Mt. 14,13.) Lần thứ hai, từ vài con cá và bảy tấm bánh cho hơn bốn ngìn người ăn, không kể phụ nữ và trẻ em. Từ phép lạ này Người nói về điềm lạ trọng đại như Giona ở trong bụng cá ba ngày thế nào thì Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngày rồi sống lại (Mt. 15, 36-16,4). Lần ba, Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm mà không được con cá nào, nhưng khi vâng lời Thầy ông thả lưới, đã bắt được hai thuyền cá đầy (Lc. 5,2..). Lần bốn, nhân dịp họ đòi Phêrô và Thầy phải nộp thuế Thầy bảo Phêrô câu cá để lấy tiền nộp thuế. Như thế, Người muốn đồng hóa con cá với mình và Phêrô (Mt. 17, 27).

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật hai việc: Việc thứ nhất, Đức Giêsu hiện ra an ủi các ông đang buồn sầu, không còn được sống với Thầy, các ông đã trở về làm nghề đánh cá mà chẳng được gì, và Người cho họ được mẻ cá đầy. Việc thứ hai, Người hỏi Phêrô: “Anh có yêu mền Thầy không”. Sau đó, Người mới trao đoàn chiên cho Phêrô coi sóc.

1- Hoàn cảnh các môn đệ như những kẻ mồ côi, buồn sầu khổ cực. Thầy đã chịu chết, đã sống lại, nhưng không sống bên các ông như trước nữa. Người chỉ thỉnh thoảng hiện ra an ủi, chúc lành và dậy dỗ các ông những điều cần thiết. Các ông còn bị đói khổ vì phải về quê tiếp tục nghề đánh cá vất vả, cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì. Cuộc sống thật bấp bênh. Trước thảm cảnh đó, Chúa đã hiện ra giữa buổi bình minh trên bờ biển lúc các ông đánh cá về. Như một người mua cá, Người hỏi: “Này các chú, không được gì ăn ư?” các ông kêu lên với giọng cụt ngủn, chán nản: “Không!” Một câu nói khác như dậy dỗ chọc tức các ông: “Hãy thả lưới bên phải thuyền. Các anh sẽ bắt được cá”. Nghe thế, các anh dân chài không bực bội, nhưng như có sức mầu nhiệm giúp các anh vui vẻ làm theo. Thật bất ngờ, lưới đầy cá không kéo nổi. Họ ngạc nhiên tự hỏi: Ai nói đấy? Một trực giác nhạy cảm giữa hai người yêu nhau: Môn đệ Chúa yêu nhận ra ngay và bảo Phêrô: “Thầy đấy”. Như cá gặp nước, Phêrô nhảy xuống biển chạy lên gặp Thầy. Có Thầy, sẽ thoát khỏi mọi nổi cô đơn, sợ sệt, buồn sầu, lo lắng, mệt nhọc. Có Thầy có tất cả: Có cá, có bánh, có lửa sưởi ấm, có bạn đồng tâm nhất trí, có Thánh Thần tràn đầy hoan lạc, đầy sức sống yêu thương mãnh liệt.

2- Hoàn cảnh các tín hữu thời các thánh tông đồ phải chịu đầy đau khổ, buồn sầu, lo lắng. Bao nhiêu cực hình hiện ra trước mắt: Tù tội, đánh đập, khổ giá, đóng đinh từ trẻ con, thanh niên, phụ nữ tới ông già bà cả. Họ vẽ hình con cá để nhắc nhở nhau nhớ đến Đức Kitô Phục sinh. Người sẽ an ủi, ban bình an cứu giúp họ, ban Thánh Thần soi sáng cho họ giữ vững đức tin, hun đúc họ mến Chúa nồng nàn, đem lại sức mạnh mãnh liệt cho họ chiến thắng sự chết. Họ sẽ được sống vinh quang với Đức Kitô. Họ sẽ được như Gioan “mải nhìn và nghe vang lên tiếng muôn vàn Thiên thần, đông tới ức ức triệu triệu, đứng chung quanh Ngài… và lớn tiếng hoan hô: Con Chiên đã bị giết, rất xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng” (Bài II). Như vậy, Đức Giêsu đã yêu thương Phêrô, các môn đệ và các tín hữu thời đó đến cùng. Người rất tế nhị, không hỏi tội Phêrô chối Thầy ba lần, không hỏi các ông bỏ Thầy chạy trốn và cứng lòng tin khi Thầy sống lại. Người chỉ hỏi như hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Người hỏi ba lần để nhấn mạnh Người chỉ cần họ yêu mến, vì chỉ có lòng yêu mến mới có sức mạnh đáp lại lòng thương yêu vô cùng của Thiên Chúa. Chỉ có lòng yêu mến mới được tha nhiều “được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Chỉ có lòng yêu mến như “Thầy yêu các con” mới nên một với Thầy trong chăn dắt đoàn chiên và thí mạng sống vì đoàn chiên. Chỉ có lòng yêu mến mới dám thí mạng sống vì Thầy, và như Thầy bước lên thập giá để tế lễ Đức Chúa Cha và cứu độ người ta. Không lạ gì, Thánh Phaolô đã quả quyết: “Dù tôi nói được hết các thứ tiếng của nhân loại và các Thiên thần… được lòng tin chuyển núi rời non… và nộp mình chịu thiêu, mà không có đức mến thì cũng như không, vô ích cho tôi… lòng mến lớn hơn cả đức tin, đức cậy… vì đức mến tồn tại đời đời” (1Cr. 13, 1-3. 8. 13)

Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại để có thể hiện đến khắp nơi, cứu chữa hết mọi người, ban bình an, ơn tha tội và ban Thánh Thần đầy hoan lạc. Xin cho chúng con luôn luôn cảm tạ lòng thương yêu vô cùng của Chúa để hết lòng tin mến Chúa và hy sinh phục vụ anh em.

 

6. Chúa phục sinh để ý đến các tông đồ--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.

Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.

Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

Cách hành xử của Đức Giêsu

Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

Số phận và thái độ cần có của con người

Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!

2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?

3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?

 

7. CGS phục sinh đi chọn 1 người chăn dắt chiên cùa Chúa--Lm Giuse Nguyễn Công Đoan

Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau đây:

Khi bọn sai nha đến bắt Chúa, Chúa ra đón và hỏi: các anh tìm ai? Họ đáp: Giêsu Nadaret.

Chúa trả lời: “Ta Là”. Họ ngã ngửa. Họ đứng lên, Chúa hỏi nữa. Rồi Chúa nói: Tôi đã bảo các anh: “Ta Là”. Trong bản văn Hy Lạp (Ego eimi: Ta Là) đây là Thánh Danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Trong Sách Tin Mừng Gioan nhiều lần Chúa Giêsu dùng danh xưng này để nói về mình.

Khi ông Simon Phêrô vào sân dinh Thượng Tế và ngồi sưởi ké bên đống lửa than của bọn sai nha, ba lần bị chỉ mặt là môn đệ của Chúa Giêsu thì ba lần ông chối: Không phải (oukh eimi: ‘tôi không là’ ngược với lời Chúa Giêsu khẳng định: ‘Ta Là!’

Hôm nay, người môn đệ mà trong bữa Tiệc Ly ông đã nhờ hỏi nhỏ Chúa xem ai là kẻ phản nộp Chúa, nói với ông: “Chúa đấy”. Nghe thế ông liền lấy áo quấn ngang lưng, vì ông đang trần truồng, và ông nhảy xuống nước.

Trong sách Sáng Thế, sau khi trái cấm mở mắt cho Adam + Evà thấy mình trần truồng, họ lấy lá vả (là thứ lá cây lớn nhất thường thấy) quấn ngang lưng; rồi khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì họ núp vào lùm cây. Thiên Chúa gọi: “Ađam, người ở đâu?”.

Sách Tin Mừng Gioan không kể chuyện gì xảy ra với ông Simon Phêrô sau tiếng gà gáy, như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng để dành đến hôm nay mới trở lại câu chuyện. Ông Simon Phêrô phản ứng giống Ađam. Ađam ở trong vườn thì có lùm cây mà núp, Phêrô đang trên thuyền thì chỉ có cách nhảy xuống nước mà núp.

Vào bờ ông cũng thấy một đống lửa than, Chúa Giêsu dọn cho ông và các bạn, lại có bánh và cá đặt trên. Đống lửa than này làm sao mà không gợi cho ông Phêrô nhớ lại đống lửa than của của bọn sai nha trong sân dinh Thượng Tế cái đêm tăm tối kia.

Chúa bảo: ‘hãy đến mà ăn’. Chúa đến, cầm lấy bánh và cá trao cho các ông. Cảnh này gợi lại hôm Chúa ngồi trên núi, trao bánh và cá cho đám đông (ch.6).

Sau bữa Chúa đãi đám đông trên núi, tại Ca-phac-na-um, khi nhiềumôn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6,67) thì ông Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai khẳng khái: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai …”.

Sau bữa ăn sáng quanh đống lửa than bên hồ, Chúa gọi đích danh và hỏi: “Simon con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Sự so sánh này làm cho ông phải nhớ lại lời ông cam kết trong bữa Tiệc Ly: “Con sẽ hy sinh mạng sống con vì Thầy” (13,37). Hôm nay thì ông không còn dám vỗ ngực tự phụ như thế nữa. Ông dựa vào Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết …”. Phiền nỗi là Chúa lặp lại cùng một câu hỏi hai lần nữa, nhưng tế nhị bỏ cái vế so sánh cho ông đỡ ngượng. Đến lần thứ ba thì ông hết chịu nổi, ông buồn, và ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết …” (x.Tv 139).

Bên đống lửa than trong sân dinh Thượng Tế, ba lần trong một đêm ông nhận rằng ông chẳng là gì.

Sáng nay ông và các bạn nhận mình là những kẻ đánh cá vô tích sự, suốt đêm chẳng được gì để ăn.

Sáng nay ông vừa nhận ra mình là kẻ trần truồng và đi núp, giống như Ađam.

Bên đống lửa than của Chúa ở bờ hồ, khi trả lời câu Chúa hỏi ba lần, ông chỉ còn biết dựa vào sự thông biết, sự thông biết vô cùng của Chúa.

Bây giờ thì Chúa có thể an tâm trao cả chiên mẹ. chiên con của Chúa cho ông chăn nuôi, và Chúa cũng đòi ông giữ cả lời hứa hy sinh mạng sống, nhưng không phải thay cho Chúa, mà để tôn vinh Thiên Chúa giống như Thầy Giêsu, vị Mục Tử kiểu mẫu, hiến mạng sống vì đoàn chiên.

Ngày đầu, ông nghe lời Thầy của ông là vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu và đi theo.

Hôm nay, sau khi đã cho ông biết rõ sứ mạng và số phận của ông, chính Chúa Giêsu trực tiếp gọi ông: “Hãy theo Thầy”.

Trong nghi thức bầu Giáo Hoàng, sau khi đắc cử, vị tân cử phải trả lời hai câu hỏi theo nghi thức: “Ngài có nhận kết quả bầu cử này không?” và “Ngài nhận tông hiệu là gì?”

Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi thứ nhất như sau: “Tôi là kẻ tội lỗi và tôi ý thức điều đó, nhưng tôi rất tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì các vị đã bầu tôi, đúng hơn, vì Chúa đã chọn tôi, tôi nhận”. (ĐHY Philippe Barbarin kể lại trong lời tựa cuốn sách “Amour, Service et Humilité” (Bài giảng tĩnh tâm của ĐHY Jorge Mario Bergoglio S.J., cho các Giám Mục Tây Ban Nha năm 2006)

Nội dung câu trả lời thâu tóm câu chuyện của thánh Phêrô.

 

8. Mẻ lưới của Lòng Thương Xót--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: "Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia".

Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).

Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển" (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: "Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa". Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em" (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l'Évangile, no 24)

Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.

Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: "Tôi đi đánh cá đây"(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: "Bây giờ họ không có gì khác để làm".

Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau "khổ đau" của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.

Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở "phía bên kia" thuyền. Tại sao lại ‘bên kia? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.

Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.

 

9. Với Chúa

“Suốt đêm hôm ấy, các ông chẳng bắt được một con cá nào”.

Đọc xong đoạn Tin mừng hôm nay, tôi nhớ tới lời Thánh vịnh:

- Ví như Chúa chẳng xây nhà,

 Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.

 Thành trì Chúa chẳng giữ trông,

 Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Thực vậy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:

- Không có Thày, các con chẳmg làm được gì.

Tự tin vào sức lực, vào tài năng của mình là điều tốt vì như một câu danh ngôn đã bảo:

- Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.

Muốn vượt thắng những khó khăn, thì chúng ta đã làm được một nửa công việc. Ai nghĩ rằng mình thất bại, thì chắc chắn người đó sẽ thất bại.

Thế nhưng, tài năng và sức lực của chúng ta mới chỉ là một góp phần nhỏ bé vào những thành công mà thôi, bởi vì lắm lúc chúng ta đã cố gắng rất nhiều mà kết quả lại chẳng được bao nhiêu, vì ngoài sức lực và tài năng của chúng ta, còn một Đấng có quyền ấn định sự thành công hay thất bại của chúng ta. Và Đấng ấy chính là Thiên Chúa..

Thực vậy, ngay từ đầu, con người đã nuôi một tham vọng phản bội cùng Thiên Chúa, vì thế họ đã góp sức xây một ngọn tháp chọc trời, lấy tên là ngọn tháp Babel. Nhưng rồi công việc ấy đã bị đình trệ dang dở và không bao giờ ngọn tháp chọc trời ngạo nghễ ấy trở thành sự thật, bởi vì Thiên Chúa đã khiến cho ngôn ngữ của họ trở nên bất đồng, để rồi mỗi người phân tán đi tới một chân trời góc biển khác nhau mà sinh sống. Không có Chúa, con người không thể làm gì được.

Hay như một đội quân Ai cập hùng mạnh, dưới sự điều động của vua Pharaon, đã vội vã lên đướng và hăng say đuổi theo đoàn người Do thái đang trong cuộc xuất hành, trở về miền đất hứa. Nhưng rồi tất cả chiến mã cùng với kỵ binh của họ đều bị vùi dập dưới lòng Biển Đỏ.

Chống đối Chúa, thù địch với Chúa chẳng khác gì giơ chân đạp mũi nhọn. Nếu có thành công, thì thành công ấy chỉ hời hợt thoáng qua, để rồi chắc chắn sẽ phải thất bại đắng cay ê chề. Vì nào ai có uy quyền và hùng dũng cho bằng Thiên Chúa.

Các môn đệ ngày hôm nay cũng đã trải qua kinh nghiệm cụ thể ấy. Các ông đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Không có Chúa thì sức lực và cố gắng của chúng ta nhiều lúc đã trở nên vô ích và uổng công, gống như tục ngữ đã bảo:

- Dạ tràng xe cát bể Đông,

 Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Thực vậy, ngày thi sắp đến, chúng ta thức khuya dậy sớm, vất vả ôn lại bài vở…Thế rồi khi bước vào phòng thi, chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ khiến mắt chúng ta hoa lên, đầu chúng ta nhức như búa bổ và chúng ta phải bỏ dở cuộc thi.

Chúng ta ra sức cầy sâu cuốc bẫm, nhưng Chúa không cho mưa thuận gió hòa, trới cứ nắng mãi, nắng hoài…thì chắc mùa màng cũng sẽ thất bát, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:

- Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chinh Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái

Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Thế nhưng, có Chúa là có tất cả, có Chúa chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái những thành công tốt đẹp.

Cựu ước có kể lại:

Bà Giuđích, vốn chỉ là phận liễu yếu đào tơ, thế nhưng, với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, bà đã chiến thắng được mọi khó khăn, cuối cùng đã chặt được đầu tướng Holopherne và đem lại vinh quang cho dân tộc mình.

Một hình ảnh khác cũng thật dễ thương và dễ nhớ, đó là hình ảnh của Maisen. Hễ bao giờ ông giang tay cầu nguyện, thì đội quân Do thái liền chiến thắng. Thế nhưng, hễ bao giờ ông bỏ tay xuống, thì lập tức dân Do thái liền bị quân thù trấn áp.

Tin tưởng và kết hiệp với Chúa chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta nhưng thành công như thế.

Các môn đệ này hôm nay cũng vậy. Từ khi các ông thả lưới theo lệnh truyền của Chúa, thì lập tức các ông bắt được nhiều cá, một mẻ cá thật lạ lùng mà có lẽ từ trước cho đến bây giờ, các ông chưa bao giờ được thấy.

Có Chúa đi bên cạnh và tin tưởng vào Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được những thành công rực rỡ, vì như lời Chúa đã phán:

- Nếu các con có được đức tin bằng hạt cải mà thôi, các con có thể làm được những việc phi thường như chuyển núi dời sông.

Sở dĩ như vậy, vì chỉ mình Chúa mới đủ quyền năng biến không thành có, chuyển thất bại hóa nên thành công, không có gì mà Chúa chẳng làm được.

Và sau cùng, tin tưởng vào Chúa, bước đi với Chúa và sống dưới cái nhìn trìu mến của Chúa, chắc chắn cuộc đời chúng ta sẽ được hạnh phúc và yên vui bởi vì chúng ta không còn phải băn khoăn và lo lắng, không còn phải run sợ và khiếp hãi trước những gian nan và thử thách, trước những khổ đau và cay đắng chồng chất trên đôi vai chúng ta.

Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây:

- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

 

10. Mục tử

Vào dịp lễ Giáng sinh năm 1971, viên quản trại đã phân phát cho những tù binh Mỹ đang bị giam giữ tại Hoả Lò, một nhà tù ở Hà Nội, vài ba cuốn Kinh Thánh. Tuy nhiên ông bảo họ phải gom trả vào đêm Noel. Thế là những người lính Mỹ quyết định phải tận dụng khoảng thời gian vắn vỏi ấy. Họ lấy cộng dây thép làm bút. Lấy nước hoà vào bụi gạch làm mực và viết một vài đoạn chính yếu lên những mẩu giấy vụn. Trong số các đoạn Kinh Thánh được chép lại, có dụ ngôn về con chiên lạc. Các tù binh đã sánh ví mình là con chiên lạc ấy. Và họ cũng ghi thêm mấy câu của thánh vịnh 23: Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì.

Chủ đề về người mục tử cũng là một chủ đề rất quen thuộc trong Kinh Thánh, bởi vì một số người Do Thái vốn sinh sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Và họ đã sánh ví Thiên Chúa với người mục tử. Thực vậy, qua Tin Mừng Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết Ta. Ta hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc về đoàn này. Cả những chiên ấy, Ta cũng sẽ dẫn dắt và chỉ còn một đoàn chiên và một chủ chiên.

Từ đó chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay để nghe Người uỷ thác cho Phêrô tiếp nối sứ mạng mục tử chăn dắt đoàn chiên của Người. Quả là giây phút trọng đại khi Chúa phán với Phêrô: Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy.

Tiếp nối vào đó, khi Giáo Hội đã được phát triển, thì tước vị mục tử cũng được mở rộng. Thực vậy, thánh Phêrô thường gọi các Giám mục, những người lãnh đạo Giáo Hội tại từng địa phương là các mục tử, ngài muốn chia sẻ cho họ phần nào vai trò nặng nề của mình và đã nhắn nhủ họ: Các con hãy sống xứng đáng là những mục tử của đoàn chiên Chúa đã trao phó. Hãy nhiệt tình phụng sự đoàn chiên.

Cũng trong tinh thần chia sẻ ấy, chúng ta gọi các linh mục là các mục tử, bởi vì các ngài là những người được tham dự vào quyền bính của thánh Phêrô, của các tông đồ và của các Giám mục, lãnh nhận sự uỷ thác của Đức Kitô.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy, danh hiệu mục tử trước hết được dành cho Đức Kitô. Sau đó, Đức Kitô đã chia sẻ cho Phêrô và các tông đồ. Rồi đến lượt thánh Phêrô và các tông đồ lại chia sẻ cho các Giám mục và linh mục. Chính vì thế trong giây phút này, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa chúc phúc lành cho các vị lãnh đạo Giáo Hội. xin giúp chúng con nhìn thấy các vị ấy thực sự là những dấu chỉ sống động của Chúa đang hiện diện giữa chúng con, cho dù các vị ấy có phạm phải những sai lầm. Và nhất là xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với các ngài, để qua các ngài, Nước Chúa được mở rộng ở khắp nơi trên thế giới.

 

11. Mẻ lưới.

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.

Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.

Theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu Phục sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng ngay cả đối với các môn đệ. Bài đọc I, trích sách Tông đồ Công vụ đã nêu lên những khó khăn của việc rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ đã bị cấm không được rao giảng danh Chúa Giêsu. Lệnh cấm ấy lại xuất phát từ thẩy cả thượng tế. Trong chính cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài cũng đã từng gặp phải những khó khăn từ phía những người lãnh đạo Do Thái giáo. Và cuối cùng Ngài đã phải chết vì tay họ.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận thực hành. Kết luận ấy như thế này. Công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà còn là một bổn phận chung của mọi người tín hữu. Chu toàn được bổn phận ấy không phải là một việc dễ dàng, trái lại ở mọi nơi và trong mọi lúc, người tông đồ đều có thể gặp phải những khó khăn, những phản kháng.

Trong những hoàn cảnh như thế, nếu chỉ cậy dựa vào sức lực và tài năng riêng của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nản chí và chắc chắn sẽ đi tới chỗ thất bại. Trái lại nếu biết cậy dựa vào tình thương và ơn sủng của Chúa, chúng ta sẽ luôn có được một lòng hăng hay và nhiệt thành để rồi sẽ đi tới thành công, bởi vì đối với Chúa, không có điều gì mà Ngài không thể làm được.

Noi gương các môn đệ, chúng ta hãy vâng theo lời Chúa, ra khơi và thả lưới, để nhờ đó chúng ta sẽ đem về cho Chúa những tâm hồn sám hối.

 

12. Sống bằng sự hiện diện của Chúa Kitô Phục sinh

Trong cuộc sống, người Kitô hữu phải đối mặt với một vấn đề thực tế hết sức cam go. Đó là vấn đề sống đức tin. Thật vậy, chúng ta được nghe dạy Thiên Chúa quan phòng, nhìn thấu suốt và an bài mọi sự. Nhưng thực tế cho thấy, nhiều lúc gặp túng quẫn, chúng ta kêu cầu Chúa nhưng không thấy sự việc thay đổi. Vậy phải chăng Thiên Chúa quan phòng còn xa vời, chỉ là ý niệm?

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy gương sống đức tin, tin tưởng và phó thác vào tay Chúa quan phòng.

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do Thái không cho, bắt các ngài bỏ tù lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, sỉ vào mặt các ngài và bảo: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem". Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.

Chúng ta nhận thấy điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít hôm, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát. Thế mà, hôm nay thật can đảm đứng trước Công nghị Do Thái. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Phần các ông, khi ra về Các ông hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sĩ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đày, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta".

Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh. Các ông đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ được biến đổi hoàn toàn. Từ đó, họ xác tín một điều: "Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội". Vì thế, họ sẽ "vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta". Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, bất công. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó. Như thế, chúng ta học được gương sống đức tin của Các tông đồ: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Khi phải vâng lời Thiên Chúa để phục vụ anh chị em của mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em của mình được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.

Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều có thể sụp đổ tan tành không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. Phần Thiên Chúa luôn được chúc tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời.

Bài Phúc Âm cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao, đó là hy vọng vào tình thương và quyền năng của Chúa Phục sinh. Phải, Thiên Chúa như người cha luôn yêu thương con cái mình. Người là Thiên Chúa giàu tình thương luôn quan phòng và lo lắng cho con người. Thật vậy, Chúa Giêsu nhìn thấy các môn đệ của Người vất vả suốt đêm với công việc chài lưới. Người biết các ông sau một đêm dài vất vả, mệt mỏi, chống chọi với sóng nước, biển khơi đã trở vào bờ với hai bàn tay trắng. Có bắt được con cá nào đâu! Nhưng rồi, khi các ông vừa lên đến bờ đã "thấy than lửa, trên đó có sẵn cá và bánh." Ngài đã quan tâm lo lắng cho các ông, là những người mà Ngài đã tuyển chọn và rất mực thương yêu. Điều này cũng nói cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa luôn lo lắng và quan phòng cho từng người chúng ta.

Bằng những cử chỉ quen thuộc, các tông đồ đã nhận ra Chúa. Còn chúng ta, trong đời sống đức tin, chúng ta cũng hãy nhận ra Chúa luôn hiện diện. Khi gặp vất vả và thử thách chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, không phải Chúa không hiện diện trong cuộc sống. Điều quan trọng là con người có tận lực với sức cố gắng của mình, và có dám tin vào lời Chúa để buông lưới trong cuộc đời như các tông đồ xưa hay không? Tình thương quan phòng của Chúa đã thể hiện khi Người còn ở với các Tông Đồ, cũng như sau ngày Ngài phục sinh từ cõi chết, chứng tỏ rằng Người là Thiên Chúa luôn yêu thương. Cũng vậy Chúa luôn ở bên chúng ta, để nâng đỡ, an ủi và bảo vệ chúng ta. Nhưng Người cũng muốn chúng ta phải nhận ra Người. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể nhận ra Chúa, thấy Chúa trong cuộc sống của chúng ta? Tông đồ Gioan đã nhận ra Chúa, và nói với Phêrô: "chính Chúa đó". Vì Gioan đã yêu mến Chúa nhiều và chính Gioan cũng được Ngài thương mến. Chúng ta cần phải có tâm hồn trong sạch, tâm hồn yêu mến Chúa và để mau mắn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống mình. Chúng ta hãy nhận ra Chúa hiện diện trong thiên nhiên, trong vũ trụ bao la với mọi kỳ công Người sáng tạo. Chúng ta hãy nhận ra Chúa trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh may hay rủi, khó khăn hay dễ dàng, may mắn hay nghịch cảnh trong cuộc đời chúng ta. Cuộc sống chúng ta luôn được bình an, luôn được hạnh phúc, vì chúng ta biết rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và chúng ta cũng hết lòng yêu mến Người. Do đó, giống các tông đồ xưa, chúng ta cần phải được tràn đầy Chúa trong lòng, nhờ đó chúng ta mới có thể tỏ cho người khác thấy Chúa được. Hơn nữa, chúng ta cần phải trở nên giống Chúa, được nên một với Chúa, để những người chung quanh nhận ra Chúa và tình yêu của Ngài, qua đời sống chứng nhân trong cuộc sống hằng ngày. Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin Chúa Kitô Phục Sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Hãy sống niềm tin Phục Sinh, để trở nên một dấu hiệu về sự sống của Chúa Kitô, trở nên ánh sáng, đem bình an và niềm vui của Chúa Phục Sinh đến cho tất cả những ai đang đau khổ, vất vả, âu lo. Thất vọng và đang tìm kiếm nguồn sống mới của Đấng đã từ cõi chết sống lại, của Đấng Phục Sinh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng vào tình thương của Chúa dành cho chúng con, để chúng con luôn nhận ra sự hiện diện quan phòng đầy tình yêu thương nơi thế giới này. Và xin cho chúng con can đảm sống đức tin trong tình mến Chúa và yêu người, đó cũng là cách chúng con đang truyền đạt đức tin cho tha nhân. Amen.

 

13. Hãy theo Thầy!--AM. Trần Bình An

Từ thuở có trí khôn đến nay, tôi xác định mình là con của một gia đình đạo gốc. Tôi được học từ bé ở một trường Công giáo do các Sơ phụ trách. Tất cả các chị em tôi cũng đều được học như tôi. Cuộc sống đức tin của mình cứ xuôi chèo như thế lâu dài: đi lễ ngày Chúa Nhật, xưng tội mùa chay. Cùng với niềm say mê hát xướng, tôi đã gia nhập vào ca đoàn nhiều năm, hát vì thích nhạc đạo và vì thích được hát, chưa ý thức rằng hát là để ca tụng Chúa.

Tôi đã lập gia đình với một người cũng có đạo gốc như tôi và còn là con nhà một “Ông Trùm“ có nhiều con đi tu. Cuộc sống cứ trôi đi tự nhiên, như dòng nước chảy. Rồi dần dần sự mai một đức tin cứ lớn dần theo thời gian. Tôi còn bị tác động thêm bởi các bất bình, bất mãn cuộc đời xảy đến. Cái ung nhọt mất niềm tin vào Chúa lớn dần, đến mức độ tôi tự thấy xa hẳn Hội Thánh. Tôi đã bỏ đạo trong suốt 15 năm, thưa thớt dần dần bỏ lễ Chúa Nhật, không xưng tôi, rước lễ và cả không tham gia sinh họat giáo xứ! Cuộc sống không có Chúa cứ thế diễn ra, khiến cho mẹ ruột tôi và bố mẹ chồng rất buồn. Các cụ nói xa rồi lại nói gần về sự bất hạnh nếu xa rời Chúa, tôi bất cần! Tôi lại càng cảm thấy mình đúng khi đã cắt tỉa đi những rườm ra hình thức tôn giáo, mà tôi cho là giả tạo, mê hoặc con người. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng tôn giáo là liều thuốc an thần cho nhân loại. Cũng như tôi đã thầm trách nền giáo dục Công giáo, đã làm cho tôi cảm thấy mất tự do. Thọát ra khỏi vòng kềm toả tôn giáo, tôi cảm thấy rất vui sướng vì khung trời tự do thoải mái sống hưởng thụ. Hơn nữa, tôi còn tự biện hộ rằng mình vẫn sống đạo làm người, yêu thương đồng lọại, giúp đỡ tha nhân chung quanh. Tôi đã khóc cười với những người anh em và tự mãn mình đã làm đúng, làm đủ bổn phận con người.

Bất ngờ, con gái tôi bỏ nhà ra đi. Tôi đau khổ khóc thầm. Trải qua bao đêm mất ngủ, tôi hóa ra ngây dại, mất hết mọi cảm giác. Tôi vẫn đến cơ quan làm việc, nhưng không còn một chút hăng hái nào, mà máy móc như con rô bô. Tôi hụt hẫng tột độ. Tôi đã muốn chết vì thương nhớ con. Tôi thất vọng cái kiếp người tràn đầy bi kịch! Gia đình tôi trở thành bãi chiến trường không đổ máu, nhưng lại đổ lệ đầy thương đau! Tôi lại càng thêm oán giận cuộc đời. Điên cuồng chống lại tất cả. Chưa bao giờ gia đình tôi lại sóng gió đến thế! Chính lúc đau khổ đó, Chúa đã đến với tôi, ban lại niềm tin. Ngoài Chúa ra, chẳng còn ai cứu nổi gia đình tôi! Tôi bỗng nhiên nhớ ra, vững tin rằng: “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.“ (Lc 18, 27)

Từ sự cố con gái, Chúa đã dẫn tôi trở về. Hơn nữa, Ngài còn dẫn cả gia đình tôi thật sự trở về. Cứ lần theo con đường để trở về, chúng tôi đã gặp Chúa. Thì ra bấy lâu này, Ngài thầm lặng chờ đợi tôi. Ngài vẫn hằng yêu thương tôi, Ngài đã cho tôi một thể nghiệm của Người Cha mất con đau đớn như thế nào. Tôi đã thật sự khổ sở và sâu xa hối hận. Tôi bước qua nhiều chặng đường trong sự trở về, như một khám phá mới. Tôi cứ phải lột dần những rào cản của cuộc sống đi hoang đã thành nếp. Chúa đã lôi kéo tôi, chồng tôi, con tôi, trên bước đường trở về, vội vã cứ y như là chạy vậy! Hiện nay gia đình tôi bỗng đổi khác tận gốc rễ. Từ ngày Chúa “chạm” tôi, Chúa “chạm” chồng con tôi, chúng tôi liền thấy mình được thoát ra khỏi vòng vây hãm của khổ đau và những mâu thuẫn, như không thể khắc phục được. Nay chúng tôi được dễ dàng thương yêu nhau, vì có Chúa ở trong và ở bên tôi.

Từ khi hai vợ chồng tôi cùng đến cầu nguyện và gia nhập nhóm Thánh Kinh Cầu Nguyện. Chúa đã “chạm” mạnh vào gia đình tôi và hiện nay vợ chồng tôi đã được nhận chìm trong Đức Kitô. Cả gia đình tôi đã cảm nhận được hạnh phúc thật sự. (theo Maria Vũ Kim Hồi, Chúa Giêsu đã biến đổi đời con, Thanhlinh.net)

Sau bao năm xa rời đức tin, chị Maria đã tìm lại Chúa, nhờ sự cố con gái bỏ nhà đi. Chị không ngờ Chúa Giêsu vẫn liên lỉ quan tâm, chờ đón gia đình chị trở về đoàn tụ trong Lòng Thương Xót. Cũng như xưa các môn đệ đâu thể nào ngờ Chúa Phục Sinh, vẫn còn chờ đón vỗ về họ, sau một đêm chài lưới hoàn toàn vô vọng.

Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan tường thuật Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tébériade, với bữa sáng sẵn sàng phục vụ. Sau một đêm vất vả, trắng tay, Chúa Giêsu hiện ra hỏi thăm, chỉ chỗ thả lưới hiệu quả, mà không một ai nhận ra Người.

Nhận ra Chúa

Ông Phêrô và các bạn chài đều nhìn thấy, đều nghe thấy Người đang đứng trên bờ Biển Hồ lúc tảng sáng, hỏi thăm họ đánh cá. Vâng lời Người, họ thả lưới bên hữu thuyền, liền bội thu. Thế mà chỉ có ông Gioan, ngạc nhiên khám phá ra Người, chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, liền thầm thì tiết lộ cho ông Phêrô: “Chúa đó!”

Tương tự tại “ngôi mộ trống,” cũng chỉ duy nhất một mình ông Gioan thấu đáo hiểu dấu chỉ Người đã sống lại, qua khăn che đầu và băng vải xếp gọn ghẽ. Chắc chắn chân dung, vóc dáng, lời nói của Người hẳn đã hằn sâu, in đậm nét trong lòng, cũng như trí nhớ Người môn đệ Chúa yêu, chẳng thể nào phai nhoà đi. Như vậy, một lần nữa, nhờ con tim mách bảo, linh cảm, nhờ lửa mến nóng bỏng, môn đệ Gioan đã kịp thời nhận ra Thầy Chí Thánh.

Lửa mến xua tan màn đêm tăm tối, tội lỗi, u mê, đốt cháy chướng ngại vật che chắn, vật chất, tiền tài, danh vọng, vượt qua cám dỗ vị kỷ, chia rẽ, dao động, nghi kỵ, phân hoá. “Chúa đó!” một khám phá tuyệt diệu chỉ dành cho một tình yêu bén nhạy, bền bỉ, sâu đậm, trung thành và viên mãn. “Chúa đó!”một lời giới thiệu tràn trề vui mừng và hy vọng! “Chúa đó!” một tiếng reo khải hoàn, vì được cứu thoát khỏi khốn khổ, thử thách, thất bại, lẫn thất vọng.

Đến với Chúa

Lần này, môn đệ Gioan ắt hẳn kính lão đắc thọ, không dám xớn xác, tuỳ tiện, như hôm chạy đua marathon ra ngôi mộ trống, bỏ xa lắc ông Phêrô tội nghiệp, lẹt đẹt theo sau. Mặc dầu ông Gioan rất phấn khích, sốt ruột, mong mau được gặp lại Chúa Phục Sinh, nhưng cũng phải dằn lòng, dành ưu tiên cho vị tiên chỉ Simon Phêrô nhảy xuống nước, bơi vào diện kiến Đấng Phục Sinh trước.

“Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” Không ngần ngại bỏ tất tần tật, bạn chài, thuyền lưới, cá mú, ông Phêrô tức khắc nhảy ra khỏi thuyền, bơi vào gặp Chúa ngay. Một hành động tích cực cao độ biểu lộ tâm hồn khao khát Chúa, tâm hồn từ bỏ chức tước, danh vọng, tiền tài, của cải, tâm hồn sẵn sàng, tỉnh thức, chạy đến với Chúa. Nhất là sau một đêm hì hục, miệt mài, vất vả chài lưới trắng tay. "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 11, 28-30)

Đi theo Chúa

Dù trên bếp hồng, đã sẵn sàng cá nướng thơm nồng, hoà quyện mùi bánh mới hấp dẫn, Đức Giêsu vẫn yêu cầu các môn đệ đóng góp thành quả vừa đánh bắt được: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Rồi Người tiếp tục phục vụ các môn đệ: “Anh em đến mà ăn!” Sau khi ăn xong, Người mới trang trọng phỏng vấn ông Simon Phêrô về tình yêu tối thượng dành cho Người.

Ba câu hỏi lập đi lập lại: “Này anh Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Gọi ngay tên cúng cơm, chính xác con ai, Đức Giêsu thân mật đòi hỏi một tình yêu tận hiến agapé trọn hảo, chứ không dừng lại tình yêu huynh đệ philia thường tình. Bởi vì, “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi!” Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” (Mc 12, 29-31)

Sau ba lần xác nhận tình yêu dâng hiến, ông Simon Phêrô được Chúa mời gọi: “Hãy theo Thầy!” Đồng thời giao cho ông trọng trách phục vụ đoàn chiên: “chăn dắt” và “chăm sóc.”Vừa hướng dẫn vừa nuôi dưỡng như vị mục tử nhân lành,“thấm đẫm mùi chiên,” chứ không phải cất nhắc lên ngôi cai trị, hay chiếm hữu.

Như vậy, ai muốn đi theo Chúa thì nghe và thực hành Lời Chúa: Mến Chúa, yêu người và phục vụ tha nhân. Không riêng gì các đấng bản quyền, mà tất cả con chiên, giáo hữu muốn theo Chúa, cũng đều phải tuân giữ nghiêm nhặt hai điều này.

“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)

Lạy Chúa Phục Sinh, xin mở mắt, mở tai, mở lòng chúng con luôn nhận ra Chúa trong từng anh chị em chung quanh, để yêu thương và phục vụ. Xin thúc đẩy chúng con năng hạnh ngộ cùng Chúa trong bí tích Thánh Thể, để luôn được Chúa hâm nóng lửa mến, hầu luôn được sống kết hiệp cùng Người trong mọi lúc, mọi nơi.

Lạy Mẹ Maria, chúng con khấn xin Mẹ giúp chúng con thấu hiểu những dấu chỉ của Chúa gửi đến, để vâng theo Thánh Ý Chúa trong suốt cuộc đời ba đào, gian lao, vất vả, hầu gặt hái được thành quả đáng mừng, như mẻ cả bội thu của các môn đệ. Amen.

 

14. Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi--AM. Trần Bình An

Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 18 m.Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người, gồm cả thủy thủ đoàn. Vào đầu thế kỷ 20, Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải, một tiến bộ công nghệ vượt bực, mà tạp chí The Shipbuilder tấm tắc ca ngợi là con tàu "không thể chìm".

Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình. (Wikipedia)

Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.

Con Thuyền Thánh Hóa

Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21, 6) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.

Sau khi ĐGH Biển ĐứcXVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.

Con Thuyền Tình Yêu

Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.

Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 20). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.

Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt 16, 17-19)

Con Thuyền phục vụ

Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21, 12)

Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.

“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. (Đường Hy Vọng, 249)

Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, 268)

Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.

 

15. Mẻ cá

Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.

Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.

Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.

Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.

Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.

Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.

Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.

 

16. Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần--Lm Jos. Vũ Mộng Thơ

Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được... đàng này nói "ông ta" là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất... dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng "tín điều" mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: "Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần". Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã "rượu vào lời ra" và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn "phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta".

- Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời... thì chắc chắn nhân chứng của ngài về "thiên tính" Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không "sát tế" sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi... vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo... Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị "sát tế" thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm "của lễ toàn thiêu" dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.

- Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn... tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm... Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm... Cũng thế hôm nay có một "chàng nghệ sĩ" tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào... Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải... thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng... và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.

Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.

 

17. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Theo lời kể lại của thánh Gioan: Đêm hôm trước, mấy môn đệ cực khổ lên thuyền ra biển đánh cá nhưng thức suốt đêm mà chẳng bắt được gì cả. Sáng ra, CG đến gặp các ông, kêu các ông thả lưới bên phải mạn thuyền, các ông làm theo lời Chúa và kéo lưới lên bắt được rất nhiều cá, nhiều đến mức kéo lưới lên không nổi. Cuộc đời của mỗi người chúng ta xem như một chuyến đi trên biển trong đêm, những ai có Chúa Giêsu trong đời sống đạo của mình, người đó có một chuyến đi thành công, một cuộc đời thành công.

Tôi đang ở Chủng viện Cái Răng, cũng gần Rạch Sút thôi, nên cũng hiểu được đời sống thường ngày của OBACE đạt những thành công lớn nhỏ khác nhau như: đi hỏi vợ cho thằng con trai, nhà gái đồng ý, sui gia hoà thuận với nhau lắm, cưới về rồi, con dâu giỏi dang, hiền lành, vợ chồng nó biết thương nhau, hai vợ chồng đứa nào cũng giỏi, cũng biết làm ăn, rồi nhờ người quen giới thiệu, thằng con trai vừa xin được việc làm, lương cũng khá, làm ba tháng, lãnh lương để dành mua được chiếc xe Wave. Đó là một thành công. Có gia đình khác, cả chục năm trời, hai vợ chồng làm lụng cực khổ, tiết kiệm từ đồng, giờ gom góp xây được cái nhà khang trang; Đó là một thành công. Hay mới đây, nghe người ta giới thiệu có ông thầy thuốc nam hay lắm, hai ông bà mừng quá, kêu xe ôm đi hốt thuốc, uống được mười mấy thang, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt. Và cũng có những thành công rất giản dị, đơn sơ, tuần trước, có một ân nhân nào đó đến cho gia đình mấy chục kg gạo, 1 thùng mì, 1 gói bột ngọt, vậy thì một tháng tới sẽ đỡ lo chuyện gạo thóc, mắm muối, mừng lắm.

Trong cuộc sống mình, chúng ta thường quan tâm làm sao để làm nhiều tiền, sắm nhiều của, được mạnh khoẻ, được đủ ăn, đủ mặc, và như vậy thì cho là thành công. Nhưng con nhìn thấy trong cuộc sống hiện tại của OBACE có một thành công rất lớn cần phải quan tâm và cần nên vui mừng. Đó là việc mỗi tuần lễ, OBACE đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật gặp gỡ Chúa Giêsu, rồi về nhà, mỗi tối, kêu con cháu quây quần bên nhau đọc kinh tối, và bà con lối xóm mình mỗi khi họ cần 1 lít gạo, 1 chén nước mắm, 1 chút bột ngọt, mình noi gương bác ái của Chúa Giêsu giúp đỡ họ. Có OBACE thắc mắc, những việc làm như vậy chỉ mệt nhọc, mất giờ, tốn của mà sao gọi là thành công được? Thưa, con xin trả lời, những việc đó đúng là thành công lớn lao của đời người vì ai dám làm những điều đó cho thấy có Chúa Giêsu đang hiện diện trong đời sống họ, trong tâm hồn họ. Mà Tin Mừng hôm nay nói, có Chúa hiện diện thì thành công.

Vậy thì tại sao có Chúa Giêsu trong đời mình là thành công? Con biết trong OBACE, có những ông bà lớn tuổi, kinh nghiệm cuộc sống nhiều, hiểu được rằng, dù cả cuộc đời mình vất vả kiếm tiền, kiếm bằng mọi cách, kiếm được tiền trăm bạc triệu, cất nhà lầu, sắm xe hơi, mà giữ đạo lôi thôi, nguội lạnh thì khi chết rồi, nằm đó, trắng tay, chẳng mang theo được cái, công đức cũng không có. Còn những ai dù cuộc sống có nghèo hơn một chút, nhưng sống đạo đàng hoàng: đi lễ Chúa Nhật, đọc kinh sáng tối, biết giúp đỡ mọi người, đến lúc họ chết đi, dù họ chẳng có của cải gì để lại nhưng có rất nhiều thứ công đức để mang theo ra trước toà phán xét của Chúa, họ sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu Chúa hứa ban. Đó chẳng phải là ích lợi lớn lao nhất khi cuộc đời mình có Chúa hiện diện sao thưa OBACE.

Thực hành Lời Chúa hôm nay, xin OBACE cố gắng đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, sốt sắng, về nhà nhớ kêu con cái mình đọc kinh sáng tối, biết quan tâm giúp đỡ mọi người xung quanh. Làm tốt những công việc này, trước mặt Chúa, cuộc đời của OBACE là một cuộc đời thành công. Ngày OBACE nằm xuống là ngày Thiên Chúa trao ban hạnh phúc đời đời cho OBACE. Amen.

 

18. Sứ mạng phục vụ--Lm Hồng Phúc

Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ lui về Galilêa, chuẩn bị thuyền bè để ra khơi đánh cá. Sau một tuần lễ nghỉ, nói đến việc đi làm thật chán ngấy. Nhất là đã có bao nhiêu biến cố xảy ra, vừa vui, vừa buồn, vừa hồi hộp. Phêrô nói với các bạn một câu cụt ngủn: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông uể oải trả lời: “Chúng tôi đi với”. Họ không đi đánh cá thì không biết làm gì. Mà không làm gì thì không có ăn!

Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.

Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.

Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.

Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…

Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.

 

19. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Chúng ta vừa được nghe thánh Gioan kể lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tibêria. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Trong bữa ăn thân mật tình thầy trò, Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô và các môn đệ một sứ vụ mới đó là ra đi rao truyền Tin mừng cho muôn dân.

Câu chuyện xảy ra trên bờ biển Tibêria. Phêrô và các bạn vất vả suốt đêm chài lưới nhưng không bắt được gì. Giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán thì Chúa Giêsu đã đến với các ông. Người đứng trên bờ biển nhưng các môn đệ không nhận ra Người. Chúa Giêsu bảo họ hãy thả lưới bên phải thuyền, họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra (ai là người nhận ra Chúa đầu tiên? Môn đệ đó tên gì?) người môn đệ được Chúa yêu nhận ra người đứng trên bờ biển không ai khác chính là Thầy. Phêrô khi nghe người môn đệ được Chúa yêu nói "Chúa đó" (ông đã làm gì-mặc áo vào và nhảy xuống biển) ông vui mừng nhảy xuống biển và bơi vào bờ. Khi mọi người đã đưa thuyền vào bờ thì thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn cho các ông có bánh và cá nướng. Thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ với nhau.

Sau khi ăn xong Chúa Giêsu bắt đầu nói chuyện với Phêrô (Chúa hỏi Phêrô câu gì?- này anh Simon con ông Gioan anh có mến Thầy hơn các anh em này không? Phêrô đã trả lời thế nào? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu bảo ông hãy chăm sóc chiên của Thầy; Chúa hỏi Phêrô mấy lần?). Sau khi nghe Chúa Chúa Giêsu hỏi mình tới 3 lần: con có yêu mến Thầy không? Phêrô buồn vì dường như Thầy chưa tin mình. Tại sao Chúa lại hỏi Phêrô đến ba lần? Có thể Chúa nhắc lại cho Phêrô để xoá đi những mặc cảm mà Phêrô đã chối Chúa 3 lần. Đồng thời Chúa muốn Phêrô khẳng định một tình yêu mạnh mẽ, dứt khoát để Chúa trao cho Phêrô trách nhiệm thật cao quí và cũng thật nặng nề: "Lãnh đạo toàn thể Giáo hội".Và chính sự cam kết tình yêu với Thầy mà Phêrô sang tận Rôma để rao giảng, giữa một cơn bắt đạo tàn nhẫn của hoàng đế Rôma, Phêrô đã dùng cái chết thập giá giống như Thầy mình để làm chứng cho Thầy.

Điều kiện mà Chúa đòi hỏi nơi người môn đệ của Chúa phải có là lòng yêu mến. Vì chỉ có tình yêu chúng ta mới có thể chấp nhận mọi thử thách để bước theo Chúa. Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, và tình yêu đó hôm nay cũng được thể hiện qua mỗi thành viên trong gia đình. Các em thấy, vì yêu thương con cái, cha mẹ chấp nhận khó nhọc để làm sao cho con mình được ăn học, dù vất vả nhưng cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con ngày càng lớn khôn. Và vì yêu mến cha mẹ, ngoài giờ đi học chúng ta cũng biết phụ giúp cha mẹ, mặc dù có cực nhọc nhưng chúng ta cảm thấy vui vì mình giúp đỡ cha mẹ chút gì đó. Vì yêu mến Chúa, ngày chúa nhật chúng ta hy sinh bỏ cuộc đi chơi với bạn bè, hay bỏ bộ phim hay để chúng ta đi lễ, học giáo lý đó là chúng ta đang nói với Chúa: Chúa biết con yêu mến Chúa.

Giờ đây chúng ta cũng được Chúa mời gọi làm chứng cho tình yêu Chúa trong gia đình, nơi trường học và qua những người mà chúng ta gặp gỡ. Có nhiều hình thức để chúng ta làm chứng cho Chúa: qua lời cầu nguyện, bằng gương sáng. Trong trường học chúng ta hãy cố gắng sống thành thật, biết giúp đỡ bạn bè.,không chửi thề nói tục đó là mình đang làm chứng cho Chúa, mình đang yêu mến Chúa. Có lẽ nếu giờ này Chúa hiện ra hỏi chúng ta: Con có yêu mến Thầy không?. Chắc ai cũng sẽ trả lời là có như thánh Phêrô xưa. Thế nhưng chúng ta có dám dùng thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ vả chính cuộc sống của mình để minh chứng tình yêu như Phêrô không? Chắc chắn tự sức ta sẽ rất khó khăn nhưng nếu chúng ta chấp nhận để Chúa dùng chúng ta như khí cụ của Chúa thì chúng ta sẽ dám mạnh mẽ nói như Phêrô: Thầy biết con yêu mến Thầy.

 

20. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Kính thưa ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em rất thân mến! Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta quá tự tin trong các nghề nghiệp, trong các chuyên môn của mình. Chúng ta cứ khăn khăn trong lập trường đó, chúng ta nghĩ rằng, mình phải làm như thế này mới đúng cách, làm thế kia mới đúng kỹ thuật, đúng khoa học, nhưng nhiều lúc chúng ta cũng bị thất bại thật ê chề.Thái độ quá tự tin đó khiến ta không còn biết đón nhận sự góp ý, sự soi sáng của người khác, nó khiến ta không còn tin, không còn cậy trông phó thác vào ai cả, chỉ cậy dựa vào tài ba của mình mà quên đi cả Chúa nữa. Sự vâng lời Chúa Giêsu nơi các tông đồ hôm nay giúp ta nhận ra bản tính thấp hèn yếu kém của con người chúng ta.

Thật ra, các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp, các ông rành rẽ thời điểm và nơi chốn để việc đánh bắt có hiệu quả cao. Các tông đồ chọn thời gian và địa điểm đánh bắt rất đúng: đánh bắt vào ban đêm và các ông cũng thừa biết nơi nào trên biển để bắt được nhiều cá. Các ông rất dày công cố gắng trong nghề nghiệp của mình, các ông đã vất vã lao động cả đêm. Các ông rất tự tin trong nghề nghiệp của mình, nhưng các ông đã thất bại. Chắc hẳn trong sự thất bại này, các tông đồcảm nhận được sự yếu kém, sự bất toàn, sự giới hạn của bản tính con người.Chúa Giêsu xuất hiện như một nguồn an ủi cho các ông. Một điều thật đáng cho chúng ta học hỏi là các tông đồ biết vâng nghe lời Chúa, biết xem những hiểu biết của mình là hạn hẹp, bất toàn nơi bản thân để thánh ý Chúa hoạt động nơi con người các ông.Các tông đồ thừa biết kiến thức trong nghề nghiệp của Chúa Giêsu thua kém các ông, nhưng các ông vâng lời Thầy trong niềm tin, vâng lời trong niềm phó thác vào Thiên Chúa. Chính sự vâng lời đó đã mang lại cho các ông một thành quả vô cùng lớn lao, một mẻ cá kỳ diệu, một thành quả từ chính quyền năng Thiên Chúa.

Mẻ cá kỳ diệu mà Chúa Giêsu Phục Sinh thực hiện cho các tông đồ, cũng đang nhắc nhở chúng ta là những người có niềm tin vào Thiên Chúa, những người được thừa kế niềm tin từ các tông đồ. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quá tự tin về tài năng,về sở trường của mình, đến nỗichúng ta quên cầu nguyện, quên cậy trông, phó thác vào Chúa và xin Người ban ơn phù trợ.Nhiều lúc chúng ta đã quên lời nói thật chí lý mà ông cha ta để lại: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Kinh nghiệm này đã được đúc kết bao đời, mời gọi chúng ta, nhìn ra thân phận nhỏ bé thấp hèn của mình, để đến với Chúa,và nài xin lòng thương xót của Ngài.

Hôm nay, chúng ta hãy noi gương các tông đồ bằng việc ý thức nơi con người mình còn rất nhiều khuyết điểm, còn nhiều bất toàn và chúng ta rất cần sự phù trì, trợ giúp của Chúa trong công ăn việc làm của chúng ta, đặc biệt là trong đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy noi gương các tông đồ là biếtcậy trông vào Chúa vì "không có Thầy, các con chẳng làm được gì".Lạy Chúa xin phù trì và trợ giúp chúng con. Amen.

 

21. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:

Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.

Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quovadis?”nghĩa là “Người đi đâu đó?”Người ấy trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”.

Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:

Sau biến cố Phục sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: “Chúa đó!”Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn”. Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy đã yêu”.

 

22. Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn các anh em khác không?

Ngày nay qua các nghiên cứu chuyên sâu về mọi mặt thì thấy lịch sữ của Ga không đơn giản như đã tưởng. Nhất là Ga 21, Cách chung đồng ý là không phải của Ga mà được thêm vào sau vì văn phong không giống phần trước và thuộc thời rất muộn về sau.

Các Phúc Âm được chuyền tay chép lại và chuyện có sửa đổi thêm bớt là bình thường vì chưa có phương tiện nào để nhân bản dù mỗi lần nhiều hơn một bản thôi. Cho tới cuối thế kỷ IV và đầu V mới có bản văn như ngày nay. Khi ấy người ta phải hợp tuyển từ cả ngàn bản chép tay, không bản nào giống bản nào. Và Thánh Giêrônimô đã dịch ra tiếng la tinh (bản Vulgata) được Giáo Hội coi là bản chính thức của Giáo Hội thì vấn đề chép lại và sửa đổi cũng đở nhiều.

Ga. 21 không phải là của Gioan chính thống, cũng không biết của ai (đươc coi là của một môn đệ viết theo như Gioan kể lại). Đoán thế thôi.

Còn về các câu chuyện Phục Sinh (hiện ra) được viết sau hết trong sách Phúc Âm với mục đích rỏ ràng không phải để chứng minh Chúa Giêsu đã Phục Sinh, vì Đức tin vào Chúa Giêsu đã Phục Sinh là Chúa và là Đấng Kitô đã hai năm rỏ mưòi rồi. Mục đích chính là:

 

- Buổi sáng ngày thứ I, với các bà, trong mớ lẫn lộn những dị biệt là để nhắn với các môn đệ "hãy trở về Galilê ở đó sẽ gặp Thầy". Thật ra những lời nầy không bảo đi về Galilê theo nghĩa chử mà là đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã Phục Sinh, là Đấng Kitô và là Chúa thì hãy đem ánh sáng Phục Sinh mà soi sáng mọi ký ức của họ về Đức Giêsu Galilê. Những gì họ đã sống, đã nghe, đã chứng kiến về Đức Giêsu Galilê để nhớ lại và thấu hiểu theo cách nói 'Chúa Giêsu thở hơi ban thần khí giúp nhớ lại đầy đủ và hiểu rõ Kinh Thánh'.

- Buổi chiều ngày thứ I:

- Với hai môn đệ đi làng Em mau: Cách nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh nhờ Kinh Thánh và Thánh Thể.

- Với 11 môn đệ (coi như lần hiện ra chính thức): Để sai đi (cùng với việc ban phương tiện). Đã tin và vui mừng thì hãy đi loan truyền niền tin và vui mừng ấy..

- Tám ngày sau có Tôma (vì chiều ngày thứ I Tôma mắc đi vắng). Các Phúc Âm cách chung đều nói 'các môn đệ chưa tin', cứng lòng. Ga không nói cách đó mà nói bằng câu chuyện của Tôma ông Dydimo (Ông đi mô) bị đem ra làm gương'đi vắng' bị mắc. Vắng thì không thấy, không tin lời người khác thấy nói lại nên cũng không nhận được gì cả khi Chúa Giêsu đến ban cho ngày thứ I trong tuần. Tôma là trong số 12 ông đã được chọn. Mất Giuda rồi, buồn lắm, không nở bỏ Tôma. Chúa Giêsu đã yêu thương họ thì yêu thương đến cùng (trừ đứa con hư mất) Nên gọi là Chúa Nhật của lòng thương xót. Tám ngày là để cho Tôma thấy mà tin (đừng cứng lòng) và có đưọc những gì Chúa đã ban mà các ông khác kể lại gồm cả việc thổi- hơi- sai- đi cùng với ơn tha tội.

Ga 21 cũng cùng mục đích là sai đi. Nhưng ở đây 'điểm' là Phêrô, người cầm đầu công cuộc "sai đi" vì việc rao giảng đã được tiến hành bốn năm mươi năm rồi - kết quả mỷ mản- Phêrô đã vào vai trò cầm đầu không thể chối cải hoặc thay thế được. Phải hợp thức hóa thôi.

Ga 21 là lần bắt cá thứ I được thuật lại dưới ánh sáng Phục Sinh.

Thuyền của Phêrô. Phêrô cầm đầu đi đánh cá.

7 môm dệ. Con số 7 chỉ toàn thể. Đánh cá thì một thuyền 2 người. Con thuyền Giáo Hội do Phêrô cầm đầu mới nhiều thế.

Cả đêm không được gì. Sức con người thì làm được gì!

Thả lưới bên phải theo Lời Chúa mới kết quả. Thả lưới bằng thần khí của Đấng Phục Sinh thì lưói đầy cá.

153 con cá. Rỏ ràng không phải là cá thật mà là Truyền giáo. Lưới không bị rách là Giáo Hội. Phải hiểu theo nghĩa biểu tượng.

Chỉ là chuyện để vào đề. Đề chính là chuyện về Phêrô.

Ba lần hỏi. Văn chương do thái nói ba lần để chỉ thì superlatif vg. thánh thánh thánh không phải là ba lần thánh mà muốn nói rất thánh, chí thánh...Số 3 là số trời, mà là trời già. Bất quá tam.

Có thể: Phêrô nông nổi. Nói ngon miệng mà rồi chối Chúa ba lần (cũng ba lần). Là chuyện tối quan trọng phải đánh lưỡi ba lần mà trả lời cho đầy đủ ý thức và chỉ có một lần không có cơ hội để làm lại đâu. Hỏi ba lần, trả lời ba lần thì nhấn mạnh đủ, ý thức đủ và đủ cho mãi mãi.

1- "Có yêu Thầy hơn các anh em nầy không?". Yêu là quan trọng hơn hết. Yêu nhiều thì hơn hết, làm cho người ta sẳn sàng hy sinh chịu khó kể cả liều mạng. Yêu hơn thì sẽ kể là hơn

Hãy chăm sóc các chiên con của thầy. Chiên con thì phải chăm sóc cực hơn lại ăn thịt dể và ngon nữa. Đòi yêu nhiều mới dám trao cho.

2- Có yêu mến Thầy không? Hãy chăm sóc các chị chiên của Thầy. Các chị nầy có em bé rồi nhưng cũng không dể gì.

3- Có yêu mến thầy không? Một lần nữa cho chắc. Hỏi hai lần và giao phó hai lần các chị.

- Để cho người ta thắt lưng và dẩn đi không theo ý mình. Hãy theo Thầy. Không phải tự ý đi mà đi theo. Yêu thì hy sinh tự do rồi. Chăm sóc chiên Thầy vì yêu Thầy không phải vì yêu chiên, là phục vụ như Thầy sẳn sàng hiến mạng sống vì chiên. Có như thế thì hãy theo Thầy: vác thập giá và hiến mạng sống. Theo truyền thuyết 'Quo vadis' thì Phêrô khăn gói bị gậy đi trốn ra cửa thành gặp Chúa Giêsu đi vào.....và ông đã trở vào vác thập giá và hiến mạng sống (không để Chúa Giêsu chịu đóng đinh lần nữa).

Phêrô đóng vai là người cầm đầu việc rao giảng với lòng yêu mến Chúa Giêsu hơn các anh em khác để thay thế Chúa Giêsu hữu hình. Từ đầu Phêrô đã nổi lên và được công nhận là người cầm đầu thật sự (chắc lúc viết bài nầy Phêrô đã hoàn tất nhiệm vụ). Gioan rất quan tâm đến việc ' được sai đi'. Thiên Chúa sai Đức Giêsu (để anh em nhận biết Đấng Người đã sai đến). Chúa Giêsu sai các tông đồ. Đươc sai chính thức mới được ban các phương tiện và quyền năng để thi hành sứ mạng và mới đuợc tin tưởng. Phêrô phải được Chúa Giêsu chính thức 'sai' cầm đầu việc rao giảng mà Người đã truyền cho các tông dồ.

Điều mà đoạn Phúc Âm nầy muốn nhấn mạnh hơn hết là 'yêu mến hơn hết' làm tính cách đặc biệt của người cầm đầu cho những vị kế tiếp. Yêu mến hơn hết để cầm đầu trong việc phục vụ và hiến mạng sống như Chúa Giêsu và vì yêu mến Chúa Giêsu hơn hết.Nhưng không phải máy móc, khô khan mà ướt át, tình cảm vì yêu mến và yêu mếu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Chủ chăn được Chúa Cha sai. Đoàn chiên là của Chúa Giêsu, Đấng là Chúa và là Thầy và cũng là Đấng rữa chân. Phêrô và những vị kế tiếp, hãy làm vị cầm đầu như lòng Chúa mong ước.

 

23. Chúa hiện ra gần biển Tibêria – R. Veritas--‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’

Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống, Chúa nhật nào nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và nghe ngài giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội, đến tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và nghèo đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng giám mục Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng thắn tố cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu. Nhưng tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng như lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những kẻ thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài. Sáng ngày 24/03/1980 họ đã sai người ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện của bệnh việc thủ đô, nơi Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho các nữ tu, nhân viên y tế và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các tín hữu hiện diện. Không hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra như hiến tế mưu cầu hòa bình cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong vài lời suy tư ngắn trong Phúc Âm, Đức cha nói: "Như chủ chăn sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên, Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình tươi sáng, nhân dân El Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng". Đức Cha rời tòa giảng tiến lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút súng bắn Ngài. Đức Tổng Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy và thánh lễ cuối cùng của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ trọn vẹn. Vì vị chủ tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập giá ngày xưa.

Đức tổng Giám mục Romero đã chết vì đã trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: "Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời người ta". Cái chết tử đạo của Đức cha giúp chúng ta hiểu sứ điệp Lời Chúa trong Phụng Vụ Chúa Nhật III mùa Phục Sinh hôm nay.

Sách Tông đồ công vụ là cuốn sách kể lại lịch sử thời giáo hội sơ khai, trong đó, nét nổi bật nhất của Giáo hội thời đó là thực tại Kitô hữu bị bách hại. Cũng như Chúa Giêsu đã bị khước từ và bị bắt bớ trong lúc rao truyền Tin Mừng cứu độ thế nào, thì giờ đây cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng bị bắt bớ như vậy.

Tin Mừng mà các tông đồ vâng lệnh Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng được dân chúng đón nhận như bị giới lãnh đạo khước từ, đặc biệt là giới lãnh đạo tôn giáo. Ngay từ đầu, các tông đồ đã ý thức được rằng khi các nhà lãnh đạo chống đối lời rao giảng là họ đã chống đối chính Thiên Chúa và chương trình của Ngài, chứ không phải chỉ chống lại các tông đồ, vì các tông đồ chỉ là dụng cụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Nói cách khác, mọi cuộc bách hại Kitô hữu đều bắt nguồn từ thái độ thù ghét Thiên Chúa và chống lại chương trình cứu độ của Ngài. Chương trình mà chính Chúa Giêsu Kitô đã thành toàn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Nhiều người Do thái dù rất đạo đức và chân thành cũng không chấp nhận Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đối với họ, Chúa Giêsu đã không sống theo luật Môisê và giáo huấn của Kinh Thánh, vì thế họ cần phải thủ tiêu Ngài. Nhân danh các luật lệ và giáo huấn, giới tư tế đã cấm các tông đồ phổ biến sứ điệp của Chúa Giêsu. Nhưng lời rao giảng của các tông đồ có mục đích giúp mọi người hiểu rằng: "Giáo huấn Kinh Thánh dẫn đưa con người đến chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đã thành toàn chương trình cứu độ".

Tin Mừng của Chúa Giêsu tiếp tục Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái, vì thế mọi người phải vâng lời Thiên Chúa, Đấng đã nói qua các ngôn sứ và sau cùng qua Đức Giêsu, Đấng đã hứa trao ban ơn tha tội và ơn cứu rỗi cho con người, Đấng đã từng bước trong lòng lịch sử dân Do Thái, và sau cùng trong bản tính nhân loại của Đức Giêsu thành Nazareth, nghĩa là phải vâng lời Thiên Chúa của toàn Kinh Thánh và trở về với Ngài chứ không phải là chiều theo ý muốn của giới lãnh đạo trần gian.

Áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày, qua chương 5 sách Tông đồ Công vụ, Thiên Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta điều này: Ngài cần đến các nhân chứng biết vâng lời bằng thái độ không vâng theo giới lãnh đạo trần gian dối trá, tham lam và ác độc. Bằng cách biết nói "không" với các đề nghị và dàn xếp đổi chác của họ, biết cương quyết nói "không" trước những ve vuốt, tâng bốc hứa hẹn, lợi lộc và cạm bẫy họ giăng để biến đổi Tin Mừng trở thành dụng cụ phục vụ họ và vô hiệu hóa giáo huấn của Chúa. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời bằng cách cương quyết chống lại tất cả những gì đe dọa sự sống, phẩm giá, tự do và tính chất thánh thiêng của con người. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời Ngài bằng cách nói "không" với tất cả những gì nghịch với luật Chúa và lương tâm của mình. Cho dù tiếng "không" ấy được cất lên mà có phải thất bại và thiệt hại trong cuộc sống đi nữa, thì họ vẫn cương quyết giữ vững lập trường để bảo vệ giáo huấn Tin Mừng của Ngài. Chỉ khi nào người tín hữu Kitô biết sống như thế thì họ mới diễn tả trung thực lòng tin của mình vào Chúa Kitô Phục Sinh mà họ tôn vinh và cử hành trong Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật trong năm.

Cũng giống như kinh nghiệm của tác giả sách Khải Huyền trong chương 5, "chính trong bầu khí Phụng Vụ Chúa Nhật, chính lúc tụ họp nhau lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể mà Kitô hữu sẽ được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và bối cảnh cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu mai sau.

Nói một cách khác, các buổi cử hành Phụng Vụ Thánh Thể rất quan trọng trong đời sống đức tin của người tín hữu Kitô vì đó là suối nguồn ân thánh giúp vun trồng đồng cỏ cuộc sống thiêng liêng và ba loài hoa quí là tin cậy mến. Nếu không ý thức được sự thật tuyệt vời này, Kitô hữu sẽ không bao giờ sống Phụng Vụ một cách trọn vẹn. Mỗi một Kitô hữu, mỗi một cộng đoàn Kitô hữu không sống các thực tại nhiệm mầu của Phụng vụ một cách trọn vẹn và sâu thẳm thì sớm muộn cũng trở thành thờ ơ bất động, tê liệt và nguội lạnh. Mà nguội lạnh là sắp chết nếu không nói là đang chết hay đã chết như một cái xác không hồn bất động. Nếu không biết ý thức và cảnh tỉnh, người Kitô hữu rất dễ trở thành những cái xác nguội lạnh không hồn và sẽ là những bộ phận ung thối rữa nát trong thân mình Giáo Hội.

Chương 21, thánh Gioan đã tường thuật biến cố Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và can thiệp giúp các ông đánh được mẻ cá lớn sau một đêm lao nhọc mỏi mệt mà chẳng bắt được gì. Qua đó, thánh sử muốn nhắn nhủ chúng ta những điều sau đây:

1. Nếu không muốn lao nhọc một cách vô ích trong công việc làm và cuộc sống mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Phục Sinh để Ngài hoạt động, hiện diện và hướng dẫn chỉ vẽ cho chúng ta trong mọi sự: nghĩa là biết vâng lời Đức Kitô Phục Sinh quẳng lưới phía bên phải. Trong truyền thống Kinh Thánh, bên phải là phía của phúc lành. Rất tiếc trong cuộc sống chúng ta lại thường cứng đầu cứng cổ, quẳng lưới bên trái là phía của án phạt và chúc dữ.

2. Chúng ta hãy biết noi gương Chúa Giêsu Phục Sinh duy trì chiều kích nhân bản của cuộc sống. Phúc âm thánh Gioan là Phúc âm thiêng liêng kết thúc với hình ảnh Chúa Giêsu Phục Sinh sửa soạn bữa ăn sáng cho các tông đồ trên bờ hồ Tibêria chứng minh cho thấy tất cả chiều kích nhân bản trong kiểu cách sống của Chúa Giêsu. Đức Giêsu thành Nazareth trước kia và Chúa Giêsu Phục Sinh giờ đây vẫn là một. Ngài chuyện vãn đối thoại với các tông đồ. Ngài chú ý đến công việc làm, các sinh hoạt, các vấn đề khó khăn của họ và ngồi ăn với họ.

Mầu nhiệm Nhập Thể dạy cho chúng ta biết rằng đức tin của chúng ta sẽ không vững chắc nếu không được xây trên chiều kích nhân bản với tất cả cái phong phú tuyệt diệu của nó.

Khi còn sống và rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã luôn luôn yêu thương bênh vực những người nghèo hèn, bé nhỏ bị gạt ra lề xã hội. Giờ đây, khi trao ban cho Phêrô chăn dắt chiên con, chiên mẹ, biểu tượng cho lớp người yếu đuối, khiêm tốn, bé nhỏ, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục đường hướng mục vụ ấy và muốn Giáo hội tiến bước trên con đường này.

3. Trong sứ mệnh phục vụ này, cường độ của tình yêu thường là điểm qui chiếu và thước đo duy nhất. Càng yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều bao nhiêu thì công tác phục vụ của Phêrô càng trung thực với tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô và càng hữu hiệu bấy nhiêu.

 

Vấn đề ở đây không phải là khả năng trí thức, học cao biết rộng, mà là biết yêu mến nhiều nhất, yêu thương nhiều hơn hết đó là tước hiệu duy nhất có giá trị biện minh cho quyền bính cai trị, nghĩa là phục vụ trong Giáo hội.

4. Tinh thần sẵn sàng theo Chúa Giêsu Kitô không phải để bước đi trên con đường danh vọng có nhiều đặc quyền đặc lợi, được người đời ca tụng kính nể, mà là để bước đi trên con đường Thập Giá khổ đau dẫn đến cái chết Phục Sinh.

 

24. Hãy phục sinh đức tin…--Lm Vũ Xuân Hạnh

Sống Mùa Phục Sinh

Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và bung ra cả trong chiều sâu nội tâm của đức tin, trong các sinh hoạt đạo đức cá nhân hay tập thể, lẫn trong đời sống thường ngày của mình. Đó là cách tốt nhất để diễn tả niềm tin phục sinh. Đó cũng là cách tốt nhất để cùng với Chúa Kitô, ta làm cho đời sống của ta, xung quanh ta tràn ngập niềm vui phục sinh. Tôi gọi đó là phục sinh đức tin.

1. NHỮNG LÝ DO CẦN ĐẾN ƠN PHỤC SINH ĐỨC TIN.

Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong nội tâm, để nội tâm lắng đọng một chiều sâu phục sinh đích thực: Biết bao nhiêu người, kể cả bạn và tôi đã mừng Chúa phục sinh, nhưng sự mừng ấy có khi chỉ là lễ hội, là sự háo hức về một đêm thánh mà trong đó phụng vụ có nhiều diễn tả lạ, khác mọi cử hành phụng vụ khác. Thiếu chiều sâu nội tâm của đức tin, vì thế, mừng ơn phục sinh vĩ đại, nhưng lòng ta, ơn phục sinh chẳng thấm, chẳng biến đổi gì. Ta chẳng phục sinh.

Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong các sinh hoạt đạo đức: Nhiều người sống nguội lạnh, bỏ cầu nguyện, bỏ các giờ kinh sớm chiều, bỏ luôn cả việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích. Nhiều người chạy theo dục vọng, tiền tài đã sống bê tha trong tội lỗi, thậm chí nhiều năm không đến nhà thờ, bỏ luôn cả việc xưng tội, rước lễ. Nhiều anh chị em tích cực hơn, nhưng chỉ giữ đạo theo mùa: Cứ đến lễ trọng, mùa Vọng, mùa Chay, mùa Giáng Sinh, mùa Phục Sinh thì chạy đôn, chạy đáo tìm linh mục giả tội, nhưng rồi vẫn không mấy thay đổi. Nhiều người còn chịu khó giữ đạo, giữ các giờ kinh, tuy đấy đã là điều tốt, nhưng cần phải tốt hơn trong sự chăm chú cầu nguyện, suy tư và chiêm ngắm lời kinh mà mình đọc, chứ đừng chỉ giữ giờ kinh, giờ cầu nguyện, cả đến việc dự lễ mỗi ngày như một thói quen. Vì thế, họ cần phải phục sinh đức tin của chính mình.

Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong đời thường. Từ trước tới nay, ta chưa bao giờ, hoặc có nhưng rất ít, rất thiếu sót sự gắn bó với Thiên Chúa trong từng công việc, trong các bổn phận, và mọi lao nhọc… Vì thế, khi phải lao tác, vất vả, lắm lúc gặp nhiều trở ngại, nhiều thất bại và không biết bao nhiêu cay đắng khác…, ta chỉ thấy mệt mỏi, chỉ thấy đời ta đầy nặng nhọc, đầy oan khuất. Ta cần biết rằng, cuộc đời vẫn thế, bất cứ ai sống trong đời đều cũng giống như ta. Chỉ khác ở chỗ, họ đã tin tưởng vào Chúa Kitô. Họ kết hợp với thánh giá của Người trong từng ngày sống. Họ hiến dâng cho Người tất cả suy nghĩ, việc làm, niềm tin, hy vọng, sự sống, mọi hoàng cảnh, mọi tương quan… Nhờ đó, họ chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn. Họ đủ nghị lực mà gánh vác chính cuộc đời của họ. Ta cần phải phục sinh đức tin như họ để ta cũng được ơn bình an của Đấng Phục Sinh.

Ngược với những người phải ngày đêm vất vả là những người sống xa hoa. Nhất là trong thời hiện tại, người ta có quá nhiều phương tiện hưởng thụ, đến nỗi lao thân vào lối sống duy vật và nô lệ cho lối sống ấy. Đây là đối tượng khẩn thiết nhất cần đến ơn phục sinh đức tin. Vì chỉ có thể sống lại trong đức tin, họ mới có thể thuộc về thế giới của sự sống tự do, sự sống mới, khơi nguồn từ nguồn Phục Sinh là chính Chúa Kitô. Bởi chỉ có ai bước đi trong ơn phục sinh của Đấng Thiên Chúa làm người, người ta mới thực sự sống tự do, không nô lệ.

Với tất cả những lý do cụ thể bên trên, ta thấy phục sinh đức tin là việc làm khẩn cấp. Vậy để phục sinh đức tin, ta cần phải làm gì? Tôi muốn đưa ra vài suy nghĩ của riêng cá nhân tôi, chỉ xin là những gợi ý khả dĩ giúp ta bước vào hành trình phục sinh chính đức tin của mình.

2. GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ.

Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của Hội Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin. Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô. Bởi vậy, những gì chúng ta đã từng sống, đã từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô giáo, nhưng chưa có chiều sâu bằng một cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô. Tôi tạm gọi việc chỉnh đốn lại cách sống, cách thực hành đức tin là phục sinh đức tin.

Như vậy phục sinh đức tin có nghĩa là hãy nhìn vào Chúa Kitô trước đã. Từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiệc các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy. Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi.

Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù binh bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình. Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui. Người đàng ông là tù binh chắc chắn sẽ không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, chỉ là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông. Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa của tôi. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.

Ta cần phục sinh đức tin của mình, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.

Nếu ta phục sinh đức tin của mình trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…

3. THOÁT LY NHỮNG NHU CẦU GIẢ TẠO.

Một trong những nguy cơ giết chết đức tin của người tín hữu chính là lòng ham mê ngẫu tượng của thời đại.

Họ trang bị cho mình mọi thứ vật chất, mọi tiện nghi, mọi phương thế thụ hưởng, và coi đó là những thứ cần thiết như đích điểm của đời người, đến nỗi cuốn mình chạy theo nó, quay quắt với nó như cơn bão xoáy không chừa lại một chỗ nào cho sự sống tinh thần có thể ngoi ngóp. Đúng hơn, đấy chính là trận bão của những nhu cầu giả tạo, nhu cầu trước mắt, cuốn phăng lòng người theo nó. Bởi vậy mà không ít người đau khổ khi mình thua anh kém chị dù chỉ một chiếc áo, một đôi dép. Họ tôn thờ vật chất đến độ như chỉ có nó mới là vẻ đẹp của đời mình vậy. Chính vì thế, ngày càng có nhiều người tôn thờ chủ nghĩa thời thượng, chủ nghĩa “mode”. Sự tôn thờ này đã biến họ thành nô lệ cho vật chất. Họ phải liên tục đổi di động, đổi xe gắn máy, đổi đồng hồ, đổi những thứ trang xức khác…, làm sao cho những gì họ có phải mới liên tục, phải “mode” liên tục. Họ tôn thờ vật chất một cách đam mê và cuồng tín. Tôi gọi đó chính là sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại.

Điều mỉa mai đau đớn là, dù ngụp lặn trong thế giới vật chất, vượt trên cả sự tìm tòi vật chất: con ngưới trầm mình với vật chất như thể nên một với nó, thì lại có một thực tế khác, dù âm thầm, vẫn không kém mạnh mẽ lên án thái độ nô lệ ngẫu tượng thời đại của con người. Thực tế đó chính là tiếng nói của lương tâm, là đời sống tinh thần, là thế giới thiêng liêng của tâm hồn. Cố tình vượt qua giới hạn của tiếng nói nội tâm mình như thế, con người trở nên chao đảo, bấp bênh, thiếu bình an, và đói khát chân lý. Tình trạng này làm cho con người sống hết sức ngột ngạt.

Bởi con người đâu chỉ là vật chất, nhưng trước hết là tinh thần. Đời sống tinh thần mới là sức mạnh làm nên giá trị của đời người. Vì thiếu niềm tin, vì lạc mất tinh thần, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại cũng sẽ đẩy chủ nghĩa cá nhân lên ngôi. Bởi càng tiện nghi bao nhiêu, con người càng dễ sống một mình bấy nhiêu.

Nhưng các tiện nghi vật chất không bao giờ là đối tượng chia sẻ sự sống, suy nghĩ, tình cảm…, điều mà từ rất xa xưa, Ađam đã cảm nghiệm, vì ông không thể “tìm được một trợ tá tương xứng” (St 2, 20). Không thể chấp nhận một xã hội chỉ là cá nhân, Ađam thao thức tìm kiếm sự chia sớt tương xứng, và Chúa đã ban cho ông như lòng ông mong đợi. Nhưng oái oăm và nghịch lý quá đỗi! Trong khi Tổ Tông của mình cố thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, thì loài người hôm nay, dẫu quá kinh nghiệm về sự tai hại của chủ nghĩa này, lại cứ tìm về, cứ cố tình đuổi theo nó bằng mọi thứ tiện nghi, mọi thứ trang bị cho chính cá nhân, biến cá nhân thành trọng tâm cho sự quan tâm của chính mình. Thật vô phúc cho ai sống gần những cá nhân chỉ tôn thờ chính mình như thế!

Rồi từ chỗ chỉ biết sống cho riêng cá nhân mình, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại, càng biến con người thành động vật sống ích kỷ không thể tả. Nhưng như một hệ luận tất yếu: càng sống ích kỷ, con người càng cô độc. Nếu tiếng nói của nội tâm bị coi thường, cuộc sống của con người vốn đã ngột ngạt, sự cô độc sẽ làm cho con người ngày càng chơi vơi hụt hẩng, ngày càng cay đắng với chính mình, với thế giới quanh mình gấp nhiều lần hơn.

Không còn chỗ bám cho đức tin, con người tự giết chết mình, giết chết cả những tương quan quanh mình cách thảm hại. Bởi dù họ sống, nhưng lối sống ích kỷ ấy chỉ là lối sống thiếu sức sống. Nói nặng hơn, cá nhân mình, một khi chỉ là đối tượng chăm sóc của bản thân, cá nhân ấy trở thành cá nhân què quặt, dị tật.

Như vậy, trong sự phục sinh đức tin của mình, cùng với việc sống cá vị và liên kết mật thiết với Chúa Kitô, người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để sống đức tin với anh chị em. Họ cần để cho lòng mình thanh thoát, khỏi những vướng bận của trần gian, của những tiện nghi vật chất.

Người tín hữu cần học biết điều này: Đức tin là đức tin cá nhân của bản thân gắn bó với Thiên Chúa. Càng chìm sâu bao nhiêu trong sự gắn bó với Chúa, sẽ càng đầy tràn lòng yêu mến, và chắc chắn đức tin càng sáng chói bấy nhiêu. Nó đòi hỏi ý thức và sự dấn thân thực sự của cá nhân trong tương quan với Chúa Kitô, với Thiên Chúa. Nhưng đức tin chỉ có thể được nuôi dưỡng trong đời sống cộng đoàn. Bởi Thiên Chúa, nền tảng của đức tin chúng ta là một Thiên Chúa “không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể” (kinh Tiền Tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Người không cứu chuộc từng người đơn độc, nhưng trao ban tình thương cho tất cả mọi người.

Cũng vậy, Chúa Kitô không phải là “Đấng ở cùng một người”. Nhưng Người là Đấng “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúa Kitô không nhập thể và chết cho bất cứ cá nhân nào, nhưng cho cả thế giới qua lớp lớp thế hệ. Chính vì thế, hôm nay Chúa Kitô đã phục sinh, chúng ta cũng hãy làm phục sinh đức tin của mình trong tương quan với cộng đoàn Hội Thánh, với mọi người xung quanh. Chính trong cộng đoàn mà ta liên kết, gương tốt của người này sẽ ảnh hưởng trên người kia; gương xấu của người này sẽ là bài học lớn cho kinh nghiệm sống của người kia, để có thể lách mình khỏi những sai sót mà anh em vấp phải.

Ngoài ra, đức tin còn phải được gìn giữ, phát triển nhờ sự đào tạo liên tục trong suốt đời người bằng mọi nỗ lực cá nhân như: Tìm về một lối sống đơn sơ, giản dị chứ không tìm một lối sống dễ dãi; không nhắm tiện nghi và hưởng thụ, nhất là không nhắm vào nó đến nỗi quay quắt với vật chất như chỉ có nó là sự bảo đảm cho đời mình; hãy biết hy sinh, hãy chấp nhận giới hạn trong tất cả những đòi hỏi vật chất. Hãy là người biết khôn ngoan nói không với những nhu cầu giả tạo. Hãy bền chí theo đuổi cái đẹp của tinh thần, của tình yêu, của sự thầm lặng, của ơn gọi sống nghèo khó, chứ không khoác lên mình những hào quang chỉ được xây dựng từ trần thế cho riêng cá nhân mình.

4. CUỘC PHỤC SINH CỦA CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA.

Cùng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta bước vào hành trình phục sinh đức tin của chính mình. Trong hành trình này, Chúa Kitô chính là điểm dừng quang trọng nhất mà đức tin của ta phải tiến đến. Và sự phục sinh của Người là lời mời gọi mạnh mẽ nhất cho hành trình phục sinh đức tin của chính ta.

Phục sinh nào cũng đòi hỏi hy sinh lớn lao, rát buốt. Chính Chúa đã rơi vào những tình huống như thế. Để tiến vào sự phục sinh vĩnh cửu của Người, Người đã từng đối mặt với những đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác. Người đã phải rơi vào nỗi cô đơn, bế tắc, vùi giập. Cái chết của Chúa tưởng đã là tiếng nói sau cùng, là thất bại thảm khốc. Nhưng Chúa đã vượt qua. Người đã đứng lên. Người sống lại. Người chiến thắng.

Sự phục sinh của Chúa vừa là mẫu gương cho sự phục sinh đức tin của ta, vừa là nguồn mạch ban ơn phục sinh cho ta.

Vì thế, như Chúa Kitô, ta vượt qua chính con người nhiều đam mê của bản thân, vượt qua mọi rào cản khách quan lẫn chủ quan để được phục sinh đức tin từng ngày trong nội tâm, trong mọi sinh hoạt đạo đức, lẫn trong đời thường của ta.

Cùng với những nỗ lực nhìn về Chúa Kitô để phục sinh đức tin, ta vững một niềm xác tín rằng, Chúa Kitô ban ơn phục sinh từng ngày cho ta. Bởi giữa mọi lý do gây ra tình trạng chết của đức tin do thiếu chiều sâu nội tâm, do thiếu ý thức trong việc sống đạo, thiếu ý thức về ý nghĩa đạo đức của đời thường, thậm chí do cám dỗ chạy theo lối sống xa hoa, hưởng thụ và thực nghiệm…, ta vẫn trung thành mong đợi ơn phục sinh, và tin tưởng vào sự phục sinh bừng lên nơi cuộc đời mỗi người, thì chính lòng mong đợi và sự tin tưởng ấy, đã cho thấy nguồn ơn phục sinh của Chúa đang thấm vào đời ta.

Mặt khác, dù cho còn đó bao nhiêu lý do cám dỗ ta đi xa đức tin, thậm chí tiêu diệt đức tin, và dù cho lòng ta nhiều khi còn hời hợt, còn thiếu chiều sâu nội tâm, thiếu ý thức, ta vẫn mong ước được phục sinh đức tin của mình. Niềm mong ước này không thể có được, nếu không có ơn phục sinh của Chúa khơi nguồn và ban ơn.

Từ nay, bước theo Chúa Kitô, ta ngước nhìn Người để nếu Người đã phục sinh, ta cùng phục sinh đức tin của mình trong từng hoạt động, từng ngày sống của ta. Ta cũng sẽ gắn bó đời mình với Chúa, can đảm thoát ly mọi nhu cầu giả tạo, để được chìm đắm trong nguồn ơn phục sinh của Chúa. Có như thế, trong cuộc phục sinh của Chúa Kitô, có những cuộc phục sinh trong đức tin của mỗi người. Và cuộc phục sinh của mỗi người trong tương quan với ơn phục sinh của Chúa Kitô, có sự phục sinh của nhiều người, của cả Hội Thánh..….

 

25. Tin và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa--Lm Vũ Xuân Hạnh

Cuộc sống quanh ta có rất nhiều biểu tượng. Một biển báo đi đường, một hình vẽ diễn tả sự tai hại của bênh AIDS, của ma túy, một ký hiệu cấm hút thuốc nơi công cộng, cấm đậu xe bừa bãi… Tất cả những biểu tượng đó là những lời nói vô âm soi rọi cho mình về một vấn đề nào, một quy định nào mà mình cần thực hiện, hay sống… Ngôn ngữ biểu tượng rất phong phú. Nó gần gũi với ta, ở xung quanh ta.

I. LỬA VÀ NƯỚC

Trong đêm tưng bừng của thứ Bảy tuần Thánh, khi công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội không chỉ công bố bằng ngôn ngữ của lời, của âm thanh; hay ngôn ngữ trừu tượng của Thánh Kinh, của thần học, của suy tư tích lũy hàng ngàn năm qua… Rất đặc biệt, đêm vọng Phục Sinh, Giáo Hội đã sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính biểu tượng để công bố Tin Mừng Phục Sinh. Đó là những hành động biểu tượng giúp ta hiểu mầu nhiệm Phục Sinh và nội dung phong phú chất chứa trong mầu nhiệm này.

Đặc biệt đêm Phục Sinh có hai biểu tượng nền tảng đó là Lửa và Nước.

1) Lửa

Trước khi bắt đầu cử hành đêm cực Thánh này, nhà thờ tắt hết đèn. Một khung cảnh tối tăm bao trùm. Khung cảnh đó diễn tả một thế giới chìm trong nỗi chết do tội. Một thế giới mà lòng người còn đầy dẫy hận thù, yếu đuối, bất toàn, gian trá…

Thế rồi giữa cảnh tăm tối đó, thừa tác viên thắp sáng và rước nến Phục sinh từ cuối nhà thờ lên cung thánh. Nến Phục Sinh được thắp sáng ấy tượng trưng cho Chúa Kitô. Bởi vậy khi rước nến, linh mục lặp đi lặp lại lời này: “Ánh sáng chúa Kitô”.

Ánh sáng Chúa Kitô tới đâu, đẩy lùi bóng tối tới đó. Người tham dự cũng lấy lửa từ Lửa Phục Sinh, thắp sáng từng ngọn nến trên tay mình. Với ngọn nến được chuyển lửa từ Lửa Phục Sinh, cả nhà thờ, tràn ngập ánh sáng, không còn chìm trong bóng tối nữa.

Nếu bạn và tôi biết thắp lên niềm tin vào Chúa Phục Sinh trong cuộc đời của mình, và sống niềm tin ấy bằng một đức mến mãnh liệt nơi Thiên Chúa giàu lòng yêu thương, là chúng ta thắp lên Ánh sáng Chúa Kitô cho cuộc đời. Ánh nến cháy sáng trên tay chúng ta có ý nghĩa là như vậy.

2) Nước

Biểu tượng thứ hai là Nước. Trong đêm Phục Sinh, thừa tác viên làm phép nước và nhún cây nến Phục Sinh vào trong dòng nước. Nếu từ nơi Chúa Kitô, máu và nước chảy ra mang lại sức sống cứu độ trần gian, thì hôm nay, trong đêm Cực Thánh, dòng nước vừa mới được làm phép bởi nến Phục Sinh, trở nên dòng nước thanh tẩy chúng ta.

Dòng nước này sẽ đổ lên đầu các tân tòng để đưa họ vào thế giới của ơn cứu độ, của tình yêu, của sự sống. Dòng nước ấy cũng được rảy trên đầu mọi người tham dự, nhắc lại ơn tái sinh mà chúng ta đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội.

II. BIỂU TƯỢNG DIỄN TẢ ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU

Suy tư sâu hơn một chút, ta sẽ thấy, thuở ban đầu khi tạo thiên lập địa, Chúa bắt đầu dựng ánh sáng trước hết. Ngay sau ánh sáng là nước. Như vậy, khởi đầu của sự sống là ánh sáng và nước. Trên nền tảng của ánh sáng, nước, Thiên Chúa tạo dựng thế giới, tạo dựng muôn loài, tạo dựng một nhân loại, và tạo dựng cả vũ trụ nguy nga này.

Tạo dựng chính là sáng kiến của tình yêu. Tạo dựng cũng là làm cho sống. Nghĩa là, từ thuở đời đời, Thiên Chúa vì yêu, đã san sẻ sự sống của Người cho tạo vật. Tạo vật sống cũng chính là tạo vật được yêu. Vì được yêu, tạo vật mãi mãi được sống trong sự sống của Người. Nhưng do tội, tạo vật đã đánh mất sự sống ấy của mình.

Như vậy, trong đêm công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội muốn sử dụng hình ảnh Lửa và nước của thuở ban đầu ấy để mọi người biết rằng, thế giới này, nhân loại này, vũ trụ này đã chìm trong bóng tối, đã chết trong tội, giờ đây được sống lại trong ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Nói cách khác, Nhờ ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu giãi, và nhờ dòng máu và nước từ cạnh sườn Chúa Kitô mà nhân loại này, vũ trụ này, thế giới này được sống, hơn thế, được sống trong sự sống của Thiên Chúa: sự sống của Đấng Phục Sinh.

Khi Giáo Hội rước lửa và rảy nước trên toàn dân, là Giáo Hội muốn công bố một niềm xác quyết: Tin Mừng Phục Sinh là Tin Mừng về một thế giới mới, một công cuộc sáng tạo mới, một nhân loại mới được bắt đầu từ Chúa Kitô Phục Sinh. Niềm xác quyết ấy chứa đựng trong ngôn ngữ biểu tượng của Lửa và Nước.

Đó là đức tin của chúng ta. Đó là đức tin của một sức sống mới, sức sống Phục sinh chảy tràn từ Đấng Phục Sinh mà chúng ta phải khắc ghi và phải sống.

Đó cũng là lòng mến của các Kitô khi cử hành đêm vọng Phục Sinh long trọng này để khắc ghi tình yêu của Chúa, một tình yêu cứu độ từ thuở đời đời hóa nên một tình yêu cứu chuộc quá đỗi diệu kỳ. Vì nếu Chúa tạo dựng con người bởi tình yêu, thì hôm nay, Người tái tạo cũng bằng tình yêu.

III. ĐỂ NHẬN RA ĐẤNG PHỤC SINH

Chỉ có ai sống đức tin của mình như ánh lửa cháy sáng, hay như một dòng nước có sức lan rộng, người ấy mới có thể yêu mến Chúa một cách chân thật. Chỉ có lòng yêu mến trong đức tin, mới nhận ra Đấng Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời mình.

Thánh Gioan tông đồ là người đã tin và đã yêu như thế. Ngay trong lễ Phục sinh đầu tiên, nhìn ngôi mộ trống, trước cả những phụ nữ là những người phát hiện mộ trống, trước cả thánh Phêrô, người đã vào thăm mộ trước, thánh Gioan đã tin.

Hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho ta biết tầm quan trọng của cảm thức đức tin và sự cần thiết của một đức mến nồng nàn.

Có ai ngờ rằng, suốt một đêm cực nhọc đánh cá, các môn đệ đã không bắt được một con cá nào, thì bây giờ, khi trời đã bắt đầu rạng sáng, một người lạ xuất hiện, dạy các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Không hiểu sao, dù chỉ thấy đó là một người lạ, nhưng các môn đệ lại nghe theo, để cuối cùng, họ đã thu được một kết quả quá bất ngờ: “Lưới đầy toàn cá lớn”.

Thánh Gioan cũng lại là người phát hiện ra chúa Phục Sinh trước các anh em mình. Sau mẻ cá đầy ắp như muốc rách tung chiếc lưới, “Người môn đệ Chúa yêu” thật hãnh diện mà cả quyết: “Chúa đó”.

Vì “Người môn đệ Chúa yêu” đã có sẵn một lòng yêu mến Chúa, một đức tin từ kinh nghiệm sống với Chúa, nên đã nhận ra Chúa một cách hết sức dễ dàng.

Cũng thế, không ai trong bạn và tôi lại cho rằng mình không có đức tin. Mình không có lòng yêu mến Chúa.

Nhưng Nói là nói như vậy. Hiểu là hiểu như thế. Trong thực tế của cuộc đời, không ít lần, bạn và tôi dường như chao đảo, dường như mất sức sống. Đức tin vào Chúa, lòng yêu mến Chúa của mình có lúc như bị đánh gục, như tuyệt vọng.

Bạn ạ, trong đêm rước nến Phục Sinh, chỉ đi từ cuối nhà thờ lên cung thánh, một đoạn đường ngắn thôi, vậy mà ngọn lửa ấy đã chực tắt mấy lần. Và đã có những ngọn nến trên tay của những người tham dự tắt ngúm, phải lấy lại lửa từ phía những anh chị em bên cạnh.

Tôi nhìn thấy ngọn lửa mong manh ấy cũng chính là hình ảnh của đức tin, của lòng mến nơi bạn và tôi. Nếu có lúc nào đức tin chúng ta tắt ngúm, lòng yêu mến của mình chết lạnh, hãy tìm cách lấy lại ngay. Lấy lại bằng chìm đắm trong cầu nguyện, chứ đừng tuyệt vọng. Vì nếu có lúc đức tin và lòng mến càng trở nên tối tăm bao nhiêu, chúng ta càng phải đến gần Chúa nhiều hơn bấy nhiêu.

Và cũng như khi tắt lửa, ta lấy lại lửa từ anh chị em, thì cũng hãy nhìn những tấm gương sống đạo đức, thánh thiện của anh chị em mà vững tin, mà yêu mến Chúa hơn. Nhất là xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu anh chị em bất hạnh: mù lòa, tật nguyền, nghèo đói… nhưng họ vẫn tin Chúa, vẫn sống đạo. Họ chính là bài học sống, dạy chúng ta tin và yêu Chúa.

Hãy tin và hãy yêu để bạn và tôi cũng trở thành những môn đệ Chúa yêu. Từ đó nhận ra Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình, trong mọi hoàn cảnh mà chúng ta phải đối mặt với nó. Chỉ cần đức tin, chúng ta sẽ được tăng thêm lòng mến. Khi có đức mến, tự nhiên đức tin cũng sẽ được bồi đắp hơn. Và khi tin tưởng vào Chúa trong một tình yêu, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện với mình.

Như vậy Lửa và Nước không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng của việc công bố Tin Mừng Phục Sinh, không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng để diễn tả đức tin và tình yêu của Giáo Hội. Nó còn là ngôn ngữ biểu tượng của lòng yêu mến Thiên Chúa, của đức tin, của sự gặp gỡ và đón nhận Chúa Kitô đang hiện diện, không phải chỉ trong lễ Phục Sinh nhưng trải dài suốt cuộc đời của mỗi người.

 

26. Vâng lời

Lúc còn nhỏ, tôi thường nghe cha mẹ nói: Đức vâng lời trọng hơn của lễ. Con cái lớn có nhiều tiền cũng chưa chắc làm vui lòng cha mẹ bằng một đứa con nhỏ nhưng biết vâng lời. Điều này làm tôi suy nghĩ.

Thực ra, những gì con cái có cũng là do cha mẹ tích luỹ và giúp cho mới có. Vd: kiến thức, nghề nghiệp, vốn sống. con cái lúc còn nhỏ, nhờ cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, chăm sóc mới trưởng thành, mạnh khỏe. Trong giai đoạn này, conc ái có làm nên chuyện gì cho cha mẹ nhờ đâu! Nếu không vì con cái, cha mẹ sống dư ăn dư mặc. Cho nên, đối với cha mẹ, điều cha mẹ ưa thích nhất là con cái biết vâng lời hơn là chỉ trả hiếu bằng vật chất.

Từ đây, tôi nghĩ đến tương quan của con người đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha Mẹ chúng ta, chúng ta có thể giúp gì cho Ngài, vì chính Ngài tạo nên trời đất muôn vật. Điều chúng ta làm vui lòng Ngài là vâng theo thánh ý. Loài người chúng ta tự sức mình có thể làm được gì? Trường hợp các Tông đồ trong bài phúc âm hôm nay cũng dạy ta điều đó. Các Tông đồ đã nhiều năm kinh nghiệm trong nghề chài lưới nhưng suốt đêm không bắt được con các nào! Lúc các ông giặt lưới, chuẩn bị về thì Chúa Giêsu hiện đến. Ngài chỉ phán một lời: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Quả nhiên, làm theo lời Chúa dạy, các Tông đồ được một mẻ cá lớn chưa từng thấy, không thể kéo nổi lên thuyền. Như vậy, với kinh nghiệm nhiều năm và sức cố gắng suốt đêm của các Tông đồ cũng chưa chắc được gì! Nhưng với sức Chúa thì trong tích tắc đã có đủ những gì chúng ta mơ ước.

Chúa Giêsu rất thương các tông đồ. Ngài biết các ông vất vả suốt một đêm nhưng không bắt được gì, nên đã ban cho một phép lạ, một mẻ cá đầy thuyền. Hơn nữa, Ngài còn muốn thể hiện tình thầy trò gắn bó mật thiết với các Tông đồ trước khi về trời, nên đã tự tay nướng cá và bánh đãi các ông. Rõ ràng, Chúa Giêsu sống rất tình nghĩa và luôn dõi theo các ông mà trợ giúp.

Với một tình nghĩa Thầy trò đầm ấm mật thiết như vậy, lẽ nào các ông lại phản bội Thầy Giêsu cũng là Chúa của mình.

Các ông biết Ngài là Thiên Chúa có quyền năng vô biên, cảm nhận tình nghĩa Thầy trò gắn bó, thân thiết. Do đó, khi thầy thượng tế ra lệnh cấm các ông nhân danh Đức Giêsu mà giảng dạy thì Phêrô và các Tông đồ trả lời ngay: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta. Thiên Chúa, cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, tôn Ngài làm Đấng Cứu Độ để cho Israel được ăn năn sám hối và ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các điều ấy cùng với Chúa Thánh Thần.

Các Tông đồ không thể nói trái sự thật được. Cho dù khi nói sự thật thì bị kẻ cầm quyền làm khó dễ. Khi bị nhà cầm quyền đánh đòn, các Tông đồ tuy đau đớn nhưng lòng đầy hân hoan vì thấy mình được chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu. Mặc dù việc rao giảng về Chúa Giêsu gặp nhiều khó khăn, nhưng các Tông đồ không chùn bước khi nhớ lại tình nghĩa thầy trò và mẻ cá lạ lùng hôm nay. Qua mẻ lưới lạ lùng, các Tông đồ hiểu rằng: chỉ cần Chúa phán một lời thì kẻ thù Ngài tan rã và đồng lúa truyền giáo được mùa bội thu. Thế nhưng, ý nhiệm mầu của Chúa dường như muốn cho các ông phải khổ một thời gian để thông phần đau khổ với Chúa. Rồi mai đây Chúa sẽ cho các ông gặt hái những kết quả mỹ mãn, không phải bởi sức riêng của mình nhưng nhờ ơn Chúa. Và sau cùng, Ðức Giêsu sẽ cho các ông đồng hưởng vinh phúc với Ngài trên Thiên Quốc.

Con người ngày nay hay cậy sức riêng mà quên phó thác cho kế hoạch nhiệm mầu của Chúa nên hay thất vọng. Chúng ta con Chúa, hãy trông cậy vào Chúa, cứ cố gắng thờ phượng Chúa, đối xử tốt với tha nhân, loan báo Tin Mừng phục sinh, giữ vững niềm tin. Rồi Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho chúng ta, và cứu độ những ai có lòng thành tâm tìm Chúa.

Xin Chúa cho chúng con biết hướng lòng về Chúa, năng cầu nguyện và tìm mọi cách cho danh Chúa được cả sáng. Amen.

 

27. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội – R. Veritas--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Những bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội, cộng đoàn những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Rỗi. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người, là sự dấn thân của con người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng cho Chúa và thông truyền cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giải hòa con người với Thiên Chúa và với nhau.

Nơi bài đọc thứ nhất từ sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ vừa nói trên. Bị những vị lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu rỗi, bị những vị lãnh đạo uy quyền này của dân Do Thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa. Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người. Thiên Chúa, Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại. Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài và làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế, để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tuân phục Chúa, chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng."

Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng của thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô và sự thật cứu rỗi của Người. "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người", đọc và suy nghĩ về lời này của thánh tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những vị lãnh đạo dân Do Thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền và họ là những vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái cùng với quyền lãnh đạo dân Do Thái; Khi những vị lãnh đạo Do Thái này lạm dụng quyền hành của họ để xen vào việc tôn giáo, việc các tông đồ làm chứng Chúa Kitô Phục Sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo. Khi các vị lãnh đạo Do Thái lạm dụng quyền hành của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải có một trong hai thái độ hoặc theo Chúa Giêsu Kitô, hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do Thái, thì lúc đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Giêsu Kitô, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo chứ không phải là lời kêu gọi dân chúng nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị.

Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, những tật xấu, những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo ngôn ngữ ngày nay, được hưởng sự tự do như đáng được, thì các ngài đâu cần phải xác nhận là phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.

Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế chỗ của Thiên Chúa được? Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này, làm sao chúng ta có thể nói mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội, để sống đúng phẩm vị con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa, và như là anh chị em với nhau? Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được khuyến khích để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa, và cuối cùng, sau hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, hay một trăm năm, sẽ trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.

Thái độ của các tông đồ được trình bày trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. "Chúng tôi và Thánh Thần", không phải riêng tự sức các tông đồ nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa không thiếu, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?

Bài Phúc Âm cũng kể lại biến cố Chúa hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống thường nhật trước khi được Chúa gọi, trở về nghề chài lưới. Chúa đến để củng cố sự dấn thân của họ và chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra cho các tông đồ. Chúa đến củng cố các ngài bằng một phép lạ và một bữa ăn. Bữa ăn bổ sức trong tình thân thiết Thầy trò, để các tông đồ có sức mạnh và niềm vui mà chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận. Bài Phúc Âm hôm nay mang đến cho chúng ta niềm vui mừng và củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào Giáo Hội Chúa vì những lý do sau đây:

Chúa Kitô Phục Sinh không từ bỏ các môn đệ, những kẻ cách này hay cách khác đã vấp ngã trong thử thách Chúa đã trải qua, tức cuộc khổ nạn và chết của Chúa trên thập giá. Chúa sống lại không quở trách các ông mà ngược lại đã ban cho các ông bình an và niềm vui: "Bình an cho các con", như thể Chúa đã nói: "Thầy không chấp những lỗi lầm của các con đã bỏ Thầy, Thầy tha thứ cho các con, và hơn nữa, ban ơn Thánh Thần để đổi mới các con, cho các con được kiên vững trong tình yêu Thầy, để luôn luôn có sự bình an giữa sự thử thách".

Hơn nữa, như trong Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu thực hiện phép lạ mà chính Chúa đã thực hiện khi kêu gọi các tông đồ lần đầu tiên, phép lạ lưới được nhiều cá, và làm như vậy, các tông đồ hiểu rằng Chúa Phục Sinh mời gọi họ, tiếp tục mời gọi họ theo Ngài mặc cho những lỗi lầm của họ. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đóng góp phần của mình trong Giáo Hội và Chúa không bao giờ từ bỏ chương trình Ngài đã định.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được bình an và niềm vui. Xin thương đổ tràn Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con cho chúng con được củng cố trong đức tin và trung thành trong sứ mạng đã lãnh nhận.

 

28. Chúa Nhật 3 Phục Sinh

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe phác họa lại cảnh Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ trên bờ biển Hồ Tibêria. Sự kiện này xoay quanh Tông đồ Phêrô. Trong lúc Phêrô và các Tông đồ trở lại nghề cũ là đánh cá thì Chúa Giêsu hiện ra. Sau bữa ăn, Đức Giêsu đã thẩm định tình yêu của Phêrô và trao cho ông một sứ vụ mới, đó là chăn dắt đàn chiên của Chúa. Sự kiện này có thể làm cho chúng ta thắc mắc: Tại sao Phêrô chỉ là một ngư phủ dốt nát, thậm chí ông là một người đầy những yếu đuối, mới chối bỏ Thầy mình cách đây vài ngày, thế mà giờ đây Chúa Giêsu sau khi sống lại đã không trách móc hay hạch tội Phêrô mà còn trao cho ông một sứ vụ, một ơn gọi thật lớn lao như vậy? Phải chăng Phêrô tuy yếu hèn nhưng lại có tài lãnh đạo cao? Không phải vậy.

Thầy Giêsu đã đi bước, Ngài đã thấy tấm lòng của Phêrô và Ngài chấp nhận con người yếu đuối của ông để từ tình tình yêu và lòng trung thành của Phêrô mà Thầy Giêsu hoàn tất những gì Ngài khởi sự nơi ông. Điều này còn cho ta thấy, Đức Giêsu không xây dựng Giáo hội của Ngài trên sức mạnh của con người nhưng xây dựng trên tình yêu và lòng trung thành của con người.

Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Phêrô là người bộc trực, tính tình nóng nảy, rất nhiều lần ngài hành động mà không suy nghĩ, Phêrô phản ứng rất mau lẹ trước mọi biến cố, mặc dù gặp nhiều sai sót và bị Đức Giêsu sửa dạy nhiều điều. Chẳng hạn, khi vừa nghe Thầy Giêsu loan báo cuộc thương khó, Phêrô đã vội can ngăn thầy mình, liền bị Chúa rầy cho là đồ Satan. Hay khi Thầy Giêsu rửa chân cho Phêrô để dạy cho ông bài học yêu thương phục vụ thì Phêrô lại từ chối: "Không được, không đời nào thầy mà lại đi rửa chân cho học trò". Chưa hết, khi quân lính đến bắt Thầy Giêsu, Phêrô đã nhanh tay rút lấy gươm mà chém đứt tai của một người đầy tớ vị thượng tế. Và tệ hại hơn nữa, trong lúc Thầy Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn, trong đó có cả ông, Hơn nữa đang lúc Thầy Giêsu gặp cảnh khốn khó, đáng lẽ Phêrô phải đứng ra bênh vực nhưng Phêrô đã không làm như vậy, ông đã thẳng thừng chối bỏ Thầy mình. Con người Phêrô là thế đó, đầy khiếm khuyết, yếu đuối, bất toàn..Tuy yếu hèn như vậy, nhưng Phêrô lại có một tình yêu mãnh liệt vào Thầy của mình. Có ai vừa nghe nói: "Chúa đó" thì vội mặc áo vào rồi lại nhảy xuống nước không? Thế nhưng hành động này của Phêrô chứng tỏ rằng ông có một tình yêu mãnh liệt vào Thầy của mình.

Sau biến cố Thầy Giêsu tử nạn, các Tông đồ hoàn toàn thất vọng và buồn chán vì đã ba năm các ông bỏ mọi sự mà đi theo Thầy mong tìm được sự đổi đời. Thế mà bây giờ mọi sự đều phải bắt đầu. Ông Phêrô đành trở lại với nghề cũ của mình. Song le tâm hồn Phêrô vẫn còn âm ĩ một nỗi niềm mong chờ được gặp lại Thầy Giêsu. Phêrô vẫn còn khao khát mong sớm được gặp lại Thầy của mình. Chính vì thế mà cũng hiểu vì sao khi vừa nghe nói Chúa đó thì Phêrô không còn kịp chèo thuyền vào bờ nữa mà vội khoác áo vào rồi nhảy xuống nước để đến với Chúa cho nhanh hơn. Gặp được Chúa rồi thì hạnh phúc. Sau bữa ăn, Đức Giêsu bắt đầu thẩm vấn Phêrô về tình yêu và trao cho ông một sứ vụ mới, đó là làm thủ lãnh Giáo hội để tiếp tục công việc của Ngài. Không giống những cuộc thẩm vấn nào cả, Đức Giêsu không hỏi Phêrô bằng cấp, kinh nghiệm lãnh đạo, nhưng Ngài hỏi về tình yêu và lòng trung thành của ông đến ba lần: "có yêu mến Thầy không"? Câu hỏi ấy thật tế nhị vì với Phêrô mới chối Thầy ba lần mà giờ đây Ngài lại hỏi ông có yêu mến Thầy không. Mới phản bội đây mà bây giờ lại nói lời yêu thương thì thật là ngại quá. Thế nhưng Phêrô đã mạnh dạn: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Ba lần chối Chúa thì giờ đây cũng ba lần Phêrô nói lời yêu thương để tuyên xưng lại niềm tin. Từ đó, Phêrô đã thực sự trở nên thủ lãnh chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Như vậy, Phêrô đã trung thành với ơn gọi của mình và đã trung thành cho đến chết.

Khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa trao cho một ơn gọi, đó là ơn gọi làm Kitô hữu, làm con Chúa. Tuy chúng ta đầy yếu hèn nhưng Chúa vẫn thương, kêu gọi chúng ta trở thành những Kitô hữu. Thế nhưng điều đáng tiếc là ngày nay có nhiều người đã không sống tròn bổn phận là Kitô hữu biết yêu thương như Chúa muốn. Như thế thì chúng ta còn gì là men là muối cho đời nữa, và như thế không còn trung thành với ơn gọi Kitô hữu. Ơn gọi Kitô hữu là một tiếng gọi trở nên "muối và ánh sáng cho trần gian". Chúng ta là những Kitô hữu, không phải chỉ để cho có danh, nhưng chúng ta phải hành động, phải sống đời Kitô hữu của mình. Chúng ta phải là ngọn đèn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy sống trọn ơn gọi làm Kitô hữu của mình. Nói cách khác, chúng ta hãy "sống đạo" chứ đừng "giữ đạo". Vậy chúng ta đã là những Kitô hữu thì chúng ta hãy sống trọn vẹn ơn gọi làm Kitô hữu của mình.

Xin Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta biết ý thức lại và sống ơn gọi Kitô hữu của mình để chúng ta luôn là những gương sáng cho những người khác, để chúng ta biết sống Thánh Lễ nối dài từ trong nhà thờ đến giữa đời để từ đó chúng ta luôn là men là muối ướp cho mặn đời. Amen.

 

29. Hãy tin vào tình thương Chúa--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té ngựa trên đường Đamát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh Phêrô với ba lần công khai nói lên lời "yêu mến Thầy", là dịp để ông đứng dậy làm lại cuộc đời. Hay nói đúng hơn là Chúa đã tạo cơ hội để Phêrô chuộc lại lỗi lầm. Lỗi lầm mà bởi nhất thời yếu đuối ông đã vấp phạm trong đêm tối vườn Cây Dầu.

Thực vậy, người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu hủy sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một ngư dân chất phát, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: "nếu anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy, tuy đã rút gươm chém đứt một tai của người lính. Một hành động mà Chúa chẳng hoan nghênh lại còn kết án: "Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm". Ông ân hận. Ông muốn chuộc lại lỗi lầm. Ông vẫn đi theo Chúa xen lẫn đám đông dân chúng đang cuồng nhiệt đòi kết án từ hình Thầy Chí Thánh. Một hành động táo bạo biểu lộ lòng thật chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Ông muốn biểu lộ một tình yêu sâu xa với Thầy mình, nhưng "lực bất tòng tâm". Ông không đủ can đảm đối phó với sự dữ. Ông đã sợ hãi chối Thầy đến ba lần. Nhưng may mắn cho cuộc đời ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm đã thức tỉnh lòng ông. Ông biết lỗi của mình. Ông đã đứng dậy và bước ra ngoài sự dữ. Ông đã dứt bỏ nơi chốn nên cớ vấp phạm. Ông đã ra khỏi sân tiền đình và khóc lóc ăn năn.

Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ. Có lẽ Phêrô đã sống trong dằn vặt của lương tâm. Tại sao ông lại bỏ Thầy? Tại sao ông lại chối Thầy đến ba lần? Ông biết trái tim ông yêu Chúa rất chân thành. Thế mà vì yếu đuối và hồ đồ ông đã phạm qúa nhiều sai lầm. Làm sao ông có thể chuộc lại lỗi lầm? Chúa đã sống lại và hiện ra nhiều lần, nhưng ông không hề dám nói một lời nào với Thầy. Vì ngại ngùng. Vì hổ thẹn. Phêrô dường như không dám nghĩ mình còn xứng đáng là trụ cột cho các anh em.

Hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, "con có yêu mến Thầy không?". Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.

Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. "Ai nên khôn mà không dại một lần". Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.

Nguyện xin Chúa là Đấng luôn đi trước trong tình thương tha thứ giúp chúng ta học nơi Chúa để đối xử khoan dung với nhau. Amen.

 

30. Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống luôn cho chúng ta những cơ hội để làm việc, để thăng tiến. Có những khi thất bại hay yếu đuối, cuộc sống lại cho chúng ta những cơ hội để sửa đổi, để chuộc lỗi. Cơ hội để làm lại, để chuộc lỗi luôn cần thiết nơi chúng ta. Ai nên khôn mà không từng thất bại. Ai bước đi mà không từng vấp té. Thế nên, cần lắm những cơ hội để đứng dậy sau những lần vấp ngã.

Có những vấp ngã thể xác. Có những vấp ngã tâm hồn. Vấp ngã nào cũng cần đứng dậy. Vấp ngã nào cũng cần một bàn tay ai đó trợ giúp. Vấp ngã nào cũng cần cơ hội để đứng dậy chuộc lại lỗi lầm.

Ông Mahatma Gandhi đã kể rằng: “Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.

Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, khiến tôi luôn mất bình an. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn”.

Chúa Giêsu cũng cho Phêrô cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Khi Chúa thử thách lòng tin của Phêrô. Chúa bảo Phêrô hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Phêrô đã mệt sau một đêm vất vả chẳng được gì! Thế mà, ông vẫn tin, vẫn thả lưới. Lưới đã đầy. Lòng tin của ông cũng đầy tràn sau mẻ cá kỳ diệu.

Lòng tin ấy đã giúp Phêrô mạnh dạn 3 lần cam kết với Chúa rằng “con sẽ yêu mến Thầy hơn những người này”. Lời cam kết này sẽ đi trọn cuộc đời của thánh nhân. Ngài đã trung thành đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ niềm tin của mình vào Thầy chí Thánh Giêsu là Thiên Chúa Đấng cứu độ trần gian.

Cuộc đời thánh Phêrô tưởng chừng đã kết thúc sau 3 lần chối Chúa. Thế nhưng, Chúa đã phục sinh. Cuộc đời ông cũng phục sinh nhờ lòng thương xót của Chúa. Chúa đã tìm đến với ông. Chúa không oán trách. Chúa còn cho ông cơ hội minh chứng cho tình yêu của mình. Lòng thương xót của Chúa đã cải lão hoàn sinh cho con người cũ của Phêrô. Con người của hèn nhát, của chối Chúa, bỏ Thầy thành con người mới can trường, mạnh mẽ ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.

Cuộc đời cần lắm những lần tha thứ cho nhau. Cuộc đời càng cần hơn khi ta bỏ qua tính tự ái để cho anh em cơ hội chuộc lỗi lầm. Vợ chồng hãy tha cho nhau không chỉ một lần mà cần nhiều lần để giúp nhau cơ hội sửa đổi sai lầm. Cha mẹ hãy tin tưởng con cái hơn khi cho chúng cơ hội đứng dậy sau những lần vấp ngã. Bạn bè vẫn cần cơ hội để thể hiện lòng chân thành dành cho nhau.

Ước gì chúng ta biết học nơi Chúa lòng bao dung và tính nhẫn nại để luôn cho nhau cơ hội chuộc lỗi lầm. Xin cho chúng ta luôn ý thức là người luôn có yếu đuối, luôn lớn lên trong tình thương tha thứ của mọi người thì cũng cảm thông tha thứ cho nhau. Amen.

 

31. Cảm thông với nhau--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một lời tâm sự viết như sau: “Hôm qua, bị ngã rất đau, muốn khóc lắm, nhưng không dám khóc. Và cũng không thể khóc, vì cảm giác đau đã trôi qua nhanh, nhường chỗ cho cảm giác xấu hổ.

Tất cả mọi người nhìn vào, hình như đâu đó có tiếng ai đó chê bai: “Lớn thế rồi mà đi đứng còn ngã”. Đâu đó còn có cái nhếch môi cười, và đâu đó còn có cả cái xuýt xoa...

Tự dưng ước mình chỉ là một đứa trẻ, là trẻ con thì được ngã, ngã thoải mái, khóc thoải mái. Tiếc là đã lớn, lớn không được ngã. Ngã người cười chê…”

Ngã là chuyện thường tình. Nhưng xem ra nguời ta chỉ chấp nhận cho trẻ con được ngã, còn người lớn thì hình như không được phép ngã. Dẫu biết rằng: “Ai nên khôn mà không dại một lần”; và: “Một lần ngã là một lần bớt dại – Cho thêm khôn chút nữa trong đời”. Nhưng xem ra người ta dễ xem thường nhau mỗi khi ai đó vấp ngã trong đời.

Đôi khi chúng ta vẫn chê trách, đàm tiếu với nhau về những lầm lỗi, khiếm khuyết của người này, người nọ. Đôi khi chúng ta ít cảm thông với những yếu đuối, thiếu sót của tha nhân. Dẫu biết rằng không ai hoàn hảo. Nhưng chúng ta vẫn thích bỉu môi, xuýt xoa về những lầm lỗi của tha nhân.

Người lớn không nên ngã. Ngã bị người đời cười chê, bị người đời xem thường. Ngã là biểu hiện sự vô ý tứ hay bồng bột. Ngã là dấu chỉ của sự chưa cứng rắn hay trưởng thành. Thế là, người ta thường kết án nặng lời với những cái ngã của anh em. Người ta ít cảm thông cho cái ngã của tha nhân. Người ta thường xem thường những ai lớn rồi mà còn ngã. Xem ra, người bị ngã đã đau còn đau hơn bởi sự thiếu cảm thông của anh em mình. Họ bị cô đơn trong nỗi quặn đau không nói thành lời, vì chẳng ai hiểu mình, chẳng ai cảm thông với mình.

Có người còn nói rằng: đau nhất là ngã hai lần cùng một lỗi. Ngã một lần, lần sau lại ngã. Có dại mới ngã, có ngã mới bớt dại, mỗi lần ngã thêm một lần bớt dại, mỗi lần ngã là một lần đau đớn. Nhưng có cái dại nào giống cái dại nào đâu! Thế nên, làm người thường vấp ngã về thể xác và tinh thần không chỉ một lần mà có khi rất nhiều lần. Không chỉ khi còn trẻ mà có khi vào tuổi gần đất xa trời vẫn vấp ngã vì dại! Nhưng nếu mỗi lần vấp ngã mà có ai đó cầm tay, nâng đỡ thì có lẽ cái đau sẽ bớt đi và tinh thần đứng lên làm lại sẽ mạnh mẽ hơn.

Phêrô đã từng vấp ngã. Tuy đối tượng khác nhau nhưng hoàn cảnh vẫn không thay đổi. Thế mà ông ngã đến ba lần. Ông vấp ngã không ai nâng đỡ ông. Không ai kéo ông đứng lên. Vì ông phạm tội chẳng ai biết. Ông té chẳng ai hay. Thế nhưng, có một người biết hết mọi sự. Có một người vẫn nhìn theo ông. Đó là Thầy Giêsu. Ngài không nói. Nhưng ánh mắt như một lời nhắc nhở, động viên Phêrô hối cải và làm lại cuộc đời. Ánh mặt biểu lộ tấm lòng. Ánh mắt bày tỏ tấm lòng nhân ái mà Chúa dành cho Phêrô. Ánh mắt ấy không xét tội của Phêrô. Ánh mắt ấy chỉ nhắc nhở Phêrô đã ngã đến ba lần mà là cái ngã mà Thầy đã cảnh báo trước nhưng ông vẫn xem thường.

Xem ra Chúa cũng nhìn Phêrô như một học trò cần được yêu thương vỗ về hơn luận phạt. Phêrô ngã Chúa nâng đỡ. Phêrô sai đường Chúa uốn nắn. Chúa không nói với Phêrô: “lớn thế còn ngã”. Chúa cũng không xem thường Phêrô, nhưng Chúa chỉ mời gọi Phêrô: “Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”.

Hôm nay, sau khi Chúa sống lại, Ngài đã không tìm Phêrô để luận tội. Ngài chỉ đòi Phêrô nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh Giêsu. Chúa đã hỏi Phêrô đến ba lần: “con có yêu mến Thầy không”. Ba lần công khai nói lên tình yêu để xoa dịu nỗi đau dằn vặt lương tâm sau ba lần ông vấp ngã đến chối Chúa ba lần.

Phêrô hiểu tình yêu của Thầy. Phêrô hiểu Thầy luôn yêu Phêrô. Và Thầy cũng hiểu tấm lòng chân thành của Phêrô. Phêrô có té nhưng không chủ ý. Phêrô té vì yếu đuối. Phêrô té vì nhu nhược. Nhưng Phêrô không té vì phản bội. Phêrô vẫn yêu Thầy và gắn bó với Thầy. Thế nên, khi được hỏi: “con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô đã mạnh dạn thưa: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”

Cuộc đời hôm nay, có lẽ có nhiều lần chúng ta cũng từng vấp té, nhưng chẳng ai cảm thông, nâng đỡ. Đôi khi còn bàn tán, xem thường. Mỗi lần vấp té đã đau lại càng đau hơn khi không nhận được sự cảm thông nâng đỡ từ anh em. Một mình ta quặn đau. Một mình ta phải đương đầu với khó khăn. Một mình phải gượng đứng dậy. Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán trường muốn buông xuôi mặc cho dòng đời đưa đẩy. Nhưng không Chúa biết mọi sự. Chúa vẫn nhìn chúng ta như Ngài đã từng trìu mến nhìn Phêrô. Chúa đã từng hứa: “cho dù người mẹ có bỏ con, Ta vẫn không bỏ các ngươi”. Chúa vẫn ân cần vực dậy khi chúng ta váp té trên đường.

Xin Chúa cho chúng ta luôn nhận ra Chúa luôn yêu thương để không bao giờ thất vọng về bản thân mình, nhưng luôn đứng dạy làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã. Xin cho chúng ta cũng biết học nơi Chúa để luôn nâng đỡ nhau, và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Amen.

 

32. Tình yêu - Phương thức điều quản Giáo Hội--Lm GB. Trần Văn Hào

Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội được khai sinh từ biến cố quan trọng này. Vì thế, trong những Chúa Nhật mùa Phục sinh, Giáo hội chọn những bài học trong phụng vụ để mời gọi chúng ta nhìn lại Giáo hội thuở sơ khai, nhất là học hỏi cảm thức đức tin nơi các Tông đồ sau khi các Ngài đã tiếp cận với Đấng Phục sinh. Đức tin của các Tông đồ có một nền tảng chắc chắn, dựa vào kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa, Đấng đã từ cõi chết chỗi dậy, và đức tin đó được thông truyền cho chúng ta ngày hôm nay.

Mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Giáo hội phổ quát

“Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Đó là những tín điều căn bản về Hội Thánh mà chúng ta vẫn tuyên tín. Hình ảnh mẻ cá lạ thường mà thánh Gioan thuật lại hôm nay giúp chúng ta tái khẳng định những xác tín quan trọng ấy.

Phêrô đã gặp Chúa sau khi Chúa sống lại. Các Tông đồ khác cũng vậy. Chúa Giêsu vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện giữa họ, nhưng không phải với cách thức như trước đây khi Ngài chưa đi thụ nạn. Vì vậy, Phêrô và các bạn khác vẫn chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Phục sinh một cách tròn đầy. Họ đã trở về cuộc sống đời thường với nghề đánh cá: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21,3), và “Chúng tôi cùng đi với anh”. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được con cá nào. Sau đó, Chúa hiện ra và chỉ dẫn các ông: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô đã vâng theo và phép lạ đã xảy ra qua một mẻ cá đầy ắp.

Thánh ký Gioan là một thần học gia uyên thâm. Ngài không mô tả sự kiện như một biến cố bình thường. Những chi tiết thánh ký thuật lại đều mang chở một ý nghĩa thần học sâu sắc. Các tác giả Tin mừng nhất lãm, như Lc 5, 1-11, cũng thuật lại sự kiện trên, nhưng đặt trong một bối cảnh khác và với một hướng đích khác. Còn thánh Gioan đã lồng câu chuyện vào trong kinh nghiệm của các Tông đồ khi gặp gỡ Đấng Sống lại.

Mẻ cá 153 con là hình ảnh biểu trưng tính phổ quát của ơn cứu độ. Con số đó cũng gợi lên tính viên mãn của ân sủng mà Chúa Giêsu đã hiển thị qua sự Phục sinh của Ngài. Thời bấy giờ, theo cái nhìn hải dương học, tất cả chỉ có 153 loại cá. Thánh Gioan đã vay mượn ý niệm đó để quảng diễn mầu nhiệm Giáo hội. Giáo hội mà Đức Kitô Phục sinh khai mở sẽ đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, và đây cũng chính là đặc nét ‘công giáo’ của Hội thánh Chúa Kitô.

Sức mạnh của Lời

Lời khuyến mời của Chúa Giêsu “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”, quả là một thách đố đối với Phêrô. Ngài đã từng là dân thuyền chài chuyên nghiệp, đã cực nhọc thâu đêm mà không kết quả gì. Ông thực sự nản lòng và toan tính gác lưới. Nhưng Phêrô đã gặp Chúa và đã nghe Lời của Ngài. Theo bản năng tự nhiên, chẳng ai dại gì mà làm điều xuẩn ngốc đến như vậy, vì có cá đâu mà bắt, và đó là dựa vào kinh nghiệm của đời thường. Tuy nhiên, Phêrô đã không hành xử theo khuynh hướng tự nhiên. Ông hoàn toàn quy thuận lời của Chúa. Đây chính là hình ảnh biểu thị thái độ đức tin khi đứng trước những nghịch lý của Lời. Chúa Giêsu đã huấn luyện Phêrô để biến đổi ông trở nên người rao giảng Tin mừng, nhất là chuẩn bị để Phêrô trở thành người chăn dắt ‘chiên con lẫn chiên mẹ của Thầy’. Chúa Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra rằng, chỉ khi nào chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời chỉ hướng của Ngài, chúng ta mới có thể thành công. Chính kinh nghiệm này đã biến đổi con người Phêrô cách tận căn. Trong Tin mừng Luca, kết quả cuối cùng là Phêrô đã hối hận và bước theo Chúa Giêsu. Còn trong Tin mừng Gioan, Phêrô đã dần dần đi sâu vào cảm thức đức tin để trở thành người lãnh đạo, chăn dắt đoàn chiên của Chúa, Đấng Phục sinh.

Tình yêu, phương thức điều quản Giáo hội

Sau khi kéo cá lên bờ, Thầy trò cùng ngồi với nhau ăn cá nướng. Đây là thời điểm để các Tông đồ, đặc biệt Thánh Phêrô trải nghiệm giây phút quan trọng nhất liên quan đến Giáo hội của Chúa Giêsu. Chúa đã chính thức cắt đặt Phêrô làm thủ lĩnh và làm người cai quản. Chúa huấn luyện đức tin của Phêrô qua mẻ cá lạ thường, và bây giờ Chúa lại đặt ra một điều kiện tối quan trọng cuối cùng để trao quyền bính cho ông: Đó chính là tình yêu. Tình yêu là điều kiện ‘sine qua non’, không có không được. Chúa hỏi Phêrô 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Chúa Giêsu hỏi và 3 lần Phêrô trả lời, tương thích với 3 lần Phêrô đã chối Chúa vì yếu đuối. Điều đó cho thấy rằng, tội lỗi hay sự yếu đuối của con người sẽ không là gì cả so với sức mạnh của tình yêu và ân sủng. Nếu chúng ta nghiên cứu bản văn theo nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta sẽ thấy Thánh Gioan có một dụng ý sâu xa. Hai lần đầu, Chúa Giêsu hỏi Phêrô về tình yêu với hạn từ ‘agapao’ và Phêrô trả lời với xác quyết: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” với hạn từ ‘phileo’. ‘Agapao’ là yêu mến theo lẽ tự nhiên khi chúng ta biểu tỏ tình cảm đối với người khác. Còn ‘Phileo’ nói về sự tương giao thân tình và thắm thiết giữa 2 người như những người bạn tri kỷ, suốt đời cùng nhau gắn bó.

Trong lần hỏi thứ 3, Chúa thay đổi và dùng từ ngữ ‘phileo’ và Phêrô đã trả lời cũng với hạn từ ấy. Thánh Gioan cho ta thấy, Chúa đã từ từ huấn luyện Phêrô, biến đổi ông, để ông không phải chỉ là người lãnh đạo theo phong thái xã hội bình thường, nhưng biến đổi để ông trở nên một người bạn nghĩa thiết, giúp Phêrô đi dần vào sự kết hiệp thâm sâu với Ngài.

Đó là điều kiện Chúa đặt ra cho Phêrô, cũng như cho các mục tử, những người lãnh đạo đàn chiên mà Chúa trao phó ngày hôm nay.

Trong câu kết của bài Tin mừng, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”. Như vậy, để trở nên những con người theo sát gót chân Đức Kitô, trở nên những học trò và môn đệ của Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết tuân theo lời Ngài. Đồng thời Chúa cũng đặt ra điều kiện rất căn bản là phải thực hành tình yêu cách triệt để. Quả thật, tình yêu chính là phương thức để điều quản Giáo hội, không phải chỉ là ngày xưa, nhưng đó là nguyên tắc cho chính chúng ta ngày hôm nay. Nguyên tắc căn bản đó còn phải được áp dụng mãi mãi.

Kết luận

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”. Phêrô đã khẳng khái trả lời trước mặt vị thượng tế. Bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật lại giai thoại ấy. Phêrô đã vâng lời Đức Giêsu, đã thả lưới xuống bên phải mạn thuyền và phép lạ đã xảy ra. Cũng vậy, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và vâng nghe lời của Chúa. Đây là chìa khóa để giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đức tin, đức tin đặt để nơi Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đồng thời đức tin đó dẫn đưa chúng ta đến chân trời rộng mở của tình yêu. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy mau mắn trả lời Chúa Giêsu như Thánh Phêrô năm xưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

 

33. Yêu mến Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng thuật lại hai tiếng gọi Chúa gọi Phêrô. Tiếng gọi đầu tiên là khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai sau khi Chúa sống lại như Tin Mừng hôm nay tường thuật. Hai tiếng gọi cách nhau ba năm. Dọc theo thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông khám phá được nhiều điều về Thầy của mình, học biết nhiều công việc khi theo Thầy, và nhất là ông có kinh nghiệm gặp được chính bản thân mình.

Khi Chúa gọi lần hai, Phêrô đã là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn.

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm tình thầy trò. Một đêm đen mờ mịt tại biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời Phêrô từ đêm đen thất bại ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Chúa Giêsu Phục Sinh đến với họ và ban tặng mẻ cá lạ lùng.

Sau mẻ cá, Đấng Phục Sinh hỏi: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: “con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói: Thầy bảo cho con biết, lúc còn trẻ con tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi con chẳng muốn”. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: “Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào”. Thế rồi Chúa bảo ông: “Hãy theo Thầy”. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”. Từ đây, những trang sử vẻ vang của Giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Thánh Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5,2-4).

Ngày 19.3.2013, thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô. Trong bài giảng lễ, ngài suy niệm: “…Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải được linh hứng bởi sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, trung tín của thánh Giuse và như thánh nhân, ngài phải mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và đón nhận với lòng từ ái toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Mathêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức bác ái: những người đói, khát, ngoại kiều, những người trần trụi, đau yếu, tù đày (x.Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết làm sao để bảo vệ!”.

Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi đã phục vụ Giáo hội với lòng yêu mến nên ngài là một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt còn là người luôn biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ngài thông cảm với yếu đuối của người khác. Thánh Phêrô học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Đó là, dù ngài đã chối Chúa nhưng Chúa vẫn luôn yêu thương ngài. Chính tình thương của Chúa đã thanh tẩy ngài khỏi mọi lỗi lầm. Cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là điều thật ngạc nhiên. Ân sủng là như thế đó.

Cũng như vậy, đối với Thánh Phaolô, tất cả là ân sủng. Khi được tha thứ và yêu thương, ngài đã hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô, sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11,23-27). Phaolô viết từ ngục thất cho Timôthê "anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì “tôi biết tôi đã tin vào ai...(2Tim 1,8-12). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt "chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài "tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô, mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta " (Rm 8, 35-39).

Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô hay Thánh Phaolô đều là tình yêu cứu độ.

Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ngài được Chúa yêu thương, được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt. Tại sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài tổ chức, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô về tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không”, sau ba lần Phêrô xác định lòng yêu mến, Chúa trao Giáo hội cho ngài.

Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.

Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại dột! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngốc nghếch! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ khạo! Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác. Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm hạnh phúc, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất chí lý: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc. Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực. Yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo cách miễn cưỡng.

Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.

Mọi ơn gọi đều là tình yêu. Nhờ lòng mến Chúa nên chúng ta yêu mến Giáo hội và yêu thương anh em.

Chúa hỏi Phêrô: con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: con có yêu mến Thầy không?

 

34. Con có yêu mến Thầy không?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ngài ra làm hai. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma. Cuộc đời phần một: Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72). Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất. Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31) Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16) Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33) Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16,16-17).

Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.

Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô: là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ và ban tặng mẻ cá lạ lùng.

Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi Ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết, lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”. Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong Giáo hội tinh thần: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5,2-4).

Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng, mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng. Cũng như tất cả là ân sủng đối với Thánh Phaolô. Khi được tha thứ và yêu thương, ngài đã hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô, sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11,23-27). Phaolô viết từ ngục thất cho Timôthê "anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì “tôi biết tôi đã tin vào ai... (2Tim 1,8-12). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt "chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cr 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr 5, 14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài "tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gal 2, 20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô, mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39). Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô hay Thánh Phaolô đều là tình yêu cứu độ.

Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, được Chúa chọn lựa một cách đặc biệt. Tại sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô về tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không”, sau ba lần Phêrô xác định lòng yêu mến, Chúa trao Giáo hội cho ngài.

Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.

Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại dột! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngốc nghếch! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ khạo! Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác. Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm hạnh phúc, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: “Ubi amatur, non laboratur”: khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc. Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực. Yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.

Chúa hỏi Phêrô: con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: con có yêu mến Thầy không?

 

35. Con có yêu mến Thầy không?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Có thể chia đời ông ra làm hai giai đoạn. Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma.

Trong cuộc đời phần một của ông, Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72).

Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)

Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)

Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)

Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16:16-17).

Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy ba lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.

Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria. Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.

Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây. Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.

Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa hỏi ba lần. Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn. Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu. Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ. Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi về già, anh phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: Hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.” Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên. Đó là vai trò mục tử của Phêrô. Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong giáo hội tinh thần: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: Lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Pr 5:2-4).

Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.

Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô là tình yêu cứu độ.

Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, chọn lựa một cách đặc biệt. Sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định? Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô sự tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa. Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không.” Sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa trao Giáo hội cho ngài.

Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó. Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.

Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau? Thích chở nhau đi chơi? Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ! Phải không? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm vui sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: Khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân. Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.

Chúa hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy không? Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: Con có yêu mến Thầy không?

 

36. Giáo hội phổ quát

"Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con. Cá nhiều như vậy mà lưới không rách".

Thánh Inhaxiô thành Antiokia là người đầu tiên dùng danh từ phổ quát để diễn tả đặc tính cộng đồng của Giáo Hội. Phổ quát có nghĩa là chung, dành cho tất cả mọi người. Tuy vậy, không phải đến thời của Thánh Inhaxiô thì điều này mới được thánh nhân phát hiện ra. Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ đã nhận ra được sứ vụ phải loan báo Tin Mừng cho mọi loài. "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Nhưng chính xác hơn điều này đã thấy trước khi Đức Giêsu chịu nạn khi Ngài tiên báo là dân Do thái sẽ bị loại ra và các dân khác sẽ được hưởng ơn cứu độ." (Mt 8,12).

Đoạn Phúc Âm cuối cùng của Thánh Gioan cho chúng ta thêm một lời khẳng định về tính phổ quát của Giáo hội. Ta thấy nơi Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên là ở bờ hồ Giênêgiarét (x. Ga 5,1). Và bây giờ Chúa lại đến bờ hồ Tibêria để trao quyền rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ hay nói đúng hơn là quyền thủ lãnh cho Phêrô. Trong Kinh Thánh bờ hồ là nơi Đức Giêsu gặp gỡ và giảng dạy dân chúng. Nghĩa là Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ tiếp tục công việc của Ngài, nhưng hôm nay không phải chỉ ở bờ biển mà là mọi nơi trên trần gian này.

Theo trình thuật của Thánh Gioan thì Phêrô được xem như vai chính trong đoạn phúc âm này. Ông thả lưới suốt đêm mà chẳng được gì. Rồi cũng chính ông nghe theo lời Đức Giêsu thả lưới bên phải mạng thuyền.. Ông cũng là người kéo mẻ cá đó vào bờ. Ông đã thắng đậm. Lưới đầy cá lớn. Một mẻ lưới mà từ lúc khởi nghiệp nghề biển đến nay ông chưa bao giờ có được. Chắc chắn Thánh Gioan có dụng gì sâu xa khi để cho 153 con cá xuất hiện trong mẻ lưới của Phêrô. Nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay đã trình bày 3 gợi ý rất thú vị về con số 153 này.

Thứ nhất, theo Cyril ở Alexandria cho rằng số 153 có 3 điểm để lưu ý. Số 100 tiêu biểu cho sự trọn vẹn, đàn chiên 100 con thì mới tốt(). Hạt giống tốt cũng sinh 100. Đó là một sự đầy đủ của mọi dân tộc. Còn 50 là số dân Israel còn sót lại được thu tập về. Còn số 3 là Ba Ngôi mà mọi vật phải qui tụ.

Thứ hai, theo thánh Augustinô, số 10 là 10 điều răn, là lề luật của Chúa. 7 là 7 ơn Chúa Thánh Thần. 7 cộng 10 là 17. Mà tổng các số từ 1,2,3.... đến 17 là 153. Như vậy, 153 là tất cả những ai nhờ lề luật hoặc nhờ ân sủng thúc bách mà tìm về với Đức Giêsu.

Đơn giản nhất là cách lý giải của Thánh Jerome. 153 là tất cả mọi sắc tộc, mọi quốc gia sẽ được quy tụ về một chủ chăn là Đức Giêsu.

Ở đây, chúng ta cần tìm hiểu thêm một hình ảnh rất sống động và cũng rất giàu ý nghĩa là chiếc lưới. Chiếc lưới dù bắt nhiều cá nhưng không rách. Tay lưới là Hội thánh. Hội thánh có đủ chỗ cho tất cả nhân loại trên địa cầu. Có bao nhiêu người thì Hội thánh cũng đủ rộng để ôm ấp, giữ gìn.

Trình bày như thế chắc là chúng ta cũng hiểu được dụng ý của Thánh Gioan một cách ít nhiều. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Hội thánh không còn là độc quyền của riêng người Do thái hay một nhóm dân đạo đức nào. Mà cho tất cả những ai tin và chịu phép rửa của Ngài, không có sự phân biệt màu da, ngôn ngữ, giới tính, sắc tộc. Ngày hôm nay Hội thánh vẫn giữ nguyên sứ vụ của mình như cách đây 2.000 năm. Đó là lãnh đạo nhân loại hướng về hạnh phúc thật trên thiêng đàng. Giáo hội vẫn mở rộng cửa đón tiếp mọi người. "Tính bao dung của Hội thánh cũng phổ quát như tình yêu thương của Đức Chúa Trời". Chính nhờ tính phổ quát đó mà giờ đây tôi được làm con cái Thiên Chúa, làm thành phần dân thánh của Người. Ý thức như thế để chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì đã cho ta tháp nhập vào thân thể thánh thiêng của Người. Nói như thánh Cypriano: "Không ai có thể có Thiên Chúa là cha, mà lại không có Hội thánh là Mẹ". Như vậy, dù thế nào thì chúng ta cũng phải có mẹ, để được sinh ra trong cuộc đời này. Cũng như không thể bước vào Nước Trời mà không qua Hội thánh. Qua đó, chúng ta cần hoà mình vào trong nhịp sống của Giáo hội, để trở nên con hiếu thảo, và góp cánh tay để Giáo hội được nới rộng ra cho nhiều anh chị em, để tính phổ quát của Giáo hội được biểu hiện thiết thực hơn.

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-01052022-chua-nhat-3-phuc-sinh-nam-c-chan-dat-chien-me-chien-con-cua-thay.html