Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN – NĂM B

 

BÀI ĐỌC I: Ds 11, 25-29

“Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Ước gì toàn dân được nói tiên tri”.

Bài trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Chúa ngự xuống trong đám mây, và phán cùng Môsê, đồng thời lấy thần trí trong Môsê mà phân phát cho bảy mươi vị bô lão. Khi Thần Trí ngự trên các ông, các ông liền nói tiên tri, và về sau các ông không mất ơn ấy. Vậy có hai vị ở lại trong lều trại, một người tên là El-đad, và người kia tên là Mê-đad. Thần Trí đã ngự trên hai ông: vì hai ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp. Khi hai ông nói tiên tri trong lều trại, thì có đứa trẻ chạy đến báo tin cho ông Môsê rằng: “El-đad và Mê-đad đang nói tiên tri trong lều trại”. Tức thì Giosuê, con ông Nun, tuỳ tùng của ông Môsê, và là kẻ được chọn trong số đông người, liền thưa rằng: “Hỡi ông Môsê, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi”. Ông Môsê đáp lại rằng: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 8. 10. 12-13. 14

Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).

1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

2) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.

3) Dù tôi tớ Chúa quan tâm về những điều luật đó, lại hết sức ân cần tuân giữ, nhưng có nhiều chuyện lầm lỗi, nào ai hay? Xin rửa con sạch những lỗi lầm không nhận thấy.

4) Cũng xin ngăn ngừa tôi tớ Chúa khỏi tính kiêu căng, đừng để tính đó làm chủ trong mình con. Lúc đó con sẽ được tinh toàn và thanh khiết, khỏi điều tội lỗi lớn lao.

BÀI ĐỌC II: Gc 5, 1-6

“Của cải các ngươi bị mục nát”.

Bài trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.

Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.

Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 15, 15b

All. All. – Chúa phán: ” Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – All.

PHÚC ÂM: Mc 9, 37-42. 44. 46-47

“Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Nhưng Chúa Giêsu phán: “Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”.

Ðó là lời Chúa.

 

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- Năm B

AI KHÔNG CHÚNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA(*) Chú giải củaNoel Quession

Trên con đường đi Xêdarê – Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của “Con Người” cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:

– Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một “luật lệ” được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.

Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.

Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố” nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?

Gioan đã thấy một “người trừ quỷ” mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).

Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).

Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có “những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.

Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những “con quỷ” này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé… tất cả đều phải “khử trừ” sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.

Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.

Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo… hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến… Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.

Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.

Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên “kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người”. Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh “Quyền lực của Đức Kitô”. Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.

Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới “thấy được” của Giáo Hội hay sao?

Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?

Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:

“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió″ (Ga 3,8).

Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài “nhóm” (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ “đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: “ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những “người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con”.

Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài” nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu “các con đừng ngăn cản người ấy” đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.

Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa… Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là “những con người phổ quát”, “nhưng con người biết thông cảm những khác biệt” như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: “Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ” (GS 9,2).

Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. “Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn”. Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?

Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

‘Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước” lạ thường của người môn đệ: “Người ấy thuộc về Đức Kitô”. Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.

Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). “Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.

Sau những lời khuyên luận lý tích cực (“cho một chén nước”), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực (“không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã”). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.

Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.

Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

  (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TINH THẦN KHOAN DUNG CỦA  NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B này có thể được gọi là “chia sẻ”.

Ds 11: 25-29

“Chia sẻ” những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số  về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để các ông trở thành những người cộng tác với ông Mô-sê trong việc hướng dẫn dân Chúa chọn.

Gc 5: 1-6

Thánh Gia-cô-bê khuyên “chia sẻ” những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng Tin Mừng về đức khó nghèo.

Mc 9: 38-43, 45, 47-48

Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết “chia sẻ” những ân ban Thần Khí, thậm chí cả bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.

BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)

Sách Dân Số là sách thứ tư của bộ Ngũ Thư, sách nầy được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Nhan đề của sách: “Dân Số”, do từ cuộc điều tra dân số mà ông Mô-sê tiến hành trước khi dân rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.

Tiếp đó, sách thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại trong sách này, thường với những biến thể hay với những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn thuật lại việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc hướng dẫn dân chúng: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.

Bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26):

Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-đến gặp con rể của mình là ông Mô-sê. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc hướng dẫn dân chúng quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy… Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên khôn ngoan nầy.

Bản văn đặc sủng (Ds 11):

Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về trọng trách quá khó nhọc mà ông phải đảm nhận trong việc hướng dẫn dân cứng cổ cứng đầu này. Việc dẫn dắt dân nầy, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề, một mình ông khó gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.

Việc Tấn Phong:

Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức nầy nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục nầy lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc vào ông và đường lối của ông.

“Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông, thì các ông bắt đầu phát ngôn”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được biểu hiện bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được Thần Khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục này bắt đầu phát ngôn, nghĩa là “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng này “không tái diễn nữa”. Ân ban Thần Khí được biểu hiện qua việc “xuất thần ngôn sứ” chỉ diễn ra trong một giai đoạn ngắn, như được gặp thấy trong các ngôn sứ thời xưa, và sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau đó. Trong đoạn văn này, chúng ta nên ghi nhận rằng hiện tượng xuất thần ngôn sứ nầy chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức phù chú hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.

Thần Khí hoàn toàn tự do trong ân ban của Ngài:

 Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ; mặc dầu không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh theo lời hiệu triệu của ông Mô-sê, hai ông cũng được ân ban Thần Khí.

Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, người hầu cận trung thành của ông Mô-sê. Cậu lo lắng rằng hai người được ân ban Thần Khí này đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Thánh, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê chăng? Vì thế, Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn ngăn cản họ!”. Ông Mô-sê phê phán tinh thần bất khoan dung và hẹp hòi của ông Giô-suê khi trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời nầy, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân cứng cổ cứng đầu này cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu toàn dân được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay lòng đổi dạ biết mấy.

Ước nguyện của ông Mô-sê sẽ được thực hiện vượt quá khung cảnh này, trong truyền thống ngôn sứ sau này và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí ngự xuống đầy tràn trên các Tông Đồ (Cv 2: 16-21) và trong toàn thể Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân huệ của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số nầy; bài học nầy được Tin Mừng hôm nay xác nhận.

BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)

Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.

Thánh Gia-cô-bê vừa mới bài xích sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); giờ đây thánh nhân lên án những người giàu có tích trữ của cải bằng cách áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của thánh nhân thật dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”. Những lời nầy nhắc nhớ những lên án nghiêm khắc của các ngôn sứ. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những án phạt đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.

Sự phù du của tài sản:

Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải và tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “Tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh nầy rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).

Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “Vàng bạc của các ông bị rĩ sét”. Thật ra, vàng không bị rĩ sét và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: trước tòa án Thiên Chúa, việc tích trữ của cải cho riêng mình mà không chia sẻ với những anh em khốn khổ của mình là một trọng tội. Vì thế, thánh nhân khuyên: “Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, tức là trong thời kỳ nầy, thời kỳ khai mạc kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất vào ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa, phần thưởng cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một quan niệm như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến, những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người cách phong phú và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.

Người nghèo:

Thánh Gia-cô-bê còn phê phán người giàu có nặng lời hơn nữa: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chánh hay những thương nhân, nhưng những điền chủ. Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ phải được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình, như huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).

Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là vị phạm sự công bình giao hoán. Hiền nhân Si-rác đã bày tỏ nổi công phẩn trước những kẻ giàu có bắt tay với những kẻ quyền thế mà tước đoạt những phương tiện sống của những người nghèo: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).

Thiên Chúa của những người nghèo:

Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” nầy, những kẻ sống xa hoa vô độ trên xương máu của anh em đồng loại của mình, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, Đấng bênh vực những người nghèo. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ minh oan cho những người công chính và hủy diệt mọi kẻ gian ác.

Câu kết thúc của đoạn văn nầy quả thật khó hiểu: “Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi”. Vậy, ai là người công chính đã bị những người giàu có kết án và giết hại mà không hề cưỡng kháng? Có người nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị người giàu áp bức, bốc lột, tước đoạt đất đai như phương tiện sống, đó là tội sát nhân, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Người khác nghĩ rằng người công chính này được hiểu theo nghĩa tổng quát, đối lập với quân gian ác như các sách minh triết thường gợi lên. Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.

TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)

Trong bản văn Tin Mừng nầy, thánh Mác-cô quy tụ những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, thánh ký không đánh mất mục đích của mình: Đức Giê-su huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.

Tinh thần khoan dung của người môn đệ Chúa Ki-tô:

Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn nầy được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không thuộc nhóm chúng ta, không theo phe chúng ta. Tháí độ bất khoan dung nầy của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau nầy chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của thánh Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như thái độ của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong Bài Đọc I.

Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan khi trả lời với thánh Gioan bằng một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người nầy nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, thì người ấy đã bước một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho các môn đệ phải trải lòng ra tối đa với bất cứ ai không công khai bày tỏ sự thù địch với các ông: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Những lời dạy nầy được giải thích tốt nhất chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).

Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón, một thái độ bày tỏ sự thân thiện rồi.

Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động:

Được liên kết với Bài Đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền về những ân ban của Thần Khí, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.

Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những thường dân, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để nhân danh Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).

Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa. Trái lại, các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ nầy mà Do thái giáo không đóng khung việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc hội hè, nhưng còn mở ra mối dây liên đới với anh chị em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn: “mến Chúa và yêu người”, của Đức Ki tô.

Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn, nhưng tràn ra bên ngoài nữa, như câu chuyện của ông Bi-lơ-am (Ds 22-24). Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi không phải là người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng và nhạy bén trước tình đồng loại, họ xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy rằng những thiện ý của họ phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài, như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).

Kính trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình:

Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin nầy. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.

Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn, dể bị thương tổn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp nầy với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-Năm B

“Ở NHÀ”, VÀI LỜI NHẮN NHỦ- Chúa giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

Đi theo Con Người

Chúng ta vẫn “ở nhà” tức tại Caphácnaum, nơi đây mang một ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là nơi Đức Giêsu dạy dỗ riêng cho các môn đệ. Đức Giêsu dừng chân ở đây trên đường lên Giêrusalem. Người sẽ chịu cuộc tử nạn mà trước đây Người loan báo hai lần tại thành này.

– Đặt trong bối cảnh trên đường lên Giêrusalem, chúng ta sẽ rất dễ hiểu những lời Đức Giêsu. Trong “Tin Mừng theo thánh Maccô, B. Standaert nhận xét như sau: “Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích dẫn luật lệ trong Kinh Thánh này nọ, ông không nhìn nhận nền tảng đời sống luân lý Kitô giáo nào khác ngoài việc noi gương bắt chước Đức Kitô. Những trình thuật lớn loan báo số phận của Con Người thật ra không phải là những lời khuyến khích, nhưng khởi đi từ thân phận Đức Kitô, ta có thể hiểu ra những việc làm cần thiết mà người Kitô hữu phải tuân giữ. Ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống thực hành này là quyết liệt, không khoan nhượng. Thập giá hiện diện không những trong việc đảo lộn thân phận, làm cho người lớn nhất trở nên kẻ phục vụ mọi người, mà còn trong khả năng dám chặt tay, chặt chân, móc mắt bỏ đi, nếu những chi thể này làm cớ sa ngã”. (Cerf, tr. 78-79)

Những lời Chúa nói được Maccô thuật lại còn vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ, để nhắm đến các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này có thể làm cho óc suy luận kiểu Tây phương của ta kinh ngạc và lạc hướng. Điều quan trọng trong các những lời Đức Giêsu nói, không phải là những đề tài, mà là những từ đặt trong ngoặc kép, “nhân danh” Đức Giêsu, trong phần đầu đoạn Tin Mừng này, “kẻ bé mọn”và “làm cớ sa ngã” trong phần cuối.

Dẹp bỏ tinh thần bè phái.

Giáo huấn đầu tiên của Đức Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, con ông Giêbêđê, có biệt danh là “con của sấm sét” (3,17). “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy, mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu không đồng ý, Người cảnh giác các môn đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về đức tin và Thánh Linh J. Hervieux cắt nghĩa: “Đức Giêsu không chấp thuận cho Hội Thánh của Người có “tinh thần kín cổng cao tường” “tinh thần pháo đài”. Lệnh của Chúa là phải mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy những ai không ló ra thù nghịch với mình. “Ai không chống lại chúng ta, ủng hộ chúng ta”. Chắc hẳn những lời này rất quan trọng đối với một Hội Thánh như cộng đoàn của Maccô, vì lú c đó cuộc bách hại thúc đẩy họ co cụm lại, sống kín cổng cao tường” (Lvangile de Marc”, Centurion, trang 137-138).

Chúa còn đẩy ý tưởng đó đi xa hơn, nên nêu thí dụ “ly nước lã” Một cử chỉ nhỏ bé nhất được thi hành giúp các môn đệ Người “vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” có giá trị trước mặt Chúa: “người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

Dám liều chọn lựa hy sinh.

Giọng điệu còn trở nên nghiêm trọng hơn với một chuỗi dài câu được liên kết bằng ‘từ mấu chốt’: “làm cớ sa ngã”.

Trước hết, một lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người dựng lên chướng ngại vật, làm cho những “kẻ bé mọn” (tức là những tín hữu mà đức tin còn non yếu) bị vấp ngã. Ta còn nhờ thánh Phaolô đã cống hiến một phần lớn thư của Người bàn về nguy cơ làm cớ sa ngã. Khi giải thích cho những Kitô hữu đang hoang mang ở Côrintô rằng họ đã được giải phóng khỏi những luật lệ Do thái giáo, thánh tông đồ liền dặn thêm: “Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã… Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc” (1 Cor 8, 9-12).

Hôm nay từ miệng Đức Giêsu, chúng ta cũng đón nhận giáo huấn đó. Vào lúc, Đấng Mêsia-Tôi Tớ, đi lên Giêrusalem để trao nộp mạng sống vì yêu thương, Người long trọng tuyên bố: Trong cộng đoàn các môn đệ, phải hết sức tôn trọng người nhỏ bé nhất trong số các anh em của Người.

Kế đó là ba lời cảnh giác đối với ba chi thể của ta, vì chúng có thể lôi kéo người môn đệ sa ngã: “Nếu tay anh… Nếu chân anh… Nếu mắt anh…”

Quesnel tự hỏi: “Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu” (Mc 7, 21-22).

Ngoài ra, tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe.

Thật ra cách nói khoa trương cũng không phải là không có trong những câu có hình thức mâu thuẫn này. Hội Thánh không bao giờ giải thích theo nghĩa đen; ngôn ngữ thì đầy hình ảnh và có tác dụng là nhờ những câu đối lập nhau.Géhenne là thung lũng sâu khó xuống được, nằm ở phía dưới thành Giêrusalem, là nơi người ta đốt những rác rưởi, đồ phế thải, nên ở đó luôn xông lên mùi nồng nặc kinh khủng, như vậy, Géhenne đối lập với sự sống hay Nước Thiên Chúa. Mọi người cần tránh xa nó, vì đó là nơi tiêu huỷ tận diệt. Trái lại, sự sống và Nước Thiên Chúa là một thách thức đáng cho ta tận dụng mọi nỗ lực để đạt tới. Tất cả những gì làm ta tách xa sự sống và Nước Thiên Chúa đều xấu xa. Sự sống và Nước Thiên Chúa ấy đáng cho ta quyết tâm lựa chọn, dù có phải thiệt mất một phần thân thể. (Comment lire un évanglie Marc, Seuil, trang 170).

BÀI ĐỌC THÊM

Rừng cấm

Mọi câu lạc bộ ưu tuyển, dòng tộc, giáo phái hoặc ghettô, dù chúng thuộc dòng tu hay triều, thường gây ra và nuôi dưỡng những cơn ganh tị. Mọi cộng đoàn hoặc nhóm khép kín, co cụm, đều ra sức bám víu vào những đặc quyền, đặc lợi đã có.

Sách Dân số cung cấp cho ta một thí dụ điển hình. Khi Giosuê ganh tị, bực tức thấy có hai người nói tiên tri, mặc dầu họ không được uỷ quyền, cũng không được “thụ phong”. Họ là những tay săn trộm trong rừng cấm.

Đây cũng là một cơn ghen thực sự mà Gioan, đại diện cho Nhóm Mười Hai, mắc phải. Hãnh diện vì thuộc về nhóm tông đồ tuyển chọn và được quyền xua trừ các thần dữ nhân danh Giêsu, các ông thấy đặc quyền của mình bị đe dọa bởi ‘một người không đi theo Đức Giêsu mà làm được các phép lạ’. Các ông giận dữ, chống đối, tố cáo, đòi lên án. Khốn cho tên cạnh tranh bất lương!

Phản ứng và câu trả lời của Môsê cũng như của Đức Glêsu, tuy rất vắn gọn, nhưng mang cùng một ý nghĩa và một giáo huấn trong sáng có thể đưa đến những kết quả khôn lường. Các anh la lối tức giận vì thấy một điều thiện, một điều tốt được thực hiện bởi một người không công khai, chính thức thuộc về nhóm “ưu tuyển”, hoặc thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô sao? Trái lại, nào các anh không nên vui mừng vì thấy Thần Khí Chúa tỏ mình, và thấy thần dữ bị xua trừ sao? Các anh lấy quyền gì để hạn chế Thiên Chúa can thiệp; tự mình đặt ra những biên giới, những điều kiện bắt Thiên Chúa phải tuân theo? Các anh nghĩ rằng Thiên Chúa của Aùpraham, của Isaac, của Giacóp và của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, là tư hữu độc quyền của một dân tộc, một Giáo Hội, một đường lối tu đức, hoặc một đường lối mục vụ sao?

Trong lúc họp nhau cử hành Thánh Thể, ta ý tứ đừng tạo ra một “nhóm người sạch”, và hãy áp dụng cho ta lời Thánh Vịnh: sai có thể nhận ra những lầm lỗi của mình? Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi những tội con không hay biết. Xin gìn giữ tôi tớ Người khỏi tính kiêu căng: xin cho nó đừng bao giờ chiếm giữ lòng con”.

Cạm bẫy của ngôn từ “xin” và “cho” (Points de repère en pastorale sacramentelle”, Document – Episcopat, số 10-11, juin 94, introduction, trang 2 -3).

Chúng ta thường bị mắc kẹt bởi cách dùng ngôn từ: cho và xin. Ta tự nghĩ mình, và chỉ có mình, là những người cho, vì mình có các bí tích, như thể chúng ta tạo ra và phân phát các ơn lành do bí tích ban. Nhưng phải nhìn nhận rằng cả chúng ta cũng chỉ là những người xin khi lãnh nhân hoặc ban các bí tích. Vì lý do thần học, có một điều ta không dám nêu lên trong lãnh vực mục vụ bí tích, đó là Chúa Thánh Linh đã hoạt động trong tâm hồn con người trước chúng ta, và rằng Nước Thiên Chúa luôn vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Nhờ hoạt động của mình, Thánh Linh thực hiện tác vụ ngôn sứ nơi những người nhận lãnh, để mạc khải cho ta công trình Thiên Chúa thực hiện nơi họ.

(..) Nói cách khác, chúng ta cần học hỏi nơi những người đến với ta hoặc ta đến gặp họ: đó là học để biết nhìn họ với con mắt khác, để tìm ra một điểm gặp gỡ khác, chứ không chỉ qua các bí tích. Phải chấp nhận để Thánh Linh được tự do nói với ta qua họ, về Thiên Chúa và về cách khám phá ra Người.

Vì những lý do này, mục vụ bí tích không chỉ là mục vụ đức tin hoặc khai mở đức tin. Nó còn là mục vụ tình thương vô vị lợi, biết đón tiếp và biết lắng nghe. Chúng ta có thể cải hoá bản thân mình nhờ điều mà những người này nói với ta về cuộc sống của họ, hoặc nhờ những câu họ hỏi về Thiên Chúa, về Hội Thánh, nhất là khi lòng họ bị tổn thương, oán giận hoặc những ước muốn mơ hồ.

Đón tiếp luôn đi đôi với cố gắng để nhận định những mong muốn thầm kín thường được che giấu bởi một đòi hỏi trực tiếp.

Tự do của Thiên Chúa (Các Giám mục Pháp, trong “Lettre aux catholiques de France”, Cerf, trang 76-77).

Kinh nghiệm về việc Phúc âm hoá ngày nay giúp ta có nhận xét sơ khởi này: ngày nay trong xã hội chúng ta, có một số nơi đang mong đợi điều gì đó từ Hội Thánh, và họ có thể bày sự mong đợi đó khi tiếp xúc với Hội Thánh bằng cách này hay cách khác: hoặc đến xin lãnh bí tích rửa tội, hôn phối; hoặc vào lúc, những biến cố vui mừng hay thử thách xảy ra trong đời họ; hoặc do tình cờ họ gặp một cộng đoàn Kitô hữu, một nhóm nào hoặc cũng có thể họ gặp một phong trào có tổ chức, giới thiệu cho họ con đường khai tâm dẫn tới Tin Mừng, tuỳ theo hoàn cảnh sinh sống của họ.

Ta không công nhận rằng: những gặp gỡ như vậy thường chất vấn ta và đẩy lùi kiểu lô-gíc truyền giáo đã in sâu trong tâm trí ta đó sao? Bởi vì theo lô-gíc thương mại, hoặc lô-gíc chức năng, chúng ta tưởng rằng muốn truyền giáo, Giáo hội cần phải giữ một thứ luật cung cầu, nghĩa là Giáo Hội ở phía người cung, còn những kẻ khác, những người mong đợi, ở phía người cầu.

Trong hoàn cảnh thực tế cũng như trong kinh nghiệm thực tiễn mà Giáo Hội có qua sự gặp gở những người này, điều gì đã thực sự xảy ra và con đường dẫn tới đức tin đã diễn tiến như thế nào?

Không được phép coi những người mong đợi này như những khách hàng của Giáo Hội luôn sẵn sàng tiêu thụ điều mà chúng ta bày ra, theo kiểu lô-gíc thương mại. Trước hết, ta nên nhở, họ là những người nam hoặc nữ, do lòng mong đợi và sự tìm kiếm, họ làm chứng cho sự tự do của Thiên Chúa và công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng có thể khơi dậy nơi mọi người ước muốn vượt lên trên những gì họ đang sống. Bằng cách thế, đôi khi gây sửng sốt, họ nhắc nhở ta rằng địa chỉ hàng đầu cho Phúc âm hoá chính là cuộc sống con người, rằng sẽ không có Phúc âm hoá nếu không có đối mặt thực sự giữa Tin Mừng Đức Kitô, mạc khải của Thiên Chúa và sự mong đọi thẳm sâu nơi mỗi người.

Nhưng đối lại, khi hiểu được mong đợi của con người và đáp lại lòng mong đợi ấy, Giáo Hội có trách nhiệm phải bày tỏ cho thấy, Giáo Hội không chỉ muốn đáp lại những mong đợi tức thời của họ, mà còn có sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu, sứ mạng đó là trình bày và mở đường dẫn họ đến với Người.

Trong nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau, Giáo Hội được mời gọi không những phải đón tiếp rộng rãi và vô vị lợi rnà còn phải tỉnh thức tích cực, để nhận ra những dấu chỉ bất ngờ của Chúa qua vô số những đòi hỏi của con người thời nay, đồng thời cũng hiểu rằng những đòi hỏi này kêu gọi có một cuộc khai tâm kéo dài dẫn đến mầu nhiệm Đức Kitô, Lời Người, các bí tích và sự sống mới mà Người là nguồn mạch”.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

CHÚA GIÊSU DẠY DỖ CÁC MÔN ĐỆ- Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

-Vấn đề mà Tin Mừng nói hôm nay (cc.38-40) vẫn còn đang nóng bỏng. Trong Giáo Hội, cần có một nhóm nào đó xem mình như có độc quyền sử dụng Tin Mừng để rồi lên án mọi việc làm của các Kitô hữu khác không. Chắc chắn một nhóm như thế không cần phải có. Như trong thực tế, đây đó vẫn có những nhóm quá khích tự xem mình như những nhà chú giải Tin Mừng đúng với ý Chúa mà thôi. Nhóm người này không thể dùng chiêu bài được ở gần Chúa Giêsu như thánh Gioan và các sứ đồ thuở xưa để mà biện hộ. Chung chung họ chỉ lập luận dựa trên cát nhìn một chiều của họ về Giáo Hội, khi thì (dựa trên thái độ tiêu cực đối với mọi trào lưu biến hoá, khi thì trên cách thế diễn giảng Tin Mừng theo chiều hướng chính trị. Tất cả đều có điểm chung là không muốn đi vào chiều sâu của Giáo Hội. Thần ác đã xui khiến các loại nhóm này “dứt phép thông công” lẫn nhau, đến độ một phần tử quá khích của một “trào lưu” mệnh danh là mới mẻ không muốn cùng chung bàn tiệc thánh với một phần tử của trào lưu khác.

-Thời đại chúng ta, vì phải chịu nhiều ảnh hường tệ hại khoa thần học có khi đã bị sa lầy trong những cuộc tranh luận có tính cách ý thức hệ hoặc trong những cuộc tranh chấp chính trị; do đó, người Kitô hữu cần phải khôn ngoan nhận ra thế nào là trung thành đích thực với Tin mừng, thế nào là không. Thực tế, vẫn có nhiều cách trung thành đích thực đã được các vị trọng trách trong Giáo Hội đảm bảo, do đó họ cũng cần phải chấp nhận có sự khác biệt trong cách trung thành. Một trong nhũng tiêu chuẩn căn bản giúp ta nhận ra tính cách đích thực, đó là dấu cổ võ sự hiệp thông.

-Sau khi công bố phẩm cách cao quí của những kẻ bé mọn (Mc 9,37), giờ đây Chúa Giêsu mặc khải phẩm cách cao quí của môn đồ. Người môn đồ nhỏ bé nhất vẫn tượng trưng Chúa Kitô (xem cuộc Chung thẩm trong Mt). Kitô hữu là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần thế. Đây là một danh dự và một trách nhiệm nặng nề. Có bao giờ ta ý thức như thế để sống xứng đáng không? “Nếu các Kitô hữu sống đạo thật thì dân Aán chúng tôi đã theo Chúa Kitô cả rồi” (lời thánh Gandhi).

-Hãy nghĩ đến những người mà ta có thể gây cớ vấp phạm bằng những thay đổi hiện thời trong Giáo Hội, những thay đổi quá táo bạo, không tôn trọng các truyền thống cũng như hãy nghĩ đến bao người thất vọng, bị cám dỗ rời bỏ Hội Thánh hay cảm thấy không muốn vào vì sự thụ động của ta, vì thái độ của nhiều Kitô hữu không chịu cải cách, đổi mới.

-Lời Chúa bảo phải tróc nã, tiêu diệt sụ ác tận gốc của nó, tiêu diệt dịp tội trong chúng ta và ngoài chúng ta. Đời sống Kitô hữu không thể hiện bằng sự cắt xén hủy bỏ, nhưng bằng sự lớn lên. Để có thể lớn lên, tăng trưởng, mang hoa trái, phải cắt tỉa, gột rửa, từ bỏ… vì danh Chúa Giêsu, vì vương quốc Thiên Chúa. Xem của 15,1-2: Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt vứt bỏ: còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

ÓC BÈ PHÁI CỤC BỘ- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Ds 11,25-29) : Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói : “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”.

– Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47) : Gioan thấy có người ngoài nhóm môn đệ mà cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ. Gioan yêu cầu Đức Giêsu ngăn cấm họ. Nhưng Đức Giêsu đáp : “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Chúa nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.

Đoàn kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.

Chúng ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.

GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng con.

– Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.

– Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những người lương.

LỜI CHÚA

Bài đọc I (Ds 11,25-29)

Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói : “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ”.

Đáp ca (Tv 118)

Tác giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ  “Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của mình ?” Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng hay, trong đó có tội kiêu ngạo.

Phối hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của mình : mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập thể mình.

Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)

Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu dạy hai bài học :

a/ Bài học bao dung và hợp tác : Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Đức Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.

– Người đời thường có óc bè phái : ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”

– Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.

b/ Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho “những kẻ bé mọn”.

– “Những kẻ bé mọn” không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.

– Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc : “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…”

Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)

Thánh Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người nghèo : (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng chứng buộc tội họ ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà có ; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.

GỢI Ý GIẢNG

* 1. Óc ganh tị bè phái… vì danh Chúa !

Những bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói gì.

– Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà người ta đã có tính ganh tị rồi.

– Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể : Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại ta thì thuộc về ta”.

Qua hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là : cái óc ganh tị đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa” bởi vì ganh tị có tới 3 cấp bực :

. Cấp thứ nhất là Ganh tị : đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

. Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái : là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.

. Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa : nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.

Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh Chúa.

Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn : chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác : tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta ; cũng phải hợp tác với họ.

Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.

Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.

Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa : đừng ganh tị, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.

*2. Dịp tội

Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Đức Giêsu :

. Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.

. Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.

. Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.

Dĩ nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Đông. Không ai hiểu những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có một trường hợp đặc biệt sau đây : Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.

Vậy, chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu theo tinh thần. CG muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp tội.

Nhưng, dịp tội là gì ? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.

. Đó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.

. Đó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.

. Đó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.

Để cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội :

. Dịp tội gần : là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội. Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ hênh thì hầu như chắc chắn sẽ “chôm” liền. Gặp 10 lần thì phạm tội khoảng 7,8 lần.

. Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể không ăn cắp.

Dịp tội gần lại được phân làm 2 loại nữa :

. Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Đây là một dịp nguy hiểm, nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng thiếu.

. Dịp tự do : là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.

Sau khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải tránh loại dịp tội nào ? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau :

. Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ bị phạm tội. Td.

. Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh : vì đó cũng là một dịp tội gần nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho nên phải tránh đi.

. Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi

Con người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy : “Nếu tay con nên dịp tội cho con…”

*3. Giải phẫu.

Người ta đồn thổi rằng : Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Đã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.

*

Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi” (Mc.9,43). Kiểu nói “chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.

Đức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.

Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. “Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn”, đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao ? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể “cắt bỏ” một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính… Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn “móc con mắt, chặt cánh tay”. Đau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết :”Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối : làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.

*

Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào : Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng : chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

*4. Mảnh suy tư

a/ Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta :

– Chúng ta có quyền nhân danh Đức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không phải là độc quyền của chúng ta.

– Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm cho chúng ta.

– Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn làm cho chúng ta giàu thêm.

– Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.

b/ Ai cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu :

– Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.

– Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần là một việc sưởi ấm cõi lòng.

c/ Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn :

– Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.

– Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.

– Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.

LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy : “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”, và “Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa :

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh mọi gương xấu / mà nêu gương tốt cho mọi người.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác / dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa / vẫn luôn sống lương thiện và không bao giờ chống đối Chúa.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ nhỏ / gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời sống lương thiện.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta / biết khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa / và biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.

Chủ tế: Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

TRONG THÁNH LỄ

– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ…”

GIẢI TÁN

Trong tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này : “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Bài đọc thêm

THƯ DO THÁI

VĂN THỂ

Tác phẩm này không mang hình thức một bức thư, nghĩa là không ghi tên người gởi và người nhận ở đầu. Mãi đến khi kết thúc (13,22-24) mới có những nét của một bức thư (“Tôi chỉ viết cho anh em vắn tắt thôi”). Mặc dù ở 1 vài bản chép có câu “gởi tín hữu do thái” ở đầu tác phẩm, nhưng người ta nghiên cứu thấy câu này được thêm vào về sau chứ không có từ đầu.

Giọng điệu trong tác phẩm giống như một bài diễn văn hay một bài khảo luận : trang trọng, uyên bác.

Vì thế có nhiều giả thuyết về tác phẩm này : nó là một bức thư (lettre) ? hay một bức tông thư (épitre) ? một bài diễn thuyết ? hay một thiên khảo luận ? Mỗi giả thuyết đều có những lý lẽ ủng hộ nhưng cũng có những lý lẽ nghịch lại.

Ý kiến được nhiều người chấp nhận hiện nay là : đó là một bức tông thư được viết bởi một người vừa học thức uyên bác vừa sẵn tài hùng biện. Vì thế nó mang đủ các tính chất của thư, bài giảng và khảo luận.

TÁC GIẢ

Ban đầu ai cũng tưởng tác giả là Phaolô. Nhưng dần dần người ta khám phá thêm nhiều lý do không cho phép tưởng như thế nữa :

– 13 thư kia đều ghi tên tác giả là Phaolô, còn thư này không.

– Lời văn và giọng điệu hoàn toàn khác với Phaolô. Cách trích dẫn Cựu Ước cũng khác. Cách bố cục cũng khác : Phaolô thường chia bức thư thành 2 phần : phần I giáo thuyết, phần II khuyên dạy. Trong thư này, giáo thuyết và lời khuyên xen lẫn nhau.

– Chủ đề trung tâm của thư này là Chức Tư Tế của Đức Kitô, chủ đề này rất xa lạ trong các thư của Phaolô. Trái lại, một ý tưởng luôn có trong các thư  của Phaolô là “công chính hóa bởi đức tin” thì không có trong tác phẩm này.

Vì thế người ta thiên về kết luận tác giả là một người khác. Người đó là ai ? Người ta đã đưa ra một số “ứng cử viên” như Luca, Barnnabê, thánh Clêmentê thành Rôma và Apollo.

Trong số đó Apollo được ủng hộ nhiều nhất (giả thuyết này được khởi xướng đầu tiên do Luther, thế kỷ 17), vì những lý do sau :

– Sách Cv mô tả Apollo là một người do thái ở Alexandria, một trung tâm văn hóa lớn, có tài hùng biện, am hiểu Thánh Kinh, nhiệt thành sốt sắng, thường trưng dẫn Thánh Kinh để chứng minh Giêsu là Đức Kitô (x. Cv 18,24-28). Tác giả thư này cũng có những nét đó.

– Nếu đi sâu vào nội dung thì ta thấy tác giả chịu ảnh hưởng của Phaolô, tông đồ Gioan và triết gia Philon. Mà Apollo chính là một người như thế : thấm nhuần triết lý Philon, quen biết nhiều với Phaolô và Gioan.

NGƯỜI NHẬN

Chúng ta đừng quan tâm tới những chữ “gởi tín hữu do thái” của một số bản chép, vì, như đã nói, chúng được thêm vào sau.

Có giả thuyết rằng người nhận là những tín hữu gốc do thái sống ở Palestina và nói tiếng híp-ri. Nếu giả thuyết này đúng thì thư này ban đầu phải viết bằng chữ híp-ri rồi sau dịch ra chữ hy lạp. Nhưng lối văn hy lạp của thư này rõ ràng không phải là văn dịch. Vậy thuyết này không vững.

Giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là  thư nầy được viết cho những cộng đoàn tín hữu gồm những người do thái tòng giáo đang có nhiều sa sút về đức tin và đang nản lòng trước những khó khăn.

ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI ĐIỂM VIẾT

Cũng không có gì chắc chắn mà chỉ toàn giả thuyết. Giả thuyết dễ chấp nhận hơn cả là thư này được viết trước năm 70 (vì thư nói nhiều về Đền thờ Giêrusalem và những lễ nghi ở đó. Nếu như nó được viết sau khi Đền thờ bị phá huỷ năm 70 thì hẳn là tác giả có nói đến sự phá huỷ ấy. Đàng nay tác giả luôn nói về Đền thờ và các lễ nghi như thể đang còn hoạt động).

Còn nơi viết là đâu ? Câu cuối thư (13,24) có mấy chữ “Anh em Ý gởi lời thăm anh em” khiến nhiều người cho rằng thư này được viết tại nước Ý. Tuy nhiên mấy chữ đó có thể hiểu nhiều cách : “những người ý”, “những người từ Ý tới”… Tóm lại, khó xác định nơi viết.

HOÀN CẢNH

Thư này được viết cho những người do thái đã từ bỏ đạo của tổ tiên với những luật lệ và nghi thức do Môsê đặt ra để theo đạo của Đức Kitô.

Nhưng việc thay đổi này khiến họ gặp nhiều khó khăn : khó khăn chủ quan là do chính họ suy nghĩ ra. Họ đã quá quen với những lễ nghi do thái rực rỡ huy hoàng, bây giờ tham dự những lễ nghi kitô giáo được tổ chức đơn sơ trong các cộng đoàn nhỏ bé, nên họ không tránh khỏi so sánh và tự nhủ họ bị thua thiệt (gần như “bỏ mồi bắt bóng”) ; khó khăn khách quan là bị những người đồng đạo cũ xem là những kẻ bội giáo, thù ghét họ, bách hại họ, tước đoạt tài sản họ và có khi còn bỏ tù họ nữa (Dt 10,32-36). Với tâm thức còn mang nặng ảnh hưởng do thái giáo, những kitô hữu tội nghiệp ấy nghĩ rằng họ bị như vậy vì họ đã bỏ Yavê nên nay bị trừng phạt (6,10). Từ đó họ hoang mang đặt lại vấn đề : phải chăng họ đã lầm ? Rồi họ đâm ra trễ nãi (6,12), chậm hiểu (5,11), bị cám dỗ (2,18) và chán nản (12,12)…

Tác giả đã cố gắng an ủi và khuyến khích độc giả của mình. Ông kêu họ hãy bám chắc vào Lời Chúa để khỏi lạc xa chân lý (2,1), kiên trì như những lực sĩ (12,1), đừng rơi vào lầm lạc (13,9), đừng buông trôi theo khuynh hướng mệt mỏi sờn lòng (12,3). Ông còn khuyên họ luôn dán mắt vào ơn cứu độ (10,35) và kiên vững trong hy vọng (10,39). Tóm lại, nguồn nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh phải là Đức tin (pistis) hiểu theo cả 3 nghĩa : vừa ngoan ngoãn đón nhận lời Chúa mặc khải, vừa cậy dựa vào sự quan phòng của Chúa, vừa kiên trì trung thành thực hiện ý Chúa (3,7  4,13  11)

Spicq nhận xét : “Cũng như thư Rm là một tài liệu về ơn cứu độ, thư Gl về sự tự do, thư 1 Cr về tình bác ái huynh đệ, thì thư do thái là một tài liệu về Đức tin phó thác can đảm, gắn bó với Chúa Cứu Thế bằng cả tâm hồn và con người mình”.

NỘI DUNG

– Luận đề 1 : Đức Kitô là vua vũ trụ  (1,5–2,18)

– Luận đề 2 : ĐK là vị Thượng Tế trung tín và hay thương xót  : 3,1-5,10

– Luận đề 3 : Chức Thượng Tế của Đức Kitô  : 5,11-10,18

NHẬN ĐỊNH

Ngày xưa, những tín hữu gốc do thái đã hoang mang vì những cái giá phải trả cho việc họ chọn theo kitô giáo : a/ Không còn được hưởng những đặc miễn mà chính quyền Rôma dành cho các tín đồ Do thái giáo ; b/ trái lại còn bị Rôma đàn áp, bách hại ; c/ ngoài ra lại còn bị chính đồng bào do thái bách hại nữa… Họ tự nghĩ “Phải chăng mình đã sai ?”, và họ muốn xét lại quyết định của mình.

Ngày nay vấn đề tương tự cũng có thể đặt ra cho chúng ta : theo đạo, chúng ta chẳng những không được thêm gì cho cuộc sống vật chất, ngược lại còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều người sau một thời gian theo đạo mà “chẳng được ích lợi gì” đã thôi không theo đạo nữa ; một số khác hoang mang muốn đặt lại vấn đề.

Nếu đã hoang mang thì cuộc sống sẽ chao đảo và không thể tiến lên. Do đó tác giả đã khuyến khích tín hữu kiên vững trong đức tin của mình : hãy xác tín mình đã chọn rất đúng, hãy nghĩ rằng không nên đảo ngược lại sự chọn lựa cơ bản ấy nữa, và hãy nhìn thằng vào Đức Kitô mà tiến lên phía trước.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-  Năm B

TRÁNH GƯƠNG XẤU VÀ DỊP TỘI– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

DẪN NHẬP

Chúa Giiêsu vẫn tiếp tục dạy dỗ các Tông đồ. Bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay ăn khớp với nhau. Cũng như ông Maisen khiển trách ông  Giôsuê ganh tị không cho hai người khác nói tiên tri chỉ vì họ không đến dự lễ tấn phong.  Chúa Giêsu cũng khuyên các Tông đồ đừng ganh tị với những người không thuộc Nhóm 12 mà vẫn nhân danh Chúa mà trừ quỉ, trái lại phải có tinh thần hợp tác. Sau đó, Chúa Giêsu hứa thưởng công bội hậu cho những ai giúp đỡ các môn đệ  của Ngài.

Điều mà chúng ta muốn bàn đến trong bài chia sẻ hôm nay là gương xấu và dịp tội. Chúa Giêsu lên án cách mạnh mẽ và quyết liệt đối với những ai nêu gương xấu cho những kẻ bé mọn, tức là những người còn kém đức tin, yếu đuối, dốt nát, bị khinh bỉ :”Thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.

Ngoài ra, Chúa Giêsu còn khuyên phải tránh các dịp đưa đến tội. Ngài dùng một kiểu nói cường điệu mà nói lên tính cách nặng nề của dịp tội :”Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi…”.  Thực ra, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen câu nói của Ngài mà phải hiểu theo nghĩa tượng trưng, vì nếu tay, chân, mắt nên dịp tội thì phải chặt đi thì chắc mọi người phải chặt hết, và như vậy Hội thánh Chúa chỉ bao gồm toàn những người què cụt sao ?

Vì thế, chúng ta phải quyết tâm loại trừ mọi gương xấu và dịp tội. Chúng ta phải chống lại các chước cám dỗ, lánh xa các dịp tội và tránh xa những dịp nguy hiểm có thể đưa đến tội , theo nguyên tắc :”Đào vi thượng sách” : lánh đi là tốt nhất. Nguyên tắc này cũng phù hợp với Lời Chúa :”Ai thích sự nguy hiểm sẽ rơi vào sự nguy hiểm”(Gv 3,27), ai yêu thích dịp tội thì sẽ dễ dàng sa ngã vào tội đó.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : Ds 11,25-29.

Để chia sẻ gánh nặng trong việc cai trị dân, ông Maisen đã chọn ra 70 vị kỳ mục , làm lễ tấn phong cho các ông, chuyển giao Thần Khí của mình cho các ông  để các ông nói tiên tri. Trong số đó có 2 vị không đến dự lễ tấn phong mà vẫn nói tiên tri.  Giosuê thấy thế rất khó chịu và bảo ông Maisen  cấm hai ông ấy nói. Nhưng ông Maisen chẳng những  không ngăn cấm mà còn nói :”Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí  trên toàn dân của Người để họ đều là tiên tri”.

+ Bài đọc 2 : Gc 5,1-6.

Bài đọc 2 này chỉ là chủ dề phụ. Như các tiên tri xưa, thánh Giacôbê cảnh cáo người giầu có một cách dữ dội. Sở dĩ thánh nhân phê phán nặng lời bởi vì :

– Họ tích trữ tiền của một cách phi pháp như không trả công cho thợ…

– Họ bóc lột người vô tội mà họ không ngại kết án.

– Họ dùng tài sản để thoả mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.

+ Bài Tin Mừng : Mc 9,38-48.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần :

a) Tránh óc bè phái.

Cũng giống như ông Giosuê và ông Maisen trong bài đọc 1, ông Gioan thấy có một số người không thuộc Nhóm 12 mà vẫn nhân danh Chúa mà trừ quỉ và ông xin Đức Giêsu ngăn cấm họ. Nhưng Ngài chẳng những không ngăn cấm mà lại còn cho một bài học :”Ai không chống Ta là ủng hộ Ta”. Ngài nói như thế là có ý dạy cho các môn đệ đừng nhìn người khác bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, mà còn phải hợp tác với những người thiện chí.

b) Tránh gương mù, gương xấu.

“Đừng làm gương xấu cho kẻ bé mọn”. Chúng ta không được hiểu kẻ bé mọn đây là trẻ con, ngây thơ, yếu đuối, nhưng còn phải hiểu nghĩa rộng hơn, đó là những kẻ còn kém đức tin. Nếu những người lãnh đạo mà làm cớ cho họ vấp phạm thì “phải buộc thớt cối xay vào cổ mà ném xuống biển còn hơn”.

Ngoài ra, khi nói tới gương xấu hay dịp tội đến từ bản thân mình làm nên cớ vấp phạm thì Chúa khuyên : hãy chặt nó đi.

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Gương xấu và dịp tội

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, thuật lại việc Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ. Trong bài này, Marcô kể lại câu chuyện  sau khi khiển trách Gioan về tội ganh tị, Chúa Giêsu hứa ban phần thưởng cho những ai tiếp đón các môn đệ Ngài; đồng thời , Ngài dạy không được làm gương mù gương xấu và còn phải tránh các dịp tội. Trong bài này, chúng ta chỉ bàn đến phần thứ ba là tránh gương xấu và dịp tội mà thôi.

TRÁNH GƯƠNG XẤU.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra nhiều điểm rất quan trọng liên quan tới đời sống cộng đoàn. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu nhằm gửi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn, nhưng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.

Trước tiên Ngài khuyên các Tông đồ hãy có tinh thần hợp tác đừng ngăn cản những ai  góp phần vào việc làm sáng danh Chúa. Tiếp đó Ngài chúc phúc cho những ai  giúp đỡ các ông và hứa phần thưởng bội hậu cho những người ấy.

Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho người khác phạm tội.  Ngài tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những người  dẫn những kẻ bé mọn tin vào Ngài đi lạc lối. Ngài nói :”Ai làm cớ cho một  trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà ném xuống biển thì hơn”(Mc 9,42)

Thiên chức của người tông đồ cao quí như vậy nên Đức Giêsu dạy các Tông đồ không được làm gương xấu cho những kẻ bé mọn. Vậy “những kẻ bé mọn” đây là ai ?  Chúa muốn ám chỉ những người hèn kém, khờ dại, dốt nát, không được học hỏi những vấn đề luật pháp : Hạng ngươi này, trong Do thái giáo , có khuynh hướng khinh bỉ họ. Những kẻ bé mọn có lòng tin này là những người thuộc giai cấp bình dân có thiện chí muốn học hỏi Kinh Thánh, luật pháp, thường được các thầy thông luật giải thích Thánh Kinh, luật pháp, nhưng lại bị giải thích sai lạc vì những gương xấu.

Vì thế, việc cảnh giác đề phòng làm gương xấu cho những “kẻ bé mọn” này, Chúa Giêsu muốn nhắm tới các thủ lãnh tôn giáo mà Ngài đã có lần tố cáo họ đã độc quyền chiếm đoạt sự giải thích Thánh Kinh và đóng cửa không cho kẻ muốn vào (Lc 6,39; Mt 15,14) và dụ ngôn về con chiên lạc (Lc 15,3-7; Mt 18,12-14).

Chúa Giêsu đã răn đe rất nghiêm ngặt những ai gây gương mù gương xấu :”Thà buộc cối xay vào cổ người ấy mà ném xuống biển còn hơn”. Lời răn đe rất thẳng thắn và quyết liệt.  Thớt cối xay nặng như thế mà kéo dìm một tội nhân dưới nước thì không thể nào ngóc đầu lên được : ý nói đến sự xấu xa, ghê tởm, nặng nề của tội làm gương xấu.

Trong bức thư của Lentulô, tổng trấn Do thái gửi cho hoàng đế Tiberiô, để diễn tả chân dung Chúa Kitô, có câu này :”Khi ông (Chúa Kitô) quở trách sửa phạt, thật cả là một sự ghê sợ; nhưng khi khuyên bảo dạy dỗ ông lại rất hoà nhã đằm thắm, làm cho thiên hạ tin phục say mê”.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy lộ ra  hai tính cách đó : nửa trước Chúa khuyên bảo nhân từ dịu dàng; nửa sau Chúa rất nghiêm thẳng đối với hai vấn đề gương xấu và dịp tội.

Truyện: Cha Béc-na Vô-gan

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục.  Ôâng ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khói trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả.  Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo :”Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi :”Quên cái gì đâu” ? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn :”Ôâng để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.

TRÁNH CÁC DỊP TỘI.

Đối với dịp tội Chúa Giêsu nói tiếp :”Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi, thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục” (Mc 9, 43).

Phải hiểu Lời Chúa như thế nào ?

Chúng ta thấy Đức Giêsu nói một cách quyết liệt như thế, ta phải hiểu thế nào ?  Thực ra, Ngài dùng lối nói cường điệu của những nhà hùng biện như thế là muốn cho chúng ta thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mọi người.

Nếu chúng ta hiểu lời Chúa theo nghĩa đen thì chúng ta thấy Giáo hội sẽ ra làm sao ? Chắc chắn sẽ xẩy ra trong hai trường hợp :

a) Trường hợp 1 : Thế giới này sẽ có một Giáo hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng : một Giáo hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị chột…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình.

b) Trường hợp 2 : Giáo hội sẽ không tồn tại, vì không có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những không bao giờ thực hiện điều ấy, mà Giáo hội còn dạy những điều ngược lại. Sách giáo lý Công giáo của Giáo hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”.  Sách giáo lý cho biết :”… Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe doạ đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con ngườøi và phẩm giá con người. Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, huỷ hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý”(GLCG số 2297).

Thực ra, những lời nói của Chúa Giêsu không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng bất cứ giá nào.  Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể làm được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Ngài  là in sâu vào tâm trí chúng ta  không thể nào tẩy xoá được, rằng Nước Thiên Chúa đáng cho chúng ta hy sinh mọi thứ khác.

Nói về dịp tội.

a) Nguyên nhân.

+ Thiên Chúa cho phép.

Không ai có thể phủ nhận được sự hiện hữu của dịp tội, của cám dỗ.  Chính ma quỉ đã cám dỗ để làm hư hoại loài người, dĩ nhiên là Thiên Chúa cho phép cám dỗ để thử thách lòng trung thành của con người.  Chúng đã cám dỗ ông Adong và bà Evà, và ông bà đã sa ngã, đã bất trung với Chúa. Ngay Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ trong hoang địa nhưng đã chiến thắng một cách vẻ vang. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã dạy :”Hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”(Mt 26,41; Mc 14,38; Lc 22,40).

Nếu nói rằng Chúa cám dỗ chúng ta thì không đúng, không bao giờ Chúa cám dỗ chúng ta mà Ngài chỉ cho phép ma quỉ cám dỗ chúng ta trong mức độ chúng ta có thể chịu đựng được để thử thách chúng ta thôi, vì”lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức”. Như vậy, cám dỗ tự nó không xấu, nó chỉ là một sự thử thách và nó có lợi cho những ai cố gắng chiến thắng nó để vượt qua thử thách vì như người ta nói :”Vô hoạn nạn, bất anh hùng”.

+ Loài người gây ra.

Con người sống trong xã hội có tương quan với nhau, do đó có ảnh hưởng tương tác, hoặc là ảnh hưởng tốt hoặc là ảnh hưởng xấu. Vì vậy mà Chúa Giêsu đã nói :”Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”(Mt 18,7). Và Chúa còn lên án mạnh mẽ hơn:”Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”(Mc 9,42; Mt 18,6).

Ngày nay người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Người ta có thể đi từ châu lục này đến châu lục kia trong vòng mấy giờ đồng hồ, cho nên ảnh hưởng giữa con người càng nhanh chóng và càng mạnh. Dù chúng ta có biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp phạm hay tảng đá giúp cho người khác vượt qua trên con đường đến ơn cứu độ (x. Mt 21,42-44).

Chúng ta có thể trở thành tảng đá vấp ngã hay tảng đá giúp cho người khác vượt qua là tuỳ ở cách sống của chúng ta : nếu chúng ta gây gương mù gương xấu thì chắc chắn đã trở thành tảng đá vấp ngã. Ngược lại, nếu chúng ta nêu gương sáng giúp người khác sống tốt hơn thì chúng ta trở thành tảng đá giúp người ta vượt qua :

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ

Lại trở nên đá tảng góc tường.

Đó chính là công trình của Chúa,

Công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta (Tv 118,22-23).

Dựa vào câu Thánh vịnh trên, Chúa Giêsu nói :”Bởi đó, Tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân làm cho nước ấy sinh hoa lợi. Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt” (Mt 22,43-44).

b) Phải chống trả chước cám dỗ.

Cám dỗ hiện diện khắp nơi mà không ai có thể thoát được. Chính Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ. Chúa đã nhắc bảo các Tông đồ :”Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Như vậy công việc của chúng ta  là chỉ việc chống lại chước cám dỗ.  Cuộc chiến chống ba thù là một cuộc trường kỳ kháng chiến, không bao giờ kết thúc. Và trong cuộc chiến này phải phân thắng bại, không được thoả hiệp : một là thắng, hai là bại. Adong Evà đã để lại gương thất bại, còn Đức Giêsu đã nêu gương chiến thắng rực rỡ.

Dĩ nhiên trong cuộc chiến một mất nột còn này đòi phải gian khổ, hy sinh, từ bỏ có khi ngay cả đến bản thân mình, không có từ bỏ không chiến thắng được.

Truyện : Đánh bẫy khỉ.

Người ta đồn thổi rằng : Aên thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên người ta tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam mà lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn thay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ  khỉ chịu buông quả cam ra  để bàn tay được tự do. Đã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt quả cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương (Thiên Phúc).

Thế giới chung quanh ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội  khiến chúng ta lỗi luật Chúa. Chúa Giêsu nói hơi mạnh :”Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi” (Mc 9,43). Chúng ta phải hiểu rằng kiểu nói :”chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình.

Nói tới cắt tỉa, chặt bỏ, từ bỏ là những động từ gợi lên cho chúng ta  sự đau đớn, nhưng như người ta nói :”Thuốc đắng đã tật”(Tục ngữ), đau đớn lại là một điều cần thiết cho sự lành mạnh, nó là một điều kiện” bất khả thiếu”.  Chính vì vậy, Ludovic Giraud đã viết :”Nỗi đau đớn với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới  nhưng để làm cho đất mầu mỡ, cũng như việc cắt tỉa cây cối : làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khoẻ và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.

Xét ra Lời của Chúa cũng không xa thực tế lắm. Có người chỉ vì lòng tham lam của cải chứ không phải vì Nước Trời mà đã dám hy sinh một phần thân thể. Họ dám hy sinh cái nhỏ để chiếm được cái lớn. Đó là ông O Neil,  nhà thám hiểm đã tìm ra đất Aùi nhĩ lan. Khi nhóm thám hiểm đến gần phần đất mới, vị thuyền trưởng tuyên bố :”Hễ ai chạm tay trước hết vào phần đất trên bờ thì người ấy làm chủ phần đất ấy”. Ôâng O’Neil quyết tâm chiếm cho bằng được. Ôâng chèo chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Nhận thấy có kẻ khác vượt lên trên mình, ông quyết định lấy rìu chặt đứt cánh tay trái và liệng vào bờ, chạm đất trước hết, thắng cuộc.

Nhà thám hiểm cụt một tay để được một nước thế gian, thì trong việc chiếm lấy Nước Trời, Chúa dạy chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh  tất cả những gì thân thiết và quí mến.

c) Tránh dịp nguy hiểm.

Người ta thường nói :”Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ởû trong một môi trường tốt thì người ta dễ nên tốt, người ở trong một môi trường xấu thì dễ trở nên xấu, đó là định luật tâm lý vì người ta hay bắt chước một cách vô ý thức.

Kinh Thánh nói :”Ai thích sự nguy hiểm thì sẽ rơi vào sự nguy hiểm” (Gv 3,27) : chơi với lửa có ngày sẽ bỏng, chơi với dao có ngày đứt tay, chơi với bùn có ngày lấm áo… Đó là kinh nghiệm ngàn đời của dân gian. Nên người ta khuyên :

Chim khôn tránh lưới tránh dò,

Người khôn tránh chốn xô đồ mới khôn.(ca dao)

Người xưa cũng khuyên :”Cá, giải chán vực sâu mà ra chỗ nông, cho nên mắc phải chài lưới. Chim, muông chán rừng rậm mà xuống đồng bằng, cho nên bị phải cạm bẫy” (Hàn Thi ngoại truyện).

Chống lại chước cám dỗ là tốt, việc phải làm, nhưng cũng không nên gây ra dịp thuận tiện để cho cám dỗ ập tới. Tại sao không cố mà tránh cơ hội gây ra cám dỗ để khỏi bị mắc bẫy ?

Chim ham mồi sa lưới,

Cá ham thính mắc câu.

Con người phải nghĩ cho sâu,

Đừng ham danh lợi, sắc hầu sa cơ.

Tài danh là cạm giữa trời,

Hồng nhan là bả những người tài hoa.(ca dao)

Người xưa cũng còn dạy :”Cẩn tắc vô ưu” : cẩn thận thì khỏi phải lo. Không ai dám nói được mình khôn ngoan, không bị sa vào cạm bẫy. Chúa Giêsu đã từng khuyên :”Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 26,41 ; Mc 14,38). Cẩn thận đề phòng là phương pháp tốt nhất để khỏi bị rơi vào cạm bẫy của ma quỉ đang giăng ra khắp nơi, như lời thánh Phêrô khuyên :”Anh em hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1Pr 5,8-9a).

Truyện : Thuê tài xế lái xe.

Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.

Người giầu nói :”Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.

Người tài xế thứ nhất tự nhủ :”Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.

Người thứ hai thầm bảo :”Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.

Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.

Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng :”Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá”.(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20)

Hôm nay Chúa nói với chúng ta : nếu tay hay chân, hay mắt nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn chúng ta lánh xa dịp tội. Đừng bao giờ liều thân nhảy  vào dịp tội. Ngoài ra, chúng ta còn phải nỗ lực hy sinh nhiều để giữ lòng trong sạch và trung thành với Chúa. Thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời rút ra  từ bài hát cổ xưa mà Giáo hội thường sử dụng trong kinh Nhật tụng giờ Kinh chiều của một số ngày Chúa nhật trong năm phụng vu :“Nghe danh hiệu Giêsu, mọi gối phải quì xuống.

Mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ngài là vua vinh quang… Hãy để Ngài ngự trị tâm hồn bạn. Hãy để Ngài chinh phục những gì chưa thánh thiện, những gì chưa đúng. Ước gì bạn biết lên tiếng gọi Ngài trong cơn cám dỗ. Hãy để Ngài che phủ bạn bằng ánh sáng và quyền năng của Ngài.

 Anh  chị em thân mến, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Ngài, để ngự trị trên trái đất. Ngài là Thiên Chúa cứu độ. Ngài là Đấng Kitô Chủ tể chúng ta”(M. Link).

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

QUYẾT LIỆT DỨT KHOÁT VỚI TỘI LỖI-  ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.

Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.

Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng.

Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.

Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.

Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TIN MỪNG DỮ DỘI – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, đọc giả có lúc cười lúc khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủi an hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm thấy bị chói tai, bị cay cú…Tin Mừng luôn nói lên những chân lý và dạy những bài học thích đáng.

Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Lm Nguyễn Hồng Giáo dùng cụm từ “Tin Mừng dữ dội”.

Đầu đề “Tin Mừng dữ dội” chắc sẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất nước. Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18, 8-9; x. Mt 5, 19-20). Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. (x.nguoitinhuu.com)

Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất “dữ dội” của Tin Mừng.

Phải tránh gương mù gương xấu “Nếu ai làm cớ cho người khác phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn”.

Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội “chặt tay, chặt chân, móc mắt” khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM Arthur Tonne gọi đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là những kiểu nói vùng Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát “chặt đi” bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là “từ bỏ chính mình” (x. Mc 8,34). Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches Dominicales). Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. “Chặt bỏ” một tật xấu một thói quen, “cắt đứt” một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu lộ nơi thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.

Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta phải quyết liệt với tội lỗi cho dù phải “chặt tay, chặt chân, móc mắt”. Chúa muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, đó là tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người. Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi “dữ dội” của Tin Mừng.

Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ bỏ để tăng trưởng, sinh nhiều hoa trái “Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt bỏ, còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn” (Ga 15,1-2).

Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì rất “nhẹ nhàng”, nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ:  “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24); “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: ‘Chớ giết người’; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 21-22); “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Chớ ngoại tình’. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28); “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Đức Giêsu đáp: ‘Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy'” (Mt 18, 21-22); “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Mắt đền mắt răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài…” (Mt 5, 38-40). Hoặc: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù’. Con Thầy. Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em…” (Mt 5, 43-44).

Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự hoàn thiện và tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36). Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải quyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng “bạo lực” với mình, nếu nói được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).

Trước những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, người ta sẵn sàng chấp nhận cắt bỏ một phần chi thể để cứu cả mạng sống. Khi nói “thà cụt một tay, thà mất một mắt” mà được vào cõi sống, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh tính quyết liệt, không khoan nhượng trong cuộc chiến chống lại tội lỗi, sự ác. Quả vậy, hoả ngục, điểm đến của tội lỗi, là tình trạng còn tồi tệ hơn cả cái chết. Vì thế, để được vào cõi sống muôn đời, Chúa dạy chúng ta không chỉ tránh tội, những điều tự bản chất là xấu, mà ngay cả những gì thiết thân nhất với mình, những gì tự chúng vốn không xấu, nhưng một khi chúng trở thành dịp tội, chúng ta cũng phải dứt khoát loại bỏ. Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai hại và nguy hiểm vô cùng. Các nhà tu đức đã đúc kết thành câu châm ngôn: “Càng tránh dịp tội càng ít phạm tội”.

Có câu chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.

Một hôm cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời tham dự Đại hội này.

Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!

Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!

Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết qủa là đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến cây cổ thụ.

Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi là bạn sẽ hối tiếc cả cuộc đời ! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa. Tội lỗi tàn phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những đổ vỡ trong Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!

Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù chỉ là một một sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó ! “Đừng để ma quỷ lợi dụng!” (Ep 4, 27).

Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận với lời “dữ dội” của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó, bạn sẽ làm chủ những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong mọi mối tương quan.Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật thường loan truyền theo chiều rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời những nét đẹp, cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.

Đức Thánh Cha Phanxicô khi suy niệm về việc Đavít phạm tội đã nói: “Điều nghiêm trọng nhất là… Đavít đã mất cảm thức tội lỗi” mà chỉ coi đó là “một sự cố phải giải quyết” (Bài giảng 31/01/2014). Con người ngày nay đang đánh mất cảm thức tội lỗi: người ta không gọi tội lỗi là tội lỗi, mà khoác cho chúng những mỹ từ, thậm chí coi đó là những việc chính đáng, được phép làm (như hợp pháp hoá mại dâm, phá thai…). Để tân phúc âm hoá đời sống xã hội, người Kitô hữu phải có cảm thức nhạy bén trước tội lỗi và loại trừ chúng ngay khi chúng mới xuất hiện dưới dạng một cơn cám dỗ hay một dịp tội.

Chúng ta hãy noi gương thánh Đaminh Saviô trung thành suốt đời với quyết tâm khi rước lễ lần đầu: “Thà chết chứ không phạm tội”.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

TIN THẦN CỞI MỞ– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Tin mừng kể: “Một người không theo chúng ta, nhưng lại nhân danh Thầy mà trừ quỷ”. Người đó bề ngoài không đi theo Chúa như các môn đệ, nhưng chắc chắn bên trong, tâm trí ông đã tin theo Chúa rồi. Ông có tin Chúa là Đấng quyền phép hơn ma quỷ, ông mới nhân danh Chúa, mới tin cậy danh Chúa mà đuổi quỷ. Ông vừa có đức tin, vừa có lòng bác ái thương cứu giúp kẻ bị quỷ hành hạ.

Thời trước, cứ đến tối 30 tết, các cụ đạo đức nhất gia đình, đến nhà thờ xin nước thánh về rảy khắp các gia đình con cháu. Các cụ xin nước thánh của Chúa có sức đuổi ma quỷ để sang năm mới, mọi gia đình con cháu được thoát khỏi mọi ám ảnh sự dữ của ma quỷ hãm hại. Năm mới được mọi sự nên mới, nên tốt đẹp, cả hồn an xác mạnh.

Phong tục Việt Nam xưa, trước khi bước sang năm mới, nhà nào cũng trồng cây nêu thật cao và thẳng vút, dưới sân vẽ những mũi tên bắn đi tứ phương để xua đuổi ma quỷ ngay từ những ngày đầu năm mới, mong được mọi sự an lành suốt năm, phải chăng đó là cách tham gia vào công cuộc xua trừ quỷ dữ của Đức Giêsu? Họ tin có quỷ hãm hại con người. Họ quyết tâm trừ khử chúng, coi chúng là nguyên nhân gây ra tội ác và tai họa. Chúng gieo rắc tội lỗi xấu xa cho con người.

Họ đã thực hiện công cuộc như Đức Giêsu đã thực hiện là giải thoát con người khỏi ách nô lệ của quỷ dữ, khỏi mọi ảnh hưởng của quỷ xấu xa để con người được sống an lành, tốt đẹp trong ánh sáng chí thiện, chí mỹ là Thiên Chúa.

Mục đích việc trừ quỷ của họ rất hợp với mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Người đến thế gian để cứu loài người thoát vòng nô lệ ma quỷ, để trở về làm con Thiên Chúa. Vì thế, trong bí tích Rửa tội, Linh mục hỏi kẻ sắp chịu phép Rửa tội: “Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ bỏ ma quỷ, là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không? Họ trừ khử ma quỷ là họ muốn sống trong tự do của con cái tốt lành, tức là con cái Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, những ai tốt lành đều là con cái Thiên Chúa. Như vậy, việc trừ quỷ của “người không theo chúng ta” xét về mục đích và thiện tâm thiện chí, thì tự căn bản nền tảng, họ đã theo Chúa thực sự rồi. Cho nên, họ đáng được Thiên Chúa chúc phúc bình an và cứu độ, như các thiên thần đã hát khi Chúa giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Họ chỉ khác chúng ta là họ chưa được nhận những nghi thức bên ngoài như chúng ta. Chúng ta trừ quỷ thì đọc lời Chúa, dùng nước thánh, tuyên xưng đức tin rõ ràng bằng lời nói và chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn họ, họ diễn tả theo cách thức dùng cây nêu, mũi tên là dấu chỉ như một quyền phép siêu phàm mạnh mẽ hơn quỷ để trừ quỷ, nhờ một Đấng tốt lành để bảo vệ họ mà xua đuổi những loại xấu xa, độc hại. Như vậy, họ chỉ khác chúng ta về phương diện dụng cụ diễn tả bên ngoài, chúng là những dấu chỉ phụ thuộc để diễn tả điều căn bản nền tảng bên trong.

Bí tích của đạo Chúa cũng là dấu chỉ bên ngoài chỉ những mầu nhiệm huyền bí thiêng liêng bên trong. Đức Giêsu đã dùng rất nhiều những dấu chỉ của trần thế để diễn tả những mầu nhiệm nước Trời như thế. Người đã dùng những hình ảnh sinh hoạt, văn hóa hay thiên nhiên, hữu hình để diễn tả mầu nhiệm nước Trời vô hình, như: men, muối, ánh sáng, hạt cải, cỏ lùng, người gieo giống, người quản lý, nén bạc, tiệc cưới hoàng tử, chàng rể, các cô phù dâu … nhất là Người đã dùng thân xác phàm trần của Người cũng như thập giá, và lưỡi đòng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người. Đó là cách hội nhập văn hóa, là tinh thần cởi mở đại kết của Đức Giêsu, biết trân trọng những giá trị trần thế, những giá trị khác biệt chúng ta. Nhưng những giá trị ấy cũng thực là những giá trị Thiên Chúa đã dựng nên. Chính vì thế, Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta làm gì. Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Họ trừ quỷ là họ đã thực sự nhân danh Đức Giêsu, họ đã tích cực ủng hộ công cuộc cứu thế của Người. Sao lại ngăn cản họ? Sao không đón rước họ vào hàng môn đệ của Đức Giêsu? Nhiều khi chúng ta ăn phải đũa của Pharisiêu quá lệ thuộc vào nghi thức bên ngoài, mà lòng thì xa Thiên Chúa, ngăn cản họ, coi chừng chúng ta ngăn cản Thánh Linh, vì “Thánh Linh muốn thổi đâu thì thổi”. Họ có thể đã được rửa trong Thánh Thần. Họ là những Giakêu, đã tìm cách nhìn thấy Đức Giêsu. Họ là những sĩ quan La mã đã đến xin Người cứu chữa đầy tớ, là những người Samari nhân hậu đã được Đức Giêsu khen ngợi và nêu gương cho chúng ta. Họ là gia đình viên thái giám, người Thêôphi, là những gia đình Cornêliô (Cvtd. 8, 26-40 và 10, 1-48). Họ cũng có thể là “Người đã cho anh em một ly rước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu?”. Còn chúng ta, hãy coi chừng, rất có thể chúng ta làm cho một trong những tín hữu bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn. Hãy coi chừng tay, chân, mắt, mũi, miệng lưỡi chúng ta đừng để ma quỷ xúi giục làm gương mù gương xấu cho kẻ khác, kẻo sẽ bị ném vào lửa hỏa ngục, là nơi dòi bọ rúc rỉa người ta và lửa không hề tắt.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được tâm hồn quảng đại cầu nguyện như Môisen: “Phải xin Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ. Xin cho chúng con biết bước vào nhà chư dân như thánh Phêrô đã bước vào gia đình Cornêliô để tất cả đều được lãnh nhận Thánh Thần. Amen.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

MỘT LY NƯỚC LÃ-  Lm. Gioan Nguyễn Tươi

Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.

Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.

Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “ Trị giá hóa đơn = một ly sữa”. (Trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).

Khi đọc câu chuyện này, chúng ta nhận ra được giá trị của việc làm phúc đức, bác ái dù nó là một ly sữa thôi, nhưng đã cứu cả mạng sống của một con người. Việc làm đó được ghi rõ trong Tin mừng của thánh Mác-cô: “ Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Một chỗ khác Chúa Giê-su bảo: “Khi Ta đói các người không cho ăn. Ta khát các người không cho uống…” Rõ ràng, điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời là thể hiện lòng bác ái, yêu thương tha nhân.

Thế nhưng, nhìn xung quanh ta, còn có biết bao người đang sống cảnh lầm than, đói khát, kiếm từng hạt cơm qua ngày. Người bán hàng rong, kẻ làm thuê, trẻ em đi bán vé xố… Sau một ngày vất vả, họ lại trở về trú ẩn trong mái nhà dột nát, khi gặp trời mưa, bão tố thì không có chỗ để che thân. Trong khi đó, có những kẻ thì dư thừa phung phí, họ vẫn dửng dưng trước những con người đang từng ngày từng giờ đi tìm miếng ăn dư thừa của kẻ giàu sang.

“Nếu anh em làm cớ cho kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển. Nếu tay anh em làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn có hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.

Khi nghe những lời răn đè này, chúng ta có suy nghĩ gì về số phận của con người?. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì chắc hẳn con người trên thế gian này toàn là những người khuyết tật, bị cụt tay, què chân, mù mắt. Khi con người ta đang chạy theo sự văn minh của nhân loại, nhu cầu đời sống hưởng thụ càng ngày càng cao, thì con người ta lại đang mất dần niềm tin, họ không cần đến Chúa. Ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng quên nhiệm vụ truyền đức tin cho con cái mình. Họ không còn thời gian để đến nhà thờ, đọc kinh dự lễ. Phải chăng đó là cái cớ cho kẻ khác vấp phạm! Có thể chúng ta không mù về thể lý, nhưng một cách nào đó chúng ta cũng đang bị mù tâm linh mới là điều đáng sợ nhất. Khi làm điều gian ác, nhưng người ta vẫn không cảm thấy là tội. Khi thấy người ta gặp tai nạn, nhưng ta vẫn đứng cười một cách vô tư. Một thái độ, một trái tim vô cảm thật là đáng sợ.

Nếu nói cái tay, cái chân, cái miệng và con mắt làm nên dịp tội, thì tội đó được xuất phát từ bên trong con người chúng ta. Theo lời của thánh Gia-cô-bê nói rất rõ: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi khoái lạc của anh em đang gây ra trong con người anh em đó sao?. Thật vây, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết và ganh ghét; anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý”. Cho nên, chúng ta chỉ có thể chữa lành vết thương tâm hồn khi chúng ta ý thức được mình là kẻ có tội, cần được Chúa thứ tha với thật lòng ăn năn và sám hối thì mới có thể làm những việc lành và là tấm gương sáng cho người khác. Người ta không thể cho những cái mình không có. Chúng ta có thể rút lấy kinh nghiệm của thánh Augustino, ngài nói: “ Lòng con khuâng buâng khắc khoải đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa”. Chính kinh nghiệm quá khứ tội lỗi của Augustino đã dạy cho ngài bài học quý giá của sự sám hối và trở về với Chúa. Vì Chúa cần chúng ta biết quay trở về cùng Chúa sau những lần lầm lỡ, nhờ đó, chúng ta biết cảm thông và chia sẻ nỗi khổ đau và bất hạnh của anh chị em đang cần lòng quảng đại của chúng ta.

Một ly sữa đã đổi lấy mạng sống một con người, thì ly nước lã dù cho người anh em uống thì cũng chẳng mất đâu. Đó là hứa của Chúa Giêsu cho những ai đặt niềm tin vào sự sống mai sau.

Lạy Chúa, đã biết bao lần tay con không biết nắm lấy một cụ già cần con dắt qua đường; đã biết bao lần chân con đi lạc bước vào những nơi tội lỗi xấu xa, và làm điều gian ác hại đến tha nhân; đã bao lần đôi mắt con thấy người ăn xin ven đường, nhưng chẳng biết xót thương. Thế là Chúa vẫn nói với con rằng: “ Chỉ một ly nước lã thôi!”.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

KHỔ CHẾ VỚI BẢN THÂN- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thành công nào cũng đòi phải trả giá bằng hy sinh, bằng khổ luyện. Vì qua gian khổ mới tới vinh quang. Đôi khi muốn đạt được mục đích người ta phải từ bỏ rất nhiều, kể cả niềm vui và đam mê.

Trong kỳ Sea Games 2015 người ta ca ngợi một siêu kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên. Cô đã đạt được 8 HCV cá nhân. Với kỳ tích này cô đã trở thành thần tượng của nhiều người. Vinh quang này cô đã phải đánh đổi và hy sinh hầu hết những niềm vui bình dị đời thường của thời tuổi trẻ.

Không sử dụng internet, không điện thoại, không face book, thậm chí xe máy cũng chưa biết đi và hơn cả là những chuyến xa nhà dài dằng dặc khiến cô nhiều lần nhớ nhà rơi nước mắt. Một ngày Ánh Viên phải bơi từ 20-25 cây số với nhiều tốc độ và “biến thiên” khác nhau. Khối lượng bài tập được phân chia trong hai buổi/ngày, thời gian còn lại, Ánh Viên tiếp tục rèn thể lực với việc tập tạ.

Quả đúng như người ta nói: muốn có vinh quang cần phải hy sinh nhiều thứ. Một em bé muốn thành bác sĩ, kỹ sư phải hy sinh thời giờ vui chơi để học tập. Một bác sĩ muốn giỏi phải hy sinh thời gian để trau dồi kiến thức. Một nghệ sỹ muốn thành danh phải dày công khổ luyện. Một linh mục muốn nên giống Chúa thì phải từ bỏ rất nhiều mới mong trở thành mục tử như lòng Chúa mong ước.

Và hôm nay Chúa Giê-su bảo muốn vào Nước Trời thì cũng phải nghiêm khắc với chính mình qua việc rèn luyện bản thân. Rèn luyện để sống khổ chế hy sinh. Rèn luyện để sống gương mẫu trước tha nhân. Rèn luyện đến mực tuyệt đối nghiêm khắc với bản thân. Có khi còn phải hy sinh cả một phần thân thể như : “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi ; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi ; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi ; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.

Xem ra con đường vào nước trời đòi hy sinh rất nhiều. Hy sinh cái tôi của mình để không ganh ghét, tị hiềm tha nhân. Hy sinh của cải của mình để sống quảng đại với tha nhân. Hy sinh cả những phần thân thể mình để được vào Nước Trời.

Nhưng xem ra có mấy ai lại hy sinh cái tôi của mình, có mấy ai lại không lo cho mình mà chỉ lo cho tha nhân, và nhất là có mấy ai chịu mất đi một phần thân thể của mình, dẫu biết rằng vì chiều chuộng thân xác mà hư mất đời đời. Con người luôn đề cao cái tôi, luôn lo lắng cho bản thân, luôn chiều chuộng bản thân. Đó là lý do mà cuộc đời vẫn còn đó những ganh ghét, tị hiềm; vẫn ích kỷ thiếu lòng quảng đại với tha nhân; vẫn chiều theo bản năng, chọn dễ dãi cho tính xác thịt…

Ước gì đời người tín hữu luôn biết khổ chế bản thân. Khổ chế tính bè phái để sống bao dung. Khổ chế tính xác thịt để sống gương mẫu. Ước gì mỗi người chúng ta biết rèn luyện bản thân mình nên giống Chúa Kitô để hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-  Năm B

SỐNG THEO THẦN KHÍ- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ

Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt, làm sao để hình thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống bình an hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại?

Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có

Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả, Ngài là Cha của tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang sở hữu hoặc đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad và Medad nói tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng làm cho những người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với Môsê được nói tiên tri.

Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe phái: nếu không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói tiên tri. Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được Thiên Chúa thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa. Cũng tương tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép lạ, vì “người đó không là một trong chúng ta”. Ai có thể làm phép lạ nếu không phải chính Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả lời Yoan: “đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng không phải là kẻ chống lại Thầy”. Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo chúng ta.

Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên Chúa ra khỏi hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực ra Thiên Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để tất cả được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do Thiên Chúa mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của mình, là muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.

Những người bám víu vào của cải đời này

Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều người đời thường tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất, thỏa mãn xác thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất cả. Tiền bạc giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người đời kính trọng.

Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà chẳng được: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Với đồng tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con người, kể cả những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc là quan trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và phương tiện có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.

Làm sao để con người có một bậc thang giá trị đúng đắn, nghĩa là đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên đời này, điều gì là quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể đạt được hạnh phúc trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và theo đuổi những điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ, và chính người đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một giá trị tuyệt đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt đối, thì người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới hạnh phúc đích thực.

Dứt khoát với dịp tội

“Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!

Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các tông đồ: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Thân xác có những nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do tại sao Phêrô đã “không thể thức với thầy được một giờ”. Những lề luật, thường là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình ở vào dịp tội.

Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường xảy ra khi người ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những dịp tội, và cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong những trường hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do, họ sống dưới những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những trường hợp này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn rượu hay một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ sẽ lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu đối với con người của mọi thời đại.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá trị đúng đắn? Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con người và vạn vật?

Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người khác khổ nhất? Tại sao?

Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm cho chính mình cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh phúc đích thực?

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC- Lm  Giuse Nguyễn Cao Luật,OP

Ðừng nghĩ rằng mình có quyền ưu tiên

Khi thánh Mác-cô viết cho các độc giả của mình, Nhóm Mười Hai đã phân tán, một vài người đã qua đời. Tuy vậy, cộng đoàn được thành lập xưa kia quanh Ðức Giê-su vẫn là kiểu mẫu cho mọi cộng đoàn. Qua trình thuật, thánh Mác-cô nhắc lại cho các tín hữu thời ấy về cách sống họ phải có với nhau cũng như về mối tương quan của họ với thế giới bên ngoài: không được tự cho mình quyền ưu tiên trên người khác, việc phục vụ, sự bình an.

Kẻ trừ quỷ

Câu chuyện khởi đầu với đề nghị của ông Gio-an về việc có người không ở trong hàng ngũ môn đệ mà lại lấy danh Ðức Giê-su để trừ quỷ. Các môn đệ muốn xin Thầy cấm không cho người ấy làm như vậy.

Ðề nghị này diễn tả tham vọng của một số người trong dân Chúa muốn có những đặc quyền và độc quyền, kể cả quyền trừ quỷ. Ðức Giê-su cho thấy thái độ ngược lại: Người luôn hướng ra ngoài những biên giới hữu hình, những cơ chế, với mục đích làm cho việc phục vụ được mở rộng và đạt được hiệu quả tối đa. Xét cho cùng, sự hiện diện của Ðức Giê-su cũng như của Hội Thánh chính là dẹp tan sức mạnh của Xa-tan để Nước Thiên Chúa được lan rộng. Chỉ có những ai kết hiệp với Ðức Kitô, Ðấng duy nhất đã chiến thắng ma quỷ, mới có thể làm được công việc này.

Do đó, thay vì cấm đoán, Ðức Giê-su đã dạy các môn đệ hãy biết trân trọng và cộng tác với những người, cách này cách khác, đang làm cho Nước Thiên Chúa được lan rộng thêm. Những người này có thể không thuộc vào số những môn đệ của Ðức Kitô, nhưng vẫn có thể là những cộng tác viên của Người: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Ngoài ra, theo tác giả Tin Mừng thứ hai, Thần Khí được ban tặng cho hết mọi người và không cơ cấu nào có thể ràng buộc Thần Khí của Ðấng Phục Sinh: Người là Ðấng vượt lên trên mọi cộng đoàn nhân loại, mọi hoạt động xã hội, mọi gia đình tôn giáo. Thần Khí luôn chống lại mọi hình thức địa phương hóa Hội Thánh, mọi ý định muốn trói buộc sự năng động mà Người là nguồn mạch.

Chính vì vậy, người môn đệ Ðức Kitô không thể viện cớ bảo đảm sự chính thống để rồi đồng hóa sự thuộc về Ðức Kitô với một quan niệm loại trừ, gạt bỏ hết những ai không cùng niềm tin với mình. Nước Thiên Chúa không chỉ ở đây hay ở đó, nhưng ở bất cứ nơi đâu có những con người thiện chí.

“Ai cho anh em uống một chén nước…”

Người Kitô hữu là đại diện của Ðức Kitô. Ðây là một trách nhiệm cao cả. Tuy nhiên, ở đây, trong câu nói của Ðức Giê-su, người môn đệ là cả một cộng đoàm trở nên bé nhỏ, và do đó là người phục vụ chứ không phải là người lãnh đạo. Tuy thế, trong cộng đoàn cũng như nơi từng người, Ðức Giê-su vẫn luôn hiện diện. Người môn đệ nhỏ bé nhất vẫn là tượng trưng cho Ðức Kitô. Phẩm giá cao quý này đòi buộc họ phải sống đúng theo Ðức Giê-su mong muốn, đồng thời cũng buộc người khác phải nhìn người môn đệ ấy là chính Ðức Kitô.

“… Làm cho một trong những kẻ bé mọn sa ngã…”

Ðó là làm cớ cho người khác lung lạc trong việc gắn bó với Ðức Kitô. Hành động này đi ngược với việc phục vụ, đón tiếp, và xây dựng bình an. Ðây là tội nặng và đáng chịu hình phạt nặng nề: chịu cột cối đá vào cổ và quăng xuống biển.

Trong Tin Mừng, các kẻ bé mọn có thể hiểu là những người hèn kém, ít học, bị coi thường. Còn trong đời sống Kitô hữu, kẻ bé mọn là những người có lòng tin yếu kém, ít am hiểu. Thái độ nghiêm khắc của Ðức Giê-su nói lên lòng kính trọng và mối ưu tư Người dành cho loại người này. Qua đấy, Ðức Giê-su cũng muốn tố cáo thái độ độc quyền của những thủ lãnh tôn giáo: giải thích Kinh Thánh, đóng cửa không cho những kẻ muốn vào. Theo Ðức Giê-su, hành động này là sự huỷ hoại chính mình khi huỷ hoại người khác, bởi vì làm như thế là tự cho mình quyền nắm giữ Thần Khí và có quyền tự do làm bất cứ điều gì theo ý mình.

Tiếp đến, Ðức Giê-su nói đến sự trầm trọng của gương xấu theo mối nguy mà nó gây ra cho mỗi người. Các chi thể của con người như tay, chân, mắt, mũi, v.v… là những bộ phận cho phép con người hoạt động và tạo nên những mối tương quan. Con người phải điều khiển những hoạt động và tương quan của mình để tạo nên sự sống, chứ không phải gây ra tội lỗi hay sự chết. Ðây là một lựa chọn có giá trị tuyệt đối: người ta không thể coi bất cứ điều gì có tầm quan trọng hơn sự sống – sự sống vĩnh cửu. Ðiều gì đi ngược với sự sống này, phải bị loại bỏ dứt khoát.

Dĩ nhiên, câu nói của Ðức Giê-su không thể hiểu theo nghĩa chặt. Ðàng khác, cũng thật là vô ích khi cố tìm xem những tội nào mà tay, chân hay mắt có thể là cơ hội. Mà giả như có cắt bỏ những phần thân thể này cũng không loại trừ được nguy hiểm.

Qua khẳng định này, Ðức Giê-su muốn nhấn mạnh đến việc chọn lựa, và người ta phải đặt sự sống vĩnh cửu lên trên mọi giá trị khác, kể cả những gì thân thiết nhất. Như vậy, trong suốt bản văn này, vấn đề được nêu lên cho người môn đệ Ðức Kitô là: cuộc sống và hành động của họ có làm cho họ, và cho người khác, được sống hay phải chết?

Thuộc về Ðức Kitô

Bài Tin Mừng hôm nay đề ra cho chúng ta hai sứ điệp:

Sứ điệp thứ nhất

Người xua đuổi quỷ là người tốt; họ là đối thủ hữu hiệu chống lại cái ác, và do vậy, họ được liên kết cách thực sự với Ðức Kitô. Có thể gặp thấy những người này ở khắp nơi, kể cả ở ngoài số những môn đệ chính thức của Ðức Kitô.

Nét đặc trưng của người môn đệ Ðức Kitô là không được ngăn cản những người này hoạt động, viện cớ rằng họ không nhận quyền từ Ðức Kitô.

Sứ điệp thứ hai

Ðức Giê-su yêu cầu chúng ta phải là những người trung tín đến mức phải loại trừ tất cả những gì gây trở ngại cho việc gắn bó với Người. Những ai nghĩ rằng bình an và sự công chính của Thiên Chúa là điều có thể thực hiện, cho dù phải trả giá là một cái chân hay một con mắt, những người ấy trở thành anh hùng trong lịch sử nhân loại. Ðây không phải là trường hợp những người quá bận tâm để cứu lấy những đồ đạc của mình, và được đánh đổi bằng một vài thoả hiệp.

Chúng ta hiểu rằng hai sứ điệp này không dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong lý thuyết, nó cũng cho chúng ta cảm thấy vui thích. Sứ điệp thứ nhất phù hợp với tinh thần thoáng đạt, bao dung mà con người ngày nay đang hướng đến. Sứ điệp thứ hai phù hợp với tính trung thực đang được khuyến khích khắp nơi.

Nhưng phải chăng Ðức Giê-su chỉ nói với chúng ta như thế?

Ðể ý một chút, ta nhận ra một điểm chung: thuộc về Ðức Kitô. Kẻ trừ quỷ phải “nhân danh Ðức Giê-su”, kẻ bé nhỏ nhận ly nước “vì thuộc về Ðức Kitô” và kẻ có những chọn lựa là để “vào trong Nước Thiên Chúa”.

Như thế, trong mọi hoạt động, dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, ta cũng phải nhận ra dấu vết của Thiên Chúa và của Ðức Giê-su, Con Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho ngọn lửa Thánh Thần thanh luyện các phán đoán và cách ứng xử của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra cách tích cực nơi chính mình và nơi người khác – dù người ấy còn xa lạ với Kitô giáo – dấu chỉ của Thần Khí Ðức Giê-su. Thần Khí luôn mời gọi chúng ta sống thánh hơn, và do đó, tinh thần thoáng đạt hơn. Thánh Kinh luôn mời gọi chúng ta chân thành hơn, và như vậy, tự do hơn…

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

GƯƠNG XẤU VÀ DỊP TỘI- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quý giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.

Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèm kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài thì không bao giờ bỏ qua đâu.

Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: “Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?”. Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay. Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.

Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quý giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.

Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân hay móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội…thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.

Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp…đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

NHÂN ÁI TRONG THỰC HÀNH – Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

Thánh Phaolô đã từng phát biểu, ‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu…, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả… nhưng vui khi thấy điều chân thật’ (1 Cr 13:4-7), phải chăng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn đề cập cách thực tế tới các đặc tính của đức mến này, cũng như coi chúng không chỉ như thuộc tính của con người, mà còn áp dụng cho cả Thiên Chúa nhân ái nữa?

‘­Đức mến tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả!’ Sự khác biệt giữa môn đệ Gio-an và thầy Giêsu không chỉ hệ tại nơi hành động ngăn cản hay đừng ngăn cản một việc thiện không rõ mục đích, ‘có người lấy danh Thầy mà trừ quỉ’. Sự khác biệt lớn giữa hai người là ở chỗ, Thầy Giêsu có lòng nhân còn Gio-an thì không. Môn đệ của một Đấng Kitô nhân ái và hay xót thương không thể là người hành động thế này hay thế khác, nhưng phải là người có lòng nhân. Bao lâu còn khắt khe, xét nét… thậm chí lên án người anh em trong cách cư xử của họ, thì chưa đáng coi mình là môn đệ chân chính của Đức Kitô. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”; trước một việc thiện, dù nhỏ nhất hay xuất phát từ một con người bất xứng nhất, Tin Mừng không những đòi ta có thái độ khoan nhượng, mà còn đòi phải đón lấy như một sự ủng hộ tích cực. Trong tinh thần đó, Don Bosco, vị thánh hết lòng yêu thương giới trẻ, đã lên tiếng: “Hãy yêu mến những gì trẻ yêu thích”, hay “Các con cứ việc la hét chơi đùa thỏa thích… miễn là đừng phạm tội”. Cũng trong tin tưởng và hy vọng của Tin Mừng mà ta nhận ra giá trị to lớn của các việc phục vụ thường ngày, dầu nhỏ bé nhất… như ‘cho người anh em uống một chén nước lã’. Đương nhiên ‘vì lẽ anh em thuộc về đấng Kitô’ được hiểu là nhân danh lòng nhân ái xót thương vô biên của Thiên Chúa ‘được tỏ hiện nơi Đức Kitô Giêsu’.

‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’; chính trong đức mến đối thần này mà ta nhận ra sự trầm trọng của cái gọi là ‘làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, trầm trọng tới độ, trong cách nói ngoa ngữ của người Do Thái, ‘thà buộc cối đá lớn vào cổ mà ném xuống biển còn hơn’. Cũng vậy để tránh dịp tội, nếu cần, ta cũng phải sẵn sàng hy sinh mất mát tất cả, ‘thà chặt tay, chặt chân, móc mắt…’ Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, khi bàn về vấn đề ăn thịt cúng (chương 8), Phao-lô cho chúng ta thấy, vì đức mến, ông đã tự buộc mình vào sự từ bỏ quyết liệt như thế nào; “Nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1 Cr 8:13). Và lý lẽ ông đưa ra cũng rất thuyết phục: “Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc! Như vậy, phạm đến anh em và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến đức Kitô!” (câu 11-12).

Như vậy theo Phao-lô, Đấng đã tôn trọng sự yếu đuối của con người tội lỗi trước hết lại là chính Thiên Chúa xót thương. Cái chết tự hiến của Giêsu – Con Một Ngài cho thấy Thiên Chúa đã nhẫn nhục và hiền hậu trước sự yếu hèn của từng người chúng ta như thế nào. Và còn hơn cả ‘chặt tay, chặt chân, móc mắt…’, còn hơn cả ‘không bao giờ ăn thịt nữa’, Thiên Chúa đã trao nộp chính người Con Một chí ái để chết trên thập giá vì chúng ta (xem Ga 3:16). Mạch văn của Phao-lô cũng cho chúng ta hiểu rằng, ‘làm cớ sa ngã’ không chỉ mang nội dung làm gương mù gương xấu trong lãnh vực luân lý, mà còn hàm cả Tin Mừng và thần học nữa. “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, câu xác quyết này của Đức Giêsu rõ ràng chất chứa nội dung đức mến nhân ái của Tin Mừng khi chính Người tự giời thiệu mình như sau, ‘không bẻ gẫy cây lau bị dập, khộng giập tắt tim đèn còn khói’ (Mt 12:20). Nếu Thiên Chúa nhân ái đã thà hy sinh Con Một mình để cứu lấy nhân loại tội lỗi, trước cả khi họ hoán cải để trở nên hoàn thiện, thì tôi là ai mà dám nhân danh sự thánh thiện, công chính, đạo đức hay hiểu biết của mình để loại bỏ người anh em? Làm như thế là tôi đang gây cớ vấp phạm, ‘làm tổn thương lương tâm yếu đuối của người anh em’. Chỉ cần nhìn vào thái độ Đức Giêsu cư xử với người phụ nữ Sa-ma-ri thấp kém bên bờ giếng Gia-cóp, khi kêu mời bà hãy kín múc Nước Hằng Sống bất chấp tình trạng sống chung chạ của chị (Gio-an chương 4), là tôi hiểu ra ngay ‘đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’ phải như thế nào. Trong môi trường Tin Mừng chân chính, ‘kẻ bé mọn đang tin’ phải được trân trọng và bảo vệ hơn hết. Do đó tôi không được phép nhân danh bất cứ giá trị nào, dầu lớn lao tới mấy, để kết án hay loại trừ họ.

Nếu tôi muốn trở nên mục tử nhân lành như Đức Kitô mong ước, bài học nhân ái này dứt khoát phải được tôi thuộc lòng, và tôi cũng mơ ước được cùng các anh em tiến bước và phục vụ trong một Hội Thánh nhân ái.

Lạy Chúa Giêsu nhân ái! Có lẽ còn lâu con mới hiểu thấu lòng nhân ái của Chúa, cũng như phải sống đức mến thần linh này với hết mọi người ra sao. Trong công tác mục vụ, xin cho con nằm lòng câu xác quyết của Phao-lô: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến… thì chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13:1-3); chỉ như thế con mới thực sự dõi theo bước chân của vị Mục Tử Nhân Hậu. Amen.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

DIỆT TRỪ GƯƠNG XẤU- Lm Inhaxiô Trần Ngà

Gương xấu rất tai hại vì dễ lây lan

Gương xấu lây lan nhanh như bệnh dịch, bùng phát mạnh như cháy rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.”

Gương xấu ảnh hưởng rộng rãi lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn.

Chúa Giê-su xem thái độ giả dối của những người biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hê-rô-đê là những thứ men độc hại có thể khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên Ngài cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: “Anh em phải coi chừng men biệt phái và men Hê-rô-đê” (Mc 8, 15).

Chúa Giê-su kịch liệt bài trừ gương xấu

Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giê-su kịch liệt bài trừ. Ngài muốn nhổ bỏ thói xấu tận gốc rễ, muốn diệt trừ duyên cớ gây nên gương xấu bằng mọi giá.

Trước hết, Ngài răn đe những người gây ra gương xấu bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9, 42).

Và Ngài muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội lỗi cách quyết liệt : “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9, 43-48).

Khi phán dạy như thế, Chúa Giê-su không có ý nói là chúng ta phải huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Ngài có ý nói phải diệt trừ thói xấu cách triệt để, bằng bất cứ giá nào. 

Nhổ bỏ thói xấu rất khó

Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và thói xấu là điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại quay về.

Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó ghẻ trung thành. Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám, người nhà quyết xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp tục đánh đập và xua đuổi nó đi xa … nó cũng lại trở về!

Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ có nhiều rễ củ ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay nhổ sạch cỏ rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.

Phương pháp kiến hiệu để diệt trừ thói xấu: lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu

Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước thói hư tật xấu?

Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có thuốc trừ.

Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không được, người nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa ruộng lúa nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời gian cho cỏ thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ lúa xuống. Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ hết mặt ruộng, rồi vãi phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che phủ mặt ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.  

Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa mới lên liền được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế là cỏ dại dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.

Thế là dù không cần tốn công làm cỏ mà vẫn thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào. 

Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để loại trừ gương xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu: quyết tâm tạo cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập thói quen tốt để đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách báo đồi truỵ; lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho bạn bè xấu tính…

Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được cải thiện; tâm hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng trở nên người có phẩm chất cao.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con thấy rõ những thói hư tật xấu đang đâm mầm mọc rễ trong tâm hồn chúng con để cố sức diệt trừ trước khi quá muộn. Xin cho chúng con chăm lo trau dồi, vun xới cho các đức tính tốt lớn mạnh, để có thể lấn át dần dần những thứ thói xấu đang mọc tràn lan như cỏ dại trong tâm hồn chúng con.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

ĐỨC KITÔ, CON ĐƯỜNG CỨU RỖI DUY NHẤT- Lm. Nguyễn Hữu Thy

Các môn đệ của Ðức Giêsu quan sát thấy có người không thuộc về nhóm của họ, nhưng đã nhân danh Thầy mình để trừ đuổi ma quỉ. Chắc chắn người này không hề được Ðức Giêsu trao phó cho sứ vụ đó, vì thế các môn đệ đã tìm cách ngăn cản anh ta không được tiếp tục làm như thế nữa! Và đương nhiên họ tin chắc rằng Sư Phụ mình sẽ đồng ý với họ ngay.

Thế nhưng, Ðức Giêsu lại có thái độ hoàn toàn khác hẳn: «Các con đừng ngăn cản anh ta làm gì! Vì không có ai vừa nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi lại quay ra nói xấu Thầy một cách dễ dàng được. Vậy, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta! » (Mc 9,39-40).

Ðúng vậy, những « kẻ đứng ngoài » thường làm cho những « người đứng trong » bực mình khó chịu! Ðó là điều vẫn xảy ra trong bất cứ thời đại nào và ở bất cứ nơi nào: trong những đoàn thể và những nhóm nhỏ, trong những bè phái lẻ tẻ hay trong những giáo phái và những Giáo Hội rộng lớn hơn. Những người « đạo đức » luôn trung thành và gắn bó với Mẹ Giáo Hội thường hay dễ nghĩ tưởng và phê phán một cách tương tự về những kẻ đã xa lìa Giáo Hội bất cứ vì lý do gì: Một cách đơn giản là những con người đó không còn thuộc về chúng tôi nữa, và như thế họ cũng không còn thuộc về Ðức Kitô nữa; họ không còn được nhân danh Người để nói năng hay làm bất cứ điều gì có liên quan đến tôn giáo chúng tôi. Vâng, người ta còn cho là những con người như thế đã liều mình đánh mất phần rỗi! Bởi vì, nguyên tắc của Thần học là « ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi »! Dĩ nhiên, ngày nay người ta hiểu nguyên tắc đó khác với trước kia!

Một điều chắc chắn là Ðức Kitô muốn có một Giáo Hội duy nhất mà thôi và tất cả những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một điều xấu, đã xảy ra ngoài ý mưốn của Người. Nhưng trách nhiệm về những rạn nứt và chia rẽ đó thường là do cả hai phía, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể phân xử được! Còn những kẻ thừa kế những rạn nứt và chia rẽ đó, tức những thế hệ con cháu sau này ở cả hai phía, tuy phải gánh chịu những hậu quả, nhưng không chịu trách nhiệm về những nguyên nhân đem đến những chia rẽ đó. Do có một đức tin chắc chắn và ý chí ngay lành họ cũng có thể sống, nói năng và hành động nhân danh Ðức Giêsu. Ðó cũng là điều mà chính Công Ðồng Chung Vatican II đã khẳng định. Chỉ những ai phạm tội mà xa lìa Giáo Hội, thì liều mình đánh mất phần rỗi. Ðối với những kẻ như thế, được áp dụng nguyên tắc thần học « Ngoài Giáo Hội không có sự cứu rỗi ». Công Ðồng dạy: « Vì thế, những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Ðức Giêsu Kitô, như một phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không được cứu rỗi » (Hiến chế Lumen Gentium, số 14).

Một câu hỏi khác đầy gai góc và có tính cách thúc bách, đó là: Những kẻ vô tín ngưỡng, tức những người chẳng những ở ngoài Giáo Hội, nhưng còn không tin kính Ðức Giêsu Kitô, có được cứu rỗi không? Con số những người như thế trên khắp thế giới lại là đại đa số!

Ðức tin Kitô giáo tin nhận Ðức Kitô là « Nguồn » (Dt 2,10; 5,9) và là « Ðấng Trung Gian » Tm 2,5) của sự cứu độ vĩnh cửu. Vì thế, thánh Phêrô « đầy ơn Chúa Thánh Thần » đã công bố những lời sau đây: « Ngoài Ðức Giêsu Kitô ra, không một ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ » (Cv 4,12). Như vậy, đương nhiên những ai không tin nhận được Kitô sẽ không được cứu rỗi?

Về vấn nạn này, Công Ðồng Vatican II cũng đã đưa ra những phán quyết một cách khác hẳn. Bởi vì, Thiên Chúa luôn muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi, như đã được ghi rõ trong Kinh Thánh: « Người mong muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi và đạt tới sự hiểu biết chân lý » (1Tm 2,4) và « Người là Ðấng Cứu Ðộ của tất cả mọi người, nhất là của các tín hữu » (1Tm 4,10), nghĩa là không chỉ các người tín hữu mà thôi! Vâng, không phải tất cả mọi người đều có được điều kiện thuận lợi để có thể tìm hiểu đức tin và tin nhận Ðức Kitô. Nhưng chính Ðức Kitô đã chết cho mọi người, không phân biệt hay loại trừ ai. Người đã đền thay cho tội lỗi của tất cả mọi người và chuộc lại đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người! Trong điểm này Công Ðồng đã dạy tiếp: « Thực vậy, vì Ðức Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là một ơn Thiên Chúa ban, do đó chúng ta phải tin tưởng cách chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh theo cách thức đã được Thiên Chúa ấn định » (Gaudium et Spes, số 22; x. Lumen Gentium, số 16; Ad Gentes, số 7).

Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Ðức Giêsu Kitô, hành động một cách âm thầm trong tâm hồn của tất cả mọi người. Người soi sáng cho họ và qui hướng lòng trí họ về với Thiên Chúa. Nếu con người biết vâng nghe theo tiếng lương tâm của mình, họ sẽ được cứu rỗi nhờ vào sức mạnh của ân sủng Ðức Kitô ban. Nói cách khác, không có Ðức Giêsu thì không một ai có thể được cứu rỗi. Ðồng thời điều đó cũng minh nhiên khẳng định rằng ý kiến của rất nhiều người ngày nay cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều giống nhau, đều dạy người ta ăn ngay ở lành và mỗi người nếu sống theo niềm xác tín của tôn giáo mình một cách trung thực đều có thể nên thánh, là hoàn toàn sai lầm. Ngoài niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô, không được Phúc Âm soi sáng hướng dẫn và không thông công với Giáo Hội, con đường dẫn tới sự cứu rỗi sẽ trở nên vô vàn khó khăn và đầy hiểm nguy. Ðiều đó đã được chứng minh trong suốt giòng lịch sử của nhân loại. Ðúng vậy, « con người bị ma quỉ gạt gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ tráo đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối và phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21-25), hoặc: « vì họ sống chết ở đời này như thể không có Thiên Chúa, nên bị rơi vào cảnh hoài nghi thất vọng tột độ » (Lumen Gentium, số 16).

Bởi vậy, đức tin Kitô giáo không phải một loại hàng xa xỉ, không cần có nó người ta vẫn có thể sống chết một cách tốt lành được, nhưng là một ơn lành tối quan trọng mà Thiên Chúa đã ban cho con người, để dẫn đưa họ đạt tới sự cứu rỗi.

Vì thế, Giáo Hội không trình bày đức tin Kitô giáo một cách dửng dưng hời hợt như bất cứ một ý thức hệ nào mà con người có thể tuỳ ý lựa chọn, nhưng Giáo Hội loan báo đức tin một cách hết sức hăng hái và khẩn cấp như Ðức Giêsu đã làm. Một khi con người được nghe biết sứ điệp Tin Mừng, cần phải quyết định. Con người phải sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, để giữ trọn sứ điệp đó, hầu có thể đạt tới được sự cứu rỗi đời đời; Vì thà mất mát một phần cơ thể còn hơn là mất luôn cả cuộc sống (x. Mt 18,8). Nói cách khác, sự cứu rỗi hay hạnh phúc vĩnh cửu luôn có cái giá của nó và chỉ những ai chấp nhận trả cái giá đó, thì mới có thể chiếm hữu được nó!

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

HÃY TRÁNH XA DỊP TỘI- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?

Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hội chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man r?. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.

Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách Giáo lý cho biết: “…Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người.

Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý” (GLCG 2297).

Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?

Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.

Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt… Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.

Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.

Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.

Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa… là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

ĐỪNG BAO GIỜ LÀ CỚ VẤP PHẠM-  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), là bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37). Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn các ông về cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42); đồng thời Chúa nhấn mạnh đến sự cần phải khước từ những gì gây lên tội lỗi khiến chúng ta mất chỗ trên Nước Trời (x. Mc 9, 43-48).

Chớ ghen ghét

Ghen ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu. Lần giở lại những trang đầu Kinh Thánh, chúng ta khám phá ra thói ghen ghét. Vì không bằng lòng với những gì mình có, muốn bằng và thậm trí hơn Thiên Chúa nữa, nên Adong và Evà ghen tuông với Thiên Chúa hái trái cấm để ăn. Thế nhưng, ăn xong rồi thì mọi sự được sáng tỏ. Con người mãi mãi là thụ tạo trong lòng bàn tay của Thiên Chúa là Đấng  Tạo Hóa.

Ghen ghét nảy sinh khi so sánh mình với người khác. Sở dĩ có ghen ghét vì người ta người khác hơn mình, mình bị nép vế, bị mất ảnh hưởng, Giôsuê là một bằng chứng. Khi ông Môsê được thần khí của Thiên Chúa ngự xuống nói chuyện, thì ông dùng một phần thần khí ngự trên ông mà đặt trên 72 kì mục trong lều trại. Còn hai kì mục nữa là ông Enđát và ông Mêđát không có mặt ở trong lều trại mà cũng nhận được thần khí nói tiên tri (x. Ds 11,27). Ðiều đó làm ông Giôsuê thắc mắc. Ông Môsê khuyên ông Giôsuê đừng quan tâm, vì càng nhiều người nói tiên tri, thì Thiên Chúa càng được vinh danh.

Thánh Giacôbê có kinh nghiệm xương máu về tôi ghen ghét, ngài viết : Vậy “ở đâu có ghanh tị và cãi vã, ơ đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoa… Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ” (x. Gc 3, 16-4,3).

Thánh Gioan tông đồ cũng không nằm ngoài cái thường tình ấy. Ông quan ngại về việc Ðức Giêsu ban quyền năng cho người nghe. Ông ghen tị vì có người không cùng nhóm các tông đồ đã dùng danh Chúa mà trừ quỉ (x. Mc 9,38). Ông nghĩ rằng họ không được phép vì họ không thuộc nhóm các tông đồ mà lại hành động theo thần trí của Thiên Chúa. Chúa bảo ông : “Không ai lấy danh nghĩa Thày mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó có thể nói xấu về Thày” (Mc 9,39).

Quảng đại, hy sinh vì Nước Trời

Người đời thường có óc bè phái, ích kỷ, bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”. Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn người khác bằng cặp mắt đố kỵ, nhưng hợp tác với những người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con” (x. Mc 9, 40 ).

Nước Trời và sự sống đời đời là mục tiêu tối hậu. Chúng ta thấy đó đây có người tháo chân, móc mắt, cắt ruột để kéo dài sự sống tạm bợ, xem ra nhẹ nhàng. Để có được sự sống đời đời, chúng ta phải chấp nhận hy sinh nhiều thứ khác, từ bỏ hy sinh những gì cản trở sống đời đời của chúng ta.

Tay, chân, mắt là những bộ phận rất quan trọng trong cơ thể không thể thiếu để có một đời sống bình thường, tuy nhiên, chúng có thể trở thành duyên cớ cho ta vấp phạm, sa ngã đưa chúng ta vào cõi chết đời đời. Chặt tay, chặt chân hay móc mắt là những điều kinh khủng, gây đau đớn. Bị què tay, què chân hay chột mắt ở đời này là điều chẳng ai muốn. Nhưng Chúa Giêsu mời chúng ta nghĩ đến giá trị của đời sống vĩnh cửu, can đảm cắt bỏ với những thụ tạo đang làm hư hỏng ta chẳng những đời này mà cả đời sau nữa. Chúng ta phải can đảm, quảng đại sống cho giá trị của Tin Mừng, dẫu cho có thiệt thòi, mất mát những vinh hoa trần thế, nhưng có được chỗ đứng trong vương quốc của Thiên Chúa.

Đừng là cớ vấp phạm

Sống yêu thương, quảng đại, hy sinh vì Nước Trời, nên ngay ở đời này chúng ta phải sống tốt, sống gương mẫu, đừng làm cớ vấp phạm cho ai. Nhấn mạnh đến điều này, Đức Thánh Cha Phanxicô giảng trong thánh lễ sáng thứ năm 27 tháng 2 năm 2014 tại Nhà nguyện Mácta, ngài nói : “Người Kitô hữu bất nhất sẽ làm cớ vấp phạm, và cớ vấp phạm thì giết hại người khác”

Mang danh là Kitô hữu, thì cần phải sống như Kitô hữu, suy nghĩ như Kitô hữu, cảm nhận như Kitô hữu và hành động như Kitô hữu. Đó là sự thống nhất trong đời sống của một Kitô hữu, nếu thiếu một trong những điều này, thì chúng ta không còn là Kitô hữu nữa. Cần phải sống trước sau như một, sống bất nhất sẽ gây rất nhiều tai hại cho người khác.

Thánh Giacôbê đã nặng lời khiển trách những người Kitô hữu sống bất nhất huênh hoang, Ngài viết : “Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi”. Trong cộng đoàn có người sống bất nhất như thế thì rất tai hại, trở nên cớ vấp phạm cho người khác”.

Chúa Giêsu lên án người làm cớ vấp phạm : “Kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.

Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết sống yêu thương, sống quảng đại mưu tìm kiếm nước Trời, và đừng là cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em. Amen.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

GƯƠNG XẤU DỊP TỘI-  Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Phụng vụ lời Chúa hôm nay tóm lại hai điều Chúa dạy: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ những nguyên nhân làm cho mình phạm tội.

Thế giới chúng ta đang sống văn minh tiến bộ hơn, thành công trong nhiều lãnh vực hơn, nhưng vấn đề luân lý lại xuống cấp trầm trọng, vì những gương mù gương xấu. Gương xấu lan nhanh như con virút, do các phương tiện truyền thông. Gương xấu làn tràn trong môi trường không lành mạnh. Gương xấu ví như bầu khí bị ô nhiễm. Như thế, không những làm cho mình phạm tội mà còn làm ảnh hưởng đến đời sống người khác nữa.

Ngay trong đại gia đình Hội Thánh, cũng có những hình thức gương mù gương xấu, làm cho một số tín hữu bất mãn bỏ nhà thờ. Cha mẹ sống bê tha không đạo đức, làm cho con cái bất hiếu sống sa đọa. Một số tu sĩ ảnh hưởng xã hội, bị tình tiền tài lôi cuốn, thiếu gương sáng cho giáo dân. Nơi học đường, thầy cô giáo dạy học chạy theo thành tích, làm cho học trò thiếu tín nhiệm. Nhiều gia đình trẻ gây đổ vỡ ly thân, ly dị, khiến cho giới trẻ nghi ngờ tình yêu…

Chúa Giêsu tỏ ra rất nặng lời với những ai làm gương xấu: “Thà buộc cối đá vào cổ ném xuống biển còn hơn” (Mc 9,42). Và Chúa còn cho biết: “Những ai làm phúc cho người khác dù chỉ là một ly nước lã thôi, nhưng vì lòng yêu mến Chúa, thì Ngài sẽ ghi công thưởng phúc ở đời sau” (Mc 9,41). Ngược lại, nếu người nào làm gương mù gương xấu, nên cớ vấp phạm cho người khác, thì Chúa sẽ tính tội người ấy nặng hơn.

Tiếp đến, Chúa Giêsu dạy phải dứt bỏ mọi nguyên nhân đưa đến phạm tội, vì tội lỗi sẽ làm cho mình mất hạnh phúc Nước Trời mai sau. Để dễ hiểu hơn Chúa Giêsu đưa ra một dẫn chứng cụ thể: mỗi chi thể của con người đều quan trọng. Chẳng hạn như: tay, chân, tai, mắt, nhưng đành mất một tay, một chân, một mắt mà còn được vào Nước trời, còn hơn đầy đủ bộ phận mà phải sa hỏa ngục.

 Ví như một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, chẳng hạn như bị ung thư: gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì bác sĩ phải giải phẫu, cắt bỏ phần chi thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo đảm được mạng sống, đó là chuyện bình thường trong y tế và đời sống.

Đời tâm linh cũng thế, nếu tay chân, tai mắt… nên cớ cho mình phạm tội, có nguy cơ đánh mất phần rỗi linh hồn, thì hãy nên đánh đổi. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân hay móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân, móc mắt thể lý, nhưng là hãy lánh xa dịp tội.

 Mắt có thể hiểu là cha mẹ, hay những người lớn tuổi. Tay có thể hiểu là những người có liên hệ, bạn bè thân hữu. Nhưng nếu cha mẹ hay ai đó nên dịp tội cho nhưng người trẻ, làm cớ cho chúng ta phạm tội, thì bằng mọi giá, chúng ta phải tránh xa những người đó, cho dù có bị mất lòng. Vì thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian.

Hay khi chúng ta làm bạn với ai đó, lần nào đi chơi với người ấy, cũng dễ phạm tội làm mất lòng Chúa, làm những điều trái với lương tâm, thì chúng ta phải cắt đứt ngay tình bạn đó, cho dù tổn thương tình nghĩa với nhau. Vì thà chịu đau khổ một thời gian trên chốn dương gian này, còn hơn phải chịu khổ hình dài lâu nơi chốn luyện tội.

Giáo lý Công giáo ngay từ câu đầu tiên có viết:  Mục đích ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là cha chúng ta, và thương yêu mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Xây dựng một xã hội tốt đẹp có nghĩa là chúng ta ăn ngay ở lành, làm những điều hữu ích cho xã hội, đặc biệt làm gương sáng cho thế hệ con cháu chúng ta. Đồng thời, đối với bản thân, chúng ta nên lánh xa những dịp tội, lánh xa những cơ hội làm chúng ta dễ phạm tội lỗi giới răn Chúa.

Vì thế, tất cả những gì chúng ta đang có như: địa vị chức quyền, bạn bè thân hữu, nghề nghiệp của cải… là những nhu cầu thết yếu cần phải có trong đời sống. Nhưng nếu những nhu cầu ấy nên duyên cớ đưa đẩy chúng ta dễ phạm tội, làm mất lòng Chúa, thì chúng ta hãy cương quyết từ bỏ, cho dù có phải thiệt thòi đến đâu đi nữa, vì như lời Chúa nói: ” Nếu lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?” (Mt, 16, 26).

Là những người con Chúa, chúng ta cố gắng mỗi ngày sống làm vinh danh Chúa, thánh hóa bản thân và mưu ích cho các linh hồn. Vì thế, chúng ta cần sống gắn bó với Chúa và sống tình liên đới với nhau, góp phần xây dựng xã hội này ngày nên tốt đẹp hơn, như lòng Chúa mong ước. Amen.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

HÃY BIẾT CHỌN LỰA CAN ĐẢM VÌ ĐỜI VĨNH CỬU  –  Lm. Phêrô Lê Văn Chính

Chọn lựa can đảm và biết hy sinh trong đời sống hiện tại nhằm hướng tới đời sống vĩnh cửu mai sau là viễn tượng của người Kitô hữu theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu huấn luyện các môn đệ để các ngài biết cách sống của người môn đệ cũng như biết chọn lựa can đảm trong hành động hằng ngày để hướng về tương lai của đời vĩnh cửu. Ngay từ bài đọc thứ nhất từ sách Dân số, chính Môisen là người phải sửa dạy thái độ của Giôsuê là người phục vụ lâu năm của mình. Khi Thiên Chúa ban phát Thánh Thần cho Môisen thì người cũng lấy một phần Thánh Thần ban cho Môisen để ban cho bảy mươi kỳ mục khác khiến cho họ cũng nói tiên tri. Lúc bấy giờ có hai người không ở cùng với nhóm bảy mươi trong lều, nhưng vốn có ở trong danh sách với bảy mươi kỳ mục và hiện đang ở trong trại, thì Thánh Thần cũng được ban cho họ, và họ cũng nói tiên tri khiến cho Giôsuê sinh lòng ghen tức và báo cáo sự việc cho Môisen khiến ông phải nhắc nhở Giôsuê không được ghen tức với người khác vì việc ban Thánh Thần là tùy thuộc quyền của Thiên Chúa để mời gọi những người khác nhau cùng tham dự vào công việc theo thánh ý Thiên Chúa.

Trong câu chuyện Tin mừng theo thánh Marcô, hoàn cảnh xảy ra cũng khá tương tự. Gioan là một môn đệ của Chúa Giêsu, theo tâm lý bình thường, ông báo cáo với thầy có kẻ không thuộc nhóm nhưng lại làm phép lạ nhân danh thầy, Gioan muốn xin phép thầy để đi ngăn cản không cho người này làm phép lạ. Chúa Giêsu đã ngăn không cho Gioan ứng xử hẹp hòi như vậy: “Đừng ngăn cản anh ta, không có ai làm phép lạ nhân danh thầy mà lại nói xấu thầy được. Ai không chống lại chúng ta là cùng thuận với chúng ta”. Tinh thần phe nhóm hẹp hòi vốn là tinh thần mà người ta tìm cách bảo vệ. Trong hoàn cảnh một Giáo hội đang phải chịu nhiều bách hại, thì các kitô hữu càng dễ  co cụm hơn nữa. Lời Chúa Giêsu có một tầm quan trong đặc biệt, thúc đẩy các môn đệ có một tinh thần cởi mở nhiều hơn để có thể gặp gỡ với những người, dù họ thuộc nhóm người nào đi nữa. Tiêu chuẩn để đánh giá đó là những việc làm tốt mà những người khác làm được nhân danh Chúa Giêsu. Có thể nói có hai dạng môn đệ của Chúa Giêsu. Những người tuy không thuộc nhóm các môn đệ của người cách rõ rệt, nhưng lại làm được những phép lạ nhân danh người, và những người thuộc cùng nhóm những môn đệ của Chúa Giêsu. Vì thế, thách đố của các môn đệ của thầy Giêsu là họ càng phải hành động như chính thầy của mình hơn nữa, họ cũng phải sống những giá trị như thầy của họ đã sống và làm những điều tốt đẹp cho người khác như thầy của họ đã làm.  Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ hiểu được giá trị lớn lao của một việc làm bác ái nhỏ bé của bất kỳ người nào làm cho các môn đệ của người, dù là một ly nước lả, thì họ cũng không mất phần thưởng trong ngày phán xét. Trong một thế giới có nhiều thù hận, một việc làm bác ái nhỏ bé của bất kỳ ai cho một người môn đệ của Chúa Giêsu thì được chính người đón nhận và vì thế người môn đệ của thầy Giêsu phải biết vượt qua những hạn hẹp phe nhóm của mình để sống chính tinh thần của thầy.

Chúa Giêsu còn cảnh giác nguy cơ của việc làm gương xấu, nhất là làm gương xấu cho các môn đệ Chúa Giêsu là những người đức tin còn yếu ớt, mới bắt đầu tin vào người:”Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đâyphải sa ngã, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” . Vì thế mỗi người, khi sống với những người khác, cần phải cẩn thận cân nhắc những việc làm của mình, xem việc làm của mình có gây ảnh hưởng hay tác hại gì đến những anh em chung quanh không. Đồng thời cũng phải cảnh giác xem những việc làm nào của mình là nguyên cớ cho chính mình bị hư mất không. Cần phải can đảm loại bỏ những nguyên cớ của việc làm xấu này với bất cứ giá nào, ngay cả khi phải hy sinh chính một phần thân thể của mình : “ Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi, thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục; nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi, thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn có đủ hai chân mà phải bị ném vào hỏa ngục; nếu mắt anh làm cớ cho anh vấp ngã, thì móc nó đi, thà chột một mắt mà được vào cõi sống còn hơn có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”. Hỏa ngục là dịch từ “Gêhenna” là một địa danh nằm phía nam của ngọn đồi Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, ngọn đồi này được dùng làm nơi đổ rác của thành Giêrusalem. Nơi đây tập trung mọi thứ rác thải, kể cả xác loài động vật và các loại hoa màu để rồi các loài giòi bọ tha hồ rúc rỉa. Nơi đây người ta thường phải đốt để thiêu hủy và vào thời xảy ra nạn dịch thì còn chứa cả những xác người.

Những lời cảnh giác này thật là nghiêm trọng. Mắt, tay, chân đều là những phần cơ thể quan trọng và cần thiết cho mọi hoạt động của con người. Vì thế nói đến mắt, tay, chân cũng là nói đến con người toàn vẹn. Phải có can đảm loại bỏ những nguyên nhân gây cớ phạm tội để cứu được cuộc sống đời đời của mình. Đây là những lời lẽ rất cứng rắn, nghiêm trọng cảnh giác về cái chết của tội nhân với sự hư nát đời đời, bị giòi bọ đục khoét và lửa thiêu đốt đời đời, nhằm thúc đẩy người môn đệ Chúa Giêsu biết mạnh mẽ quả quyết xa lánh tội lỗi và nguyên nhân tội lỗi để bảo vệ cho mình được hạnh phúc sự sống muôn đời. Đây chính là thành công hay thất bại của đời người. Nếu người ta có tất cả : hai tay, hai chân hay hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục thì cũng bằng không. Cuộc sống hạnh phúc đời đời đổi lại với sự đau khổ tủi nhục muôn đời quả là điều đáng cho chúng ta phải chọn lựa cương quyết và hy sinh biết chừng nào. Làm môn đệ của Chúa Giêsu không phải chỉ là việc mình thuộc về nhóm này hay nhóm khác, mà chính là sống và hành động như Chúa Giêsu đã làm. Người đã dùng những lời nói rất mạnh mẽ như cụt tay, cụt chân, mất một mắt để cảnh giác chúng ta phải biết loại bỏ những gì không phù hợp với những đòi hỏi của hạnh phúc vĩnh cửu. Bất kỳ hành động nào, nguyên nhân nào gây cho mình hay gây cho người khác phạm tội thì đều cần phải loại bỏ. Mỗi người được mời gọi can đảm loại trừ những nguyên nhân của tội lỗi nơi chính mình và nơi người khác để được hưởng sự sống đời đời. Đó là một sự chọn lựa quyết định không chút khoan nhượng vì hạnh phúc đời đời vô cùng lớn lao.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- Năm B

LÒNG GHEN TỊ DẬP TẮT THÁNH LINH-  Trích Logos B

Trong kho tàng truyện cổ Trung Hoa có câu truyện Vợ Bành Tổ Khóc Chồng như sau :

Ngày kia, Ngãi Tử ra khỏi nhà thấy một bà lão tóc bạc phơ đang khóc bên đường. Ngãi Tử hỏi:

– Tại sao bà khóc thương tâm như thế ?

– Tôi khóc vì chồng tôi mới qua đời. Bà lão trả lời.

– Tôi hỏi khí không phải: chồng bà là ai vậy ? Ngãi Tử hỏi.

– Chồng tôi là Bành Tổ !

– Này bà, chồng bà là Bành Tổ thọ 800 tuổi mới qua đời. 800 tuổi chẳng phải là thọ lắm sao ? Cớ gì bà phải tiếc nuối như thế ?

Bà cụ trả lời:

– Tôi khóc không vì tiếc nuối. Tôi khóc vì phiền muộn bởi thế gian này còn có người sống tới 900 năm ! Như thế an tâm sao được !

Vợ Bành Tổ khóc vì có người thọ hơn chồng mình. Đó là thói ghen tỵ, bệnh phổ cập nơi con cái Adam Evà. Lòng ghen tỵ ấy là hậu quả của tội Adam Evà nó dẫn đến biết bao tội ác : tội ác Cain giết em của mình là Aben ; tội con cái Giacóp bán em ruột là Giuse… lòng ghen tỵ đó đầu độc lòng dạ Esau ghét bỏ em mình là Giacóp ; nó biến vua Saulê trở nên kẻ vô ơn và mê muội rắp tâm giết hại Đavít là ân nhân của dân tộc và là người được Thiên Chúa xức dầu.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy ta : lòng ghen tỵ dập tắt Thánh Linh.

Câu chuyện Cựu ước

Bài đọc I nhắc lại chuyện thời ông Môsê (khoảng năm 1250 trước công nguyên). Khi đó, dân Do Thái đang trên đường về Đất Hứa, họ thèm thịt và kêu trách Môsê. Môsê khổ tâm quá bèn kêu lên Chúa vì ông thấy trách nhiệm như gánh quá nặng đè trên ông. Chúa thương Môsê và giảm gánh nặng cho ông bằng cách dạy ông triệu tập 70 kỳ mục trong dân đến trước lều Hội Ngộ để Chúa ban Thần Khí cho họ. Những người này sẽ chia sẻ quyền lãnh đạo đỡ gánh nặng cho Môsê.

Đúng giờ đúng hẹn, Thần Khí Chúa ngự xuống trên họ và họ được ơn nói tiếng lạ. Tuy thế, có hai người không trong nhóm đó là ông Endat và ông Mêdat đang ở trong trại cũng nói được tiếng lạ. Ông Giôsuê  là trợ tá của Môsê khó chịu và đề nghị Môsê ngăn cấm họ: “Xin thầy ngăn cản họ !” Thay vì ngăn cản, Môsê đã nói : “Anh ghen giùm tôi à ? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (x. Ds 11, 24 – 30).

Giôsuê ghen và muốn độc quyền. Thế là vô tình ông đã chống lại Thiên Chúa. Bởi lẽ mọi ơn lành đều bởi Chúa mà ra và đều do ý Chúa muốn. Ghen tỵ làm cho người ta trở nên kẻ chống lại Thiên Chúa.

Chuyện Tin Mừng

Chuyện ghen tỵ là chuyện thường tình nơi lịch sử con người. Đến thời Đức Giêsu, chuyện ghen tỵ ấy xuất hiện ngay trong nhóm Mười Hai. Bài tin mừng hôm nay thuật lại sự kiện có ai đó không trong Nhóm Mười Hai mà lại trừ được quỷ. Khi thấy Đức Giêsu trừ được quỷ, các tông đồ nhân danh Đức Giêsu cũng trừ được quỷ, người đó làm theo và cũng trừ được quỷ ! Các Tông đồ khó chịu. Họ khó chịu vì người đó không thuộc nhóm của Chúa Giêsu mà lại dám lấy danh Chúa Giêsu để trừ quỷ. Đúng là bất công ! Các ông ra sức ngăn cản tựa như người ta bảo vệ “bản quyền”. Các Tông Đồ phản ánh với Chúa sự kiện bất công này. Họ tưởng bẩm báo như thế thì được Chúa tán thành cho rằng họ biết bảo vệ quyền lợi, danh dự và uy tín: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố gắng ngăn cấm vì người ấy không theo chúng ta”. Trái lại, Đức Giêsu mở lòng các ông để các ông không đóng khung “chúng ta” trong nhóm Mười Hai. Người thuộc về Chúa là những người biết cùng với Chúa mà đẩy lui sự dữ. Ân huệ Thiên Chúa ban cách hào phóng đến độ tràn làn trên mọi chư dân. Chúa mời mọi người cộng tác vào công trình cứu độ với Chúa. Ơn cứu độ không chỉ ban cho một nhóm người, cũng không chỉ ban cho một dân tộc. Không ai được độc quyền ơn cứu độ. Nhóm Mười Hai là khởi điểm lãnh nhận ơn cứu độ nhưng là quá nhỏ để lãnh trọn ơn cứu độ. “Chúng ta” của Đức Giêsu trải dài đến mọi người, mọi dân tộc, khắp năm châu. Như thế mới thoả lòng Đức Giêsu.

Chuyện đời thường

Sau tội Ađam – Evà, như một lẽ tự nhiên, người ta dễ buồn khi thấy người khác trổi vượt hơn. Đó là thói ghen tỵ.

Có người buồn khi thấy giáo xứ người trổi vượt hơn giáo xứ mình ; có người bực dọc khi thấy người khác giỏi hơn, được tín nhiệm hơn mình. Đôi lúc chúng ta ăn không ngon, ngủ không yên khi thấy nhà bên cạnh to hơn, đẹp hơn, cao hơn nhà chúng ta… Tất cả là phản ứng của thói ghen tỵ nguy hiểm.

Nguy hiểm vì nó dễ dẫn chúng ta đến thái độ bất công với tha nhân: nói hành nói xấu, cắt nghĩa xấu làm giảm giá trị người khác. Các biệt phái xưa cũng vì ghen tỵ mà xuyên tạc về Chúa : cho rằng Chúa nhờ quỷ lớn để trừ quỷ con ; Chúa lộng ngôn phạm thượng ; lại còn đàm đúm với phường tội lỗi ; cho rằng Chúa bất xứng kỳ đức khi để một phụ nữ tội lỗi đụng đến mình… Cũng thế, chúng ta có thể cắt nghĩa sự thành công của anh em là “hay không bằng hên” ; đánh giá người quảng đại là “hạng đạo đức giả” v.v…

Ghen tỵ làm cho người ta mất nghĩa với Chúa, mất sự bình an trong tâm hồn và dễ dẫn đến tội ác. Đó là tự huỷ diệt mình.

Ngày kia có một con ễnh ương nhìn thấy con bò to lớn. Nó khó chịu vì sự to lớn của con bò. Nó quyết to lớn bằng con bò cho thoả lòng. Thế là nó nín hơi phình bụng. Một hơi, hai hơi, nhiều hơi… Mỗi lần nín hơi là ễnh ương lại to thêm, bụng căng hơn. Người ta bảo rằng: lúc ấy ễnh ương phấn khởi lắm, nó nghĩ chẳng chóng thì chầy nó sẽ to bằng con bò. Thế rồi nó nín hơi thêm nữa, thêm nữa. Bỗng người ta nghe thấy tiếng nổ “bụp”. Bụng ễnh ương vỡ nát ! Đáng đời thói ghen tỵ !

Thái độ của con cái Chúa phải là :

Chân thành mừng vui trước thành công của tha nhân,  cùng với anh em mà tạ ơn Chúa. Thế mới là “vui với người vui, khóc với người khóc” đầy tình bác ái.

Khi chưa được bằng người, ta hãy xét mình để chỉnh đốn mà tự thăng tiến. Đó là ganh đua cầu tiến đẹp lòng Chúa.

Ta hãy nhớ : dấu chỉ để nhận ra bàn tay của  Thánh Thần thúc đẩy là sự hiệp nhất, yêu thương và xây dựng. Phá đổ, nói xấu, dèm pha, ngăn cản điều tốt là do ma quỷ. Việc của ma quỷ đôi khi đội lốt đạo đức, đó là khi người ta lấy danh Chúa mà cản trở việc tốt của anh em.