Chúa Nhật 26/09/2021 – CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN năm B. – Thà chặt tay, chặt chân, móc mắt.

Chúa Nhật 26/09/2021 – CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN năm B. – Thà chặt tay, chặt chân, móc mắt.

"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi".

 

Lời Chúa: Mc 9, 37-42. 44. 46-47

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y".

Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Các bài Suy niệm CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48

 

1. Làm cớ sa ngã.

(‘Manna’)

Suy Niệm

Chúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương xấu.

Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền thông,

tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.

Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu,

khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng.

Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ này:

"... thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."

Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu.

Cha mẹ làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin.

Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu thất vọng.

Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.

Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã.

Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan,

không biết hạn chế tự do của mình,

nên đã làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.

Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã,

nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.

Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt,

nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội.

Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen

(nếu thế thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!).

Nhưng chúng ta lại không được coi thường

tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.

Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên

nếu thấy có người dám chịu cắt bỏ một phần thân thể

hầu cứu lấy sinh mạng của mình.

Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý

để giữ lại một điều quý hơn.

Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất,

người ấy mới dám hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt,

nhưng nay lại thành vật cản trở.

Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta,

nhưng nay đã trở thành vật cản trở.

Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn tuyệt.

Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau.

Bỏ một tật xấu, một thói quen, một kế hoạch

có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt tay.

Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau,

chúng ta sẽ được tự do thanh thoát.

Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn.

Giải phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế:

thay ước muốn nơi trái tim, thay lối nghĩ nơi bộ óc,

thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi tay.

Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.

Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương đối.

Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa vời,

và dứt khoát chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ hôm nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương xấu đó đã tác hại thế nào trên giới trẻ?

Bạn có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật xấu, một thói quen, hay việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa

thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

2. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.

Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.

Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng.

Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.

Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.

Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.

 

3. Ðể trở nên môn ðệ đích thực

(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)

Ðừng nghĩ rằng mình có quyền ưu tiên

Khi thánh Mác-cô viết cho các độc giả của mình, Nhóm Mười Hai đã phân tán, một vài người đã qua đời. Tuy vậy, cộng đoàn được thành lập xưa kia quanh Ðức Giê-su vẫn là kiểu mẫu cho mọi cộng đoàn. Qua trình thuật, thánh Mác-cô nhắc lại cho các tín hữu thời ấy về cách sống họ phải có với nhau cũng như về mối tương quan của họ với thế giới bên ngoài: không được tự cho mình quyền ưu tiên trên người khác, việc phục vụ, sự bình an.

Kẻ trừ quỷ

Câu chuyện khởi đầu với đề nghị của ông Gio-an về việc có người không ở trong hàng ngũ môn đệ mà lại lấy danh Ðức Giê-su để trừ quỷ. Các môn đệ muốn xin Thầy cấm không cho người ấy làm như vậy.

Ðề nghị này diễn tả tham vọng của một số người trong dân Chúa muốn có những đặc quyền và độc quyền, kể cả quyền trừ quỷ. Ðức Giê-su cho thấy thái độ ngược lại: Người luôn hướng ra ngoài những biên giới hữu hình, những cơ chế, với mục đích làm cho việc phục vụ được mở rộng và đạt được hiệu quả tối đa. Xét cho cùng, sự hiện diện của Ðức Giê-su cũng như của Hội Thánh chính là dẹp tan sức mạnh của Xa-tan để Nước Thiên Chúa được lan rộng. Chỉ có những ai kết hiệp với Ðức Kitô, Ðấng duy nhất đã chiến thắng ma quỷ, mới có thể làm được công việc này.

Do đó, thay vì cấm đoán, Ðức Giê-su đã dạy các môn đệ hãy biết trân trọng và cộng tác với những người, cách này cách khác, đang làm cho Nước Thiên Chúa được lan rộng thêm. Những người này có thể không thuộc vào số những môn đệ của Ðức Kitô, nhưng vẫn có thể là những cộng tác viên của Người: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta."

Ngoài ra, theo tác giả Tin Mừng thứ hai, Thần Khí được ban tặng cho hết mọi người và không cơ cấu nào có thể ràng buộc Thần Khí của Ðấng Phục Sinh: Người là Ðấng vượt lên trên mọi cộng đoàn nhân loại, mọi hoạt động xã hội, mọi gia đình tôn giáo. Thần Khí luôn chống lại mọi hình thức địa phương hóa Hội Thánh, mọi ý định muốn trói buộc sự năng động mà Người là nguồn mạch.

Chính vì vậy, người môn đệ Ðức Kitô không thể viện cớ bảo đảm sự chính thống để rồi đồng hóa sự thuộc về Ðức Kitô với một quan niệm loại trừ, gạt bỏ hết những ai không cùng niềm tin với mình. Nước Thiên Chúa không chỉ ở đây hay ở đó, nhưng ở bất cứ nơi đâu có những con người thiện chí.

"Ai cho anh em uống một chén nước..."

Người Kitô hữu là đại diện của Ðức Kitô. Ðây là một trách nhiệm cao cả. Tuy nhiên, ở đây, trong câu nói của Ðức Giê-su, người môn đệ là cả một cộng đoàm trở nên bé nhỏ, và do đó là người phục vụ chứ không phải là người lãnh đạo. Tuy thế, trong cộng đoàn cũng như nơi từng người, Ðức Giê-su vẫn luôn hiện diện. Người môn đệ nhỏ bé nhất vẫn là tượng trưng cho Ðức Kitô. Phẩm giá cao quý này đòi buộc họ phải sống đúng theo Ðức Giê-su mong muốn, đồng thời cũng buộc người khác phải nhìn người môn đệ ấy là chính Ðức Kitô.

"... Làm cho một trong những kẻ bé mọn sa ngã..."

Ðó là làm cớ cho người khác lung lạc trong việc gắn bó với Ðức Kitô. Hành động này đi ngược với việc phục vụ, đón tiếp, và xây dựng bình an. Ðây là tội nặng và đáng chịu hình phạt nặng nề: chịu cột cối đá vào cổ và quăng xuống biển.

Trong Tin Mừng, các kẻ bé mọn có thể hiểu là những người hèn kém, ít học, bị coi thường. Còn trong đời sống Kitô hữu, kẻ bé mọn là những người có lòng tin yếu kém, ít am hiểu. Thái độ nghiêm khắc của Ðức Giê-su nói lên lòng kính trọng và mối ưu tư Người dành cho loại người này. Qua đấy, Ðức Giê-su cũng muốn tố cáo thái độ độc quyền của những thủ lãnh tôn giáo: giải thích Kinh Thánh, đóng cửa không cho những kẻ muốn vào. Theo Ðức Giê-su, hành động này là sự huỷ hoại chính mình khi huỷ hoại người khác, bởi vì làm như thế là tự cho mình quyền nắm giữ Thần Khí và có quyền tự do làm bất cứ điều gì theo ý mình.

Tiếp đến, Ðức Giê-su nói đến sự trầm trọng của gương xấu theo mối nguy mà nó gây ra cho mỗi người. Các chi thể của con người như tay, chân, mắt, mũi, v.v... là những bộ phận cho phép con người hoạt động và tạo nên những mối tương quan. Con người phải điều khiển những hoạt động và tương quan của mình để tạo nên sự sống, chứ không phải gây ra tội lỗi hay sự chết. Ðây là một lựa chọn có giá trị tuyệt đối: người ta không thể coi bất cứ điều gì có tầm quan trọng hơn sự sống - sự sống vĩnh cửu. Ðiều gì đi ngược với sự sống này, phải bị loại bỏ dứt khoát.

Dĩ nhiên, câu nói của Ðức Giê-su không thể hiểu theo nghĩa chặt. Ðàng khác, cũng thật là vô ích khi cố tìm xem những tội nào mà tay, chân hay mắt có thể là cơ hội. Mà giả như có cắt bỏ những phần thân thể này cũng không loại trừ được nguy hiểm.

Qua khẳng định này, Ðức Giê-su muốn nhấn mạnh đến việc chọn lựa, và người ta phải đặt sự sống vĩnh cửu lên trên mọi giá trị khác, kể cả những gì thân thiết nhất. Như vậy, trong suốt bản văn này, vấn đề được nêu lên cho người môn đệ Ðức Kitô là: cuộc sống và hành động của họ có làm cho họ, và cho người khác, được sống hay phải chết?

Thuộc về Ðức Kitô

Bài Tin Mừng hôm nay đề ra cho chúng ta hai sứ điệp:

Sứ điệp thứ nhất

Người xua đuổi quỷ là người tốt; họ là đối thủ hữu hiệu chống lại cái ác, và do vậy, họ được liên kết cách thực sự với Ðức Kitô. Có thể gặp thấy những người này ở khắp nơi, kể cả ở ngoài số những môn đệ chính thức của Ðức Kitô.

Nét đặc trưng của người môn đệ Ðức Kitô là không được ngăn cản những người này hoạt động, viện cớ rằng họ không nhận quyền từ Ðức Kitô.

Sứ điệp thứ hai

Ðức Giê-su yêu cầu chúng ta phải là những người trung tín đến mức phải loại trừ tất cả những gì gây trở ngại cho việc gắn bó với Người. Những ai nghĩ rằng bình an và sự công chính của Thiên Chúa là điều có thể thực hiện, cho dù phải trả giá là một cái chân hay một con mắt, những người ấy trở thành anh hùng trong lịch sử nhân loại. Ðây không phải là trường hợp những người quá bận tâm để cứu lấy những đồ đạc của mình, và được đánh đổi bằng một vài thoả hiệp.

Chúng ta hiểu rằng hai sứ điệp này không dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong lý thuyết, nó cũng cho chúng ta cảm thấy vui thích. Sứ điệp thứ nhất phù hợp với tinh thần thoáng đạt, bao dung mà con người ngày nay đang hướng đến. Sứ điệp thứ hai phù hợp với tính trung thực đang được khuyến khích khắp nơi.

Nhưng phải chăng Ðức Giê-su chỉ nói với chúng ta như thế?

Ðể ý một chút, ta nhận ra một điểm chung: thuộc về Ðức Kitô. Kẻ trừ quỷ phải "nhân danh Ðức Giê-su", kẻ bé nhỏ nhận ly nước "vì thuộc về Ðức Kitô" và kẻ có những chọn lựa là để "vào trong Nước Thiên Chúa".

Như thế, trong mọi hoạt động, dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, ta cũng phải nhận ra dấu vết của Thiên Chúa và của Ðức Giê-su, Con Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho ngọn lửa Thánh Thần thanh luyện các phán đoán và cách ứng xử của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra cách tích cực nơi chính mình và nơi người khác - dù người ấy còn xa lạ với Kitô giáo - dấu chỉ của Thần Khí Ðức Giê-su. Thần Khí luôn mời gọi chúng ta sống thánh hơn, và do đó, tinh thần thoáng đạt hơn. Thánh Kinh luôn mời gọi chúng ta chân thành hơn, và như vậy, tự do hơn...

 

4. Óc bè phái, cục bộ.

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

"Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta" (Mc 9,40)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúa nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.

Ðoàn kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.

Chúng ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.

II. Gợi ý sám hối

Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng con.

Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.

Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những người lương.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Ds 11,25-29)

Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói: "Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ".

2. Ðáp ca (Tv 118)

Tác giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ "Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của mình?" Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng hay, trong đó có tội kiêu ngạo.

Phối hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của mình: mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập thể mình.

3. Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)

Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu dạy hai bài học:

a/ Bài học bao dung và hợp tác: Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Ðức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Ðức Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.

Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta"

Ðức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là "Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta".

b/ Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho "những kẻ bé mọn".

"Những kẻ bé mọn" không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.

Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi..."

4. Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)

Thánh Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người nghèo: (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng chứng buộc tội họ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà có; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Óc ganh tị bè phái... vì danh Chúa!

Những bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói gì.

- Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà người ta đã có tính ganh tị rồi.

- Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể: Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Ðức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Ðức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Ðức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Ðức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Ðức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói "Ai không chống lại ta thì thuộc về ta".

Qua hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tị đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Ðất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Ðức Giêsu yêu thương nhất. Ðó là óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Nói "Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa" bởi vì ganh tị có tới 3 cấp bực:

Cấp thứ nhất là Ganh tị: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái: là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.

Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.

Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Ðó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh Chúa.

Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Ðức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc "Ai không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta". Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ "Ai không theo ta tức là kẻ chống ta", hoặc "Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta", hay hơn nữa "Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta". Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Ðức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.

Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Ðức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.

Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Ðiều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.

Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tị, đừng giữ đầu óc bè phái... nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.

2. Dịp tội

Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Ðức Giêsu:

Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.

Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.

Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.

Dĩ nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Ðông. Không ai hiểu những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có một trường hợp đặc biệt sau đây: Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.

Vậy, chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu theo tinh thần. Chúa Giêsu muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp tội.

Nhưng, dịp tội là gì? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.

Ðó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.

Ðó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.

Ðó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.

Ðể cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội:

Dịp tội gần: là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội. Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ hênh thì hầu như chắc chắn sẽ "chôm" liền. Gặp 10 lần thì phạm tội khoảng 7,8 lần.

Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể không ăn cắp.

Dịp tội gần lại được phân làm 2 loại nữa:

Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Ðây là một dịp nguy hiểm, nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng thiếu.

Dịp tự do: là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.

Sau khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải tránh loại dịp tội nào? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau:

Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ bị phạm tội.

Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh: vì đó cũng là một dịp tội gần nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho nên phải tránh đi.

Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi.

Con người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy: "Nếu tay con nên dịp tội cho con..."

3. Giải phẫu.

Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.

****

Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi" (Mc.9,43). Kiểu nói "chặt tay, chặt chân, móc mắt" chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.

Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.

Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. "Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn", đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể "cắt bỏ" một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính... Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn "móc con mắt, chặt cánh tay". Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: "Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao".

Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.

****

Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

4. Mảnh suy tư

a/ Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta:

Chúng ta có quyền nhân danh Ðức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không phải là độc quyền của chúng ta.

Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm cho chúng ta.

Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn làm cho chúng ta giàu thêm.

Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.

b/ Ai cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu:

Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.

Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần là một việc sưởi ấm cõi lòng.

c/ Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn:

Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.

Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.

Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: "Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta", và "Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn". Chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa:

1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh mọi gương xấu / mà nêu gương tốt cho mọi người.

2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác / dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa / vẫn luôn sống lương thiện và không bao giờ chống đối Chúa.

3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ nhỏ / gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời sống lương thiện.

4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta / biết khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa / và biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.

Chủ tế: Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

VI. Trong Thánh lễ

- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ..."

VII. Giải tán

Trong tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".

 

5. Bỏ đi và cho đi

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Một trong những tình bạn đẹp mà Linh mục Cao Vĩnh Phan (1924 - 2011) có được với các Đại đức và Thượng tọa phải kể đến tình bạn giữa Đại đức Thích Thiện Hiền và Thích Huệ Tánh. Đại đức Thích Thiện Hiền trụ trì tại chùa Phú Sơn gần nhà thờ giáo xứ Thánh Mẫu, nơi Lm Cao Vĩnh Phan làm Cha xứ từ 1975 đến 1991. Hai người đã kết nghĩa anh em với nhau; Lm Phan là anh và Đại đức là em, bởi vì ngài lớn tuổi hơn. Hai anh em thường gặp nhau, động viên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Lúc Đại đức đau ốm, Lm Phan đến thăm nom săn sóc, và ngược lại. Thân nhau đến nỗi nhiều lần Đại Đức đã nhờ Lm Phan cạo đầu cho mình.

Giữ lời đã nói với Đại đức: “Thầy tịch trước tôi không quên, thầy tịch sau tôi nhớ mãi”. Lm Phan thường đến thăm viếng Đại đức Thích Thiện Hiền trong thời gian bệnh nặng và có mặt lúc lâm chung cũng như đã tham dự đám tang. Tiếp theo sau nghi thức tôn giáo nhà Phật, Lm Phan cũng đọc Điếu văn phân ưu và một lời nguyện theo đức tin Công giáo.

Sau lễ an táng của Đại đức nhiều người nói với nhau rằng: “Đám tang của Thầy Hiền là đặc biệt hơn cả, vì có Linh mục và bổn đạo giáo xứ Thánh Mẫu tham dự một cách tích cực và có lời phân ưu nồng nhiệt chân tình chưa từng có.” Bà con họ hàng của Đại đức Thiện Hiền cũng đến giáo xứ Thánh Mẫu để cám ơn Cha xứ. Có mấy người ôm lấy ngài và khóc. Họ nghẹn ngào nói: “Như vậy là Thầy chúng tôi đã viên tịch, Cha không còn có dịp mà đến với chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi luôn coi Cha như người thân thay thế Đại đức Thích Thiện Hiền. Xin Cha thương chấp nhận lời khẩn cầu nầy!”

Từ ngày ngài bị bệnh phải nghỉ hưu tại Viện Dưỡng Lão Chí Hòa (cuối năm 1992), nhiều Đại đức, Thượng tọa và đạo hữu Phật giáo vùng Phan Thiết và Mũi Né thường xuyên vào thăm ngài. Có nhiều khi họ đi cả phái đoàn vài ba chục người. Dịp lễ Giáng Sinh năm 1993 có mấy Đại Đức đã đưa các đệ tử và đạo hữu vào thăm cha Phan. Họ nói rằng: “Muốn vào thăm Cha vào dịp lễ Noel vì từ khi Cha đi không còn ai mời đi dự lễ Noel nữa”. Hiểu được nguyện vọng của họ, sau khi trò chuyện thăm hỏi, Lm Phan mời họ vào nhà nguyện viếng hang đá. Sau một lúc quì cầu nguyện, ngài giải thích cho họ về ý nghĩa lễ Giáng Sinh, dựa vào câu Kinh Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Kết thúc buổi gặp gỡ thăm viếng, ngài bộc phát nguyện: “Lạy Chúa, đây là những vị Tăng Ni Phật tử thân thương từ Phan Thiết vào thăm con tại nhà hưu dưỡng nầy. Các vị thật là những “người thiện tâm”, các ngài muốn nghe Chúa nói. Vậy con tha thiết cầu xin Chúa nói cho các ngài hiểu biết về Chúa. Con muốn nói và nói nhiều lắm, nhưng con không đủ sức, và các ngài cũng không đủ thì giờ, vì phải về. Con tin Chúa thiêng liêng quyền phép. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho các vị như xưa Chúa đã tỏ mình ra cho ba Vua và các mục đồng. Con xin dâng tất cả các vị cho Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các vị đi về bằng yên. Con xin Chúa ở với các vị luôn mãi và ban ơn cho các vị và gia quyến để chúng con cùng được làm con Chúa như nhau. Con cầu xin như vậy nhân danh Chúa Giêsu là Chúa của chúng con. Amen!” (Lm Phêrô Đan-Minh, Lm GBT Cao Vĩnh Phan Với Định Hướng Truyền Giáo Mới)

Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu hoàn toàn bác bỏ thứ đạo “pháo đài” độc quyền, độc tôn, độc trị, mà rộng cửa đón nhận những người thiện tâm. Điển hình như cố Linh mục GBT Cao Vĩnh Phan thấm nhuần Lời Chúa, đã gần gũi với quý tu sĩ Phật giáo, cùng đồng hành trên đường hy vọng.

Để có thể đến với tha nhân, nhất là đến với anh em ngoài Kitô giáo, Đức Giêsu yêu cầu xả kỷ, bỏ đi chính bản thân, thậm chí chặt tay, chặt chân, móc mắt, bỏ đi những chướng ngại vật, ngăn cản, hay chệch đường đến với Nước Chúa. Rồi Người còn khuyến khích tích cực cho đi, hy sinh, dấn thân phục vụ vì danh Chúa.

Bỏ đi

Dĩ nhiên chẳng có ai ngây ngô hiểu theo nghĩa đen những ngôn từ gay gắt về xả kỷ của Đức Giêsu. Điều quan trọng là Người chẳng ngại biểu lộ một cách cứng rắn, thậm chí quá khích, kịch liệt chống lại tà tâm, tính tham lam và thói bạo lực của con người.

Con mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, mà làm dịp tội, chính là con mắt tà tâm, dục vọng, đam mê hưởng lạc, ham muốn xác thịt, sẽ dẫn dắt bản thân lụy vào cạm bẫy nguy hiểm, chìm vào bùn lầy nhầy nhụa, sa đọa, không còn lối thoát. “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5, 28) Do đó, cần dứt khoát đoạn tuyệt với tội lỗi, tựa như móc mắt bỏ đi. “Hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.”

Còn bàn tay tham lam vơ vét chiếm đoạt bao nhiêu cũng chưa đủ. Bàn tay thủ đoạn, chia rẽ, cướp giật, đánh đấm, gian lận, nhám nhúa, tham ô, rút ruột, móc ngoặc, trừ khử, xô đẩy, xua đuổi, khước từ. Đức Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo thói tham lam vụ lợi:"Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12, 15) Vì thế, “thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt.”

Hơn nữa, cái chân cứng rắn, đấu đá, tranh giành, bạo lực, bất nhân, vô liêm sỉ, leo lên đầu lên cổ thống trị thiên hạ, áp bức người lành, ức hiếp người yếu, chà đạp nhân phẩm. Tuy nhiên những người khốn khổ, bị đàn áp đó lại là chính Đức Kitô ẩn mình, nên đừng để Chúa phải lên tiếng cảnh cáo như với Saulô: “Khốn cho ngươi là kẻ dám đem chân đạp mũi nhọn.” (Cv 26, 14) Thế thì, cần can đảm loại bỏ, chặt đứt đi, “thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục.”

Tóm lại, Đức Giêsu khuyên người Kitô hữu hãy buông xả tất cả những gì dính líu, dây mơ rễ má, tham sân si, ngăn chận, cản trở con đường theo Người và đến với anh chị em: “Vậy ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Lc 14, 33)

Cho đi

Loại bỏ được những rào chắn, ngăn cách, bất đồng, chia lìa, hay dửng dưng, xa lạ với tha nhân, mới có thể trao cho nhau cái nhìn dịu dàng, nụ cười tươi tắn, câu chào hỏi thương mến. Trước hết đến với nhau bằng tấm lòng chân tình, thái độ cởi mở, thân thiện. Rồi mới có thể quan tâm đến nhau, cư xử lễ độ, lịch sự và tử tế với nhau, thân ái trao nhau một chút quà mọn, một tấm bánh, hay một ly nước, công khai thể hiện tình người và tình yêu Chúa: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

Ly nước chẳng đáng giá chi, nhưng tràn đầy tình yêu Đức Kitô, đang ẩn mình trong hình hài tha nhân tầm thường, nghèo khó, bệnh hoạn, cơ nhỡ, côi cút, bị bỏ rơi, đau khổ. Một việc nhỏ, xoàng xĩnh như cho một ly nước còn được khen thưởng hậu hĩnh, huống chi những việc ý nghĩa hơn càng đẹp lòng Chúa biết bao!

Cho đi tương thân tương ái, không đòi hỏi phải làm những việc bác ái, từ thiện hào phóng, quy mô, vĩ đại, mà thường nhật chỉ là những việc trong tầm tay, như chia sẻ, an ủi, khích lệ, giúp đỡ những người gần gũi, khi họ đang có nhu cầu cấp bách và chính đáng, như chăm lo kẻ khốn khó, thất nghiệp, đau yếu, hoạn nạn.

Cho đi tấm gương sáng chứng nhân, chứ đừng cho đi gương mù gương xấu, kẻo làm méo mó, lệch lạc dung nhan Đức Giêsu. Cố gắng cho đi con người đổi mới, nhân ái, tốt lành đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi xiềng xích của xác thịt, ma quỷ và thế gian.

Cho đi không chỉ tấm lòng mà còn cả thân xác, sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người, mọi lúc và mọi nơi. “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 7-8) Mà Thiên Chúa luôn hiện hữu trong tha nhân, nên sống hay chết cho Chúa, cũng là sống hay chết cho tha nhân vậy.

Cho đi thì sẽ được lãnh thưởng bội hậu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Lc 6, 38)

“Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn; hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm.” (Đường Hy Vọng, số 609)

Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình. (Kinh Hòa Bình)

Lạy Mẹ Maria nhân lành, Mẹ đã bỏ đi tất cả ý riêng, để hoàn toàn “Xin Vâng” theo Thánh Ý Chúa. Mẹ đã dấn thân sống cho Chúa và cho tha nhân. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, để luôn vinh dự được Chúa ở cùng. Amen.

 

6. Bạn & Thù – AM Trần Bình An

Cuộc ngừng bắn diễn ra vào đêm trước Giáng Sinh, 24 tháng 12 năm 1914, khi binh sĩ Đức khởi sự trang trí khu vực xung quanh các chiến hào của họ, trong vùng Ypres thuộc nước Bỉ, để chào đón Giáng Sinh. Họ bắt đầu treo những ngọn nến trên cây, rồi ngồi lại với nhau để hát các ca khúc Giáng Sinh, nhiều nhất là bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng (Stille Nacht). Khi ấy, các binh sĩ Anh bắt đầu ra khỏi chiến hào ở bên kia chiến tuyến và đáp lời bằng những bài hát Giáng Sinh tiếng Anh.

Tiếp đó là những tiếng hô to "Chúc mừng Giáng Sinh" vang vọng từ hai phía. Rồi là những lời mời gọi để những người lính từ hai bên chiến tuyến, tìm gặp nhau và trao đổi quà tặng Giáng Sinh, rượu whisky, mứt trái cây, xìgà, sôcôla và các thứ tương tự. Đêm ấy hoàn toàn không có tiếng đạn pháo. Lúc đó, các chiến sĩ trận vong được an táng theo nghi thức, được thương tiếc và nghiêm chào theo quân cách, bởi những người lính từ hai bên chiến tuyến. Tại một tang lễ trong Vùng Hoang địa, những người lính từ hai phía cùng nhau đọc đoạn Thánh Vịnh 23. (Wikipedia)

Như thế, ngày Giáng Sinh đã xóa tan làn ranh thù địch, tất cả đôi bên đều trở thành bạn bè thân thiết với nhau, khi tình thương, nhân ái thay thế hận thù và tội ác. Bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói rành mạch về Bạn và Thù, nhất là thù trong, nội gián vô cùng hiểm nguy.

Đâu là Bạn?

Các Tông đồ khởi sự đã đơn giản hóa làn ranh rất tế nhị đó. Kẻ xa lạ biết đâu là bằng hữu. Kẻ thân thiết biết đâu thành kẻ thù. Chúa Giêsu đã kịp lý giải rành mạch, chỉ đích danh đâu là bạn và thù.

Hôm nay, trong trích đoạn sách Dân Số và Tin Mừng Thánh Mác Cô, đều nói về lòng khoan dung và tình bằng hữu. Đừng hẹp hòi khi thấy Thần Khí Chúa ban tràn đầy cho nhiều người. Ông Môisê đã phải bất bình khi có người phản đối: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người, để họ đều là ngôn sứ.”(Ds 11, 29)

Lòng khoan dung cũng được Chúa Giêsu tái khẳng định:“Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9, 38-40).

Chúa Giêsu muốn xác định những ai ủng hộ Người, lấy danh Người mà trừ quỷ, mà làm việc lành, thì đều xứng đáng coi như thân hữu hay bạn bè. Còn kẻ chống báng Người, mới là kẻ thù địch đích thực với Người.

Đâu là Bạn thân?

Hơn nữa, những ai giúp đỡ các môn đệ bé nhỏ của Người, thì còn được trọng thưởng, dù chỉ giúp việc nhỏ mọn, như một ly nước lã giải khát. Nhờ hành động bác ái đó, Chúa coi như họ như bạn thân thiết, vì cư xử tốt lành với Bạn của Người. “Ai cho anh em uống một chén nước, vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”(Mc 9, 41)

Đức bác ái luôn được Chúa hoan nghênh. Người không so đo, lớn nhỏ hay nhiều ít, mà căn cứ vào tấm lòng dành cho việc đó như thế nào. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta mới dặn dò chúng ta: “Hãy làm những sự bình thường với một tình yêu phi thường”

Đâu là kẻ thù?

Kẻ chống lại Chúa chính là Satan, ma quỷ. Đó cũng là kẻ thù muôn kiếp của chúng ta. Khi sống trong tình nghĩa, kết hợp mật thiết với Chúa, chúng ta trở nên bạn hữu thân thiết với Người. Nhưng khi chúng ta phạm tội do yếu đuối, hay quy hàng, chạy theo ma quỷ, lẽ đương nhiên chúng ta trở nên xa lạ với Chúa. Chính tội lỗi khiến chúng ta xa lìa Chúa, biến chúng ta trở nên đối nghịch với Thiên Chúa, như Adam và Evà ngày xưa phạm tội, bị Chúa xua đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Tuy nhiên, Người Cha Nhân Từ vẫn sẵn lòng khoan dung, đón chiên lạc sám hối trở về.

Nhưng Chúa Giêsu gay gắt cảnh báo kẻ sa đọa, cố tình sống theo tội lỗi, không chịu hoán cải, mà chống báng, trở nên thù địch với Người, lại còn nhẫn tâm làm gương mù, gương xấu, hoặc rủ rê, lôi kéo người khác phạm tội.” Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn!”(Mc 9, 42)

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tỏ ra quyết liệt với thù địch nội tại, ẩn nấp ngay chính trong bản thân mỗi người. Chúa ra lệnh trừ khử tội lỗi, trấn áp ngay lập tức, không khoan nhượng, Không thỏa hiệp, dù có phải hy sinh, như móc mắt, chặt tay hay chặt chân đi, để khỏi sa ngã, hầu được cứu thoát muôn đời.

“Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay được vào cõi sống còn hơn đủ cả hai tay mà sa hỏa ngục, phải vào lửa không thể tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là đủ cả hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục; nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”(Mc 9, 43-48) Lời tuyên chiến của Chúa với tội lỗi vô cùng dứt khoát và đanh thép!

Lạy Chúa, xin mở tai, mở mắt, mở lòng trí con ra, để con nhận biết phân biệt đâu là bạn và thù, hòng luôn củng cố, xây dựng và trung thành với tình bạn của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ gìn giữ con lánh xa các chước cám dỗ, kẻo con đánh mất tình nghĩa với Chúa, hầu con được cứu rỗi. Amen.

 

7. Diệt trừ gương xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Gương xấu lây lan nhanh như đại dịch, bùng phát mạnh như cháy rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: gần mực ắt phải đen cũng như gần đèn tất phải sáng. Biết bao nhiêu thói xấu của thế hệ trước ảnh hưởng đến những thế hệ tiếp theo đang làm cho xã hội chúng ta điêu đứng.

Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên rượu; chút ít men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho lương thực nên thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc...

Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên Người cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: "Anh em phải coi chừng men biệt phái và men Hêrôđê" (Mc 8, 15).

Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ thói xấu tận gốc rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.

Trước hết, Người răn đe những người gây ra gương xấu bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn." (Mc 9, 42)

Và Người muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội lỗi cách rất quyết liệt: "Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt." (Mc 9, 43-48)

Khi phán dạy như thế, Chúa Giêsu không có ý nói là chúng ta phải huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Người có ý nói phải diệt trừ thói xấu cách quyết liệt, bằng bất cứ giá nào.

* * *

Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và thói xấu là điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại quay về.

Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó ghẻ trung thành. Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám, người nhà quyết xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp tục đánh đập và xua đuổi nó đi xa... nó cũng lại trở về!

Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ có nhiều rễ củ ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay nhổ sạch cỏ rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.

Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước thói hư tật xấu?

Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có thuốc trừ.

Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không được, người nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa ruộng lúa nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời gian cho cỏ thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ lúa xuống. Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ hết mặt ruộng, rồi bung phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che phủ mặt ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.

Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa mới lên liền được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế là cỏ dại dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.

Thế là nhà nông thắng lớn vì không cần tốn công làm cỏ mà lại thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào.

Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để loại trừ gương xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu: quyết tâm tạo cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập thói quen tốt để đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách báo đồi truỵ; lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho bạn bè xấu tính...

Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được cải thiện; tâm hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng trở nên người có phẩm chất cao.

 

8. Khổ chế với bản thân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thành công nào cũng đòi phải trả giá bằng hy sinh, bằng khổ luyện. Vì qua gian khổ mới tới vinh quang. Đôi khi muốn đạt được mục đích người ta phải từ bỏ rất nhiều, kể cả niềm vui và đam mê.

Trong kỳ Sea Games 2015 người ta ca ngợi một siêu kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên. Cô đã đạt được 8 HCV cá nhân. Với kỳ tích này cô đã trở thành thần tượng của nhiều người. Vinh quang này cô đã phải đánh đổi và hy sinh hầu hết những niềm vui bình dị đời thường của thời tuổi trẻ.

Không sử dụng internet, không điện thoại, không face book, thậm chí xe máy cũng chưa biết đi và hơn cả là những chuyến xa nhà dài dằng dặc khiến cô nhiều lần nhớ nhà rơi nước mắt. Một ngày Ánh Viên phải bơi từ 20-25 cây số với nhiều tốc độ và “biến thiên” khác nhau. Khối lượng bài tập được phân chia trong hai buổi/ngày, thời gian còn lại, Ánh Viên tiếp tục rèn thể lực với việc tập tạ.

Quả đúng như người ta nói: muốn có vinh quang cần phải hy sinh nhiều thứ. Một em bé muốn thành bác sĩ, kỹ sư phải hy sinh thời giờ vui chơi để học tập. Một bác sĩ muốn giỏi phải hy sinh thời gian để trau dồi kiến thức. Một nghệ sỹ muốn thành danh phải dày công khổ luyện. Một linh mục muốn nên giống Chúa thì phải từ bỏ rất nhiều mới mong trở thành mục tử như lòng Chúa mong ước.

Và hôm nay Chúa Giê-su bảo muốn vào Nước Trời thì cũng phải nghiêm khắc với chính mình qua việc rèn luyện bản thân. Rèn luyện để sống khổ chế hy sinh. Rèn luyện để sống gương mẫu trước tha nhân. Rèn luyện đến mực tuyệt đối nghiêm khắc với bản thân. Có khi còn phải hy sinh cả một phần thân thể như: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi ; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi ; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi ; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.

Xem ra con đường vào nước trời đòi hy sinh rất nhiều. Hy sinh cái tôi của mình để không ganh ghét, tị hiềm tha nhân. Hy sinh của cải của mình để sống quảng đại với tha nhân. Hy sinh cả những phần thân thể mình để được vào Nước Trời.

Nhưng xem ra có mấy ai lại hy sinh cái tôi của mình, có mấy ai lại không lo cho mình mà chỉ lo cho tha nhân, và nhất là có mấy ai chịu mất đi một phần thân thể của mình, dẫu biết rằng vì chiều chuộng thân xác mà hư mất đời đời. Con người luôn đề cao cái tôi, luôn lo lắng cho bản thân, luôn chiều chuộng bản thân. Đó là lý do mà cuộc đời vẫn còn đó những ganh ghét, tị hiềm; vẫn ích kỷ thiếu lòng quảng đại với tha nhân; vẫn chiều theo bản năng, chọn dễ dãi cho tính xác thịt...

Ước gì đời người tín hữu luôn biết khổ chế bản thân. Khổ chế tính bè phái để sống bao dung. Khổ chế tính xác thịt để sống gương mẫu. Ước gì mỗi người chúng ta biết rèn luyện bản thân mình nên giống Chúa Kitô để hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn.

 

9. Hãy yêu như Giêsu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần thế.

Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn".

Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài, con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng tốt".

Xem ra nhận xét về một con người tùy thuộc vào tình cảm của người nhận xét nhiều hơn là về bản thân của người được nhận xét. Không ai hoàn toàn xấu, và cũng không ai hoàn toàn tốt. Vì "nhân vô thập toàn", và mọi sự trong trời đất đều tương đối. Nhưng đáng tiếc con người lại không nhận ra. Nhiều người vẫn cho rằng mình không sai lầm. Nhiều người vẫn tưởng rằng mình không có khuyết điểm. Con người cho mình là trung tâm điểm nên dễ dàng loại trừ, kết án, tẩy chay những ai khác với mình, hoặc không đồng quan điểm với mình.

Đó còn là lý do khiến người ta thường hay phân loại để chơi. Những người cùng sở thích, cùng quan điểm, cùng ý thức hệ thì liên đới với nhau, ngược lại thi xa lánh, đôi khi lại hiềm thù và đối nghịch với nhau. Khi yêu nhau người ta dễ cảm thông, tha thứ, nâng đỡ nhau, vì "Yêu nhau củ ấu cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa". Khi ghét nhau thì "Cau sáu bổ ra làm mười". Có khi còn "ghét cả tông ti họ hàng".

Là người Kitô hữu Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người Kitô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.

Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng hay biết. "Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm". Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để sống vị tha và nhân ái với nhau.

Nhưng đáng tiếc con người lại thiếu tình thương nhưng lại đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung nhưng đầy hận thù. Thiếu sự cảm thông nhưng chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.

Có ai đó nói rằng: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền mắt" thì mọi người đều trở nên mù lòa". Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.

 

10. Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta

(Suy niệm của Phêrô Võ Tá Đương, OP)

Đọc lại lịch sư, ta thấy một thực trạng chung của các dân tộc là thường có tranh dành nhau trong việc làm chính trị. Người ta sẵn sàng làm tất cả mọi sự, kể cả việc thanh toán nhau để chiếm được chức quyền, địa vị và danh vọng. Tham vọng chức quyền là một trong những dục vọng lớn của con người. Nó được cắm rễ sâu vào trong bản tính tự nhiên của con người. Vì thế bất cứ ai cũng có thể bị chức quyền và danh vọng cám dỗ. Trước khi được Đức Ki tô biến đổi, các Tông đồ của Chúa cũng không ngoại lệ trong số đó. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy được phần nào điều đó. Cụ thể là qua sự việc tông đồ Gioan báo với Chúa Giêsu về việc ông đã ngăn cấm một người xa lạ lấy danh Thầy mình mà trừ quỷ. Tại sao vậy? Tin mừng cho thấy rõ lý do ấy, rất đơn giản đó là: “Vì người ấy không theo nhóm chúng ta”.[1]

Chính óc độc quyền phe nhóm và lòng ganh tị đã thúc đẩy tông đồ Gioan hành động như thế. Ông tưởng rằng, mình đã làm được một việc tốt, việc đúng và hữu ích cho nhóm mình để bảo vệ danh tánh thầy mình. Ông hy vọng là Thầy mình sẽ ban lời khen tặng. Thế nhưng không, Chúa Giêsu không ban tặng lời khen ngợi cho Gioan nhưng qua đó, Người đã dạy cho Gioan và các tông đồ một bài học và đưa ra một nguyên tắc để phân biệt: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”[2]

Thái độ và hành động của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng là thái độ của các môn đệ và cả chúng ta nữa. Nó phản ánh một thái độ khép kín, không muốn cho người khác được hưởng ân huệ Thiên Chúa nếu người đó không chịu theo các ông, không thuộc về nhóm các ông. Nói cách khác, các ông tự coi mình là những người thừa kế duy nhất của Chúa Giêsu. Ai muốn hưởng ân huệ của Thiên Chúa thì phải theo các ông hay nhập vào nhóm các ông. Chính vì thế khi thấy một người xa lạ không thuộc nhóm các ông nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ thì các ông đã ngăn cản họ. Đó là một quan niệm sai lầm và ích kỷ. Trước quan niệm sai lầm đo, Chúa Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.”[3] Như vậy, việc trừ quỷ nhân danh Chúa, dù thế nào đi nữa cũng là việc tôn vinh Chúa, vì khi giải thoát cho một người bị quỷ ám là làm một việc tốt, một việc nên làm cho nên không được ngăn cản mà còn phải ủng hộ nữa là khác.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng đã để cho óc độc quyền và lòng ganh tị chi phối như thế, nên đã hạn chế lòng nhiệt thành của người khác, áp đặt ý riêng của mình lên người khác, gây chia rẽ và đánh mất bình an trong gia đình, trong cộng đoàn. Tin mừng hôm nay là lời cảnh giác của Chúa Giêsu đối với tông đồ Gioan, cũng là lời cảnh giác cho mỗi người chúng ta, nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn cho những ai có lòng thiện chí, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền đó, nhưng ơn Chúa thì vô biên, không hạn chế, không dành riêng cho người nào, nhóm nào. Bất cứ ai tin tưởng cầu xin hoặc nhân danh Chúa mà làm việc tốt đều được Chúa nhận lời. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo hội và trong lịch sử nhân loại, không ai có thể sống ngoài quỹ đạo của Ngài. Người ta chỉ có thể chọn lựa hoặc là theo Ngài hoặc là chống lại Ngài. Nhiều người không biết Chúa nhưng họ vẫn theo tiếng lương tâm mà ăn ở ngay lành và làm việc thiện, những người ấy cũng thuộc về Chúa. Trái lại có biết bao người mang danh Kitô hữu, kêu tên Chúa nhưng lại không theo đường lối của Chúa, thậm chí còn dửng dưng trước lời mời gọi của Chúa, vô tâm trước người nghèo khổ, lạnh nhạt với anh em, hờ hững với cuộc sống…thì quả thực những người đó cũng đang chống lại chính Chúa.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình, xem chúng ta đang ủng hộ hay chống đối Chúa? Danh hiệu Kitô hữu của chúng ta có là một thực tại sống động hay chỉ là một tiếng kêu rỗng tuếch? Đức tin của chúng ta có đi đôi với cuộc sống của chúng ta hay không? Ung hộ Chúa là sống kết hiệp mật thiết với Ngài, thực thi Lời Ngài dạy, sống bác ái yêu thương và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Để thực thi lời Chúa, chúng ta phải có một thái độ dứt khoát với tội lỗi, với những đam mê dục vọng... chấp nhận những hy sinh khổ chế để lướt thắng những cảm bẩy của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Nếu tay chân anh làm dịp cho anh thì hãy chặt nó đi, nếu mắt anh làm nên dịp tội thì hãy móc nó đi”.[4] Nghĩa là chúng ta phải dứt khoát ngay mọi dịp tội, không chần chừ, không khất lần vì những điều đó là cớ làm cho ta vấp phạm, đánh mất sự sống đời đời, mất ơn cứu độ Thiên Chúa ban mà bị đọa đày trong chốn khốn cùng “nơi giòi mọi không hề chết và lửa không hề tắt”.[5]

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết rộng mở cõi lòng mình ra để đón nhận Chúa và mọi ân huệ của Ngài, để rồi chúng con cũng biết sẵn sàng mở rộng con tim của mình ra để tiếp đón những người khác, sẵn sàng chia sẻ với những người xung quanh chúng con.

Lạy Chúa Giê su Thánh Thể, xin giúp chúng con dẹp bỏ tính ích kỷ, phe nhóm, sự độc quyền, độc đoán và độc tài để chúng con biết đón nhận nhau, chân thành yêu thương nhau, cộng tác với nhau để cùng nhau xây dựng Nước Chúa, cho danh Chúa được rạng ngời trên khắp hoàn cầu, và để tất cả mọi người được hưởng ơn cứu độ Chúa ban. Amen.

--------------------------------------------------

[1] Mc 9, 38b

[2] Mc 9, 40

[3] Mc 9, 39

[4] Xc Mc 9, 43-47

[5] Mc 9, 48

 

11. Gương xấu và dịp tội

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quý giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.

Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèm kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài thì không bao giờ bỏ qua đâu.

Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: "Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu". Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa gọi theo: "Này ông, ông còn quên cái gì đây này". Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: "Quên cái gì đâu?". Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: "Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa". Người ấy xấu hổ đi xuống ngay. Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.

Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quý giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.

Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân hay móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội...thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.

Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp...đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.

 

12. Gương mù gương xấu

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giê-su được thánh Mác-cô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là vấn đề gương mù gương xấu.

Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà cho nhiều người khác dễ vấp ngã.

Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gướng xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giê-su gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là những kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin, làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp muời lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giê-su nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giê-su. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Pa-lét-tin có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rô-ma mang vào Do Thái, và rất kinh sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giê-su dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.

Vì thế, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai ở trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.

Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.

 

13. Chặt tay.

Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu châu đi tìm đất mới. Nhà lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số mệnh, và ông đã tuyên bố: Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể lãnh thổ ấy. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm giành được đất mới. Ông gắng sức chèo, nhưng rồi một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất liền thì đã ở ngay trước mặt. Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay không? Con người sắt đá này đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông cầm lấy chiếc búa, chặt đứt bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.

Kể lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được lời nói của Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ cho con phạm tội, thì hãy chặt nó đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn nhắm tới? Tôi nghĩ rằng những người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả những cái gần gũi và thân yêu nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng ta vấp ngã. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Nước Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu của chúng ta, muốn đạt được thì phải hy sinh.

Đúng thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Đối với một số người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất cũng đau đớn như là cắt đứt một bàn tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng ta: Nếu chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú trọ thì chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để nâng đỡ những hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm lấy Nước Trời có thể cũng đớn đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện rượu thì bỏ đi một xị hay chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng vì vui lòng Chúa, anh ta phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi lễ sáng Chúa nhật. Cố gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức và khó chịu ở một mức độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước Trời. Ngồi theo dõi truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh. Thưa chuyện với Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời, nhưng nó là đòi hỏi chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay nói chuyện tào lao với nhau.

Chúa Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái lại Ngài còn hiến dâng trọn vẹn mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng để cứu chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta biết từ bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa của chúng ta. Hay nói các khác, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên Thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.

 

14. "Đừng ngăn cản người ta" (Mc 9,39)

Môn đệ của Chúa Giêsu lấy làm khó chịu khi có người nhân danh thầy mình mà trừ quỷ, cụ thể là Gioan, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến một cách đặt biệt nhưng Chúa Giêsu giải thích cho môn đệ của mình: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta". Có hai cái nhìn về một sự việc: cởi mở và đố kỵ, cái nhìn của con người và cái nhìn của Chúa.

Phản ứng của Gioan tuy chưa đến mức độ gay gắt nhưng cũng cho thấy ẩn tàng thái độ tranh giành hơn thua và loại trừ người khác. Những ai không cùng phe cùng nhóm với mình thì khó lòng chấp nhận hành động của họ cho dù họ làm đúng, làm tốt. Ông ỉ lại sự ưu ái của Chúa và khư khư giữ chân lý dành cho mình. Con người thường hay đố kỵ, ganh tỵ với thành công, ưu điểm của người khác, sợ ảnh hưởng của mình bị chi phối. Lòng đố kỵ và cái nhìn nhỏ hẹp làm cho đời sống con người không thể phát triển, nhất là đời sống đức tin không thể trưởng thành và những người xung quanh không thể nhận ra hình ảnh của Chúa. Co cụm trong suy nghĩ và hành động chỉ thêm cho mình sự cằn cõi và ù lì.

Ngược lại, Chúa Giêsu nhìn sự việc rất cởi mở và thanh thoát, người khác nhân danh mình để làm điều tốt đó là một thành công và uy tín được xác định, nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến điều đó. Ngài mời gọi sự hoà hợp và đón nhận nhau khi làm việc tốt và nhất là loại trừ cái xấu, đó là "trừ quỷ", cùng nhau xây dựng, bảo vệ cái tốt. Đặc biệt hơn trong lòng mỗi người phải giữ cho mình một thứ "muối" thật mặn để ướp cuộc sống thêm mặn mà, nồng ấm tình người hơn và "sống hoà thuận" với nhau. Khi con người đón nhận ưu điểm, ngay cả giới của nhau và nhìn cuộc sống với tấm lòng rộng mở thì cuộc sống trở nên tốt đẹp.

Sống cởi mở, đón nhận nhau cùng nhau lên tiếng bảo vệ sự thật, lên án bất công và cái xấu là điều cần phải làm cũng như không thể vì lòng đố kỵ mà cản trở người khác đang xây dựng một môi trường sống tốt đẹp. Với Chúa Giêsu mỗi người cùng nhau mang hạnh phúc, bình an và chan chứa tình huynh đệ cho cuộc sống ngày hôm nay.

Lạy Chúa, xin cho con có tấm lòng quảng đại như Chúa để thật lòng đón nhận ưu khuyết điểm của người khác, sống hoà thuận và yêu thương để cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.

 

15. Sống bác ái và làm gương tốt

Minh Họa Lời Chúa

1. Chấp nhận hy sinh

Sau khi tốt nghiệp đại học, Thomas More dấn thân vào con đường chính trị. Chàng thăng tiến chức rất nhanh. Năm 1529, chàng được vua nước Anh là Henry VIII phong lên chức Đại Pháp quan. Nhưng thảm kịch lại xảy đến cho Thomas More. Vua Henry VIII ly dị hoàng hậu và tái hôn bất hợp pháp. Để chống lại những kẻ phản đối cuộc tái hôn này, vua bắt buộc các quan trong triều đình ký tên chấp nhận cuộc tái hôn là hợp pháp. Ai bất tuân sẽ bị tống ngục vì tội phản loạn. Vì sợ mất chức tước, các quan đều ký tên, chỉ trừ ông Thomas More. Ông cương quyết chống lại gương xấu của nhà vua. Bạn ông là Norfolk khuyên, “Cuộc tái hôn này có hợp pháp hay không thây kệ nó, bạn cứ ký tên vào, bạn thấy các quan đều ký tên cả rồi.”

Thomas More vẫn từ chối không chịu ký tên, vì ông không thể làm điều lỗi luật Chúa, nhất là nêu gương mù gương xấu cho dân chúng. Thế là ông đã bị tống ngục và bị hành hình năm 1535.

2. Cạm bẫy

Người ta đồn ăn thịt nhất là óc của khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp, nên nhiều người tìm cách đánh bẫy khỉ. Họ lấy trái dừa, bổ ra làm đôi, bỏ vào đó trái cam thơm ngon, khoét một lỗ nhỏ vừa nắm tay khỉ, rồi cột trái dừa lại, đem treo trên cây. Nghe mùi thơm của cam, khỉ tìm đến, thọt tay vào trái dừa, nắm lấy trái cam lôi ra. Nhưng nó không thể rút tay ra được, vì tay nó nắm trái cam quá lớn so với cái lỗ của trái dừa. Biết mình bị mắc bẫy, nhưng nó cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la. Thế là người ta bắt được con khỉ khờ dại đó.

3. Cột cối đá lớn vào cổ nó

Ông Henry nổi tiếng về cách kết thúc câu chuyện gây ngạc nhiên của ông. Có một câu chuyện liên hệ đến một đứa trẻ thiếu thốn về mặt tình cảm. Nó luôn hỏi cha nó có thể ngồi vào lòng ông được không? Nhưng người cha luôn gạt đi và bảo nó ra ngoài chơi.

Điều không thể tránh khỏi đã xảy ra, cô bé lớn lên và chấp nhận tình yêu thương từ bất cứ ai. Cô trở thành một cô gái điếm. Khi cô chết, thánh Phêrô thưa với Chúa Giêsu, “Hôm nay có một người tội lỗi xấu xa đến.”

Và đây là kết luận ngạc hiên khi Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô, “Lúc cô ấy đến, hãy cho cô vào thiên đàng. Còn khi cha của cô đến, hãy bắt ông chịu trách nhiệm về cuộc đời của cô.” Tôi có cảnh giác để không làm điều gì khiến cho người khác, đặc biệt là trẻ nhỏ, mất niềm tin vào Chúa Giêsu không?

4. Gương tốt khơi dậy gương tốt

Một thanh niên bị án tử hình vì tội sát nhân. Trước khi thi hành án, anh xin nhà vua hoãn lại cho anh hai ngày và cho anh về nhà sắp đặt mọi việc. Nhà vua sợ anh trốn luôn nên nói với dân chúng có mặt ở đó, “Trẩm sẽ cho người thanh niên này về nhà, nếu có ai trong các ngươi dám bảo lãnh, và nếu người thanh niên này không trở lại thì kẻ đó phải chết thay.”

Nhà vua nghĩ là không ai dám bảo lãnh như thế, nhưng có người dám đứng ra bảo lãnh. Mọi người đều cho rằng người này phải chết thay cho người thanh niên đó, vì chắc chắn hắn sẽ trốn luôn.

Nhưng đúng hai ngày, người thanh niên đó đến phủ phục trước mặt vua, “Tâu bệ hạ, tôi đã làm xong mọi việc, hôm nay tôi xin đến để chịu án tử.”

“Thế là ngươi không trốn luôn à?”

“Thưa tôi không muốn thất tín, để cho không ai nói được sự tín trung đã bến mất khỏi thế giới con người.”

Quay sang người bảo lãnh, nhà vua hỏi, “Còn ngươi, sao ngươi dám bảo lãnh cho người xa lạ này?”

“Tâu bệ hạ, vì tôi muốn chứng tỏ lòng nhân hậu và can đảm hy sinh cho kẻ khác vẫn còn trong xã hội loài người.” Và từ trong đám đông, người con của kẻ bị chàng thanh niên giết chết tiến ra phủ phục trước măt vua và nói: “Tâu bệ hạ, giờ đây tôi xin bệ hạ tha cho chàng thanh niên bị án tử hình này. Tôi và gia đình đã tha cho anh ta rồi, vì tôi muốn chứng minh trong xã hội con người còn có kẻ biết tha thứ cho nhau.”

5. Tinh thần đoàn kết xây dựng

Có sáu người đi lạc giữa đêm giá lạnh miền Bắc cực. Họ xúm xích nhau bên đống lửa để đỡ giá lạnh như cắt da xé thịt. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người đang cầm một thanh củi trên tay, mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.

Người thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen. Bà tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?”

Người thứ hai nhìn thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ, “Tại sao mình phải hy sinh khúc củi này sưởi ấm kẻ thù?”

Người thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có sang trọng. Anh tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh miếng củi của mình để sưởi ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?”

Người thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh ta thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ, “Dại gì mình bỏ thanh củi của mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh mạt kiếp và lười biếng đó.”

Người thứ năm chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng đã khinh dễ hà hiếp người da màu. Anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để trả thù bọn da trắng.

Người sau cùng thuộc thành phần du đãng, không tin ai cũng chẳng làm việc gì cho ai nếu không có lợi. Hắn tự nhủ, “Nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.”

Như thế, tất cả sáu người đều sưởi ấm nhờ đống lửa đang tàn lụi, nhưng không ai muốn bỏ thanh củi của mình vào cho nó tiếp tục sưởi ấm cho mình và cho những người cùng lạnh lẽo như mình. Cuối cùng sáu người đều chết cóng vì giá lạnh, không chỉ giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe phái.

6. Ấn tượng xấu

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khóai trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu”? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.

7. Thuê tài xế lái xe.

Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.

Người giầu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.

Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.

Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.

Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.

Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá”.

(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20)

Hôm nay Chúa nói với chúng ta: nếu tay hay chân, hay mắt nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn chúng ta lánh xa dịp tội. Đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội. Ngoài ra, chúng ta còn phải nỗ lực hy sinh nhiều để giữ lòng trong sạch và trung thành với Chúa. Thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

 

16. Óc bè phái.

Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất cảm động, khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc người ta đã hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.

Câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới óc phe nhóm và tinh thần bè phái của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của Gioan. Thực vậy, ông không thể chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa, không thuộc về phe mình, mà lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm được.

Tên của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy có một sức mạnh, nhưng đối với Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của Chúa mới có quyền xử dụng sức mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà ngay cả nhóm môn đệ, đều cố sức ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu. Họ muốn giữ độc quyền. Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai cũng lấy danh Chúa mà trừ quỷ thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa. Chúng ta không biết các ông đã làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.

Chắc hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay của bản thân Ngài. Vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Hẳn anh ta phải có một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta không phải là môn đệ chính thức trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có những môn đệ theo sát Chúa Giêsu và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng trái tim họ thì lại rất gần Ngài.

Các môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai không ủng hộ các ông đều là kẻ thù của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài hiền lành và bao dung, nên Ngài có nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến chúng ta phải nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch một đường thật rõ để tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và dân ngoại. Chúng ta sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi với người khác, chúng ta sẽ có nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một Đức Kitô mà có thể họ đã mang lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần gọi tên Ngài trên môi. Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn nhát và khiếp đảm.

Hơn thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta thực hiện: Hãy mở ra với thế giới, hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng như hãy mở ra với những người chưa tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính chiếu soi trên mọi người và cho mọi người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn hoạt động giữa các dân tộc.

 

17. Tinh thần cởi mở - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá)

Tin mừng kể: “Một người không theo chúng ta, nhưng lại nhân danh Thầy mà trừ quỷ”. Người đó bề ngoài không đi theo Chúa như các môn đệ, nhưng chắc chắn bên trong, tâm trí ông đã tin theo Chúa rồi. Ông có tin Chúa là Đấng quyền phép hơn ma quỷ, ông mới nhân danh Chúa, mới tin cậy danh Chúa mà đuổi quỷ. Ông vừa có đức tin, vừa có lòng bác ái thương cứu giúp kẻ bị quỷ hành hạ.

Thời trước, cứ đến tối 30 tết, các cụ đạo đức nhất gia đình, đến nhà thờ xin nước thánh về rảy khắp các gia đình con cháu. Các cụ xin nước thánh của Chúa có sức đuổi ma quỷ để sang năm mới, mọi gia đình con cháu được thoát khỏi mọi ám ảnh sự dữ của ma quỷ hãm hại. Năm mới được mọi sự nên mới, nên tốt đẹp, cả hồn an xác mạnh.

Phong tục Việt Nam xưa, trước khi bước sang năm mới, nhà nào cũng trồng cây nêu thật cao và thẳng vút, dưới sân vẽ những mũi tên bắn đi tứ phương để xua đuổi ma quỷ ngay từ những ngày đầu năm mới, mong được mọi sự an lành suốt năm, phải chăng đó là cách tham gia vào công cuộc xua trừ quỷ dữ của Đức Giêsu? Họ tin có quỷ hãm hại con người. Họ quyết tâm trừ khử chúng, coi chúng là nguyên nhân gây ra tội ác và tai họa. Chúng gieo rắc tội lỗi xấu xa cho con người.

Họ đã thực hiện công cuộc như Đức Giêsu đã thực hiện là giải thoát con người khỏi ách nô lệ của quỷ dữ, khỏi mọi ảnh hưởng của quỷ xấu xa để con người được sống an lành, tốt đẹp trong ánh sáng chí thiện, chí mỹ là Thiên Chúa.

Mục đích việc trừ quỷ của họ rất hợp với mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Người đến thế gian để cứu loài người thoát vòng nô lệ ma quỷ, để trở về làm con Thiên Chúa. Vì thế, trong bí tích Rửa tội, Linh mục hỏi kẻ sắp chịu phép Rửa tội: “Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ bỏ ma quỷ, là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không? Họ trừ khử ma quỷ là họ muốn sống trong tự do của con cái tốt lành, tức là con cái Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, những ai tốt lành đều là con cái Thiên Chúa. Như vậy, việc trừ quỷ của “người không theo chúng ta” xét về mục đích và thiện tâm thiện chí, thì tự căn bản nền tảng, họ đã theo Chúa thực sự rồi. Cho nên, họ đáng được Thiên Chúa chúc phúc bình an và cứu độ, như các thiên thần đã hát khi Chúa giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Họ chỉ khác chúng ta là họ chưa được nhận những nghi thức bên ngoài như chúng ta. Chúng ta trừ quỷ thì đọc lời Chúa, dùng nước thánh, tuyên xưng đức tin rõ ràng bằng lời nói và chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn họ, họ diễn tả theo cách thức dùng cây nêu, mũi tên là dấu chỉ như một quyền phép siêu phàm mạnh mẽ hơn quỷ để trừ quỷ, nhờ một Đấng tốt lành để bảo vệ họ mà xua đuổi những loại xấu xa, độc hại. Như vậy, họ chỉ khác chúng ta về phương diện dụng cụ diễn tả bên ngoài, chúng là những dấu chỉ phụ thuộc để diễn tả điều căn bản nền tảng bên trong.

Bí tích của đạo Chúa cũng là dấu chỉ bên ngoài chỉ những mầu nhiệm huyền bí thiêng liêng bên trong. Đức Giêsu đã dùng rất nhiều những dấu chỉ của trần thế để diễn tả những mầu nhiệm nước Trời như thế. Người đã dùng những hình ảnh sinh hoạt, văn hóa hay thiên nhiên, hữu hình để diễn tả mầu nhiệm nước Trời vô hình, như: men, muối, ánh sáng, hạt cải, cỏ lùng, người gieo giống, người quản lý, nén bạc, tiệc cưới hoàng tử, chàng rể, các cô phù dâu … nhất là Người đã dùng thân xác phàm trần của Người cũng như thập giá, và lưỡi đòng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người. Đó là cách hội nhập văn hóa, là tinh thần cởi mở đại kết của Đức Giêsu, biết trân trọng những giá trị trần thế, những giá trị khác biệt chúng ta. Nhưng những giá trị ấy cũng thực là những giá trị Thiên Chúa đã dựng nên. Chính vì thế, Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta làm gì. Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Họ trừ quỷ là họ đã thực sự nhân danh Đức Giêsu, họ đã tích cực ủng hộ công cuộc cứu thế của Người. Sao lại ngăn cản họ? Sao không đón rước họ vào hàng môn đệ của Đức Giêsu? Nhiều khi chúng ta ăn phải đũa của Pharisiêu quá lệ thuộc vào nghi thức bên ngoài, mà lòng thì xa Thiên Chúa, ngăn cản họ, coi chừng chúng ta ngăn cản Thánh Linh, vì “Thánh Linh muốn thổi đâu thì thổi”. Họ có thể đã được rửa trong Thánh Thần. Họ là những Giakêu, đã tìm cách nhìn thấy Đức Giêsu. Họ là những sĩ quan La mã đã đến xin Người cứu chữa đầy tớ, là những người Samari nhân hậu đã được Đức Giêsu khen ngợi và nêu gương cho chúng ta. Họ là gia đình viên thái giám, người Thêôphi, là những gia đình Cornêliô (Cvtd. 8, 26-40 và 10, 1-48). Họ cũng có thể là “Người đã cho anh em một ly rước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu?”. Còn chúng ta, hãy coi chừng, rất có thể chúng ta làm cho một trong những tín hữu bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn. Hãy coi chừng tay, chân, mắt, mũi, miệng lưỡi chúng ta đừng để ma quỷ xúi giục làm gương mù gương xấu cho kẻ khác, kẻo sẽ bị ném vào lửa hỏa ngục, là nơi dòi bọ rúc rỉa người ta và lửa không hề tắt.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được tâm hồn quảng đại cầu nguyện như Môisen: “Phải xin Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ. Xin cho chúng con biết bước vào nhà chư dân như thánh Phêrô đã bước vào gia đình Cornêliô để tất cả đều được lãnh nhận Thánh Thần. Amen.

 

18. Cùng nhau rao truyền chân lý

Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trên thế giới cũng như trong lòng mỗi người, cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chân lý tối hậu hầu được ơn cứu độ.

Thế nhưng trong việc rao truyền chân lý, Chúa không chỉ trao cho một số người, nhưng kêu gọi mọi người hãy sống và làm chứng cho Sự thật, ai đứng về phía Sự thật thì nghe tiếng Chúa. Sự thật là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc loài người. Tất cả những ai nghe biết Tin mừng này đều được phép và có bổn phận loan báo cho mọi người xung quanh.

Ngay từ thời Cựu ước, trong Bài đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa lấy thần trí của Môsê ban cho 70 vị bô lão để họ cùng với Môsê lo cho dân Chúa. Tuy nhiên, lúc đó có một số người ganh tỵ dùm cho Môsê và xin Môsê cấm các ông bô lão nói tiên tri. Môsê đã tỏ rõ lập trường của mình: "chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban thần trí Người cho họ". Môsê không dành độc quyền cho mình trong việc giảng dạy nhưng sẵn sàng cho nhiều người cộng tác với mình, miễn sao cho danh Chúa được cả sáng.

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa giêsu cũng không dành độc quyền giảng dạy và chữa bệnh cho nhóm tông đồ mà sẵn sàng cho phép những ai tin mến Chúa được cộng tác vào công việc này. Chúa giêsu đã sửa lại quan niệm độc quyền của các ông:"đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh thầy làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu thầy. Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con". Ai nhân danh Chúa làm điều tốt thì Chúa ủng hộ, còn ai làm điều xấu thì đáng bị phạt, nhất là khi điều xấu đó làm ảnh hưởng đến người khác và trở nên gương xấu cho những kẻ bé mọn.

Như vậy, mọi người trên thế giới dù thuộc tôn giáo hay dân tộc nào cũng hãy sống tốt, sống nhân hậu, hợp tác với nhau để chân lý được sáng tỏ như vầng hồng chính ngọ, chân lý về một Thiên Chúa nhân từ hay xót thương nhưng công bằng vô cùng. Ngài là Đấng tạo dựng nên muôn loài và cũng là Đấng ban ơn cứu chuộc cho nhân loại. Những ai rao truyền chân lý, trước tiên hãy là tấm gương phản chiếu lòng nhân từ, yêu thương, công bình của Thiên Chúa nơi chính mình, Nhờ đó, mọi người nhận thấy Thiên Chúa trong công việc và đời sống của mình, họ sẽ ca khen Thiên Chúa và đáp trả lại tình thương của Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô và các môn đệ của Người.

Những ai còn sống trong đố kỵ, phân biệt giai cấp, kỳ thị chủng tộc, loại trừ người khác là đang làm ngược lại ý Chúa và đang tiêu diệt chính mình. Chuyện kể rằng: có 6 người đi lạc giữa đêm giá lạnh vùng băng tuyết. Họ xúm xít nhau bên đống lửa để đỡ giá lạnh. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người đang cầm một thanh củi trên tay mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.

Người thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen. Bà tự nhủ: tại sao mình hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?

Người thứ hai thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ: tại sao mình phải hy sinh khúc củi này để sưởi ấm kẻ thù?

Người thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có sang trọng. Anh tự nhủ: tại sao mình phải hy sinh miếng củi này để sưởi ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?

Người thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ: dại gì mình bỏ thanh củi mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh lười biếng này.

Người thứ 5 chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng hay hà hiếp người da màu, anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để trả thù bọn da trắng.

Người sau cùng thuộc nhóm xã hội đen, không tin ai và cũng chẳng làm việc gì cho ai nếu không có lợi. Hắn tự nhủ: nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.

Do đó, đống lửa từ từ tàn hết. Cuối cùng cả sáu người đều chết cóng vì giá lạnh, không chỉ vì giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe phái...

(x. Minh Hoạ Lời Chúa - LMTV- Tập 3, tr.142, "Tinh thần đoàn kết xây dựng")

Nếu mọi người biết bỏ qua những khác biệt nhỏ nhen và những tính toán ích kỷ thì thế giới ngày càng phát triển trong ổn định. Nếu loài người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương, quãng đại, hy sinh, nếu loài người biết loại bỏ óc bè phái và sống cho Sự Thật, thì Nước Chúa được trị đến và nhân loại hạnh phúc biết chừng nào.

 

19. Quyền nhân danh Chúa

Bảo vệ quyền lợi là một khuynh hướng chúng ta có thể tìm thấy ngay cả ở những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn.

Thực vậy, trong Cựu Ước, Giosuê, người tuỳ tùng của Maisen đã muốn dành ơn nói tiên tri cho một số thân tín của mình mà thôi. Con trong Tân Ước, các tông đồ đã ngăn cấm những kẻ không thuộc nhóm 12 của các ông được nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thái độ của Gioduê và của các tông đồ đã tỏ lộ một cái nhìn hẹp hòi và cục bộ về quyền năng của Chúa được ban cho các ông. Các ông đã chủ quan mà nghĩ rằng: Quyền năng các ông có trong việc trừ quỷ là do thuộc về nhóm Mười Hai và được Chúa tuyển chọn. Các ông quên rằng mình đã trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu, chứ không phải tự khả năng của bản thân mình. Như vậy Chúa Giêsu đã bị che khuất, hay đúng hơn đã bị giới hạn bởi cái đầu óc phe nhóm và bè phái.

Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn người ta đóng khung quyền năng của Ngài, cũng không muốn để ai chiếm lấy quyền năng đó làm của riêng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã giúp các môn đệ nhận ra sự thật, Ngài nói: Không ai nhân danh Thầy làm phép lạ, rồi lại có thể nói xấu Thầy. Các tông đồ có thể trừ được quỷ, không phải nhờ ở việc các ông thuộc về nhóm Mười Hai, mà chính là nhờ danh Chúa Giêsu, nhờ ở quyền năng của Thiên Chúa. Như thế, nhân danh Chúa Giêsu mà làm phép lạ và truỳ quỷ, tức là đã tin vào Ngài. Và một người đã làm được các phép lạ nhờ ở một lòng tin, sẽ không thể quay lưng chống lại Ngài.

Như thế, quyền năng người ta có được là do lòng tin ở Chúa, chứ không phải do bất cứ tước hiệu nào người ta mang lấy. Sở dĩ các tông đồ làm được viêc nọ việc kia cũng là do bởi đã tin vào Chúa và đã thuộc về Ngài. Phêrô sau này đã hiểu rõ bài học trên đây của Chúa Giêsu, khi ông đứng trong sân đền thờ và chữa lành cho người bất toại. Ông nói: Chính nhờ tin vào danh Đức Kitô mà anh này, như quý vị đã thấy, được làm cho vững mạnh. Và thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã lập luận: Vậy những kẻ thuộc về Ngài thì hành động như Ngài, cũng thế, những kẻ hành động như Ngài thì thuộc về Ngài.

Để giúp các ông loại bỏ óc bè phái vị lợi, cũng như để giúp các ông biết tôn trọng những người đã tin ở Ngài, Chúa Giêsu xác quyết: Một việc làm nhỏ đối với những người tin, dù chỉ là cho đi một ly nước lã, cũng đáng được ân thưởng. Trái lại, làm cớ vấp phạm cho một kẻ bé mọn, đã tin vào Chúa, thì cũng đáng bị xô xuống biển. Là những người tín hữu, chúng ta có biết thực sự cộng tác với nhau, để danh Chúa mỗi ngày một cả sáng và Nước Chúa mỗi ngày một rộng mở hay không?

 

20. Nhân ái trong thực hành

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Thánh Phaolô đã từng phát biểu, ‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu…, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả… nhưng vui khi thấy điều chân thật’ (1 Cr 13:4-7), phải chăng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn đề cập cách thực tế tới các đặc tính của đức mến này, cũng như coi chúng không chỉ như thuộc tính của con người, mà còn áp dụng cho cả Thiên Chúa nhân ái nữa?

‘­Đức mến tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả!’ Sự khác biệt giữa môn đệ Gio-an và thầy Giêsu không chỉ hệ tại nơi hành động ngăn cản hay đừng ngăn cản một việc thiện không rõ mục đích, ‘có người lấy danh Thầy mà trừ quỉ’. Sự khác biệt lớn giữa hai người là ở chỗ, Thầy Giêsu có lòng nhân còn Gio-an thì không. Môn đệ của một Đấng Kitô nhân ái và hay xót thương không thể là người hành động thế này hay thế khác, nhưng phải là người có lòng nhân. Bao lâu còn khắt khe, xét nét… thậm chí lên án người anh em trong cách cư xử của họ, thì chưa đáng coi mình là môn đệ chân chính của Đức Kitô. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”; trước một việc thiện, dù nhỏ nhất hay xuất phát từ một con người bất xứng nhất, Tin Mừng không những đòi ta có thái độ khoan nhượng, mà còn đòi phải đón lấy như một sự ủng hộ tích cực. Trong tinh thần đó, Don Bosco, vị thánh hết lòng yêu thương giới trẻ, đã lên tiếng: “Hãy yêu mến những gì trẻ yêu thích”, hay “Các con cứ việc la hét chơi đùa thỏa thích… miễn là đừng phạm tội”. Cũng trong tin tưởng và hy vọng của Tin Mừng mà ta nhận ra giá trị to lớn của các việc phục vụ thường ngày, dầu nhỏ bé nhất… như ‘cho người anh em uống một chén nước lã’. Đương nhiên ‘vì lẽ anh em thuộc về đấng Kitô’ được hiểu là nhân danh lòng nhân ái xót thương vô biên của Thiên Chúa ‘được tỏ hiện nơi Đức Kitô Giêsu’.

‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’; chính trong đức mến đối thần này mà ta nhận ra sự trầm trọng của cái gọi là ‘làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, trầm trọng tới độ, trong cách nói ngoa ngữ của người Do Thái, ‘thà buộc cối đá lớn vào cổ mà ném xuống biển còn hơn’. Cũng vậy để tránh dịp tội, nếu cần, ta cũng phải sẵn sàng hy sinh mất mát tất cả, ‘thà chặt tay, chặt chân, móc mắt…’ Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, khi bàn về vấn đề ăn thịt cúng (chương 8), Phao-lô cho chúng ta thấy, vì đức mến, ông đã tự buộc mình vào sự từ bỏ quyết liệt như thế nào; “Nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1 Cr 8:13). Và lý lẽ ông đưa ra cũng rất thuyết phục: “Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc! Như vậy, phạm đến anh em và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến đức Kitô!” (câu 11-12).

Như vậy theo Phao-lô, Đấng đã tôn trọng sự yếu đuối của con người tội lỗi trước hết lại là chính Thiên Chúa xót thương. Cái chết tự hiến của Giêsu - Con Một Ngài cho thấy Thiên Chúa đã nhẫn nhục và hiền hậu trước sự yếu hèn của từng người chúng ta như thế nào. Và còn hơn cả ‘chặt tay, chặt chân, móc mắt…’, còn hơn cả ‘không bao giờ ăn thịt nữa’, Thiên Chúa đã trao nộp chính người Con Một chí ái để chết trên thập giá vì chúng ta (xem Ga 3:16). Mạch văn của Phao-lô cũng cho chúng ta hiểu rằng, ‘làm cớ sa ngã’ không chỉ mang nội dung làm gương mù gương xấu trong lãnh vực luân lý, mà còn hàm cả Tin Mừng và thần học nữa. “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, câu xác quyết này của Đức Giêsu rõ ràng chất chứa nội dung đức mến nhân ái của Tin Mừng khi chính Người tự giời thiệu mình như sau, ‘không bẻ gẫy cây lau bị dập, khộng giập tắt tim đèn còn khói’ (Mt 12:20). Nếu Thiên Chúa nhân ái đã thà hy sinh Con Một mình để cứu lấy nhân loại tội lỗi, trước cả khi họ hoán cải để trở nên hoàn thiện, thì tôi là ai mà dám nhân danh sự thánh thiện, công chính, đạo đức hay hiểu biết của mình để loại bỏ người anh em? Làm như thế là tôi đang gây cớ vấp phạm, ‘làm tổn thương lương tâm yếu đuối của người anh em’. Chỉ cần nhìn vào thái độ Đức Giêsu cư xử với người phụ nữ Sa-ma-ri thấp kém bên bờ giếng Gia-cóp, khi kêu mời bà hãy kín múc Nước Hằng Sống bất chấp tình trạng sống chung chạ của chị (Gio-an chương 4), là tôi hiểu ra ngay ‘đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’ phải như thế nào. Trong môi trường Tin Mừng chân chính, ‘kẻ bé mọn đang tin’ phải được trân trọng và bảo vệ hơn hết. Do đó tôi không được phép nhân danh bất cứ giá trị nào, dầu lớn lao tới mấy, để kết án hay loại trừ họ.

Nếu tôi muốn trở nên mục tử nhân lành như Đức Kitô mong ước, bài học nhân ái này dứt khoát phải được tôi thuộc lòng, và tôi cũng mơ ước được cùng các anh em tiến bước và phục vụ trong một Hội Thánh nhân ái.

Lạy Chúa Giêsu nhân ái! Có lẽ còn lâu con mới hiểu thấu lòng nhân ái của Chúa, cũng như phải sống đức mến thần linh này với hết mọi người ra sao. Trong công tác mục vụ, xin cho con nằm lòng câu xác quyết của Phao-lô: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến… thì chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13:1-3); chỉ như thế con mới thực sự dõi theo bước chân của vị Mục Tử Nhân Hậu. Amen.

 

2. Đừng ngăn cấm

Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của một người thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan trọng của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.

Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào tiếp đón Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta. Chúa nói về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền hạn của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói xấu Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?

Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa thấy một niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn đệ đã có một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các môn đệ trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm. Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.

Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ đó đưa đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh giáo xứ mình mà thôi chăng.

Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các người nhiều kẻ từ phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.

Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy người này người nọ thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người vô thần, là người Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng phải ở trong đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại sống được tốt lành như họ chưa.

 

22. Sống theo Thần Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt, làm sao để hình thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống bình an hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại?

I. Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có

Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả, Ngài là Cha của tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang sở hữu hoặc đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad và Medad nói tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng làm cho những người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với Môsê được nói tiên tri.

Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe phái: nếu không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói tiên tri. Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được Thiên Chúa thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa. Cũng tương tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép lạ, vì “người đó không là một trong chúng ta”. Ai có thể làm phép lạ nếu không phải chính Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả lời Yoan: “đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng không phải là kẻ chống lại Thầy”. Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo chúng ta.

Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên Chúa ra khỏi hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực ra Thiên Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để tất cả được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do Thiên Chúa mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của mình, là muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.

II. Những người bám víu vào của cải đời này

Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều người đời thường tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất, thỏa mãn xác thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất cả. Tiền bạc giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người đời kính trọng.

Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà chẳng được: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Với đồng tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con người, kể cả những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc là quan trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và phương tiện có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.

Làm sao để con người có một bậc thang giá trị đúng đắn, nghĩa là đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên đời này, điều gì là quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể đạt được hạnh phúc trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và theo đuổi những điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ, và chính người đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một giá trị tuyệt đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt đối, thì người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới hạnh phúc đích thực.

III. Dứt khoát với dịp tội

“Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!

Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các tông đồ: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Thân xác có những nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do tại sao Phêrô đã “không thể thức với thầy được một giờ”. Những lề luật, thường là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình ở vào dịp tội.

Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường xảy ra khi người ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những dịp tội, và cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong những trường hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do, họ sống dưới những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những trường hợp này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn rượu hay một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ sẽ lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu đối với con người của mọi thời đại.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá trị đúng đắn? Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con người và vạn vật?

2. Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người khác khổ nhất? Tại sao?

3. Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm cho chính mình cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh phúc đích thực?

 

23. Giải phẫu – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy đã yêu’)

Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.

Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.

Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.

Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.

*****

Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi" (Mc.9,43). Kiểu nói "chặt tay, chặt chân, móc mắt" chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.

Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.

Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. "Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn", đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể "cắt bỏ" một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính... Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn "móc con mắt, chặt cánh tay". Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: "Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao".

Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.

****

Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen.

 

24. Hãy tránh xa dịp tội - Lm. Nguyễn Minh Hùng

Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?

Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hội chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man r?. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.

Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách Giáo lý cho biết: “…Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người.

Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý” (GLCG 2297).

Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?

Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.

Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt… Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.

Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.

Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.

Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và Suy niệm Lời Chúa… là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.

 

25. Đức Kitô, con đường cứu rỗi duy nhất

(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)

Các môn đệ của Ðức Giêsu quan sát thấy có người không thuộc về nhóm của họ, nhưng đã nhân danh Thầy mình để trừ đuổi ma quỉ. Chắc chắn người này không hề được Ðức Giêsu trao phó cho sứ vụ đó, vì thế các môn đệ đã tìm cách ngăn cản anh ta không được tiếp tục làm như thế nữa! Và đương nhiên họ tin chắc rằng Sư Phụ mình sẽ đồng ý với họ ngay.

Thế nhưng, Ðức Giêsu lại có thái độ hoàn toàn khác hẳn: «Các con đừng ngăn cản anh ta làm gì! Vì không có ai vừa nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi lại quay ra nói xấu Thầy một cách dễ dàng được. Vậy, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta! » (Mc 9,39-40).

Ðúng vậy, những « kẻ đứng ngoài » thường làm cho những « người đứng trong » bực mình khó chịu! Ðó là điều vẫn xảy ra trong bất cứ thời đại nào và ở bất cứ nơi nào: trong những đoàn thể và những nhóm nhỏ, trong những bè phái lẻ tẻ hay trong những giáo phái và những Giáo Hội rộng lớn hơn. Những người « đạo đức » luôn trung thành và gắn bó với Mẹ Giáo Hội thường hay dễ nghĩ tưởng và phê phán một cách tương tự về những kẻ đã xa lìa Giáo Hội bất cứ vì lý do gì: Một cách đơn giản là những con người đó không còn thuộc về chúng tôi nữa, và như thế họ cũng không còn thuộc về Ðức Kitô nữa; họ không còn được nhân danh Người để nói năng hay làm bất cứ điều gì có liên quan đến tôn giáo chúng tôi. Vâng, người ta còn cho là những con người như thế đã liều mình đánh mất phần rỗi! Bởi vì, nguyên tắc của Thần học là « ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi »! Dĩ nhiên, ngày nay người ta hiểu nguyên tắc đó khác với trước kia!

Một điều chắc chắn là Ðức Kitô muốn có một Giáo Hội duy nhất mà thôi và tất cả những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một điều xấu, đã xảy ra ngoài ý mưốn của Người. Nhưng trách nhiệm về những rạn nứt và chia rẽ đó thường là do cả hai phía, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể phân xử được! Còn những kẻ thừa kế những rạn nứt và chia rẽ đó, tức những thế hệ con cháu sau này ở cả hai phía, tuy phải gánh chịu những hậu quả, nhưng không chịu trách nhiệm về những nguyên nhân đem đến những chia rẽ đó. Do có một đức tin chắc chắn và ý chí ngay lành họ cũng có thể sống, nói năng và hành động nhân danh Ðức Giêsu. Ðó cũng là điều mà chính Công Ðồng Chung Vatican II đã khẳng định. Chỉ những ai phạm tội mà xa lìa Giáo Hội, thì liều mình đánh mất phần rỗi. Ðối với những kẻ như thế, được áp dụng nguyên tắc thần học « Ngoài Giáo Hội không có sự cứu rỗi ». Công Ðồng dạy: « Vì thế, những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Ðức Giêsu Kitô, như một phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không được cứu rỗi » (Hiến chế Lumen Gentium, số 14).

Một câu hỏi khác đầy gai góc và có tính cách thúc bách, đó là: Những kẻ vô tín ngưỡng, tức những người chẳng những ở ngoài Giáo Hội, nhưng còn không tin kính Ðức Giêsu Kitô, có được cứu rỗi không? Con số những người như thế trên khắp thế giới lại là đại đa số!

Ðức tin Kitô giáo tin nhận Ðức Kitô là « Nguồn » (Dt 2,10; 5,9) và là « Ðấng Trung Gian » Tm 2,5) của sự cứu độ vĩnh cửu. Vì thế, thánh Phêrô « đầy ơn Chúa Thánh Thần » đã công bố những lời sau đây: « Ngoài Ðức Giêsu Kitô ra, không một ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ » (Cv 4,12). Như vậy, đương nhiên những ai không tin nhận được Kitô sẽ không được cứu rỗi?

Về vấn nạn này, Công Ðồng Vatican II cũng đã đưa ra những phán quyết một cách khác hẳn. Bởi vì, Thiên Chúa luôn muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi, như đã được ghi rõ trong Kinh Thánh: « Người mong muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi và đạt tới sự hiểu biết chân lý » (1Tm 2,4) và « Người là Ðấng Cứu Ðộ của tất cả mọi người, nhất là của các tín hữu » (1Tm 4,10), nghĩa là không chỉ các người tín hữu mà thôi! Vâng, không phải tất cả mọi người đều có được điều kiện thuận lợi để có thể tìm hiểu đức tin và tin nhận Ðức Kitô. Nhưng chính Ðức Kitô đã chết cho mọi người, không phân biệt hay loại trừ ai. Người đã đền thay cho tội lỗi của tất cả mọi người và chuộc lại đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người! Trong điểm này Công Ðồng đã dạy tiếp: « Thực vậy, vì Ðức Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là một ơn Thiên Chúa ban, do đó chúng ta phải tin tưởng cách chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh theo cách thức đã được Thiên Chúa ấn định » (Gaudium et Spes, số 22; x. Lumen Gentium, số 16; Ad Gentes, số 7).

Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Ðức Giêsu Kitô, hành động một cách âm thầm trong tâm hồn của tất cả mọi người. Người soi sáng cho họ và qui hướng lòng trí họ về với Thiên Chúa. Nếu con người biết vâng nghe theo tiếng lương tâm của mình, họ sẽ được cứu rỗi nhờ vào sức mạnh của ân sủng Ðức Kitô ban. Nói cách khác, không có Ðức Giêsu thì không một ai có thể được cứu rỗi. Ðồng thời điều đó cũng minh nhiên khẳng định rằng ý kiến của rất nhiều người ngày nay cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều giống nhau, đều dạy người ta ăn ngay ở lành và mỗi người nếu sống theo niềm xác tín của tôn giáo mình một cách trung thực đều có thể nên thánh, là hoàn toàn sai lầm. Ngoài niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô, không được Phúc Âm soi sáng hướng dẫn và không thông công với Giáo Hội, con đường dẫn tới sự cứu rỗi sẽ trở nên vô vàn khó khăn và đầy hiểm nguy. Ðiều đó đã được chứng minh trong suốt giòng lịch sử của nhân loại. Ðúng vậy, « con người bị ma quỉ gạt gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ tráo đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối và phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21-25), hoặc: « vì họ sống chết ở đời này như thể không có Thiên Chúa, nên bị rơi vào cảnh hoài nghi thất vọng tột độ » (Lumen Gentium, số 16).

Bởi vậy, đức tin Kitô giáo không phải một loại hàng xa xỉ, không cần có nó người ta vẫn có thể sống chết một cách tốt lành được, nhưng là một ơn lành tối quan trọng mà Thiên Chúa đã ban cho con người, để dẫn đưa họ đạt tới sự cứu rỗi.

Vì thế, Giáo Hội không trình bày đức tin Kitô giáo một cách dửng dưng hời hợt như bất cứ một ý thức hệ nào mà con người có thể tuỳ ý lựa chọn, nhưng Giáo Hội loan báo đức tin một cách hết sức hăng hái và khẩn cấp như Ðức Giêsu đã làm. Một khi con người được nghe biết sứ điệp Tin Mừng, cần phải quyết định. Con người phải sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, để giữ trọn sứ điệp đó, hầu có thể đạt tới được sự cứu rỗi đời đời; Vì thà mất mát một phần cơ thể còn hơn là mất luôn cả cuộc sống (x. Mt 18,8). Nói cách khác, sự cứu rỗi hay hạnh phúc vĩnh cửu luôn có cái giá của nó và chỉ những ai chấp nhận trả cái giá đó, thì mới có thể chiếm hữu được nó!

 

26. Một dân tộc ngôn sứ – Jean Yves Garneau.

Sự dữ bị tố cáo.

Lời Chúa hôm nay thật là khắt khe. Thánh Giacôbê tỏ ra không khoan nhượng đối với những người giàu có: “Hãy khóc than… tai họa chờ đợi các ngươi đó. Của cải các ngươi bị mục nát…” Những lời thánh nhân mô tả gây ấn tượng mạnh mẽ, liệu ngài có nói khác đi vào thời đại chúng ta không? “Các ngươi không trả tiền công cho người gặt lúa. Các ngươi tìm kiếm lạc thú và sự xa hoa, các ngươi tiệc tùng trong lúc người ta chém giết kẻ khác…”.

Tin Mừng cũng gắt gao như vậy khi đòi hỏi ta phải dùng những phương thế quyết liệt để thoát khỏi sự dữ: “Nếu tay ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy chặt nó đi… Nếu mắt ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy móc nó đi…”.

Cám dỗ để mặc.

Nơi chúng ta và ngoài chúng ta, trong đáy lòng chúng ta và trong xã hội vẫn có sự dữ và tội lỗi. Ta biết thế, ta nhận thấy thế, ta nghe nói đi nói lại như thế. Và ta có khuynh hướng là đành chịu vậy thôi. Ta sẽ nói: “Không làm gì được đâu. Bao giờ cũng thế mà, ta không thay đổi được thế giới đâu”. Rồi một khi đã nói như vậy rồi, người ta đồng lõa với một thế giới tầm thường và quen đi với chính sự tầm thường của mình nữa. “Tôi không đến nỗi tệ hơn kẻ khác. Có những người còn dở hơn tôi nữa. Tôi quá già rồi thay đổi sao được, phải chấp nhận con người mình như vậy thôi, và chấp nhận thế giới như hiện có”.

Những ngôn sứ không được tín nhiệm.

Nhưng, may mắn thay, không phải mọi người đều phản ứng như vậy, không phải mọi người đều cam chịu cả. Ở giữa chúng ta vẫn còn có những ngôn sứ đang kêu gào, tố cáo, răn đe. Họ không chỉ nói mà thôi –điều này thường quá dễ– họ hành động nữa. Họ dám chịu liên lụy với những kẻ không được kính trọng, những kẻ chịu thiệt thòi về quyền lợi của mình, bị ngược đãi. Họ đấu tranh chống lại sự dữ chung quanh và sự dữ nơi chính mình.

Ta thấy đó, đây là lịch sử được lập lại. Trong đoạn sách dân số, người ta nói với chúng ta về hai người: Eldad và Médad, nói tiên tri trong lúc những ngôn sứ khác đã ngưng nói. Người ta tìm cách bắt họ im đi ngay. Họ không nói đúng lúc, họ không theo luật lệ đã được thiết lập. Họ xáo trộn hết thảy mọi sự.

Một biến cố tương tự được kể lại trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người trừ quỷ nhân danh Thầy; Chúng con đã ngăn cản nó vì nó không thuộc nhóm chúng ta”.

Môsê và Chúa Giêsu có cùng một phản ứng như nhau: “Hãy để các ngôn sứ nói tiên tri. Hãy để họ nói. Hãy để họ hành động”.

Ta hãy xem những kẻ nói hơi mạnh một chút trong môi trường của chúng ta, họ tố cáo những sự hèn nhát của chúng ta, làm xáo trộn những tư tưởng chúng ta đã nhận được, làm cho chúng ta hoang mang, bắt chúng ta phải ra khỏi những lối suy tư và ứng xử của chúng ta. Những ngôn sứ này có thể là con cái, người phối ngẫu, một người láng giềng, một bạn đồng nghiệp của ta. Chúng ta dành cho họ số phận nào? Chúng ta có nhạy cảm trước lời kêu gọi của họ không?

Nhiều ngôn sứ.

Cứ để cho các ngôn sứ nói tiên tri, nâng đỡ, khuyến khích họ và để họ thách thức mình, đó là thái độ nên có. Nhưng xem ra còn phải làm hơn nữa. Chúng ta có nhớ lời ước mong của Môsê không: “Ôi! Ước gì Chúa có thể đặt Thần Khí của Ngài nơi họ “hết thảy” để làm cho toàn thể dân Ngài trở thành một dân ngôn sứ!”.

Cần có những ngôn sứ trên thế giới, trong Giáo Hội, trong các cộng đồng giáo xứ, trong các gia đình. Cần có những người đàn ông và đàn bà trẻ tuổi hoặc cao niên nói và hành động thế nào để khắp nơi trên thế giới mọi người được mời gọi và khuyến khích đẩy lui những gì làm cho con người mất tính người và làm tăng trưởng những gì giúp họ nên người hơn. Cần tăng số –ngày càng đông hơn- những ngôn sứ để nói tiên tri làm vinh danh Thiên Chúa và gây ích cho con người. Trở thành một cộng đoàn các ngôn sứ, chúng ta có dám thành thật xin Chúa điều này không?

 

27. Ai không chống đối các là ủng hộ các con

(Suy niệm của Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)

Một ngày kia, các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu và than phiền có những kẻ tuy không cùng nhóm nhưng dám nhân danh Ngài mà trừ quỷ! Thái độ này chẳng qua cũng chỉ là một phản ứng tự nhiên khi các môn đệ muốn bảo tồn sự độc quyền rao giảng Tin Mừng và công tác sứ đồ. Bài đọc thứ nhất cũng kể lại trường hợp tương tự: Giosuê bất mãn khi thấy Thần Linh Thiên Chúa ngự trị trên hai bô lão và hai vị này nói tiên tri khi chưa được ủy nhiệm. Nhưng Môisen thay vì khó chịu lại tuyên bố: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ".

Qua những đoạn sách hôm nay, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên tự kiểm thảo thái độ cá nhân hoặc tập thể của mình trước tình trạng những người đấu tranh cho công ích và chân lý. Thời nay cũng như thời Môisen, không thiếu những người tuy khác biệt tuổi tác màu da sắc tộc hay tín ngưỡng, nhưng hiên ngang lên tiếng báo động dư luận thế giới về những vấn đề quan trọng như: nhân quyền, hòa bình, sự tự do, nạn đói khổ, v.v... Nếu những người đó dám phát ngôn và hành động thật sự vì lợi ích nhân loại, dĩ nhiên là Thần Trí đã ngự trị trên họ, và ta có thể thừa nhận họ là những tiên tri thời đại mới.

Dầu vậy, ta cũng khó tránh khỏi phân vân và sẵn sàng kiểm tra lý lịch của họ để xem có cùng quan điểm hoặc tôn giáo chăng! Nếu không thì chúng ta dễ khước từ hành vi của họ. Như thế thì, thật lòng mà nói, ai trong chúng ta dám tự khoe là không có óc bè phái hoặc hẹp lượng cố chấp? Thông thường, chúng ta rất muốn ngắm nhìn những hoa quả tốt, nhưng lại muốn những thứ tốt này phải mọc trên những nhánh cây do chúng ta tuyển lựa và chỉ định, nhứt là phải thuộc vườn cây của Thiên Chúa hoặc của chúng ta chớ không của ai khác.

Thế giới ngày nay cũng như thời Chúa Giêsu đều có những kẻ trừ tà diệt quỷ. Và yêu quái thời đại chúng ta không thiếu chi trong đời sống thường nhật, điển hình là: sự vắng bóng niềm tin chân thực vào Thiên Chúa trong nhiều lãnh vực, sự đánh mất thiện giác, luân thường đạo lý bị chà đạp, những bất công và hiếp đáp bóc lột kẻ yếu, khinh miệt những người nghèo khổ, kỳ thị những kẻ không như mình... và ma quỷ cũng còn là sự thù ghét, lòng ganh tị hoặc thái độ kêu căng ngạo mạn, v.v...

Trái ngược các điều ác này, chúng ta lại biết hoặc thấy có những người, vì nghề nghiệp hoặc do tự nguyện, đang dấn thân vào các tổ chức, hội đoàn, phong trào để đấu tranh mang lại một chút tình thương cho kẻ khác hoặc cổ võ góp phần xây dựng một cuộc sống thoải mái tốt đẹp hơn... và ta có thể nghĩ ngay đến những nhà giáo dục, những y tá bác sĩ hoặc những người hy sinh thời giờ của mình để bảo vệ chính nghĩa hoặc phục vụ kẻ khác trong các công tác từ thiện bác ái...

Trước những cử chỉ cao đẹp này, ta không cần biết những vị đó có cùng tín ngưỡng, quan niệm hoặc đảng phái với ta hay không, vì chính Đức Kitô, Người duy nhất có lời ban sự sống, đã phán: “ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con. Vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền đó lại nói xấu Thầy". Qua lời nói này, Đức Kitô mời gọi chúng ta nên thoát khỏi những tranh chấp ý niệm tôn giáo hoặc đảng phái để nhận thức Thần Trí của Ngài ngự trị trên bất cứ những ai có thiện chí, với lòng trung thực và sẵn sàng phục vụ trong tình yêu thương nhân loại dưới mọi hình thức... do đó, không ai có quyền độc chiếm sứ mệnh truyền bá Tin Mừng. Công Đồng Vaticanô II có nói: “Ước gì giữa lòng Giáo Hội, chúng ta biết phát sinh lòng quý mến, tôn trọng và hoà hiệp lẫn nhau trong sự nhận biết những khác biệt chính đáng, cũng như biết cởi mở đón nhận những người anh em không cùng tín ngưỡng, nhưng có những truyền thống tàng trữ nhiều sở trường đạo hạnh và nhân phẩm quý giá..."

Vậy thì chúng ta cũng đừng nên ngạc nhiên khi thấy có nhiều kẻ ngang hàng hoặc kém sút hơn nhưng lại sống trung thực với Thần Linh Thiên Chúa và thực thi những công việc kỳ diệu hơn chúng ta. Thay vì ganh tị, ta nên ngưỡng mộ họ và chúc tụng Thiên Chúa trong kinh nguyện của chúng ta. Thay vì chống đối chỉ trích những ai không đồng bạn đồng hành, ta nên vui mừng về những hồng ân đã được trao ban cho họ, về những điều thiện được thực thi bởi kẻ khác và biết công nhận nơi họ có sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần.

Ước gì Thiên Chúa khơi dậy nơi chúng ta ngọn lửa tin yêu để thừa nhận ơn của Ngài vượt trên sự hiểu biết của chúng ta và hiện diện trong những hành vi cao thượng và tốt đẹp, để rồi chúng ta cùng thốt lên như Môisen: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ".

 

28. Mẹ của sự khám phá – Charles E. Miller.

(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’)

Phải nói rằng nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Khi kỷ nguyên kỹ nghệ hóa bắt đầu làm cho nhu cầu ánh sáng trở nên tốt hơn là những cây nến hoặc cây đèn dầu và Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Trong Giáo Hội nhu cầu là mẹ của sự khám phá, đó là một sự khác nhau. Chúng ta có thí dụ trong bài đọc một.

Khi Môisê nhận thấy dân Israel ở nơi hoang địa đã trở thành quá đông số, quá sức chăm sóc của ông, ông đã phàn nàn với Chúa về gánh nặng của mình. Chúa đã nói với ông hãy thành lập một hội đồng bô lão gồm có bảy mươi bô lão để giúp vào việc cai trị. Trên họ, Thiên Chúa sẽ gởi xuống tinh thần của Môisê, điều có nghĩa là Thiên Chúa muốn chia sẻ quyền lực và sức mạnh của Môisê cho họ. Bởi nhu cầu, Môisê đã khám phá ra mình không thể làm tất cả mọi chuyện tự sức mình. Thiên Chúa muốn cho những người khác chia sẻ sứ vụ của ông trong việc hướng dẫn và chăm lo cho dân.

Khổ thay, Giosuê đã không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa và có một lúc ông đã không lớn đủ để sẵn lòng chia sẻ tinh thần của Môisê với Eldad và Medad, là những người đã không hiện diện khi tinh thần ấy ngự xuống trên những người khác. Một điều gì đó quen thuộc đã xảy ra với Chúa Giêsu và các tông đồ. Chúa Giêsu đã chia sẻ sứ vụ của Ngài với các tông đồ nhưng khi Gioan thấy một người đàn ông không phải là một trong nhóm Mười Hai mà lại dùng danh Giêsu để xua đuổi quỷ, nên oán hận giống như Giosuê đã làm. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không bị điều khiển bởi ganh tỵ. Ngài đã vui mừng vì sứ vụ của Ngài đã được lan rộng.

Trong Giáo Hội ngày hôm nay, nguyên tắc của nhu cầu là mẹ của sự khám phá vẫn được tiếp tục. Bởi vì các phong trào bên trong Công Đồng Vatican II, các Giáo hoàng và các giám mục đã luôn luôn nhớ rằng, Thiên Chúa ngay từ kỷ nguyên đầu đã ban cho Giáo Hội một thừa tác vụ, được biết như là phó tế. Đó cũng là một hình thức khám phá, bởi nhu cầu của cộng đoàn. Trước Công Đồng Vatican II chỉ một mình vị linh mục mới được cho rước lễ, (ngay cả thầy sáu chủng viện cũng cần có phép đặc biệt). Sau Công Đồng, số những người Công giáo rước lễ tăng lên rất nhiều, Giáo Hội khám phá ra rằng những giáo dân có thể trở thành những thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ và một chức thừa tác đã được cho phép bởi Thiên Chúa và làm hài lòng Ngài. Trước Công Đồng Vatican II linh mục đã làm mọi chuyện trong Thánh Lễ, gồm cả việc đọc Thánh Kinh, nhưng sau khi trở lại với truyền thống, Giáo Hội mới khám phá ra rằng, từ xa xưa những thừa tác giáo dân cũng được biết như là những người đọc sách thánh.

Khổ thay, một số người trong chúng ta giống Giosuê và Gioan, chúng ta kháng cự lại sự khám phá. Chúng ta có thể oán hận bởi vì người đàn ông có vợ rồi vẫn có thể được truyền chức phó tế. Chúng ta cũng bực bội bác bỏ ý kiến về những thừa tác đặc biệt cho rước lễ và nhấn mạnh rằng họ chỉ được quyền trao Thánh Thể cho những trường hợp đặc biệt. Một số người khác trong chúng ta lại không thể chịu được những sự kiện, như là phụ nữ đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ.

Bởi vì nhu cầu mang ánh sáng lan tỏa trong Giáo Hội ngày hôm nay, ánh sáng đã được chiếu sáng hơn phát minh của Thomas Edison. Đó cùng là ánh sáng của Thánh Thể chiếu sáng trên chân lý để cho Giáo Hội thấy sáng tỏ hơn. Trong Thánh Vịnh nơi bài đáp ca, chúng ta đón nhận Thiên Chúa đã ban niềm vui cho trái tim. Đó là sự thật trao ban cho trái tim của chúng ta, để chúng ta mở rộng cho sự thúc đẩy của Thánh Thể trong Giáo Hội ngày hôm nay. Không nên phàn nàn về những thừa tác viên trong phụng vụ, chúng ta phải cám ơn Chúa và cầu xin cho ân sủng tuôn trào nơi Thánh Thần của Người sẽ tiếp tục ban xuống trên Giáo Hội.

 

29. Suy niệm của Achille Degeest.

THỜI ĐẠI CHÚNG TA CÓ ĐÁNG BỊ TRÒNG CỐI ĐÁ VÀO CỔ KHÔNG?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).

Các thánh chép sử không chủ tâm làm những bản tường thuật chính xác, đầy đủ về những lời Chúa Giêsu giảng dạy. Các ông truyền lại cách chính xác cho chúng ta giáo huấn của Thày tùy theo những điều nhớ được và tùy những lúc lưu tâm ghi – chép, nhưng theo thứ tự và cách sắp đặt không tuyệt đối đúng sự thật. Dường như thánh Marcô thuật lại trong bài đọchôm nay những đoạn rời rạc của một bài giảng của Chúa, chúng ta không sao hiểu được toàn bài như thế nào. Những đề mục gợi ra rất khác biệt, có thể là đề tài cho những công trình bình giải đi vào chi tiết. Về phần chúng ta, chỉ cần giữ lấy 2 chủ đề Suy niệm gợi ý chúng ta về hai cung cách trong số nhiều cung cách khác, để biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu trong đức ái thực tế.

1) Chúa không muốn các môn đệ đối lập với một người tuy không gia nhập nhóm các ông, nhưng nói và hành động nhân danh Ngài.

Ta thấy rằng Chúa phân biệt giữa sứ mệnh đặc biệt của nhóm Tông đồ và hiệu năng tỏa rộng của đức tin. Tông đồ Gioan bất bình thấy một người lấy tên Chúa mà hành động tuy không được chính thức nhìn nhận là 1 trong nhóm 12. Thày phản ứng, cho họ biết rằng muốn làm môn đệ hoạt động thì không bắt buộc phải ở trong tập đoàn Tông đồ Diễn giải Lời Chúa, ta thấy điều này có nghĩa tương tự như sau: hàng Giáo phẩm mà sứ mạng đặc biệt là bảo đảm đức tin, có bổn phận tôn trọng tính tự phát của Chúa Thánh Thần trong mỗi người đã chịu Phép Rửa. Hàng Giáo phẩm có thể và có bổn phận xem xét tính chất đích thật của sự tự phát này và phải vui mừng về tính sinh động của đức tin xuyên qua mọi tín hữu.

Mở rộng viễn tượng ra, người ta có thể dẫn chứng tư tưởng sau đây được Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: Giáo hội vui mừng được nhìn thấy bất cứ hoạt động nào trong thế giới phù hợp với Phúc âm, dù cho hoạt động ấy không xuất phát từ thiên chức của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI không quân phát biểu tư tưởng đó mỗi lần. Ngài tiếp kiến đại sứ một nước không theo Kitô giáo.

Liệu chúng ta có chấp nhận không giữ độc quyền tuyệt đối về Phúc âm không? Có những người gần gũi Phúc âm tuy không biết Phúc âm – trong khi có những Kitô hữu bất trung biết rõ Phúc âm mà lại xa cách Phúc âm.

2) Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trẻ trong các trẻ nhỏ này...

Những ai là ‘trẻ nhỏ’ Chúa nói đến ở đây? Chúa nghĩ đến em bé mà Cháu đem ra làm tấm gương thiêng liêng. Người cũng nghĩ đến nhóm môn đệ thiếu sáng suốt, khiêm nhường, quảng đại nhưng ít học, có xu hướng tự nhiên theo gương các lãnh đạo. Cấp lãnh đạo phải giữ mình sao cho đừng nên cớ cho họ vấp phạm, tức là đừng có trở thành dịp cho họ lầm lạc hay phạm tội.

Vấn đề trên đang rất hợp thời.

Nói chung, rất nhiều nhà ‘chế tạo dư luận’dẫn dắt chúng xa lìa chân lý và sự thanh khiết của Phúc âm.

Nói riêng, trong Giáo hội có những nhà viết sách báo và đôi khi cả những nhà tìm tòi nghiên cứu không cư xử như người có ý thức trách nhiệm. Cách khinh xuất, họ gieo rắc những nghi ngờ vào những tâm trí thiếu chuẩn bị, do đó làm suy yếu đức tin và quá nhiều phen giết chết đức ái. Vì họ thiếu một tình thương tạm đủ, cái cối đá Chúa gợi ý, đáng lẽ khiến họ phải hồi tâm.

 

30. Tinh thần đại kết.

(Trích trong ‘Niềm vui chia sẻ’)

Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” (trong tập truyện “Bài ca của loài chim” The Song of Bird) như sau: “Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:

- Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”

Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao tôi không ủng hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.

Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”(Bđ. 1).

Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi”, “đừng dập tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình, Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn hoá khác.

Cuộc “hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).

Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm thì “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn dùng kiểu nói cường điệu: “chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý báu ấy nên cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què chân, mù mắt còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống đời đời.

Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản chứng và gây gương mù. “Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong chúng ta” (Ga 17,21) (số 43).

 

31. Nghiêm luật – Trầm Thiên Thu

Thuận ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Thế nhưng hiếm có người muốn nghe lời thật – lời của sự thật, lời của chân lý.

Ca dao nói: “Mật ngọt nên mới chết ruồi – Những nơi cay đắng là nơi thật thà”. Thật vậy, người nịnh ta là kẻ thù của ta, người khen ta mà khen đúng là bạn của ta, người chê ta mới là thầy của ta. Khó nghe quá! Khó chịu lắm! Nhưng đó lại là sự thật! Sự phục thiện rất quan trọng. Phải tâm niệm “mất lòng trước, được lòng sau” thì mới là người chính trực.

Cái ác càng ngày càng hoành hành, tự tung tự tác. Thậm chí chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà kẻ thủ ác không ngại rút dao lụi cho một cú, dù người bị hại không hề có lỗi gì. Đúng như tiền nhân nói: “Nhân dục thắng, thiên lý vong” [Ham muốn của con người thắng thì lẽ công (trời) sẽ bị mất]. Cũng vậy, ngạn ngữ Trung quốc nói: “Con cưng chiều khó giữ cơ nghiệp, vợ quay quắt khó giữ cửa nhà”.

Cái gì cũng có hệ lụy tất yếu: Gia luật bất minh, con cái hư hỏng; quốc pháp bất nghiêm, đất nước suy vong.

TƯ TƯỞNG DẪN TỚI LỜI NÓI

Lời nói là kết quả của tư tưởng. Vì phản ứng não quá nhanh, nhanh như chớp, chúng ta không thể nhận ra điều đó, nhưng quả thật là vậy!

Sách Dân Số kể: Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Môsê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa. Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại.

Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Môsê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!” (Ds 11:27). Ông Giôsuê, con ông Nun, từng theo hầu ông Môsê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Môsê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” (Ds 11:28). Nhưng ông Môsê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11:29).

Lời nói có thể chỉ là “lời theo gió bay”, nhưng lời nói vẫn quan trọng: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Một lời nói ra, bốn ngựa cũng không đuổi kịp. Thế mà người ta không chịu “uốn lưỡi 7 lần” nên mới “nói nhịu” hoặc “lỡ lời”. Sự thật là chính Thần Khí mới tạo nên sự sống, vì có sống thì mới nói được. Mọi người đều được Thiên Chúa trao trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài, nghĩa là ai cũng phải dùng lời nói mà tuyên xưng và loan báo Thiên Chúa nhân lành vô cùng.

Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Luật có sau con người nên luật phải vì con người, chứ con người không vì luật. Bởi con người không còn “nhân chi sơ tính bổn thiện” nên phải có luật, như hàm thiếc tra cho con ngựa chứng, nếu không thì mọi tôn ti trật tự đều bị đảo lộn. Thật vậy: “Ở đâu không có Lề Luật, thì cũng không có vi phạm” (Rm 4:15). Phàm cái gì cũng phải có luật: Luật giao tế, luật kinh tế, luật kinh doanh, luật quốc gia, luật quốc tế, luật đời, luật tôn giáo, luật đoàn thể, luật gia đình,… Ngay cả chuyện giản dị như ăn và nói cũng có luật. Nhưng tất cả đều phải dựa vào Luật Chúa, gọi là Thánh Luật, vì Chúa Giêsu xác định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).

Thánh Luật là Ý Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật đời có thể khiến người ta khổ sở, nhưng Luật Chúa luôn làm người ta hạnh phúc. Ai yêu mến Chúa thì chuyên chăm thi hành Thánh Luật, luôn miệt mài tìm kiếm Ý Chúa để vâng theo: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:10). Tác giả Thánh vịnh nói thay chúng ta: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14). Chúng ta chỉ là những tội nhân, thế nên rất cần Luật Chúa để cải thiện cách sống, và đó mới là hạnh phúc đích thực mà các tôi trung của Chúa hằng mơ ước: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời” (Tv 119:1).

LỜI NÓI DẪN TỚI HÀNH ĐỘNG

Thánh Giacôbê khuyên một lèo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người” (Gc 5:4a). Vì thế, “tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (Gc 5:4b).

Thánh nhân nói quá tỉ mỉ, quá rõ ràng, không hề bóng gió. Những lời đó hẳn chúng ta rất “chói tai” khi nghe, hoặc “xốn” mắt khi đọc. Sự thật mất lòng là thế! Ngài còn nói thêm: “Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:5-6). Càng đọc/nghe, chúng ta càng thấy tự hổ thẹn với lương tâm của chính mình. Dù chúng ta có đấm ngực bao nhiêu lần mà không thay đổi cách sống, không bớt hung ác mà thêm tốt lành, không bớt ngu mà thêm khôn, thì cũng chỉ là vô ích!

Một hôm, ông Gioan tâm sự với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9:38). Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40). Ôi, Sư phụ Giêsu “dễ ghét” quá chừng! “Không chống lại là ủng hộ”, Ngài nói vậy chứng tỏ Ngài quá chừng dễ thương, vì Ngài chẳng đòi hỏi chi cả.

Ngài không đòi hỏi điều chi lớn lao, thậm chí chỉ một hành động nhỏ cũng được Ngài ghi công: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Tuy nhiên, Ngài cũng thẳng thắn cảnh báo: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất thật, tất nhiên cũng rất… “chói tai”. Ngài tiếp tục so sánh cụ thể hơn: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48). Nghe mà giật thót mình như sét đánh. Nhưng đó là nghiêm luật của Chúa, không bao giờ lay chuyển. Ngài là Đấng trung tín và công minh, hễ NÓI là LÀM. Chúng ta không thể biện minh bằng bất kỳ lý do nào!

Thế mà chúng ta thấy ai không “hợp ý” mình hoặc không theo phe mình, chúng ta liền tìm mọi cách gièm pha, lườm nguýt, “hạ bệ”, hoặc trù dập. Tất nhiên Thiên Chúa biết rõ chúng ta là gì và thế nào, chỉ là cát bụi và tội lỗi, ích kỷ và kiêu ngạo. Nhưng chúng ta cũng đừng quá thất vọng, mà hãy luôn nhớ rằng lòng thương xót của Ngài còn lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này, như Thánh Giám mục Phanxicô Salê nói: “Đừng bao giờ lo buồn vì sự bất toàn của mình, nhưng phải luôn luôn can đảm đứng dậy sau khi vấp ngã”. Vế thứ hai trong câu nói của thánh nhân rất quan trọng!

Đặc biệt là Chúa Giêsu đã hứa: “Tôi muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Đó là niềm hy vọng và niềm an ủi đối với chúng ta. Ngài không chỉ muốn chúng ta sống mà còn phải được sống dồi dào (Ga 10:10). Nhưng Ngài cũng bắt chúng ta tự vấn lương tâm: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12:7).

Kiêu ngạo dẫn đến cố chấp. Đó là tội “siêu trọng”, tội nặng nhất, tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12:31-32).

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết cẩn trọng mọi thứ ngay từ trong ý nghĩ để chúng con đêm ngày tìm kiếm Thánh Ý Ngài và hết lòng thi hành Thánh Luật. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

32. Nhỏ mà to – Trầm Thiên Thu

Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.

Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này: “Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!

Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!

Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.

Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.

Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.

Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.

Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.

Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,...), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).

Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.

Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,...), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,... là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!

Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).

Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).

Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.

Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).

Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.

Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!

Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.

Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!

Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).

Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.

Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.

Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).

Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

***

(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…

 

33. Chặt tay bạn đi – Gm. Arthur Tonne.

Ngày xửa, ngày xưa, một đoàn thám hiểm từ lục địa Châu Âu đi tìm đất mới. Bạn biết gì về hòn đảo Ireland ngày nay – Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với số mệnh. Ông tuyên bố: Ai dựng lều đầu tiên, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm dành được đất mới. Ông rán sức chèo, nhưng một chiếc thuyền đối thủ rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông có thể làm gì? Người đàn ông tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay trái liệng lên bờ. Như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới, và nó là của ông.

Tôi kể câu chuyện đẫm máu và rùng rợn này để giúp chúng ta hiểu được những lời đẫm máu và rùng rợn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay bạn làm cớ cho bạn phạm tội, hãy chặt nó đi. Thà bạn tàn tật mà được vào cõi hằng sống hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục. Chúa Giêsu muốn nói điều chi?

Người nói rằng những ai theo Người phải sẵn sàng hy sinh những cái gần gũi nhất, thân yêu nhất hơn là bất tuân luật Chúa bởi phạm tội. Cắt tay, chặt chân, hay móc mắt không hiểu theo nghĩa đen. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân. Đó chỉ là cách nhấn mạnh của Người và gây ấn tượng mạnh mẽ trên chúng ta, để chúng ta hiểu rằng Nước Thiên Chúa, đất vĩnh cửu của chúng ta muốn đạt được, xứng đáng mọi hy sinh.

Để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một vài việc quyết liệt và đau đớn như chặt chân, cắt tay. Với một số người, xa lìa một vài món đồ vật chất cũng có thể đau đớn như cắt một bàn tay. Tuy nhiên Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người không nhà ở trọ, chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Chúng ta phải làm một vài hy sinh để nâng đỡ Giáo Hội Chúa, công cuộc của Chúa là truyền bá đức tin. Cái đó thường cũng đau đớn.

Hy sinh để đẹp lòng Chúa và chiếm đoạt Nước Trời có thể cũng đau đớn như cắt một bàn tay. Với một người nghiện rượu, bỏ một chai rượu hay chỉ một ly thôi cũng có thể gây khổ sở cho anh. Nhưng để làm đẹp lòng Chúa, anh phải bỏ.

Chúng ta thích ngủ nướng trên giường vào sáng Chúa Nhật hơn là đi lễ. Cố gắng chiến đấu để vượt thắng tính lười biếng, có thể gây phiền phức, khó chịu ở một mức độ nào đó. Nhưng đó là phương cách để chúng ta chiếm đoạt Nước Thiên Chúa. Thường dễ ngồi chăm chú nhìn màn kính truyền hình đến phút chót, hơn là dành chút thời giờ cầu nguyện hay đọc vài dòng Kinh Thánh, hoặc đọc báo chí Công giáo, và ngay cả nói chuyện với người thương.

Hầu chuyện với Chúa là một đặc ân lớn lao, một niềm vui tuyệt diệu nhưng nó đòi hỏi cố gắng cắt bớt một vài việc không quan trọng và gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu đã cố gắng, Chúa Giêsu đã hy sinh. Người không chỉ cắt tay, Người hiến cả thân mình, chúng ta tưởng niệm sự dâng hiến đó nơi đây trên bàn thờ này. Hãy xin Chúa Giêsu sức mạnh để từ bỏ chính mình. Xin Chúa chúc lành bạn.

 

34. Suy niệm của Noel Quesson.

AI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA

Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác, cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi tượng trở nên đen thùi xấu xí.

Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó coi.

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người đồng đạo, người Công giáo.

Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này. Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản anh ta, vì anh ta không theo chúng ta”. Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng ta cũng thấy cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.

Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay, tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập thể. Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó đã đạt tới thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra công gắng sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói khác: “Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).

Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn đệ: “Không ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy”, nghĩa là có những lúc Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý” (1Tm 2,4).

Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi người, sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.

 

35. Dịp tội.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về dịp tội.

Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?

Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.

Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối với dịp tội?

Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được phép làm gương mù gương xấu cho người khác.

Rất nhiều lần chúng ta đã nói:

- Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, trái lại, chúng ta sống là sống với người khác.

Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo nên một hậu quả xấu nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:

- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.

Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:

- Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh hay anh là người như thế nào.

Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù gương xấu, trở thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.

Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài nói:

- Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.

Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng, góp phần làm cho Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm sút.

Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh những dịp tội.

Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:

- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày đứt tay.

Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:

- Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.

Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một cuốn sách, người này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ nặng nề về đức tin hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm việc nọ việc kia là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ, cân nhắc, bàn hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp tội, bởi vì trước mỗi hoàn cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng báo động và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải tránh.

Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn, chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:

- Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó đi, vì thà rằng chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.

 

36. Nhân danh.

Trong trận thế chiến II, ba vị tuyên úy Công giáo, Tin lành và Do thái trở thành những người bạn thân của nhau. Họ thề hứa với nhau nếu một người trong nhóm bị giết chết, thì những người còn sống sót phải báo tin cho gia đình của người qua đời và lo việc chôn cất.

Thế rồi, vị tuyên úy Do thái bị giết chết. Hai người còn lại không thể tìm thấy một Rabbi hay một hội đường Do thái nào. Cuối cùng, trong một làng ở nước Pháp, họ tìm thấy một nhà thờ Công giáo xinh đẹp với một nghĩa trang được chăm sóc cẩn thận. Vị tuyên úy Công giáo đề nghị: “Chúng ta hãy đi gặp vị linh mục chánh xứ, may ra ông ấy có thể giúp chúng ta”.

Cha xứ muốn giúp họ. Nhưng ngài lại không bảo đảm chắc chắn được nên mới nói: “Ngày mai, xin các ông trở lại đây. Tôi sẽ tìm kiếm trong các sách vở để xem có luật nào cho phép chôn một người không phải Kitô hữu trong một nghĩa trang Công giáo hay không “.

 

Cha xứ đã tìm kiếm suốt đêm đó, nhưng không có kết quả. Ngài bảo họ: “Hãy chôn ông ấy ngay sát hàng rào của nghĩa trang. Chính tôi sẽ chăm sóc ngôi mộ của ông ấy”.

Khi chiến tranh kết thúc, họ quay lại để viếng ngôi mộ của người bạn. Nhưng họ không thấy dấu vết gì ở sát bên hàng rào của nghĩa trang. Họ tìm cha xứ và yêu cầu ông giải thích. Cha xứ mỉm cười và nói: “Tôi thấy ngôi mộ nằm bên ngoài nghĩa trang trông cô độc quá. Do đó, tôi tiếp tục tìm kiếm”. Họ liền hỏi: “Cha đã tìm thấy một luật cho phép dời ngôi mộ vào bên trong hàng rào?” Cha xứ trả lời: “Tôi không thấy một luật nào cho phép như thế. Nhưng không có luật nào cấm tôi dời hàng rào ra bên ngoài”.

Thái độ loại trừ đang phổ biến khắp nơi. Không chỉ trong lãnh vực tôn giáo, nhưng còn trong các tổ chức, các hiệp hội và mọi nơi khác trong xã hội. Ngay cả trong các gia đình nữa, khi cha mẹ thương đứa con này hơn đứa khác.

Chúa Giêsu không có quan niệm loại trừ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Không có độc quyền trong sự thánh thiện. Chúa Giêsu Kitô không chỉ thuộc về những người Công giáo, Tin lành, Chính thống… và những Kitô hữu khác. Người thuộc về tất cả những ai có thiện chí, có thiện tâm. Tất cả mọi người chúng ta đều thuộc về Chúa Giêsu Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, con tin, nhưng xin trợ giúp đức tin yếu kém của con.

 

37. Chiến hữu của Thiên Chúa

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta. Đức Giêsu đáp: Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ. Rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

Xem ra Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, được mô tả như là chiến hữu của Thiên Chúa tay cầm lưỡi đòng, đạp trên mình satan ác quỷ. danh hiệu của Ngài cho người đời đủ biết rằng Ngài luôn sát cánh cùng với Thiên Chúa; trong cuộc chiến không khoan nhượng với tội lỗi ma quỷ.

Các Tông Đồ và môn đệ là chiến hữu của Chúa Giêsu. Các ngài được Chúa yêu thương bảo bọc như ta đã biết, qua Thánh Kinh và Thánh Truyền. Cuộc chiến của Chúa Giêsu chống lại Satan và tội lỗi là cuộc chiến chỉ kết thúc khi trời mới đất mới mở ra, mà chính những người theo Chúa, có nhiệm vụ đem trời mới đất mới đó mở mang trên thế giới này!

Thật ra, phải nhìn nhận cách chính xác và hết sức nghiêm túc rằng: các Tông và các môn đệ là những vị tướng tiên phong trong cuộc chiến đó. cho nên, những ai đón tiếp các ngài, đối xử tử tế với các ngài, khác nào đón tiếp và đối xử tử tế với Chúa, khác nào góp phần làm cho cuộc chiến chống lại tội lỗi ngày càng oanh liệt để nước Trời hiện trên trần gian này,

Thế nhưng hết sức nghiêm khắc, Chuá Giêsu là Đức Vua, nhắc nhở các vị tướng lãnh của mình phải tuyệt đối trung thành với sứ mạng: LOAN BÁO TIN MỪNG TÌNH YÊU THIÊN CHÚA cho chư dân! Muốn nói điều gì với người khác, thuyết phục người khác tin, thì chính bản thân mình phải sống điều đó! Muốn kêu người ta bỏ đàng tội lỗi, chính mình phải bỏ trước; chưa đủ, còn phải sống gương mẫu, nếu làm cho người ta sa ngã thì theo cách nói nhấn mạnh trách nhiệm của ta đối với Chúa Giê su thà buộc cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn! vậy chúng ta hãy cố gắng sống theo ý Chúa như các trẻ em về niềm tin của các em vào Đức Giêsu?

GỢI Ý SỐNG:

1. Đoạn Tin Mừng trên đây dạy ta điều gì về cách thức ta phải đương đầu với cơn cám dỗ?

2. Chúng ta có nghiêm túc lưu ý về tội lỗi như Thiên Chúa muốn không?

3. Tin Mừng hôm nay trình bày thế nào về trách nhiệm của ta đối với tha nhân cách rêng là đối với trẻ em, Về niềm tin của các em về Đức Giêsu?

 

38. Gương mù.

Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh Marcô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là gương mù gương xấu.

Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “Mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.

Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.

Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.

Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.

 

39. Một ly nước lã – Lm. John Nguyễn Tươi

Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.

Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.

Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “ Trị giá hóa đơn = một ly sữa”. (Trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).

Khi đọc câu chuyện này, chúng ta nhận ra được giá trị của việc làm phúc đức, bác ái dù nó là một ly sữa thôi, nhưng đã cứu cả mạng sống của một con người. Việc làm đó được ghi rõ trong Tin mừng của thánh Mác-cô: “ Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Một chỗ khác Chúa Giê-su bảo: “Khi Ta đói các người không cho ăn. Ta khát các người không cho uống...” Rõ ràng, điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời là thể hiện lòng bác ái, yêu thương tha nhân.

Thế nhưng, nhìn xung quanh ta, còn có biết bao người đang sống cảnh lầm than, đói khát, kiếm từng hạt cơm qua ngày. Người bán hàng rong, kẻ làm thuê, trẻ em đi bán vé xố... Sau một ngày vất vả, họ lại trở về trú ẩn trong mái nhà dột nát, khi gặp trời mưa, bão tố thì không có chỗ để che thân. Trong khi đó, có những kẻ thì dư thừa phung phí, họ vẫn dửng dưng trước những con người đang từng ngày từng giờ đi tìm miếng ăn dư thừa của kẻ giàu sang.

“Nếu anh em làm cớ cho kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển. Nếu tay anh em làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn có hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.

Khi nghe những lời răn đè này, chúng ta có suy nghĩ gì về số phận của con người?. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì chắc hẳn con người trên thế gian này toàn là những người khuyết tật, bị cụt tay, què chân, mù mắt. Khi con người ta đang chạy theo sự văn minh của nhân loại, nhu cầu đời sống hưởng thụ càng ngày càng cao, thì con người ta lại đang mất dần niềm tin, họ không cần đến Chúa. Ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng quên nhiệm vụ truyền đức tin cho con cái mình. Họ không còn thời gian để đến nhà thờ, đọc kinh dự lễ. Phải chăng đó là cái cớ cho kẻ khác vấp phạm! Có thể chúng ta không mù về thể lý, nhưng một cách nào đó chúng ta cũng đang bị mù tâm linh mới là điều đáng sợ nhất. Khi làm điều gian ác, nhưng người ta vẫn không cảm thấy là tội. Khi thấy người ta gặp tai nạn, nhưng ta vẫn đứng cười một cách vô tư. Một thái độ, một trái tim vô cảm thật là đáng sợ.

Nếu nói cái tay, cái chân, cái miệng và con mắt làm nên dịp tội, thì tội đó được xuất phát từ bên trong con người chúng ta. Theo lời của thánh Gia-cô-bê nói rất rõ: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi khoái lạc của anh em đang gây ra trong con người anh em đó sao?. Thật vây, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết và ganh ghét; anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý”. Cho nên, chúng ta chỉ có thể chữa lành vết thương tâm hồn khi chúng ta ý thức được mình là kẻ có tội, cần được Chúa thứ tha với thật lòng ăn năn và sám hối thì mới có thể làm những việc lành và là tấm gương sáng cho người khác. Người ta không thể cho những cái mình không có. Chúng ta có thể rút lấy kinh nghiệm của thánh Augustino, ngài nói: “ Lòng con khuâng buâng khắc khoải đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa”. Chính kinh nghiệm quá khứ tội lỗi của Augustino đã dạy cho ngài bài học quý giá của sự sám hối và trở về với Chúa. Vì Chúa cần chúng ta biết quay trở về cùng Chúa sau những lần lầm lỡ, nhờ đó, chúng ta biết cảm thông và chia sẻ nỗi khổ đau và bất hạnh của anh chị em đang cần lòng quảng đại của chúng ta.

Một ly sữa đã đổi lấy mạng sống một con người, thì ly nước lã dù cho người anh em uống thì cũng chẳng mất đâu. Đó là hứa của Chúa Giêsu cho những ai đặt niềm tin vào sự sống mai sau.

Lạy Chúa, đã biết bao lần tay con không biết nắm lấy một cụ già cần con dắt qua đường; đã biết bao lần chân con đi lạc bước vào những nơi tội lỗi xấu xa, và làm điều gian ác hại đến tha nhân; đã bao lần đôi mắt con thấy người ăn xin ven đường, nhưng chẳng biết xót thương. Thế là Chúa vẫn nói với con rằng: “ Chỉ một ly nước lã thôi!”.

 

40. Suy niệm của JKN.

CÁM DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN GIÁO

Câu hỏi gợi ý:

1. Khi thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh Thầy mình để trừ quỉ, các tông đồ khó chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng không? Nó nói lên não trạng gì? Não trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện nay không?

2. Các giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết, yêu thương nhau không? Đức Giêsu sẽ vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều nhận mình là Chúa là Thầy nhưng lại nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại trừ nhau?

3. Đức tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ tạo nên đoàn kết. Giữa hai nhân đức quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều kiện để vào Nước Trời?

CHIA SẺ

1. Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các tông đồ

Một trong những khuynh hướng rất thông thường nơi con người, đó là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ nơi các môn đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin Mừng, các môn đệ Ngài thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân danh Ngài mà làm được những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh… Theo quan niệm của các ông, chỉ những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình để làm phép lạ, trừ quỉ, chữa bệnh… Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức các ông nhận thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội vì điều ấy nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành khuynh hướng bè phái muốn độc quyền ấy của các ông.

2. Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi người Kitô hữu

Trong đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta cũng bị cám dỗ bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức Giêsu. Chẳng hạn những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu Chúa, theo thời gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa như thế là một việc hết sức tự nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả mọi tôn giáo, mọi trường phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v… đều bị phân hóa theo thời gian theo định luật đa dạng hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân hóa như thế thì đó mới chính là điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng tự cho mình là đúng đắn nhất, là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ của nhiều giáo phái khác nhau, tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng có một giáo phái khác đúng hơn mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay bất mãn chút nào!

Dù khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các giáo phái vẫn hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Giáo phái nào cũng chủ trương phải sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình yêu, lòng nhiệt thành của mình. Giáo phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào cũng chủ trương: «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát» (Rm 10,13).

3. Thật là một gương xấu vĩ đại

Nhưng thật là một điều trớ trêu và là một gương xấu vĩ đại trước những người ngoài Kitô giáo, khi mà:

- một đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô giáo đều tôn thờ, đều nhận là Chúa, là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).

- đằng khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau như là ngoại đạo! Các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, một vài trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận khả năng được cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều tin và tuyên xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào cũng muốn hạn chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của mình! Đó là điều tôi lấy làm lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận được!

Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai cho Đức Giêsu và cho tất cả các giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một phản chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp nhận được một tôn giáo như thế! Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy nghĩ câu Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn».

4. Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác, thiếu tình thương

Khi nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái nào đó quả quyết chắc chắn rằng những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ đều không được cứu rỗi, thì tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả quyết như thế là đúng không?» Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy thì anh quả là độc ác! Một đằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu rỗi (x.1Tm 2,4), Còn anh lại muốn chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được cứu rỗi. Anh sẵn sàng chấp nhận những người khác giáo phái của anh không được cứu rỗi, tức sa hỏa ngục. Vậy thì anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu tiên, vì nơi anh không có tình thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng nhất phải có để vào thiên đàng, để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình thương».

Nếu anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì tôi bảo: «Như vậy là anh rất nhân từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi chắc chắn rằng Thiên Chúa còn nhân từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần. Ngài có đủ quyền năng và đủ cách để giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái với anh được cứu rỗi. Vì thế, anh hãy phó mặc số phận của những người theo giáo phái khác trong tay Chúa và hãy an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì tốt hơn, vì nếu anh không có tình yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu! Điều Chúa muốn nơi anh chính là anh hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh là đồng đạo, và coi cả những người khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy yêu thương họ và hãy mong ước những điều tốt lành nhất cho họ!»

5. Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là tình yêu

Điều quan trọng để vào được thiên đàng là đức tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết nữa, chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết, chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Như vậy, một Kitô hữu có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi, nghĩa là muốn loại trừ những Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng hạnh phúc đời đời, thì Kitô hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình thương thì làm sao vào thiên đàng được?

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi Cha và nơi Đức Giêsu. Đức tin đích thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên trong. Không bao hàm tình yêu, đức tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát sinh óc bè phái, óc độc quyền, cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới. Xin ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh con, đặc biệt đối với tất cả những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng cho người môn đệ đích thực của Ngài.

 

41. Bắt ông ấy chịu trách nhiệm.

William Porter một nhà văn nổi tiếng, bút hiệu là O. Henry, viết về một em bé gái mồ côi mẹ từ hồi còn bé. Bé gái này thường hay ở nhà và ngóng chờ ông bố đi làm về để có thể ngồi lên trên đùi bố để hưởng chút tình cha con.

Nhưng thương thay, mỗi buổi tối sau khi người cha làm các công việc ông vẫn thường làm là ăn, rồi đọc báo, hút xì gà, rồi đi ngủ.

Khi người con gái nhỏ của ông đến gần thì ông thường bảo: "Con không thấy cha mệt sao? Con hãy ra ngoài tìm bạn mà chơi."

Người con gái thấy cha bảo vậy thì cũng ra ngoài đường để tìm bạn chơi và nó cố gắng nhí nhảnh bao nhiêu có thể.

Chuyện không may đã xảy ra. Sau khi đứa con gái đó lớn lên, cô bắt đầu đi tìm những mối tình cảm từ bất cứ ai trao tặng. Cô đã trở thành một con đĩ.

Một ngày nọ, cô gái đĩ đó chết đi và tiến về cửa thiên đàng. Thánh Phêrô thấy vậy liền nói với Chúa Giêsu: "Nó là một đứa tội lỗi, Chúa ơi. Nó là một con đĩ. Nó chỉ có thể đến một nơi thôi!"

Tiếp đến là khúc cuối của câu truyện gây cho khán giả ngạc nhiên. Chúa Giêsu quay sang bảo Thánh Phêrô rằng: "Con hãy mở cửa thiên đàng cho cô ấy vào. Khi người cha của cô ấy đến đây, con hãy bắt ông ấy chịu trách nhiệm."

Thiên Chúa rất nhân từ đối với những kẻ lầm lạc mà không do lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa sẽ yêu cầu những kẻ nào làm cho người khác bị lầm lạc phải chịu trách nhiệm.

Chúng ta có thể thêm vào rằng cách chúng ta làm cho kẻ khác lầm lạc thường không phải là chúng ta đã làm gì nhưng thường là chúng ta đã không làm điều gì cho họ.

Cách đây vài năm, trong cuốn 'Reader's Digest' có đăng tải một bài báo của Jane Lindstrom. Bài báo này có tên là "Làm Sao Bạn Biết Nếu Tôi Không Nói?": "Các trẻ em thèm muốn sự yêu thương từ nơi cha mẹ. Nếu tình yêu bị khóa lại trong trái tim chúng ta, nó không thể tới các em được. Nó cũng giống như là một lá thư đã viết mà không đem đi gởi. Nhưng nếu những đứa trẻ được tình yêu bảo đảm, chúng sẽ nghe được những lời nói của chúng ta: con ngoan của mẹ cha. Mẹ cha rất lấy làm hãnh diện với con. Cha mẹ hết sức lấy làm vinh dự có một người con như con."

Nếu chúng ta từ chối không bày tỏ tình thương, chúng ta có thể làm cho người mình thương đi vào con đường lầm lạc. Và Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm như trong trường hợp câu truyện của O. Henry.

Bài Phúc Âm hôm nay kêu gọi chúng ta tự vấn mình câu hỏi quan trọng. Chúng ta có làm gì, hoặc không làm gì, để có thể gây cho người khác đi vào con đường lầm lạc? Hoặc là chúng ta đã quá lo lắng cho những sự đau thương và lo nghĩ riêng mà bỏ đi những cách biểu lộ tình yêu với những người chúng ta quí mến?

 

42. Ghen tức.

Qua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một thái độ, đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.

Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông đã được Maisen tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng qua sa mạc cát nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa, chiếm lại phần lãnh thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức vì hai ông Eđát và Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen ngăn cản, nhưng Maisen đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.

Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ trẻ tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác nhân danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút ghen tức và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc quyền. Và như chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy

Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta chúng ta có thể rút ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người khác được may mắn và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu xét mình, chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng ta. Một người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi nói hành nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng ta ghen tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.

Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ được hạnh phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ điên.

Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi nặng nề khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.

Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu thương khiến cho các người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ của mình. Nào là những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse. Nào là mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse…Từ thài độ ghen tức ấy, những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn và sau cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai cập. Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp biết là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.

Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào thập giál

Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình vào nếp sống của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt chước thánh Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút, trong khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã nói:

- Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.

Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy trở nên như đày tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc sống thường ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-26092021-chua-nhat-26-thuong-nien-nam-b-tha-chat-tay-chat-chan-moc-mat.html