Mọi Người Được Kêu Gọi Nên Thánh

Theo Lumen Gentium, chương V. Cách đây ít ngày chúng ta đã mừng kỷ niệm 50 năm kết thúc Vatican II và cử hành năm Thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta phải nói rằng sự liên kết giữa chủ đề lòng thương xót và Công Đồng Vatican II là không có độc tài hay là không quan trọng.

Trong diễn văn khai mạc, ngày 11 tháng 10 năm 1962 thánh Gioan XXIII đã chỉ cho thấy lòng thương xót như là lối tiếp cận mới trong cung cách của Công Đồng:

“Người viết: Giáo Hội luôn chống lại những sai lầm qua các thời đại. Giáo Hội thường lên án chúng với thái độ rất nghiêm khắc. Tuy nhiên bây giờ, Hiền Thê của Chúa Kitô ưu thích sử dụng liều thuốc của lòng thương xót hơn là sự nghiêm khắc”.[1]

Trong một nghĩa nào đó, một nữa thế kỷ sau đó, Năm Thánh Lòng Thương Xót cử hành sự trung tín của Giáo Hội với lời hứa này.

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng nhấn mạnh quá về lòng thương xót Chúa, chúng ta thiếu chú ý đến những phẩm tính quan trọng tương đương khác của Thiên Chúa, như công bình. Nhưng công bình của Thiên Chúa không chỉ không trái ngược với lòng thương xót nhưng còn thể hiện cách rõ nét trong lòng thương xót. Thiên Chúa là tình yêu và thương xót, bởi thế vì lý do này Người là công chính nơi chính mình – Người thực sự mạc khải Người là ai – khi Người có lòng thương xót. Nhiều thế kỷ trước Luther, thánh Augustinô đã giải thích rất rõ ý nghĩa của câu nói “sự công chính của Thiên Chúa” theo cách giải thích của thánh Phaolô: “Sự công chính của Thiên Chúa là điều mà nhờ đó chúng ta được làm cho công chính, một cách chính xác như “sự cứu độ của Chúa” (salus Domini) (Tv 3,9) có nghĩa là nhờ sự cứu độ của Người làm cho chúng ta được cứu”.[2]

Điều này không làm cạn kiệt tất cả ý nghĩa của từ ngữ “sự công bình của Thiên Chúa”, nhưng chắc chắn nó là nghĩa chính yếu của nó. Một ngày kia, sẽ có một dạng thức khác của sự công bình, mà Thiên Chúa “sẽ xử với mỗi người theo công việc mình làm (Rm 2,5-10), nhưng đây không phải là điều mà thánh Phaolô đề cập khi ngài nói: “Nay sự công bình của Thiên Chúa được tỏ lộ” (Rm 3,21). Sự công bình này là một biến cố hiện tại, còn sự công chính kia trong tương lai. Trong một đoạn văn khác thánh Tông Đồ giải thích Thiên Chúa có nghĩa là gì nhờ sự công bình của Người: “Nhưng Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót” (Tt 3,4-5).

1. Anh em hãy nên thánh; vì Ta, Thiên Chúa các người, là thánh

Chủ đề của suy niệm thứ hai này là chương V trong Lumen gentium với tựa đề “Mọi người đều được mời gọi nên thánh”. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử Công Đồng chương này được lưu ý chỉ vì vấn đề biên soạn. Nhiều Nghị Phụ Công Đồng là những thành viên từ các dòng tu yêu cầu với sự nhấn mạnh rằng cần phải dành một sự trình bày riêng lẻ sự hiện diện các dòng tu trong Giáo Hội như đã làm cho giáo dân. Như thế từ đó phần trình bày là một chương duy nhất liên quan đến sự thánh thiện của tất cả mọi thành phần của Giáo Hội, được chia thành hai chương, trong đó chương hai (chương VI của LG) được dành riêng biệt cho các dòng tu.[3]

Ơn gọi nên thánh được định nghĩa ngay từ đầu với những lời này:

“Tất cả mọi người trong Giáo Hội – hoặc thuộc hàng giáo phẩm hoặc được hoàng giáo phẩm dìu dắt – đều được kêu gọi nên thánh, như lời Thánh Tông Đồ dạy: “Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa” (1Th 4,3; x. Eph 1,4).[4]

Lời kêu gọi nên thánh này là cần thiết nhất và sự bổn phận đòi hỏi nhất của Công Đồng. Không có nó, tất cả những bổn phận khác sẽ không thể và không có lợi ích gì. Tuy nhiên, đây là một bổn phận có nguy cơ trở thành bị sao lãng nhất bởi vì chỉ có Thiên Chúa và lương tâm con người đòi hỏi và mời gọi chúng ta đạt tới điều đó, hơn là những đòi hỏi và quan tâm đến từ bất kỳ nhóm nào trong Giáo Hội. Đôi lúc người ta cảm tưởng rằng trong một số nơi và một số cộng đoàn tu trì, sau Công Đồng, người ta dấn thân nhiều trong việc “phong nhiều vị thánh” hơn là “làm cho mình nên thánh”, nghĩa là, họ cố gắng nhiều hơn để đưa lên bàn thờ tôn kính các vị sáng lập hay những anh chị em của mình hơn là bắt chước các mẫu gương và nhân đức của họ.

Việc đầu tiên cần phải làm, khi chúng ta nói về sự thánh thiện, đó là giải phóng từ ngữ này khỏi sự rụt rè và sợ hãi mà nó tạo nên trong con người bởi vì chúng ta có suy nghĩ sai lầm về nó. Sự thánh thiện có thể bao hàm một hiện tượng và những thử thách phi thường, nhưng nó không được đồng hóa với những điều này. Nếu tất cả mọi người được mời gọi tới sự thánh thiện, là bởi vì, nếu được hiểu một cách chính xác, nó nằm trong khả năng của mọi người, nó làm nên sự bình thường của đời sống kitô hữu. Các thánh giống như những bông hoa: các thánh được đưa lên bàn thờ chỉ là một số ít so với đông đảo các thánh. Có biết bao người trong số họ đã nở hoa và héo tàn một cách ẩn dấu sau khi đã tỏa hương sắc cách thầm lặng xung quanh chúng ta! Có biết bao nhiêu bông hoa ẩn dấu này đã nở hoa và tiếp tục nở hoa trong Giáo Hội!

Lý do nền tảng của sự thánh thiện thì rõ ràng ngay từ đầu, và vì Thiên Chúa là Đấng thánh: “Anh em hãy nên thánh bởi vì Ta, Đức Chúa Thiên Chúa các người là đấng thánh (Lv 19,2). Trong Kinh Thánh sự thánh thiện là tóm tắt của tất cả những thuộc tính của Thiên Chúa. Tiên tri Isaia gọi Thiên Chúa là “Đấng Thánh của Israel”, nghĩa là Đấng mà Israel đã nhận biết như là Đấng Thánh. “Thánh, Thánh, Thánh”, Qadosh, qadosh, qadosh là tiếng kêu kèm với sự bày tỏ của Thiên Chúa tại thời khắc Isaia được Chúa gọi (Is 6,3). Đức Maria suy niệm cách trung thành ý tưởng này về Thiên Chúa trong các tiên tri và các thánh vinh khi ngài diễn tả trong kinh Magnificat, “vì tên Ngài là thánh” (Lc 1,48).

Liên quan đến ý nghĩa của ý tưởng về sự thánh thiện, từ ngữ thuộc kinh thánh Qadosh gợi lên ý tưởng về sự tách biệt và khác biệt. Thiên Chúa là thánh bởi vì Người hoàn toàn khác biệt so với những gì mà con người có thể nghĩ, nói hay làm. Người là Đấng Tuyệt Đối trong nghĩa từ ngữ về ab-solutus, tách biệt khỏi mọi thứ còn lại và ở một bên. Người là Đấng Siêu Việt theo nghĩa Người ở trên mọi phạm trù của chúng ta. Tất cả những điều này theo nghĩa luân lý, trước khi theo nghĩa siêu hình, bởi vì nó liên quan đến hành động của Thiên Chúa và không chỉ phải là hữu thể Người. Trong Kinh Thánh, những gì được gọi là thánh đó chính là những phán quyết của Thiên Chúa, những công trình và đời sống của Người.[5]

Tuy nhiên, sự thánh thiện không theo quan niệm tiêu cực khi chỉ sự tách biệt và sự vắng mặt của sự dữ và sự hỗn hợp trong Thiên Chúa. Đây là một quan niệm hết sức tích cực. Nó có nghĩa là một “sự viên mãn trong sạch”. Trong chúng ta, “sự viên mãn” không bao giờ tương hợp hoàn toàn với “sự trong sạch”. Điều này đối nghịch điều kia. Sự trong sạch của chúng ta thì luôn luôn có được nhờ việc thanh tẩy và xóa bỏ tội lỗi trong hành động chúng ta (x. Is 1,16). Nhưng đây không phải là trường hợp của Thiên Chúa. Sự trong sạch và viên mãn đồng hiện hữu và cùng nhau làm nên tính đơn giản tuyệt đối của Thiên Chúa. Kinh Thánh diễn tả ý tưởng này về sự thánh thiện tới sự hoàn hảo khi nói rằng: “Không có gì thêm vào hay bớt đi” từ Thiên Chúa (Kn 42,21). Như thế, vì Người là đỉnh cao của sự trong sạch, không gì có thể được lấy đi từ Người, và như thế vì Người là đỉnh cao của sự viên mãn, không gì có thể thêm vào cho Người.

Khi chúng ta cố gắng tìm hiểu làm sao con người đi vào trong phạm vi của sự thánh thiện Thiên Chúa và nên thánh có nghĩa là gì, trong Cựu Ước xuất hiện xuất hiện rất nhiều số lượng các ý tưởng thuộc nghi lễ. Trung gian của sự thánh thiện của Thiên Chúa là những đối tượng, những nơi chốn, nghi lễ, và những điều luật. Phần lớn của sách Xuất Hành và Lêvi mang tựa đề “bộ luật thánh” hay “luật của sự thánh thiện”. Sự thánh thiện nằm trong một bộ luật. Đây là một dạng thánh thiện mà nó bị ô uế nếu ai đó tiến gần bàn thờ với một sự bất toàn về thể lý hay sau khi đã đụng chạm một con vật ô uế: “Vì thế, các ngươi phải nên thánh và hãy nên thánh… Các người không được làm cho mình ra ô uế vì mọi loại nhỏ bò trên đất” (Lv 11,44; x. Lv 21,23).

Chúng ta nghe những âm vang khác nhau giữa các tiên tri và trong Thánh Vịnh. “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người?” hay “Ai trong chúng ta ở gần được lửa thiêu?” (Is 33,22). Câu hỏi này được trả lời trong những hạn từ hoàn toàn luân lý: “Đó là kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24,3-4) và “Kẻ theo đường chính trực, hằng ăn nói thẳng ngay” (Is 33,15). Tuy nhiên những tiếng nói cao thượng này vẫn còn bị giới hạn. Ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ý tưởng vẫn còn thịnh hành ở giữa những người Pharisêu và tại Qumran mà sự thánh thiện và công chính hệ tại trong sự thanh sạch thuộc phụng vụ và trong việc tuân giữ một số những điều luật, đặc biệt liên quan ngày Sabát – dẫu rằng trong lý thuyết, không ai quên rằng điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.

2. Sự mới mẻ của Chúa Kitô

Bây giờ chuyển sang Tân Ước, chúng ta thấy rằng định nghĩa về “dân tộc thánh thiện” được phổ biến rất sớm đến các Kitô hữu. Theo thánh Phaolô, người được rửa tội là “các thánh nhờ ơn gọi” hay được “gọi trở thành các thánh” (Rm 1,7; 1 Cr 1,2). Ngài thường nói về những người được rửa tội với từ “các thánh”. Những người tin được chọn “trong Người” để trở thành “thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Người” (Eph 1,4). Nhưng dưới dáng vẻ bên ngoài bản chất của thuật ngữ chúng ta thấy một sự thay đổi sâu xa. Sự thánh thiện không còn là một vấn đề pháp lý hay phụng tự nữa nhưng là vấn đề luân lý, càng không phải là vấn đề hữu thể. Nó không được tìm thấy nơi những bàn tay, nhưng trong trái tim; nó không được xác định bởi những hành vi bên ngoài nhưng thuộc nội tâm và được tóm tắt như là bác ái: “Không phải những gì từ ngoài vào miệng làm cho ô uế con người, nhưng những gì từ miệng phát ra, điều đó là ô uế con người” (Mt 15,11).

Những trung gian về sự thánh thiện của Thiên Chúa không còn là những nơi chốn (đền thời Giêrusalem hay Núi Gerizim), những nghi lễ, những đối tượng, hay lề luật nhưng là một con người, Đức Giêsu Kitô. Trở nên thánh như thế không còn hệ tại nhiều nữa trong việc tách biệt khỏi điều này hay điều kia nhưng trong việc kết hợp với Chúa Kitô. Trong Chúa Giêsu Kitô sự thánh thiện đích thực của Thiên Chúa ban cho chúng ta qua một con người và không phải qua sự hồi tưởng xa xôi. Hai lần trong Tin Mừng lời tuyên xưng này được dành cho Chúa Giêsu: “Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69; Lc 4,34). Mạc khải gọi Đức Kitô cách đơn giản là “Đấng Thánh” (Kh 3,7), và phụng vụ dội lại điều này trong khi tuyên xưng nơi “Gloria”, “Tu solus Sanctus”, “Chỉ có Ngài là Đấng thánh”.

Chúng ta đi vào gặp gỡ sự thánh thiện của Đức Kitô được thông ban cho chúng ta qua hai cách: qua sự thủ đắc (appropriation) và qua sự noi gương bắt chước (imitation). Trong hai cách này, cách thứ nhất là quan trọng nhất bởi vì nó thực hiện nhờ đức tin và nhờ các bí tích. Vượt trên tất cả sự thánh thiện là một quà tặng, một ân sủng và là công trình của toàn thể Ba Ngôi. Vì thế, theo lời của thánh Tông Đồ, chúng ta thuộc về Đức Kitô hơn là thuộc về chính mình (x. 1 Cr 6,19-20), một cách tương tự, ta có thể nói sự thánh thiện của Chúa Kitô thuộc về chúng ta hơn là sự thánh thiện của chúng ta. Nhà thần học Chính Thống Nicholas Cabasilas nói rằng: “Những gì của Đức Kitô là của chúng ta hơn những gì đến từ chính chúng ta”.[6] Đây là cú nhảy của rào cản hay cú nhảy của sự can đảm mà chúng ta phải thực hiện trong đời sống kitô hữu. Chúng ta thường khám phá điều này không từ giai đoạn đầu nhưng ở phần cuối của hành trình tu đức, không ở trong giai đoạn đệ tử nhưng giai đoạn sau, khi mọi con đường đường đã được cố gắng và chúng ta thấy rằng chúng không đưa chúng ta đi xa hơn.

Thánh Phaolô dạy chúng ta làm sao để thực hiện “cú nhảy của sự can đảm này” khi ngài tuyên bố một cách long trọng rằng ngài không muốn được nhìn nhận với sự công chính của ngài hay sự thánh thiện phát xuất từ việc tuân giữ lề luật nhưng chỉ được nhìn nhận với sự công chính phát xuất từ đức tin trong Đức Kitô (x. Phil 3,5-10). Thánh Phaolô nói rằng: “Chúa Kitô đã trở thành “sự công chính và sự thánh hóa và ơn cứu chuộc vì chúng ta” (1Cr 1,30). “Vì chúng ta”: như thế chúng ta có thể yêu cầu sự thánh thiện của Người như là của chúng ta với mọi hiệu quả của nó. Thánh Bernard cũng làm bước nhảy vọt này khi ngài kêu lên: “Không gì thiếu thốn trong khả năng của tôi mà tôi kiếm được (một cách văn chương: tôi thủ đắc!) cho mình từ trái tim của Chúa”.[7] “Để thủ đắc” sự thánh thiện của Đức Kitô thì “phải chiếm lấy nước trời bằng sức mạnh” (x. Mt 11,12)! Đây là một bước can đảm mà chúng phải thường xuyên lặp lại trong đời sống chúng ta, đặc biệt là tại giờ phút hiệp lễ trong thánh lễ.

Để nói rằng chúng ta tham dự vào sự thánh thiện của Chúa Kitô thì giống như nói rằng chúng ta tham dự vào Chúa Thánh Thần đến từ Người. Đối với thánh Phaolô, để trở nên hay để sống “trong Chúa Kitô Giêsu” có nghĩa trở nên hay sống “trong Chúa Thánh Thần”. Đến lượt mình Thánh Gioan viết: “Căn cứu vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” (1Ga 4,13). Nhờ Thánh Thần, Chúa Kitô ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Chúa Kitô.

Như thế, chính Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta. Không phải Chúa Thánh Thần một cách chung chung, nhưng là Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong Chúa Giêsu Nazareth, Đấng đã thánh hóa nhân tính của Người, Đấng đã ở trong Người như một bình trắng tinh và Đấng được đổ xuống trên Giáo Hội bởi Chúa Giêsu từ thập giáo và tại Lễ Ngũ Tuần. Như thế, sự thánh thiện ở trong chúng ta không là một loại thứ hai hay một hình thức khác của sự thánh thiện nhưng chính là sự thánh thiện của chính Chúa Kitô. Chúng ta thực sự “được thánh hóa trong Chúa Kitô” (1Cr 1,2). Như trong bí tích rửa tội, thân xác của con người được dìm và được tẩy rửa trong nước, cũng vậy có thể nói, tâm hồm của người đó được tắm rửa trong sự thánh thiện của Đức Kitô: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1 Cr 6,11).

Bên cạnh phương tiện nền tảng này của đức tin và của các bí tích, sự noi gương, các công việc và cố gắng cá nhân cũng cần có vị trí của nó. Không phải theo nghĩa không liên kết và khác biệt nhưng theo nghĩa đồng nhất mà chúng thích hợp để bày tỏ đức tin chúng ta và chuyển tải nó trong hành động. Sự đối lập “đức tin và hành động” là một vấn đề giả mạo, được làm sáng tỏ, bởi những tranh luận lịch sử. Những hành động tốt không có đức tin thì không phải là “những hành động tốt”, và đức tin không có hành động tốt thì không phải là đức tin chân thật. Bởi lẽ “hành động tốt như ân xá, hành hương và những thực hành đạo đức, đã không được hiểu một cách chính yếu như thế (như xảy ra vào thời của Lutêrô), cả việc tuân giữ các giới răn, đặc biệt giới răn yêu thương anh em. Chúa Giêsu nói rằng trong ngày phán xét chung những người bị loại khỏi Nước Trời vì họ đã không mặc quần áo cho người trần truồng và không cho người đói ăn. Như vậy, không ai không được cứu độ nhờ những hành động tốt, nhưng không ai được cứu độ nếu không có những hành động tốt. Điều này tóm tắt giáo huấn của Công Đồng Trentô.

Tiến trình thì tương tự như đời sống thể lý. Một em bé tuyệt đối không thể làm gì để được thụ thai trong lòng mẹ nó; bé cần tình yêu của cha mẹ (ít là như thế cho đến bây giờ). Tuy nhiên, khi nó được sinh ra, nó cần thực hành những lá phổi để thở, bú sữa, tóm lại nó phải tự làm lấy, nếu không nó sẽ chết. Câu nói của thánh Giacôbê: “Đức tin không có những hành động là đức tin chết” (Gc 3,26) được hiểu theo nghĩa này, nghĩa là lúc này: đức tin không hành động là đức tin chết.

Trong Tân Ước hai động từ xen kẻ nhau liên quan đến sự thánh thiện, một trong thể chỉ định và một ở trong thể mệnh lệnh: “Anh em là thánh” và “Hãy nên thánh”. Các Kitô hữu đã được thánh hóa và đang trở thành thánh thiện. Khi thánh Phaolô viết: “Đây là ý muốn của Thiên Chúa là anh em phải nên thánh” (1Tx 4,3). Rõ ràng là ngài có ý nói riêng về sự thánh thiện này là kết quả của sự cố gắng cá nhân. Đúng như thế ngài thêm, như để giải thích sự thánh thiện hệ tại trong điều mà ngài đang nói: “Tức là xa lánh gian dâm, mỗi người hãy biết giữ cho thân xác mình trong thánh thiện và trong sự kính trọng” (x. 1Tx 4,3-9).

Bản văn của chúng ta Lumen gentium làm nỗi bật rõ ràng hai khía cạnh này, khía cạnh khách quan và khía cạnh chủ quan của sự thánh thiện, cách tương ứng dựa trên đức tin và trên những việc làm. Bản văn nói:

“Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh”.[8]

Vì thế, theo Lutêrô, trời Trung Cổ đã bị lạc hướng trong việc luôn nhấn mạnh phương diện của Chúa Kitô như là gương mẫu, ông tập trung trên một phương diện khác khi khẳng định rằng Chúa Kitô như là quà tặng và quà tặng này đòi hỏi có đức tin để đón nhận Người.[9] Ngày hôm nay tất cả chúng ta đồng ý rằng chúng ta không đặt hai phương diện này trong sự đối nghịch với nhau nhưng là giữ cho chúng hiệp nhất. Trên tất cả Chúa Kitô là một món quà để đón nhận qua đức tin, nhưng Người cũng là mẫu gương cho chúng ta noi theo trong cuộc sống. Ông ghi lòng tạc dạ ý tưởng này trong Tin Mừng: “Thầy ban cho anh em một mẫu gương, là anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15); “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).

3. Những vị thánh hay những người thất bại

Đây là lý tưởng mới về sự thánh thiện trong Tân Ước. Một điểm không thay đổi và rất sâu sắc mà nó chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước, và đó là lý do nền tảng cho ơn gọi nên thánh. “Lý do căn bản” cho đòi hỏi nên thánh là bởi vì Thiên Chúa là thánh: “Hãy nên thánh theo hình ảnh của Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”. Các môn đệ của Đức Kitô phải yêu mến kẻ thù của họ “để anh em có thể trở thành con cái của Cha anh em là Đấng ngự trên trời; vì Người cho mưa xuống trên người công chính và trên cả người tội lỗi” (Mt 5,45).

Sự thánh thiện như thế không phải là một sự áp đặt, một ách nặng nề đặt trên vai chúng ta, nhưng là một đặc ân, một quà tặng, một danh dự cao thượng. Nó là một sự đòi buộc, đương nhiên, nhưng nó đến từ phẩm giá chúng ta như là con cái Thiên Chúa. Người Pháp nói “đòi buộc cao thượng” áp dụng ở đây trong một ý nghĩa đầy đủ nhất.

Bản tính thụ tạo của con người đòi hỏi nên thánh thiện. Đây không phải liên quan đến điều mà triết học gọi là các phụ thể nhưng chính là yếu tính con người. Mọi người phải nên thánh để hoàn tất căn tính sâu thẳm của họ, đó là trở thành “theo hình ảnh và giống Thiên Chúa”. Theo Kinh Thánh, căn bản con người không phải điều con người được xác định để trở nên từ sự sinh ra (physis) và nghĩa là “hữu thể có lý trí” như đối với triết học Hy Lạp, nhưng là điều mà con người được mời gọi trở thành, với việc sử dụng tự do, trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đây không thuộc bản tính, nhưng là ơn gọi.

Như vậy nếu chúng ta được mời gọi trở thành thánh nhân, nếu chúng ta “là những vị thánh nhờ ơn gọi”, như thế rõ ràng là chúng ta sẽ là những con người đích thực, thành công trong mức độ mà chúng ta trở thành những vị thánh. Ngược lại, chúng sẽ là những người thất bại. Sự trái nghịch với vị thánh không phải là tội nhân, nhưng là người thất bại! Con người có thể thất bại trong cuộc sống theo nhiều cách thế, nhưng đó là những sự thất bại tương đối mà nó không làm hại đến bản chất; ở đây sự thất bại trong chính mình một cách sâu xa, trong điều mà một người là, không chỉ trong điều một người làm. Mẹ Têrêxa đã có lý khi trả lời cho một nhà báo hỏi mẹ cách bất ngờ rằng mẹ cảm thấy điều gì trong việc được tuyên xưng bởi mọi người như là một vị thánh, “sự thánh thiện không phải là một điều xa xỉ, nó là một sự cần thiết”.

Triết gia Blaise Pascal đã hình thành nguyên lý của ba cấp bậc về sự cao cả: cấp bậc của thân xác và cấp bậc của vật chất, cấp bậc của sự thông minh, và cấp bậc của sự thánh thiện. Một khoảng cách gần như vô tận phân biệt cấp bậc của sự thông minh khỏi cấp bậc của thân xác, nhưng khoảng cách “vô cùng vô tận” phân biệt cấp bậc của sự thánh thiện khỏi cấp bậc của sự thông minh. Những thiên tài không cần sự cao cả về cấp bậc vật chất, nó không thêm không bớt điều gì từ họ. Cũng thế, các thánh không cần sự cao cả của sự thông minh bởi vì cao cả của họ được tìm thấy ở một cấp bậc khác. “Họ được nhận biệt bởi Thiên Chúa và các thiên thần, không phải bởi những thân xác hay bởi những trí óc hiếu kỳ, Thiên Chúa là đủ đối với họ”.[10]

Đây là nguyên lý cho phép chúng ta đánh giá mọi sự và con người xung quanh chúng ta một cách đúng đắn. Hầu hết con người dừng lại ở cấp bậc thứ nhất và không có thắc mắc về sự hiện hữu của một cấp bậc cao hơn. Đó là những người sống cuộc sống mà chỉ lo tích trữ những sự giàu có, chăm sóc sắc đẹp thể lý, hay tìm kiếm quyền lực cho mình. Những người khác tin rằng giá trị tối thượng và đỉnh cao của sự vĩ đại là bậc của thông minh. Họ tìm kiếm trở thành những người nổi tiếng trong lãnh vực văn chương, nghệ thuật, suy tư. Chỉ có một số ít biết rằng có một cấp bậc thứ ba của sự vĩ đại, đó là sự thánh thiện.

Đây là sự vĩ đại lớn hơn cả bởi vì nó vĩnh cửu, bởi vì đó là điều đối với cặp mắt Thiên Chúa là sự đo lường đích thực của sự vĩ đại và bởi vì đây cũng là sự viên mãn của điều cao cao nhất trong con người, nghĩa là sự tự do. Điều này không tùy thuộc trên chúng ta sinh ra mạnh khỏe hay yếu đuối, đẹp hay ít đẹp, giàu hay nghèo, thông minh hay ít thông minh. Ngược lại nó tùy thuộc vào chúng ta là lương thiện hay không lương thiện, tốt hay xấu, thánh nhân hay tội nhân. Nhạc sỹ Charle – Francois Gounod, người là một thiên tài, có lý khi nói: “Một giọt của sự thánh thiện thì đáng trân trọng hơn một đại dương thiên tài”.

Tin mừng về sự thánh thiện là con người không không bắt buộc phải chọn chỉ một trong những cấp bậc của sự cao cả này. Họ có thể thánh thiện trong mỗi cấp bậc. Đã có và đang có những vị thánh ở giữa những người nghèo và người giàu, người khỏe và người yếu, thiên tài và người ít học. Không ai bị ngăn chăn khỏi sự cao cả của cấp bậc thứ ba.

4. Tóm tắt con đường tới sự Thánh thiện

Chúng ta theo đuổi sự thánh thiện giống như người chọn hành trình trong sa mạc. Đó cũng là một hành trình có những trạm dừng liên tiếp và những điểm phát xuất mới. Khi thì có người dừng lại và căng lều; hoặc để lấy nước và thức ăn, hoặc đơn giản vì đi nhiều nên mệt. Nhưng đây, một cách bất ngờ, có lệnh của Thiên Chúa cho Môisê là hãy dỡ các lều và hãy tiếp tục đi: “Cố lên, ra khỏi đây, ngươi và dân ngươi, hướng về đất mà Ta đã hứa (Xh 33,1).

Trong đời sống của Giáo Hội những lời mời gọi tiếp tục lên đường được lắng nghe cách đặc biệt tại lúc khai mạc một mùa mới của năm phụng vụ và nhân dịp đặc biệt của Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa vừa được khai mở bởi Đức Giáo Hoàng. Đối với mỗi người chúng ta, cách cá nhân, thời gian dỡ lều và tiếp tục lên đường trong hành trình của chúng ta hướng tới sự thánh thiện xảy ra khi chúng ta nhận thấy trong chúng ta lời mời gọi huyền nhiệm đến từ ân sủng. Ngay từ đầu, nó giống như một lúc dừng chân. Ta dừng lại trong dòng xoáy của những lo lắng riêng, giữa khoảng cách, khỏi mọi sự để nhìn lại đời sống mình gần như từ bên ngoài hay từ trên cao, sub specie aeternimatis như người ta nói. Lúc đó sẽ nổi lên những câu hỏi: “Tôi là ai? Tôi muốn gì? Tôi đang làm gì trong đời sống?”

Tân Ước miêu tả một dạng của hoán cải mà chúng ta có thể giải thích như là một sự hoán cải – giác ngộ hay một sự hoán cải khỏi sự thờ ơ. Trong sách Khải Huyền có bảy lá thư viết cho các thiên thần (nghĩa là, cho các giám mục, theo một số nhà chú giải) thuộc bảy Giáo Hội tại Tiểu Á. Trong lá thư gửi thiên thần ở Ephêsô, Chúa Kitô bắt đầu bởi sự nhận biết rằng đây là Giáo Hội đã làm một số điều tốt: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vã và lòng kiên nhẫn của ngươi… Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi” (Kh 2,2-3). Sau đó thiên thần đề cập những điều không làm hài lòng ngài: “Nhưng ta trách ngươi. Ngươi đã để mất tình yêu thủa ban đầu!” (Kh 2,4), và ở điểm này tiếng kêu của Đấng Phục Sinh được nghe như một tiếng trống vang lên bởi những người đang ngủ, Metanoeson, hãy sám hối, hãy thay đổi mình, hãy tỉnh thức!

Đây là thư thứ nhất của bảy lá thư. Lá thứ cuối gửi cho thiên thân của Giáo Hội ở Laodicea, thì là nghiêm khắc hơn: “Ta biết việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!” (Kh 3,15). Hãy thay đổi và trở về với nhiệt thành và sốt sắng: Zelêu oun kai metanoeson! (Kh 3,18 tt). Lá thư này, giống lá thư khác, kết luận với lời cảnh báo mầu nhiệm: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh”.

Thánh Augustinô cho chúng ta vài lời khuyên: “Bắt đầu làm sống lại trong chính chúng ta khát khao nên thánh, ngài viết: “Toàn bộ đời sống của một Kitô hữu tốt là một ước ao (nghĩa là một ước ao nên thánh): “Tota vita christiani boni, sanctum desiderium est”.[11] Chúa Giêsu nói: “Phúc cho ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được thỏa lòng” (Mt 5,6). Sự công chính theo Kinh Thánh, như chúng ta biết, là sự thánh thiện. Chúng ta hãy kết thúc với một câu hỏi đơn sơ và trực tiếp để suy niệm: “Tôi có đói khát sự thánh thiện, hay tôi đang nộp mình cho sự tầm thường?”

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Chuyển dich từ nguồn: http://www.zenit.org/en/articles/fr-cantalamessa-s-2nd-advent-sermon

[1] www.vatican2voice.org/91docs/opening_speech.htm. All papal quotes for this book are from the Vatican website.

[2] Augustine, The Spirit and the Letter, 32, 56, PL 44, p. 237; see Augustine: Later Works, trans. and intro. John Burnaby (Philadelphia: Westminster Press, 1955), p. 241.

[3] x. The History of Vatican II, Vol 4: Church as Communion: Third Period and Intersession: September 1964--September 1965, ed. Giuseppe Alberigo, English ed. Joseph A. Komonchak (Maryknoll, NY: Orbis Books, 2002), p. 46ff.

[4] Lumen gentium, 39, in Vatican Council II: Constitutions, Decrees, Declarations, gen. ed. Austin Flannery (Northport, NY: Costello, 1996), p. 58.

[5] x. Đnl 32,4; Đnl 3,31; Kh 16,7.

[6] Nicholas Cabasilas, Life in Christ, 4, 15, trans. Carmino J. deCatanzaro (Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1974), pp. 138-139.

[7] William of St. Thierry, The First Life of Bernard, in St. Bernard of Clairvaux, trans. Geoffrey Webb and Adrian Walker (London: A. R. Mowbray, 1960), p. 37.

[8] Lumen gentium, 40, p. 59.

[9] x. Søren Kierkegaard, The Diary of Søren Kierkegaard, X1, A 154, ed. Peter Rhode (New York: Kensington, 1960), pp. 168-170.

[10] Blaise Pascal, Pensées, 593, trans. A. J. Krailsheimer (New York: Penguin, 1995), p. 94.

[11] St. Augustine, “Homily 4,” 6, in Homilies on the First Epistle of John, trans. and notes Boniface Ramsey, The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 14 (Hyde Park, NY: New City Press, 2008), p. 69; see also PL 35, p. 2008.

nguồn: http://www.vietcatholic.net