Canh tân đời sống linh mục: Củng cố khi yếu đuối

CANH TÂN ĐỜI SỐNG LINH MỤC

THEO GƯƠNG THÁNH PHAO-LÔ

(dựa theo cuốn “Linh mục một vài năm sausuy gẫm về tác vụ linh mục”

 của ĐHY Carlo Maria Martini)

 

Dẫn nhập

 

Trong các bài sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau suy tư và chiêm niệm về đề tài “Canh tân đời sống linh mục theo gương thánh Phaolô”. Tuy là những bài suy niệm dành riêng cho linh mục, nhưng cũng hữu ích để canh tân đời sống thiêng liêng cho bất cứ ai muốn đọc và suy niệm.

 

Chúng ta cùng suy gẫm sách Công Vụ Tông Đồ, chương 20, câu 17-38. Đây là “di chúc mục vụ” của thánh Phao-lô. Trong bản văn trên, thánh Tông Đồ nói với các kỳ mục Ê-phê-sô về kinh nghiệm ngài đã trải qua trong 3 năm sống với họ: kinh nghiệm về con người, về đời sống linh mục và về mục vụ.

 

Nhờ tìm hiểu và suy gẫm về “Di chúc mục vụ” của thánh Phaolô do ĐHY Martini triển khai trong cuốn: “Linh mục một vài năm sau…Suy gẫm về tác vụ linh mục”, chúng ta có thể “Canh tân đời sống linh mục theo gương thánh Phaolô”.

 

                                                                            Linh mục Mỹ Sơn, Long Xuyên

 

 

BÀI HAI

CỦNG CỐ KHI YẾU ĐUỐI

 

Chúng ta tiếp tục nói về đặc tính khích lệ trong hoạt động mục vụ và để nhận ra sự phong phú của nó, đầu đề bài suy gẫm sẽ là: củng cố khi bấp bênh; an ủi khi sầu khổ; chữa lành khi yếu đuối. Ở đây, chúng ta sẽ nói tới những bấp bênh, mỏng dòn của xã hội đương thời; kế đó, sẽ trình bày những phương dược Chúa ban để củng cố chính mình và anh em, ngay trong những yếu đuối.

 

I. Những bấp bênh của thế giới ngày nay

 

Chúng ta thử nhớ lại những bấp bênh và những bất nhất nơi con người trong thế giới ngày nay. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về các nguyên nhân gây ra những bất nhất nằm tận gốc rễ những thiếu sót lớn hay nhỏ mà thường chúng ta không giải thích được lý do tại sao.

 

1. Nguyên nhân thứ nhất: chúng ta đang sống trong một thời đại mà xã hội có những biến chuyển sâu xa một cách mau lẹ. Tư tưởng, phong tục, cách suy nghĩ, não trạng, và ý thức hệ thay đổi mau lẹ. Tất cả những thay đổi đó gây ra sự rối loạn nào đó vì người ta không còn biết gắn bó với những thói quen nào, hoặc với những điểm qui chiếu nào rõ ràng nữa.

 

2. Nguyên nhân thứ hai là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất: đó là chủ nghĩa đa nguyên được phổ quát hóa. Thực vậy, trong xã hội hiện tại, mỗi người đều nghĩ và biểu lộ như mình muốn. Họ nắm bắt nhiều thông tin, nhiều kiến thức, giúp họ có những suy nghĩ, những nhận định, những cách sống của riêng họ và đòi được mọi người tôn trọng.

 

3. Nguyên nhân thứ ba: xã hội tiêu thụ. Người ta tìm kiếm của cải vật chất không biết mệt. Khởi đầu chỉ nhằm đẻ thoả mãn nhu cầu nào đó, nhưng từ từ đi đến mức bị lệ thuộc hoàn toàn. Một xã hội đơn giản hơn, khắc khổ hơn, và tiết kiệm hơn sẽ tốt cho sự quân bình đời sống hơn.

 

4. Nguyên nhân thứ tư: Các phương tiện truyền thông tăng cường tác động của sự biến chuyển xã hội, chủ trương đa nguyên và xu hướng tiêu thụ vì chúng quảng bá và len lỏi vào tận những hang cùng ngõ hẻm hoặc những miền xa xôi hẻo lánh.

 

5. Nguyên nhân thứ năm: sự phát triển của chủ quan tính, một thứ “ung thư”. Mọi người đều thích dùng những từ như: cá nhân, ý thức, nội tâm, xác tín cá nhân, tính đích thực, tính tự phát, nhạy cảm cá nhân (hay đúng hơn nhiều khi chỉ là tự ái cá nhân), tôn trọng những tình cảm riêng tư. Những giá trị đó đã được vun trồng từ thời cổ đại, thời triết gia Hy lạp Socrate. Nhưng chưa từng trở nên phổ biến trong lãnh vực công cộng như ngày nay. Ai nấy đều gắn chặt với chủ quan tính của riêng mình. Trong các cuộc tranh luận, mỗi người đều dựa trên những gì cá nhân mình cho là tốt hơn, và đi đến mức độ là những ý kiến “thuộc lãnh vực riêng tư” lại được phối hợp khéo léo để gây tiếng vang rộng lớn trong dư luận một đất nước, một vùng, và trên cả thế giới nữa. 

 

II. Phân định sáng suốt

 

Chúng ta cần Chúa ban cho sự phân định sáng suốt.

 

1. Giá trị nội tâm đích thực

 

Trong Ki-tô giáo, các giá trị của “chủ thể” bắt nguồn từ Kinh Thánh: Tân Ước dành nhiều trang để nhấn mạnh đến đặc tính trung tâm của con người, của cá nhân, của ý thức và “con tim”. Khởi đi từ thánh Augustinô, chúng ta đã triển khai một suy tư tích cực và rõ rệt về nội tâm. Tự do nội tâm; tôn trọng mọi người và lương tâm mỗi người; mối quan tâm đến sự gắn bó chặt chẽ giữa tư tưởng, tình cảm và hành động; tính đích thực; sáng kiến cá nhân: đó là những giá trị cực kỳ quan trọng mà chúng ta phải lưu ý trong hoạt động mục vụ. Đàng khác, chính chúng ta cũng thấy mình khó hòa nhập vào những lược đồ có sẵn, hoặc vâng phục những cơ cấu và truyền thống cách tối mặt vì hình như chúng không phát xuất từ tận thâm sâu ý thức của chúng ta một cách tự nhiên. Không thể không tạ ơn Chúa về giá trị nền tảng của nội tâm con người.

 

2. Giá trị nội tâm giả tạo.

 

Kế đến, sẽ dễ dàng hơn để lột mặt nạ những hàng giả của tính nội tâm và sự phát triển bệnh hoạn của ý thức chủ quan biểu lộ ra khi người ta xâm phạm tiêu chuẩn đạo đức hay khi người ta muốn phát triển rực rỡ để lấy cớ phớt lờ luật lệ. Dù vậy, không dễ phân biệt những giá trị thực sự khỏi những thái độ giả hiệu xâm nhập những ai muốn tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng. Đây là những cám dỗ có tính chất giống như những cám dỗ của các ký lục và biệt phái trong Tin Mừng. Đó cũng là những cám dỗ đối với chúng ta khi chúng ta muốn rèn luyện mình và dấn thân phục vụ những giá trị cao cả.

 

Chúng ta có thể nói đến sự phát triển bệnh hoạn của chủ quan tính khi ý thức đi tới mức độ trở nên “duy ngã” (solipsiste), nghĩa là khi nó coi mình như tiêu chuẩn duy nhất cho hành động. Chúng ta gặp hình thức quen thuộc nhất của sự lệch lạc này khi cá nhân coi những suy nghĩ và tình cảm của mình như giá trị duy nhất, một tiêu chuẩn chắc như đinh đóng cột, một thẩm quyền xét xử không thể tranh cãi. Chủ quan tính lệch lạc này làm người ta chỉ đi tìm sự gắn bó hợp lý với những tình cảm và cảm xúc riêng tư. Đối với những cam kết đã hứa, những lời đã nói, người ta dễ dàng từ chối: “Tôi không còn muốn điều đó nữa!” Đức tin, Giáo Hội, thánh lễ không còn ý nghĩa gì đối với tôi! Tôi đã cắt đứt tình cảm với người đó vì anh ta, cô ta không còn hợp với tôi nữa.

 

Điều đáng lưu ý là những phản ứng trên lại được coi là những tiêu chuẩn chính đáng. Ngày nay, tính nhạy cảm cá nhân trở thành một tiêu chuẩn được coi là chính đáng và có tính quyết định, trước mọi qui chiếu về các giá trị và hoàn cảnh xung quanh. Ví dụ, người ta nói: “Tôi đã sống 10 năm hạnh phúc với vợ tôi (hay với chồng tôi); nhưng từ nay trở đi, cuộc sống đó không có ý nghĩa gì trong cuộc sống tôi nữa; mối tương quan của chúng tôi không còn tự nhiên, mới mẻ nữa”. Đây là những thái độ đơn giản hóa, những hợp pháp hóa nông cạn diễn dịch sự phát triển bệnh hoạn của lương tâm cá nhân được đặt lên hàng tối thượng. Và một khi đó là lương tâm của một nhóm, một tập thể thì sự trệch đường còn nguy hiểm và tai hại lớn hơn nhiều.

 

Khi phân tích những khủng hoảng khác nhau hiện nay trong gia đình, nơi hàng ngũ linh mục, tu sĩ nam nữ, người ta thấy tất cả đều qui về “tiêu chuẩn tối thượng” của những tình cảm cá nhân. Tình trạng đó xảy ra vì chúng ta lầm lẫn giữa sự phong phú tình cảm và cảm xúc với sự ưu việt của ý thức khách quan đặt nền tảng trên  sự hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi mỗi người.

 

III. Tác vụ ủi an.

 

Chúng ta là “những đứa con của thế kỷ”, sợ rằng một ngày nào đó, thình lình chúng ta bị chinh phục bởi thứ chủ quan tính bá quyền. Nó cản trở chúng ta hướng tới hoặc thực hiện những dấn thân. Bởi vậy, điều quan trọng là biết những phương dược Chúa Thánh Thần dành sẵn để an ủi, củng cố, chữa lành chúng ta và để chúng ta an ủi, củng cố, chữa lành người khác.

1. Chúa Thánh Thần đích thực là Đấng Ủi An loài người. Trong thông điệp Dominu

m et vivificantem, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết những dòng tuyệt vời về hoạt động củng cố và khích lệ của Chúa Thánh Thần. Quả thực, con người không thể tự mình bảo tồn sự toàn vẹn nội tâm, mà luôn cần ánh sáng và sức mạnh của ân sủng gìn giữ. Thiên Chúa nhân từ ban Thánh Thần để thanh luyện chúng ta khỏi sự nông cạn, hời hợt, hay thay đổi, phóng túng, sai lầm về nội tâm; ngài khôi phục căn tính đích thực và trọn vẹn của chúng ta.

 

2. Sự an ủi của Chúa Thánh Thần biểu lộ nền tảng của đời sống siêu nhiên là con đường thập giá. Đó là cách Thiên Chúa dùng để an ủi. Đó cũng là cách Chúa Giêsu dùng để an ủi hai môn đệ Emmaus: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lạchẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26). Nhờ trích dẫn Kinh thánh, Chúa Giêsu làm sáng tỏ con đường thập giá của Ngài và lời Ngài giải thích làm lòng nguội lành của hai ông bừng cháy lên: các ông nhận được sự an ủi và khích lệ; các ông tìm thấy ý nghĩa mới cho cuộc sống và cho những hi sinh khi biết rằng con đường để chinh phục tự do của chính mình gắn liền với đích đến trong vinh quang và phục sinh. Thánh Phao-lô diễn tả nền tảng siêu nhiên của thập giá như sau: ông củng cố các môn đệ và khích lệ họ vững vàng trong đức tin  bởi vì “chúng ta phải trải qua nhiều thử thách để vào Nước Thiên Chúa”. (Cv 14, 22).

 

3. Sau cùng, để tránh sự kích phát của chủ quan tính, chúng ta cần biết tuân theo những lời dạy và những cử chỉ của Giáo Hội mà không cần luôn phải hỏi chúng có ý nghĩa nào và có tầm quan trọng nào đối với chúng ta. Cảm xúc cá nhân của chúng ta đòi được biết “lý do tại sao” của mỗi cử chỉ trong phụng vụ hoặc mỗi chi tiết của toàn thể thực tại cơ cấu Giáo Hội; nhưng thường thường nó không được thỏa mãn. Đôi khi, ngay cả kinh nghiệm về cầu nguyện cũng cho thấy chủ quan tính thái quá. Luôn cầu xin và không ngớt nhắc đi nhắc lại: “Lạy Chúa, xin dạy con cầu nguyện” không che dấu ước muốn có một cảm nhận giác quan và một kiểm chứng tức khắc cho cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa đó sao? Đòi hỏi điều đó có nghĩa là chúng ta tìm kiếm những điều kiện cầu nguyện thỏa mãn cảm giác tính của mình và tự rời xa những hình thức cầu nguyện khác, trong đó, chúng ta khó có thể tìm thấy một kinh nghiệm cá nhân nào. Ở đây, chúng ta chạm trán với căn bệnh thiêng liêng mà ai cũng mắc phải không nhiều thì ít. Chắc chắn là phải dành cả cuộc đời để rao qua con đường thanh luyện mà thánh Gioan Thánh Giá và thánh Tê-rê-xa Avila đã nói tới. Đó là hành trình đi từ cảm giác tính tức khắc đến một khách quan tính tốt và nghiêm túc hơn. Nhờ các cử chỉ và lời đọc phụng vụ, Giáo Hội đảm bảo cho khách quan tính đó và giúp chúng ta đạt tới sự cầu nguyện đúng nghĩa và một đức tin vô điều kiện.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Xem xét lại đâu là những đòi hỏi theo chủ quan tính của tôi từ trước tới nay?

2. Trong đời sống nội tâm, tôi có luôn tìm kiếm những cảm nghiệm cá nhân thái quá không?

3. Tôi có coi những lý do, những chủ trương của cá nhân mình là những tiêu chuẩn đúng và tối thượng trên cả những quyết định của bề trên không?

Nguồn: http://gplongxuyen.org