HIẾN CHƯƠNG TRỢ THẾ
CHĂM SÓC BỆNH NHÂN VÀ NGƯỜI NGHÈO KHỔ
THEO CUNG CÁCH CỦA THÁNH GIOAN THIÊN CHÚA
LỜI GIỚI THIỆU
Tôi hân hạnh giới thiệu với toàn Dòng văn kiện "Hiến Chương Trợ Thế" này. Chúng tôi muốn cống hiến anh em một văn kiện trình bày những vấn đề đa dạng cần làm sáng tỏ, giúp chúng ta có một ý tưởng minh bạch về tính trợ thế mà chúng ta được kêu gọi thể hiện hôm nay, trong tư cách Dòng Trợ Thế của Thánh Gioan Thiên Chúa, khi chúng ta bước vào Thiên Niên Kỷ III, hầu có thể tiếp tục làm cho lời tiên tri của Thánh Gioan Thiên Chúa trở thành hiện thực.
Văn kiện này là một mục tiêu của Chương Trình Hành Động Sáu Năm của Hội Đồng Tổng Quản Trị, và ba tổ nghiên cứu đã được thành lập để hoàn thành văn kiện. Ba tổ này đã có hai cuộc họp phối hợp ở Rôma và đã đề cử ra một Ủy ban gồm một ít người chuyên trách để nghiên cứu, triển khai và duyệt lại bản văn mà giờ đây anh em có trong tay. Ủy ban này đã làm việc trên cơ sở những đóng góp từ các thành viên của cả ba tổ.
Chương Trình Hành Động Sáu Năm của Hội Đồng Tổng Quản Trị bao gồm một loạt những hoạt động chưa hề được thực hiện trong thực tế, vì rõ ràng lúc đó không thể soạn kịp bản dự thảo trước thời hạn.
Hội Đồng Tổng Cố Vấn cảm thấy rằng, thay vì soạn ra một văn kiện mới cho Tổng Tu Nghị, các Cộng đoàn và các nhóm Cộng tác viên nên nghiên cứu kỹ Văn kiện Hiến Chương Trợ Thế này trong năm 1999-2000, theo những hướng dẫn mà Ủy Ban Chuẩn Bị Tu Nghị sẽ công bố, nhờ đó, cùng với việc nghiên cứu văn kiện, họ có thể chuẩn bị cho nghị trình và việc phê chuẩn văn kiện ở Tổng Tu Nghị LXV cho Sáu Năm sắp tới.
Ý tưởng này đã được các thành viên của Ủy Ban soạn bản dự thảo và các Bề Trên Thượng Cấp của Dòng tán thành trong cuộc họp tại Rôma từ ngày 30 tháng 11 đến 4 tháng 12 năm 1998.
Văn kiện này gồm nhiều chương khác nhau liên quan tới sứ mạng của chúng ta:
Chủ đề trợ thế, được trình bày dưới quan điểm triết lý và thần học kinh thánh, cho thấy rõ những thái độ của Thánh Gioan Thiên Chúa và của truyền thống Dòng, và kết thúc bằng những nguyên tắc mà chúng ta muốn dựa vào để thực hiện đặc sủng trợ thế của chúng ta hôm nay.
Chiều kích đạo đức của con người và của việc chăm sóc. Chương này mô tả những nguyên tắc chung cơ bản trong quan điểm đạo đức của chúng ta và những hoàn cảnh chuyên biệt mà chúng ta được kêu gọi để đáp ứng trong tinh thần trợ thế và theo cung cách của Thánh Gioan Thiên Chúa.
Chiều kích văn hóa của tinh thần trợ thế, trên hết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào luyện và nghiên cứu nhằm đáp ứng những thách đố của Thiên Niên Kỷ III này.
Nhu cầu bảo đảm việc quản lý các phương tiện của chúng ta trong tinh thần đặc sủng. Chúng ta phải tuân thủ các qui luật quản trị, nhưng chúng ta phải áp dụng chúng theo đặc sủng của mình. Chúng ta phải thực hiện việc quản trị bằng những giá trị của người môn đệ Chúa Kitô và theo tinh thần của Thánh Gioan Thiên Chúa, vì đó là những giá trị làm cho việc quản trị của chúng ta mang tính chuyên biệt. Và chúng ta phải quản lý các trung tâm của mình theo những giáo huấn xã hội của Hội Thánh.
Chúng ta tin rằng làm như thế, chúng ta sẽ bước ra khỏi Tổng Tu Nghị với một chương trình cụ thể để giúp chúng ta sống thời kỳ Sáu Năm sắp tới trong tinh thần đáp ứng những đòi hỏi của Đặc Sủng chúng ta trong thế kỷ XXI này.
Văn kiện này sẽ được công bố chính thức vào Lễ Thánh Gioan Thiên Chúa trong Năm Thánh, Ngày Hoà Giải, để làm nổi bật tính thích hợp của cung cách Trợ Thế của chúng ta hôm nay.
Nguyện xin Thánh Gioan Thiên Chúa giúp chúng ta biết hoà giải chính con người mình, để có thể thông truyền sự hoà giải cho người khác qua việc chúng ta sống tinh thần trợ thế của mình.
Tu huynh Linh Mục Pascual Piles. OH
BeàTreân Toång Quyeàn
CHƯƠNG 1
CÁC NGUYÊN TẮC, ĐẶC SỦNG VÀ SỨ MỆNH
CỦA DÒNG TRỢ THẾ THÁNH GIOAN THIÊN CHÚA
1.1 Hoạch Định Tương Lai Theo Các Nguyên Tắc Của Dòng Chúng Ta
Nhân loại đang bước vào thế kỉ XXI với đầy lo âu cũng như hy vọng. Chúng ta đã có những tiến bộ lớn trong việc hiểu biết và quản lý thế giới, mà hôm nay ngày càng trở nên giống như một ngôi làng khổng lồ - "ngôi làng toàn cầu". Nhưng những cá nhân cũng như tập thể vẫn còn phải chịu đựng những đau khổ ngày càng sâu sắc hơn do hậu quả của chiến tranh, tính ích kỷ của giai cấp hay phe nhóm, và do những giới hạn của bản tính con người mà chúng ta luôn luôn nhận thấy rất rõ qua sự tồn tại của đau khổ, bệnh tật, và sự chết.
Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa là một thành phần và một mảng nhỏ của "ngôi làng toàn cầu" này. Chúng ta ngày nay có 1.500 Tu huynh, khoảng 40.000 Cộng tác viên gồm các nhân viên và các người tình nguyện, và 300.000 Cộng tác viên ân nhân. Chúng ta có mặt trên cả năm châu lục, tại 46 quốc gia và tại 21 Tỉnh Dòng, 1 Phụ Tỉnh, 6 Tổng Ủy và 5 Tỉnh Ủy. Chúng ta hoạt động tông đồ phục vụ các bệnh nhân và người nghèo khổ tại 293 Trung tâm Trợ thế. Tuy chúng ta tất cả đều là chi thể của một thân thể duy nhất là Hội Dòng, nhưng chúng ta sống trong những hoàn cảnh rất khác nhau. Một số trong chúng ta hoạt động tại các xã hội và Trung tâm có trình độ kỹ thuật tiến bộ cao, trong khi một số khác sống trong những xã hội và Trung tâm đang phát triển; một số sống tại những quốc gia thái bình, trong khi một số khác phải sống giữa những đau khổ do chiến tranh và bạo lực, hay do những hậu quả của bạo lực mà họ vừa trải qua; một số được hưởng những lợi ích của một xã hội tự do, đang khi một số khác bị xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do và các quyền cơ bản khác; một số trong chúng ta đặc biệt tận tụy phục vụ cho các hoạt động trợ thế, một số khác quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề xã hội và sự gạt ra bên lề; một số đang cố giúp người ta sống, trong khi một số khác thực hiện sứ mạng giúp người ta chết một cách xứng với phẩm giá con người.
Tuy tất cả chúng ta đều làm việc với mục tiêu cung cấp sự chăm sóc toàn diện, đầy đủ, nhưng một số thì tập trung nhiều hơn vào sức khoẻ thể chất, số khác vào sức khoẻ tâm thần, số khác nữa giúp tạo những điều kiện để người ta có thể hưởng một mức sống thỏa đáng. Một số sống ở miền Bắc, số khác ở miền Nam, một số sống tại các nền văn hóa phương Đông và số khác tại các nền văn hóa phương Tây. (1) Trước thềm Thiên Niên Kỷ III của thời đại chúng ta, mọi người trên khắp thế giới đều đang đặt câu hỏi về tương lai của xã hội chúng ta, về các thể chế, và về chính tương lai của chúng ta. Tất cả chúng ta là những người làm cho Dòng Trợ Thế của Thánh Gioan Thiên Chúa có thể tiếp tục hoạt động trên khắp thế giới, thì chúng ta cũng đang hoạch định một tương lai có khả năng được xây dựng trong thiên niên kỷ sắp tới để phục vụ những người đau khổ hay nghèo túng, và đang cần sự trợ giúp của chúng ta để xây dựng lại kế hoạch đời sống cá nhân của họ.
Khi hoạch định chương trình cho tương lai, đôi khi chúng ta có thể rơi vào sai lầm là quên mất quá khứ, không phải vì cố tình mà chỉ vì không để ý, hoặc bởi chúng ta không lưu tâm đúng mức, hoặc bởi chúng ta quá bận tâm để bắt kịp thời đại. Trong những trường hợp khác, nhu cầu đổi mới triệt để và khắc phục thất bại làm chúng ta thấy cần loại bỏ những phương pháp đã từng giúp ích nhiều trong quá khứ nhưng nay không còn thích hợp, vì thời đại hôm nay đòi hỏi những đáp ứng mới và quá khứ phải tiêu tan đi để chúng ta có thể tự do hơn để xây dựng tương lai. Chúng ta phải hoạch định tương lai của mình tại đây và lúc này, dựa trên tất cả những gì là tích cực trong quá khứ. Chúng ta tin rằng đây là hoàn cảnh đang đối diện với Dòng Trợ Thế hôm nay, tập trung vào sự hoạch định tương lai của mình dựa trên cơ sở việc duyệt xét cập nhật những nguyên tắc và giá trị của mình. Có thể một số lãnh vực trong Dòng và một số cung cách hành động cần được thay đổi, và tại một số nơi sự thay đổi này có thể phải triệt để hơn tại những nơi khác nếu chúng ta muốn hiện diện trong thiên niên kỷ sắp tới này, để cống hiến cho người ta sự phục vụ và truyền đạt cho họ một sứ điệp vẫn còn hợp thời. Vì vậy, rõ ràng toàn thể Dòng Trợ Thế của Thánh Gioan Thiên Chúa tất yếu phải được củng cố bằng chính những giá trị vốn luôn là đặc trưng của Dòng chúng ta. Những giá trị này phải được hội nhập văn hoá, cập nhật theo ngôn ngữ mà chúng được dùng để diễn tả, và phải được thực hành tùy theo những hoàn cảnh khác nhau ở những nơi khác nhau trên thế giới, bởi vì đây là con đường duy nhất để tất cả những ai đến tiếp xúc với các Trung tâm của chúng ta có thể hiểu biết và chấp nhận những giá trị ấy.
Tổng Quy số 43 đề ra những nguyên tắc sau đây: (2)
"Do bởi căn tính Công giáo của họ, những nguyên tắc hướng dẫn cơ bản sau đây xác định nét đặc trưng của việc chăm sóc được thực hiện trong các trung tâm của chúng ta:
Tất cả những người sống và làm việc trong các bệnh viện hay trung tâm khác của chúng ta phải tập trung quan tâm đến con người mà chúng ta chăm sóc;
Phải nhìn nhận và bảo vệ quyền lợi của những người bệnh tật hay nghèo khổ, và phải trân trọng nhân phẩm của họ;
Chúng ta dấn thân bảo vệ và cải thiện sự sống con người;
Chúng ta nhìn nhận rằng người được chúng ta chăm sóc có quyền được thông báo thích đáng về tình trạng sức khoẻ của họ.
Chúng ta tuân thủ các đòi hỏi về sự tin cẩn chức nghiệp, và bảo đảm chúng được tôn trọng bởi tất cả những ai đến tiếp xúc với những người mà chúng ta chăm sóc;
Chúng ta nhìn nhận quyền được chết xứng với nhân phẩm, tôn trọng và lưu tâm tới những ước muốn chính đáng và những nhu cầu thiêng liêng của người hấp hối, đồng thời ý thức rằng đời sống con người bị giới hạn trong thời gian và được kêu gọi để đạt tới sự sung mãn trong Chúa Kitô;
Chúng ta tôn trọng tự do lương tâm của những người chúng ta chăm sóc và những người làm việc cho chúng ta, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi họ chấp nhận và tôn trọng căn tính của các trung tâm trợ thế của chúng ta.
Chúng ta kích thích và phát huy các đức tính và trình độ chuyên nghiệp của các Cộng tác viên của chúng ta, khuyến khích họ tham gia tích cực vào sứ mạng của Dòng; tùy theo khả năng và lãnh vực trách nhiệm của họ, chúng ta cho họ tham dự vào các quyết định trong hoạt động tông đồ của chúng ta;
Chúng ta gạt bỏ việc theo đuổi lợi nhuận vật chất; vì vậy chúng ta tuân giữ các qui tắc kinh tế công bằng và đòi hỏi người ta tôn trọng những qui tắc này.
Chúng ta coi các Cộng tác viên là những "vốn" quan trọng nhất của Dòng để có thể thi hành hiệu quả sứ mạng của mình. Chính vì vậy trong các quan hệ với họ, chúng ta cố gắng thực hành và cổ võ những nguyên tắc về công bằng xã hội, nhằm chia sẻ đặc sủng của chúng ta với tất cả những ai được gợi hứng bởi tinh thần của Thánh Gioan Thiên Chúa.
Miễn là họ tôn trọng các nguyên tắc của chúng ta, chúng ta mong muốn và sẵn sàng cộng tác với mọi cơ quan và tổ chức đạo và đời trong việc thực hiện và trong phạm vi sứ mạng của chúng ta, và chúng ta chú trọng đặc biệt tới những lãnh vực ít được quan tâm nhất. (3)
Những nguyên tắc này đã bắt nguồn từ Đấng Sáng Lập Dòng chúng ta, và đã được hình thành qua thời gian nhờ sự suy tư và những việc lành do các người kế vị của Ngài thực hiện. Trong khi lưu tâm tới truyền thống, chúng ta cũng phải suy tư về việc định nghĩa sứ mạng của Dòng Trợ Thế.
Trong mọi việc ngài làm, Thánh Gioan Thiên Chúa chỉ có một ước muốn là "làm việc thiện, và làm tốt việc thiện; không muốn ban phát một sự trợ giúp vô hồn, thiếu chất lượng, mà muốn kết hợp tinh thần bác ái và công bằng Kitô giáo nhằm cống hiến cho người bệnh tật và nghèo khổ một việc phục vụ có tiêu chuẩn khoa học và kỹ thuật cao". (4)
1.2 Đặc Sủng của Dòng
Thánh Gioan Thiên Chúa là một con người đặc sủng: cung cách hành động của ngài thu hút sự chú ý của tất cả những ai biết ngài, và ảnh hưởng của ngài vượt ra khỏi Granada để lan xa tới các làng mạc và thành phố ở Andalusia và Castile. Đặc sủng và sức lôi cuốn của ngài vượt quá con người của ngài. Và không phải chỉ có các thái độ và hành động nhân đạo của ngài nói lên tình yêu của ngài đối với người bệnh tật và nghèo khổ và nhờ đó khơi dậy sự ngưỡng mộ của mọi người và gợi hứng cho họ cộng tác vào công cuộc của ngài.
Nói theo thần học, đặc sủng là bất kỳ hình thức hiện diện nào của Thánh Thần làm cho người tín hữu trở nên phong phú và có khả năng phục vụ người khác. Các tu huynh được hiến thánh để thể hiện một đặc sủng chuyên biệt là quà tặng của Thánh Thần, qua việc vun trồng ân sủng mà họ lãnh nhận, sống đời sống của họ trong tương quan với Thiên Chúa, và đi ra thế giới để phục vụ con người.
Đặc sủng và tinh thần trợ thế mà Thánh Thần phú ban cho Thánh Gioan Thiên Chúa đã hiện diện trong ngài như một hạt giống phải được giữ cho sống động nơi mọi người qua mọi thời, bằng cách mở rộng sự hiện diện từ bi của Chúa Giêsu thành Nazarét và phục vụ mọi người đau khổ theo cung cách của Thánh Gioan Thiên Chúa.
Hiến Pháp của Dòng chúng ta định nghĩa Đặc sủng như sau:
"Do bởi ân sủng này, chúng ta được hiến thánh bởi hành động của Thánh Thần, cho chúng ta tham dự một cách đặc biệt vào tình yêu nhân từ của Chúa Cha. Kinh nghiệm này thông truyền cho chúng ta những thái độ của lòng nhân ái và xả thân, giúp chúng ta thi hành sứ mạng loan truyền và thể hiện Nước Chúa giữa người nghèo khổ và bệnh tật, biến đổi đời sống chúng ta, khiến nó trở thành biểu hiện tình yêu đặc biệt của Chúa Cha đối với những người yếu hèn nhất, là những người chúng ta muốn cứu vớt theo gương Chúa Giêsu." (5)
Người Tu huynh hiến thánh chính mình và sống hiệp thông với những người đang cảm nghiệm cùng một ơn gọi ấy để biểu hiện cùng một đặc sủng. Nhưng tình yêu bên trong cộng đoàn này (sự hiệp thông) phải được biểu hiện ra bên ngoài, vì những đòi hỏi của sứ mạng ra đi mang sự giải phóng đến cho những thành phần khác của Hội Thánh và cho những người nghèo khổ nói chung.
Các Tu huynh Trợ Thế được hiến thánh trong tinh thần trợ thế, nên họ tham dự trực tiếp vào đặc sủng của Thánh Gioan Thiên Chúa. Và những Cộng tác viên cũng tham dự vào cùng một đặc sủng như một sự "toả sáng" của đặc sủng này: “họ là những người biết Thánh Gioan Thiên Chúa ?, họ cảm nghiệm trong cuộc đời họ một thứ ánh sáng khơi dậy trong họ động lực để sống tinh thần trợ thế, noi gương Gioan Thiên Chúa hay các Tu huynh của ngài ? Những người ngoài đời mà họ cảm thấy đượïc mời gọi để sống tinh thần trợ thế thì cũng tham dự vào đặc sủng của Thánh Gioan Thiên Chúa khi họ mở lòng đón nhận linh đạo và sứ mạng của các Tu huynh, và biểu hiện sứ mạng này nơi chính ơn gọi cá nhân của họ.
Hiển nhiên mỗi người tham dự ở một lãnh vực và mức độ khác nhau: một số người sẽ cảm thấy gắn bó hơn với Dòng về linh đạo của Dòng, trong khi những người khác sẽ cảm thấy sự gắn bó này trong việc thực thi sứ mạng của mình. Điều quan trọng là ơn trợ thế đang được đón nhận qua Thánh Gioan Thiên Chúa đã thiết lập những dây liên kết hiệp thông giữa các Tu huynh và các Cộng tác viên, những dây liên kết này sẽ thúc đẩy họ phát triển ơn gọi của mình và biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với loài người, đối với người nghèo và người đau khổ." (6)
1.3 Sứ Mạng Của Dòng
Hiến Pháp của Dòng Trợ Thế định nghĩa sứ mạng của chúng ta như sau:
"Được khích lệ bởi ân sủng nhận được, chúng ta hiến thánh chính mình cho Thiên Chúa và hiến mình phục vụ Hội Thánh qua việc giúp đỡ những người bệnh tật và nghèo khổ, đặc biệt dành ưu tiên cho những người nghèo khổ nhất". (7)
Đường lối tổng thể áp dụng cho toàn Dòng phải được đem ra thực hành cụ thể tại mỗi Trung tâm. Vì mỗi Trung tâm đều có những tính chất chuyên biệt và tìm cách đáp ứng những nhu cầu của dân chúng tại một địa phương và vào một thời điểm đặc thù, và vì chúng ta muốn sứ mạng của chúng ta là RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO THẾ GIỚI ĐANG ĐAU KHỔ BẰNG CÁCH PHÁT TRIỂN CÁC TRUNG TÂM VÀ CÁC TỔ CHỨC CHĂM SÓC Y TẾ VÀ / HOẶC XÃ HỘI, ĐỂ CỐNG HIẾN SỰ TRỢ GIÚP TOÀN DIỆN CHO CON NGƯỜI, nên chúng ta phải tìm câu trả lời cho những câu hỏi sau đây trong từng hoàn cảnh đặc thù:
Tại sao có Trung tâm này?
Việc phục vụ của chúng ta nhắm đến những ai?
Chúng ta là ai, trong tư cách người phục vụ?
Đâu là những cơ cấu thích hợp nhất?
Đây là đường lối phải theo để thực hành những nguyên tắc mà chúng ta muốn cổ võ và sứ mạng mà chúng ta muốn hoàn thành trong xã hội.
Chỉ khi chúng ta thể hiện được những nguyên tắc này nơi mình-nghĩa là chỉ khi việc phục vụ của chúng ta cho người bệnh tật và nghèo khổ tại mỗi miền trên thế giới được soi sáng bởi những giá trị chúng ta đang đề ra ở đây- thì lúc đó chúng ta mới có thể tuyên bố là đã tạo dựng một Trung Tâm của Dòng Trợ Thế của các Tu huynh Thánh Gioan Thiên Chúa.
Bước quan trọng tiếp theo là phải xác định những con người mà mỗi Trung tâm phải chăm sóc: những người bệnh tật và nghèo khổ mà chúng ta phục vụ. Chúng ta cũng phải nhìn ra bên ngoài thành phần những người hưởng sự phục vụ trực tiếp trong các Trung tâm của chúng ta, và nghĩ đến những người ở ngoài. Vì chúng ta không chỉ phục vụ những bệnh nhân, mà cả gia đình và những người thân của họ nữa.
Và chúng ta cũng phải nhìn rộng ra ngoài xã hội và môi trường chúng ta đang sống, và đến với những cá nhân và tổ chức có quan hệ với Trung Tâm của chúng ta.
Việc phục vụ của chúng ta tại các Trung Tâm phải năng động và biến hóa, vì chúng ta đang sống trong một xã hội năng động và biến hóa không ngừng, và vì những con người chúng ta phục vụ cũng đang không ngừng thay đổi.
CHÚ THÍCH CHƯƠNG 1
(1) Xem PILES FERRANDO, Tu huynh Tổng Quyền Pascual của Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa, Luân Thư cho Thời Kỳ Sáu Năm 1994-2000, §1, Rôma 1994.
(2) DÒNG TRỢ THẾ THÁNH GIOAN THIÊN CHÚA, Qui Chế Tổng Quát, §43, Rôma, 1997.
(3) Xem TỔNG TU NGHỊ LXIII, Việc Rao Giảng Tin Mừng Mới và Tinh Thần Trợ Thế Mới Trước Thềm Thiên Niên Kỷ III, §5.6.3. Bogotá, 1994.
(4) DÒNG TRỢ THẾ – TRỤ SỞ TỔNG QUYỀN, Các Tu Huynh và Cộng Tác Viên Hợp Tác để Phục Vụ và Cổ Võ Sự Sống, §13, Rôma, 1992.
(5) Hiến Pháp Dòng, 2b, Rôma, 1984.
(6) Các Tu Huynh Và Cộng Tác Viên Hợp Tác. . . §115-116, sách đã dẫn.
(7) Hiến Pháp Dòng, 3, Rôma, 1984.
(8) Xem Thông điệp Salvifici Doloris (Giá Trị Cứu Độ Của Đau Khổ), đoạn 30.
CÁC CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ PHÂN TÍCH CHƯƠNG 1
VÀ CHUẨN BỊ CHO TỔNG TU NGHỊ
Gợi ý suy tư:
Trong các Trung tâm và Cộng đoàn:
1) Mô tả những dấu hiệu cho thấy bạn đang sống thế nào ơn đặc sủng, sứ mạng, và những nguyên tắc cơ bản của Dòng.
2) Mô tả điều gì làm bạn khó thực hành đặc sủng và vào hoàn thành sứ mạng, trong khi thực hiện những nguyên tắc cơ bản của Dòng.
3) Nêu lên những hướng dẫn bạn nghĩ có thể bảo đảm việc thực hành và vun trồng đặc sủng, sứ mạng và những nguyên tắc cơ bản của Dòng.
4) Nêu lên những dấu hiệu xác định những mối quan hệ hiệp thông trong tinh thần trợ thế giữa các Tu huynh và các Cộng tác viên.
5) Phải làm gì để vun trồng sự lớn mạnh các mối quan hệ hiệp thông trong tinh thần trợ thế này?
CHƯƠNG 2
NHỮNG CƠ SỞ THẦN HỌC - KINH THÁNH
CỦA TINH THẦN TRỢ THẾ
2.1 Những Giải Đáp Triết Học và Tôn Giáo về Đau Khổ
2.1.1 Con người đối diện với đau khổ
"Con người là gì ? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự ác, và cái chết, khi nó vẫn tiếp tục tồn tại cho dù con người đã đạt được biết bao tiến bộ? Mục đích của những chiến thắng này là gì mà chúng ta phải mua bằng một cái giá quá đắt như thế? Con người có thể cống hiến cho xã hội điều gì; có thể mong đợi điều gì từ nó? Có gì sau cuộc đời trần thế này?" (1)
Đi tìm một giải thích cho sự đau khổ của con người đã luôn luôn là một vấn đề cơ bản mà mọi hệ thống triết học và tôn giáo từng tìm cách giải quyết theo những đường lối khác nhau, mà không bao giờ thành công trong việc hoàn toàn vén bỏ được bức màn bí nhiệm bao phủ nó.
Có lẽ chúng ta có thể tóm lược những câu trả lời chính yếu đã từng được đưa ra cho vấn đề gai góc này qua năm hướng giải đáp sau đây.
Hướng giải đáp thứ nhất chúng ta có thể gọi là dựa trên sự bí ẩn hay mầu nhiệm, đó là coi đau khổ như chuyện tự bản chất không thể tránh và không thể hiểu. Nó thường được diễn tả thành một huyền thoại theo đó đau khổ được nhìn như một sự "trừng phạt" của một thần linh nào đó, hoặc như sự chiến thắng của những thần ác trên những thần lành. Nhưng cho dù được cắt nghĩa thế nào, mọi sự luôn luôn được phóng lên một chiều kích siêu nhiên và do đó những phương thuốc để giải phóng con người khỏi đau khổ cũng có thể mang tính siêu nhiên như thế (phù thủy, pháp sư, trừ tà, v.v. . .). Quan điểm này vẫn còn tồn tại nơi một số dân gọi là "bán khai", và thậm chí cho tới nay vẫn còn được duy trì như một nền tảng truyền thống nơi nhiều tư tưởng tôn giáo khác.
Một hướng giải đáp thứ hai đã tồn tại trong suốt lịch sử kể từ thời các triết gia thuộc trường phái Epicurus cổ xưa cho tới chủ nghĩa khoái lạc cá nhân ngày nay, đó là quan điểm mà chúng ta có thể gọi là sự phủ nhận. Mọi hoàn cảnh đau khổ trên đời đều là một sự giới hạn và gò bó việc tìm kiếm khoái lạc, và do đó tốt hơn nên làm ngơ chúng để tìm cách tận hưởng giây phút hiện tại càng lâu càng tốt. Đây là cách "giải tỏa" đau khổ và sự lo lắng mà sự hiện diện của đau khổ tạo ra. Hơn nữa, trong bối cảnh văn hoá này, người ta tìm thấy gốc rễ của rất nhiều hình thức "tuyệt vọng" đương đại khác, mà khi phủ nhận thực tại của đau khổ, chúng đã đi tới chỗ phủ nhận chính đời sống khi gánh nặng của đời sống trở thành không thể chịu đựng nổi.
Một thái độ khác đối nghịch hẳn với thái độ thứ hai, đó là thái độ chấp nhận anh hùng sự đau khổ. Những triết gia Khắc Kỷ bênh vực lập trường này theo triết học, và "chủ nghĩa Khắc Kỷ" ngày này đã trở thành đồng nghĩa với sự chấp nhận đau khổ một cách thanh thản mà không oán thán. Sự chấp nhận dũng cảm này rất hấp dẫn đối với Kitô giáo, và Kitô giáo đã đưa những yếu tố có nguồn gốc Khắc Kỷ vào những lý luận thần học của mình và coi chúng rất phù hợp với việc chấp nhận Thập Giá của Chúa Giêsu và thái độ của các vị Tử Đạo. Nhưng sự "lây lan" này không bao giờ có giá trị thực sự tích cực, và đã là một trong những nguồn gốc tạo nên sự tuyên dương giả-Kitô giáo về đau khổ mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy khó có thể giũ bỏ được nó.
Một hướng giải quyết thứ tư về đau khổ gồm việc diệt khổ bằng một con đường nội tâm dần dần dẫn tới việc tiêu diệt mọi dục vọng và mọi sự đau khổ thể lý và tâm lý. Phương hướng giải quyết này đạt tới hình thức diễn tả đầy đủ nhất trong Phật giáo, nhưng nó cũng được gặp thấy trong những nền triết học và tôn giáo khác ở phương Đông và đang tạo một ảnh hưởng kinh ngạc đối với thế giới phương Tây. Phật giáo nhấn mạnh đặc biệt việc chăm lo cho những người đau khổ vì Phật giáo coi lòng "từ bi" là một trong những tình cảm phổ quát đưa con người đến gần Thượng Đế, tuy rằng việc giúp người đau khổ chỉ là làm cho họ vượt lên trên những dục vọng là nguyên nhân gây ra đau khổ, chứ nó không tìm ra một "giải pháp" cho các vấn đề, kể cả các vấn đề vật chất, là những cái tạo ra đau khổ.
Hướng giải đáp cuối cùng mà chúng ta sẽ đề cập chi tiết hơn ở đoạn tiếp theo, là hướng giải đáp được diễn tả đầy đủ nhất trong Kitô giáo, mà chúng ta có thể định nghĩa là sự nhận ra giá trị của đau khổ. Tuy không tỏ lộ hoàn toàn mầu nhiệm này và không muốn biến nó thành một giá trị tích cực tự tại, Kitô giáo cung cấp những "lý do" của đau khổ, biến đổi tính vô lý của nó thành một dụng cụ có thể đem lại ích lợi cho bản thân mình và cho người khác. Hướng giải đáp này cũng có thể mang hình thức thăng hoa tâm lý bởi những cá nhân muốn lý giải một kinh nghiệm đau đớn, hoặc thậm chí một sự bù trừ về hành vi.
Dù sao, bên cạnh những lối giải thích này, chúng ta không thể không biết đến một chiều kích tuyệt đối cá nhân của sự đau khổ mà ý nghĩa của nó vượt ra khỏi mọi sự tổng quát hóa, bởi vì nó chỉ có ý nghĩa trong thế giới hiện sinh của mỗi cá nhân mà thôi. Sự đau khổ trong bối cảnh này trở thành một yếu tố thuộc về tiểu sử mỗi con người mà mầu nhiệm sâu xa nhất không bao giờ có thể tỏ lộ hay diễn giải bằng lý luận một cách thoả đáng.
2.1.2 Đau Khổ Nói Chung, Và Đau Khổ Theo Kitô Giáo
Theo quan điểm Do thái-Kitô giáo, đau khổ và sự ác mà nó diễn tả không nằm trong chương trình khởi thủy của Tạo hoá: nói cách khác, nó không phát xuất từ Thiên Chúa. Vì vậy, khác với những tôn giáo khác, Kitô giáo không có một vị thần ác là nguyên nhân của đau khổ. Đau khổ và sự ác mà nó diễn tả nằm trong thân phận con người, nhưng đồng thời bộc lộ mầu nhiệm về một điều mà Thiên Chúa không mong muốn, không ưa thích, và chỉ đơn giản là sự mong đợi ơn cứu độ. Đau khổ là một thực tại tiêu cực, một sự "vắng mặt" hơn là một sự hiện diện, theo quan niệm của thánh Âu-cơ-tinh. Để diễn tả điều này, Kinh Thánh sử dụng hình ảnh thần thoại về tình trạng con người nguyên thủy hoàn toàn không có đau khổ, nhưng đau khổ đã bước vào vì con người bất tuân giới luật của Thiên Chúa, nghĩa là, vì chúng ta tự mình lìa xa tình yêu của Thiên Chúa. Hình ảnh con rắn trở thành biểu tượng của việc tôn thờ ngẫu tượng, biểu tượng của thái độ không "tin tưởng Thiên Chúa", yêu thích tạo vật hơn Thiên Chúa và biến tạo vật thành thần linh.
Suốt nhiều thế kỷ, mối tương quan "hữu thể học" này giữa tội lỗi và đau khổ mà người ta coi là một hình phạt của tội lỗi đã được Israel quan niệm theo một nghĩa "cá nhân", coi mọi trường hợp đau khổ đều là một hình phạt của một tội nào đó (tư tưởng này vẫn còn khá phổ biến hôm nay). Và không chỉ có thế: bằng cách đối chiếu tình trạng nghịch lý giữa "hạnh phúc của quân vô đạo" với "sự đau khổ của người công chính", các nhà hiền triết của Israel đã giải thích khác đi rằng rốt cuộc kẻ vô đạo sẽ bị trừng phạt nơi con cháu của họ, và người công chính đang chịu khổ là để đền tội cho cha ông họ.
Tiếng kêu gào thảm thiết đầu tiên chống lại quan điểm này đã được gióng lên trong sách Gióp. Với một sự nhậy cảm rất hiện đại mà ngày nay chúng ta vẫn còn phải kinh ngạc, Gióp đã phản kháng lại quan niệm này về đau khổ và đòi Thiên Chúa phải trả lời tại sao một "người chính trực" như ông lại phải chịu đau khổ không tương xứng với một lỗi lầm nào mà ông đã có thể mắc phải. Tuy nhiên Thiên Chúa không trả lời một cách minh nhiên, mà cơ bản ngài ngỏ lời mời gọi ông chấp nhận mầu nhiệm mà không đòi hỏi lời giải thích, cũng không rời bỏ niềm tin của ông vào một vị Thiên Chúa chỉ muốn điều lành cho con cái Ngài mà thôi.
Khuôn mẫu vĩ đại này về "người chính trực chịu khổ" được biểu trưng một cách long trọng bằng hình ảnh "người tôi tớ đau khổ của Yavê", con người mà truyền thống sau này đồng hóa với hình ảnh Đấng Kitô "gánh lấy" những đau khổ của dân Người, và nhờ đó giải thoát họ khỏi những đau khổ của họ. Việc "đền tội thay" này đã được thánh Phaolô minh giải rất hùng hồn trong Thư Rôma 3:25, không được hiểu như "hình phạt" của một người đại diện cho toàn dân, mà phải hiểu theo nghĩa các hy tế xá tội xưa kia trong đó tế vật toàn thiêu trở thành một công cụ để Thiên Chúa tha tội. Hy tế của Chúa Kitô, và do Nhiệm Thể của Người, sự đau khổ mà mọi tín hữu phải chịu (nhưng theo nghĩa nói trong Rm 8:19 và Ep 1:7-10, cũng là cả thế giới phải chịu) trở thành một công cụ cho ơn tha thứ của Thiên Chúa.
2.1.3 Sứ Điệp Giải Phóng của Tin Mừng
Khía cạnh chủ quan của sự giải phóng theo đó Chúa Giêsu Kitô giải phóng con người khỏi tội lỗi trong chính thân xác của họ và vì thế cứu chuộc con người khỏi mọi hậu quả của tội, cũng có một khía cạnh thực tiễn trong các công cuộc và hành động mà Ngài thực hiện. Chữa bệnh, đón nhận những con người ngoài lề xã hội, và bênh vực người nghèo là một phần cốt yếu của sứ mạng Ngài. Thực vậy, hoạt động vì người nghèo và "những kẻ thấp hèn" được coi là dấu chỉ đặc thù cho tư cách Thiên sai của Ngài (xem Mt 11:3-5). Bằng cách này, Ngài đã hoàn toàn khôi phục quyền năng giải phóng và cứu độ toàn diện của Thiên Chúa cho con người, mà biến cố Xuất hành đã là một kinh nghiệm lịch sử và một bằng chứng biểu tượng. Thái độ của Chúa Giêsu đối với bệnh nhân không chỉ giàu ý nghĩa mà còn là một tấm gương cho chúng ta noi theo. Ngài đã sống trọn vẹn các biến cố đời sống của Ngài và của những người bà con họ hàng (xem Mt 14:14; 15:32; Lc 7:13; Ga 11:36); Ngài không thách đố, không phê bình hay quở trách bệnh nhân khi họ đến xin Ngài chữa bệnh; ngược lại, ngài thường là người khởi xướng (xem Mc 10:49; Lc 8:49; Ga 5:6); Ngài gạt bỏ mọi sự tương quan giữa tội lỗi cá nhân và bệnh tật hiện tại (xem Ga 9:1-13); Ngài chữa lành toàn diện con người bệnh nhân (xem Mt 9:1-7). Nói cách khác, hoạt động của Ngài không chỉ giới hạn vào việc chữa một căn bệnh, mà nhắm tới lợi ích toàn diện của con người, tới sự cứu rỗi (salus) chứ không chỉ là sức khoẻ (sanitas) của con người.
Vì vậy, việc chăm sóc người nghèo khổ mang những ý nghĩa rất đa dạng, trước hết nó trở thành một dấu chỉ mới về giao ước giữa con người và Thiên Chúa. Giao ước giữa Tạo hóa và Tạo vật vì vậy được tái đề nghị bởi tình yêu của Thiên Chúa, đấng hồi phục "sức khoẻ" lại cho người nghèo, người bệnh, và người bị bỏ rơi, để họ được sống trở lại, và tràn ngập tình yêu ấy. Chính trong việc ủy thác cho các Kitô hữu (Christifideles) nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng chữa lành của Chúa Kitô mà chúng ta tìm thấy nền tảng "đoàn sủng" của tinh thần Trợ thế, nền tảng này có những nguồn gốc thần học và kinh thánh đáng chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu rộng.
2.2 Tính Trợ Thế Hay Lòng Mến Khách Trong Cựu Ước
2.2.1 Thiên Chúa là Lòng mến khách (+)
Khi nói về Lòng mến khách ngày nay, chúng ta thường nghĩ tới việc tiếp đón khách vào nhà mình. Nhưng ý nghĩa thần học đích thực của thái độ nhân bản này trước tiên là ở trong chiều kích hữu thể học của Lòng mến khách.
Không phải là nói quá khi cho rằng trong bản thể Ba Ngôi Thiên Chúa có chứa đựng những nguồn gốc sâu xa nhất của một đời sống thần linh cũng chính là Lòng mến khách. Lòng mến khách của Chúa Cha là Đấng đã "lập cư" nơi bản thể mình từ đời đời để sinh ra Chúa Con, và Lòng mến khách của Chúa Con -Đấng đón nhận nơi mình hồng ân sinh thành của Chúa Cha. Sau cùng, Lòng mến khách của Chúa Thánh Thần-Đấng kết hợp Cha và Con, và vì thế Ngài trở thành hiện thân của một tình yêu tiếp đón.
Chiều kích Ba Ngôi này của Lòng mến khách không chỉ liên quan tới bản thể Thiên Chúa mà còn liên quan tới việc Thiên Chúa cư ngụ nơi con người nay trở thành chủ nhà đón tiếp Thiên Chúa (xem Ga 13:20). Trong Lễ Qui Latinh cũ, việc tham dự Thánh Thể được mô tả giống như việc đón tiếp Chúa Giêsu vào dưới mái nhà mình, và Chúa Thánh Thần cũng được gọi là "Khách của linh hồn". (2)
Trên bình diện nội tại, Tạo dựng được nhìn như là kết quả của Lòng mến khách nguyên thủy của Thiên Chúa, mà do bản chất của nó, nó vừa sinh ra vừa đồng thời đón tiếp một kế hoạch được hình thành ở ngoài chính bản thể của nó. Chính Lòng mến khách đã đóng tính vĩnh cửu lại để đặt nó trong một chiều kích lịch sử và do đó làm cho chính thời gian trở thành khách của nó, cả trước khi có con người. Nhưng chính khi tạo dựng con người mà Thiên Chúa tỏ lộ đầy đủ nhất chính mình Ngài như là Lòng mến khách, bằng cách thông ban cho con người một sự hiện diện rộng khắp và cho con người làm chủ mọi tạo vật của ngài. Thực ra điều này đã được thực hiện từ trước nữa, khi Ngài có con người trong trí tạo dựng của ngài, và con người được mang chính hình ảnh của trí tạo dựng ấy.
Tiếp theo Tạo dựng là Giao ước, được diễn tả dưới vô vàn hình thức với đủ loại biểu tượng trong các trình thuật của Kinh thánh. Chính vì nó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, nên Giao ước mà Kinh thánh nói tới không chỉ trở thành cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và khách của ngài, mà còn giữa con người và vị khách thần linh của con người. Cho dù Giao ước này được diễn tả bằng những thực tại hữu thể khác nhau, Lòng mến khách trong giao ước trở thành một hành vi trao ban hai chiều, một cuộc trao đổi quà tặng. Và mỗi khi Giao ước này bị vi phạm trong lịch sử của các cá nhân hay cộng đồng, lòng tha thứ và sự hòa giải của Thiên Chúa với con người chính là bằng chứng cho nguồn mạch vô tận của một Lòng mến khách luôn luôn mới mẻ.
2.2.2 Khái niệm về Lòng mến khách
Kinh Thánh Cựu Ước được đặt trong bối cảnh văn hóa của thế giới Sêmít, trong đó có một sự căng thẳng giữa việc tiếp đón khách mà trong lòng vẫn nuôi một mối nghi ngờ nào đó, coi người khách như một "mối đe dọa" đối với cá tính của dân tộc. Trong mọi trường hợp, thái độ chung của Israel đối với người ngoài là coi họ là những ngoại kiều. Ít nhất có ba kiểu nói, cho thấy ba thái độ khác nhau. Thuật ngữ thứ nhất là zar, nghĩa là một người thuộc một chi tộc hay dòng tộc khác, là người xa lạ, và đôi khi là một kẻ thù (Đnl 25:5; G 15: 19; Is 61:5; 25:2-5). Thuật ngữ thứ hai ger chỉ về một người ngoại kiều cư ngụ trong nước (người Israel ở Ai Cập, hay người Canaan ở Israel); và thuật ngữ thứ ba tosab dùng để nói về người ngoại kiều cư ngụ tạm thời ở một nước khác (St 23,4; Dnl 14,21). Việc có những tên gọi khác nhau này cho thấy có sự khác biệt về thái độ đối với người ngoài hay người lạ tùy theo tính chất xa lạ riêng biệt vào mỗi thời. Tóm lại, chúng ta có thể nói Israel đã có một sự phân biệt giữa các dân tộc ngoại bang, những người ngoại kiều đã định cư trong nước, và những ngoại kiều vãng lai riêng lẻ từng người.
Hạng người thứ ba này là hạng người được mở rộng Lòng mến khách với hình thức cao nhất. Chúng ta chỉ cần nhớ lại đoạn truyện trong St 19:1-8 nói về việc ông Lót sẵn sàng dâng hiến các cô con gái của ông cho người dân trong thành để họ không đụng tới những vị khách của ông. Trên thực tế, việc nhấn mạnh sự phân biệt các thái độ này có thể mang cùng một ý hướng và mục đích: khắc phục mối đe dọa của người ngoài đối với cộng đồng hay bản chất riêng của mình, cả bằng việc đối kháng họ và coi họ như thù địch, và bằng việc tỏ ra quan tâm đặc biệt tới họ. Chúng ta cũng có thể tìm thấy những dấu vết của thái độ nước đôi này trong lối cắt nghĩa lại khái niệm này của tiếng Latinh thời sau, với cùng một ngữ căn chung cho hai từ hospes (khách) và hostis (kẻ thù).
Hiển nhiên, dù đây là quan điểm chuyên biệt và thích hợp nhất về Lòng mến khách trong Israel, chúng ta không được quên rằng Israel đã sống và thực hành Lòng mến khách này thế nào với chính dân của mình. Nói theo sát nghĩa, "người thân cận" (một khái niệm đã bị Đức Giêsu làm đảo lộn) có nghĩa là người đồng bào, người đồng đạo. Thực hành Lòng mến khách đối với người thân cận là một nghĩa vụ cơ bản bởi vì người ấy là thành viên của một dân tộc được xác định không chỉ do chủng tộc mà trên hết là do tôn giáo. Vì là dân được tuyển chọn của Thiên Chúa, Israel khám phá ra những nhu cầu và đòi hỏi của Lòng mến khách đối với những nhóm người nghèo khổ (ta chỉ cần nghĩ tới những cô nhi quả phụ).
2.2.3 Những động cơ của Lòng mến khách
Lòng mến khách trong bối cảnh Cựu Ước, cũng như trong mọi nền văn hóa cổ xưa, không được hiểu theo nghĩa thời nay là chỉ đón tiếp khách, và cho khách ăn ở. Nó còn mang một ý nghĩa triệt để hơn, đó là coi khách như người nhà, bảo vệ khách chống lại địch thù, đùm bọc che chở khách, kính trọng khách một cách sâu xa vì là một con người, và quan tâm đến khách bằng cách chăm lo cho các nhu cầu của khách.
Có nhiều lý do để có sự quan tâm sâu sát đối với khách như thế (ngoài những lý do chăm lo cho những phần tử của một dân tộc hay một quốc gia như đã nói trên kia). Trước hết, có một lý do văn hóa mà Israel chia sẻ với các nước lân bang. Đó là ý tưởng rằng một vị thần có thể ẩn mình dưới hình dáng bề ngoài của một người lạ tìm nơi trú chân. Trong tôn giáo độc thần, ý tưởng này được khai thác lại và các thần linh biến thành các thiên thần. Chúng ta thấy rõ điều này trong thư Do thái 13:2: "Anh em đừng quên tỏ Lòng mến khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết."
Một lý do thứ hai chuyên biệt hơn và liên quan rõ ràng tới lịch sử Israel. Abraham là "người Aram du mục", là tổ phụ của dân được chọn, đã sống cuộc đời một người khách lạ, và chính Israel cũng đã sống cuộc đời khách lạ trên đất Ai Cập. Vì thế Israel hiểu thấu thân phận và hoàn cảnh đau khổ của người khách lạ, và biết khách lạ cần được Lòng mến khách thế nào. Thực vậy, mỗi khi Israel bị cám dỗ khinh miệt khách lạ, lời cảnh cáo trong Kinh Thánh luôn luôn rất rõ ràng: "Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai Cập." (Lv 1:34; xem Ed 22: 20; 23:9)
Cuối cùng là động cơ tôn giáo (mà sau này được khai triển trong Tân Ước), đó là gương mẫu của chính Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa của Lòng mến khách, trước tiên và trên hết, Ngài tiếp đón khách lạ và mời vào nhà ngài (xem Đnl 10: 18) và muốn được chia sẽ những phẩm vật hiến thánh cho ngài (xem Đnl 26:12). Sự kiện Israel cũng được đòi hỏi phải cư xử như thế không là gì khác hơn việc thực hiện ý muốn của Thiên Chúa, là một trong những cách để tỏ ra trung thành với Luật pháp (xem Lv 16:29; 18:26; 19:10-33).
2.2.4 Những đoạn tham chiếu Kinh Thánh chính
Một trong những câu chuyện giàu ý nghĩa nhất chúng ta cần ghi nhớ là cuộc viếng thăm của ba thanh niên tại nhà ông Abraham ở rừng sồi Mamrê. Cần lưu ý rằng Abraham đã nhận ra vị khách của ông và gọi ngài là "Chúa tôi". Ngay cả