MÙA CHAY & LÒNG BÁC ÁI

MÙA CHAY & LÒNG BÁC ÁI

 

             Mùa Chay : mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái. Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Chúa Giêsu. Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội, mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù. Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng, nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn. Chúa Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng, mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ..

 

            Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa: " Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với" (Mt 25, 34-36). Hơn nữa, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40).



            Cuộc phán xét tình yêu, đưa chúng ta trở về với thực tại chân đặt trên đất, đầu ngẩng lên nghe Chúa Kitô phán xét. Vương triều của Chúa Kitô rất khác với chuyên quyền trần thế, bởi tình yêu là tiếng nói cuối cùng còn tồn tại.

 

            Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13, 13), và là Vua (Ga18, 37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong (máng cỏ!) và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.

 

            Khi phục vụ những người nghèo trong khu ổ chuột ở Ấn Độ, mẹ Têrêsa Calcutta trả lời các nhà phỏng vấn: “Tôi thấy Chúa qua những con người bé nhỏ này”. Vì thế, mẹ Têrêsa đã phục vụ họ một cách trân trọng, như một con người, mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Mẹ đã sống Lời Chúa một cách triệt để. Bởi vì Chúa Ki-tô hiện thân nơi người nghèo, như Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta. Việc bác ái mang chất Ki-tô này giúp ta làm việc lành mà không cầu danh lợi, không huênh hoang tự đắc, không tìm lời khen, không coi thường người nghèo nhưng luôn tôn trọng họ... Chất Ki-tô khiến chúng ta làm tất cả để tôn vinh danh Chúa, để tình người được lớn lên trong tình Chúa.

 

            Ta tự hỏi rằng Vua Tình Yêu phán xét thế nào ? Khi Chúa Giêsu giáng lâm, tất cả mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt để Người xét xử. Tiêu chuẩn là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chính người tuyên án: "Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta" (Mt 25, 40.45). Vì thế, cái gì sẽ xảy ra cho những kẻ không những không cho kẻ đói ăn, mà còn cướp lương thực khỏi họ; không những không tiếp rước khách lạ, mà còn là nguyên nhân làm cho người khác trở nên khách lạ.

 

            Chúa Giêsu Kitô thay mặt Thiên Chúa. Những người bên phải là những người phục vụ Đức vua bằng chính hành vi đầy bác ái của họ đối với những người nghèo khổ : cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, tiếp rước khách lạ, mặc áo cho kẻ trần truồng, thăm viếng và an ủi kẻ đau yếu, tù đầy… Họ làm những công việc ấy với tất cả tấm lòng mà không biết là mình đang làm cho Đức Vua. Họ vâng theo huấn lệnh yêu mến tha nhân mà chẳng hề tính toán đến công sức, thù lao hoặc giá trị hành vi họ làm. Qua cuộc phán xét này, Đức Vua đã mạc khải cho họ thấy tầm mức chiều sâu của sự liên đới giữa Thiên Chúa và những người khốn cùng. Đức Vua kết luận trong một công thức cô đọng ngắn gọn “ Điều gì các ngươi làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta”.   

 

            “Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (c. 40). Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài. Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài. Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu. Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tị nạn, nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

             Khi ta ra trước mặt Chúa, Chúa phán xét đến lòng thương xót đối với người nghèo. Chúng ta có giúp đỡ khi họ cần đến chúng ta chăng? Dụ ngôn người Samaritanô là một cách phán xét. Chúa sẽ phán xét thái độ biết tha thứ hay không: Kinh Lạy Cha và dụ ngôn hai người mắc nợ.Chúa sẽ phán xét về thái độ đối với Ngài như thái độ đơn sơ của trẻ nhỏ, về lòng thống hối, nhất là về đức tin. Thánh Gioan và thánh Phaolô nhấn mạnh ngày phán xét là lúc quyết định tin hay không tin và là lúc Chúa phán xét chúng ta về thái độ đối với Lời Chúa.

 

            Mỗi người sẽ được xét xử theo việc làm nghĩa là phải trả lẽ về những ơn mình đã nhận lãnh, chúng ta đã nhận mười nén bạc của Thiên Chúa ban như thế nào; Nén bạc đây hiểu là tất cả được gì? chúng ta là người và được làm con Chúa... Chúng ta sẽ được xét xử từ sự sinh thành cho đến của ăn, khả năng, thời gian, sức khỏe, tiền bạc... những biến cố, niềm vui nỗi buồn ở đời.

 

            Thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy một tiêu chuẩn phán xét về việc làm. Vì chưng chúng ta sẽ phải xuất đầu lộ diện trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh lấy thành quả đời mình trong thân xác xứng với các việc làm, việc lành hoặc dữ. Biết luật chưa đủ mà phải giữ luật, đức tin không việc làm là đức tin chết. Đức tin phải minh chứng bằng việc làm: “Ai gieo thứ gì thì gặt thứ ấy” (Gl 16, 6).

 

            Hôm nay đây chúng ta biết rõ Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta. Chúng ta biết được những tiêu chuẩn nào Ngài sẽ phán xét, chúng ta đã chuẩn bị gì cho giây phút chúng ta ra hầu tòa Chúa chưa? Hãy nhớ rằng giây phút Chúa gọi ra khỏi đời này chúng ta sẽ không còn thay đổi gì được nữa, chúng ta không còn giây phút nào tự bào chữa đâu. Hãy luôn ở trong tư thế sẵn sàng.

 

            Và rồi trong thực tế cuộc sống, đã bao lần chúng ta làm ngơ trước nhu cầu của anh chị em? Họ đang đói khát cơm bánh hàng ngày? Họ đang thiếu vắng sự đồng cảm của ta? Họ đang trống vắng trong đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng? Họ thèm khát và mong đợi một Đấng có thể làm khoả lấp niềm hi vọng của họ? Còn chúng ta, những người Kitô hữu, những người có thể đem Chúa đến cho họ, chúng ta đã làm gì? Biết bao lần chúng ta bỏ qua, thiếu quan tâm, ơ hờ, thậm chí chúng ta đã ngăn cản Chúa đến với họ qua những hành vi lời nói phản chứng của chúng ta.

SUY NIỆM: Tiền của

Tiền của đã làm cho chàng thanh niên phải bỏ cuộc, không còn đủ sức đi theo Chúa. Chàng đành phải sống một nếp sống bình thường. Bởi sức ràng buộc của nó, tiền của là một trở ngại lớn để vào Nước Trời. Vì thế Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải từ bỏ. Sự từ bỏ này mang nhiều hình thức và mức độ khác nhau tuỳ hoàn cảnh mỗi người. Nhưng trong mọi trường hợp, điều không thể thiếu vắng đó là lòng siêu thoát. Vậy thì chúng ta phải sống tinh thần siêu thoát ấy như thế nào?

Trong một thế giới mà sức mạnh của đồng tiền được khẳng định và sự thịnh vượng vật chất đang nổi lên hàng đầu. Đất nước nào cũng mơ ước sẽ trở thành những con rồng kinh tế. Liệu chúng ta có phải quay lưng lại với sự giàu sang để ca tụng tinh thần nghèo khó hay không? Thực ra chẳng có ai chống lại sự thịnh vượng giàu có và cũng chẳng có ai tìm kiếm sự nghèo khổ. Kitô giáo lại càng không làm như vậy. Chính Thiên Chúa đã truyền cho con người phải tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài, nghĩa là phải làm chủ và khai thác tối đa tài nguyên của thế giới này để nâng cao mức sống. Kitô giáo không phải là kẻ thù của sự phát triển và là đồng minh với sự nghèo đói. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiền của cũng phục vụ con người.

Trước hết là phương thức kiếm tiền. Người ta đã kiếm tiền bằng những phương thức bất công, chèn ép bóc lột kẻ khác. Tiếp đến là cách thức tiêu tiền. Thừa tiền dư của, thường dẫn tới một lối sống hưởng thụ, phi đạo đức, sa đoạ. Vì chạy theo lợi nhuận và tiền của người ta đã giết chết lương tâm, bán rẻ nhân phẩm, bằng những hành động lường gạt, giả dối. Tiền của nhiều khi còn là nguyên nhân gây nên tàn ác, bất công, bạo lực, đàn áp và chiến tranh. Đam mê và lòng tham vốn tiềm ẩn nơi con người, dễ bị tiền của thổi bùng lên. Chính vì những cạm bẫy khéo nguỵ trang đó mà Chúa Giêsu đã phải cảnh cáo: Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa. Cho nên vấn đề được đặt ra cho người Kitô hữu không phải là chính tiền của mà là cách thức tìm kiếm và sử dụng cũng như thái độ đối với tiền của.
Tinh thần nghèo khó luôn được Tin Mừng đề cao và sự từ bỏ được coi là thái độ không thể thiếu vắng của người môn đệ Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rõ ràng tinh thần nghèo khó khác với tình trạng nghèo khó. Nghèo khó chẳng những là điều không dám mơ ước mà còn phải tìm cách chống lại, bởi vì sự nghèo khó sinh ra không biết bao nhiêu hậu quả tai hại, tệ đoan, bất ổn, tội ác, con người thiếu điều kiện điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá của mình, như tục ngữ cũng đã nói: Bần cùng sinh đạo tặc. Trong khi đó, thực hiện tinh thần nghèo khó của Tin Mừng thì khác. Người nghèo khó trong tinh thần luôn giữ lòng siêu thoát, kể cả khi tiền của dư dật, không lấy của cải làm chủ đích đời mình nhưng sử dụng của cải đúng mức, theo nhu cầu chính đáng của mình và trong tinh thần liên đới, chia sẻ với anh em. Tột đỉnh của tinh thần nghèo khó là sự từ bỏ.

Từ bỏ là mức độ siêu thoát cao nhất, là thái độ chọn lựa Thiên Chúa và Nước Trời làm ưu tiên hàng đầu. Đó là một thái độ tích cực chứ không phải là tiêu cực. Nó không bao hàm sự khinh chê những giá trị vật chất và nhân bản, nhưng biểu thị nỗ lực tìm kiếm những giá trị tâm linh thiết yếu mà nếu thiếu thì ngay cả những giá trị vật chất và nhân bản ấy sẽ bị sụp đổ, bởi vì: Người ta không sống chỉ bằng cơm bánh.

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm. Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ. Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi. Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen.

Tình Liên Đới

Ngày nay, nhân loại đang phải đối mặt với rất nhiều loại khủng hoảng và thuộc mọi lĩnh vực khác nhau. Tình trạng khủng hoảng có thể tạo ra các nguy cơ nhưng đồng thời cũng kiến tạo những cơ hội để con người có thể xích lại gần nhau, cùng nhau chung tay đắp xây tình người – tình liên đới. Tình liên đới không chỉ nối kết con người với nhau, mà còn là mối tương quan hài hòa giữa mỗi chúng ta với Thiên Chúa và vạn vật. Thánh GH Gioan Phaolô II nhận định: “Tình liên đới phải góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa trên bình diện cá nhân lẫn bình diện xã hội, quốc gia và quốc tế” (Sollicitudo Rei Socialis, số 40, năm 1987).

Theo Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, sự liên đới là một nguyên tắc cốt lõi: “Liên đới nhấn mạnh đặc biệt đến bản tính xã hội nội tại của con người, sự bình đẳng của mọi người về phẩm giá và các quyền và con đường chung của các cá nhân và các dân tộc hướng đến một sự hợp nhất ngày gắn bó hơn... Việc gia tăng tương thuộc giữa các cá nhân và các dân tộc cần phải được kèm theo những nỗ lực mãnh liệt không kém trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu quả nguy hiểm của việc đưa bất công lên tầm mức toàn cầu. Việc tăng tốc tình trạng tương thuộc giữa các cá nhân và các dân tộc cần phải được đi kèm với những nỗ lực mãnh liệt không kém trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu quả nguy hiểm của việc đem bất công lên phạm vi toàn cầu” (Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 192, năm 2005).

Sự liên đới (solidarité, solidarity) là gì? Sự liên đới được xây dựng trên căn bản triết lý về quan niệm của con người như một hữu thể xã hội, một thành phần của nhân loại, và đặc biệt là một nhân vị. Vận mệnh của mỗi người được nối kết và gắn chặt với vận mệnh của những người khác. Vì vậy, mối tương quan và sự liên đới là chiều kích sâu thẳm của những con người chung sống với nhau trong xã hội.

Cuộc sống có nhiều thứ liên đới với nhau: thực phẩm, kiến thức, dụng cụ, tình cảm,… Rất nhiều và rất nhiều lĩnh vực. Nhưng có hai lĩnh vực nổi bật là Sự Nghèo Khó và Tội Lỗi.

LIÊN ĐỚI VỀ SỰ NGHÈO KHÓ

Tình liên đới muốn đề cập ở đây bao hàm ý tưởng hiệp nhất, chia sẻ cảnh ngộ, cảm thương những phận đời hẩm hiu, đồng thời tự cảm thấy có một thứ trách nhiệm nào đó trước những nỗi bất hạnh của đồng loại. Vì vậy, cố gắng tiếp tay giải quyết vấn đề bằng công tác xã hội, tương thân tương ái hoặc đấu tranh, nhằm thực hiện công bằng xã hội và cải tổ cơ cấu bất công.

Đối với Giáo huấn Xã hội Công giáo, nguyên tắc liên đới cùng với nguyên tắc công ích ưu tiên chọn lựa người nghèo để định hướng mối tương quan giữa người với người, giữa các xã hội với nhau.

Theo nguyên tắc nhập thể của Đức Kitô, Công đồng Vatican II long trọng cam kết mối liên đới của Giáo hội với con người và thế giới hôm nay: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và âu lo của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo và của những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, buồn khổ và âu lo của các môn đệ Đức Kitô. Không có gì đích thực nhân loại mà lại không có âm vang nơi cõi lòng người môn đệ Đức Kitô” (Vatican II, Gaudium et Spes, số 1).

Người nghèo bị xã hội coi là kẻ hèn hạ nên coi thường hoặc khinh miệt. Tuy nhiên, người nghèo là những người quan trọng đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã căn dặn: “Khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14:13). Có lẽ chúng ta nghĩ là Ngài “nói đùa”. Không hề! Ngài nói thật, nói rõ, nói theo nghĩa đen luôn chứ chẳng bóng gió gì đâu.

Điều này đã được Mẹ Thánh Teresa Calcutta (1910-1997) học và hành đúng với lời khuyên của Chúa Giêsu: phục vụ những người nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Bí quyết sống vì người nghèo của Mẹ Teresa thế này: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể”.

Người nghèo xuất hiện nhãn tiền ở bất cứ xã hội nào, đất nước nào, mọi nơi và mọi lúc. Đúng như Chúa Giêsu đã nói trước: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Chúng ta có sự liên đới với nghèo, họ nghèo vì chúng ta không nâng đỡ họ. Khi cần kíp thì chúng ta có thể cho họ con cá, nhưng chúng ta cần giúp họ cái cần câu, quan trọng hơn nữa là chúng ta phải giúp họ có thái độ sống tích cực. Dù là người đời, nhưng tiền nhân Việt Nam cũng đã nhận định chính xác, rạch ròi, và nhân bản, qua câu ca dao tục ngữ này:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

Nói về sự khó nghèo, chúng ta không thể không đề cập Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963). Khi ngày nhận chức thượng phụ Venezia năm 1953, ngài chia sẻ: “Đời Giám mục mà cứ phải ngồi bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình (72 tuổi). Từ nay tôi nghèo hơn trước, một vị hồng y nghèo lo giúp người nghèo...

Tôi thấy mình như một bà mẹ nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo. Tôi xuất thân từ giới bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi tớ của Chúa”.

Không chỉ vậy, ngài còn rộng mở cả tấm lòng. Điều này được chứng minh rõ ràng qua lời căn dặn này: “Bất luận tôi đi đâu, nếu ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, họ sẽ thấy cửa sổ tôi luôn có ngọn đèn sáng. Xin đừng ngại, hãy cứ gõ cửa. Tôi sẽ không hỏi anh em là Công Giáo hay không, nhưng chỉ xin người anh em cứ vào, sẽ có đôi tay thân ái đón tiếp và tấm lòng bạn hữu nồng hậu chào mời”.

Khi tuổi già, sức yếu, ngài viết chúc thư với lời lẽ đơn sơ và chân thành: “Sinh trưởng trong sự nghèo nàn, ở một gia đình giản dị nhưng được trọng kính, tôi rất sung sướng được chết trong sự nghèo nàn, vì theo sự đòi hỏi và các trường hợp sinh sống của cuộc đời giản dị và hèn mọn của tôi, tôi đã phân phát cho người nghèo và Giáo Hội đã nuôi dưỡng tôi, những gì ít ỏi của tôi đã có, trong những năm làm linh mục và giám mục”. Cuối cùng, “cụ già nhân từ” Gioan XXIII nghiêm túc xác định: “Sinh nghèo, do cha mẹ nghèo nhưng khả kính, tôi đặc biệt sung sướng được chết nghèo”.

Với xã hội nhân loại, người nghèo thuộc hạ lưu, thậm chí còn bị coi không bằng thú cưng của họ. Nhưng với không thể, người nghèo là vĩ nhân, họ thực sự can đảm. Thánh Giacôbê căn dặn chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (x. Gc 2:1-9). Thánh Giacôbê xác quyết: “Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm” (Gc 2:10).

LIÊN ĐỚI VỀ TỘI LỖI

Liên đới với cái xấu được gọi là liên lụy. Vì thế, chúng ta gọi là “liên lụy tội lỗi”.

Liên lụy tội lỗi có liên quan “cấu trúc tội”. “Cấu trúc tội” là điều mà những người sống phóng khoáng dùng để che giấu thực tế trách nhiệm cá nhân đối với tội lỗi đã phạm. Tất cả các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân.

Tuy nhiên, tội lỗi ảnh hưởng nhiều hơn tội nhân. Nó ảnh hưởng mọi người. Khi một chi thể trong Nhiệm thể Chúa Kitô phạm tội, tất cả chúng ta đều chịu đau khổ. Một số người ảnh hưởng trực tiếp, nhưng tất cả chúng ta đều yếu đuối. Do đó, khi chúng ta muốn hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta cũng phải giải hòa với cả Giáo hội, không chỉ với người này hay người nọ mà có thể chúng ta đã làm tổn thương. Vì thế có “chiều kích xã hội” đối với tội lỗi.

Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp.

Chúng ta liên lụy hoặc liên can tội lỗi của người khác bằng cách nào? Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng nhiều cách. LM John Zuhlsdorf cho biết thế này:

TƯ VẤN: Nếu bạn tư vấn hoặc xúi người khác làm điều tội lỗi, và họ làm, bạn đã phạm tội bằng cách can dự vào tội lỗi của người đó.

MỆNH LỆNH: Nếu bạn có quyền trên người khác, và bạn ép buộc người khác phạm tội, trong khi người đó có thể giảm tội, còn bạn thì không.

ƯNG THUẬN: Nếu người ta yêu cầu bạn mà bạn nghĩ tội lỗi là điều tốt có thể làm, bạn có thể chủ động với tình huống đó, và nếu bạn cho phép hoặc ưng thuận thì bạn đã phạm tội.

KHIÊU KHÍCH: Bạn khiêu khích hoặc thách thức người khác làm điều xấu mà họ không muốn.

NỊNH BỢ: Khá rõ ràng. Đây là cách khác để phạm tội.

CHE GIẤU: Một người phạm tội và rồi bạn giúp người đó che giấu chứng cớ hoặc động thái.

ĐỒNG LÕA: Một người khác là người chính có liên can, nhưng bạn có mặt ở đó hỗ trợ hành vi tội lỗi. Chẳng hạn, một người giúp bác sĩ phá thai, một chính khách giúp nhà cầm quyền hoặc nói về việc nhận thức đối với “hôn nhân” trái tự nhiên bằng cách ủng hộ. 

IM LẶNG: Có một câu nói rất thường gặp: “Im lặng là đồng ý”. Nếu một người có quyền thế hoặc có quyền về luân lý có nhiệm vụ ngăn chặn tội lỗi, nhưng lại im lặng và bàng quan, điều đó có thể cấu thành việc can dự vào tội lỗi. Điều này quỷ quyệt mới nghĩ ra được, nhưng đó không chỉ là sự im lặng quở trách. Có thể là can dự làm giảm nhẹ tình huống, chẳng hạn như sự xâm chiếm Vatican, bắt Giáo hoàng và tiêu diệt Giáo hội ở nhiều nơi. Trong khi đó, ai đó có thể im lặng làm ngơ. Tuy nhiên, ai đó không làm được gì. Một điểm khác có thể được cân nhắc: Luật về việc sửa lỗi anh em. Điều này không thể là vị trí của bạn để sửa lỗi người khác, tùy trường hợp.

BIỆN HỘ: Khá rõ ràng. Đó là bạn biện hộ để ủng hộ tội lỗi. Nhưng điều này không giống như luật sư biện hộ trước tòa cho người phạm tội.

 Thiết tưởng mỗi chúng ta cần thường xuyên xem lại các điểm trên đây để có những lúc chúng ta thực sự chân thành kiểm tra lương tâm của mình. Tất cả chúng ta đều vướng vào những tình huống khó khăn hoặc mơ hồ về luân lý, thế nên chúng ta cứ bị giằng co khi phải chọn lựa giữa điều tốt hay xấu, giữa điều xấu nhiều hoặc xấu ít.

 Cuối cùng, chúng ta phải theo dõi chính mình, vì không ai biết rõ mình hơn chính mình, đồng thời cần tương tác với người khác để khả dĩ cẩn trọng hai điều này:

a) Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.

b) Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.

 III. LIÊN ĐỚI VỀ CẦU NGUYỆN

 Giáo Hội Công Giáo hiệp nhất mang tính liên đới giữa ba “giai cấp” các thánh: Giáo Hội Vinh Hiển (các thánh trên Thiên Đàng), Giáo Hội Đau Khổ (các thánh nơi Luyện Hình, chắc chắn sẽ được làm công dân của Nước Trời), và Giáo Hội Chiến Đấu (các thánh nơi Trần Gian, hy vọng sẽ được làm công dân Nước Trời sau cuộc lữ hành khổ ải trần gian này).

 Đừng ngạc nhiên về cách nói “các thánh nơi trần gian”. Tại sao chúng ta cũng là các thánh? Hãy nghe Thiên Chúa truyền lệnh: “Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11:44; Lv 19:2; Lv 20:7). Chính Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

 Sự liên đới giữa ba Giáo Hội rất cần thiết và quan trọng, kỳ diệu là hiệu quả: Giáo Hội Vinh Hiển có thể nguyện giúp cầu thay cho chúng ta, Giáo Hội Chiến Đấu có thể nguyện giúp cầu thay cho Giáo Hội Đau Khổ. Giáo Hội Đau Khổ không thể làm gì cho họ nhưng lại có thể nâng đỡ Giáo Hội Chiến Đấu. Tình liên đới hiệu quả giữa ba Giáo Hội chứng tỏ rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa bao la vô hạn, cho chúng ta nhiều cơ hội để trở nên công dân của Nước Trời.

 Thánh Phó Tế Ephraem (306-373), người Syria, là Tiến Sĩ Giáo Hội, là nhà soạn thánh ca và thần học gia, ngài cho chúng ta biết chuỗi liên đới trong cuộc lữ hành trần gian: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện: Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, lời cầu nguyện ngăn chặn sự tức giận, lời cầu nguyện ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ, lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng”. Lời cầu nguyện thật là kỳ diệu biết bao!

 Vâng, cầu nguyện là điều quan trọng, vì thế mà cần phải cầu nguyện liên lỉ, mọi nơi và mọi lúc. Bác học André-Marie Ampère (1775-1836) chia sẻ kinh nghiệm: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”. Còn Mẹ Thánh Terese Avila (1515-1582, người Tây Ban Nha), Tiến Sĩ Giáo Hội, nói: “Thiên Chúa yêu thích những linh hồn khẳng khái nhưng có ước vọng vĩ đại”.

 Chúng ta có thể hình dung Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng Tam Vị Nhất Thể, như một tam giác đều, trong đó các Cạnh-Liên-Đới nối kết nhau tạo nên các Góc-Yêu-Thương, các cạnh và các góc không thể tách rời nhau. Tình liên đới tâm linh mầu nhiệm quá!

Hành Động Của Lòng Thương Xót: SỐNG LIÊN ĐỚI

Hành Động Của Lòng Thương Xót: SỐNG LIÊN ĐỚI 

Chúng ta đang sống trong một xã hội bị ảnh hưởng bởi những hệ tư tưởng mới: đề cao chủ nghĩa cá nhân, mọi người sống quy ngã và định giá trị con người dựa trên những giá trị vật chất. Chính sự ảnh hưởng này làm suy yếu mối dây liên hệ xã hội, không ai còn muốn quan tâm đến ai, tình liên đới giữa người với người trở nên lỏng lẻo, thậm chí bị cắt đứt.

 

Từ những lý do trên, hơn bao giờ hết, là những Kitô hữu, chính lúc này đây, chúng ta cần phải làm điều gì đó để nối lại và thắt chặt mối dây liên đới giữa con người với nhau. Sống liên đới với người khác, cách riêng với những người nghèo và những người đau khổ, là ta đang thể hiện lòng thương xót của ta với họ.

 

Để có thể sống tình liên đới với người khác, trước hết chúng ta phải ý thức rằng, tất cả chúng ta, không phân biệt màu da, chủng tộc, quốc gia, tôn giáo, địa vị xã hội, giầu nghèo, đều là anh chị em với nhau trong đại gia đình nhân loại này. Ý thức như vậy để ta đi ra khỏi cái tôi ích kỷ, sống vị tha, và tạo nên mối tương quan bình đẳng với mọi người. Tất cả mọi người có quyền và bổn phận liên đới với nhau để làm cho thế giới này trở nên tốt hơn, cùng với sự tôn trọng nhân phẩm của nhau. Liên đới là gì?

 

Là con người, chúng ta là những hữu thể mang tính xã hội. Không cần biết có niềm tin vào Thiên Chúa hoặc sống niềm tin hay không, tất cả mọi người luôn cảm thấy rằng có một mối dây liên kết sâu thẳm giữa mình với những người khác - một mối dây liên hệ vượt lên trên cả mối liên hệ gia đình, chủng tộc, nên chúng ta luôn thấy mình phải có trách nhiệm với tất cả mọi người. Tên của mối dây liên hệ này là Liên Đới.

Liên đới không phải là một cảm giác về lòng trắc ẩn mơ hồ. Đó là một xác quyết chắc chắn và kiên trì dấn thân cho lợi ích chung, nghĩa là dấn thân cho lợi ích của mọi người và mỗi cá nhân, bởi vì tất cả mọi người đều có trách nhiệm đối với nhau.

 

Liên đới là mối dây phổ quát liên kết tất cả mọi người với nhau. Tuy nhiên, đó không chỉ là sự liên kết những người đang sống trong thế giới này, mà nó còn là sự liên kết với tất cả những con người trong quá khứ và cả thế hệ tương lai. Sự liên đới với những con người trong quá khứ, theo như đức tin Công Giáo, đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Chính vì thế mà Mẹ Giáo Hội luôn nhắc nhớ chúng ta cầu nguyện với các thánh để các ngài chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta; đồng thời chúng ta cũng có bổn phận cầu nguyện cho các linh hồn đang còn phải thanh luyện trong luyện ngục.

 

Còn với thế hệ tương lai, sự liên đới là rõ ràng. Ví dụ, ta vẫn thường nghe nói: "Cha mẹ sống để đức cho con"; hay "đời cha ăn mặn, đời con khát nước"; hoặc "nhìn quả thì biết cây". Nếu ta sống tốt cuộc đời này, chắc chắn ta sẽ để lại những ảnh hưởng tốt cho những thế hệ tương lai; bằng không, thế hệ tương lai sẽ phải gánh chịu những hậu quả xấu do những việc xấu chúng ta gây ra. Những việc làm gây ra sự tàn phá thiên nhiên, những lối sống vô độ làm suy đồi đạo đức của chúng ta hôm nay, chắc chắn sẽ để lại cho thế hệ tương lai những hậu quả xấu khó lường được.

 

Ngoài ra, là những người sống niềm tin vào Thiên Chúa, mối dây liên đới còn liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Trọng tâm của tình liên đới là cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa thực sự hiện diện trong tình liên đới với con người, và tất cả chúng ta sống trong tình liên đới với Ngài. Thực tại mang tính lịch sử về cuộc đời của Chúa Giêsu - Thiên Chúa làm người, nâng tình liên đới vượt lên trên tình liên đới giữa con người với nhau. Chúng ta biết rằng, tất cả chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên việc yêu thương anh em đồng loại cũng trở thành một hành động của sự liên đới hướng về sự liên đới với Thiên Chúa. Vậy, mỗi một hành động của sự liên đới, được hiểu trong ý nghĩa này, đều là một hành động của sự hiệp thông với chính Thiên Chúa.

 

Trong sự liên đới với Thiên Chúa, chúng ta cần gắn kết với Ngài trong cầu nguyện để được Ngài yêu thương và hướng dẫn, hầu phải sống thế nào cho xứng đáng với ơn gọi làm người và là con Chúa. Trong tương quan với tha nhân, chúng ta cũng cần phải liên đới với nhau trong lời cầu nguyện. Đây là mức độ căn bản nhất của việc sống liên đới. Quả vậy, trước những đau khổ của anh chị em, khi chưa có thể làm được gì cụ thể để chia sẻ với họ, thì việc đầu tiên ta có thể làm là cầu nguyện cho họ. Kế đến, ở mức độ cao hơn, ta có thể có những lời động viên, khích lệ và lắng nghe. Sau cùng, ta cần phải có hành động cụ thể để chia sẻ với họ. Hành động cụ thể này là rất quan trọng.

 

Cụ thể, với những người đang gặp khó khăn về vật chất, ta hãy chia sẻ với họ những gì họ cần; với những người gặp đau khổ đang cần sự an ủi, ta hãy cho họ lời an ủi; còn đối với thế hệ tương lai, ta cần phải sống tốt, làm những việc tốt hầu để lại cho chúng những ảnh hưởng tốt, để rồi chúng cũng sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp. Sống liên đới là phải có những hành động rất cụ thể để chia sẻ với nhau.

 

Tóm lại, là người và là người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta cần phải sống liên đới trong tương quan với nhau và với Thiên Chúa. Ta phải sống liên đới với Thiên Chúa vì Ngài đã dựng nên ta giống hình ảnh Ngài, và Ngài là Cha của chúng ta; ta phải sống liên đới với mọi người trong gia đình nhân loại này, vì theo thánh Phaolô, "chúng ta là phần thân thể của nhau" (Ep 4, 25). Hãy sống liên đới với Thiên Chúa để được đón nhận lòng thương xót của Ngài! Hãy sống liên đới với anh chị em đồng loại bằng những hành động cụ thể, hầu chia sẻ với họ lòng thương xót đã được đón nhận từ Thiên Chúa!

Hương Quê