Từ Tấm Gương Người Xưa, Nghĩ Về Y Đức Thời Nay

Từ Tấm Gương Người Xưa, Nghĩ Về Y Đức Thời Nay

Trong lịch sử y học nước nhà, tên tuổi của Lê Hữu Trác được nhắc đến như một bậc đại danh y tài năng xuất chúng, hết lòng thương yêu người bệnh. Ông xứng đáng là một tấm gương, một nhân cách cao thượng, một nhà tư tưởng, nhà thơ nhà văn nổi tiếng của dân tộc thế kỷ XVIII.

Biểu tượng của y đức

Di sản mà ông để lại cho hậu thế thật đồ sộ và quí giá, không chỉ là bộ sách “Hải thượng y tông tâm lĩnh” – cuốn sách gối đầu giường của bao thế hệ thầy thuốc mà còn là những lời giáo huấn và tấm gương ngời sáng về đạo đức của người thầy thuốc.

Đại danh y Lê Hữu Trác có tên khác là Lê Hữu Huân, sau lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông sinh ngày 17/11 năm Canh Ngọ (27/12/1720). Quê nội của ông là làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Quê mẹ ông ở xã Sơn Quang, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông chủ yếu sống và hoạt động y học tại quê mẹ.

Toàn bộ con người Lê Hữu Trác toát lên một nhân cách người Thầy thuốc vĩ đại. Nhân cách ấy thể hiện ở động lực, khát vọng mạnh mẽ là không ngừng học hỏi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm để giúp đời, giúp người. Mọi suy nghĩ, hành động của Lê Hữu Trác được soi rọi bằng ánh sáng của tình cảm yêu thương con người. Tình yêu thương ấy lớn đến mức quên mình, sẵn sàng xả thân cứu người như một bậc thánh nhân.

Chuyện kể rằng Lê Hữu Trác chữa cho một cậu bé con nhà thuyền chài nghèo bị mắc bệnh đậu mùa rất nặng, người bốc lên mùi xú uế, mỗi khi khám bệnh phải bỏ quần áo trên bờ, nhét bông vào hai lỗ mũi cho giảm bớt mùi khó chịu. Thế mà ông vẫn đi lại thăm khám, bốc thuốc chữa bệnh ròng rã hàng tháng trời. Đến khi cậu bé khỏi bệnh, không những ông không nhận một đồng thù lao nào mà còn cho gia đình cậu bé gạo, củi, dầu, đèn…

Có lần một nhà quyền quí mời ông chữa bệnh, thấy ông đến muộn mới hỏi thì được biết trên đường đi, ông ghé vào chữa bệnh cho một người nghèo. Bị trách, ông đáp vì bệnh của người quyền quí là bệnh nhẹ, có thể chữa sau, còn người nghèo kia mắc bệnh nặng nên không thể trì hoãn.

Năm 1782, được chúa Trịnh Sâm mời ra để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán, trước cảnh phủ chúa xa hoa lộng lẫy, ông không hề mảy may động tâm mà chỉ mong sao sớm được trở về quê mẹ để sống cuộc sống tự do thanh thản. Lãn Ông tâm sự:

Thiện tâm cốt ở cứu người

Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu

Biết vui nghèo cũng hơn giàu

Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn…”

Trong bộ sách đồ sộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, Lê Hữu Trác dành hẳn một chương (phần “Y huấn cách ngôn”) để nói về đạo đức của người thầy thuốc. Bậc đại danh y đã vạch trần, cảnh báo, phê phán một cách nghiêm khắc những biểu hiện thiếu y đức của thầy thuốc. Phải chăng ở thời ông, y đức cũng có những biểu hiện suy đồi? Ông đã nêu ra 8 tội người thầy thuốc cần tránh.

Trăn trở về y đức thời nay

Những lời di huấn của bậc đại danh y đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự, nhiều thầy thuốc đã học tập và làm theo những lời di huấn quý báu đó, nhưng cũng còn không ít thầy thuốc chưa thông cảm với nỗi đau của người bệnh, chưa coi “trị bệnh cứu người” là mục tiêu theo đuổi trong suốt cuộc đời người thầy thuốc.

Tình trạng bác sỹ, nhân viên y tế nhận “phong bì” của bệnh nhân, từ đó đã nảy sinh sự đối xử thiếu công tâm của người thầy thuốc. Công luận đã lên tiếng về tình trạng này, nhưng hiện tượng suy thóai đạo đức đó chưa được đẩy lùi triệt để trong ngành y.

Một số ý kiến cho rằng nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ việc lương bác sỹ thấp, không đủ sống, viện phí thấp… nên buộc phải nhận tiền từ bệnh nhân, dù không muốn. Một cán bộ của ngành y tế cho rằng vì cơ chế “hai giá”, chênh lệch lớn giữa chi phí khám bệnh nhà nước và tư nhân nên người dân sẵn sàng lót tay thêm một ít để được phục vụ trước.

Thậm chí có người còn cho rằng bệnh nhân và người nhà đã tự đưa phong bì “làm hư bác sỹ”, vì bác sỹ có đòi hỏi đâu, không đưa thì thôi. Thực ra đó chỉ là những cách nói nguỵ biện.

Lý do quan trọng nhất là sự suy thoái về y đức, nằm trong sự suy thoái của đạo đức xã hội nói chung. Cho dù lương bác sỹ còn thấp, nhưng không thể chấp nhận việc bác sỹ nhận tiền riêng của bệnh nhân, để từ đó có sự phân biệt đối xử, nhất là đối với bệnh nhân nghèo; điều đó hòan tòan trái với lương tâm và y đức người thầy thuốc.

Một số bác sỹ, nhân viên y tế có thái độ đối xử thiếu lịch sự, thậm chí quát mắng bệnh nhân, kể cả đối với người già, nhưng khi bị phê phán thì cho rằng do “áp lực công việc”.

Hiện nay, nhiều học sinh giỏi đăng kí thi vào các trường đại học, học viện y khoa. Điểm chuẩn của một số trường Y ở mức cao kỉ lục. Đó là tín hiệu đáng mừng. Nhưng không biết những học sinh thi vào nghề y đó có bao nhiêu em vì lý tưởng chữa bệnh cứu người cao đẹp, bao nhiêu em chọn nghề này vì mong muốn có thu nhập cao? Nếu không có động cơ đúng đắn ngay từ khi chọn thi vào ngành y, thì điều đó tất yếu dẫn đến sự suy thóai về y đức khi hành nghề.

Chúng tôi không dám phủ nhận sạch trơn những đóng góp to lớn của ngành y nói chung và các thầy thuốc nói riêng. Xã hội ta ngày nay vẫn còn những tấm gương thầy thuốc giữ trọn y đức và rất đáng biểu dương, khen thưởng để nêu gương sáng cho các đồng nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng vào sự thật để thấy được tình trạng suy thoái y đức hiện nay đã đến mức đáng quan ngại và cần được khắc phục kịp thời bằng những biện pháp đồng bộ và thiết thực.

Hiện nay các bệnh viện đều treo khẩu hiệu “Thầy thuốc như mẹ hiền” cùng “12 điều y đức” của Bộ Y tế. Ảnh và tượng đài Lê Hữu Trác cũng được treo, dựng ở nhiều nơi. Nhưng y đức xem ra vẫn chưa thực sự được thấm nhuần, mà nạn nhân không ai khác là những người nghèo không may mắc bệnh. Nhân ngày 27-2, nhắc lại tấm gương y đức của bậc đại danh y, hi vọng y đức nước nhà sẽ được vun đắp tốt đẹp hơn.

Trần Quang Đại

Dân Trí

Nguồn: https://banmaihong.wordpress.com

Nghĩ suy đôi điều về y đức

Ngày 11/5, tại lễ ra mắt bộ môn Y đức và Y Xã hội học của Trường Đại học Y HN, một kết quả nghiên cứu về thực trạng nhận thức và thực hành y đức thuộc tuyến huyện, tỉnh và TƯ từ năm 2006 - 2009 làm nhiều người phải suy nghĩ về y đức thời nay!

Kết quả điều tra cho thấy: 5,7% bác sĩ có biểu hiện thường xuyên vi phạm y đức. Điều đáng lưu ý là càng lên tuyến cao hơn thì y đức càng giảm sút. Cụ thể, tỷ lệ vi phạm y đức ở tuyến huyện là 3%, tuyến tỉnh là 6,7% và ở tuyến trung ương là 7,0%.

Trong xã hội ngày nay, người làm việc ở bất cứ ngành nghề nào cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Trong nghề y, công việc chữa bệnh cứu người càng đòi hỏi phẩm chất đạo đức nghề nghiệp phải được coi trọng. Phẩm chất đạo đức của người hành nghề y thể hiện rõ ở thái độ phục vụ, chăm sóc sức khỏe người bệnh.

Đáng buồn là hiện nay, bên cạnh số đông người hành nghề y tận tâm với nghề, luôn nỗ lực thực hiện đầy đủ y đức của người thầy thuốc, vẫn còn đó những “con sâu làm rầu nồi canh”. Có thể kể ra đây những biểu hiện vi phạm y đức của một số thầy thuốc hiện nay: thờ ơ, lạnh nhạt, thiếu nhiệt tình với bệnh nhân khi chưa nhận được phong bì, “bắt tay” với các hiệu thuốc kê đơn thuốc với giá cao để trục lợi… Tình trạng thầy thuốc vi phạm y đức mà nhức nhối nhất là tệ nạn phong bì trong các bệnh viện khiến cho dư luận hết sức bức xúc.

Đáng lưu tâm là trong khi nhà nước đang có nhiều cố gắng trong việc tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân thì nạn nhận phong bì lại chủ yếu xảy ra tại bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh công lập. Điều này diễn ra trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm sút niềm tin trong nhân dân.

Trước hết cần phải nhận thấy việc đưa và nhận phong bì trong các bệnh viện là hành động sai trái xét cả về góc độ pháp lý và đạo lý của cả người đưa và kẻ nhận. Tâm lý người đưa phong bì cảm thấy mình ở “thế yếu”, cần phải cầu cạnh để được chiếu cố hoặc có mưu cầu muốn được thầy thuốc quan tâm hơn người khác.

Vô hình trung, người đưa phong bì đã góp phần làm biến chất, thoái hóa tư cách đạo đức của người thầy thuốc và là tác nhân thúc đẩy người nhận phong bì vi phạm quy chế y đức, pháp luật. Đối với người nhận phong bì, tự họ bị ràng buộc vào đồng tiền và có thói quen vụ lợi, thích hưởng thụ, coi thường quy chế cơ quan và các quy định chung của ngành, dần sa ngã, thoái hóa, biến chất.

Nền y học truyền thống của dân tộc vốn rất đề cao y đức. Thông qua lời dạy của các bậc danh y như: Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Đình Chiểu…, qua các cuốn sách về y huấn, y thuật còn lưu lại, ta có thể thấy rõ điều đó. Trong số những bậc danh y xưa, Hải Thượng Lãn Ông được những người thầy thuốc Việt Nam hiện nay tôn vinh là Y tổ, lấy ngày rằm tháng giêng hàng năm làm ngày giỗ tổ.

Đối với Hải Thượng Lãn Ông, nghề thuốc là một nghề thanh cao, ông nói: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật, có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng cho người ta, phải lo trước cái lo của người và vui sau cái vui của mình mà không cầu danh lợi, kể công” và “Thầy thuốc là người bảo vệ sinh mạng của con người, tử sinh họa phúc đều ở tay mình quyết định”. Những tư tưởng, quan niệm về y đức ấy cho đến nay vẫn còn tính thời sự và vẹn nguyên giá trị.

Năm 1996, Bộ Y tế ban hành 12 điều về y đức (hay còn gọi là “12 tiêu chuẩn nghề nghiệp của người làm công tác y tế”). Kể từ đó đến nay, 12 điều y đức vẫn được lồng kính, trang trọng treo ở các bệnh viện, trung tâm y tế, nhưng không phải người thầy thuốc nào cũng ghi nhớ, tự giác, nghiêm túc thực hiện đầy đủ những quy chuẩn tối thiểu về nghề nghiệp của mình.

Để từng bước góp phần lành mạnh hóa bộ máy hành nghề, hạn chế đi đến chấm dứt nạn phong bì trong các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh công lập, cần quyết liệt , dứt khoát hơn trong việc xử lý kỷ luật, thậm chí loại khỏi ngành những cán bộ, nhân viên y tế không còn giữ được y đức, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ.

Các bệnh viện cần công khai nội quy, quy chế, viện phí, quy trình khám, tiếp nhận, điều trị, thủ tục ra viện, danh tính các bộ phận, cá nhân phụ trách từng khâu; quyền và nghĩa vụ của bác sỹ, nhân viên y tế cũng như của bệnh nhân, thân nhân người bệnh. Bên cạnh đó, sự quan tâm chăm lo của toàn xã hội đến đời sống và vấn đề y đức của người thầy thuốc đóng vai trò quan trọng.

Phải chú trọng  tuyên truyền, giáo dục đối với người thầy thuốc về tinh thần tận tụy phục vụ người bệnh, về lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp một cách thường xuyên. Đồng thời phải có chính sách khuyến khích, chăm lo đời sống cán bộ y tế về vật chất, tinh thần để họ yên tâm đem hết sức mình phục vụ người bệnh, góp phần thiết thực nâng cao y đức nghề nghiệp.

Bùi Minh Tuấn
Trường THPT Kim Liên - Nam Đàn - Nghệ An 

LTS Dân trí - Trong các nghề nghiệp thì nghề Thầy thuốc vừa đòi hỏi có kiến thức và tay nghề vững vàng vừa có lương tâm và ý thức trách nhịêm của người làm công việc đặc biệt quan trọng là trị bệnh cứu người. Chình vì lẽ đó mà mọi sinh viên y khoa trước khi nhận bằng tốt nghiệp đều phải đọc Lời thề danh dự Hyppocrates của người Thầy thuốc, xác định rõ nội dung y đức mà mình phải thấm nhuần và thực hiện trong suốt cuộc đời hành nghề.

Tiếc rằng mặt trái của cơ chế thị trường hiện nay đã tác động khá mạnh mẽ lên một bộ phận đáng kể những người hành nghề y và dược, làm cho nhiều người dân phải phàn nàn và bất bình, nhưng cách ứng xử của chính người bệnh cũng là một tác nhân gây ra tình trạng tiêu cực trong khám, chữa bệnh.

Nhằm khắc phục tình trạng đáng buồn này, chúng ta cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với nghề Thầy thuốc cũng như đổi mới cách quản lý của các bệnh viện công lập để vừa chăm lo tốt hơn đời sống của đội ngũ thầy thuốc, vừa đưa công tác khám, chữa bệnh vào nền nếp công khai, minh bạch.

Nguồn:http://dantri.com.vn/ban-doc/nghi-suy-doi-dieu-ve-y-duc