Những Giải Đáp Triết Học và Tôn Giáo về Đau Khổ

CHƯƠNG 2

NHỮNG CƠ SỞ THẦN HỌC - KINH THÁNH

CỦA TINH THẦN TRỢ THẾ

2.1         Những Giải Đáp Triết Học và Tôn Giáo về Đau Khổ

2.1.1    Con người đối diện với đau khổ

"Con người là gì ? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự ác, và cái chết, khi nó vẫn tiếp tục tồn tại cho dù con người đã đạt được biết bao tiến bộ? Mục đích của những chiến thắng này là gì mà chúng ta phải mua bằng một cái giá quá đắt như thế? Con người có thể cống hiến cho xã hội điều gì; có thể mong đợi điều gì từ nó? Có gì sau cuộc đời trần thế này?" (1)

Đi tìm một giải thích cho sự đau khổ của con người đã luôn luôn là một vấn đề cơ bản mà mọi hệ thống triết học và tôn giáo từng tìm cách giải quyết theo những đường lối khác nhau, mà không bao giờ thành công trong việc hoàn toàn vén bỏ được bức màn bí nhiệm bao phủ nó.

Có lẽ chúng ta có thể tóm lược những câu trả lời chính yếu đã từng được đưa ra cho vấn đề gai góc này qua năm hướng giải đáp sau đây.

Hướng giải đáp thứ nhất chúng ta có thể gọi là dựa trên sự bí ẩn hay mầu nhiệm, đó là coi đau khổ như chuyện tự bản chất không thể tránh và không thể hiểu. Nó thường được diễn tả thành một huyền thoại theo đó đau khổ được nhìn như một sự "trừng phạt" của một thần linh nào đó, hoặc như sự chiến thắng của những thần ác trên những thần lành. Nhưng cho dù được cắt nghĩa thế nào, mọi sự luôn luôn được phóng lên một chiều kích siêu nhiên và do đó những phương thuốc để giải phóng con người khỏi đau khổ cũng có thể mang tính siêu nhiên như thế (phù thủy, pháp sư, trừ tà, v.v. . .). Quan điểm này vẫn còn tồn tại nơi một số dân gọi là "bán khai", và thậm chí cho tới nay vẫn còn được duy trì như một nền tảng truyền thống nơi nhiều tư tưởng tôn giáo khác.

Một hướng giải đáp thứ hai đã tồn tại trong suốt lịch sử kể từ thời các triết gia thuộc trường phái Epicurus cổ xưa cho tới chủ nghĩa khoái lạc cá nhân ngày nay, đó là quan điểm mà chúng ta có thể gọi là sự phủ nhận. Mọi hoàn cảnh đau khổ trên đời đều là một sự giới hạn và gò bó việc tìm kiếm khoái lạc, và do đó tốt hơn nên làm ngơ chúng để tìm cách tận hưởng giây phút hiện tại càng lâu càng tốt. Đây là cách "giải tỏa" đau khổ và sự lo lắng mà sự hiện diện của đau khổ tạo ra. Hơn nữa, trong bối cảnh văn hoá này, người ta tìm thấy gốc rễ của rất nhiều hình thức "tuyệt vọng" đương đại khác, mà khi phủ nhận thực tại của đau khổ, chúng đã đi tới chỗ phủ nhận chính đời sống khi gánh nặng của đời sống trở thành không thể chịu đựng nổi.

Một thái độ khác đối nghịch hẳn với thái độ thứ hai, đó là thái độ chấp nhận anh hùng sự đau khổ. Những triết gia Khắc Kỷ bênh vực lập trường này theo triết học, và "chủ nghĩa Khắc Kỷ" ngày này đã trở thành đồng nghĩa với sự chấp nhận đau khổ một cách thanh thản mà không oán thán. Sự chấp nhận dũng cảm này rất hấp dẫn đối với Kitô giáo, và Kitô giáo đã đưa những yếu tố có nguồn gốc Khắc Kỷ vào những lý luận thần học của mình và coi chúng rất phù hợp với việc chấp nhận Thập Giá của Chúa Giêsu và thái độ của các vị Tử Đạo. Nhưng sự "lây lan" này không bao giờ có giá trị thực sự tích cực, và đã là một trong những nguồn gốc tạo nên sự tuyên dương giả-Kitô giáo về đau khổ mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy khó có thể giũ bỏ được nó.

Một hướng giải quyết thứ tư về đau khổ gồm việc diệt khổ bằng một con đường nội tâm dần dần dẫn tới việc tiêu diệt mọi dục vọng và mọi sự đau khổ thể lý và tâm lý. Phương hướng giải quyết này đạt tới hình thức diễn tả đầy đủ nhất trong Phật giáo, nhưng nó cũng được gặp thấy trong những nền triết học và tôn giáo khác ở phương Đông và đang tạo một ảnh hưởng kinh ngạc đối với thế giới phương Tây. Phật giáo nhấn mạnh đặc biệt việc chăm lo cho những người đau khổ vì Phật giáo coi lòng "từ bi" là một trong những tình cảm phổ quát đưa con người đến gần Thượng Đế, tuy rằng việc giúp người đau khổ chỉ là làm cho họ vượt lên trên những dục vọng là nguyên nhân gây ra đau khổ, chứ nó không tìm ra một "giải pháp" cho các vấn đề, kể cả các vấn đề vật chất, là những cái tạo ra đau khổ.

Hướng giải đáp cuối cùng mà chúng ta sẽ đề cập chi tiết hơn ở đoạn tiếp theo, là hướng giải đáp được diễn tả đầy đủ nhất trong Kitô giáo, mà chúng ta có thể định nghĩa là sự nhận ra giá trị của đau khổ. Tuy không tỏ lộ hoàn toàn mầu nhiệm này và không muốn biến nó thành một giá trị tích cực tự tại, Kitô giáo cung cấp những "lý do" của đau khổ, biến đổi tính vô lý của nó thành một dụng cụ có thể đem lại ích lợi cho bản thân mình và cho người khác. Hướng giải đáp này cũng có thể mang hình thức thăng hoa tâm lý bởi những cá nhân muốn lý giải một kinh nghiệm đau đớn, hoặc thậm chí một sự bù trừ về hành vi.

Dù sao, bên cạnh những lối giải thích này, chúng ta không thể không biết đến một chiều kích tuyệt đối cá nhân của sự đau khổ mà ý nghĩa của nó vượt ra khỏi mọi sự tổng quát hóa, bởi vì nó chỉ có ý nghĩa trong thế giới hiện sinh của mỗi cá nhân mà thôi. Sự đau khổ trong bối cảnh này trở thành một yếu tố thuộc về tiểu sử mỗi con người mà mầu nhiệm sâu xa nhất không bao giờ có thể tỏ lộ hay diễn giải bằng lý luận một cách thoả đáng.

2.1.2    Đau Khổ Nói Chung, Và Đau Khổ Theo Kitô Giáo

Theo quan điểm Do thái-Kitô giáo, đau khổ và sự ác mà nó diễn tả không nằm trong chương trình khởi thủy của Tạo hoá: nói cách khác, nó không phát xuất từ Thiên Chúa. Vì vậy, khác với những tôn giáo khác, Kitô giáo không có một vị thần ác là nguyên nhân của đau khổ. Đau khổ và sự ác mà nó diễn tả nằm trong thân phận con người, nhưng đồng thời bộc lộ mầu nhiệm về một điều mà Thiên Chúa không mong muốn, không ưa thích, và chỉ đơn giản là sự mong đợi ơn cứu độ. Đau khổ là một thực tại tiêu cực, một sự "vắng mặt" hơn là một sự hiện diện, theo quan niệm của thánh Âu-cơ-tinh. Để diễn tả điều này, Kinh Thánh sử dụng hình ảnh thần thoại về tình trạng con người nguyên thủy hoàn toàn không có đau khổ, nhưng đau khổ đã bước vào vì con người bất tuân giới luật của Thiên Chúa, nghĩa là, vì chúng ta tự mình lìa xa tình yêu của Thiên Chúa. Hình ảnh con rắn trở thành biểu tượng của việc tôn thờ ngẫu tượng, biểu tượng của thái độ không "tin tưởng Thiên Chúa", yêu thích tạo vật hơn Thiên Chúa và biến tạo vật thành thần linh.

Suốt nhiều thế kỷ, mối tương quan "hữu thể học" này giữa tội lỗi và đau khổ mà người ta coi là một hình phạt của tội lỗi đã được Israel quan niệm theo một nghĩa "cá nhân", coi mọi trường hợp đau khổ đều là một hình phạt của một tội nào đó (tư tưởng này vẫn còn khá phổ biến hôm nay). Và không chỉ có thế: bằng cách đối chiếu tình trạng nghịch lý giữa "hạnh phúc của quân vô đạo" với "sự đau khổ của người công chính", các nhà hiền triết của Israel đã giải thích khác đi rằng rốt cuộc kẻ vô đạo sẽ bị trừng phạt nơi con cháu của họ, và người công chính đang chịu khổ là để đền tội cho cha ông họ.

Tiếng kêu gào thảm thiết đầu tiên chống lại quan điểm này đã được gióng lên trong sách Gióp. Với một sự nhậy cảm rất hiện đại mà ngày nay chúng ta vẫn còn phải kinh ngạc, Gióp đã phản kháng lại quan niệm này về đau khổ và đòi Thiên Chúa phải trả lời tại sao một "người chính trực" như ông lại phải chịu đau khổ không tương xứng với một lỗi lầm nào mà ông đã có thể mắc phải. Tuy nhiên Thiên Chúa không trả lời một cách minh nhiên, mà cơ bản ngài ngỏ lời mời gọi ông chấp nhận mầu nhiệm mà không đòi hỏi lời giải thích, cũng không rời bỏ niềm tin của ông vào một vị Thiên Chúa chỉ muốn điều lành cho con cái Ngài mà thôi.

Khuôn mẫu vĩ đại này về "người chính trực chịu khổ" được biểu trưng một cách long trọng bằng hình ảnh "người tôi tớ đau khổ của Yavê", con người mà truyền thống sau này đồng hóa với hình ảnh Đấng Kitô "gánh lấy" những đau khổ của dân Người, và nhờ đó giải thoát họ khỏi những đau khổ của họ. Việc "đền tội thay" này đã được thánh Phaolô minh giải rất hùng hồn trong Thư Rôma 3:25, không được hiểu như "hình phạt" của một người đại diện cho toàn dân, mà phải hiểu theo nghĩa các hy tế xá tội xưa kia trong đó tế vật toàn thiêu trở thành một công cụ để Thiên Chúa tha tội. Hy tế của Chúa Kitô, và do Nhiệm Thể của Người, sự đau khổ mà mọi tín hữu phải chịu (nhưng theo nghĩa nói trong Rm 8:19 và Ep 1:7-10, cũng là cả thế giới phải chịu) trở thành một công cụ cho ơn tha thứ của Thiên Chúa.

2.1.3    Sứ Điệp Giải Phóng của Tin Mừng

Khía cạnh chủ quan của sự giải phóng theo đó Chúa Giêsu Kitô giải phóng con người khỏi tội lỗi trong chính thân xác của họ và vì thế cứu chuộc con người khỏi mọi hậu quả của tội, cũng có một khía cạnh thực tiễn trong các công cuộc và hành động mà Ngài thực hiện. Chữa bệnh, đón nhận những con người ngoài lề xã hội, và bênh vực người nghèo là một phần cốt yếu của sứ mạng Ngài. Thực vậy, hoạt động vì người nghèo và "những kẻ thấp hèn" được coi là dấu chỉ đặc thù cho tư cách Thiên sai của Ngài (xem Mt 11:3-5). Bằng cách này, Ngài đã hoàn toàn khôi phục quyền năng giải phóng và cứu độ toàn diện của Thiên Chúa cho con người, mà biến cố Xuất hành đã là một kinh nghiệm lịch sử và một bằng chứng biểu tượng. Thái độ của Chúa Giêsu đối với bệnh nhân không chỉ giàu ý nghĩa mà còn là một tấm gương cho chúng ta noi theo. Ngài đã sống trọn vẹn các biến cố đời sống của Ngài và của những người bà con họ hàng (xem Mt 14:14; 15:32; Lc 7:13; Ga 11:36); Ngài không thách đố, không phê bình hay quở trách bệnh nhân khi họ đến xin Ngài chữa bệnh; ngược lại, ngài thường là người khởi xướng (xem Mc 10:49; Lc 8:49; Ga 5:6); Ngài gạt bỏ mọi sự tương quan giữa tội lỗi cá nhân và bệnh tật hiện tại (xem Ga 9:1-13); Ngài chữa lành toàn diện con người bệnh nhân (xem Mt 9:1-7). Nói cách khác, hoạt động của Ngài không chỉ giới hạn vào việc chữa một căn bệnh, mà nhắm tới lợi ích toàn diện của con người, tới sự cứu rỗi (salus) chứ không chỉ là sức khoẻ (sanitas) của con người.

Vì vậy, việc chăm sóc người nghèo khổ mang những ý nghĩa rất đa dạng, trước hết nó trở thành một dấu chỉ mới về giao ước giữa con người và Thiên Chúa. Giao ước giữa Tạo hóa và Tạo vật vì vậy được tái đề nghị bởi tình yêu của Thiên Chúa, đấng hồi phục "sức khoẻ" lại cho người nghèo, người bệnh, và người bị bỏ rơi, để họ được sống trở lại, và tràn ngập tình yêu ấy. Chính trong việc ủy thác cho các Kitô hữu (Christifideles) nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng chữa lành của Chúa Kitô mà chúng ta tìm thấy nền tảng "đoàn sủng" của tinh thần Trợ thế, nền tảng này có những nguồn gốc thần học và kinh thánh đáng chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu rộng.

2.2         Tính Trợ Thế Hay Lòng Mến Khách Trong Cựu Ước

2.2.1    Thiên Chúa là Lòng mến khách (+)

Khi nói về Lòng mến khách ngày nay, chúng ta thường nghĩ tới việc tiếp đón khách vào nhà mình. Nhưng ý nghĩa thần học đích thực của thái độ nhân bản này trước tiên là ở trong chiều kích hữu thể học của Lòng mến khách.

Không phải là nói quá khi cho rằng trong bản thể Ba Ngôi Thiên Chúa có chứa đựng những nguồn gốc sâu xa nhất của một đời sống thần linh cũng chính là Lòng mến khách. Lòng mến khách của Chúa Cha là Đấng đã "lập cư" nơi bản thể mình từ đời đời để sinh ra Chúa Con, và Lòng mến khách của Chúa Con -Đấng đón nhận nơi mình hồng ân sinh thành của Chúa Cha. Sau cùng, Lòng mến khách của Chúa Thánh Thần-Đấng kết hợp Cha và Con, và vì thế Ngài trở thành hiện thân của một tình yêu tiếp đón.

Chiều kích Ba Ngôi này của Lòng mến khách không chỉ liên quan tới bản thể Thiên Chúa mà còn liên quan tới việc Thiên Chúa cư ngụ nơi con người nay trở thành chủ nhà đón tiếp Thiên Chúa (xem Ga 13:20). Trong Lễ Qui Latinh cũ, việc tham dự Thánh Thể được mô tả giống như việc đón tiếp Chúa Giêsu vào dưới mái nhà mình, và Chúa Thánh Thần cũng được gọi là "Khách của linh hồn". (2)

Trên bình diện nội tại, Tạo dựng được nhìn như là kết quả của Lòng mến khách nguyên thủy của Thiên Chúa, mà do bản chất của nó, nó vừa sinh ra vừa đồng thời đón tiếp một kế hoạch được hình thành ở ngoài chính bản thể của nó. Chính Lòng mến khách đã đóng tính vĩnh cửu lại để đặt nó trong một chiều kích lịch sử và do đó làm cho chính thời gian trở thành khách của nó, cả trước khi có con người. Nhưng chính khi tạo dựng con người mà Thiên Chúa tỏ lộ đầy đủ nhất chính mình Ngài như là Lòng mến khách, bằng cách thông ban cho con người một sự hiện diện rộng khắp và cho con người làm chủ mọi tạo vật của ngài. Thực ra điều này đã được thực hiện từ trước nữa, khi Ngài có con người trong trí tạo dựng của ngài, và con người được mang chính hình ảnh của trí tạo dựng ấy.

Tiếp theo Tạo dựng là Giao ước, được diễn tả dưới vô vàn hình thức với đủ loại biểu tượng trong các trình thuật của Kinh thánh. Chính vì nó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, nên Giao ước mà Kinh thánh nói tới không chỉ trở thành cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và khách của ngài, mà còn giữa con người và vị khách thần linh của con người. Cho dù Giao ước này được diễn tả bằng những thực tại hữu thể khác nhau, Lòng mến khách trong giao ước trở thành một hành vi trao ban hai chiều, một cuộc trao đổi quà tặng. Và mỗi khi Giao ước này bị vi phạm trong lịch sử của các cá nhân hay cộng đồng, lòng tha thứ và sự hòa giải của Thiên Chúa với con người chính là bằng chứng cho nguồn mạch vô tận của một Lòng mến khách luôn luôn mới mẻ.

2.2.2    Khái niệm về Lòng mến khách

Kinh Thánh Cựu Ước được đặt trong bối cảnh văn hóa của thế giới Sêmít, trong đó có một sự căng thẳng giữa việc tiếp đón khách mà trong lòng vẫn nuôi một mối nghi ngờ nào đó, coi người khách như một "mối đe dọa" đối với cá tính của dân tộc. Trong mọi trường hợp, thái độ chung của Israel đối với người ngoài là coi họ là những ngoại kiều. Ít nhất có ba kiểu nói, cho thấy ba thái độ khác nhau. Thuật ngữ thứ nhất là zar, nghĩa là một người thuộc một chi tộc hay dòng tộc khác, là người xa lạ, và đôi khi là một kẻ thù (Đnl 25:5; G 15: 19; Is 61:5; 25:2-5). Thuật ngữ thứ hai ger chỉ về một người ngoại kiều cư ngụ trong nước (người Israel ở Ai Cập, hay người Canaan ở Israel); và thuật ngữ thứ ba tosab dùng để nói về người ngoại kiều cư ngụ tạm thời ở một nước khác (St 23,4; Dnl 14,21). Việc có những tên gọi khác nhau này cho thấy có sự khác biệt về thái độ đối với người ngoài hay người lạ tùy theo tính chất xa lạ riêng biệt vào mỗi thời. Tóm lại, chúng ta có thể nói Israel đã có một sự phân biệt giữa các dân tộc ngoại bang, những người ngoại kiều đã định cư trong nước, và những ngoại kiều vãng lai riêng lẻ từng người.

Hạng người thứ ba này là hạng người được mở rộng Lòng mến khách với hình thức cao nhất. Chúng ta chỉ cần nhớ lại đoạn truyện trong St 19:1-8 nói về việc ông Lót sẵn sàng dâng hiến các cô con gái của ông cho người dân trong thành để họ không đụng tới những vị khách của ông. Trên thực tế, việc nhấn mạnh sự phân biệt các thái độ này có thể mang cùng một ý hướng và mục đích: khắc phục mối đe dọa của người ngoài đối với cộng đồng hay bản chất riêng của mình, cả bằng việc đối kháng họ và coi họ như thù địch, và bằng việc tỏ ra quan tâm đặc biệt tới họ. Chúng ta cũng có thể tìm thấy những dấu vết của thái độ nước đôi này trong lối cắt nghĩa lại khái niệm này của tiếng Latinh thời sau, với cùng một ngữ căn chung cho hai từ hospes (khách) và hostis (kẻ thù).

Hiển nhiên, dù đây là quan điểm chuyên biệt và thích hợp nhất về Lòng mến khách trong Israel, chúng ta không được quên rằng Israel đã sống và thực hành Lòng mến khách này thế nào với chính dân của mình. Nói theo sát nghĩa, "người thân cận" (một khái niệm đã bị Đức Giêsu làm đảo lộn) có nghĩa là người đồng bào, người đồng đạo. Thực hành Lòng mến khách đối với người thân cận là một nghĩa vụ cơ bản bởi vì người ấy là thành viên của một dân tộc được xác định không chỉ do chủng tộc mà trên hết là do tôn giáo. Vì là dân được tuyển chọn của Thiên Chúa, Israel khám phá ra những nhu cầu và đòi hỏi của Lòng mến khách đối với những nhóm người nghèo khổ (ta chỉ cần nghĩ tới những cô nhi quả phụ).

2.2.3    Những động cơ của Lòng mến khách

Lòng mến khách trong bối cảnh Cựu Ước, cũng như trong mọi nền văn hóa cổ xưa, không được hiểu theo nghĩa thời nay là chỉ đón tiếp khách, và cho khách ăn ở. Nó còn mang một ý nghĩa triệt để hơn, đó là coi khách như người nhà, bảo vệ khách chống lại địch thù, đùm bọc che chở khách, kính trọng khách một cách sâu xa vì là một con người, và quan tâm đến khách bằng cách chăm lo cho các nhu cầu của khách.

Có nhiều lý do để có sự quan tâm sâu sát đối với khách như thế (ngoài những lý do chăm lo cho những phần tử của một dân tộc hay một quốc gia như đã nói trên kia). Trước hết, có một lý do văn hóa mà Israel chia sẻ với các nước lân bang. Đó là ý tưởng rằng một vị thần có thể ẩn mình dưới hình dáng bề ngoài của một người lạ tìm nơi trú chân. Trong tôn giáo độc thần, ý tưởng này được khai thác lại và các thần linh biến thành các thiên thần. Chúng ta thấy rõ điều này trong thư Do thái 13:2: "Anh em đừng quên tỏ Lòng mến khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết."

Một lý do thứ hai chuyên biệt hơn và liên quan rõ ràng tới lịch sử Israel. Abraham là "người Aram du mục", là tổ phụ của dân được chọn, đã sống cuộc đời một người khách lạ, và chính Israel cũng đã sống cuộc đời khách lạ trên đất Ai Cập. Vì thế Israel hiểu thấu thân phận và hoàn cảnh đau khổ của người khách lạ, và biết khách lạ cần được Lòng mến khách thế nào. Thực vậy, mỗi khi Israel bị cám dỗ khinh miệt khách lạ, lời cảnh cáo trong Kinh Thánh luôn luôn rất rõ ràng: "Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai Cập." (Lv 1:34; xem Ed 22: 20; 23:9)

Cuối cùng là động cơ tôn giáo (mà sau này được khai triển trong Tân Ước), đó là gương mẫu của chính Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa của Lòng mến khách, trước tiên và trên hết, Ngài tiếp đón khách lạ và mời vào nhà ngài (xem Đnl 10: 18) và muốn được chia sẽ những phẩm vật hiến thánh cho ngài (xem Đnl 26:12). Sự kiện Israel cũng được đòi hỏi phải cư xử như thế không là gì khác hơn việc thực hiện ý muốn của Thiên Chúa, là một trong những cách để tỏ ra trung thành với Luật pháp (xem Lv 16:29; 18:26; 19:10-33).

2.2.4    Những đoạn tham chiếu Kinh Thánh chính

Một trong những câu chuyện giàu ý nghĩa nhất chúng ta cần ghi nhớ là cuộc viếng thăm của ba thanh niên tại nhà ông Abraham ở rừng sồi Mamrê. Cần lưu ý rằng Abraham đã nhận ra vị khách của ông và gọi ngài là "Chúa tôi". Ngay cả trước khi biết những lý do của cuộc thăm viếng, và mặc dù đối diện với ba người, ông vẫn biết rằng đó là "cuộc thăm viếng" của Thiên Chúa. Mọi hành vi của ông đều phát xuất từ đó và chắc chắn có thể chú giải theo một nghĩa thần học rõ ràng: ông phục xuống đất (thờ lạy), ông đích thân bắt con bê và sữa (dâng lễ), và ông tin những lời ba người thanh niên nói với ông (lòng tin), và xin họ đừng tiêu diệt Sôđôma (cầu nguyện). Nói khác đi, Lòng mến khách trở thành cơ hội để gặp gỡ Thiên Chúa.

Trong câu chuyện về việc bà góa thành Zarepta thực hiện Lòng mến khách với ngôn sứ Êlia, chia sẻ với ông chiếc bánh cuối cùng bà còn lại cho bà và con trai bà, tác giả nhằm mục đích nêu một gương sáng và một câu chuyện giáo dục. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện còn phong phú hơn nữa: chính nhờ Lòng mến khách này mà con trai bà được nhà Tiên tri chữa lành bệnh (1V 1:20). Về nhiều khía cạnh, cùng một hoàn cảnh tương tự đã được tả trong câu chuyện về cô gái điếm Rahab đã che giấu hai người thám tử mà Giôsuê đã phái từ Shittim đến Giêrikhô, và để đáp lại hành vi hiếu khách này, cô và cả gia đình cô đã được cứu (xem Gs 2:1-12). Mối tương quan giữa đời sống của người chủ nhà và đời sống của người khách có thể thấy trong Sách Tôbia, trong đó ông Tôbít kể rằng ông đã phân phát một phần mười tài sản của mình cho các cô nhi, quả phụ và khách ngoại kiều (xem Tb 1:8). Lòng mến khách, vì là hành vi tiếp đón sự sống của một người khác, nên được thưởng công bằng quà tặng của chính sự sống.

Sách Huấn ca cũng đưa ra một lời mời gọi tỏ Lòng mến khách đối với mọi hạng người nghèo khổ: "Đối với trẻ mồ côi, con hãy xử như một người cha, còn với mẹ của chúng, hãy xử như một người chồng; được vậy, con sẽ nên như người con của Đấng Tối Cao, và Người sẽ thương con hơn cả mẹ của con nữa" (Hc 4:10). Lòng mến khách mà Kinh Thánh mời gọi thực hiện làm chúng ta một cách nào đó trở thành "thân nhân" của người khách, đồng thời cho chúng ta cảm nghiệm được tình mẫu tử dịu dàng của Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên sắc thái đậm nữ tính của toàn thể khái niệm về lòng thương xót. Vì từ rachamin của tiếng Do Thái có cùng gốc với từ chỉ về dạ mẹ, được giãn nở ra để đón nhận hay làm nơi cư ngụ cho một sự sống mới. Do đó Lòng mến khách và sự thương xót cùng kết hợp với nhau để trở thành một biểu tượng duy nhất về Thiên Chúa Thương Xót, "Đấng yêu thương mọi sinh linh" (xem sách Khôn ngoan 11:26).

Và đây chính là lập trường chúng ta phải có để hiểu Lòng mến khách đối với các bệnh nhân, nói một cách cụ thể là thái độ và những hành vi đặc biệt chúng ta phải có để tiếp nhận và chăm sóc người bệnh. Một mẫu gương trong điều này là tổng lãnh thiên thần Raphael, được gọi là "thần dược của Thiên Chúa", là người không chỉ chữa lành mà còn niềm nở tiếp đón người bệnh. Vì vậy ngài không chỉ trở thành một biểu tượng của "giải pháp y học" cho vấn đề, nếu ta có thể gọi như thế, mà còn là biểu tượng của việc đồng hành với người bệnh tật, người bị gạt ra lề xã hội, người hấp hối và người nghèo mà đối với họ đôi khi sự hiện diện của một người bạn là thứ thuốc duy nhất họ có.

Nhưng thái độ hiếu khách này cũng phải được tỏ ra cả đối với người chết, như được minh chứng trong sách Tôbia, khi sách này liên kết nó rất mật thiết với ý tưởng về Lòng mến khách theo nghĩa truyền thống (Tb 1:1-4). Vì Tôbia đã sai con mình đi tìm một người nghèo để mời họ ăn tối với mình. Nhưng ông chỉ tìm được một người đã chết, là một trong số gia nhân của ông bị người ta bóp cổ và vứt xác ra chợ. Thế là ông không chần chờ gì cả. Ông bỏ dở bữa ăn, và đưa xác chết đi chôn. Có thể nói đây là một hình thức ông chia sẻ bữa ăn của mình với người nghèo khổ.

Sau cùng, chúng ta không nên coi thường một đoạn tường thuật khác gói ghém chiều kích của Lòng mến khách cả trong gia phả lịch sử của Đấng Mêsia: truyện bà Rút, người phụ nữ ngoại kiều đã đi theo mẹ chồng Naomi về quê của bà và cưới ông Boas mà hai mẹ con thường đi mót lúa trong đồng ruộng của ông. Từ sự phối hợp này đã sinh ra ông nội của Đavít. Cả hai vợ chồng đều được "thưởng công" bằng việc trở thành tổ tiên của Chúa Giêsu, vì cả hai đã tỏ Lòng mến khách đối với nhau: ông Boas lấy người đàn bà ngoại kiều, còn bà Rút thì đã bỏ quê hương của mình để đón nhận miền đất ngoại bang: là sự tiếp đón hỗ tương, Lòng mến khách gạt bỏ mọi lo lắng về sự an toàn và chắc chắn để tìm kiếm một sự an toàn mới trong sự mới mẻ của cuộc gặp gỡ.

2.2.5    Lòng mến khách trở thành một cơ chế

Một tình huống đặc biệt thú vị, đó là việc chọn lựa sáu thành phố "làm nơi trú ẩn cho dân Israel, và cho người ngoại kiều và khách vãng laiï, để cho bất cứ ai lỡ giết một người mà không cố tình đều có thể đến nuơng náu tại đây" (Ds 35:15) . Với việc thiết lập 6 thành phố trú ẩn này, Lòng mến khách không còn là việc của một cá nhân hay một cộng đồng nữa, mà đã trở thành một cơ chế. Không còn là một cá nhân được mời gọi tỏ Lòng mến khách nữa, cũng không còn là những con người thực hiện hành vi hiếu khách cá nhân nữa, mà cả cộng đồng trở thành một "cơ chế hiếu khách". Thành phố trở thành gần như một biểu tượng cho mọi cơ chế tương lai hoàn toàn dấn mình đón nhận những con người nghèo túng, cho họ mọi sự họ cần, không chỉ một nơi dành cho họ chỗ cư ngụ tạm thời, mà là một thành phố, cả một hệ thống đời sống trong đó cá nhân lại có thể bắt đầu sống trở lại.

2.3         Lòng Mến Khách Trong Tân Ước

2.3.1        Quan điểm của Tin Mừng

Trước khi xem xét những hành vi mến khách cụ thể của Chúa Giêsu, chúng ta cần suy tư về biến cố của "Lòng mến khách" là nền tảng cho toàn thể đức tin Kitô giáo, đó là biến cố "Nhập Thể". Đức Maria trở thành người "chủ nhà" vĩ đại của Thiên Chúa bằng cách đón nhận ngài vào trong lòng mình, cũng như Đấng Emmanuel, "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" đã trở thành Vị Chủ Nhà vĩ đại của toàn thể nhân loại. Không phải tình cờ mà từ hành vi đón nhận ấy của Đức Maria, được mô tả đầy thi vị trong biến cố Truyền tin, ngay lập tức đã tiếp nối hành vi hiếu khách tuyệt vời của việc thăm viếng bà Elidabét, rồi sự kiện tiếp theo là việc tiếp đón Mẹ Chúa Giêsu.

Bên cạnh những động cơ của Lòng mến khách mà ta đã thấy trong Cựu Ước, Tân Ước còn thêm vào sự đóng góp mới mẻ của sứ điệp và hành động của Chúa Giêsu. Việc tiếp đón người khác, đặc biệt những người nghèo khổ, nay mặc lấy ba chiều kích mới trong ánh sáng của Tin Mừng.

Chiều kích thứ nhất bắt nguồn từ cách thức mà Chúa Kitô tự đồng hóa mình với người nghèo (xem Mt 25:31-45). Khi đón nhận người nghèo, chúng ta đón nhận Chúa Kitô; muốn yêu Chúa Kitô chúng ta phải yêu thương người nghèo; bất cứ điều gì chúng ta làm (hay không làm) cho người nghèo là chúng ta làm (hay không làm) cho Chúa Kitô. Có một sự biến hình thực sự của người nghèo thành Chúa Kitô, cũng không kém biểu tượng như cuộc biến hình chúng ta đọc trong một giai thoại được nhiều người biết về cuộc đời của Thánh Gioan Thiên Chúa. Theo một truyền thống, Gioan Thiên Chúa đang rửa chân cho một người nghèo thì người này biến hình thành Chúa Giêsu. (3)

Chiều kích thứ hai quan điểm về Cuộc Chung Thẩm. Chỉ dựa vào lòng bác ái (chứ không dựa vào việc tuân giữ bề ngoài các Giới luật), một trong những tiêu chuẩn để chúng ta được phán xét vào ngày tận thế chính là Lòng mến khách của chúng ta. Nhưng không chỉ có thế: hiểu theo nghĩa rộng hơn, chúng ta có thể nói Lòng mến khách-đón tiếp người khác vào nhà mình và quan tâm tới họ- chính là trọng điểm của tất cả sứ điệp Cánh chung.

Sau cùng, Thiên Chúa Hiếu Khách của Cựu Ước, Đấng bảo vệ khách ngoại kiều, trẻ cô nhi và người góa bụa, đã trở nên hữu hình nơi Chúa Kitô, một con người sống cả cuộc đời để phục vụ người khác. Những lời ngài dạy do đó không chỉ là những lời khích lệ suông, mà được cụ thể hóa trong các hành động của ngài, để trở thành một tấm gương cho mọi tín hữu noi theo. Không thể nào tóm tắt hết được mọi hành vi hiếu khách và thái độ tiếp đón niềm nở của ngài. Chúng ta chỉ nhắc lại ở đây sự dịu dàng ngài tỏ ra mỗi khi tiếp xúc với người ốm đau bệnh tật, không chỉ chữa lành sự yếu đau của họ, mà còn quan tâm cứu chữa con người toàn diện của họ. Ngài chạm vào những người phong, phá vỡ hàng rào cách ly đã từng cô lập họ khỏi xã hội; ngài cho người mù được sáng mắt, mở mắt cho mọi người thấy sự sai lầm khi tin rằng có một sự tương quan giữa tội lỗi cá nhân và bệnh tật; và ngài đã cho con trai của bà góa phụ ở Naim được sống lại, vì xúc động trước cảnh đau buồn của bà. Ngài tiếp nhận những cô gái điếm, chấp nhận những lời chỉ trích của những người chính trực; ngài lui tới với những người thu thuế, ngồi ăn cùng bàn với họ và chấp nhận sự thù nghịch của chính dân tộc của ngài, việc làm của những kẻ giết ngài nhưng ngài không ngần ngại tha thứ, sự phản bội và hèn nhát của các bạn bè, sự hổ nhục ghê tởm của Thập giá.

Tóm lại, Đức Kitô là "vị chủ nhà vĩ đại của lịch sử", và cùng với ngài, tất cả những ai muốn đi theo con đường hiếu khách của ngài đều phải quyết tâm noi gương ngài.

2.3.2    Philoxenía

Mặc dù các kiểu nói trong Cựu Ước có thể chuyển dịch thích hợp bằng những thuật ngữ trong Tân Ước, nhưng tất cả những kiểu nói đó phần nào đã được "thế chỗ" bởi một thuật ngữ mang ý nghĩa chuyên biệt của Lòng mến khách: philoxenía, lòng thương yêu đối với khách lạ. Sự liên kết có tính quyết định này giữa Lòng mến khách và tình thương (philoxenía) là nét đặc trưng riêng biệt của Lòng mến khách theo Tân Ước.

Vì vậy có thể nói philoxenía gần như là một thuật ngữ "chuyên môn" đã đi vào từ vựng Kitô giáo để chỉ về một khả năng đặc biệt để tiếp đón người đồng loại nói chung, và những người nghèo khổ nhất nói riêng. Không phải tình cờ điều này được tìm thấy trong những gương bác ái trong Tin Mừng Matthêu liên quan tới cuộc phán xét vào ngày tận thế (Mt 25:35); thánh Phaolô đã đưa nó vào số những lời khuyến dụ theo sau việc thực hành bác ái (Rôma 12:13); thánh Phêrô cũng làm như thế khi nhấn mạnh bổn phận tiếp đón nhau (1P 4:9); thư Do Thái coi nó là điều không thể tách rời với tình yêu thương đồng loại, philadelphia. Mọi người chúng ta được đòi hỏi thực hành nó, nhưng đồng thời nó là một yêu sách đặc biệt đối với Giám Mục (1Tm 3:2; 5:10; Tt 1:8).

Vì vậy, về bản chất, Kinh Thánh cho thấy rằng những gì mà đức ái nói chung đòi hỏi cũng có thể trở thành một cách diễn tả đoàn sủng đối với một số người được kêu gọi để thực hành điều đó.

2,3.3     Lòng mến khách và việc Rao Giảng Tin Mừng

Ngoài chiều kích liên kết mật thiết giữa Lòng mến khách và đức ái này, còn có một lý do đặc thù của Tân Ước để diễn tả giá trị của nhân đức này: những đòi hỏi của việc rao giảng Tin Mừng. Chúng không bao giờ tách rời với lệnh truyền chữa lành trong sứ điệp Tin Mừng: Hãy chữa lành những người bệnh tật. . . và nói với họ, Nước Thiên Chúa đã đến gần anh em (Lc 10,9; xem Mt 10,7-8). Khá giống với các "xứ đạo truyền giáo" ngày nay, nhà của các Kitô hữu đã trở thành những "trung tâm lắng nghe". Bổn phận tiếp đón người khác đã được nêu rõ một cách đặc biệt trong thư 3Gioan 7-8: "Quả thật, chính vì danh Chúa, họ đã ra đi mà không nhận gì của người ngoại. Vậy, chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá sự thật." Có một số bằng chứng về việc thực hành này (Rôma 16,4,23; Pl 22) và do sách lược rao giảng tin mừng này mà thỉnh thoảng có cả một gia đình đã trở lại đạo (xem Cv 16). Như thế Lòng mến khách trở thành một công cụ truyền bá Tin Mừng, cả bằng chứng tá và lời nói, và các cơ cấu của Lòng mến khách trở thành cho cả cộng đoàn một dấu chỉ và nơi để loan báo sự giải phóng toàn diện theo nghĩa của Tin Mừng.

2.3.2        Người Samaria Nhân Hậu

Dụ ngôn tuyệt vời về Lòng mến khách là câu chuyện "Người Samaria Nhân Hậu" mà sau này truyền thống Kitô giáo đồng hóa với chính Đức Kitô, và người Kitô hữu lý tưởng(4). Trước hết, động cơ của câu chuyện này là điều quan trọng. Có người hỏi Chúa Giêsu: Ai là anh em của ta. Theo tư tưởng Do Thái giáo đương thời, chỉ những người đồng bào hay những người có những mối quan hệ đặc biệt (huyết nhục, bạn bè, v.v... ) mới có thể được coi là "người thân cận" và vì vậy đáng được người Israel yêu thương. Bằng một nghịch lý hoàn toàn mới lạ, Chúa Giêsu đã nêu tấm gương của "người xa nhất", người Samaria, kẻ thù của người Do Thái, để nói rằng đó là "người thân cận", nghĩa là "người gần nhất" của ta.

Dụ ngôn này thật thú vị, vì nó cho chúng ta những ý tưởng về một thứ phương pháp luận của Lòng mến khách có thể thích hợp với chúng ta hôm nay. Trước hết, người Samaria đặt việc tiếp nhận người bị thương lên trước và trên những việc riêng của mình (ông đang đi đường, ông dừng lại, ông gác lại tất cả những công việc của ông) và ông làm điều này ngược với thái độ của những người khác (không những thày tư tế và Lêvi, mà cả những người Samaria khác). Nói tóm, ông đã hành động theo điều ông cho là nghĩa vụ của mình mà không cần nghĩ tới nghĩ lui xem liệu "mọi người có làm giống như thế không."

Rồi ông cố gắng sử dụng tối đa những phương tiện ông có. Không có sẵn băng, ông lấy vải cột các vết thương lại, rửa sạch và lấy những thứ thuốc ông có để xức vết thương, đặt người bị nạn lên lưng ngựa, rồi đi tìm một chỗ trọ thích hợp cho người bị nạn.

Sau cùng, ông sắp đặt một cơ cấu săn sóc, và làm thế ông đã lôi kéo cả cộng đoàn vào công việc này. Do đó, người chủ quán trọ đã trở thành tiêu biểu cho mọi tình huống trong xã hội, và mỗi tình huống này lại trở thành một cơ chế tiếp đón và chăm sóc nếu được thúc đẩy bởi những người có đặc sủng về Lòng mến khách. Người Samaria có óc rất thực tế này bắt đầu quyên góp tiền bạc để giúp người bị nạn, nói khác đi, người bị nạn được hưởng số tiền này, và như thế người Samaria này đã hành động như một trung gian của sự liên đới xã hội.

Kết luận của dụ ngôn là một lời mời gọi muôn thuở, nó đã trở thành lịch sử trong đời sống của Thánh Gioan Thiên Chúa và của tất cả những ai đã đón nhận ơn đoàn sủng mến khách: hãy đi và làm như thế.

 CHÚ THÍCH CHƯƠNG 2

(1)   VATICAN II: Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng (Gaudium et Spes), § 10, 1964.

(2)   Xem kinh Veni Sancte Spiritus (Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến)

(3)   Theo truyền thống, khi Thánh Gioan Thiên Chúa đang rửa chân cho một người nghèo, người này đã biến hình thành Chúa Giêsu.

(4)   Xem GIOAN PHAOLÔ II, Salvifici Doloris (Giá Trị Cứu Rỗi của Đau Khổ), §7, 1984.

"Trich nguon Hien chuong Tro The - Chuong II"