GAUDIUM ET SPES VÀ SỰ KIỆN THẾ TỤC HÓA:
SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Lm. Phêrô Trần Ngọc Anh chuyển ngữ
DÀN BÀI
DẪN NHẬP
Giáo Hội trong thế giới “ngày nay”
Các lược đồ chuẩn bị
Chọn lựa của Đức Gioan XXIII và sự đáp trả của các nghị phụ
“Thế giới” nào?
Một phương pháp để nhận định và hành động
Đề nghị của Kitô giáo, trước tính đôi chiều của nhân loại và thế giới
Ánh sáng Đức Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần
“Sự độc lập đúng mức của các thực tại trần thế”
III. Giáo Hội trong một thế giới tục hóa
Tương quan với các nhà nước
Sự khẳng định tự do tôn giáo
“Sự hỗ trợ mà Giáo Hội nhận được từ thế giới ngày nay”
KẾT LUẬN
DẪN NHẬP
Với Evangelii Gaudium,[1] Đức giáo hoàng Phanxicô đã gửi cho Giáo Hội Tông huấn đầu tiên của ngài, kết quả của Thượng Hội đồng Giám mục năm 2012 về công cuộc “Tân Phúc-Âm-hóa”. Nại đến thẩm quyền của mình cách minh nhiên nhiều lần, Đức Thánh Cha mong ước có sự “biến đổi của Giáo Hội về mặt truyền giáo” nhằm tiến hành công cuộc loan báo mới Niềm vui Tin mừng, trong một thế giới mang dấu ấn của sự kiện thế tục hóa (sécularisation).[2] Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử dụng lối nói này - vốn có nguồn gốc pháp lý nhưng ngày nay được dùng trong xã hội học - để chỉ một sự chuyển biến mang tính vấn đề. Lối nói này nhằm chỉ những hiện tượng phức tạp và đa dạng đang tác động trên các xã hội đương thời, với những khác biệt lớn, tùy theo các vùng trên thế giới. Nơi mà việc thuộc về Giáo Hội dường như loại trừ tất cả mọi ảnh hưởng khác, nơi mà Giáo Hội tổ chức cách rộng rãi lãnh vực xã hội, nơi mà thẩm quyền của các thể chế vượt lên trên vận mệnh của các cá thể, thì sự biến đổi xã hội và văn hóa tác động trên thực tại đến độ dẫn đến một sự “mất phương hướng chung”. Như thế, kỹ thuật và cá thể dường như luôn luôn quan trọng hơn truyền thống mà người ta đón nhận và hơn cộng đoàn mà họ thuộc về. Sơ đồ mang tính lịch sử và xã hội này mô tả tình trạng suy yếu của Giáo Hội, mất năng động tính trước một “thế giới” ngày càng hợp lý và kỹ thuật hơn. Chính từ nhận định này mà Đức giáo hoàng Phanxicô - trong Tông huấn Evangelii Gaudium - đã trình bày sự biến đổi của Giáo Hội về mặt truyền giáo trong thế giới ngày nay.
Trong những điều kiện này, đâu là những nguồn tài lực mà Gaudium et spes cung cấp cho chúng ta? Phải dựa thế nào vào Hiến chế Mục vụ này mà tính độc đáo được biết đến nhiều so với 15 văn kiện khác của Công đồng? Khi đo lường được sự mới mẻ của Gaudium et spes, với tính cách là một Hiến chế Mục vụ, so với những tài liệu chuẩn bị (trong đó Giáo Hội được đặt “đứng trước” thế giới), chúng ta mới hiểu được tầm quan trọng nơi quyết định của Đức Gioan XXIII, là quyết định đã được các nghị phụ Công đồng chấp nhận và tiến hành. Thêm vào đó, phương pháp riêng của Gaudium et spes được tỏ rõ, đặc biệt khi các nghị phụ xem xét vấn đề đặc thù “sự tự lập của các thực tại trần thế”. Vấn đề tương quan giữa Giáo Hội với “thế giới ngày nay” rốt cuộc khiến các nghị phụ quay trở lại với vấn đề Giáo Hội học, không chỉ về bản chất mà còn về sứ mạng của Giáo Hội, được hiểu là ở bên trong những nền văn hóa đương thời.
GIÁO HỘI TRONG THẾ GIỚI “NGÀY NAY”
Hiển nhiên, chính tựa đề đầy đủ của Hiến chế Mục vụ đã là yếu tố giải thích đầu tiên, nghĩa là cho thấy Công đồng Vaticanô II đã muốn hiểu Giáo Hội “trong” thế giới, chứ không “đối đầu” hoặc “đứng trước”, cả đến không “ở bên cạnh” thế giới. Việc lưu tâm đến “thế giới ngày nay” là kết quả của một tiến trình dài ở Công đồng, bắt đầu bằng những chọn lựa cá nhân của Đức Gioan XXIII, nhưng cũng mang dấu ấn của những tranh luận dài hơi giữa các nghị phụ Công đồng.
Các lược đồ chuẩn bị
Các sử gia biết nhiều đến lịch sử biên soạn của Gaudium et spes là nhờ các nguồn và các chứng tá sau khi Công đồng Vaticanô II kết thúc. Là văn kiện duy nhất không phát xuất trực tiếp từ những lược đồ soạn thảo trong giai đoạn chuẩn bị (từ lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 1960 cho đến tháng 9, 1962) nên Hiến chế này thật sự là kết quả của bốn khóa họp Công đồng, và của các buổi làm việc giữa các khóa họp. Vậy mà trong các bản văn được soạn thảo trong giai đoạn chuẩn bị, vấn đề các tương quan giữa Giáo Hội với các thực thể khác đã từng được nghĩ tới, hoặc chủ yếu về lãnh vực pháp lý, hoặc những luật luân lý; những luật này, với tính cách là luật tự nhiên, phải được áp dụng cho mọi người.
Lược đồ De Ecclesia năm 1962 - do Ủy ban Thần học trù bị mà Đức Gioan XXIII thành lập - đã hình dung trước một chương (chương 9) bàn về các tương quan giữa Giáo Hội với nhà nước, chủ yếu dựa trên lý thuyết “khẳng định” (thèse) và “giả định” (hypothèse). “Khẳng định” để chỉ tình trạng được coi là lý tưởng của Giáo Hội Công giáo, được bảo vệ như quốc giáo, đến độ cấm chỉ hoặc hạn chế mọi biểu hiện tôn giáo khác, Kitô hoặc không, bởi lẽ, chính nhà nước cũng phải thờ phượng Thiên Chúa, bên trong Giáo Hội Công giáo. Nhưng, trong nhiều trường hợp, ở Pháp chẳng hạn, phải bằng lòng với “giả định”, tức tình trạng trong đó, do nhà nước không phải là Công giáo nên Giáo Hội tuy buộc phải “chấp nhận” sự hiện hữu của các tín phái Kitô khác hoặc của các tôn giáo khác, nhưng vẫn bảo vệ được nguyên tắc theo đó “chỉ có chân lý mới có quyền” (seule la vérité a des droits). Giáo Hội có sứ mạng phải chuyển đổi, nơi nào có thể, từ giả định sang khẳng định. Dĩ nhiên, các tín phái Kitô và các tôn giáo khác khó chấp nhận sự khác biệt giữa “khẳng định” và “giả định”; và điều này chỉ được giải tỏa nhờ Tuyên ngôn Dignitatis humanae. Tuyên ngôn này nhìn nhận rằng tự do tôn giáo gắn liền với phẩm giá của mỗi một con người. Tuyên ngôn - được biểu quyết vào cuối Công đồng - có nguồn gốc từ một lược đồ khác liên hệ đến những tương quan giữa Giáo Hội và nhà nước, do Văn phòng Hiệp nhất các Kitô hữu soạn thảo. So với bản văn của Ủy ban Thần học trù bị thì nội dung của văn kiện hoàn toàn khác, bởi vì Ủy ban nhấn mạnh rằng những tiến hóa lịch sử và những nhu cầu của nhân loại phải dẫn đến việc coi trọng tự do tôn giáo tất yếu, đến việc phân biệt quyền thế tục (le temporel) với quyền Giáo Hội (le spirituel), đến việc cổ vũ sự cộng tác giữa người Công giáo và các công dân khác. Giữa hai văn kiện và giữa hai nhãn quan có sự đối kháng rõ rệt.[3]
Lược đồ khác ở đây là De ordine morali. Lược đồ này bàn về những vấn đề luân lý, tiên vàn dựa trên luật tự nhiên mà Giáo Hội có khả năng giải thích và áp dụng. Trật tự luân lý hoàn toàn khách quan này cho phép xác định cách ứng xử của mỗi người trong những tình huống cụ thể, diễn dịch từ những nguyên tắc tổng quát. Lúc đó, cách lập luận khởi đi từ luật tự nhiên mà mọi người có thể và phải biết đến, hoặc từ những dữ kiện hiển nhiên của Mặc khải, nhằm xác định các quy phạm luân lý mà không cần lưu tâm đến hoàn cảnh. Đó là việc chống lại tất cả những khuynh hướng “mới” của thần học luân lý, nghĩa là chủ yếu chống lại chủ nghĩa duy nhiên (naturalisme), chủ nghĩa cá nhân (subjectivisme) và chủ nghĩa tương đối (relativisme), thậm chí “chủ nghĩa cộng sản”, trong một nhãn quan chủ yếu diễn dịch và phi lịch sử. Cũng ở đó, nhãn quan này đã “đụng” một số nghị phụ, và bác bỏ chủ đích “mục vụ” của Công đồng mà Đức Gioan XXIII ngày càng phát biểu cách rõ ràng.
Dù khởi đi từ quan điểm pháp lý hoặc từ quan điểm luân lý, thì hai lược đồ chuẩn bị - có thể được xem như “tiền thân” của Gaudium et spes - đều nằm trong một cuộc đối đầu giữa, một bên, là tác động của một số khuynh hướng xã hội hiện đại trên các nghị phụ, và bên kia, là cám dỗ lấy lại cái cốt lõi trong giáo huấn của các vị giáo hoàng gần đây chống lại chủ nghĩa tân thời, chủ trương thế tục, chủ trương dửng dưng (indifférentisme), vv. Tất nhiên, Đức Gioan XXIII đã đọc toàn bộ các lược đồ chuẩn bị này, khi chúng lần lượt xuất hiện trước Công đồng. Và chúng ta có thể thấy toàn bộ những phát biểu của ngài trong những tháng trước ngày khai mạc Công đồng: một sự khẳng định có ý thức về một tư thế thật sự “mục vụ”; nhưng ngài lại không khi nào bài bác -cách công khai- các lược đồ chuẩn bị.
Chọn lựa của Đức Gioan XXIII và sự đáp lời của các nghị phụ
Sứ điệp truyền thanh ngày 11 tháng 09 năm 1962 đã đặt vấn đề tương quan giữa Giáo Hội với thế giới vào trọng tâm của nghị trình làm việc của Công đồng [4]; thế nhưng, chính diễn văn khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962 mới xuất hiện như cách bày tỏ rõ ràng thái độ căn bản mà Đức Gioan XXIII muốn đề nghị với Giáo Hội, được quy tụ qua Công đồng chung. Khi tiên thiên khước từ mọi lên án (cho đến lúc đó những lên án này đã thường tạo khung cho các Công đồng và tạo điều kiện cho việc giải thích), Đức Gioan XXIII muốn đặt mình trong thế giới đương thời, bằng việc cổ vũ một dạng tương tác tích cực với thế giới:
“...Lắm lúc, trong khi thi hành sứ vụ mỗi ngày, chúng tôi phải nghe những lời chói tai của một số người tuy bừng lửa nhiệt thành đối với đạo, nhưng nhận định lại không chính xác, và quan điểm lại không chừng mực. Trong hiện tình xã hội, họ chỉ thấy toàn là hoang tàn với tai họa; họ quen miệng nói rằng thời đại chúng ta đã tệ hại hơn nhiều so với các thế kỷ trước; xem cung cách của họ, thì lịch sử dẫu là thầy dạy ta về cuộc sống mà chẳng dạy họ được điều gì như thể thời các Công đồng xưa mọi sự đều hoàn hảo, từ đạo lý Kitô giáo cho đến phong hóa và sự tự do đích thực của Giáo Hội.
Chúng tôi cảm thấy cần phải nói lên rằng chúng tôi hoàn toàn không đồng ý với những vị tiên tri báo họa ấy, lúc nào họ cũng tiên báo thảm họa, như thể sắp tận thế rồi”.
“Trong dòng chảy hiện nay của các biến cố, xem ra xã hội loài người đi đến một khúc quanh; ta nên nhìn nhận những ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa quan phòng thì tốt hơn; năm tháng đắp đổi và việc đời nối tiếp, thường thường các ý định ấy vẫn đạt được mục đích dẫu không ai dám mong; mọi sự, kể cả nghịch cảnh được sắp đặt một cách cao diệu vì thiện ích cho Hội Thánh”.[5]
Ở đây, chúng ta thấy chiều kích mục vụ trong thái độ nền tảng của Đức Gioan XXIII, trong ý muốn coi trọng “xã hội”. Và dự án của Công đồng - một Công đồng tìm cách thực sự ngỏ lời với mọi con người - thành hình cách bất ngờ qua sự đáp lời của các nghị phụ Công đồng. Các ngài đã biểu quyết tán thành “Sứ điệp của Công đồng gửi đến tất cả mọi người”, ngày 20 tháng 10 năm 1962.
Quả vậy, sáng kiến này tuy đã được chuẩn bị trước Công đồng, nhưng ta thấy nội dung đã được đông đảo các nghị phụ chấp nhận, với chỉ một vài sửa đổi nhỏ; điều này biểu hiện rõ nét một sự thừa nhận đích thực và có ý thức. Nếu quả như sứ mạng loan báo đức tin Kitô giáo là yếu tố đầu tiên của Sứ điệp này thì các nghị phụ Công đồng công nhận rằng việc gắn bó với Đức Kitô “khiến tất cả chúng ta dấn toàn thân vào việc phục vụ những người anh em chúng ta”,[6] cách riêng với hòa bình giữa các dân tộc và những vấn đề công bằng xã hội. Ngay cả khi Sứ điệp này không có được tiếng vang lớn trong lãnh vực truyền thông thì việc nó được tán thành ngay từ lúc khởi đầu Công đồng cũng đã biểu lộ ý muốn của các nghị phụ Công đồng, đó là không muốn bị giam hãm trong logic của các lược đồ chuẩn bị, được phổ biến vài tháng trước ngày khai mạc. Công đồng, vừa khi khai mạc, đã tán thành lựa chọn kiên quyết của Đức Gioan XXIII, đó là ngỏ lời với mọi người, chứ không chỉ với một mình các Kitô hữu, với chỉ mình người Công giáo. Chính thế giới, thậm chí sự đa dạng chủng tộc nơi các nghị phụ Công đồng là chân trời của Công đồng Vaticanô II; có thể thấy được điều này qua các phương tiện truyền thông.
“Thế giới” nào?
Cả khi không phải là văn kiện Công đồng duy nhất trong số 16 văn kiện đón nhận ý hướng mục vụ của Đức Gioan XXIII và các nghị phụ Công đồng thì Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et spes đã nằm đúng ở nơi mà Giáo Hội liên kết với “thế giới”. Trước tiên, xin được nói rõ về tựa đề của văn kiện. Tựa đề này giúp ta hiểu được ý nghĩa của tính từ “mục vụ” vốn là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. “Hiến chế được gọi là “Mục vụ” vì nó sẽ dựa trên những nguyên tắc giáo lý để trình bày thái độ của Giáo Hội đối với thế giới và con người ngày nay”.[7] Lời giải thích trên đây -đồng nhất hóa “thế giới” với “con người ngày nay”- giúp vượt lên trên tính đôi chiều (hàm hồ) của “thế giới”, từ những nghĩa Kinh Thánh khác nhau của hai từ Hy-lạp nằm bên dưới là “cosmos” hoặc “oikuméné”, cho đến cách sử dụng thông thường từ “thế gian” trong thần học tu đức, theo nghĩa thế tục (mondanité). Như thế, chính ở bên trong thực tại này, tức “thế giới ngày nay” mà Giáo Hội muốn đặt mình, đồng thời nhìn nhận rằng tất cả các Kitô hữu đều liên đới với toàn thể nhân loại, bởi vì họ chia sẻ “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu” của tất cả mọi người (Gaudium et spes, 1). Quả vậy, lối nói “thế giới ngày nay” (mundus huius temporis) có thể xuất hiện quá nhiều, nhưng điều đó có nghĩa là các nghị phụ muốn - cách có ý thức - tự đặt mình ở giữa những diễn tiến lịch sử, đồng thời coi trọng hoạt động của nhân loại. Do đó, “thế giới” không phải là một yếu tính, một thực tại hiện hữu độc lập với mọi lịch sử, nhưng tiên vàn phải được hiểu như một không gian trong đó diễn ra sự tự do của nhân loại. Vả lại, chính ẩn dụ không gian được trình bày như một dạng thứ tự thời gian trong lịch sử với những biến động của nó (chronologie) mà các nghị phụ chọn lựa, khi các ngài nói rằng “thế giới của con người (mà Công đồng muốn nói đến) là toàn thể gia đình nhân loại với tất cả những thực tại trong đó con người đang sinh sống. Thế giới ấy chính là nơi lịch sử nhân loại đang diễn biến, một thế giới mang đầy dấu ấn của nỗ lực hành động, của cả những thất bại và thành công của con người” (Gaudium et spes, 2). Một đàng, đó là toàn thể nhân loại, vũ trụ hiểu theo nghĩa vật lý thiên văn (astronomique), vào thời điểm mà những cuộc thám hiểm bên ngoài Trái đất mở ra một tầm vóc mới. Nhưng đàng khác, đó cũng là một lịch sử, lịch sử của nhân loại, được coi là độc nhất và duy nhất dù có những chia rẽ- biểu hiện của cuộc phiêu lưu nhân loại.
Sự coi trọng “thế giới ngày nay” không phải là cách tiếp cận duy nhất về mặt xã hội, hoặc chính trị, hoặc lịch sử. Nó đồng thời cũng là một lời tuyên xưng đức tin, khi quả quyết rằng cả thế giới dẫu mang dấu ấn tội lỗi vẫn được gìn giữ trong tình yêu Thiên Chúa. Quả quyết rằng Giáo Hội trong thế giới “ngày nay” cũng có nghĩa là tuyên xưng rằng sự mới mẻ Kitô giáo luôn nằm trong cái khung lịch sử nhân loại và có mối quan hệ tương tác với các yếu tố của hoàn cảnh lịch sử con người. Ý muốn - cách minh nhiên và có ý thức - đặt mình trong chính lịch sử nhân loại và ở giữa nhân loại đồng nghĩa với việc từ chối đặt Giáo Hội vào một thế phải lựa chọn giữa hai khả năng, tức có thể “đứng trước” một xã hội loài người mang dấu ấn tội lỗi. Việc coi trọng trải nghiệm của toàn thể nhân loại không hề là việc dừng lại nơi một thái độ “lạc quan” mà đôi khi văn kiện này bị trách cứ, nhưng thực ra văn kiện đặt Giáo Hội vào ngay giữa lịch sử và “trong” thế giới, đến mức gọi thời hiện đại là một “kỷ nguyên mới của nhân loại”.[8]
Tuy nhiên, việc thông hiểu “thế giới ngày nay” trong Gaudium et spes, cũng được biểu hiện qua những người đối chất mà văn kiện xem như ở phía của mình. Quả vậy, Hiến chế Mục vụ muốn đặt sứ mạng của Giáo Hội bên trong lịch sử và không gian chung của hết mọi người này. Một bên, chủ thể đương nhiên là “Công đồng Vaticanô II”; điều này biểu hiện một sự chín mùi nào đó trong ý thức của Công đồng đang khi tiến trình tiếp nhận Công đồng diễn ra, như các trích dẫn cho thấy - trong Hiến chế Mục vụ - những bản văn đầu tiên được biểu quyết, đặc biệt Lumen gentium. Và bên kia, đối tượng mà Hiến Chế ngỏ lời ở đây là tất cả mọi người, chứ không chỉ mình người Công giáo, như trong trường hợp các văn kiện Công đồng khác; do đó, Gaudium et spes tìm cách tôn vinh kinh nghiệm nhân loại, được trình bày cách tương phản: “Ngày nay, tuy rất hãnh diện với những khám phá và năng lực của mình, nhân loại vẫn thường phải trăn trở với những câu hỏi về hướng chuyển biến hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và vai trò của con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những nỗ lực cá nhân cũng như tập thể, và sau hết, về cùng đích của con người và muôn vật” (Gaudium et spes, 3).
Nhiều yếu tố - trong bản văn được biểu quyết - cho thấy những nét đặc thù nổi bật của Gaudium et spes so với các văn kiện Công đồng khác. Và dự án mục vụ của Đức Gioan XXIII ngỏ lời với “thế giới ngày nay” - đồng thời thật sự coi trọng những gì nó biểu hiện - là một tiến bộ lớn so với truyền thống can thiệp của Giáo Hội từ cả ngàn năm nay; vào thời bấy giờ, Giáo Hội thấy mình “đứng trước” xã hội, đến độ dường như dần dần bị những biến đổi của thế giới vây hãm. Đứng trước những cám dỗ này - có mặt trong hầu hết các tài liệu chuẩn bị - ta phải nhìn nhận vai trò quan trọng của Đức Gioan XXIII. Ngài đã điều khiển Công đồng cách rất độc đáo: vừa để mặc các Ủy ban làm việc, vừa đồng hành đồng thời đưa ra chủ đích mục vụ mang tính quyết định, trong những tháng đầu kinh nghiệm của Công đồng. Tuy nhiên, đóng góp của Hiến chế Mục vụ không dừng lại ở việc minh nhiên đặt Giáo Hội trong thế giới, bởi vì thật ra đó còn là một phương pháp, cùng lúc được đề nghị và được tiến hành.
MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐỂ NHẬN ĐỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG
Sự tiến bộ này -dưới cái nhìn của thế giới hôm nay lại là điều lạ lùng đối với những người sống vào thời Công đồng Vaticanô II, ngay cả với những nhân vật chính trong Công đồng- không dừng lại nơi một danh mục gồm những nhận xét về hoàn cảnh các xã hội và các nền văn hóa. Kỳ thực, đây là một cách nhìn “sân khấu” thế giới được phơi bày và đang hoạt động, đồng thời đưa ra những tiêu chí để phân định và các phương tiện để hành động. Việc nhìn nhận Giáo Hội “trong” thế giới thật ra dẫn Gaudium et spes đến việc khai triển, trong một số lãnh vực, vùng ngoại vi của sứ mạng Giáo Hội, đồng thời phác thảo những phương tiện thích hợp mà Giáo Hội có.
Đề nghị của Kitô giáo trước tính đôi chiều của nhân loại và của thế giới
Dàn bài gồm 2 phần - “Giáo Hội và ơn gọi làm người”, và “Một số vấn đề khẩn thiết” - có thể giúp ta suy đoán rằng cái nhìn mà Gaudium et spes muốn đề nghị với thế giới đương thời sẽ được chia thành những chương đoạn khác nhau trong phần II, bàn về gia đình, văn hóa, kinh tế, đời sống xã hội, chính trị và hòa bình thế giới. Quả vậy, với mỗi chương này, ta thấy - cách tương đối chính xác - những yếu tố phân tích một số tình cảnh của con người. Tuy nhiên, phần Nhập đề nhắc lại, trong vài số căn bản, cách thức mà các nghị phụ Công đồng đã gắng hiểu tình cảnh mới của Giáo Hội “trong” lịch sử nhân loại. Việc mô tả thế giới này không phải là việc tự nó cần thiết, nhưng được trình bày sao cho tương hợp với cách diễn tả mới của lời đề nghị Kitô giáo, bằng phương thức tiếp cận quy nạp, đã từng gây tranh luận khi Công đồng diễn ra.
Khi mô tả cái mà hôm nay chúng ta gọi là hiện tượng “toàn cầu hóa”, Gaudium et spes - với ý thức về những gì quý giá sẵn có và những trao đổi quốc tế - cũng đã nhấn mạnh đến nhiều căng thẳng và khó khăn từ những tình trạng đương thời, cả khi ngày nay, chúng ta tất nhiên sẽ thêm vào đó những gì liên quan đến việc bảo vệ môi trường và các bạo lực bắt nguồn từ tôn giáo. Nhưng việc coi trọng chiều kích xã hội, thậm chí chính trị địa lý (géopolitique) của những tiềm năng phát triển và những nguy cơ của thế giới, đã không ngăn các nghị phụ tổng hợp những căng thẳng này về phương diện nhân học: “Trong thực tế, những chênh lệch đang dày vò thế giới ngày nay gắn liền với một tình trạng mất quân bình cơ bản hơn nằm tận sâu đáy lòng con người” (Gaudium et spes, 10.1). Chính vì thế mà phần trình bày trong Nhập đề được hình thành từ hai ước muốn: coi trọng “thế giới ngày nay” khi nêu lên những đặc điểm của thời hiện đại, nhưng đồng thời hiểu rõ những gì đến từ nhân loại, từ cả con người.
Sự phân cực - giữa những gì thuộc về cấu trúc của con người và những gì thuộc về hoàn cảnh lịch sử - xuất hiện trong mỗi số của phần Dẫn nhập. “Chưa bao giờ con người ý thức mãnh liệt về tự do như ngày nay, nhưng trong khi đó, lại thấy xuất hiện những hình thức nô lệ mới về mặt xã hội cũng như tâm lý” (Gaudium et spes, 4.4). Các tiến bộ khoa học và kỹ thuật (số 5), những biến đổi trong phạm vi xã hội đôi khi đột ngột, với sự biến mất của những “cộng đồng truyền thống”, tạo thuận lợi cho việc đô thị hóa nhanh chóng và những đợt di dân rộng lớn (số 6), những biến đổi trong cách biểu hiện xã hội và tâm lý (số 7), rốt cuộc đã ảnh hưởng sâu rộng trên đời sống tôn giáo, nhưng cũng trên toàn bộ những mối tương quan nhân loại (số 8) với quy mô đáng lo ngại, và khơi dậy những mong đợi mãnh liệt (số 9). Gaudium et spes mô tả ở đây khát vọng của nhưng quốc gia “đang phát triển”, theo lối nói đương thời, cũng như của những phụ nữ, những người lao động, nhân danh một quan niệm muốn có tính “phổ quát”, đặt nền tảng cùng lúc trên công lý và hòa bình: “Mọi cá nhân và tập thể đều khao khát một cuộc sống đầy đủ và tự do xứng hợp với con người, trong đó chính họ được sử dụng tất cả những gì mà thế giới ngày nay có thể cung ứng cách dồi dào. Trong lúc ấy, các quốc gia vẫn luôn gia tăng nỗ lực nhằm kiến tạo một dạng thức cộng đồng phổ quát” (Gaudium et spes, 9.3). Toàn bộ bức tranh tương phản này giúp Công đồng Vaticanô II làm nổi bật câu hỏi của nhân loại về cơ cấu hiện sinh của chính mình: “Trong hiện trạng đó, thế giới ngày nay tỏ ra vừa mạnh lại vừa yếu, có khả năng thực hiện những điều tốt đẹp nhất và cả những điều xấu xa nhất, trong khi đó, con đường trước mặt có thể dẫn tới tự do hoặc nô lệ, tiến bộ hoặc thoái hóa, huynh đệ hoặc hận thù. Ngoài ra, con người đã ý thức được chính họ phải định hướng cho đúng sức mạnh do chính mình tạo nên, những năng lực có thể đè bẹp họ hoặc phục vụ họ. Do đó, con người vẫn đang tự tra vấn chính mình” (Gaudium et spes, 9.4).
Tính đôi chiều nội tại - vốn gắn liền với tình cảnh nhân sinh của nhân loại đồng thời diễn tả theo hoàn cảnh nơi những yếu tố khác nhau của ngày hôm nay - lúc đó sẽ là lãnh vực thực tế của lời đề nghị Kitô giáo; và sự thích đáng của lời đề nghị này được khẳng định nhưng không hề khiến người ta hiểu là Giáo Hội có những cách giải quyết thiên về kỹ thuật hoặc những câu trả lời hiển nhiên buộc người ta phải chấp nhận. Số cuối cùng (số 10) của phần Dẫn nhập rất mực cốt yếu, bởi lẽ các nghị phụ Công đồng nhắc lại là lời mời gọi của Kitô giáo xuất hiện khi câu hỏi về chính con người “Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng vẫn tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? (Gaudium et spes, 10.1) được đặt ra, một lời mời gọi được trình bày dưới hình thức kerygma[9]. Bởi lẽ, sứ mạng của Giáo Hội - mà Công đồng Vaticanô II khẳng định - luôn ở dạng thức một lời đề nghị với toàn nhân loại: “Vì thế, dưới ánh sáng của Chúa Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi loài thụ tạo, Công đồng muốn ngỏ lời với mọi người để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và để cùng nhau tìm lời giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta” (Gaudium et spes, 10.2).
Ánh sáng của Đức Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Dĩ nhiên, quan niệm này về sứ mạng của Giáo Hội hoàn toàn mang tính quyết định giúp ta hiểu được phương thức lập luận của Gaudium et spes trước thế giới ngày nay. Giáo Hội muốn phục vụ nhân loại, theo gương Chúa của mình,[10] không chỉ để mang đến ánh sáng của Đức Kitô nhưng cả sức mạnh của Chúa Thánh Thần. “Vì thế, với vai trò minh chứng và trình bày đức tin của toàn thể đoàn Dân Thiên Chúa đã được Chúa Kitô quy tụ, Công đồng nhận thấy rằng, để bày tỏ tình liên đới, sự tôn trọng và lòng quý mến đối với gia đình nhân loại mà đoàn Dân Chúa là một thành phần, cách tốt nhất chính là thực hiện cuộc đối thoại với thế giới về những vấn đề đa dạng ấy, phải lấy ánh sáng Tin mừng để chiếu soi, và phải đem đến cho nhân loại những năng lực cứu rỗi mà chính Giáo Hội, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đã nhận được từ nơi Đấng Sáng Lập” (Gaudium et spes 3.1). Khi nói đến “ánh sáng” cũng như “sức mạnh”, Gaudium et spes mô tả một cách thức hiện diện kép của Giáo Hội trong thế giới ngày nay; một cách thức hiện diện không bao giờ tự hạn định trong lời nói nhưng còn bao hàm những hành động hữu hiệu trong lịch sử.
Do vậy, các nghị phụ Công đồng đề nghị một thao tác đặc thù để hiểu được cách thức mà đức tin chiếu soi các hoàn cảnh và để phân định, để biết phải tiến hành những hoạt động nào, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Để mô tả phương pháp này, ta có thể lấy lại ba động từ truyền thống của Công giáo Tiến hành, và đặc biệt của phong trào Thanh Lao Công, được Đức hồng y Cardjin thành lập năm 1925: “xem”, “xét”, “làm”. Trước khi “xét” và “làm”, tiên vàn phải “xem”, theo sư phạm quen thuộc của Công giáo Tiến Hành. Chính trong bối cảnh này mà vấn đề các “dấu chỉ của thời đại” đã được bàn luận trong tiến trình biên soạn Gaudium et spes. Rốt cuộc, các “dấu chỉ của thời đại” được hiểu theo nghĩa khá rộng, như Đức Gioan XXIII đã hiểu trong Pacem in Terris (11.4.1963), khi ngài gọi một số dữ kiện lịch sử là những lối biểu đạt các giá trị Tin mừng (việc phụ nữ tham gia đời sống công cộng, việc giải phóng các quốc gia cho đến lúc đó còn là thuộc địa, v.v...). “Để chu toàn phận vụ ấy, Giáo Hội phải luôn tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng; như vậy, Giáo Hội mới có thể đưa ra câu giải đáp thích hợp với từng thế hệ cho những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai sau, cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy” (Gaudium et spes 4.1).
Và, trước những vấn nạn của con người, phát xuất vừa từ hoàn cảnh vừa từ cơ cấu cố định (à la fois conjoncturelles et structurelles), thì chỉ có đức tin, theo đúng nghĩa, mới có thể phân định được đâu là câu trả lời đúng:
“Dân Thiên Chúa, nhờ đức tin, luôn xác tín rằng mình được hướng dẫn bởi Thần Khí của Chúa Kitô đang bao phủ cả địa cầu, cố gắng phân định đâu là những dấu chỉ xác thực về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong các biến cố, các nhu cầu và ước vọng mà họ đang dự phần cùng với những người đương thời. Thật vậy, đức tin lấy ánh sáng mới để chiếu soi mọi sự và biểu lộ ý định của Thiên Chúa về ơn gọi toàn vẹn của con người, và do đó hướng dẫn lý trí tìm tới những quyết định mang tính nhân bản tràn đầy”.[11]
Khi tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn dắt Giáo Hội, và cũng là Đấng hiện diện cách tràn đầy trong Giáo Hội, Công đồng Vaticanô II nhìn nhận rằng chính đức tin là yếu tố quyết định để phân định, qua việc nhận dạng những gì thuộc về thánh ý Chúa, và những gì do bởi tội lỗi con người. Ở đây, cách tất nhiên, các nghị phụ Công đồng khẳng định trách nhiệm của Giáo Hội trong việc phân định này, tuy nhiên, các ngài cũng chỉ rõ sự tự do của con người, khi họ viện đến lương tâm, được hiểu như lề luật mà Thiên Chúa khắc ghi nơi tâm khảm con người (x. Gaudium et spes số 16, số 43,2, số 50,2).
Tuy nhiên, Gaudium et spes không chỉ hài lòng với việc giới thiệu một phương pháp, nhằm giúp Giáo Hội và các Kitô hữu đặt mình đúng chỗ trong thế giới ngày nay. Bởi lẽ, chính Hiến chế Mục vụ tiến hành việc xác định vị trí của mình tùy theo những yếu tố của thế giới, do việc Giáo Hội khẳng định sứ mạng của mình, đồng thời coi trọng những thực tại trần thế, đến mức tôn trọng sự độc lập của chúng. Và, trong số những đề tài được bàn đến, cũng như trong phần thứ nhất và phần thứ hai,[12] chính tương quan với “các thực tại trần thế” và giữa chúng với nhau, với “đời sống của cộng đồng chính trị” đã giúp ta hiểu được là Gaudium et spes tiến hành phương pháp này đến mức nào, nghĩa là thật sự đặt Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội vào bên trong thế giới, một thế giới được nhìn nhận, được nhận diện và được phân tích.
“Sự độc lập đúng mức của các thực tại trần thế”
Vấn đề “độc lập đúng mức” có mặt trong toàn bộ Gaudium et spes, đặc biệt khi các vấn đề văn hóa, việc làm, chính trị, trật tự quốc tế được đặt ra. Nói độc lập “đúng mức” khiến ta nghĩ đến cách hiểu lệch lạc về việc xác định vị trí của một số thực tại nhân loại, bị cắt đứt cách giả tạo khỏi đức tin Kitô giáo[13]. Trái lại, ta vẫn có thể khẳng định một sự “độc lập đúng mức của các thực tại trần thế”, với tính cách là chúng đều phát xuất từ một nguồn gốc, Thiên Chúa của mọi sự:
“Thật vậy, do chính cách thức tạo dựng, mọi vật đều được tác thành với các phẩm tính bền vững, chân thật và thiện hảo cũng như có những định luật và trật tự riêng. Con người phải tôn trọng tất cả những điều ấy, qua việc nhìn nhận các phương pháp riêng biệt của từng ngành khoa học và kỹ thuật. Bởi vậy, việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành, nếu tiến hành một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý, sẽ không bao giờ trái nghịch với đức tin, vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều bởi một Thiên Chúa mà ra”.[14]
Nhưng các nghị phụ Công đồng đặt sự độc lập này vào bên trong lịch sử nhân loại, đồng thời coi trọng sự tự do cũng như năng lực sáng tạo của họ, đến mức nhìn nhận là một số tiến bộ hiện nay là một thứ “chuẩn bị” cho Tin mừng.[15] Xác tín này, vốn giúp các nghị phụ xa lánh cái ảo tưởng đặt mọi thực tại chóng qua phụ thuộc vào những quy phạm xuất phát từ đức tin Kitô giáo, nhờ sự xác tín về ý định duy nhất của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ.[16]
Và quả vậy, chính Gaudium et spes đã dựa vào Công đồng Vaticanô I để có thể khẳng định sự độc lập của những yếu tố được Thiên Chúa tạo thành:
“Nhắc lại những điều Công đồng Vaticanô thứ nhất đã dạy, thánh Công đồng tuyên bố: “Có hai lãnh vực tri thức” khác biệt nhau, đó là đức tin và lý trí; Giáo Hội không phản đối “các ngành nghề và các bộ môn nhân văn sử dụng những nguyên lý và phương pháp riêng trong phạm vi của mình”; vì thế, Giáo Hội “nhìn nhận sự tự do chính đáng này”, và xác nhận sự tự lập hợp pháp của văn hóa, nhất là của các khoa học”.[17]
Như thế, có cùng lúc sự phân biệt các phương diện và sự đồng nhất trong tầm nhìn: đó là những điều kiện tất yếu để nói đến sự “hợp tác”[18] thật sự giữa Giáo Hội và thế giới, bởi vì ở đó có thể có một sự đồng quy thực thụ trong các thực hành và một sự phân biệt trong các động cơ.
Và nếu Hiến chế Mục vụ bàn về sự “cộng tác”[19] vô vị lợi của Giáo Hội bằng cách nhấn mạnh đến công lý và hòa bình, thì chắc hẳn hành vi thích đáng của các Kitô hữu rất đáng được mong đợi, cả trên bình diện chính trị, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh và ý thức về các hiểm họa hạt nhân. Quả vậy, phương pháp đặc thù của Gaudium et spes - được trình bày trong những phân tích dài về “thế giới ngày nay” và việc tiến hành phương pháp này trong cách giải thích sứ mạng của Giáo Hội và của các Kitô hữu - đã bỏ qua những phương diện rất quan trọng về cuộc sống của “thế giới” - như vấn đề chủ nghĩa cộng sản, vấn đề vũ khí hạt nhân, vấn đề điều hòa sinh sản- và ngày nay, phải thêm vào đó cả những vấn đề sinh thái học và những nguy cơ về bạo động bắt nguồn từ tôn giáo. Tuy nhiên, phương pháp này đặt sứ mạng của Kitô giáo ở bên trong xã hội đương thời, đồng thời liên kết việc hợp tác với mọi người và việc làm chứng cho Đức Kitô.
Thế mà, giữa các yếu tố được Gaudium et spes thảo ra, chắc hẳn việc liên kết với chính trị giúp các nghị phụ cho thấy tầm quan trọng của các hệ quả về mặt Giáo Hội học đối với sự độc lập đúng mức của các thực tại trần thế. Quả vậy, các đề tài khác được Gaudium et spes bàn đến đã giúp chúng ta xác định cách thế khai triển sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới này, khi trình bày mối liên kết giữa mặc khải của Thiên Chúa với xã hội con người, nơi mà mặc khải muốn tháp nhập. Nhưng lãnh vực chính trị cho phép coi trọng sự bền vững của Kitô giáo về mặt xã hội và lịch sử, đồng thời coi trọng một trong những kết quả to lớn của sự kiện thế tục hóa.
III. GIÁO HỘI TRONG MỘT THẾ GIỚI TỤC HÓA
Đây không chỉ là cách thế mà Công đồng đã diễn tiến, cũng không đơn thuần là việc các văn kiện được biểu quyết và ban hành, nhưng là kinh nghiệm - được chính các nghị phụ Công đồng sống - mà ta có thể hiểu được trên bình diện chính trị. Quả vậy, các hoàn cảnh triệu tập và hội họp của Công đồng Vaticanô II đã biểu hiện tính đặc thù của Công đồng này, một Công đồng không chịu những can thiệp quan trọng của các quyền lực chính trị, không giống với các Công đồng khác. Nhưng những khẳng định của Gaudium et spes và, hơn thế nữa, Tuyên ngôn về tự do tôn giáo Dignitatis humanae đã cho thấy việc nhìn nhận sự độc lập của chính trị đến mức nào, cả trong việc hiểu bản chất và sứ mạng của Giáo Hội.
Tương quan với các nhà nước
Quả vậy, ngay cả khi mọi thực tại chung cục được đặt dưới quyền tối thượng duy nhất của Thiên Chúa thì Gaudium et spes vẫn quả quyết rằng lãnh vực chính trị cần phải được phân biệt cách rõ ràng với Giáo Hội, đến mức từ chối tỏ ý kiến về bản chất của các chế độ chính trị: “Vì chế độ chính trị và công quyền đặt nền tảng trên bản tính con người, nên cũng nằm trong trật tự Chúa đã an bài, nhưng việc định đoạt một thể chế chính trị hay lựa chọn người cầm quyền vẫn là quyền tự do của mọi công dân” (Gaudium et spes, 74.3). Quả vậy, yêu sách về công ích ấn định các giới hạn của quyền lực chính trị, trong khi đời sống chính trị có mục tiêu là công lý và hòa bình; điều này hợp pháp hóa việc cáo giác mọi lạm dụng của các công dân, dù họ có là Kitô hữu hay không.
Nhưng tầm nhìn chung này lại đi kèm với một sự khác biệt về thẩm quyền. Điều này đã được Công đồng Vaticanô II xác nhận cách rõ ràng, vì “cộng đồng chính trị và Giáo Hội đều độc lập và tự lập” (Gaudium et spes, 76.3). Trái với một số tình trạng thực tiễn vẫn hiện hành lúc Công đồng Vaticanô II diễn ra, thì một sự độc lập chính trị như thế cấm chỉ Giáo Hội tìm chỗ dựa nơi quyền lực dân sự để tiến hành sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó. Cũng thế, khi đứng trước những nguy cơ đến từ các chế độ nhà nước cực quyền (totalitarismes), Giáo Hội và các tôn giáo khác phải được hưởng một sự tự do đích thực đối với các nhà nước, trong những giới hạn của trật tự chung; điều mà Công đồng Vaticanô II khẳng định trong Tuyên ngôn Dignitatis humanae, được biểu quyết và ban hành cuối Công đồng.
Tuy nhiên, cả trước khi tiến trình biên soạn Dignitatis humanae kết thúc, chính diễn tiến của Công đồng Vaticanô II đã minh họa sự phân biệt giữa lãnh vực chính trị, theo nghĩa chính xác của nó, với lãnh vực Giáo Hội. Quả vậy, sau khi Công đồng khai mạc, dù tất cả các quốc gia cộng sản đều vắng mặt, người ta cũng thấy sự hiện diện của 86 đoàn đại biểu chính thức, trong đó có một số nước Hồi giáo, cộng thêm nhiều quốc gia Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á, như Trung Quốc và Ấn Độ. Sự có mặt đông đủ những vị đại biểu cấp cao của các quốc gia được nhắc đến trong chính nội dung của diễn văn khai mạc. Trong bài diễn văn, Đức Gioan XXIII lấy làm tiếc về sự vắng mặt của các giám mục bị truy hại trong một số quốc gia, nhưng ngài lại chào đón sự tự do mới của Giáo Hội: “Tuy vậy, chúng tôi vẫn hy vọng và rất được an ủi nhận thấy rằng: ngày nay Giáo Hội được giải thoát khỏi mọi trở ngại trần thế xưa kia, từ Thánh Cung Vaticanô này như từ một Nhà Tiệc Ly thứ hai, Giáo Hội - nhờ anh em - có thể cất lên tiếng nói trầm hùng của mình”.[20] Nơi mà các Công đồng trước đã phải chịu sự can thiệp bất ưng của các quyền lực chính trị, đến tận Công đồng Vaticanô I (buộc phải ngưng do cuộc chiến tranh 1870), thì sáng kiến, diễn tiến, kết thúc, cũng như những đặc điểm chính yếu của việc tiếp nhận Công đồng Vaticanô II, đều chỉ do tay một mình Giáo Hội, như ghi nhận của một sử gia: “Nhưng việc cử hành Công đồng chính xác là sự biểu lộ tự do của Giáo Hội đối với các quyền lực dân sự: ý muốn của Công đồng không phụ thuộc vào bất cứ một lợi ích chính trị hoặc quyền lực nào. Tám mươi sáu phái đoàn đặc biệt được gửi tới dự lễ khai mạc đã tham dự - cách kính cẩn và yên lặng - biến cố Công đồng. Các “hoàng đế” - và đây là một điều mới mẻ - đều ở bên ngoài không gian can hệ tới quyết định của Công đồng”.[21] Và sự tự do - do thể chế Công đồng (liberté institutionnelle) - đi kèm với một ý muốn hòa nhập sứ mạng của Giáo Hội vào trong không gian quốc tế (espace international), như diễn văn của Đức Gioan XXIII đọc trước các đoàn đại biểu, hôm sau ngày khai mạc Công đồng Vaticanô II cho thấy. Diễn văn này nhắc đến sự cam kết của Công đồng tạo thuận lợi cho hòa bình trên thế giới.
Một cách tương tự, trong buổi họp cuối cùng của Công đồng Vaticanô II, chuyến viếng thăm của Đức Phaolô VI tại Liên Hiệp Quốc, ngày 4.10.1965, và việc ngài quay trở lại nhà hội của Công đồng, trong tiếng hoan hô của các nghị phụ, đã cho thấy sự liên kết giữa việc nhìn nhận một thể chế nhân loại, được tôn vinh vì góp phần vào việc xây dựng hòa bình, với việc khẳng định sự tự do của Giáo Hội, bởi vì Đức giáo hoàng tự giới thiệu như vị đại diện của “quyền tối thượng thế tục bé nhỏ và hầu như mang tính biểu tượng: sự cần thiết tối thiểu để được tự do thi hành sứ mạng siêu nhiên và trấn an những ai có việc liên hệ với ngài rằng ngài độc lập với mọi quyền lực cao nhất của thế gian này”[22]. Có một sự đồng thuận thật sự giữa việc các nghị phụ Công đồng đón nhận bài diễn văn đặc biệt này, vì các ngài - cách bộc phát - quyết định lồng nó vào trong các văn kiện Công đồng, với việc nhìn nhận sự “độc lập đúng mức của chính trị”.
Khẳng định sự tự do tôn giáo
Nhưng hẳn là trong Dignitatis humanae mà chúng ta thấy được sự minh họa gây ấn tượng mạnh nhất về tầm vóc của việc nhìn nhận sự độc lập về chính trị, cùng lúc với sự khẳng định về sứ mạng của Giáo Hội. Quả vậy, một trong những yếu tố mang tính quyết định là dàn bài của chính Tuyên ngôn, đạt được khi bản văn được soạn thảo lần thứ ba (17.11.1964) nhưng bị đặt vấn đề nhiều lần, và báo cáo viên đã phải gắt gao bảo vệ.
Thay vì khởi đi từ những “quyền của chân lý” (droits de la vérité), hoặc thậm chí từ quan niệm của Kitô giáo về phẩm giá con người, Dignitais humanae trước nhất đã dựa trên những luận cứ hoàn toàn pháp lý. Chỉ trong phần thứ hai, Tuyên ngôn mới đề cập đến “sự tự do tôn giáo dưới ánh sáng mặc khải”. Chính vì thế mà sự tự do tôn giáo tiên vàn được định nghĩa như là quyền miễn trừ về mặt tôn giáo đối với nhà nước, tức nhà nước chỉ được hạn chế sự tự do này vì những lý do chính đáng và cấp thiết: “Thánh Công đồng tuyên bố con người có quyền tự do tôn giáo. Sự tự do này được hiểu là tình trạng con người không bị xâm phạm bởi một áp chế nào từ cá nhân, đoàn thể xã hội hay bất cứ quyền bính nhân loại nào khác, để trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù hành động đó là riêng tư hay công khai, làm một mình hay cùng với người khác, được thực hiện trong những giới hạn chính đáng” (Dignitatis humanae,Tuyên ngôn Về Tự Do Tôn Giáo, 2.1). Các giám mục trong những nước theo quy chế thỏa ước (pays concordataires), các giám mục bận tâm đến việc đặt nền tảng trước nhất trên Kinh Thánh hoặc các thành phần “thiểu số của Công đồng” (nhân danh một sự đoạn giao rõ rệt với giáo huấn của các giáo hoàng thuộc những thế kỷ XIX và XX) đã đón nhận phương thức tiếp cận có tính pháp lý này cách khó khăn. Kết quả này đạt được là nhờ kinh nghiệm của Châu Mỹ, và nhờ vai trò của John Courtney Murray, thần học gia dòng Tên, trước và trong khi diễn ra Công đồng Vaticanô II.
Chính vì thế mà sự liên kết giữa hai dàn bài này -những gì mà sự tiến bộ liên quan đến quyền tự do dân sự trong các quốc gia dân chủ cho thấy, và những gì mà người ta có thể rút ra được từ mặc khải Kitô giáo- được hiểu như một sự đồng quy, được nói rõ ra trong phần chuyển tiếp từ phần I sang phần II.[23] Một đàng, các nghị phụ Công đồng mô tả sự tiến bộ về các quyền tự do xã hội trong nhiều quốc gia[24] như một trong những “dấu chỉ tốt đẹp của thời đại hôm nay”, đồng thời tố giác những tình trạng áp bức. Đàng khác, các ngài hiểu sự tự do cốt yếu của con người, trong phần II, dựa trên cung cách hành động của Đức Giêsu Kitô, được mô tả ở một trong những đoạn tường thuật hiếm hoi của Công đồng Vaticanô II (số 11), đồng thời nhìn nhận những “thăng trầm” của Giáo Hội trong dòng lịch sử (số 12). Nguyên tắc đồng quy (principe de convergence) này được nhìn nhận cách minh nhiên trong phần Dẫn nhập, với ám chỉ Mt 13,52: “Việc đòi hỏi quyền tự do này trong xã hội nhân loại chủ yếu nhắm đến những đặc quyền của tinh thần con người, và trước tiên là quyền tự do hành đạo trong xã hội. Vì ân cần quan tâm và muốn tuyên nhận những khát vọng tinh thần ấy thật sự phù hợp với chân lý và công bình, nên Công đồng Vaticanô này tìm hiểu kỹ càng thánh truyền và giáo thuyết của Giáo Hội, để từ đó đưa ra những điều mới nhưng vẫn luôn hòa hợp với những điều đã từng được công bố” (Dignitatis humanae, số 1.1).
“Sự hỗ trợ mà Giáo Hội đón nhận từ thế giới ngày nay”
Như thế, Công đồng Vaticanô II nhìn nhận rằng không chỉ nhờ sự hướng dẫn của một mình Kinh Thánh mà Giáo Hội Công giáo mới tuyên bố cách long trọng quyền tự do tôn giáo của mọi con người, là quyền được xây dựng trên chính phẩm giá của nhân vị. Một lời khẳng định như thế (tương hợp với sự tự do căn bản của người tín hữu, nhưng ở vị trí thứ nhì) trước nhất xuất phát từ những tiến bộ của nhân loại về mặt pháp lý và lịch sử, bên trong một thực thể có sự độc lập chính đáng đối với Giáo Hội, ngay cả khi Giáo Hội thấy rõ ở đó những gì mình tin và những gì mình được hưởng. Về việc này, Dignitatis humanae không chỉ là một trong những văn kiện nói cách rõ ràng nhất đến việc phân định các “dấu chỉ của thời đại”, nhưng ta còn thấy ở đó một trong những ví dụ về sự tương tác giữa Giáo Hội với những gì ở ngoài Giáo Hội, đến mức Giáo Hội nhìn nhận điều mình đón nhận được từ “thế giới”. Dĩ nhiên, ta có thể minh họa “sự hỗ trợ mà Giáo Hội nhận từ thế giới” (Gaudium et spes, 44) khi cho thấy là người ta sẽ chẳng thể hiểu được công trình biên soạn Nostra aetate nếu như không lưu ý tới lịch sử của người Do Thái ở Châu Âu vào thế kỷ XX; điều này đem lại những hệ quả thuận lợi cho tương quan giữa Giáo Hội với các tôn giáo, chứ không chỉ với dân tộc Israel.
Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay không chỉ nói đến những gì Giáo Hội có thể mang đến cho thế giới, nhưng đề cập cả tác động ngược lại. Một đàng, sự hỗ trợ mà Giáo Hội nhận từ thế giới nằm ở bình diện Giáo Hội học theo nghĩa hẹp, vì sự sung mãn trọn vẹn của Giáo Hội có thể được “phong phú thêm” nhờ chính các yếu tố của đời sống xã hội[25] đến mức văn kiện nhìn nhận rằng ngay cả những đối thủ của Giáo Hội cũng có thể góp phần vào đó. Đàng khác, chính trên bình diện tín lý, ta cũng thấy được phần đóng góp của thế giới, chủ yếu nhờ sự tương tác nơi các nền văn hóa trong sự đa dạng của chúng. Đó không chỉ là một nỗ lực sư phạm, tìm cách thích ứng với những môi trường rất mực khác biệt so với thế giới Hy-La, hoặc so với vùng Trung Đông cổ thời, là những nơi mà đức tin Kitô giáo đã được nảy nở lúc ban đầu. Mà nó còn là một phương thức hành động, nhờ đó mà sự mới mẻ Kitô giáo có thể được diễn tả không ngừng: “Thật vậy, chính Giáo Hội, ngay từ lúc khởi đầu lịch sử của mình, đã ra sức diễn tả sứ điệp của Chúa Kitô bằng những ý niệm và ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn ngoan của các triết gia để làm sáng tỏ sứ điệp ấy” (Gaudium et spes 44.2). “Sự trao đổi linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hóa”, và các nghị phụ Công đồng xác nhận rằng “cách thích nghi việc rao giảng lời mặc khải như vậy vẫn luôn là nguyên tắc cho mọi công trình Phúc-Âm- hóa” (Gaudium et spes 44.2).
Công thức sau cùng này của Hiến chế Mục vụ triển khai quan niệm về sứ mạng của Giáo Hội bên trong “thế giới ngày nay” như luôn thuộc về sự tương tác, dựa trên một cách hiểu nào đó về kế hoạch của Thiên Chúa. Ngay cả khi không có mối liên hệ minh nhiên giữa Gaudium et spes và Dei Verbum, thì cách mà Công đồng Vaticanô II sử dụng phương pháp quy nạp - tức phương pháp nối kết với nhau sự quan sát, sự phân định và sau cùng hành động - rốt cuộc đã khiến các nghị phụ quay về lại với việc giải thích các cách thức mặc khải của Thiên Chúa, và tất nhiên các cách thức loan báo Tin mừng.
Như thế, hệ quả của sự thế tục hóa trên Giáo Hội không chỉ giới hạn trong việc biến đổi các tương quan giữa Giáo Hội với các nhà nước, nhưng còn là thay đổi chính cách hiểu về sứ mạng của người Kitô hữu, thậm chí quay về lại với việc soạn thảo thần học, phát xuất từ việc coi trọng các dữ kiện văn hóa, như Đức giáo hoàng Phanxicô đã mời gọi thực hiện điều đó cách mới mẻ, trong Tông huấn của ngài, đặc biệt khi ngài lấy lại và mở rộng tiên đề truyền thống về tự nhiên và ân sủng:
“Dân Thiên Chúa được nhập thể giữa các dân tộc trên thế giới, mỗi dân tộc với nền văn hoá riêng của mình. Khái niệm văn hoá có giá trị cho việc nắm bắt được những biểu hiện khác nhau của đời sống Kitô giáo hiện nay trong dân Thiên Chúa. Nó liên quan tới phong cách sống của một xã hội nhất định, cách thức cụ thể mà các thành viên của xã hội này quan hệ với nhau, với các thụ tạo khác và với Thiên Chúa. Hiểu theo cách này, văn hoá bao hàm toàn bộ đời sống của một dân tộc (chú thích 84: Puebla, 1979, số 386-387). Mỗi dân tộc trong dòng lịch sử của mình đều phát triển văn hoá của mình với sự tự lập hợp pháp (chú thích 85: Gaudium et spes, 36). Sở dĩ như thế là vì con người, “tự bản chất hoàn toàn cần đến đời sống trong xã hội” và luôn luôn tồn tại trong tương quan với xã hội (chú thích 87: Gaudium et spes, 53), và tìm được ở xã hội một cách thức cụ thể để liên hệ với thực tại. Con người luôn luôn được đặt trong một nền văn hoá: “tự nhiên và văn hoá liên hệ mật thiết với nhau”. Ân sủng đòi hỏi văn hoá, và ân huệ của Thiên Chúa được nhập thể trong nền văn hoá của những ai đón nhận ân huệ ấy”.[26]
Lấy lại hai cực văn hóa của nhân loại, tức các trước tác thông thái và những thực hành bình dân, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực sự tôn vinh những cố gắng của các thần học gia trong nỗ lực đối thoại của họ,[27] nhưng ngài cũng mời gọi phải trân trọng sự “đạo đức bình dân”, tức những lối diễn tả thông dụng nhất của niềm tin Kitô giáo, bên trong sự đa dạng của các nền văn hóa dân gian[28].
Công cuộc Phúc-Âm-hóa mà Evangelii Gaudium đề cập đến không tự giới hạn trong một tiến trình sư phạm rộng lớn, tìm cách giới thiệu, với một cách thế mới, một tổng thể những nội dung không hề thay đổi. Nếu việc coi trọng văn hóa và các nền văn hóa phải dẫn đến một cuộc “đối thoại” đích thực thì chính toàn bộ những nội dung và những nguồn lực Phúc-Âm-hóa phải mang dấu ấn này. Và việc coi trọng “các nền văn hóa”, được nói đến cùng với di sản uyên bác cũng như những lối mộ đạo bình dân, tất phải dẫn đến việc xác định cách hoàn chỉnh sứ mạng của Giáo Hội, tới mức khiến ta quay về lại với việc giải thích Kinh Thánh, và sự “tản quyền”[29] mà Đức giáo hoàng Phanxicô đã hình dung. Với toàn thể Giáo Hội, chúng ta được mời gọi bước vào “một tiến trình kiên quyết phân định, thanh tẩy và cải tổ”.[30]
KẾT LUẬN
Với Evangelii Gaudium, Giáo Hội được Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi hiểu - cách mới mẻ - sứ mạng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, bằng cách đặt mình trong thế giới ngày nay, đồng thời chú ý sự kiện “thế tục hóa” đến mức thấy mình phải canh tân những cơ cấu và các mối tương quan với những nền văn hóa trên thế giới. Thế nhưng, lời mời gọi của Đức Thánh Cha lại dựa rất nhiều vào Gaudium et spes, và vào công cuộc đối thoại mà Hiến chế Mục vụ đã tiến hành với “thế giới ngày nay”.
Quả vậy, về vấn đề thế tục hóa, Gaudium et spes không chỉ nhằm đến việc thích ứng, để tìm ra những phương cách giáo dục trước một tình trạng mới (mà xét về mặt cơ cấu, không phải là không có liên quan tới đức tin Kitô giáo), nhưng còn đặt lại vấn đề về nền tảng của chính Giáo Hội, cũng như công cuộc Phúc-Âm-hóa, nghĩa là việc đưa đức tin vào trong một bối cảnh nhất định. Khi “thế giới ngày nay” đang sống trong tình trạng bị thế tục hóa, cả khi sự thế tục hóa này không phải là không có lắm tính đôi chiều, thì Giáo Hội được mời gọi nhận ra rằng chính thánh ý Thiên Chúa được thể hiện qua đó. Trong trường hợp này, các Giáo Hội buộc phải phân định là Thần Khí cũng có thể tự tỏ mình ra như thế, phải thanh tẩy các quan niệm về Phúc-Âm-hóa và phải tự canh tân để có thể trung thành hơn với sứ mạng đã lãnh nhận.
Tuy nhiên, việc tiếp nhận Gaudium et spes, như Evangelii Gaudium đề nghị trong thực tế, không chỉ cốt ở việc đọc bản văn của Hiến chế Mục vụ, cũng chẳng phải là coi trọng các văn kiện khác của Công đồng Vaticanô II. Đó không chỉ là việc lưu ý đến những tiến trình biên soạn, những điều kiện tranh luận, bối cảnh thế giới lúc Công đồng diễn ra và việc tiếp nhận Công đồng trong những năm đầu tiên. Nhưng chính bản chất của những diễn tiến Công đồng mới mang tính quyết định, nghĩa là phải làm sao cảm nhận cho được kinh nghiệm mà các nghị phụ Công đồng đã sống. Điều mà Gaudium et spes giải trình chính là cái kinh nghiệm mới mẻ gần gũi với Thiên Chúa giữa lòng lịch sử nhân loại; và hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn ở gần chúng ta, giữa lòng lịch sử nhân loại mà chúng ta dự phần, và như thế cho chúng ta có cơ hội làm chứng cho một Tin mừng có khả năng hội nhập và tạo ra biến đổi.
__________
[1] Cả khi chúng ta biết thói quen của Tòa Thánh gọi tên các văn kiện Giáo Hội bằng hai chữ đầu tiên không luôn luôn giải thích nội dung, thì vẫn có một sự gần gũi đáng ngạc nhiên giữa tựa đề của “Hiến chế Mục vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay” (Gaudium et spes) với Tông huấn đầu tiên này (Evangelii Gaudium). Không chỉ hai chữ đầu của tựa đề, mà chúng ta còn thấy chữ “thế giới ngày nay” được lặp lại rất rõ ràng, Gaudium et spes là “Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay”; Evangelii Gaudium là “Tông huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các giám mục, linh mục và phó tế, các người được thánh hiến và giáo dân về việc rao giảng Tin mừng trong thế giới ngày nay”.
[2] Ở số 68 của Tông huấn, khi nói đến những thách đố văn hóa, Đức giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến tính thích đáng của văn hóa Kitô giáo trước “những tấn công” của chủ trương thế tục. Cũng thế, ngài viết về các vấn đề luân lý như sau: “Tiến trình thế tục hóa có khuynh hướng giản lược đức tin và Hội Thánh vào lãnh vực cá nhân và riêng tư. Hơn nữa, qua việc phủ nhận thế giới siêu việt, nó làm cho đạo đức ngày càng xuống cấp, ý thức của cá nhân và tập thể về tội lỗi suy yếu dần, và chủ nghĩa tương đối ngày càng gia tăng. Tình trạng này dẫn đến một sự mất phương hướng chung, đặc biệt ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên vốn là tuổi rất dễ bị tổn thương do sự thay đổi” (Evangelii Gaudium, 64).
[3] “Bản văn của Ủy ban đi theo thái độ và chiến lược được lập trường quyết liệt của Giáo Hội Công giáo xác định, chống lại chủ nghĩa tân thời, kể từ cuộc Cách mạng Pháp. Bản văn của Ban Thư ký làm ta nhớ lại nhiều nỗ lực từ những năm 30, nhằm tìm những lối đi khác giúp Giáo Hội đảm nhận nhiệm vụ cứu độ của mình trong một thế giới đã bị biến đổi cách không thể cứu vãn”, KOMONCHAK Joseph, “Le combat pour le concile durant la préparation” in ALBEGIRO Giuseppe (dir.), Histoire du Concile Vatican II (1959- 1965). T.1. Le catholicisme vers une nouvelle époque. L'annonce et la préparation, Paris, Cerf, 1997, p. 336.
[4] Chính trong sứ điệp này mà Đức Gioan XXIII đã nói rõ sự khác biệt của “ad intra /ad extra”. Điều này sẽ được hai Đức hồng y Suenens và Montini lấy lại khi tái tổ chức công việc của Công đồng cuối kỳ họp thứ nhất. “Giáo Hội muốn được người ta kiếm tìm, như Giáo Hội phải là, trong bản tính thâm sâu của mình - và như thế, ta nói đến sức sống ad intra - tức giới thiệu trước tiên cho con cái của mình những kho tàng đức tin chói sáng và ơn thánh hóa, là những gì bắt nguồn từ những lời nói sau cùng của Chúa. Những lời này diễn tả bổn phận hàng đầu của Giáo Hội, những tư cách phục vụ và vinh dự: làm tăng sức sống, dạy dỗ, cầu nguyện. Chúng ta cũng hãy nhìn Giáo Hội về phương diện ad extra: những biến động lịch sử đã quay hướng Giáo Hội, khi đứng trước những yêu sách và những nhu cầu của chư dân, để Giáo Hội biết kính trọng và sự vui hưởng những thiện ích của địa cầu hơn”, JEAN XXIII, “Message au monde entier (11 Septembre 1963)”, JEAN XXIII/ PAUL VI, Discours au concile, Paris, Le Centurion, 1966, p. 43-44.
[5] Gioan XXIII, “Gaudet Mater Ecclesia”, Diễn văn khai mạc Công đồng Vaticanô II, trong JEAN XXIII/PAUL VI, Discours au concile, op. cit., p. 59-60.
[6] “Sứ điệp của Công đồng gửi đến tất cả mọi người” (20.10.1962) trong JEAN XXIII/PAUL VI, Discours au concile, op. cit., p. 348. Quả là rõ ràng khi câu trích dẫn Kinh Thánh đầu tiên lại liên quan đến Đức Kitô, Đấng đến “không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ” (Mt 20,28).
[7] Là một chú thích về tựa đề Gaudium et spes.
[8] Khi suy tư về chính cử chỉ mình đã thực hiện, các nghị phụ Công đồng quả quyết: “Điều kiện sinh sống của con người hiện đại về phương diện xã hội và văn hóa đã biến đổi sâu đậm, đến độ người ta có thể nói đến một kỷ nguyên mới của lịch sử nhân loại” (Gaudium et spes, 54), đồng thời đề nghị tham chiếu Phần Nhập đề của Hiến chế (Gaudium et spes, 4-10). Nhưng chính Gaudium et spes, 5.3 mới nói rõ tầm vóc của những biến chuyển này: “Ngay cả lịch sử cũng đang tiến bước quá nhanh đến nỗi từng cá nhân riêng rẽ khó lòng theo kịp. Cả cộng đồng nhân loại có cùng một vận mệnh chung, không còn phân tán nơi nhiều dòng lịch sử khác nhau nữa. Như vậy, từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ, nhân loại đã bước sang một quan niệm động và tiến hóa hơn, do đó phát sinh cách đặt vấn đề mới vô cùng phức tạp đòi phải có những phân tích và tổng hợp mới”.
[9] “Về phần mình, Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại vì mọi người, nhờ Thánh Thần của Người đã trao ban ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp trả ơn gọi cao cả của mình” (Gaudium et spes, 10.2).
[10] Trích dẫn Kinh Thánh đầu tiên của Gaudium et spes, lấy lại trích dẫn của Sứ điệp gửi đến tất cả mọi người (20.10.1962) nhắc lại yêu sách phục vụ này: “Không do một tham vọng trần thế nào thúc đẩy, Giáo Hội chỉ nhắm một mục tiêu duy nhất, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, là tiếp tục công trình của chính Chúa Kitô, Đấng đã đến thế gian để làm chứng cho chân lý, để cứu rỗi chứ không để luận phạt, để phục vụ chứ không để được phục vụ” [tham chiếu Mt 20,28] (Gaudium et spes, 3.2).
[11] Gaudium et spes, 11.1.
[12] Chú thích đầu tiên (số 1) về phương pháp luận - mà chúng tôi đã
nhắc đến - cho ta một lời giải thích rõ ràng rất quan trọng về chiều kích mục vụ, khi chỉ ra rằng “phần I vẫn có chủ đích mục vụ, còn phần II chứa đựng nhiều điểm giáo lý”.
[13] Hiến chế Mục vụ rất rõ ràng về việc đó, ở cuối số bàn về vấn đề này: “Nhưng, nếu ‘sự tự lập của các thực tại trần thế' được hiểu là các thụ tạo không lệ thuộc vào Thiên Chúa và con người có thể sử dụng chúng mà không cần quy hướng về Đấng Tạo Hóa, thì bất cứ ai đã nhận biết Thiên Chúa cũng đều thấy rằng lập trường đó hết sức sai lầm” (Gaudium et spes, 36).
[14] Gaudium et spes, 36.2
[15] Ngay cả khi tiến bộ có thể mang đến những hậu quả tai hại, các nghị phụ vẫn mô tả cách tích cực nhiều tiến bộ đương thời: “sự ham thích học hỏi, thái độ trung thành tôn trọng chân lý trong các công trình nghiên cứu khoa học, nhu cầu làm việc tập thể trong các nhóm kỹ thuật viên, tình liên đới quốc tế, ý thức ngày càng rõ rệt nơi các nhà bác học về trách nhiệm phải giúp đỡ và nhất là phải bảo vệ con người, ý muốn đem lại điều kiện sinh sống thuận lợi hơn cho tất cả mọi người, nhất là những người thiếu khả năng lao động hoặc kém trình độ văn hóa. Tất cả những giá trị này có thể góp phần chuẩn bị cho con người đón nhận sứ điệp Tin mừng, một sự chuẩn bị có thể được hình thành nhờ tình yêu thần linh của Đấng đã đến để cứu chuộc thế gian” (Gaudium et spes, 57.6).
[16] Sắc lệnh về Hoạt động Tông đồ Giáo dân nói rõ sự quân bình này nhằm giải thích chỗ đứng của người giáo dân trong “công cuộc canh tân trật tự trần thế”, là nơi ta thấy danh mục các lãnh vực mà Gaudium et spes khảo sát tỉ mỉ: “Trật tự trần thế bao gồm nhiều thực tại, chẳng hạn những thiện ích của cuộc sống và gia đình, văn hóa, kinh tế, nghề nghiệp và chuyên ngành, các thể chế cộng đồng chính trị, mối bang giao quốc tế và những thực tại tương tự khác, cộng với những biến chuyển và những tiến bộ trong mọi lãnh vực, tất cả những thực tại đó không chỉ là phương tiện để con người đạt đến cùng đích của mình, nhưng còn có giá trị riêng do chính Thiên Chúa đặt định, hoặc xét ngay trong chính bản chất của chúng, hoặc xét như thành phần của toàn thể trật tự trần thế: “Thiên Chúa nhìn muôn vật Ngài đã tạo thành và thấy tất cả đều rất tốt đẹp” (St 1,31). Phẩm tính tốt lành tự nhiên ấy lại được tiếp nhận thêm một giá trị đặc biệt dựa trên mối liên hệ giữa thiên nhiên và con người, vì vạn vật đã được tạo dựng để phục vụ con người” (Apostolicam Actuo- sitatem, Sắc lệnh về Hoạt động Tông đồ Giáo dân, 7).
[17] Gaudium et spes 59.3. Về những tương quan giữa khoa học và đức tin, cũng nên biết là một số nghị phụ đã mong muốn có một sự nhìn nhận thẳng thắn về những sai lầm đối với Galilê. Ý tưởng này bị bác bỏ, và ta chỉ thấy, ở phần chú thích bên dưới trang của Gaudium et spes số 36, đề nghị tham chiếu hai quyển địa lý sinh vật của Mgr Pio Paschini. Chỉ nhờ vào sáng kiến của chính Đức Gioan- Phaolô II mà việc nhìn nhận này mới được thực hiện năm 1992.
[18] Lối nói hay ý tưởng này trở đi trở lại nhiều lần trong Hiến chế Mục vụ, để nói đến hoạt động chung của người giáo dân giữa những trách nhiệm trần thế của họ (43.3), cũng như trong những biểu hiện văn hóa, thậm chí trong lãnh vực thể thao, nhằm việc giáo dục toàn diện (61.3). Nhưng thật sự là trên bình diện đời sống kinh tế và xã hội (72.1), trên bình diện chính trị (76.1 và 76.6), và nhất là trên bình diện quốc tế, chính là những nơi mà sự hợp tác này được nhắc đến cách chi tiết.
[19] “Vì thế, khi công bố ơn gọi cao cả của con người và khẳng định là hạt giống thần linh đã được gieo vào trong con người, Thánh Công đồng muốn dành cho nhân loại sự cộng tác chân thành của Giáo Hội nhằm thiết lập tình huynh đệ đại đồng phù hợp với ơn gọi ấy” (Gaudium et spes 3.2).
[20] GIOAN XXIII, “Diễn văn khai mạc Công đồng [11.11.1962]”, Documentation Catholique 59 (1962) 1378-1388.
[21] RICCARDI Andrea, “La tumultueuse ouverture des travaux” in ALBERICO Giuseppe (dir.), L'histoire du concile Vatican II, Paris-Louvain, Cerf-Peeters, 1998, p. 29.
[22] PAUL VI, “Discours à l'ONU (4.10.1965)”, Documentation Ca- tholique 62 (1965) 1731.
[23] “Thật vậy, mặc dầu không minh nhiên xác nhận quyền bất khả xâm phạm đối với mọi áp chế bên ngoài trong những điều liên quan đến tôn giáo, nhưng Mặc Khải đã cho biết về nhân phẩm trong tất cả mọi chiều kích, đã cho thấy Chúa Kitô luôn tôn trọng tự do của con người trong việc thi hành bổn phận tin vào Lời Chúa, và cũng đã dạy cho chúng ta về tinh thần mà những môn đệ của vị Tôn sư cao cả phải hiểu biết và noi theo trong hành động” (Dignitatis humanae, 9).
[24] “Con người ngày nay rõ ràng luôn muốn được tự do tuyên xưng niềm tin tôn giáo cách riêng tư cũng như công khai, hơn nữa, quyền tự do tôn giáo cũng đã được Hiến pháp của phần lớn các quốc gia công bố như một quyền dân sự và đã được các văn kiện quốc tế long trọng công nhận” (Dignitatis humanae, 15).
[25] “Vì mang một cơ cấu xã hội hữu hình, là dấu chỉ của sự hợp nhất trong Chúa Kitô, nên Giáo Hội cũng có thể và thực sự đang được phong phú thêm nhờ sự tiến hóa của cuộc sống xã hội nhân loại, không phải vì định chế do Chúa Kitô ban cho Giáo Hội còn bị khiếm khuyết, nhưng là để định chế đó được hiểu biết sâu xa hơn, được diễn tả trung thực hơn và được thích nghi hoàn hảo hơn với thời đại chúng ta” (Gaudium et spes 44.3).
[26] Đức giáo hoàng PHANXICÔ, Evangelii Gaudium, 115.
[27] Trong sự dấn thân truyền giáo của mình, Hội Thánh trân trọng và khuyến khích đặc sủng của các nhà thần học và các cố gắng học thuật của họ để thăng tiến cuộc đối thoại với thế giới văn hoá và khoa học. Tôi kêu gọi các nhà thần học thực thi việc phục vụ này như một thành phần của sứ mạng cứu độ của Hội Thánh, Evangelii Gaudium, 133.
[28] Không thể coi nhẹ tầm quan trọng của một nền văn hoá thấm nhuần đức tin; trước sức tấn công của chủ nghĩa thế tục, một nền văn hoá được Phúc-Âm-hoá, tuy có những giới hạn của nó, nhưng nó cũng có rất nhiều nguồn lực chứ không chỉ đơn thuần là tổng dân số tín hữu. Một nền văn hoá bình dân được Phúc-Âm-hoá, bao hàm những giá trị của đức tin và tình liên đới có sức khuyến khích sự phát triển của một xã hội công bằng và có niềm tin hơn, và chứa đựng một sự khôn ngoan mà chúng ta phải nhìn nhận với lòng biết ơn”. Evangelii Gaudium, 68.
[29] “Tôi cũng không nghĩ rằng huấn quyền của giáo hoàng phải đưa ra một lời nói cuối cùng hay đầy đủ về mọi vấn đề ảnh hưởng tới Hội Thánh và thế giới. Giáo hoàng không nên thay thế các giám mục trong việc làm rõ những vấn đề phát sinh trong địa hạt của họ. Về phương diện này, tôi ý thức được nhu cầu cổ xuý một sự “tản quyền” thích hợp”. Evangelii Gaudium, 16.
[30] Evangelii Gaudium, 30.
WHĐ (29-05-2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 98 (tháng 1 & 2 năm 2017)
TIN LIÊN QUAN
Nguồn: https://hdgmvietnam.com