Chúa Nhật 17/10/2021 -- THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH. – Gió lẫn biển đều vâng lệnh Chúa.

Chúa Nhật 17/10/2021 -- THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH. – Gió lẫn biển đều vâng lệnh Chúa.

“Người này là ai mà cả gió lẫn biển đều vâng lệnh Người.”

 

THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH.

Lời Chúa: Mc 4, 35-41

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô

Ngày hôm ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”. Rời đám đông dân chúng, các ông chở Người đi vì Người đang ở dưới thuyền; có nhiều thuyền khác cùng theo Người.

Một trận cuồng phong nổi lên, những lớp sóng ập vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ; các môn đệ đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”

Người đứng dậy quát nạt gió và phán với biển: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngưng, biển lặng như tờ.

Người nói với các ông: “Sao các con nhát sợ thế? Các con chưa có đức tin sao?”

Bấy giờ các ông kinh sợ và nói với nhau: “Người này là ai mà cả gió lẫn biển đều vâng lệnh Người?”

 

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN năm B.

Lời Chúa: Mc 10, 35-45

"Con Người đến để ban mạng sống Mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Người hỏi: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".

Chúa Giêsu bảo: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định".

Mười môn đệ kia nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan.

Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế.

Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.

Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

* THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN TRONG THỜI GIAN ĐẠI DỊCH.

Lời Chúa: Ac 3, 17-26; Rm 8, 31b-39; Mc 4, 35-41

* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN  B 2021

Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45

 

1.  Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy niệm

Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,

Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,

trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).

Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,

tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.

Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.

Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.

Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.

Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.

Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.

Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).

Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.

Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.

Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.

Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,

trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.

Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,

và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.

Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.

Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được

khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,

tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay

vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.

“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).

Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?

Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm

khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.

Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.

Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,

điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,

có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.

Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia

với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.

Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

 

 

2.  Sao chưa có lòng tin?—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

 “Sóng gió” là từ thường được dùng để chỉ những thử thách

mà ai cũng có lần gặp trong cuộc đời.

Chẳng đời ai hoàn toàn êm đềm như biển lặng.

Cả cuộc đời của những người đi theo Đức Giêsu cũng vậy.

Các môn đệ không tránh khỏi sóng gió, hiểu theo nghĩa đen.

Hồ Galilê thường hay có những cơn bão bất ngờ.

Giữa lúc trời yên bể lặng thì sóng gió ập tới.

 

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện về một kinh nghiệm sóng gió

mà Thầy trò trải qua trên hồ Galilê.

Có nhiều yếu tố làm tăng độ khó cho kinh nghiệm này.

Trời lúc đó đã là chiều tối, chứ không phải ban ngày.

Đức Giêsu và các môn đệ đang ở bên này của biển hồ.

Chính Thầy đưa ra lệnh: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi!”

Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại.

Không rõ tại sao khi trời tối, Thầy lại muốn mọi người qua đó.

Thầy đã từ thuyền mà ngồi giảng các dụ ngôn cho dân (Mc 4,1).

Bây giờ Thầy vẫn đang ở trong con thuyền đó (Mc 4,36).

 

Hành trình trên biển của Thầy trò xem ra không suông sẻ,

vì bất ngờ một trận cuồng phong nổi lên.

Cùng với gió mạnh là sóng to.

Cùng với sóng to là nước lớn ào vào.

Con thuyền chòng chành vì gió, nghiêng ngả vì sóng,

và ngập nước đến độ có nguy cơ bị chìm.

Các môn đệ quen đánh cá ban đêm có kinh nghiệm này không?

Vậy mà Thầy lại nằm ngủ say, trên một chiếc gối, ở đàng lái.

Các môn đệ thật không sao hiểu được

làm sao Thầy có thể ngủ bình yên

trong hoàn cảnh hiểm nghèo như thế (G 11,18-19; Tv 4,9).

Họ cuống lên nên trách móc Thầy mình:

“Chúng ta sắp chết mà Thầy chẳng quan tâm sao?”(Mc 4,38).

Dường như họ muốn Thầy mình làm một điều gì đó.

 

Thầy Giêsu đang ngủ, bị đánh thức và Thầy đã thức dậy.

Thầy ngăm đe gió như đã ngăm đe quỷ (Mc 1,25; 3,12),

và ra lệnh cho biển động phải yên lặng như tờ.

Những sức mạnh tự nhiên đe dọa con người bị khuất phục.

Thầy Giêsu không chỉ có quyền uy trên bệnh tật, ma quỷ,

Thầy còn có quyền trên các năng lực tự nhiên trong trời đất.

Khi biển lặng, sóng yên, Thầy mới bắt đầu trách môn đệ:

“Tại sao anh em nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao.”

Khi sống bên Thầy, lẽ ra họ phải có lòng tin vững mạnh,

nhưng sóng gió đã làm lộ ra chuyện họ yếu tin.

Sau phép lạ của Thầy Giêsu, chỉ bằng một lời quyền năng,

các môn đệ hoảng sợ, sợ hơn cả lúc gió to sóng lớn.

Nhưng đứng trước Đấng làm chủ cả gió và biển,

họ vẫn chưa trả lời được câu hỏi: “Người này là ai?” (Mc 4,41).

 

Các môn đệ đã trải qua bao kinh nghiệm trong đêm nay:

kinh nghiệm bị sóng gió dập vùi, kinh nghiệm cận kề cái chết,

kinh nghiệm tuyệt vọng và hoảng loạn,

kinh nghiệm trách móc đối với sự thinh lặng của Thiên Chúa,

và kinh nghiệm bình an khi biển lặng sóng yên.

Con thuyền Giáo hội và thế giới cũng có khi gặp sóng gió.

Chúng ta chỉ cần có Chúa trong thuyền, Ngài ngủ cũng được.

Cũng cần kêu xin Ngài với lòng tin, chứ không hoảng hốt.

Rồi mọi sự sẽ qua, bình an trở lại.

 

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió,

nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người.

Các môn đệ đầu tiên đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê.

Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền,

khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức.

Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền,

khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.

 

Chúa không tránh cho đời chúng con khỏi mọi sóng gió,

vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành,

tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin,

tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng.

Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược,

nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.

 

Xin cho chúng con yêu quý sự bình an,

nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió.

Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng

Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con,

và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.

 

 

3.  Thầy không lo sao? -- ‘Manna’

Suy Niệm

Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.

Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?

Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.

Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài. “Chúng con chết mất!”

Cái chết thể lý và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết của những công trình mình xây dựng.

Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? “Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách móc?

Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.

Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.

Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.

Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.

Lòng lặng không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.

Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?

Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.

Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.

Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.

Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.

Gợi Ý Chia Sẻ

Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?

Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

 

4.  Suy niệm -- TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.

Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.

Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…

Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.

Ghi nhớ: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”

 

5.  Thử thách trong cuộc đời -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.

Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.

Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?

2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?

3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?

6.  Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ (Mc 4,35-41)

Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa... Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người trỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao?” Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?

Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.

Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai?” Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.

Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài ‘vắng mặt’ rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).

Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng: trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức, để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xảy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.

Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao?”

Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:

Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng

Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.

Họ vui mừng vì trời yên bể lặng

Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ (Tv 107,29-30).

Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tàu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xoá nhoà, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Truyện: Cha tôi cầm lái con tàu

Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:

Hôm ấy, một con tàu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tàu như không có gì xảy ra cả.

Lạ lùng, một thuỷ thủ dương to đôi mắt hỏi em:

- Em không sợ chết sao?

Cậu bé thản nhiên trả lời:

- Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tàu này mà!

 

7.  Quyền năng của Thiên Chúa -- Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống hiện tại có nhiều gian nan thử thách, hãy tin cậy vào Chúa quan phòng. Thực vậy, trong cuộc sống hằng ngày không thiếu gì những giông tố xẩy đến cho Giáo hội, quốc gia, thế giới và riêng của từng người chúng ta nữa.Trước những trạng huống đó, chúng ta cảm thấy hoang mang không biết phải xoay sở ra sao, có khi đã nản lòng trước những biến cố bất ngờ xẩy đến.

Nhưng trong bàiTin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói với chúng ta như đã nói với các Tông đồ xưa kia trên biển hồ Tibériade:”Việc gì phải sợ, người đâu mà kém tin thế”? Qua lời kêu cứu của các Tông đồ, Đức Giêsu đã truyền cho giống tố ngưng lại và biển trở nên phẳng lặng như tờ. Sở dĩ các Tông đồ chưa đủ tin tưởng vào Đức Giêsu và sợ hãi như vậy vì các ông chưa nhìn ra con người thật của Ngài, nên mới đặt câu hỏi:”Ngài là ai mà cả gió và biển phải vâng lời vậy”?

Trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã trải qua những cảnh huống bi đát như bị bách hại, chia rẽ nội bộ, lạc giáo... nhưng Giáo hội vẫn đứng vững vì có Chúa “nằm ngủ” ở đó, Ngài sẽ ra tay khi cần thiết.Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người cũng không thiếu gì những gian nan thử thách, hãy tin tưởng vàotình yêu quan phòng của Chúa, hãy vững tin và cầu nguyện, Ngài sẽ đến cứu giúp.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: G 38,1.8-11.

Ông Gióp gặp nhiều tai ương hoạn nạn mặc dầu ông là người công chính. Trước những đau khổ đó, ông biểu lộ những hoài nghi về sự công bằng của Thiên Chúa: ông muốn hỏi Thiên Chúa tại sao lại để cho đau khổ xẩy đến với ông cách bất công như vậy? Đâu là nguyên do những nỗi bất hạnh ấy?

Thiên Chúa không trực tiếp giải đáp thắc mắc của ông, Ngài chỉ cho ông biết Ngài là Chúa tể muôn loài, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài: chính Ngài điều hành sức mạnh của nước, cho nó chảy đi đâu, Ngài dẹp yên sóng cả ngoài biển khơi.

Như vậy, Thiên Chúa gián tiếp trả lời cho ông Gióp: mọi sự lành hay sự dữ được Ngài cho phép mới xẩy ra, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài, đừng nên mở miệng than trách.

+ Bài đọc 2: 2Cr 5,14-17.

Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô biết: Đức Kitô đến trần gian này để làm một cuộc tạo dựng mới nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Nhờ cái chết của mình, Đức Kitô làm cho nhân loại thực sự chết cho tội lỗi và nhờ sự sống lại của mình, Ngài làm cho con người hoàn toàn đổi mới, mặc lấy cuộc sống mới đã được biến hình đổi dạng, được trở nên một tạo vật mới tốt lành thánhthiện

Nếu Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới thì chúng ta cũng phải bỏ nếp sống của con người cũ để sống một cuộc sống mớihoàn toàn trong Đức Kitô để thông hiệp vào sự sống của Ngài.

+ Bài Tin mừng: Mc 4,35-41.

Buổi chiều, khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tibériade sang bờ bên kia. Biển hồ này thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Khi ra giữa biển, một cơn bão táp nổi lên, nước đã tràn vào thuyền, các môn đệ cuống cuồng lên. Trong khi đó, Đức Giêsu, bị mệt mỏi vì rao giảng suốt ngày, nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xẩy ra.

Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách móc:”Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao”? Đức Giêsu bình tĩnh đứng lên phán một lời vắn tắt:”Im đi, câm đi”, tức thì gió im, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa khuyên họ hãy tin vào quyền năng của Ngài.

Các môn đệ chưa nhận ra con người thật của Đức Giêsu nên mới nói:”Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”? Có lẽ thánh Marcô thuật lại cảnh dẹp yên sóng gió trên đây nhằm trấn an và củng cố các Kitô hữu đầu tiên tại Rôma đang hoảng sợ trước cơn bách hại của hoàng đế Néron?

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Đừng sợ, hãy vững tin.

I. SÓNG GIÓ TRÊN BIỂN KHƠI.

1. Gió và biển.

“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).

Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gióđược coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).

2. Biển hồ Tibériade.

Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tâythổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dộiđến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.

II. CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.

1. Câu chuyện giông tố.

Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiêncường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.

Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài.

Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài.Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài”?Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.

2. Ý nghĩa câu truyện.

a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.

Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.

Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa.Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.

Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).

b) Chúa vẫn có mặt ở đó.

Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ.

Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ nhưthế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng tasắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng tasắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”?

Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể?

Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng tatin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ.

Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.

Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?

Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao? Thánh vịnh đã nói:

Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng

Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.

Họ vui mừng vì trời yên bể lặng

Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.

(Tv 107, 29-30)

III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.

Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện.Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lênít nhiều sau mỗi lần giông tố.Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.

Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.

Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.

Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.

Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).

Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúngta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.

Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng tađược tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Truyện: Cha tôi câm lái tầu.

Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện nhưsau:

Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.

Lạ lùng, một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi em:

- Em không sợ chết sao?

Cậu bé thản nhiên trả lời:

- Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!

Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.

 

8.  Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.

II. Gợi ý sám hối

Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.

Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.

Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (G 38,1.8-11)

Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.

Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ...

Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.

2. Đáp ca (Tv 106)

Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.

3. Tin Mừng (Mc 4,35-41)

Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.

Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.

Phản ứng của họ là "kinh hãi", lại còn trách Chúa "Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!"

Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.

Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.

4. Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)

Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.

Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô:

Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.

Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.

Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Chúa tể thiên nhiên

Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.

Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.

Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.

Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa "Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?" Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.

Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?

- Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?

- Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá... Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi... Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.

- Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán "không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa". Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.

Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:

Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.

Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.

Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.

Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp "nhân bản" sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.

Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.

Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa... Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?

- Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:

Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.

Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.

Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.

Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói "Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi"; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố "Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả". Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.

- Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.

Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.

- Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ "Càng học thì thấy mình càng dốt".

* 3. Cha em là người cầm lái.

Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.

Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.

Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.

Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.

Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?

Em thản nhiên đáp lại:

- Vì cha em là người cầm lái con tàu!

***

Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.

Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?

Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.

Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.

Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),

Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.

Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".

***

Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đường. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 4. Vượt tầm kiểm soát

Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.

Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.

Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.

Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.

5. Chuyện minh họa

a/ Câu chuyện của cây vả

Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.

Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.

Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là "giông tố mùa đông" và "giông tố mùa hè". "Giông tố mùa hè" gây hại nhiều hơn "giông tố mùa đông". "Mùa hè" nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.

b/ Loại máy bay đầu tiên

Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa....Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.

Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay.... Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.

Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.

Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa.....và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.

c/ Điều huyền bí.

Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:

- Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?

- Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.

- Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.

- Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?"

- Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.

- Nhưng tại sao nó cử động?

- Vì tôi muốn thế.

- Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?

Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.

6. Tin vào quyền năng Thiên Chúa

Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.

Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.

hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.

Tại Lộ Đức

"Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói "Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!" Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ "Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!" Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong." Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.

Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: "Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!"

Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: "Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?" Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927."

Tại Nhật Bản

Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:

+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.

+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.

+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938

+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.

+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.

Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: "Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.

Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:

1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.

2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.

3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.

4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.

CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng "Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?". Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

VI. Trong Thánh lễ

Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha "ở trên trời", nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.

Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.

VII. Giải tán

Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.

 

9.  Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô---phép lành Urbi et Orbi

Bài giảng của ĐTC trong giờ cầu nguyện và ban phép lành Urbi et Orbi

Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi cầu nguyện lịch sử trong quảng trường hoàn toàn trống vắng những lại có đông đảo tín hữu tham dự từ khắp nơi trên thế giới tham dự. Ngài xin Chúa ban sức khỏe cho thể xác và an ủi trái tim. Sau khi chầu Thánh Thể, Đức Thánh Cha ban phép lành Mình Thánh Urbi et Orbi cho các tín hữu trong buổi cầu nguyện đặc biệt cầu cho thế giới trước đại dịch.

Lúc 6 giờ chiều ngày 27/03, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự giờ cầu nguyện tại quảng trường thánh Phêrô để cầu nguyện cho thế giới trước đại dịch virus corona. Giờ cầu nguyện bắt đầu với nghi thức cử hành Lời Chúa.

Đoạn Tin Mừng thánh Marco được đọc trong giờ cầu nguyện thuật lại sự kiện các môn đệ đang ở trên tàu, khi Chúa Giêsu đang ngủ, thì giông bão nổi lên. Các môn đệ hoảng sợ, đánh thức Ngài dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Chúa Giêsu đã truyền cho sóng im biển lặng và ngài bảo họ “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

Suy tư về đoạn Tin Mừng trên, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy mời Chúa vào cuộc đời chúng ta, hãy phó thác những khó khăn đau khổ cho Chúa, hãy tin rằng Chúa là Đấng yêu thương và yêu chương chúng ta nhất.

Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha

Chúng ta ở trên cùng con thuyền và cần cùng nhau chèo để vượt qua sóng gió

”Khi chiều xuống” (Mc 4,35). Đó là câu mở đầu đoạn Tin Mừng chúng ta đã nghe. Từ nhiều tuần nay, dường như chiều đã xuống. Những bóng đen dầy đặc phủ trên các quảng trường, các đường phố và thành thị của chúng ta; chúng chiếm hữu cuộc sống chúng ta, làm đầy mọi sự bằng một sự im lặng gây choáng váng và một sự trống rỗng thê lương, làm tê liệt mọi sự khi nó đi qua: người ta cảm thấy điều ấy trong không khí, nhận thấy nó qua các cử chỉ, qua những cái nhìn. Chúng ta lo sợ và ngỡ ngàng. Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng, nhưng đồng thời tất cả đều quan trọng và cần thiết, tất cả được kêu gọi cùng chèo với nhau, tất cả đều cần an ủi nhau. Tất cả chúng ta đều ở trên con thuyền ấy. Như những môn đệ trong bài Tin Mừng đồng thanh và lo âu nói với nhau: ”Chúng ta chết mất” (v.38), chúng ta cũng nhận thấy mình không thể tiến bước nếu mỗi người chỉ lo cho mình, nhưng phải cùng nhau.

Chúa Giêsu ngủ yên vì Ngài tín thác nơi Chúa Cha

Thật là dễ thấy mình ở trong hoàn cảnh như trình thuật này. Điều khó khăn là làm sao hiểu thái độ của Chúa Giêsu. Trong khi các môn đệ tự nhiên thấy hốt hoảng và tuyệt vọng, thì Chúa ở phần cuối thuyền, là phần sẽ bị chìm trước tiên. Ngài làm gì thế? Mặc dù những giao động, hối hả, Ngài vẫn ngủ yên, tín thác nơi Chúa Cha - đó là lần duy nhất trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu ngủ -. Và khi Ngài bị đánh thức dậy, Chúa cho gió yên biển lặng, rồi nói với các môn đệ với giọng khiển trách: ”Tại sao các con lại sợ? Các con chưa có đức tin sao?” (v.40).

Các môn đệ thiếu đức tin: họ không tin Chúa quan tâm đến họ

Chúng ta hãy tìm cách hiểu. Sự thiếu đức tin của các môn đệ hệ tại điều gì, một thái độ trái ngược với sự tin tưởng của Chúa Giêsu? Các môn đệ không ngừng tin nơi Chúa, và thực sự họ kêu cầu Ngài. Nhưng chúng ta hãy xem cách thức môn đệ kêu cầu: ”Thưa Thầy, Thày chẳng quan tâm gì đến sự kiện chúng con sắp chết sao?” (v. 38). 'Thầy chẳng quan tâm': họ nghĩ rằng Chúa Giêsu không đoái hoài gì đến họ, không chăm sóc họ. Giữa chúng ta, trong các gia đình, một trong những điều làm đau lòng nhất, đó là khi chúng ta nghe nói: ”Anh chẳng quan tâm gì đến em sao?”. Đó là một câu làm thương tổn và tạo nên bão tố trong tâm hồn. Câu ấy cũng làm tổn thương cả Chúa Giêsu. Vì chẳng có ai quan tâm đến chúng ta hơn Ngài. Thực vậy, sau khi được kêu cầu, Chúa đã cứu vớt các môn đệ thiếu lòng tin.

Bão tố cho thấy chúng ta đã bỏ qua điều nâng đỡ và ban sức mạnh cho chúng ta

Bão tố vạch trần sự dễ thương tổn của chúng ta và cho thấy những an ninh giả tạo và thừa thãi qua đó chúng ta đã xây dựng những chương trình hoạt động, những dự án, các tập quán và ưu tiên của chúng ta. Nó tỏ cho thấy chúng ta đã lơ là và bỏ qua điều nuôi dưỡng, nâng đỡ và ban sức mạnh cho cuộc sống và cộng đoàn của chúng ta. Bão tố để lộ tất cả những chủ tâm ”gói lại” và quên đi những gì đã nuôi dưỡng cái hồn của các dân tộc chúng ta; tất cả những toan tính gây mê với những tập quán có vẻ là ”cứu thoát”, nhưng không có khả năng tham chiếu những căn cội và nhắc nhớ tới các vị tiền bối của chúng ta, và vì thế khiến cho chúng ta không còn khả năng miễn dịch cần thiết để đương đầu với nghịch cảnh.

Bão tố cũng làm rơi mất những mánh khóe chúng ta dùng để ngụy trang ”cái tôi” của chúng ta, luôn lo lắng về hình ảnh của mình; một lần nữa, chúng ta khám thấy điều tốt lành là chúng ta cùng thuộc về nhau, cùng là anh chị em của nhau.

Chúng con đang ở giữa biển động, chúng con khẩn cầu Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!”

"Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có niềm tin sao?”. Lạy Chúa, Lời Chúa chiều tối hôm nay đánh động và có liên hệ tới tất cả chúng con. Trong thế giới chúng con hiện nay, thế giới mà Chúa yêu thương nhiều hơn cả chúng con yêu, chúng con tiến bước rất mau lẹ, cảm thấy hùng mạnh và có khả năng trong mọi sự. Chúng con ham hố lợi lộc, để cho mình bị vật chất thu hút mất và bị choáng váng vì vội vã. Chúng con không dừng lại trước những lời nhắc nhở của Chúa, không thức tỉnh trước những chiến tranh và bất công trên thế giới, chúng con đã không lắng nghe tiếng kêu của những người nghèo và của trái đất của chúng con đang bị bệnh nặng. Chúng con cứ tiếp tục tiến bước không chút sợ hãi, nghĩ rằng mình sẽ luôn khỏe mạnh trong một thế giới bị bệnh. Giờ đây, trong lúc chúng con đang ở giữa biển động, chúng con khẩn cầu Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!”

Đây là thời điểm chọn lựa điều gì đáng kể và điều gì chóng qua

"Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?” Lạy Chúa, Chúa kêu gọi chúng con, một lời kêu gọi hãy tin tưởng. Không phải chỉ tin Chúa hiện hữu cho bằng hãy đến cùng Chúa và tín thác nơi Chúa. Trong Mùa Chay này vang dội lời kêu gọi cấp thiết của Chúa: ”Hãy hoán cải”, ”hãy hết lòng trở về cùng Ta” (Gl 2,13). Chúa gọi chúng con hãy đón nhận thời điểm thử thách này như 'một thời điểm chọn lựa'. Đây không phải là thời điểm phán xét của Chúa, nhưng là lúc chúng con phải suy xét: thời điểm chọn lựa điều gì đáng kể và điều gì chóng qua, tách biệt điều cần thiết ra khỏi điều không cần. Lạy Chúa, đây là lúc điều chỉnh lại hành trình cuộc sống của chúng con hướng về Chúa và hướng về tha nhân. Và chúng con có thể nhìn bao nhiêu bạn đồng hành gương mẫu, trong sợ hãi, họ đã phản ứng bằng cách hiến mạng sống mình. Đó là sức mạnh tác động được Thánh Linh đổ xuống và nhào nặn thành những sự hiến thân can đảm và quảng đại.

Cầu nguyện và phục vụ âm thầm: đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta

Đó là sự sống của Thánh Linh có khả năng cứu chuộc, nâng cao giá trị và tỏ cho thấy cuộc sống của chúng con được hình thành và nâng đỡ nhờ những người thường - những người thường bị quên lãng, - không được báo chí nói đến, không xuất hiện trong những cuộc biểu dương mới nhất, nhưng chắc chắn, họ đang viết lên những biến cố quan trọng ngày nay trong lịch sử chúng con: các bác sĩ, y tá nam nữ, các nhân viên siêu thị, nhân viên vệ sinh, những người giúp việc gia đình, các nhân viên chuyên chở, các nhân viên công lực, những người thiện nguyện, các linh mục, nữ tu và bao nhiêu người khác đã hiểu rằng không ai tự cứu thoát một mình. Đứng trước đau khổ, qua đó người ta đo lường mức độ phát triển đích thực của các dân tộc chúng con, chúng con khám phá và cảm nghiệm lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu: ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21). Bao nhiêu người hằng ngày thực hành kiên nhẫn và đổ tràn hy vọng, chú tâm không gieo rắc kinh hoàng nhưng gieo vãi tinh thần đồng trách nhiệm. Bao nhiêu người cha, người mẹ, ông bà, giáo chức, chỉ cho các trẻ em chúng con - qua những cử chỉ bé nhỏ và thường nhật - cách thức đương đầu và vượt thắng một cuộc khủng hoảng, bằng cách điều chỉnh các thói quen, ngước mắt lên cao và khích lệ cầu nguyện. Bao nhiêu người cầu nguyện, dâng hy sinh và chuyển cầu cho ích chung của tất cả mọi người. Cầu nguyện và phục vụ âm thầm: đó là những khí giới chiến thắng của chúng ta.

Hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta

”Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?”. Khởi đầu đức tin là biết mình cần được cứu độ. Chúng ta không tự mãn, chỉ tự mình thôi thì chúng ta sẽ bị chìm; chúng ta cần Chúa như những người hải hành xưa kia cần những vì sao. Chúng ta hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta. Hãy phó thác cho Chúa những lo sợ của chúng ta để Ngài chiến thắng chúng. Như những môn đệ chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy rằng có Chúa ở trên thuyền, thuyền sẽ không bị đắm. Vì sức mạnh của Thiên Chúa là: tất cả những gì xảy ra cho chúng ta, cả những điều bất hạnh, đều mưu ích cho chúng ta. Chúa đưa sự thanh thản vào trong những bão tố của chúng ta, vì với Thiên Chúa, sự sống sẽ không bao giờ chết.

Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng

Chúa đặt câu hỏi cho chúng ta, giữa bão tố của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng, có khả năng mang lại sự vững chắc, nâng đỡ và mang lại ý nghĩa cho những lúc này, trong đó tất cả dường như bị chìm. Chúa thức dậy để đánh thưc và hồi sinh niềm tin của chúng ta nơi sự phục sinh.

Trong thập giá của Chúa chúng ta được cứu độ

Chúng ta có một cái neo; trong thập giá của Chúa chúng ta được cứu độ. Chúng ta có một hoa tiêu: trong thập giá của Ngài chúng ta được cứu chuộc. Chúng ta có một hy vọng: trong thập giá của Chúa, chúng ta được chữa lành và ấp ủ vì không có gì và không một ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi tình thương cứu độ của Chúa. Giữa tình trạng cách ly, trong đó chúng ta đang thiếu thốn tình cảm quí mến và những cuộc gặp gỡ, chịu đựng bao nhiêu thiếu thốn, một lần nữa chúng ta nghe lời loan báo cứu độ: Chúa đã sống lại và Ngài sống cạnh chúng ta. Chúa kêu gọi chúng ta, từ trên thập giá của Ngài, hãy tìm lại cuộc sống đang chờ đợi chúng ta, và hãy nhìn đến những người đang kêu chúng ta hãy củng cố, nhìn nhận và khởi động ơn thánh đang ở trong chúng ta. Đừng dập tắt tim đèn còn ngún khói (Xc Is 42,3), không bao giờ yếu liệt và hãy để cho niềm hy vọng được bùng lên.

Đón nhận thập giá là can đảm đón nhận tất cả các nghịch cảnh, đón nhận hy vọng

Đón nhận thập giá của Chúa có nghĩa là tìm lại can đảm để đón nhận tất cả các nghịch cảnh của thời điểm hiện nay, tạm bỏ sự lo lắng của chúng ta về sự toàn năng và chiếm hữu, để nhường chỗ cho tinh thần sáng tạo mà chỉ có Thánh Linh mới có khả năng khơi dậy. Điều này có nghĩa là tìm lại can đảm mở ra những không gian trong đó tất cả mọi người đều thể cảm thấy được kêu gọi và thực hiện những hình thức mới của lòng hiếu khách, tình huynh đệ và liên đới. Trong thập giá của Chúa, chúng ta được cứu thoát để đón nhận hy vọng và để cho niềm hy vọng ấy củng cố và nâng đỡ tất cả các biện pháp và những con đường khả dĩ giúp chúng ta bảo tồn bản thân và giữ gìn. Đón nhận Chúa để đón nhận hy vọng: đó là sức mạnh của đức tin, giải thoát khỏi sợ hãi và mang lại hy vọng.

Xin Chúa lập lại lần nữa: ”Các con đừng sợ”

”Tại sao các con sợ hãi? Các con chưa có đức tin sao?” Anh chị em thân mến, từ nơi này, nhắc nhớ đức tin kiên vững của thánh Phêrô, tối hôm nay tôi muốn phó thác tất cả anh chị em cho Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ là sức khỏe của dân Ngài, là Sao biển giữa bão tố. Từ những hàng cột này như vòng tay ôm lấy thành Roma và thế giới, ước gì phúc lành của Thiên Chúa đổ xuống trên anh chị em như một vòng tay an ủi. Lạy Chúa, xin Chúa chúc lành cho thế giới, xin ban sức khỏe cho thân xác và an ủi cho tâm hồn. Chúa dạy chúng con đừng sợ hãi. Nhưng niềm tin của chúng con yếu ớt, và chúng con nhát đảm. Nhưng lạy Chúa, Chúa không bỏ mặc chúng con trong bão tố. Xin Chúa lập lại lần nữa: ”Các con đừng sợ” (Mt 28,5). Và cùng với thánh Phêrô, ”chúng con phó thác cho Chúa mọi lo âu, vì Chúa chăm sóc chúng con” (Xc 1 Pr 5,7).

 

 

10. Niềm tin trong cơn đại dịch—dongten.net

 (Suy niệm của Sương Mai – Nguồn: dongten.net)

“Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố. Giông tố đưa ta đến với Ðức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài” (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Đã hơn một năm rưỡi trôi qua kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát tại Vũ Hán, rồi sau đó nhanh chóng lan qua nhiều quốc gia khác trên thế giới. Nhân loại phải đối diện với nhiều khó khăn, phức tạp về mọi phương diện trong cuộc sống, trong đó đời sống tâm linh cũng bị ảnh hưởng không kém. Con người dường như đang thích nghi và quen dần với cuộc sống mới khi có thêm một thành viên mới lạ, một vị khách không mời mà tới bỗng đâu xuất hiện: Virus Corona

Virus corona đúng là vị khách không mời mà tới nhưng lại đem đến cho thế giới nhiều bài học ý nghĩa. Linh mục nhà văn Nguyễn Trung Tây trong buổi phỏng vấn trên đài Vietcatholic về đề tài “Những suy tư thần học về đại dịch Covid-19” dí dỏm gọi Virus Corona là “Ngôn sứ Sars-Cov-2”.

Mang kiếp làm người, không ai có thể tránh khỏi những bão tố của cuộc đời, nó như một định luật tất yếu của cuộc sống. Bão tố cuộc đời có khi là những tai nạn, những hiểm nguy, những trái ý, thất bại, những điều không may xảy đến ngoài ý muốn, cũng có khi là những con sóng nhấp nhô lúc bừng, lúc lặng trong tâm hồn của mỗi người.

Tin mừng Mc 4,35-41 trong Chúa nhật thứ 12 thường niên năm B vang lên trở thành sứ điệp đầy ý nghĩa về niềm tin của con người vào Thiên Chúa, đặc biệt trong cơn đại dịch Covid-19 đang hoành hành như hiện nay. Nhìn vào hình ảnh của các Tông đồ khi đối diện với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời. Vậy thái độ đó là gì?

Thái độ của con người trước bão tố cuộc đời

Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền khi Chúa Giêsu đang cùng các Tông đồ trên thuyền đi qua “bờ bên kia” (Mc 4,37). Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại. Các Tông đồ cảm thấy hoang mang, sợ hãi, dường như các ông không còn đủ bình tĩnh để biết mình phải làm gì. Các ông cầu cứu đến Thầy Giêsu nhưng các ông thấy Thầy vẫn đang dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái (Mc 4,38a). Các ông trách Thầy “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4,38b).

Thái độ của các Tông đồ trước trận cuồng phong cho ta thấy được điều gì nơi chính mình?

Ta có thái độ nào? Phản ứng của ta ra sao? Suy nghĩ của ta như thế nào? Và nhất là niềm tin của ta vào Thiên Chúa ở mức độ nào khi đối diện với những nghịch cảnh của cuộc đời, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành?

Nhiều người hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, mất niềm tin vào Thiên Chúa vì những khó khăn xảy đến do đại dịch Covid-19: thất nghiệp, nghèo đói, khủng hoảng kinh tế, đau khổ vì mất người thân, áp lực công việc nơi các bác sĩ, nhân viên y tế…Còn rất nhiều khó khăn khác mà con người vẫn đang phải đối diện từng ngày, từng giờ khi đại dịch vẫn còn hoành hành.

Con người tự hỏi: liệu Thiên Chúa ở đâu trong biến cố này? Ngài có đang “ngủ” không? Ngài có nghe thấy tiếng con cái Ngài đang ngày đêm kêu van lòng thương xót của Ngài không? Qua những kinh nghiệm trong đời sống đức tin, ta nhận ra rằng chỉ trong khó khăn, nghịch cảnh, ta mới biết thật về niềm tin của ta vào Thiên Chúa. Có khi nào ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?” (Mc 4,38b).

Quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa

Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, vì thế làm sao Ngài có thể làm ngơ trước những đau khổ, những giông tố xảy đến cho con người vốn là loại thụ tạo được Ngài yêu thương hết mực như người cha đối với con mình (Hs 11,1) Vậy tại sao trong cơn bão tố, cuồng phong ập đến mà Thầy Giêsu vẫn ngủ? Ngài không quan tâm, lo lắng gì sao?

Chúa ngủ, Chúa thinh lặng, không phải vì Ngài không biết hay không quan tâm nhưng chính là Ngài đang muốn dạy các Tông đồ một bài học. Ngài muốn cho các ông thấy được niềm tin của các ông dành nơi Chúa như thế nào? Các ông có đủ kiên nhẫn đối diện với trận cuồng phong để tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Ngài không?

Trong cơn đại dịch, ta vẫn cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa cho cơn đại dịch mau chấm dứt nhưng cho đến bây giờ đại dịch vẫn còn tiếp tục và bùng phát, nhiều khi ta cảm thấy như vắng bóng Thiên Chúa, Ngài có đang “ngủ” không?

Vâng, nếu như Ngài có đang “ngủ” thì ta vẫn an tâm vì Ngài chính là vị thuyền trưởng đang ở đàng lái đồng hành với ta. Dù bão tố, cuồng phong đến đâu, nếu có Thầy Giêsu mọi sự đều sẽ ổn. Điều quan trọng là ta hãy tin tưởng kêu lên Ngài như các Tông đồ xưa, ta đừng để mình bị Chúa trách: “Sao kém lòng tin”

Vâng, ta cứ tin rồi Ngài sẽ “thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” (Mc 4,39).

Đứng trước những trận cuồng phong, con người dần nhận ra sự giới hạn, mong manh của phận người, con người thấy mình bất lực trước sức mạnh đáng sợ của bão tố cuộc đời.

 

Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng người thiếu lương thiện thể hiện qua sự ích kỷ, tham lam, kiêu căng, thù hận, ghen ghét… Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch Covid-19, làm sao con người dám tiếp tục tự hào về điều đó.

Chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng mới làm được mọi sự vì Ngài là chủ của muôn loài. Con người vốn mỏng manh, yếu đuối và giới hạn nhưng “sức mạnh của Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn nơi sự yếu đuối của con người” (2 Cr 12,9). Thiên Chúa chỉ muốn nơi ta một điều, đó là tin và Ngài. Niềm tin sẽ dẫn ta đến ơn cứu độ, niềm tin cho ta hy vọng một ngày không xa, con sóng đại dịch Covid-19 sẽ mau chấm dứt. Gió covid sẽ tắt, và biển đại dịch sẽ lặng như tờ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ cần có Chúa, chỉ cần ta vững tin và kiên nhẫn phó thác vào tình thương của Thiên Chúa rồi mọi sự sẽ bình yên trở lại.

“Ngôn sứ Sars Cov-2” mang lại cho ta nhiều thông điệp ý nghĩa, ta hãy nhìn mọi sự trong cái nhìn của đức tin rồi ta sẽ thấy nhiều “phép màu” hiện ra, tình Chúa và tình người luôn thể hiện trong mọi biến cố. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, trút cả cho Thiên Chúa vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống mới của thế giới khi có thêm “thành viên mới” chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

Lạy Thầy Giêsu, mang kiếp làm người, khi đối diện với cuộc sống đầy biến chuyển và phức tạp, con không thể tránh khỏi những trận cuồng phong, bão tố của cuộc đời. Có khi là do ngoài ý muốn nhưng cũng có khi do chính con tự tạo nên. Dù trong hoàn cảnh nào, con tin Thầy vẫn luôn đồng hành bên con, cùng con lênh đênh trên chiếc thuyền cuộc đời. Con an tâm vì có Thầy, nếu một lúc nào đó đức tin của con bị chao đảo bởi sóng gió cuộc đời hay chính trong lòng con, con xin Thầy ban thêm ơn đức tin cho con, xin vực con lên, xin kéo con ra khỏi vòng xoáy của sóng gió cuộc đời để cùng với Thầy, con cập bến bình an trên Nước Trời. Amen.

 

 

 

11. Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch? --Lm. James Martin, SJ.

Trước sự lan tràn của virus corona hay còn gọi là Covid-19 và sự giết chóc của nó, nhiều người trong chúng ta đặt câu hỏi “tại sao?” Tại sao lại có đại dịch này? Tại sao Chúa để cho dịch bệnh xảy ra? Tại sao Chúa không can thiệp khi chúng ta kêu cầu trong đau đớn và thậm chí có người sợ hãi thất vọng? Cha James Martin, một linh mục dòng Tên người Mỹ, chia sẻ những suy tư của ngài về mầu nhiệm sự dữ. Đối với cha, câu trả lời vẫn là không có câu trả lời. Nhưng cha xác tín rằng chúng ta có thể tìm câu trả lời của đau khổ nơi Chúa Giêsu. Qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết rằng Con Thiên Chúa đã trải nghiệm và biết hết những đau khổ của phận người và chắc chắn Ngài không bỏ rơi chúng ta. Và những người không phải Kitô hữu cũng tìm được nơi Chúa Giêsu một gương mẫu cho cuộc sống. Vấn đề là chúng ta có tin vào một Thiên Chúa mà chúng ta không hiểu không?

James Martin SJ

Cha Martin chia sẻ: “Mùa hè năm ngoái tôi phải đi hóa trị. Và mỗi khi tôi đi qua cánh cửa có bảng ghi “Khoa Ung thư xạ trị”, trái tim tôi dường như hụt đi một nhịp. Trong khi tình trạng bệnh của tôi không nguy hiểm lắm (khối u của tôi là lành tính, và đôi khi người ta cần xạ trị), hàng ngày tôi đã gặp những người cận kề với cái chết.

Cuộc "hẹn" của mỗi người

Trong sáu tuần lễ, mỗi ngày tôi đón một chiếc taxi và nói, làm ơn đưa tôi đến đường 68 và York. Khi đến nơi, tôi dừng lại ở một nhà thờ gần đó để cầu nguyện. Sau đó, trên đường đi đến nơi hẹn làm hóa trị, nằm trong một khu phố đầy các bệnh viện, tôi đã đi ngang qua những bệnh nhân ung thư bị rụng tóc, những ông già bà cụ kiệt sức phải ngồi xe lăn, được các nhân viên chăm sóc y tế tại gia đẩy đi và những người vừa mới phẫu thuật. Nhưng trên cùng những vỉa hè đó, tôi gặp các bác sĩ bận rộn, những y tá tươi cười và các thực tập viên háo hức, và nhiều người khác nhìn có vẻ rất khỏe mạnh. Một ngày nọ, tôi chợt nhận ra: Tất cả chúng ta sẽ đến đường 68 và York, mặc dù tất cả chúng ta đều có những giờ hẹn khác nhau của mình.

Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này?

Chỉ trong vài tuần qua, hàng triệu người bắt đầu lo sợ rằng họ đang đi đến cuộc hẹn của mình với vận tốc kinh hoàng, do đại dịch Covid-19. Sự kinh hoàng do lây nhiễm lan nhanh cộng thêm cú sốc bởi sự khởi phát đột ngột của nó. Là một linh mục, tôi đã nghe thấy các cảm xúc tuôn tràn như núi lở trong tháng vừa qua: hoảng loạn, sợ hãi, giận dữ, buồn bã, bối rối và tuyệt vọng. Càng ngày tôi càng cảm thấy như mình sống trong một bộ phim kinh dị, nhưng theo bản năng, tôi đã tắt cuốn phim này đi vì nó gây quá nhiều xáo trộn. Và ngay cả những người sùng đạo nhất cũng hỏi tôi: Tại sao điều này xảy ra? Và: Thiên Chúa ở đâu trong tất cả những điều này?

Mầu nhiệm sự dữ

Về cơ bản, nó giống như câu hỏi mà mọi người đặt ra khi một cơn bão tước đi hàng trăm mạng sống hoặc khi một đứa trẻ chết vì ung thư. Nó được gọi là “vấn đề đau khổ”, “mầu nhiệm về sự dữ’, … và nó là một câu hỏi mà các vị thánh và các nhà thần học đã phải vật lộn trong nhiều thiên niên kỷ. Câu hỏi về nỗi đau khổ tự nhiên (từ bệnh tật hoặc thiên tai) khác với câu hỏi về “sự ác luân lý”. Nhưng bỏ qua  phân biệt thần học này, câu hỏi hiện nay đã làm mệt mỏi tâm trí của hàng triệu người có đức tin, của những người mất can đảm với số người chết đang gia tăng đều đặn, của những người đấu tranh với những câu chuyện về các bác sĩ buộc phải phân loại bệnh nhân và những người giật mình trước những bức ảnh của những hàng dài các quan tài: Tại sao?

Đau khổ để thử thách, tôi luyện đức tin?

Qua nhiều thế kỷ, nhiều câu trả lời về đau khổ tự nhiên đã được đưa ra; tất cả đều muốn trả lời câu hỏi theo một cách nào đó. Phổ biến nhất là câu trả lời cho rằng đau khổ là một thử thách. Đau khổ thử thách đức tin của chúng ta và củng cố nó, như lời thánh Gia-cô-bê: “Thưa anh chị em, bất cứ khi nào anh chị em gặp bất kỳ thử thách nào, đừng xem nó là điều gì khác hơn là niềm vui, bởi vì anh chị em biết rằng thử thách đức tin sẽ làm cho nó kiên vững”. Nhưng trong khi giải thích đau khổ như một thử thách có thể giúp ích trong các khó khăn nho nhỏ (ví dụ như sự kiên nhẫn được kiểm tra bởi một người gây phiền hà), thì nó thất bại trong những trải nghiệm đau đớn nhất của con người. Có phải Chúa gửi bệnh ung thư đến để thử thách một đứa trẻ? Đúng là cha mẹ của em bé có thể học được điều gì đó về sự kiên trì hoặc đức tin, nhưng cách tiếp cận đó có thể khiến Chúa trở thành một con quái vật.

Đau khổ là hình phạt của tội lỗi?

Cũng có lập luận cho rằng đau khổ là một hình phạt của tội lỗi, một cách giải thích vẫn còn phổ biến giữa một số tín hữu (họ thường nói rằng Chúa trừng phạt những người hoặc những nhóm mà không cùng ý kiến với họ). Nhưng chính Chúa Giêsu đã bác bỏ lối suy nghĩ đó khi Ngài gặp một người mù như câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng thánh Gioan chương 9: Thưa Thầy, ai là người đã phạm tội, người đàn ông này hoặc cha mẹ anh ta, khiến anh ta sinh ra đã bị mù? Chúa Giêsu trả lời: “Không phải người đàn ông này cũng không phải cha mẹ của anh ta đã phạm tội”. Đây là lời bác bỏ dứt khoát của Chúa Giêsu về hình ảnh một Chúa Cha tàn ác. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu trả lời câu chuyện về tháp Babel bằng đá đã đổ xuống và đè chết đám đông dân chúng: Anh em nghĩ rằng họ là những kẻ tội lỗi tồi tệ hơn tất cả những người khác sống ở Giêrusalem sao? Tôi nói với anh em không phải như vậy.”

Tam đoạn luận

Sự nhầm lẫn chung của các tín hữu được gói gọn trong cái được gọi là tam đoạn luận không chắc chắn, có thể được tóm tắt như sau: Thiên Chúa hoàn toàn quyền năng, do đó, Thiên Chúa có thể ngăn chặn đau khổ. Nhưng Thiên Chúa không ngăn cản đau khổ, do đó, Thiên Chúa không phải là toàn năng hoặc không hoàn toàn yêu thương.

Nguyên nhân của đau khổ: Chúng ta không biết!

Cuối cùng, câu trả lời trung thực nhất cho câu hỏi tại sao virut Covid-19 lại giết chết hàng ngàn người, tại sao các bệnh truyền nhiễm lại tàn phá nhân loại và tại sao lại có đau khổ, đó là: Chúng ta không biết. Đối với tôi, đây là câu trả lời trung thực và chính xác nhất. Người ta cũng có thể nghĩ rằng virus là một phần của thế giới tự nhiên và bằng một cách nào đó đóng góp cho cuộc sống, nhưng cách giải thích này không thể dùng để nói chuyện với một người bị mất bạn bè hoặc người thân. Một câu hỏi quan trọng đối với những người có đức tin trong những lúc đau khổ là: Bạn có thể tin vào một Thiên Chúa mà bạn không hiểu không?

Câu trả lời là Chúa Giêsu

Nhưng nếu mầu nhiệm đau khổ không thể giải đáp được thì các tín hữu có thể đi tìm lời giải đáp ở đâu trong những lúc như thế này? Đối với người Kitô hữu và có lẽ ngay cả đối với người khác, câu trả lời là Chúa Giêsu.

Một Giêsu sống trong một thế giới với những giới hạn của con người

Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu vừa hoàn toàn là Thiên Chúa vừa hoàn toàn là con người. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta bỏ qua phần thứ hai. Giêsu thành Nazareth được sinh ra trong một thế giới của bệnh tật. Trong cuốn sách “Đá và phân, dầu và nước bọt”, về cuộc sống hàng ngày ở Galilê vào thế kỷ thứ nhất, Jodi Magness, một học giả về Do Thái giáo thời kỳ đầu, gọi môi trường mà Chúa Giê-su sống bẩn thỉu, tồi tệ và không lành mạnh. John Dominic Crossan và Jonathan L. Reed, các học giả về bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu, đã tổng hợp những điều kiện sống này trong một câu nói nghiêm túc trong cuốn sách “Khai quật Giêsu”: “Một trận cúm, một cơn cảm lạnh, hay một cái răng bị sưng có thể giết chết người. Đây là thế giới của Giê-su.”

Đối với Kitô hữu: Chúa Giêsu là con người và cảm hiểu hết những bệnh tật

Hơn nữa, trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu liên tục tìm kiếm những người bị bệnh. Hầu hết các phép lạ của Ngài là chữa lành khỏi bệnh tật và khuyết tật: các căn bệnh về da (thường được gọi chung là phong cùi), chứng động kinh, một người phụ nữ bị rong kinh, một bàn tay bại liệt, mù lòa, câm điếc, bất toại. Trong những thời điểm đáng sợ này, các Kitô hữu có thể thấy thoải mái khi biết rằng khi họ cầu nguyện với Chúa Giêsu, họ đang cầu nguyện với một người hiểu họ không chỉ bởi vì Ngài là Thiên Chúa và biết tất cả mọi sự, mà bởi vì Ngài là con người và đã có kinh nghiệm về tất cả những điều này.

Đối với người không phải Kitô hữu: Chúa Giêsu là mẫu gương chăm sóc bệnh nhân, với trái tim cảm thương

Nhưng những người không phải là Kitô hữu cũng có thể xem Chúa Giêsu như một gương mẫu chăm sóc người bệnh. Không cần phải nói, khi chăm sóc cho người bị nhiễm virus corona, người ta cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để không lây nhiễm bệnh. Nhưng đối với Chúa Giêsu, người bệnh hay người sắp chết không phải là người khác, không phải là người đáng trách, mà là anh chị em của chúng ta. Khi Chúa Giêsu thấy một người có khốn khổ, các Tin mừng cho chúng ta biết rằng trái tim của Ngài đã bị lay động bởi lòng thương xót. Ngài là mẫu gương về cách thế chúng ta sống trong cuộc khủng hoảng này: với những trái tim xúc động vì thương xót.

Đối với tôi, Chúa Giêsu là khuôn mẫu cho cuộc sống

Bất cứ khi nào tôi cầu nguyện trong nhà thờ gần đường 68 và York, tôi dừng lại trước một bức tượng Chúa Giêsu, đôi tay Ngài vươn ra, trái tim Ngài lộ ra. Chỉ là một bức tượng thạch cao, đó không phải là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng nó rất có ý nghĩa với tôi. Tôi không hiểu tại sao mọi người chết, nhưng tôi có thể đi theo một người, là Đấng cho tôi một khuôn mẫu cho cuộc sống." (The New York Times 22/03/2020)

 

 

12. Đức tin thời đại dịch

Đại dịch Covid-19 vẫn đang trở nên quá khó hiểu và đáng sợ với hàng triệu người dân cả nước. Việt Nam đang chứng kiến hàng chục ngàn người nhiễm bệnh và một số đã phải ra đi. Nếu tình hình không mấy khả quan, số ca nhiễm và tử vong vẫn tiếp tục gia tăng từng ngày. Cuộc khủng hoảng này đang khiến cộng đồng đặt lại vấn đề về y tế, đạo đức và hậu cần. Nhưng chính nó cũng đang chất vấn những người có đức tin. Đức tin của bạn như thế nào? Liệu nó có thể giúp bạn vượt qua cơn đại dịch này không? Ở đây, Cha James Martin, S.J. sẽ giúp bạn một vài phương thế sống đức tin thời đại dịch.

Chống lại sự hoang mang là phương thế đầu tiên. Điều này không có nghĩa là bạn sẽ không còn lo lắng nữa, hay cứ phớt lờ những lời khuyên hữu ích của các chuyên gia y tế và các biện pháp phòng chống dịch cộng đồng. Thi thoảng cảm thấy lo lắng là chuyện hết sức bình thường. Nhưng mọi chuyện sẽ khác nếu lo lắng kéo dài, ảnh hưởng đến các hoạt động hằng ngày, và khiến bạn cảm thấy sợ hãi. Trước cơn khủng hoảng của đại dịch, làm sao con người có thể bình tĩnh vượt qua? Làm sao có thể cảm thấy bình an và hy vọng nội tâm? Chính Thiên Chúa sẽ mang lại niềm hy vọng, sự bình an cho bạn chứ không phải hoang mang, hãi sợ.

Thánh Inhaxiô thường nói về hai chuyển động trong đời sống nội tâm: một lôi kéo bạn tiến gần tới Chúa, và một đẩy bạn ra xa Người. Chuyển động lôi kéo bạn ra xa Chúa, thánh Inhaxiô gọi là thần dữ, gây ra “sự cắn rứt, làm buồn phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoăn, lo lắng với những lý lẽ giả tạo để người ta khỏi tiên tới.” (LT 315). Tin tưởng vào những lời dối trá, đồn thổi, hay đầu hàng chỉ khiến bạn thêm hoang mang, hoảng sợ mà thôi. Bạn nên tin tưởng vào những lời khuyên của các chuyên gia y tế hơn là của những người đang sợ hãi, lo lắng.

Hoang mang dễ khiến bạn bối rối, hãi sợ dễ lấy đi ơn trợ giúp Chúa muốn ban cho bạn. Tất nhiên, hoang mang, sợ hãi không đến từ Thiên Chúa. Vậy điều gì đến từ Thiên Chúa? Thánh Inhaxiô nói rằng, Thần khí của Thiên Chúa, hay thần lành, “đem đến sự can đảm và sức mạnh, an ủi và ơn soi sáng cùng bình an.” (Lt 315). Và đây là cơ hội tin tưởng vào sự bình tĩnh và hy vọng bạn đang cảm nhận. Hãy lắng xuống và bắt đầu nghe lời thì thầm của Thần Khí. Chúa Giêsu sẽ đến bên và an ủi bạn: “Đừng sợ!” như Người đã nhiều lần trấn an các môn đệ năm xưa.

Đừng sợ! Chính Thầy đây mà!

Thứ đến, bạn chớ để mình trở thành con cái của sự dữ.Một câu chuyện thật buồn xảy ra ở NewYork thời điểm này năm ngoái. Khi một ông già người Trung Quốc bước lên tàu điệm ngầm, cả toa la hét, bỏ chạy, và bắt đầu những lời thoá mạ với ông vì cho rằng Trung Quốc đã để cho Covid-19 lây lan. Thật thế, trong những thời điểm căng thẳng, nhất là giữa đại dịch này, chống lại những cám dỗ đó của ma quỷ không phải chuyện dễ dàng. Đại dịch này có lẽ không phải là căn bệnh của Trung Quốc, hay vi rút Vũ Hán gì đó. Nó cũng không hẳng là một căn bệnh ngoại lai. Nó cũng không phải lỗi của ai cả. Đến cả những bệnh nhân Covid-19 cũng không hề đáng trách. Bạn có thể nhớ lại trình thuật Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ đã hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Nhưng Đức Giêsu trả lời:”Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga9, 1-3) Dịch bệnh không phải là một hình phạt. Thế nên, bạn không thể đổ lỗi cho ai, cho một nhóm người, hay quốc gia nào. Đó có lẽ là mưu mô của ma quỷ. Hãy nhớ rằng, Covid-19 có thể ngăn cản rất nhiều thứ xung quanh bạn, nhưng nó không thể cản lối tình yêu.

 

Covid-19 không thể cản lối tình yêu.

Chăm sóc các bệnh nhân là phương thế thứ ba. Đại dịch này có thể là một chặng đường dài. Bất cứ ai trong số người thân, bạn bè của bạn cũng có thể trở thành nạn nhân cho nó. Vậy, làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ người khác là điều rất tuyệt vời lúc này, nhất là những người thân yêu, những người già cả, tàn tật, nghèo khó và vô gia cư. Có lẽ thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh lây lan là cần thiết, nhưng đừng quên rằng bổn phận cơ bản của các Kitô hữu là giúp đỡ tha nhân. Thật thế, trong cuộc phán xét chung, Đức Vua sẽ nói:“Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm.”(Mt 25, 36) Và cái kết là “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40).

Vào thời Chúa Giêsu, người dân làm gì có cơ hội tiếp cận với sự chăm sóc y tế như hiện nay, và việc thăm viếng người bệnh trở nên cực kỳ nguy hiểm. Thế mà, Người vẫn khích lệ các môn đệ thăm viếng bệnh nhân trong mọi hoàn cảnh, và chính Người là mẫu gương sáng ngời cho nghĩa cử cao đẹp đó. Tiếp nối truyền thống ấy, Hội Thánh cũng tiếp tục khuyến khích con cái mình chăm sóc các bệnh nhân, thậm chí là giúp đỡ họ về mặt vật chất. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang mời gọi bạn mở rộng con tim với những ai nghèo khổ, những người vô gia cư và lạc lõng. Người mời gọi bạn đến với những ai đang cần bạn và huấn luyện lương tâm của bạn qua những thực hành bác ái ấy.

Phương thế thứ tư là cầu nguyện. Các nhà thờ tại Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới phải đóng cửa. Các Thánh Lễ và sinh hoạt giáo xứ cũng bị huỷ bỏ. Đó có lẽ là một giải pháp thận trọng và cần thiết để đảm bảo an toàn cho mọi tín hữu cũng như sức khoẻ cộng đồng. Nhưng chúng ta đang phải trả một cái giá quá đắt. Đối với rất nhiều người, Thánh Lễ và Thánh Thể là một nguồn an ủi rất lớn trong đời sống của họ. Thế mà nay còn đâu nữa! Họ cũng bị cô lập với cộng đoàn vào thời điểm họ rất cần sự trợ giúp.

Chúng ta có thể làm gì đây? Đã có rất nhiều Thánh Lễ, buổi cầu nguyện online được diễn ra khắp nơi trên cả nước. Nhưng ngay cả khi bạn không thể tham dự được, bạn vẫn có thể cầu nguyện riêng. Khi đó, bạn sẽ hiểu rằng mình là một phần của cộng đoàn dân Chúa. Hơn thế nữa, rước lễ thiêng liêng, một truyền thống lâu đời trong các nhà thờ Công giáo, vẫn đang được nhiều Kitô hữu, nhiều nhóm, hội đoàn thực hiện. Nhờ thế, bạn có thể hiệp nhất với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện của mình.

Hãy sáng tạo! Có nhiều người đã suy niệm với Tin Mừng, tham khảo chú giải Kinh Thánh về các bài đọc, và cùng gia đình chia sẻ Lời Chúa. Có nhiều người cũng đã nhắn tin, gọi điện cho bạn bè, người thân, và chia sẻ kinh nghiệm cá nhân về Thiên Chúa ngay giữa cơn khủng hoảng của đại dịch. Thật thế, khi xưa, các bậc cha ông chúng ta đã cầu nguyện và chia sẻ, nâng đỡ đức tin cho nhau trong thời kỳ bách hại đạo. Hôm nay, noi gương các ngài, bạn và tôi cũng có thể làm như vậy. Khi xưa, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ:”Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho; vì đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18, 20 -21). Hôm nay, bạn và tôi cũng thể làm như vậy. Bạn nên nhớ rằng, nhà thờ là một cộng đoàn chứ không phải một toà nhà.

Nhà thờ là một cộng đoàn chứ không phải một toà nhà.

Phương thế cuối cùng là tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên bạn. Hãy tin tưởng vào điều đó! Hàng triệu người dân Việt Nam, nhất là các bệnh nhân Covid-19, đang bị cách ly. Điều ấy càng khiến nỗi sợ hãi tăng lên bội phần. Có lẽ sẽ đến một ngày, bạn cũng có thể bị nhiễm Covid chăng? Rồi bạn sẽ tự hỏi: “Tại sao điều này lại xảy ra?”

Dường như chẳng có câu trả lời thoả đáng cho bạn. Nhưng đằng sau đó là sự tồn tại của đau khổ. Điều này là một bí ẩn quá lớn. Trải qua nhiều thế kỷ, các vị thánh và các thần học gia đã tốn quá nhiều giấy mực cho vấn nạn này. Sâu xa hơn, bạn có thể tự hỏi, làm sao tôi có thể tin vào một Thiên Chúa mà tôi không hiểu?

Thế nhưng, bạn và tôi biết rằng, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi đau của bạn và đồng hành với bạn theo một cách rất riêng. Khi xưa, Người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết cho các bệnh nhân. Người hiểu rõ mối nguy của bệnh tật, nhưng vẫn tiến lại gần, an ủi và chữa lành họ. Hôm nay, Người cũng hiểu rõ mọi nỗi sợ, lo lắng của bạn. Đức Giêsu hiểu thấu con người bạn không chỉ bởi Chúa là Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, mà còn bởi Chúa cũng là con người giống bạn và “chịu thử thách về mọi phương diện” (Dt 4,15) như bạn cũng như kinh nghiệm mọi sự trên trần gian.

Hãy đến với Người trong lời cầu nguyện, và tin tưởng Người sẽ lắng nghe và ở bên bạn.

Hãy tin tưởng vào những lời cầu nguyện của tôi, của bạn, và của anh chị em Việt Nam chúng ta.

Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta cùng nhau vượt qua đại dịch này.

  

13. Vị thánh chúng ta cần đến trong cơn đại dịch

 (Tác giả: James Martin, S.J. - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển Từ: worldmissionmagazine.com - Nguồn:giaophannhatrang.org)

WGPNT (29.7.2021) - Đại dịch Covid-19 đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và tiếp tục lan tràn khắp thế giới, buộc nhiều người phải sống cách ly và ẩn mình. Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu, đã sống một cuộc đời âm thầm, hơn bao giờ hết Ngài là vị thánh bảo trợ mà chúng ta cần đến trong những lúc khó khăn này.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố Năm Thánh Giuse nhằm tôn kính một trong những vị thánh mà ngài yêu thích. Bằng Tông thư Với trái tim người cha (Patris Corde), Đức Giáo hoàng mời gọi Giáo hội hoàn vũ suy niệm và kêu cầu sự bảo trợ từ người cha nuôi của Đức Giêsu.

Mẫu gương và sự bảo trợ của thánh Giuse đến thật đúng lúc. Vào thời điểm mà đại dịch toàn cầu đã buộc hàng triệu người sống trong nhà, cách ly, và cô đơn, chúng ta có thể xem thánh Giuse như là khuôn mẫu của đời sống thầm lặng. Chúng ta cũng biết rằng thánh Giuse đã mất trước khi Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai; như vậy, chắc chắn người chồng của Đức Maria cũng đã quen với khổ đau. Vì thế, cũng có thể xem ngài là đấng bảo trợ, cầu bầu cho chúng ta vì Ngài thấu hiểu cuộc chiến đấu của chúng ta với bệnh tật.

Nhưng chúng ta biết gì về đấng bảo trợ và đồng hành này? Giống như nhiều vị thánh vào những thời kỳ đầu của Giáo hội, chúng ta biết rất ít về thánh Giuse, ngoài vài dòng được nhắc đến trong các sách Tin mừng. Ngài thuộc dòng dõi vua Đavít và đã đính hôn với một thiếu nữ làng Nadarét. Khá bất ngờ khi biết tin Đức Maria mang thai, nhưng ông Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà” (Mt 1,19) như Tin mừng Matthêu thuật lại; Ngài đã định tâm hủy bỏ hôn ước cách kín đáo. Do đó, ngay cả trước khi Đức Giêsu chào đời, ông Giuse đã thể hiện tròn đầy lòng trắc ẩn và tha thứ.

Nhưng Thiên Chúa lại có những kế hoạch khác. Giống như tổ phụ Giuse trong tình huống khó khăn nơi sách Sáng thế, Thiên Chúa cũng dùng một giấc mơ để bày tỏ kế hoạch cứu độ cho người thợ mộc làng Nadarét. Trong giấc mơ, thiên thần cho thánh Giuse biết bí mật về Đức Maria: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Sau khi Đức Maria sinh con, cũng chính thiên thần đó bảo ông Giuse đưa Hài nhi và Mẹ Người sang Ai Cập để trốn vua Hêrôđê tàn ác. Và thánh Giuse đã vâng nghe.

Còn vài câu chuyện nữa về cậu Giêsu – bị lạc trong chuyến hành hương và được tìm thấy đang giảng dạy trong đền thờ – và rồi chúng ta biết đến quãng đời ẩn dật của Đấng Cứu thế. Tất cả những gì Tin mừng Luca nói về 18 năm đó là thế này: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).

Thời gian thánh Giuse

Những năm đó là thời gian của thánh Giuse – thời gian dành để chăm sóc và dạy nghề thợ mộc cho người con nuôi. Nơi xưởng mộc của ông Giuse ở Nadarét, có lẽ Đức Giêsu đã được chỉ dẫn về các nguyên liệu thô của nghề mộc: loại gỗ nào thích hợp nhất để làm bàn ghế, loại gỗ nào tốt nhất để làm ách và cày. Là người giàu kinh nghiệm, ông Giuse có lẽ đã dạy cho anh thợ học nghề này cách đóng đinh bằng búa, cách khoan thẳng và sâu vào ván, và cách bào phẳng mép gỗ hay thanh đà.

Thánh Giuse có lẽ cũng đã truyền lại cho Đức Giêsu những giá trị cần có để trở thành một người thợ mộc giỏi. Bạn cần kiên nhẫn (để đợi gỗ khô và có thể sử dụng), khả năng phán đoán chính xác (để đảm bảo rằng dây dọi đã thẳng), sự kiên trì (để chà nhẵn mặt bàn) và sự trung thực (để tính giá hợp lý cho mọi người).

Cùng với người thầy dạy nghề của mình, anh thanh niên Giêsu đã lao động và xây dựng, đóng góp suốt quãng thời gian đó cho lợi ích chung của làng Nadarét và các làng mạc xung quanh. Không khó để hình dung những đức tính mà Đức Giêsu học được từ người thầy của mình – kiên nhẫn, phán đoán chính xác, kiên trì và trung thực – đã giúp ngài chu toàn tốt sứ vụ sau này. Thánh Giuse đã giúp trang bị cho Đức Giêsu điều mà nhà thần học Dòng Tên John Haughey gọi là “khí cụ cần thiết nhất để cứu độ thế giới.”

Cái chết sớm của ông Giuse

Tuy nhiên gần như ngay sau khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì thánh Giuse biến mất – ít nhất là trong các trình thuật Tin mừng. Điều đáng chú ý là ông Giuse không có tên trong số các khách mời dự tiệc cưới Cana, đánh dấu khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Phải chăng ông đã mất trước khi người con trai đến tuổi trưởng thành?

Vài năm trước, trong một cuộc triển lãm nghệ thuật tại nhà thờ Chánh tòa thánh Gioan của Giáo hội Trưởng lão ở thành phố New York, tôi đã bắt gặp một bức chân dung có tên là “Cái chết của thánh Giuse.” Nơi bức chân dung lớn, họa sĩ Francisco Goya vẽ một ông Giuse ốm yếu nằm trên giường. Đứng bên cạnh là anh thanh niên Giêsu, có lẽ khoảng 16 hay 17 tuổi, không để râu, mặc áo choàng dài, chăm chú nhìn thánh Giuse. Ngồi bên giường là Mẹ Maria.

Bức tranh của Goya ghi lại thật đẹp nỗi buồn bao trùm trước cái chết sớm của thánh Giuse. Nỗi buồn như vậy cũng đã xảy ra với chúng ta nhiều tháng qua, nỗi buồn bao quanh cái chết của rất nhiều người do dịch Covid.

Theo truyền thống, thánh Giuse được kêu cầu như là bổn mạng “kẻ mong sinh thì” [kẻ chết lành]. Tuy nhiên cái chết của thánh Giuse có lẽ không phải không gây bất an đối với Đức Giêsu hay Mẹ Maria. Các sách Tin mừng không kể gì về việc than khóc. Không chỗ nào cho biết nỗi sầu khổ của Mẹ Maria, hay nỗi đau buồn của Đức Giêsu. Thế nên Thánh gia cũng giống như bao gia đình ngày nay đang đau buồn khi mất cha mẹ, ông bà, cô bác, anh chị em và con cái trong cơn đại dịch. Họ cũng đã gánh chịu phần lớn nỗi đau trong cảnh cách ly, nhưng lại không thấy xuất hiện trên bất kỳ bản tin nào.

Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse

Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse cũng có thể nói với những người bị áp đảo trong cơn đại dịch này; họ tự hỏi liệu Chúa có ở với họ, có nhìn thấy họ không. Chỉ xuất hiện thoáng qua trong các sách Tin mừng, không nói một lời nào, thánh Giuse đã sống một cuộc đời âm thầm phục vụ Thiên Chúa, một cuộc sống mà chúng ta gần như không hề biết đến. Tuy nhiên, cuộc sống của Ngài có giá trị vô cùng, đầy những hành động yêu thương âm thầm, kín đáo, dù không được ghi lại. Cuộc đời của thánh Giuse nói với tất cả chúng ta: “Chúa nhìn thấy tất cả.”

Cuộc đời âm thầm của Ngài thật gần gũi với hàng triệu con người đang nỗ lực tìm cách vượt qua cơn đại dịch: những nhân viên y tế ở tuyến đầu, mà những hy sinh âm thầm không được biết đến ngay cả với gia đình của họ. Những cha mẹ đơn thân không thể tâm sự cùng ai nỗi lo lắng khôn nguôi về con cái mình.

Những người con lớn tuổi có cha mẹ già đang sống trong nhà dưỡng lão, lo sợ về sự lây lan của dịch bệnh giữa những cư dân cao tuổi. Nhân viên kiểm soát, tài xế công cộng, thợ bảo trì, hầu như không đủ sống trước cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm, giờ đây không có cách nào để “làm việc tại nhà.” Linh mục dù đã cử hành vô số đám tang cho các nạn nhân Covid và gia đình của họ, lo lắng không thể an ủi họ như mong muốn. Các bệnh nhân Covid đang chết trong cô đơn, than khóc trong thất vọng và đau khổ, tự hỏi không biết điều gì đang xảy ra.

Có rất nhiều cuộc đời âm thầm, biết bao hành động yêu thương không được nhìn thấy trong cơn đại dịch này. Biết bao lời cầu nguyện thầm kín cất lên đến tận thiên đàng. Người bạn thanh sạch của Đức Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu, thấu hiểu tất cả.

Lạy thánh Giuse, đấng bảo trợ những cuộc đời âm thầm, đấng bảo trợ trong cơn đại dịch này, xin cầu cho chúng con, năm nay và mãi mãi.

 

 

14. Sự chết, đau khổ, sợ hãi...

(Từ: avvenire.it [28/03/2020) - Chuyển ngữ: An Bình, C.Ss.R. - Nguồn: hdgmvietnam.com)

Đại dịch Covid-19 dưới nhãn quan Kinh Thánh

Có phải Covid-19 là một sự trừng phạt của Thiên Chúa không? Hiệu quả của việc cầu nguyện trong đại dịch ra sao? Có phải đức tin chỉ dựa vào các phép lạ không? Dựa trên một vài đoạn Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau suy tư về những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay...

WHĐ (03.9.2021) - Có phải Covid-19 là một sự trừng phạt của Thiên Chúa không? Hiệu quả của việc cầu nguyện trong đại dịch ra sao? Có phải đức tin chỉ dựa vào các phép lạ không? Dựa trên một vài đoạn Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau suy tư về những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay.

Trong giai đoạn buộc phải ở nhà này, lời khuyên trở về với các bài đọc, đào sâu và sống nội tâm với các bản văn Kinh Thánh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Vậy thì còn thời điểm nào thuận lợi hơn để cầm trên tay cuốn Kinh Thánh mà chúng ta có trong nhà mình? Quả thực, trong những trang Kinh Thánh, chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự gợi ý cho việc suy tư (nếu không muốn nói chính là câu trả lời) cho những chất vấn hiện sinh mà đại dịch đặt ra cho mỗi chúng ta. Vì vậy, chúng ta thử xem xét một số đoạn Thánh Kinh để giúp chúng ta hiện thực hóa việc đọc trong khoảng thời gian tạm ngưng giữa nỗi sợ hãi về một dịch bệnh nguy hiểm và “sự im lặng của Thiên Chúa”.

Nỗi sợ hãi cái chết

Để mở đầu cho những suy tư ngắn này, chúng ta cùng nhau đọc và suy ngẫm về đoạn Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 11,1-45) nói về việc Chúa Giê-su hồi sinh sự sống cho anh La-za-rô. Người bạn của Chúa Giêsu bị chết sau một cơn bạo bệnh (một chi tiết khiến chúng ta cảm thấy câu chuyện của anh ta rất thời sự, giống như sự ra đi của những người bị nhiễm Covid ngày hôm nay vậy) trước khi Chúa Giê-su có thể đến kịp thời (ít nhất là như lời “trách móc” mà người chị gái Mat-ta nói với Chúa: “Nếu Thầy ở đây, em con đã không chết”; và cách thể hiện nỗi đau rất người này cũng tạo nên cầu nối giữa bi kịch đang diễn ra hôm nay và đoạn Tin Mừng này).

Nhưng vượt trên tất cả, có một chi tiết trong câu chuyện Tin Mừng này khiến chúng ta sững sờ: sự khóc lóc của Chúa Giê-su. Dù biết rằng, trong vài phút nữa Ngài sẽ làm cho bạn của mình sống lại. Thật vậy, Đức Kitô chia sẻ với chúng ta mọi điều, ngoại trừ tội lỗi: ngay cả nỗi sợ hãi về cái chết và nỗi đau mất mát người thân yêu. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, không lâu trước khi bị bắt, chính Chúa Giê-su đã đổ mồ hôi máu và cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này khỏi con! Nhưng không phải theo ý con, mà để ý Cha được thực hiện” (Lc 22,42). Trong hoàn cảnh đau buồn như hiện nay, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có một “người đồng hành” đảm bảo hơn mọi thứ. Bởi vì, Chúa Giê-su là người đầu tiên cảm nghiệm được cảm giác sợ hãi của chúng ta và Ngài đã kinh nghiệm được“sự thinh lặng của Thiên Chúa Cha”, điều mà hôm nay dường như chúng ta không thể chịu đựng được.“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34), những tiếng than van này là lời cuối cùng của Ngài trên thập giá. Nhưng chắc chắn điều đó không phải là điểm kết thúc của biến cố Con người-Thiên Chúa của Ngài. Một điểm trong thời gian đại dịch Covid hoành hành có thể khiến chúng ta suy tư, đó là sự chết, điều mà sau nhiều thập kỷ tuyên truyền đã khiến chúng ta loại bỏ nó khỏi tầm nhận thức “văn hóa” của mình, ngoại trừ làm gia tăng nó trong những việc làm không bình thường (như phá thai, trợ tử, an tử...) hoặc thậm chí gây mê nó bằng một số các hình thức biểu diễn nào đó.

Mầu nhiệm thập giá và đau khổ

Mặt khác, toàn bộ Thánh Kinh, phơi bày ra trước mắt chúng ta mầu nhiệm của thập giá và đau khổ. Mầu nhiệm đó mang tính cứu rỗi. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2020, trong một cuộc phỏng vấn với báo Avvenire, Đức Hồng y Giuseppe Betori, Tổng giám mục của Florence và là một học giả Thánh Kinh tài giỏi, đã nhắc lại đoạn Thánh Kinh trong sách Dân số (Ds 21,4-9) liên quan đến “bệnh dịch”. Bệnh dịch đã tấn công dân Ít-ra-en trong sa mạc khi rắn cắn họ và gây ra cảnh chết chóc. “Ở thời điểm đó, sự cứu thoát đến từ con rắn đồng do Mô-sê treo lên, điều mà chúng ta biết sau này Chúa Giêsu xem đó như là dấu chỉ của chính mình và của thập giá Ngài mà phải chịu. Đức Hồng y giải thích rằng: Ngày hôm nay, tôi tin rằng đối với một Kitô hữu, việc nhìn vào “những con rắn” vô hình đang tấn công chúng ta (Covid-19) phải khiến chúng ta hướng nhìn lên Đức Ki-tô, theo cách mà Ngài đã hiến mình vì chúng ta. Bởi vì, chỉ bằng cách tái khám phá lại sự phục vụ và hy sinh, như khuôn mẫu cho đời sống của chúng ta, chúng ta mới có thể thay đổi thế giới”.

Hay đối với Đức Hồng y Gianfranco Ravasi, một học giả Thánh Kinh quan trọng khác, trong một bình luận về đoạn Thánh Kinh tương tự cũng nhấn mạnh: “‘Việc nâng lên’ trên thập giá là một kiểu tôn vinh, cây gỗ đáng sợ đó trở thành ngai Thiên Chúa, sự đóng đinh là khởi đầu của phục sinh – suối nguồn giải thoát khỏi ác thần cho toàn thể nhân loại. Chính Chúa Giê-su, trước khi bước vào Cuộc Khổ Nạn, Ngài đã nói: “Khi ta được cất lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Gv 12,32). Trong thời gian này, chúng ta có thể đóng lại để chúng ta được thu hút bởi Đấng đã chịu đóng đinh, như ĐTC Phan-xi-cô đã nhiều lần làm chứng, nó không phải như một hành động sùng kính đơn thuần, nhưng để chứng minh tính chắc chắn rằng thập giá dẫn đến Đấng Phục Sinh.

Sức mạnh của lời cầu nguyện

Tất cả những gì chúng ta vừa nói ở trên đều dẫn đến sức mạnh của việc cầu nguyện. Về vấn đề này, chúng ta đọc đoạn Thánh Kinh được nói ở trong Cựu Ước trích từ sách Xuất Hành (Xh 17,8-16). Ông Mô-sê cầu nguyện giơ hai tay hướng lên trời trên một ngọn đồi, trong khi ông Giô-suê chiến đấu ở vùng đồng bằng phía dưới chống lại người A-ma-lếch. Những lời cầu nguyện của ông có ý nghĩa quyết định đến chiến thắng cuối cùng. Thiết nghĩ, cũng cần phải đề cập đến sự đóng góp của ông A-ha-ron và ông Khua – những người luôn sát cánh bên Mô-sê để giữ vững cánh tay của ông. Các nhà chú giải đã thấy trong đoạn Thánh Kinh này một trong những khuôn mẫu hoàn chỉnh nhất của lời cầu nguyện Kitô giáo, nơi chiều dọc (nghĩa là mối tương quan giữa thụ tạo và Đấng Tạo Hóa) và chiều ngang (kéo dài sự cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày) hợp nhất với nhau một cách lạ lùng. Trên thực tế, lời cầu nguyện của Mô-sê hỗ trợ trận chiến của Giô-suê theo cách mang tính quyết định, nhưng không thay thế nó. Vì thế, lời cầu nguyện không phải là cây đũa thần, tự nó có quyền năng làm nên phép lạ, nhưng ngược lại, nó là sự tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Và đồng thời lời cầu nguyện đó đòi hỏi phải được chuyển hóa vào trong các “cuộc chiến đấu” nhỏ hay lớn mỗi ngày. Lời cầu nguyện sử dụng những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta: chẳng hạn như sự thông minh của khoa học và ý chí tự do tương ứng với điều thiện. Thánh Gia-cô-bê đã nói từ nhiều thế kỷ trước: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Vào thứ Sáu, ngày 27 tháng 3 năm 2020, với buổi cầu nguyện ở quảng trường của Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, ĐTC Phan-xi-cô đã khiến chúng ta hồi tưởng lại trang Thánh Kinh này. Ngay cả Giáo Hoàng, một Mô-sê mới, từ đồi Vatican đã giơ đôi tay trong lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng luôn hiện diện và hằng sống trong Bí tích Thánh Thể. Và ngài đã làm như vậy cũng để nâng đỡ “nhiều Giô-suê” hiện đang tham gia vào “chiến trường” của các khu bệnh viện và các môi trường khác nhau trong cuộc chiến chống lại virus Corona. Lời cầu nguyện của ngài nâng đỡ và khuyến khích họ. Trong khi đó, cánh tay của ngài được giữ vững bởi ông A-ha-ron và ông Khua, tức là từ những lời cầu nguyện của chúng ta hiệp thông với những lời cầu nguyện của ngài. Và vì vậy, tất cả cùng nhau, chúng ta tin tưởng rằng kẻ thù (trong trường hợp này là Covid-19) sẽ bị đánh bại.

Nhưng chẳng lẽ virus Corona lại là hình phạt của Thiên Chúa sao?

Đây cũng là câu hỏi được nghe đi nghe lại nhiều lần trước sự lây lan của dịch bệnh. Đức Hồng y Betori, (trong cuộc phỏng vấn với báo Avvenire đã nhắc đến ở trên) đã bàn về vấn đề này ngang qua đoạn Lời Chúa được trích từ Tin Mừng của Thánh Lu-ca (Lc 13,1-5). Đó là đoạn nói về việc Chúa Giê-su trả lời cho những người xin Ngài lời giải thích về vụ thảm sát người Ga-li-lê. Họ bị Phi-la-tô giết chết và sau đó chính Ngài đề cập đến sự việc 18 người bị chết vì sự sụp đổ của tháp Si-lô-ác. Đức Hồng y Betori giải thích: “Tôi cảm thấy rằng, ngày hôm nay cũng có nhiều người tự hỏi, làm thế nào để đặt vào trong mối tương quan giữa những điều đang xảy ra với lòng nhân lành của Thiên Chúa? Và như thế, đại dịch Covid-19 được hiểu như là sự trừng phạt của Thiên Chúa sao? Chúa Giê-su nói rằng những người bị giết chết không có tội hơn những người khác. ‘Nhưng nếu các ông không chịu sám hối – Ngài cảnh báo – thì các ông cũng sẽ bị chết như vậy’. Vì vậy, đây không phải là một hình phạt nhưng đúng hơn là một lời mời gọi sám hối. Đức Hồng y nhấn mạnh: “điều này liên quan đến cả việc suy nghĩ lại về lối sống của chúng ta và cả những chọn lựa mang tính định hướng cho xã hội thời đại của chúng ta. Tôi lấy một ví dụ: chúng ta hãy xem kinh phí cho việc nghiên cứu khoa học quan trọng biết chừng nào. Tại sao chúng ta không cấm việc sản xuất và buôn bán vũ khí để lấy kinh phí đó dành cho việc nghiên cứu khoa học mang lại lợi ích cho con người? Chúng ta biết rằng, việc chạy đua vũ trang biểu trưng cho một xã hội nhầm lẫn về niềm vui và hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng tình cảnh này mời gọi chúng ta làm một cuộc hoán cải thực sự. Nếu không muốn bị thua cuộc, thì đây được xem như là bổn phận của cả nhân loại chứ không riêng gì người Kitô hữu hay những người có tôn giáo”.

Cha Lorizio, một nhà thần học gia cũng đưa ra kết luận tương tự, ngài trích dẫn đoạn Thánh Kinh nói về việc chữa lành cho người mù bẩm sinh trong Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 9,1-41), trong một bài báo xuất bản trên Famiglia Cristiana. Đối với những người hỏi Ngài: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Chúa Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Do đó, Cha Lorizio chú thích rằng: “Chúa Giê-su làm đảo lộn nền thần học thời của Ngài, một nền thần học giải thích mọi hình thức của đau khổ như là hậu quả của tội lỗi. Ngài loại bỏ khuôn mẫu của sự trừng phạt”. Nhưng đoạn Thánh Kinh này đóng vai trò cầu nối để giới thiệu cho chúng ta một chủ đề khác đáng để suy ngẫm hơn.

Các phép lạ phục vụ cho điều gì?

Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả những hoàn cảnh bi đát nhất, Cha Lorizio trả lời trong bài báo nói trên, “chúng được trao cho chúng ta bởi vì trong những hoàn cảnh đó bày tỏ chính ‘mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa’”. Và, nếu trong trường hợp của người mù bẩm sinh, sự chữa lành đến từ sự trộn lẫn nước bọt của Chúa Giê-su và bụi đất, thì ơn cứu độ, sự chữa lành có thể được nảy sinh từ cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa ân sủng và tự nhiên. Nước bọt của Chúa Giê-su là dấu chỉ của Thiên Chúa, của tính siêu nhiên, được bày tỏ trong nhân tính của Ngài. Trong khi đó, đất lại biến thành bùn, điều đó nói với chúng ta rằng sự chữa lành sẽ được sản sinh từ đất, nghĩa là bởi sự dấn thân của chúng ta ngang qua trí thông minh và khoa học (nghiên cứu khoa học) và sự thực hành của ý chí tự do (tôn trọng các nguyên tắc và tình liên đới)”.

Tương tự như vậy, đoạn Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu dẹp sóng gió (Mc 4,35-41), được công bố vào thứ Sáu ngày 27 tháng 3 năm 2020 trong buổi cầu nguyện của ĐTC tại quảng trường Thánh Phêrô, cũng đi theo hướng đó. Trong con thuyền bị trận cuồng phong lật tung (giống như nhân loại của chúng ta trong thời đại dịch Covid-19) có Chúa Giêsu luôn ở cùng, chúng ta không được sợ hãi, như ĐTC nhấn mạnh. Chúng ta phải cầu xin Ngài chấm dứt “sự thinh lặng của Thiên Chúa”, tượng trưng bởi giấc ngủ của Ngài. Và Ngài, Đấng có quyền năng ngay cả với các hiện tượng tự nhiên, sẽ luôn luôn sẵn sàng cứu giúp. Tuy nhiên, mục đích của mô phạm này của Thiên Chúa, chắc chắn không phải dừng lại ở những “hiệu ứng đặc biệt” của chính phép lạ, nhưng xa hơn là ở câu hỏi, (không phải ngẫu nhiên mà thánh sử Mác-cô đặt vào môi miệng các tông đồ sau khi trở lại trạng thái yên tĩnh): “Vậy người này là ai, cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” Nói một cách đơn giản, mọi thứ phải kết hợp lại với nhau để tăng thêm đức tin của chúng ta vào Đức Kitô. Bây giờ, chúng ta hãy cầu xin sự trợ giúp của Ngài. Và sau này, khi – như chúng ta tin tưởng – mối nguy hiểm của virus Corona bị đánh bại, chúng ta cần biến đức tin của mình thành hành động.

 

 

 

15. Bài suy tư của Đức Thánh Cha

ĐTC Phanxicô: Trong khủng hoảng cần kiên vững trong đức tin.

(Văn Yên, SJ - Vatican News)

Sau thời gian hè ngưng các buổi tiếp kiến chung trong tháng 7, lúc 10h sáng 5/8, Đức Thánh Cha trở lại với các buổi tiếp kiến chung hằng tuần mỗi thứ Tư. Trở lại với các buổi tiếp kiến trong tháng 8, Đức Thánh Cha không tiếp tục các bài giáo lý như thường lệ, nhưng với tình hình đại dịch hiện tại, Đức Thánh Cha sẽ có một loạt bài suy tư về đại dịch, từ hôm nay và trong những tuần kế tiếp.

Sau đây là bài suy tư của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Dịch bệnh đang tiếp tục gây ra những tổn thương ghê gớm, làm bộc lộ sự mong manh của con người. Đã có nhiều người chết, rất nhiều người nhiễm bệnh, ở tất cả các châu lục. Nhiều cá nhân và gia đình đang sống thời khắc vô định gây ra bởi những vấn đề kinh tế-xã hội, đặc biệt là những người nghèo.

Bởi thế, chúng ta cần kiên định hướng mắt về Chúa Giêsu (x. Dt 12,2) và với đức tin này, chúng ta ôm ấp niềm hy vọng vào Nước Trời mà chính Đức Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta (x. Mt 1,5; Mt 4,17; GLGHCG 2816). Một Vương quốc của chữa lành và cứu độ đã ở giữa chúng ta (x. Lc 10,11). Một Vương quốc của công lý và hoà bình thể hiện ngang qua việc bác ái, và từ đó làm gia tăng niềm hy vọng và củng cố đức tin (x. 1 Cr 13,13). Trong truyền thống Kitô giáo, đức tin, đức cậy và đức mến có ý nghĩa to lớn chứ không đơn thuần là những cảm thông hay thái độ. Đó là nhân đức mà Chúa Thánh Thần trao tặng cho chúng ta (x. GLGHCG 1812-1813); những quà tặng chữa lành chúng ta, mở ra cho ta những chân trời mới, ngay cả khi chúng ta đang vật lộn với tình huống khó khăn như hiện nay.

Một cuộc gặp gỡ mới với Tin Mừng trong đức tin, đức cậy và đức mến mời gọi chúng ta đảm nhận một tinh thần sáng tạo và đổi mới. Trong cách thức này, chúng ta mới có thể chuyển hoá từ gốc rễ những hạn chế thể lý, tinh thần và xã hội. Chúng ta mới có thể chữa lành tận căn những bất công mang tính cơ cấu và những hoạt động mang tính phá huỷ đang chia rẽ chúng ta, đang đe doạ gia đình nhân loại và toàn thể trái đất này.

Sứ vụ của Đức Giêsu thực hiện rất nhiều phép lạ chữa lành: chữa lành người bị sốt (x. Mc 1, 29-34), người phong (x. Mc 1,40-45), người bại liệt (x. Mc 2, 1-12), người mù (x. Mc 8, 22-26; Ga 9, 1-7), người câm và điếc (x. Mc 7,31-37). Trong thực tế, chữa lành không chỉ là bệnh thể lý, mà là toàn bộ con người. Theo đó, người được chữa lành trở lại với cộng đoàn, được giải thoát khỏi tình trạng cô lập vì đã được chữa lành.

Chúng ta hãy chiêm ngắm trình thuật chữa lành người bại liệt ở Ca-pha-na-um (x. Mc 2,1-12), một trình thuật tuyệt đẹp mà chúng ta vừa nghe. Trong khi Đức Giêsu rao giảng ở trong nhà, bốn người khiêng người bạn bại liệt đến với Đức Giêsu; và vì không thể đi vào nhà do đám đông chật kín, họ là dỡ mái nhà và thả người bại liệt xuống trước mặt Đức Giêsu. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ‘Này con, con đã được tha tội rồi.’” (c. 5). Và Ngài nói thêm, như dấu chỉ khả giác, “Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” (c. 11).

Phép lạ chữa lành thật tuyệt vời! Hành động của Đức Giêsu là phản ứng trực tiếp với đức tin của những người ấy, với đức cậy mà họ đặt nơi Ngài, với đức ái mà họ thể hiện với tha nhân. Đức Giêsu đã chữa lành, không chỉ là người bại liệt, mà tất cả, Ngài tha hết tội lỗi, làm mới lại cuộc sống của người bại liệt và của các bạn anh. Chúng ta có thể nói Đức Giêsu tái sinh tất cả. Một sự chữa lành cả thể lý và tinh thần, tất cả với nhau, là hoa trái của cuộc gặp gỡ cá vị và cộng đoàn. Chúng ta thử nghĩ đến tình bạn như thế, và đức tin của tất cả những ai hiện diện trong nhà, tất cả được củng cố nhờ phép lạ của Đức Giêsu. Cuộc gặp gỡ chữa lành với Đức Giêsu!

Chúng ta tự hỏi: chúng ta có thể góp phần chữa lành thế giới hôm nay không? Như các môn đệ của Thầy Giêsu, là thầy thuốc linh hồn và thể xác, chúng ta được mời gọi tiếp tục “hành động chữa lành và cứu độ của Ngài” (GLGHCG 1421) theo nghĩa thể lý, cộng đoàn và tinh thần.

Giáo Hội, mặc dù thi hành ân sủng chữa lành của Chúa Kitô ngang qua các Bí tích, và dù cung cấp những hỗ trợ y tế đến mọi ngóc ngách của thế giới, vẫn không phải là chuyên gia trong việc phòng và chống đại dịch. Giáo Hội cũng không thể đưa ra những hướng dẫn đặc thù mang tính xã hội-chính trị (x. Th. Phaolo VI, tông thư Octogesima adveniens, 14 tháng Năm 1971, 4). Đây là nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo chính trị và xã hội. Tuy vậy, xuyên suốt nhiều thế kỷ, và dưới ánh sáng Tin Mừng, Giáo Hội đã đưa ra một vài nguyên tắc xã hội căn bản (x. Tóm lược Học thuyến xã hội của Giáo Hội, 160-208), những nguyên tắc có thể giúp chúng ta vượt qua khó khăn và để chuẩn bị cho tương lai. Tôi xin trích dẫn những nguyên tắc chính, có liên hệ mật thiết với nhau: nguyên tắc về nhân phẩm con người, nguyên tắc về công ích, nguyên tắc về lựa chọn ưu tiên người nghèo, nguyên tắc về phân phối tài sản phổ quát, nguyên tắc liên đới, hỗ tương, nguyên tắc về chăm sóc ngôi nhà chung. Những nguyên tắc này giúp các nhà lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm về xã hội, làm thăng tiến, như trong tình trạng dịch bệnh hiện nay, và chữa lành cả cấp độ cá nhân và cộng đồng. Các nguyên tắc này diễn tả, bằng nhiều cách khác nhau, đức tin, đức cậy và đức mến.

Trong những tuần tiếp theo, tôi mời gọi anh chị em suy tư về những vấn nạn nổi cộm mà dịch bệnh đang đặt ra, nhất là những căn bệnh ở cấp độ xã hội. Và chúng ta suy tư dưới ánh sáng Tin Mừng, các nhân đức đối thần và các nguyên tắc về xã hội của Giáo Hội. Chúng ta cùng nhau khám phá truyền thống xã hội công giáo của chúng ta có thể giúp gia đình nhân loại thế nào trong việc chữa lành thế giới đang đau khổ vì dịch bệnh. Tôi ao ước suy tư và làm việc cùng với anh chị em, như những môn đệ của Đức Giêsu, Đấng chữa lành, hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, tràn đầy hy vọng vào các thế hệ tương lai (x. Tông huấn Evangelii gaudium, 24 tháng Mười Một 2013, 183).

 

16. Chết đến nơi rồi -- Lm. Thái Nguyên

Ngày Toàn Quốc cầu nguyện xin Ơn Chữa lành: Mc 4,35-41 - Chúa Nhật 17.10.2021.

Suy niệm

Trong lễ này, Giáo Hội đặt bài Tin Mừng kể lại trận cuồng phong nổi lên, khi Chúa Giêsu và các Tông đồ đang trên thuyền đi qua “bờ bên kia”. Trước cơn sóng dữ ập vào thuyền, các Tông đồ hoang mang, sợ hãi, các ông hốt hoảng chạy đến đánh thức và kêu cứu Thầy. “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Có gì đáng sợ bằng đứng trước cái chết, nó cho ta một cảm giác kinh hoàng. Lời kêu cứu của các tông đồ xem ra cũng là lời trách móc, có vẻ như Thầy quá vô tư hững hờ trước mạng sống của các đồ đệ. Nhưng có lẽ cần phải như thế để các ông nhận ra sự yếu đuối và bất lực của con người mình. 

Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Thế là sóng yên biển lặng như tờ. Lúc đó, Đức Giêsu mới trách lại các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Có Thầy mà cũng như không. Mặc dù các ông đã từng chứng kiến những phép lạ lớn lao Thầy làm, nhưng hôm nay các ông mới thực sự kinh ngạc và thốt lên: “người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Nhìn các Tông đồ đối mặt với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời.

Thế giới mà nhiều người ảo tưởng là vĩnh cửu dường như sắp sa chìm trong biển cả của sự dữ. Chỉ cần nhìn lại một năm rưỡi nay (từ 2020), ta đã thấy nhiều thảm họa xảy ra: trước tiên là cuộc cháy rừng ở Úc, hơn 10 triệu ha bị phá hủy; khoảng 1.400 ngôi nhà ở bang New South Wales bị thiêu rụi. Tiếp đến là trận “lụt hồng thủy” 40 ngày đêm ở Trung Quốc nhấn chìm hàng trăm ngàn ngôi nhà, khiến cho hàng ngàn người chết, đó là chưa kể đến lũ lụt ở các tỉnh miền Trung Việt Nam làm chết hàng trăm người, và cuộc chiến tàn sát nhau vì màu da sắc tộc trên nước Mỹ. Vượt lên trên các thảm họa kia là thảm họa Covid 19. Cơn đại dịch này làm cho thế giới kinh hoàng, làm tê liệt nền kinh tế và các hoạt động xã hội. Số người chết vì Covid 19 tính tới thời điểm này đã lên đến 10 triệu người ([1]). Thảm họa này làm cho con người điên đảo, cạn kiệt niềm hy vọng vào một thế giới tươi sáng.

Có nhiều người nghĩ đây đúng là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nó làm cho nhà nhà, người người phải chia ly, kẻ ở người đi không một lời trăn trối. Bao gia đình tan tác, bao người thân chết không thấy xác, bao thương đau về tinh thần và đói khát về thể xác; thời gian héo hắt phai tàn, và không gian im lìm chìm vào hoang vắng; nhà thờ và chùa chiền không bóng người. Mỗi ngày ở Việt Nam có hàng ngàn người phải cách ly, họ đang phải chiến đấu để giành giật lấy từng hơi thở, không biết ngày mai mình còn có mặt ở trên đời nữa không,… Tất cả mọi người đều rơi vào hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, và rồi những khó khăn lại nối tiếp như thất nghiệp, nghèo đói, không nơi nương tựa… Bao người tự hỏi: liệu Thiên Chúa có hay không? Nếu có thì Ngài ở đâu trong biến cố này? Ngài có nghe thấy tiếng con cái đang ngày đêm kêu cầu lòng thương xót của Ngài không? Có khi chúng ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa: Chúng con chết đến nơi rồi mà Chúa không ra tay cứu chữa! Ngài còn chờ gì nữa đây?

Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó thì không bao giờ thỏa đáng, nhưng nếu ta nhớ lại câu chuyện Ladarô trong Tin Mừng Gioan, thì ta sẽ có được tia sáng đầy hy vọng về cách hành động của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giêsu rất yêu quí Ladarô nhưng Ngài không đến cứu ngay, mà để chết rồi mới đến cứu. Điều này cho ta thấy “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cứu thoát cho bằng một Thiên Chúa cứu chuộc. Ngài không can thiệp để cứu ta khỏi nhục nhã, đau khổ và chết chóc, nhưng Ngài cứu chuộc ta khi ta đã qua nhục nhã, đau khổ và phải chết cách nào đó” (Ronald Rolheiser). Thật không dễ để hiểu được điều này nếu thiếu cảm nghiệm dưới ánh sáng đức tin.

Tuy nhiên, câu chuyện Chúa ngủ trên chiếc thuyền đang bị bão bùng năm xưa vẫn còn nguyên giá trị. Ngài vẫn ở đó, vẫn bên cạnh các Tông đồ, nhưng lo sợ đã làm các ông quên mất sự hiện diện của Chúa. Lúc này cũng vậy, Chúa đang ở đây, đang đau niềm đau của con người, đang khổ nổi khổ của nhân loại. Nhưng vì quá hoảng sợ, ta không còn nhận ra Chúa. Ngài vẫn ở bên chúng ta, “cho dù người mẹ có quên đứa con của mình, phần Ta, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).

Thập giá là điều tất yếu của cuộc sống con người. Đau khổ cũng là lẽ tất nhiên trong thân phận làm người. Chúng ta không thể trốn chạy hay đổ lỗi cho Thiên Chúa, mà trái lại, thực tế lại thường là hậu quả của tội lỗi loài người. Mỗi người đều phải vác thập giá của mình, và những đau khổ chúng ta đang chịu lúc này đều liên hệ với những những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đảm nhận tất cả những đau khổ ấy để thánh hóa mọi người chúng ta. Ta đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên một ngọn lửa của niềm tin và hy vọng; cần vác đỡ thập giá cho nhau. Được như vậy, thập giá sẽ trở nên Thánh giá, vì nó được đón nhận từ trái tim chúng ta trong sự kết hiệp với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu để cứu chuộc chúng ta.

Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng kiêu căng, ích kỷ, tham lam, hận thù, ghen ghét, nhất là chủ nghĩa bá quyền đang bành trướng dưới nhiều hình thức. Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch này, con người mới biết mình là ai? Làm được cái gì? Quả thật, nếu không có Chúa, thiếu Chúa, vắng Chúa, thế giới sẽ trở thành “ngôi nhà ma”, và biển cả của sự dữ là mồ chôn tất cả. Hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn đức tin để thấy Chúa đang hành động, và hành động cụ thể qua những con người đầy thiện chí, đầy nhiệt tình, đang xả thân cho anh em đồng loại ở mọi góc độ của cuộc sống hôm nay. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống của thế giới giờ đây có nhiều thay đổi, có thể mọi người phải tiếp tục sống chung với lũ, nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

Ước gì nạn Covid không làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa bị “phong tỏa” bằng những suy nghĩ tiêu cực, bi quan, nhưng mở rộng tâm hồn ta để tiếp nhận ánh sáng, tình yêu và ân sủng, mà Thánh Thần Chúa đang tiếp tục tuôn đổ xuống cho những kẻ tin.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!

Cuộc đời như biển cả mênh mông,

có những khi đầy sóng gió chập chùng,

với dịch bệnh, tai ương và nghèo túng,

biết bao người phải lâm cảnh khốn cùng,

chúng con thấy hoang mang và nao núng,

lại thấy Chúa như xa cách muôn trùng.

 

Cuộc sống với đau khổ không thể tránh,

bao lần con ưu phiền và than trách,

nhưng thử thách lại là phương cách,

Chúa muốn tôi luyện đời sống con,

qua những đau thương thêm vững vàng,

qua những nguy nàn thêm tin cậy.

 

Thử thách như cơ hội triển nở,

giúp con khai mở những tiềm năng,

để con khai sáng cuộc đời mình,

theo như chương trình tình yêu Chúa.

 

Thử thách như thập giá hằng ngày,

cho con biết luôn kề vai vác lấy,

trong an vui và hy vọng tràn đầy,

vì thấy mình được nên giống Chúa hơn.

 

Trong thử thách con thấy mình chới với,

nhưng tin rằng Chúa có mặt ở mọi nơi,

luôn yêu thương và hành động kịp thời,

không để đời con phải chơi vơi,

 

Thuyền đời con chẳng bao giờ êm ả,

chỉ êm ả khi về tới bến quê,

chỉ mong sao con giữ vẹn lời thề,

biết sống đức tin giữa cuộc đời trần thế,

Xin cảm tạ và tôn vinh danh Chúa,

trong gian nan thử thách của đời con. Amen.

[1]. https://zingnews.vn/so-ca-tu-vong-thuc-te-vi-covid-19-tren-toan-cau-la-bao-nhieu-post1254231.html (24.08.2021)

 

 

17. Đức Giêsu, sự cần thiết cho cơn đại dịch Covid-19 – Lm Phaolô Phạm Trọng Phương

Thiên Chúa ở đâu giữa đại dịch

(Suy niệm của Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)

Trong khi tôi soạn bài giảng này, mọi người trên khắp cả thế giới, nhất là tại Việt Nam đang phải oằn mình, hoang mang lo sợ vì đại dịch Covid-19 bùng phát rất nhanh từng giờ từng phút kéo theo con số tử vong cũng như người nhiễm bệnh rất cao. Đây quả là sóng gió bão bùng đối với con người mà tự sức khó để chèo chống. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, tập thể và cá nhân đã nỗ lực dùng nhiều cách thức như quyền lực, tiền tài, vật chất, ngay cả cầu khấn các thần thánh để chống lại Covid, nhưng mọi sự đều vô vọng không muốn nói càng ngày đại dịch lại càng gia tăng. Trong phụng vụ Lời Chúa của tuần 12 thương niên B hôm nay, chúng ta bắt gặp một Giê-su, nguồn sức mạnh của Thiên Chúa hiện diện với nhân loại ngang qua việc làm cho chiếc thuyền của các môn đệ thoát khỏi những cơn sóng mạnh mẽ và giết chết.

Quả thật, Covid, hình bóng của sự Dữ và sự Chết đang ‘gầm gừ’ và ‘mạnh mẽ hoành hành’ trong thế giới lữ hành của chúng ta. ‘Bão tố hung dữ’ này đang làm cho người người, nhà nhà phải xa cách vì bị cách ly hay tử vong khi bị nó xâm nhập và lây nhiễm. Biết bao nhiêu nỗ lực của các nhà khoa học và các chuyên gia y tế đã, đang và sẽ tìm mọi phương cách hữu hiệu nhất để phòng chống ‘cơn sóng dữ dội’ này. Nhìn chung phần nào đó đã ngăn chặn được sự lây lan của dịch bệnh qua việc nghiên cứu ra Vacinne. Tuy nhiên, tự sức con người làm sao có thể chống trả được ‘cơn sóng’ nguy hiểm này? Nơi bài Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giê-su đã muốn cho các môn đệ tiếp cận với cơn sóng dữ dội nơi biển hồ Galile khi Ngài bảo: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” (Mc 4,35). Nơi đây các môn đệ đã bị cuồng phong giông tố đe doạ: “Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” (c.37). Ý Chúa Giê-su muốn dạy cho các môn đệ nói riêng và tất cả mọi người chúng ta nói chung bài học trong cuộc đời là không thể mà không có sự Dữ, nhất là sự Chết. Chúng ta phải chấp nhận tiếp cận, chung đụng và trải qua. Các môn đệ đã va chạm và đối diện với sóng dữ. Các ông đã hoang mang lo sợ và bất lực hoàn toàn khi nhận ra rằng tự mình chẳng giải quyết và chiến thắng được cơn giống tố bão bùng này. Chính vì thế, các môn đệ đã mau chóng chạy đến với Đức Giê-su để cậy nhờ Ngài can thiệp: Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Một điều chúng ta đáng lưu ý là việc Chúa Giê-su ‘ngủ’ trên chiếc thuyền không phải là Ngài không hiện diện, Ngài bỏ rơi các môn đệ, bỏ rơi nhân loại, nhưng Ngài muốn cho mọi người biết rằng Ngài vẫn hiện diện ở đó, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là trong những lúc bi thương nhất của cuộc đời. Điều quan trọng là con người đã không nhận ra Ngài và đã mời Ngài ra khỏi con thuyền cuộc đời của mình để tự giải quyết mọi sự. Và đương nhiên, đứng trước mọi khó khăn hay sóng gió cuộc đời, con người dường như bị giới hạn và chẳng làm được gì để vượt qua. Cái khôn ngoan nơi các môn đệ là nhớ đến Chúa Giê-su và kêu cầu Ngài để Ngài giúp đỡ vì biết rằng ‘không có Thầy, chúng con không làm được gì.’ (Ga 15,5). Quả thật, sự hiện diện của Chúa Giê-su đã làm vơi đi, tan đi và mất đi sự ‘lộng hành của bão táp’ mà các môn đệ đang phải hứng chịu. Tin mừng đã thuật lại điều đó: “Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.” (c.39). Đức Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa, có uy quyền trên mọi sự, cụ thể là trên biển cả mà Tin mừng hôm nay trình thuật. Uy quyền của Ngài đã và đang chiến thắng mọi sự Dữ và ngay cả sự Chết. Hình ảnh Ngài ‘ngủ’ như là hình ảnh báo trước cái chết của Ngài. Và khi Ngài ‘thức dậy’ là hình ảnh chiến thắng tử thần của Ngài trong tương lai, nghĩa là Ngài sẽ sống lại hiển vinh. Đối với Ngài, sự Dữ và sự Chết chẳng làm được gì vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng toàn thiện và Đấng tác sinh muôn loài muôn vật.

Chính vì thế, đứng trước sự Dữ là giông tố cuộc đời, nhất là trong bối cảnh cả và nhân loại đang đối diện với Đại dịch Covid-19, con người chúng ta ngoài việc nỗ lực thực hiện phòng chống nó với tiêu chuẩn 9K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế - Kiểm soát biên giới - Khu cách ly an toàn - Không ra khỏi nhà khi cần thiết - Không đăng tải thông tin sai sự thật), ngoài việc nỗ lực tìm kiếm Vacinne phòng ngừa, là những người có đức tin chân chính, chúng ta được mời gọi hãy mau chóng chạy đến với Thiên Chúa tình yêu ngang qua Chúa Giê-su Ki-tô để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài mọi người sẽ được cứu chữa và giải thoát. Cũng vậy, đứng trước sóng dữ hoành hành, các môn đệ đã vội vã kêu cầu Đức Giê-su hơn là cậy dựa vào sức lực yếu đuối của con người, và kết quả đã được giải thoát khỏi bão tố hãi hùng đó. Chính Thánh Phao lô, tông đồ dân ngoại, cũng đã khẳng quyết trong bài đọc II (2Cr 5, 14-17): nơi Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại hiển vinh sẽ làm cho con người trở nên thụ tạo mới và được tham dự vào phần vinh quang bất diệt. Nơi Ngài, mọi người sẽ được giải thoát mọi sự Dữ và sự Chết. Cũng vậy, nơi bài đọc I, Thiên Chúa đã khẳng định với Gióp rằng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân ? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài,…” (G 38, 1.8-10). Chính Thiên Chúa làm nên mọi sự, chủ mọi sự và giải thoát mọi sự, con người chỉ là dụng cụ và là người quản lý công trình sáng tạo mà thôi.

Thật vậy, hình ảnh sóng gió bão bùng trong bài Tin mừng hôm nay đối với con thuyền các môn đệ chính là hình ảnh giông tố trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Hình ảnh rõ ràng và thiết thực nhất, đó là Đại dịch Covid mà nhân loại chúng ta đang đối diện. Nó đang làm cho thế giới đảo điên và hoang mang lo sợ. Đứng trước Đại dịch này, mọi người đã dùng mọi phương cách để phòng chống nhưng xem ra mọi sự không như mong muốn. Phải chăng con người đã tự cậy dựa vào sự khôn ngoan, thông minh, giàu có của mình để giải quyết? Phải chăng mọi người tự cho mình làm được mọi sự, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ? Nhưng thực tế đã cho thấy, tất cả nỗ lực của con người chẳng đem lại được cái gì nếu thiếu đi sự can thiệp của Thiên Chúa. Vì thế, là những người tin nhờ sự vào mặc khải của Chúa Giê-su, nhờ Tin mừng của Ngài, chúng ta được nhận chân rằng chính Chúa là Đấng uy quyền trên trời dưới đất. Nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài, mọi sóng gió bão bùng sẽ được dập tắt nếu chúng ta biết cậy dựa vào Ngài.

Do đó, chúng ta hãy mau nói cho thế giới loài người biết rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Đấng dựng nên muôn loài muôn vật và có uy quyền trên mọi sự. Ngài luôn yêu thương và ban phát mọi ơn lành cho những ai biết tin tưởng vào Ngài và mong muốn Ngài đi vào con thuyền cuộc đời đang chênh vênh và gập ghềnh bởi biết bao sóng gió dữ dằn của ma quỷ, của thế gian và xác thịt, nhất là trong tình cảnh khó khăn và sợ hãi bởi cơn sóng của Đại dịch Covid-19 này.

 

 

18. Suy niệm Kinh Lạy Cha mùa dịch Covid-19 -- Aug. Trần Cao Khải

Có lẽ hơn lúc nào hết, trong thời điểm hiện tại khi mà đại dịch cúm Covid-19 đã trở nên cực kỳ nguy hiểm và lan rộng hầu hết khắp nơi trên thế giới, thì kinh “Lạy Cha” mà chúng ta đọc hằng ngày đã trở nên một lời kinh thắm thiết nhất trong các kinh nguyện. Đó cũng trở nên một bài suy niệm gợi mở cho ta nhiều suy tư và quyết định khi đang phải đối diện với sự lo âu, sợ hãi, hoảng loạn, thất vọng và hoang mang cùng cực.

Trước tình hình đáng lo sợ này, người Ki-tô hữu chúng ta tự hỏi, “Thiên Chúa đang ở đâu? Người muốn nói gì thông qua những biến cố đáng sợ và đau buồn này?”.

Hơn lúc nào hết, mọi tín hữu chúng ta đừng quên đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, nhất là khi cuộc sống của chúng ta đang gặp phải những khó khăn thử thách. Có thể chúng ta dễ dàng quên đi Người chăm lo thế giới này khi những biến cố xảy ra làm đảo lộn cuộc sống của mình. Giữa những sợ hãi, buồn phiền và nỗi thống khổ ấy, chúng ta cần xác tín rằng Thiên Chúa vẫn gìn giữ mọi sự trong trật tự. Khi mọi thứ bị xáo trộn, chúng ta hãy luôn giữ bình an và tín thác vào Thiên Chúa khi biết rằng Người là Đấng sáng tạo và gìn giữ muôn loài. [1]

Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời

Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người “ở trên trời” nhưng Người không xa chúng ta. Sự hiện diện của Người là vô cùng, vô biên và sâu thẳm. Mặc dù không “thấy” Người, nhưng chúng ta nghe được Lời của Người: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của Ta ” (Is 41, 10).

Chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời vì Người là Đấng duy nhất để ta tôn thờ và yêu mến, vì tất cả chúng ta là con cái của Người và vì chúng ta tin tưởng tất cả mọi sự dữ sẽ qua đi và chỉ mình Người là tồn tại. Chúng ta xác tín rằng, không có gì vĩnh cửu trong thế giới này, kể cả những điều hạnh phúc và những phiền muộn của chúng ta. Vậy chúng ta hãy an tâm. Thiên Chúa hằng sống và chúng ta sẽ vượt qua cuộc sống tạm bợ này để cùng được sống với Người trong Nước vĩnh cửu.

Chúa Giê-su luôn dùng từ “Cha” trong những thời điểm thử thách nhất, và cho chúng ta biết rằng Cha luôn biết mọi sự chúng ta cần, trước cả khi chúng ta lên tiếng. Người là Cha lắng nghe chúng ta trong thầm lặng, cũng như Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện nơi kín đáo.

Trong lúc dịch bệnh hoành hành thế này, chúng ta cầu xin cho nhiều người biết đến Danh (Tên) Thiên Chúa để có niềm tin và hi vọng. Biết Danh là biết Người. Biết Người thì sẽ cảm nhận được quyền năng và tình thương của Người lớn lao chừng nào. Người Ki-tô hữu và người ngoài Ki-tô giáo khác nhau ở chỗ người Ki-tô hữu biết đích xác Danh Đấng mà mình tôn thờ và cầu xin. Không cầu xin một cách vu vơ.

Chúa Giê-su đã dạy chúng ta cầu xin với Cha của Ngài. Tức là Đấng mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta biết. Cha của Đức Giê-su là một người Cha quyền năng và giàu lòng thương xót. Lịch sử cứu độ đã chứng tỏ cho thấy rằng Cha luôn có kế hoạch giải thoát con người khỏi tội, sự chết và mọi tai họa. Cha là Chúa của kẻ sống.

Khi dịch Covid-19 lan rộng ra các nước trên thế giới, ngày nào người ta cũng thiết lập bản đồ virus-Corona để theo dõi tình hình dịch bệnh. Chúng ta cầu xin cho các chấm đỏ hay mảng tím ngày càng ít đi. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó vẫn là xin cho Nước Cha ngày được triển nở trên trái đất và trong vũ trụ này. Nước của Thiên Chúa không có trên bản đồ nhân loại cũng không phải là một vương quốc của một đế chế nào. Đó là Vương Quốc của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô Phục Sinh là Đấng được trao quyền thiết lập.

Phải cầu xin để Vương Quốc ấy ngày càng lan tỏa ra toàn vũ trụ và khắp cùng trái đất. Chỉ trong Vương Quốc ấy con người mới thoát khỏi sự kiềm tỏa của mãnh lực sự dữ. Chỉ trong Vương Quốc ấy, con người mới có bình an, hạnh phúc, yêu thương và tự do đích thực. Chúa Ki-tô đã được Thiên Chúa Cha trao cho Vương Quyền thiên giới sau khi Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Ngài thiết lập Hội thánh Tân Ước để tất cả những ai tham dự vào mầu nhiệm Nước Trời sẽ được hưởng ân huệ mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18-20).

Trong khi chúng ta thưa với Thiên Chúa là “xin ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta lại thường lèo lái thánh ý Chúa theo ý muốn của ta. Khi dịch bệnh xảy ra, thay chúng ta khiêm tốn cầu xin để biết đâu là đường lối của Thiên chúa, đâu là kế hoạch của Người, thì chúng ta lại “điều khiển” Thiên Chúa làm điều này điều kia như thể ban một vài phép lạ nào đó cho chúng ta.

Thực ra, ý Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm. Người hành động một cách kỳ diệu, lạ lùng mà trí khôn ta không thể thấu suốt được. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8). Vì thế đối với những việc xảy ra cho con người, dù tốt hay xấu, chúng ta một lòng tin tưởng và phó thác vào Chúa quan phòng. Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ các tín hữu: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định ” (Rm 8, 28).

Về ý nguyện này, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ như sau: [2]

“Khó khăn thử thách giúp chúng ta cảm nghiệm đau khổ: Như đã xảy ra với Chúa Giê-su trong vườn Giết-sê-ma-ni, khi Người nếm trải sự đau khổ và Người đã cầu nguyện; “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cất chén này xa con! Nhưng xin đừng theo ý con, mà là theo ý Cha” (Lc 22, 42). Chúa Giê-su đã bị vùi dập bởi sự ác của thế gian nhưng Người phó thác cách tin tưởng vào đại dương tình yêu của thánh ý Chúa Cha.

“Cả các vị tử đạo, trong thử thách, các ngài không tìm sự chết, các ngài tìm điều sau cái chết, đó là sự Phục sinh. Thiên Chúa, vì yêu thương, có thể đưa chúng ta đi trên những nẻo đường khó khăn để cảm nhận những vết thương và gai góc đau khổ, nhưng Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Người sẽ luôn ở với chúng ta, bên cạnh chúng ta, trong tâm hồn chúng ta”.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày

Lời cầu xin này xem ra rất gần gũi và cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Mong được hằng ngày dùng đủ. Đó là niềm mơ ước của nhiều người, nhiều gia đình. Nhưng tại sao Chúa lại dạy ta xin điều mà xem ra Ngài không muốn chúng ta bận tậm lắm.

Đức Giê-su đã chẳng kêu gọi chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng sao? Ngài phán: “Vì thế anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha em em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 31-33).

Khi dịch bệnh xảy ra, ngoài vấn đề lo bệnh viện chạy chữa, lo chỗ cách ly, lo sắm khẩu trang, lo thầy, lo thuốc, người ta còn phải lo cái ăn, cái uống trong điều kiện khan hiếm và mắc mỏ. Nhiều người đua nhau tích trữ lương thực. Hàng hóa, thực phẩm trong siêu thị bỗng bị “hút” hết. Chuyện này không chỉ xảy ra bên Trung Quốc hay VN mà còn diễn ra bên Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc châu…

Trong số những người lo lắng, hoang mang về cái ăn cái uống thời Covid-19 chắc cũng có nhiều người Công giáo chúng ta. Chúa biết điều này. Chúa không trách móc chúng ta, nhưng Ngài mời gọi chúng ta nhìn xa hơn. Nếu như chúng ta đầy đủ lương thực nhưng nhiễm virus Corona dương tính, rồi vĩnh viễn ra đi, thì liệu có ích gì cho ta. Nếu như trong hoàn cảnh dịch bệnh này, ta có đầy đủ lương thực, thực phẩm trong khi nhiều người anh em của ta thiếu thốn, cạn kiệt mà ta không ra tay giúp đỡ, thì liệu lương tâm ta có bình an không.

Bên cạnh việc nhắc bảo chúng ta nên chấp nhận cuộc sống vật chất “đủ dùng hằng ngày”, Chúa cũng đề nghị chúng ta nên lo tích trữ kho tàng trên trời là nơi mà những thứ đó không bị mối mọt ăn. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 19-21). 

Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con

Đối với Thiên Chúa, chúng ta hoàn toàn “mắc nợ” Người. Bởi vì tất cả con người và cuộc sống chúng ta đều là ơn huệ của Người. Chúng ta được tạo dựng từ “không” đến “có”, từ hư vô đến hiện hữu, từ không-là-gì đến có-là-gì. Hơn nữa, chúng ta được Chúa cứu chuộc, từ kẻ có tội trở thành bạn hữu của Chúa, từ phạm nhân đáng chết trở thành con cái của sự Sống. Ơn cứu chuộc là vô giá. Chính Đức Giê-su, Con Một của Thiên Chúa đã hy sinh mạng sống mình để xóa nợ thay cho chúng ta.

Trong cuộc sống đời này, mọi người cũng mắc nợ nhau. Chúng ta không chỉ mắc nợ nhau tiền bạc, vật chất này nọ, mà còn mắc nợ nhau về chất xám, trí năng, tinh thần, lòng tốt, sự tử tế, sự hy sinh xả kỷ, sự hiến thân do nghề nghiệp vv. Mỗi người đều mắc nợ nhau và mỗi người phải có bổn trả nợ, cách này hay cách khác.

Khi dịch cúm do virus Corona bùng phát, ta đã thấy không ít các bác sĩ, y tá, nhân viên y tế, các lực lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, các nhà khoa học, đã liều thân lao vào “trận địa của cơn đại dịch”. Đã không ít người đã bỏ mạng ngay tại nơi làm việc, vì nhiễm virus hay vì làm việc quá sức. Chúng ta được sống an lành như hiện tại, đó là cũng là nhờ phần lớn những con người hy sinh thầm lặng ấy.

Trong khi chúng ta cầu xin Chúa tha nợ cho chúng ta thì chúng ta cũng xin Chúa giúp ta làm mọi cách để có thể trả nợ cho những người anh em đã hy sinh mạng sống vì nhân loại chúng ta. Thánh Phao-lô đã quả quyết: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề luật” (Rm 13, 8).

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ

Không một Ki-tô hữu nào mà không có kinh nghiệm về những cám dỗ trong đời sống mình. Vấn đề là chúng ta có thái độ và phản ứng như nào trước những cám dỗ xảy đến cho mình. Ma quỷ là tác nhân chính của cám dỗ. Nhưng cũng có những “mãnh lực” khác hùa theo ma quỷ, chúng cũng có sức mạnh cám dỗ ta làm sự tội, đó là thế gian, xác thịt. Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, cám dỗ có một sức mạnh kinh khủng, nó như một cơn cuồng phong cuốn hút ta vào vòng xoáy của sự ác, để chúng ta phải làm điều ác.

Thánh Phê-rô đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé, anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5, 8-9).

Chắc chắn chúng ta không thể sống mà không bị cám dỗ được, vì nó ở ngay sát bên ta, ở trong ta. Vấn đề là chúng ta xin Chúa ban ơn để chúng ta có sức mạnh không chiều theo nó, không rơi vào bàn tay điều khiển của nó. Có hai phương thế để chúng ta đối phó với cơn cám dỗ, đó là: sống tiết độ và tỉnh thức. 

Trong thư mùa Chay gửi cộng đoàn dân Chúa giáo phận Mỹ Tho ngày 22-2-2020, ĐGM Phê-rô Nguyễn Khảm đã nhắc nhở như sau:

“Để phòng chống dịch bệnh Covid-19, người dân được nhắc nhở về việc đeo khẩu trang nơi công cộng, rửa tay thường xuyên và đúng cách sau khi tiếp xúc với vật dụng hay bề mặt có nhiều người chạm vào như tay nắm cửa, bàn phím, thang máy…Đồng thời chính quyền sử dụng biện pháp cách ly những người có dấu hiệu nhiễm bệnh, để khoanh vùng dịch, tránh lây lan cho nhiều người khác.

“Cũng thế, nếu ý thức được mối nguy hiểm và sự tàn phá của tội lỗi, chúng ta cần phải phòng chống tội lỗi. Theo kinh nghiệm lâu đời của mình, Hội Thánh đưa ra nhiều lời khuyên đạo đức để giúp thực hiện điều này, cụ thể nhất là tránh xa dịp tội. Trong Kinh Ăn năn tội, chúng ta vẫn đọc: “Nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ tránh xa dịp tội và làm việc đền tội cho cân xứng”. Dịp tội là những hoàn cảnh bên ngoài (không gian, thời gian, sự vật, con người) khiến chúng ta dễ bị cám dỗ phạm tội. Không tránh xa những dịp đó thì khó lòng tránh được tội lỗi. Vì thế, cần phải tránh xa dịp tội, nhất là những dịp tội gần. Mỗi người cần xét xem đâu là những tội mình hay phạm, hoàn cảnh nào khiến mình dễ sa ngã phạm tội đó, từ đó cố gắng xa tránh dịp tội.” [3]

Khi dịch bệnh mới xảy ra ở thành phố Vũ Hán (Trung Quốc), mọi người đều lo lắng và hoảng loạn vì có thể đây sẽ là một thảm kịch lớn của nhân loại. Người ta đã ghi lại chứng từ của một nhân chứng có mặt tại chỗ, như sau:

“Trong gần một tuần, sinh viên Mỹ Nicholas Schneider, 21 tuổi, đã cố gắng nhưng chưa ra được khỏi Vũ Hán, thành phố là tâm chấn của đại dịch virus corona và đang bị phong tỏa.

“Schneider đã nói trong cuộc phỏng vấn với Reuters ngày 29-1 rằng đây như một thị trấn ma, không có nhiều người và xe cộ. Một cảm giác lạ. Một cách nào đó, anh ta cảm thấy như ngày tận thế! Thành phố sầm uất 11 triệu dân giờ đây vắng lặng một cách lạnh lùng. Schneider ở đây để theo học toán học ứng dụng ở Đại học Vũ Hán, cách 16 km so với khu chợ buôn bán trái phép động vật hoang dã được cho là nơi mà chủng virus corona mới bắt đầu lây lan”. [4]

Tai họa dịch cúm virus corona xảy đến có vẻ bất ngờ khiến cho nhiều người hoảng sợ đưa ra nhiều suy đoán. Người ta tập trung đi tìm nguyên nhân. Đây có thể không phải là thiên tai, nhưng là một nhân tai khủng khiếp? Đây có thể là biến chất của một loại hình chiến tranh vi trùng? Đây cũng có thể là một ý đồ xấu xa của một quốc gia nào đó muốn tiêu diệt một nước thù địch vv.

Cũng có một cách lý giải khác, rằng Thiên Chúa phạt người này, người kia, nước nọ, vì tội chống báng Thiên Chúa và phỉ báng Hội thánh Chúa Ki-tô! Thực ra, xét ở bản chất tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta tin rằng Người không thù ghét ai cả. Người cũng không muốn nhân loại phải khổ sở, điêu đứng. Người không phải là tác nhân gây tai họa.

“Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1, 9).  

Chúng ta cũng biết rằng, “Hình phạt nặng nhất của Thiên Chúa không phải là gởi đến những tai họa, tang tóc để ta không thể nghỉ yên trong tội lỗi. Đó còn là dấu chỉ lòng nhân từ của Người muốn cảnh tỉnh ta để ta trở lại với Người. Hình phạt nặng nhất là để cho ta có dư dật của cải, vui sướng ở đời này và chỉ cất khỏi ta sự hiện diện sinh động của Người, vì ở trạng thái thấy con người có cảm giác mình chẳng còn thiếu thốn chi nên không nghĩ đến trở lại nữa”. [5]

________________

[1] conggiao.info

[2] vaticannews.va

[3] giaophanmytho.net

[4] news.zing.vn

[5] LM Thân Văn Tường – Đối diện với Thiên Chúa – Gp Long Xuyên 1993 trang 6.

 

 

19. Chúa nói gì với ta qua cơn đại dịch? – Lm Giuse Anh Tuấn

(Suy niệm của Lm. Jos. Anh Tuấn - Giáo phận Lạng Sơn - Cao Bằng. Từ hdgmvietnam.com)

WHĐ (11.9.2021) - Hơn hai năm qua, cả thế giới phải đối diện với đại dịch Covid-19, với biết bao mất mát, đau khổ, chết chóc mỗi ngày một lan tràn khủng khiếp hơn vì có những biến chủng mới. Riêng tại Việt Nam, dịp tái phát lần này là khủng khiếp nhất. Worldometer ghi nhận Việt Nam: 576,096 ca nhiễm, 14,470 ca tử vong, 338,170 ca khỏi bệnh (cập nhật 10/9/2021).

Đứng trước thảm trạng này, có nhiều người thất vọng, trách móc và đổ lỗi cho nhau; có nhiều người than trách cả Chúa… Chúa đâu? Sao Ngài không ra tay? Ngài vẫn có đó! Im lặng! Trong thinh lặng của cầu nguyện chúng ta sẽ nghe được Chúa nói với chúng ta nhiều điều. Riêng tôi, đúng dịp Sài Gòn tròn 100 ngày giãn cách nghiêm ngặt (31/5-7/9), tôi ngồi ghi lại những điều Chúa muốn nói với chúng ta.

1. Chúa nói với tôi, Chúa nói với bạn

Chúa đang nói với tôi và với bạn nhiều điều.

Chúng ta đang sống quá vội vàng.

Quả vậy, cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay quá tất bật. Tất bật vì công việc. Tất bật vì học hành. Tất bật vì đi tìm địa vị… Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm. Cuộc sống quay cuồng đến nỗi chúng ta không có thời gian dành cho nhau, thậm chí những người thân yêu trong gia đình cũng chẳng mấy khi gặp nhau. Có những gia đình khi con thức dậy đi học thì bố đã đi làm; khi bố đi làm về thì con đã đi ngủ. Chúng ta đang biến mình thành cỗ máy; trong khi Chúa muốn chúng ta có làm việc và có nghỉ ngơi, giống như trong công cuộc tạo dựng vậy (x.St 2,2).

Thời gian dịch bệnh Chúa cho chúng ta được sống chậm lại. Tất cả phải chậm lại vì dịch bệnh, vì giãn cách xã hội.Trong thời gian này, các gia đình nhỏ được dành trọn thời gian cho nhau, chăm lo cho nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, giờ học online. Thật hạnh phúc. Chúng ta phải tạ ơn Chúa.

Chúng ta đang quá kiêu căng và tự mãn.

Con người đang sống trong sự kiêu hãnh của mình vì những thành quả khoa học đạt được. Họ có thể lên đến mặt trăng và các ngôi sao mà! Con người nghĩ rằng mình có thể làm được mọi sự, thậm chí cả việc nhân bản sự sống, nên đâu cần đến chúa bà gì! Sự kiêu căng ấy của chúng ta chẳng khác gì sự tự mãn của dân Chúa khi người ta muốn xây cho mình một tháp Ba-ben chọc trời (x.St 11,1-9).

Khi dịch bệnh ập đến, Chúa nhắc chúng ta cần phải sống khiêm nhường hơn. Chúng ta phải biết mình là ai trong trật tự thế giới này. Vì thế, chúng ta vẫn phải cầu xin: “xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”, như chúng ta vẫn hát. Chứng kiến những người chết như rạ, chúng ta mới thấy thân phận con người thật mong manh. Quả đúng là bụi tro. Cứ nghĩ rằng mình làm được tất cả, nhưng rồi tất cả đều phải buông xuôi. Con người không thể làm chủ cuộc đời mình được. Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ biết thốt lên lời Thánh Vịnh: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!” (Tv 131,1).

Chúng ta đang thích sống ảo.

Cuộc sống xã hội phát triển của thời công nghệ 4.0, chúng ta có quá nhiều phương tiện công nghệ. Cùng với mạng Internet toàn cầu, chúng ta dễ dàng gặp gỡ nhau trên màn hình với cả những người xa lạ trên khắp thế giới. Việc sống ảo đó mang lại nhiều niềm vui và những kết nối, nhưng nguy cơ của nó là con người đánh mất đi những tương quan thực của cuộc sống. Người ta sống ảo đến mức, ngay những người trong một gia đình cũng chẳng mấy khi gặp gỡ hàn huyên vì nghĩ rằng thăm hỏi nhau qua điện thoại là đủ rồi. Và người ta an phận trong việc sống ảo ấy.

Sống trong thời dịch bệnh, chúng ta mới cảm nghiệm được việc sống ảo không thể bằng sống thực. Thử hỏi những người tín hữu đang “xem lễ ảo” - lễ online - trên các phương tiện truyền thông họ cảm nhận thế nào? Ai cũng khao khát có một thánh lễ bình thường, được rước Mình Thánh Chúa thật, chứ không chỉ rước thiêng liêng! Phải giãn cách xã hội, chúng ta phải ở nhà và như vậy chúng ta bớt sống ảo với nhau hơn. Chúng ta cũng ước mong sớm được đến nhà thờ để được tham dự thánh lễ thật.

Như thế, qua cơn dịch bệnh này Chúa nhắc cho bạn và tôi biết sống chậm lại, bớt kiêu căng và bớt sống ảo hơn.

2. Chúa nói với mẹ Hội Thánh

Qua cơn đại dịch này, Chúa cũng nói nhiều điều với mẹ Hội Thánh chúng ta.

Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải củng cố đức tin.

Đức tin mà chúng ta tuyên xưng vào Chúa vừa mang tính cộng đoàn, vừa mang tính cá nhân. Tôi tin, chúng tôi tin vẫn là lời tuyên xưng của Hội Thánh và của từng người chúng ta. Chúng ta sống đức tin nhờ các cử hành được trao cho Hội Thánh. Nhưng đức tin ấy phải dẫn đến việc tôi tin, không chỉ dựa vào đức tin người của khác. Mẹ Hội Thánh vẫn luôn chăm lo, mọi lúc mọi nơi mọi thời, để đức tin của Hội Thánh được vững vàng và đức tin của từng người tín hữu được kiên vững trước mọi nỗi vui buồn của cuộc sống.

Chúng ta có đủ chiều sâu của đức tin để xác tín rằng Chúa vẫn đang ở bên và ở trong chúng ta khi Ngài vẫn để cho con người phải căng mình lên chống chọi với dịch bệnh không? Khi không còn lễ lạc rước sách, không còn tổ chức hội đoàn linh đình nữa, liệu chúng ta còn đủ tin vào Chúa là Đấng đầy quyền năng không? Khi phải ở nhà trong thời dịch bệnh, chúng ta càng cần xác tín hơn lời của thánh Phaolô nói với cộng đoàn Êphêsô: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; … để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết.” (Ep 3,17-19). Có như thế, chúng ta mới vững mạnh trong mọi hoàn cảnh được.

Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải gieo niềm hy vọng.

Cuộc sống phải có hy vọng thì mới đáng sống. Đời sống người tín hữu không chỉ sống hy vọng ở đời này mà còn có niềm hy vọng vĩnh cửu. Nhờ có hy vọng mà chúng ta vươn lên trong cuộc sống. Chúng ta còn hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa.

Khi phải chống chọi với đại dịch, hơn bao giờ hết, người tín hữu càng cảm nghiệm được niềm hy vọng là cần thiết. Không bao giờ được phép để cho mình tuyệt vọng! Mẹ Hội Thánh có bổn phận gieo niềm hy vọng không ngừng. Trong bức thư, 31/8/2021, gửi cho TGP Sài Gòn, Đức Tổng Giuse Nguyên Năng đã gửi gắm thông điệp: “Hãy nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6, 18). Chúng ta sống niềm hy vọng vì Mẹ Hội Thánh luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Niềm hy vọng ấy, Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã trở nên chứng nhân sống.

Chúa nhắc cho Hội Thánh cần phải xây dựng tình hiệp thông.

Tình hiệp thông vốn là bản chất của Hội Thánh. Mối hiệp thông ấy được khơi nguồn từ mối hiệp thông sâu xa của Ba Ngôi Thiên Chúa, như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Đó là mối hiệp thông mang tính hữu cơ, đến nỗi “một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau” (1Cr 12, 26), vì tất cả chúng ta là một thân thể trong Đức Kitô (x. 1Cr 12,13).

Trong thời đại dịch này, Hội Thánh càng bày tỏ tình hiệp thông ấy một cách sâu xa hơn. Chúng ta hiệp thông trong lời cầu nguyện, trong các cử hành phụng vụ. Hơn bao giờ hết, chúng ta cảm nghiệm được: một thánh lễ, cho dù một linh mục dâng riêng, cũng luôn mang tính hiệp thông toàn cầu, cả cho người sống và người chết. Bên cạnh đó, Hội Thánh cũng chung tay góp sức với xã hội để mang lại niềm an ủi cho những ai đau khổ, mang lại ấm no cho nhưng ai đói khát. Các đấng bậc trong Hội Thánh đã kêu gọi mọi người cùng góp phần của mình để cứu giúp anh chị em của mình, bất kể lương giáo. Toà Thánh cũng chung tay với Việt Nam chúng ta 100.000 Euro. Tình hiệp thông ấy sẽ giúp anh chị em chúng ta sớm vượt qua cơn hoạn nạn này.

Qua đại dịch này, Chúa giúp chúng ta kiên vững hơn, hy vọng hơn và hiệp thông hơn.

3. Chúa nói với xã hội nhân loại

Chúa cũng đang nói với xã hội nhân loại nhiều điều trong thời dịch bệnh này.

Xã hội nhân loại đang cư xử với nhau bằng quyền lực.

Người ta dùng quyền hành theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, mạnh thì sống, yếu thì chết. Người ta sống ích kỷ, chỉ muốn thu vén cho cộng đồng của mình, cho nước của mình; đôi khi không ngại chà đạp lên người khác và nước khác. Biết bao tiền bạc chi cho quân sự để biểu dương lực lượng. Anh lớn nào cũng muốn làm “bá chủ thế giới”.

Chính trong quyền lực mạnh mẽ ấy thì cả thế giới dường như phải khuất phục trước con virus corona, gần như là vô hình! Nhớ lời Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn, cách đây gần 2 năm, khi được phỏng vấn, ngài nói: “tôi thấy thật nực cười vì con người đang tỏ ra đầy quyền lực mà lại phải chịu khuất phục trước con virus bé nhỏ!”. Như thế, qua cơn đại dịch này Chúa nhắc cho xã hội nhân loại thấy được giới hạn của mình. Cuộc đời con người mong manh lắm, cần thương yêu theo tinh thần: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,26).

Xã hội nhân loại chỉ thích đẩy lỗi cho nhau.

Thực ra, đây là vấn đề muôn thuở! Nó đã xuất hiện từ lúc tạo thiên lập địa rồi. Đó là tội nguyên tổ. Khi con người phạm tội, chẳng ai muốn nhận tội cả. Khi bị hỏi đến, Ađam đổ lỗi cho Evà; Evà đổ lỗi cho con rắn (x.St 3,12). Xã hội chúng ta đang sống cũng vậy. Chúng ta thích đổ thừa cho nhau mà không nhận lỗi về mình. Có người nói: dịch bệnh xảy ra là do nước này, do nước kia; do tội lỗi của người này người khác nên bị Chúa phạt! Thực ra Chúa chẳng phạt theo cách mà con người hay cư xử với nhau đâu. Bởi, nếu Chúa chấp tội thì làm gì ai được cứu rỗi (x.Tv 130,3).

Chính vì thế, thời gian dịch bệnh này xã hội nhân loại được nhắc nhở phải sám hối. Chúng ta sám hối vì mình chưa nhìn nhận đủ thân phận thụ tạo của mình. Chúng ta sám hối vì mình còn những hành xử thiếu yêu thương. Chúng ta sám hối vì chúng ta đang làm đảo lộn trật tự thế giới, khi không bảo vệ vũ trụ này cho đúng ý của Đấng Tạo Hoá. Đây là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc cả thế giới qua thông điệp Laudato Si’: chúng ta phải biết “chăm sóc ngôi nhà chung” của chúng ta.

Xã hội nhân loại đang sống thiếu công bằng xã hội.

Mọi sự được ban: trên rừng hay dưới biển, trên mặt đất hay dưới vực sâu… đều được dành cho tất cả mọi người. Thế nhưng, trên thực tế, một số ít người lại nắm trong tay tất cả những tài nguyên Chúa ban. Người nghèo vẫn mãi đói nghèo và khổ đau vì bị “ăn chặn” bởi anh chị em của mình, những người có khả năng và có nhiều phương tiện khai thác hơn. Hơn nữa, cuộc sống còn đầy những bất công qua việc tham nhũng, vơ vét của công làm của riêng. Đây là điều mà các thông điệp về xã hội của Giáo Hội thường nhắc đi nhắc lại để cảnh báo xã hội.

Đối diện với dịch bệnh khủng khiếp, ai ai cũng đang vất vả chống dịch, không màng chi đến bản thân nữa, không lo tích trữ nữa và chắc chắn cũng bớt bất công đi. Quả vậy, từ các cấp chính quyền đến từng người dân đều tập trung dập dịch; nhất là các y bác sĩ, y tá, các tình nguyện viên, trong đó có các linh mục và tu sĩ chẳng có mấy chuyên môn, đang căng mình ở tuyến đầu. Họ phải làm việc 200-300% sức lực để cứu lấy sự sống cho anh chị em mình. Công bằng xã hội cũng được thực hiện một cách ráo riết khi các gói cứu trợ từ chính quyền đến các tôn giáo và các mạnh thường quân được trao đến tay những người nghèo. Tạ ơn Chúa về những tấm lòng, mà có lẽ chỉ thời dịch bệnh này mới có.

Như vậy, đợt dịch bệnh kéo dài này tuy gây nhiều mất mát đau thương, nhưng lại là cơ hội để con người nhìn nhận thân phận của mình mà sám hối và có những hành xử yêu thương và công bằng hơn!

Lời Chúa nói với chúng ta: “mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Vì thế, đợt dịch bệnh xảy ra cũng nên kinh nghiệm hữu ích cho chúng ta. Chúa dành thời gian để từng người chúng ta phải sống chậm lại, khiêm nhường hơn và sống thực tế hơn. Chúa cũng nhắc nhở Mẹ Hội Thánh phải không ngừng củng cố đức tin để người tín hữu không chao đảo trước mọi biến cố. Hội Thánh cũng phải gieo niềm hy vọng và xây dựng tình hiệp thông mạnh mẽ hơn nữa. Thời gian phải căng mình chống dịch, cũng là lúc Chúa nói với xã hội nhân loại phải biết mình là ai: là thụ tạo chứ không phải là chúa tể. Xã hội nhân loại cũng phải biết sám hối về những sai sót và lỗi lầm của mình, đồng thời phải cư xử công bằng với nhau giữa cuộc sống này. Hy vọng, những tấm lòng chúng ta thể hiện lúc dịch bệnh sẽ còn tiếp tục kéo dài để những hận thù ghen ghét được phủ lấp bởi tình yêu thương; đau khổ được phủ lấp bằng những hy sinh, bất công được phủ lấp bởi lòng quảng đại.

 

 

20. Chọn lựa của ngườ Kitô hữu giữa đại dịch Covid

(Chuỗi suy tư về Sàigòn Mùa Covid Thứ 04 - Jorathe Nắng Tím)

TMĐP- Ngay giữa cuồng phong nguy hiểm của đại dịch Covid, người Kitô hữu vẫn chọn bước theo Đức Giêsu trên đường sứ vụ, vẫn chọn hy vọng vào Đức Giêsu, vẫn chọn hết tình yêu thương và hết mình chia sẻ, phục vụ đồng loại bằng mở rộng trái tim hay chạnh lòng thương; bằng trái tim sốt sắng thờ phượng Thiên Chúa; bằng dành ưu tiên cho đức ái trong mọi lựa chọn, quyết định. 

Những ngày đầu của đại dịch Covid, không ít người đã bỡ ngỡ và có những phản ứng tiêu cực trước quyết định ngưng các sinh hoạt tôn giáo như thánh lễ, học giáo lý của nhiều toà giám mục. Nhưng đến hôm nay, ở vào thời điểm mà  số người bị lây nhiễm và tử vong vượt ngưỡng đang làm mọi người kinh hãi, khiếp sợ, thì biện pháp chống dịch như chống giặc đã ngưng mọi sinh hoạt bình thường, và người dân chỉ còn được phép ra vào, đi lại khi có việc khẩn cấp, cho một số nhu cầu thực sự thiết yếu.

Ở giữa tâm dịch với vô số khó khăn và bất ngờ, không ít những suy tư đã được rộng rãi chia sẻ giúp chúng ta phân định và chọn lựa hợp với Tin Mừng:

1. Đóng cửa nhà thờ, nhưng không đóng cửa lòng:

Trong thư mục vụ ngày 27.07.2021, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Tổng Giám Mục Sàigòn đã chia sẻ nỗi  ưu tư và đường lối mục vụ của ngài trước làn sóng đại dịch Covid ngày càng dữ dội, khủng khiếp khi viết: “Chúng ta đóng cửa nhà thờ, chứ không đóng cửa lòng”.

Lời kêu gọi dấn thân phục vụ của ngài nhắc nhở sứ vụ của người Kitô hữu là được sai đi để phục vụ như “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), và địa chỉ được sai đến chính là người nghèo hèn, bị giam cầm, áp bức, và tật nguyền, khốn khổ, bị bạc đãi, bỏ rơi (x. Lc 4,16-19).

Sứ vụ ấy đã được chính Đức Giêsu khai triển, và trình bày cách rõ ràng, cụ thể  khi mô tả  quang cảnh “cuộc Phán Xét chung”, ở đó, mỗi người sẽ phải trả lời trước Thiên Chúa về đời sống phục vụ và những việc làm bác ái của mình nơi những anh em bé nhỏ nhất của Đức Giêsu mà Ngài tự đồng hoá với họ (x. Mt 25,40). Sở dĩ được gọi là  “anh em bé nhỏ nhất” vì ho đói khát, trần truồng, đau yếu, tù đầy, tha hương tỵ nan … (x. Mt 25,35-36); họ bị người đời xếp vào hàng những người hèn mọn nhất, vì thấp cổ bé miệng, không tiếng nói, không địa vị, không chức quyền, không ảnh hưởng, không cả khả năng tự giải cứu mình ở hiện tại cũng như khả thể bảo đảm sự tồn tại của mình ở tương lai.

Quả thực, lòng người Kitô hữu là Đền Thờ của Thánh Thần Tình Yêu. Chính Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động tâm hồn người Kitô hữu để người ấy không chỉ  biết yêu mến Thiên Chúa như con cái yêu mến cha mình và được kêu lên “Áp – ba, Cha ơi !” (Gl 4,6), mà còn nhận ra mọi người là anh em cùng Cha trên trời, và được hưởng “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23).

Tâm tình của vị cha chung tổng giáo phận cũng là lời mời gọi mỗi người đổi mới con tim, và công trình đổi mới sẽ chỉ được thực hiện, nếu chúng ta kiên trì và khiêm tốn nài xin Đấng đã hứa với dân Ngài: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36, 26-27). Thánh chỉ, phán quyết ấy chính là yêu mến Thiên Chúa và chạnh lòng  xót thương anh em mình.

2. Thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật:

Những ngày cách ly, phong toả, giáo đường không bóng giáo dân, sân nhà thờ lặng lẽ, hiu quạnh. Cũng may còn phương tiện truyền thông internet, nếu không thì chẳng có lễ trực tuyến mà thông công, và người trong xứ có đói khát, sống chết ra sao cũng chẳng ai hay biết.

Rơi vào tình trạng không gặp được ai, không đến được nơi nào, không tập trung đông đảo, nhiều người tín hữu không tránh khỏi tâm trạng hụt hẫng, chênh vênh, bởi từ lâu đời sống đức tin luôn rộn ràng sinh động, các cuộc lễ được tổ chức quy mô, hoành tráng, đông đảo, và mọi người cảm thấy an toàn khi được tập thể, cơ cấu bảo vệ, gìn giữ. Bỗng nhiên không còn gì, không được làm gì, không gặp gỡ, quy tụ được ai, và tình trạng này đã đặt ra cách sống đức tin mới, đòi người tín hữu phải linh động thể hiện niềm tin của mình cách phù hợp với hoàn cảnh mới do đại dịch gây ra.

Quả thực, Covid đang bao trùm thế giới, đe doa mọi người trên địa cầu, và đặt ra cho chúng ta, những người Kitô hữu một hoàn cảnh “giữ đạo” không đến được nhà thờ, một cách “sống đạo” không phong trào,  đoàn thể. Hoàn cảnh này không mấy khác hoàn cảnh không còn Đền Thờ của dân Do Thái khi họ bị tản mác lưu đầy, không còn nơi thờ phượng Thiên Chúa Giavê, khi quân thù tàn phá “Nhà Thiên Chúa”.

Đức Giêsu khi đối thoại với người đàn bà Samari bên giếng Giacóp đã  nói với chị ta: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai  thờ phượng Người như thế.” (Ga 4, 21.23).

Trong thần khí và sự thật, nghĩa là trong Thánh Thần, Đấng ngự trong Đền Thờ tâm hồn mỗi người, như Đức Giêsu đã căn dặn: “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,17), “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thày đã nói với anh em” (Ga 14,26).

Có Thần Khí sự thật ở giữa chúng ta và ở trong tâm hồn mỗi người, mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu, mọi tình huống dù nhiêu khê, phức tạp thế nào, sự thật của Thiên Chúa vẫn ngời sáng trong tâm hồn và hướng dẫn đời sống chúng ta, để chúng ta không lầm đường lạc lối, không hoang mang, lo sợ, không thối chí, tuyệt vọng, nhưng tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót và ơn phù trợ của Thiên Chúa.

3.Ưu tiên của đức ái:  

Không lúc nào đức ái cần thiết và “gặp thời” như những ngày giữa tâm dịch, khi mà người sống cũng khổ và cô đơn như người chết, người chết cũng tức tưởi, và  tang thương như người sống.

Chính trong tâm bão của mọi nỗi khổ, niềm đau, thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên nhủ người tín hữu chúng ta: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu được người ấy chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì qủa là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin ; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 14-18). “Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Và hành động của đức tin chính là đức ái.

Đức ái đang làm chứng đức tin sống động ở những nữ tu tình nguyện quét dọn vệ sinh, lau chùi nhà cầu trong các bệnh viện chữa trị bệnh nhân Covid; đức ái đang chiếu sáng dung mạo Đức Giêsu, Thiên Chúa của lòng thương xót nơi các thầy dòng ngày đêm  phân phát lương thực, xăng dầu cho đoàn người di tản thiếu thốn mọi sự trên đường  trốn dịch, bỏ thành phố về quê; đức ái thực là dấu chỉ  của người môn đệ Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ  nhân hậu qua “mùi chiên và mùi Covid” toát ra từ những mục tử dám hy sinh hiến mạng vì đoàn chiên, như lời cha Phạm Quang Long, giáo họ Na, thuộc giáo phận Hà Tĩnh, khi viết về cha Phêrô Nguyễn Ngọc Long, Nhà Thờ Mỹ Lợi B, Cái Bè, Tiền Giang, thuộc giáo phận Mỹ Tho, người  đã  ưu tiên chọn đức ái, khi lấy hết tiền xây nhà thờ để mua nhu yếu phẩm từ miền Tây gửi giúp bà con Sài Gòn đang lâm cảnh khan hiếm lương thực trầm trọng; đức ái đang “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” ở những giáo dân âm thầm chia sẻ từng bó rau, cọng cải với gia đình lương dân hàng xóm, những  thành viên của các hội đoàn công giáo tích cực đóng góp trong công trình cứu trợ nạn nhân Covid  bên cạnh anh chị em của các tôn giáo bạn; và đức ái đã tạo nên những nhịp cầu nối trái tim này với tấm lòng kia, nối vùng miền này với địa phương nọ, nhất là nối con người với Thiên Chúa qua thiện tâm và công tác thiện nguyện.

Tóm lại, Covid tuy là tai họa của nhân loại, là sự dữ gây nhiều đau khổ cho con người, nhưng  với đức tin, “chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người..” (Rm 8, 28), nên ngay giữa cuồng phong nguy hiểm của đại dịch Covid, người Kitô hữu vẫn chọn bước theo Đức Giêsu trên đường sứ vụ, vẫn chọn hy vọng vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, vẫn  chọn hết tình yêu thương và hết mình chia sẻ, phục vụ đồng loại bằng mở rộng trái tim được Chúa biến đổi từ chai đá vô cảm thành quả tim bằng thịt hay chạnh lòng thương; bằng xây dựng trái tim sốt sắng thờ phượng thành  Đền Thờ của Thiên Chúa; bằng dành ưu tiên cho đức ái trong mọi lựa chọn, quyết định.

Và như thế, không một giây phút nào của thời Covid sẽ trở nên vô ích, vì chúng ta không ngừng chọn Chúa; không một sự kiện, biến cố trái ý, nghịch lòng nào từ đại dịch sẽ bị coi là vô nghĩa, vô vị, vì trong mọi sự luôn có sự hiện diện và tác động của Thần Khí sự thật; và không một ý nghĩ, lời nói, việc làm nào giữa cơn đại dich của chúng ta sẽ bị xếp xuống hàng vô phúc, vì tất cả đều được Tình Yêu Đức Kitô khai sinh, thúc bách.

 

21. Sóng gió cuộc đời – “Mỗi ngày một tin vui”

(Suy niệm Lời Chúa Hằng Ngày của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu – “Mỗi Ngày Một Tin Vui”)

Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.

Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.

Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.

Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.

 

 

22. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”

(Suy niệm của Hiền Lâm)

Câu chuyện thầy trò Chúa Giê-su và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giê-su Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giê-su mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.

Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:

“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,

như tướng hùng đã thấm men say,

bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,

phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.

(Tv 78,65-66).

Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giê-su thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ (x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giê-su chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.

Chúa Giê-su chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.

Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?

Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:

– Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,

– Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,

– Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.

Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Người.

Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giê-su đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.

Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giê-su. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.

 

 

23. Ơn thánh lạ lùng – Lm Mark Link SJ

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)

John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình.

Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi,John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.

Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này.

John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.

Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi.

Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.

Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca.

Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...

“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”

Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay.

Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.

Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!’”

“Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.

Bài đọc một diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm.

Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ... Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29).

Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.

Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người.

Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.

Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha... Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30).

Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ.

Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau:

“Lậy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”

Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.

Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần.

Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo.

Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý.

Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.

Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi.

Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.

Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.

Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời.

Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.

Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa.

“Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy...

“Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”

 

 

24. Niềm tin vượt thắng sợ hãi

Có một câu chuyện kể rằng: Người ta tổ chức một cuộc du lịch xuyên qua Đại Tây Dương. Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra hong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu con trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời: vì cha tôi là người cầm lái con tàu.

Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, chúng ta bình thường cũng mang nhiều nỗi sợ hãi trong cuộc đời. Người thì sợ lái xe trên xa lộ. Kẻ khác sợ phải nói chuyện trước công chúng. Sợ thi rớt. Sợ bị bệnh ung thư. Sợ bị nhiễm HIV. Sợ cô đơn. Sợ thất nghiệp. Sợ gia đình tan vỡ. Sợ con cái hư hỏng… thậm chí sợ ma nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các Tông đồ sợ bão tố, sợ nguy hiểm và sợ chết. Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ. Vậy mà Chúa còn trách các Tông đồ: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”. Các Tông đồ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông và tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm và bớt sợ hãi, thậm chí an bình trong gian nguy. Nhưng cũng phải can đảm lắm mới có thể tin.

Trong câu chuyện trên, vì tin vào tài cầm lái con tàu của cha mình mà cậu con trai thản nhiên không lo sợ nguy hiểm trước mắt. Cũng vậy, đối với mỗi người chúng ta đang sống trên cuộc đời này cũng giống như con thuyền của các Tông đồ lênh đênh trên biển cả và gặp gió bão. Chúng ta cũng gặp không ít những cơn dông tố bất ngờ. Thật vậy, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hoặc kinh nghiệm qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Nhưng đối với chúng ta, những người có đức tin, không phải chúng ta không biết sợ hãi, nhưng chúng ta tin rằng Thiên Chúa ở đàng lái, là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Nhưng có thể đã có những lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Nhưng trong những khó khăn đó, chúng ta phải hoàn toàn phó thác vào Chúa. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc khó khăn, nguy hiểm để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đàng lái”. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản, thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta cần phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

Chính vì thế, qua Lời Chúa hôm nay, ước gì mỗi khi chúng ta gặp khó khăn, thử thách, gian nan, vất vả trong cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu cầu Chúa Giêsu với một niềm tin tưởng sâu xa, phó thác trọn vẹn và cầu nguyện chân thành, xin Chúa cứu giúp. Amen.

 nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-17102021-thanh-le-cau-nguyen-trong-thoi-gian-dai-dich-gio-lan-bien-deu-vang-lenh-chua.html