Chúa Nhật 02/06/2019 – Chúa Nhật 7 PHỤC SINH năm C: CHÚA THĂNG THIÊN. Lễ Trọng. Lễ HỌ. NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI – Chúa Giêsu lên trời.

Chúa Nhật 02/06/2019 – Chúa Nhật 7 PHỤC SINH năm C. CHÚA THĂNG THIÊN. Lễ Trọng. Lễ HỌ. NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI – Chúa Giêsu lên trời.

"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

 

Lời Chúa: Lc 24, 46-53

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống". Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông.

Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

1. Cùng ở lại trong thành

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa không muốn xa thầy. Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên.” Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy.” Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!”

Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên. Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo.

Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?” Ông Êlisa nói: ”Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra. Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1, 9)

Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ. Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa. Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.

Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24, 50-53)

Chứng nhân & Đi gieo

Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.

Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.

Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.

Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng. Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.

Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)

Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân. Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội. Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.

Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.

Bình an & Vui mừng

Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.

Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.

Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.

Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu,, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.

Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?

Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)

Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. (Đường Hy Vọng, số 611)

Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.

 

2. Chuyển sang một giai đoạn mới

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

"Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân"

(Lc 24,47)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".

Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.

Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.

Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 1,1-11

Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:

Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.

Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.

Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.

2. Đáp ca: Tv 46

Thánh vịnh này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Thánh vịnh này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.

3. Bài đọc II: Êp 1,17-23

Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53

Bài Tin Mừng này có hai phần:

1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):

Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.

Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.

Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.

2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là

Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.

Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.

IV. Gợi ý giảng

1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội

Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.

Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng "làm chứng", như lời Chúa Giêsu nói "Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy". Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.

Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.

Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: "Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời". Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:

Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.

Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.

Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: "Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới". Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.

Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:

Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.

Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.

Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.

Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.

2. Hiện diện và vắng mặt

Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.

Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói "đồng sàng, dị mộng" (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).

Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.

Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.

Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.

Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.

Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.

Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.

Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)

3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng

Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: "Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem..." Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.

Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?

Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v...

Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v

Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù», và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39).

Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?

Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.

4. Cuộc sống chứng nhân (Lc 24,46-53)

Báo "Le Figaro" mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi - Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời - Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

***

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: "Tôi tự hào là một người tín hữu... Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn".

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: "Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!"

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: "Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người".

***

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc, năm C)

5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội

Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).

Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).

1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:

Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:"...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).

Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".

Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).

Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).

Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế

2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:

Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:" Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 17-20).

Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.

Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa:" Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được... ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " (Mt 5,13-16)

Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)

6. Sứ mệnh của người Kitô hữu

Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:

"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.

2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.

3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.

4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: "Anh em hãy đi đến với muôn dân", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.

 

3. Chúa Nhật Chúa Lên Trời

Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta sẽ về nên Trời còn là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa cho thấy rõ hơn, Chúa lên trời là vì chúng ta, cũng như tất cả những việc người làm là vì loài người chúng ta, như lời kinh tin kính chúng ta đọc: "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế..." rồi Chúa lên trời là vì loài người chúng ta như lời Chúa nói: "Con muốn Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con". Cũng từ đó mà chúng ta nhận ra được một sự thật căn bản là quê hương chúng ta ở trên Trời. Mà nếu quê hương chúng ta ở trên trời thì hiện giờ chúng ta đang trên đường đi về quê hương đó. Đường về trời còn dài và lắm khó khăn vậy mà chúng ta lại mang quá nhiều hành lý. Những hành lý nào không nhãn hiệu đời đời, sẽ làm cho bước chân chúng ta chùn lại, khó đi. Biết bao nhiêu thứ hành lý chúng ta không thể mang vào Nước Trời được vậy mà chúng ta cứ cố tranh dành với người này, người nọ. Thật uổng công.

Nhiều người cho rằng chết là hết. Nhưng với người kitô hữu thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Tin vào Nước Trời là một thách đố lớn đối với chúng ta. Bởi vì ở nơi đó, chúng ta chưa từng có kinh nghiệm, chưa từng sống. Vì thế, Thánh Phaolô nói về Nước Trời như sau: "Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa." Muốn vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới. Niềm tin của người Kiô hữu được Chúa Giêsu mời gọi và hứa ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và khi chúc lành thì người rời khỏi các ông. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp các tông đồ hiểu được lời Chúa và làm cho các ông dám sống chứng nhân.

Chúa về trời còn cho chúng ta biết Chúa hoàn thành sứ mạng của mình và giờ đây, Người trao lại sứ mệnh đó cho chúng ta. Liệu chúng ta có ý thức được điều đó không? Chúng ta có làm cho người quanh ta hiểu rằng: Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết rồi mới được tôn vinh. Vậy, vai trò của chúng ta giờ dây là sống chứng nhân cho Chúa Giêsu. Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiadi đoạn 41, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: "Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nói cách khác, bằng sự chứng tá sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu - chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, vể sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian - nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện.

Chúng ta hãy làm cho người quanh ta hiểu rằng quê thật của con người là Trời chứ không phải trần gian. Thiên Chúa trên trời, Ngài muốn chúng ta yêu thương giúp đỡ nhau tiến về quê Trời. Đó là chúng ta đã làm chứng cho Chúa Giêsu.

Xin Chúa chúng con ý thức rằng: Chúa về trời nhưng vẫn hiện diện vô hình với chúng con. Chúa về Trời để dọn chỗ cho chúng con, xin cho chúng con biết quý trọng những sự cao siêu trên Trời, là quê hương đích thật của chúng con mong tới, để từ nay chúng con chỉ sống cho Chúa mà thôi. Amen.

 

4. Sự hiện diện của Chúa

Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa về trời.

Biến cố Chúa về trời không có nghĩa là Chúa di chuyển hộ khẩu, Chúa thay đổi nơi cư trú, từ mặt đất này tới một nơi nào đó, nhưng có nghĩa như là một sự tôn vinh, như lời thánh Phaolô đã viết: Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, cho nên Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Các tín hữu tiên khởi đã tin rằng: Đức Kitô được tôn vinh tiếp tục hiện diện giữa trần gian. Người hiện diện không phải chỉ ở Giuđêa, mà còn khắp cùng bờ cõi trái đất. Ngài hiện diện trong chính sự rao giảng của Giáo Hội. Phần cuối của đoạn Tin Mừng cho thấy ngay cả sau khi Ngài đã lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, các tông đồ vẫn tin tưởng rằng có Chúa cùng hoạt động với các ông khi các ông rao giảng và Ngài củng cố lời giảng của các ông bằng những phép lạ kèm theo. Thực vậy, thánh Matthêu đã lặp lại lời Chúa: Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Còn thánh Luca thì đã ghi nhận: Sau khi Chúa lên trời, các tông đồ trở lại Giê rusalem, lòng tràn ngập niềm vui. Tại sao lại như thế? Chẳng lẽ các ông vui mừng vì Người đã rời xa họ hay sao? Phải chăng đây là một thoáng mặc khải, hé mở cho chúng ta thấy sự vắng mặt của Người đã trở thành một sự hiện diện thất gắn bó và mật thiết. Người tuy xa mà lại gần, tuy vắng mặt mà vẫn luôn hiện diện.

Thực vậy, phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy việc Giáo Hội nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô, nối tiếp những công việc Người đã làm, kể cả những công viêc lạ lùng như trừ quỷ, chữa lành các bệnh nhân. Giáo Hội thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô giữa trần gian. Sự hiện diện này không còn bị đóng khung trong thời gian và không gian. Nhưng đã được mở ra để có thể đến với mọi người.

Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.

Và khi Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.

Chính vì thế mà mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống xem lời nói và việc làm của chúng ta, có là một chứng tá trung thực cho sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần gian này hay không.

 

5. Nhìn theo hướng Người đi - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Thánh Luca tường thuật cuộc Thăng thiên của Đức Giêsu trong hai quyển sách: Quyển thứ nhất là Tin Mừng, quyển thứ hai là Công Vụ Tông Đồ.

Trong Tin Mừng, Ngài kể biến cố Thăng thiên như xẩy ra ngay trong ngày Đức Giêsu sống lại. Sau khi Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường về Em-mau, rồi với các tông đồ ở Giêrusalem, Người dậy bảo và sai các ông đi rao giảng cho muôn dân. Nói xong, Người chúc lành cho các ông và Người lên trời ngay trước mắt các ông.

Trong công vụ, Thánh Luca thêm một số chi tiết khi Chúa lên trời: Về thời gian là sau 40 ngày (Cv. 1, 3; 13,31), về không gian là núi Ôliu (núi cây Dầu) (Cv. 1,12), và có đám mây rước Người lên (Cv.1, 9). Những chi tiết này vừa nói lên tính chất lịch sử vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Bốn mươi ngày là thời gian Đức Giêsu còn ở dưới thế, hiện ra dậy dỗ các tông đồ, ăn uống, an ủi, chúc phúc cho các ông và các ông đã thấy Người bằng tai, mắt, đụng chạm, gần gũi Người. Những việc đó nói lên tính cách cụ thể về lịch sử. Bốn mươi ngày còn tượng trưng cho thời gian được đặc ân mặc khải của Thiên Chúa, như ông Môsê ở trên núi Sinai bốn mươi ngày đêm đã được Thiên Chúa mặc khải cho mười điều răn (Xh. 24,18; 34, 28).

Đám mây vừc có tính chất vật lý cụ thể, vừa nói lên vinh quang của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa hiện ra, như Thiên Chúa đã giao ước với ông Noe bằng đặt cầu vòng trên đám mây là dấu chỉ “nước sẽ không dâng lên thành đại hồng thủy để tiêu diệt loài người nữa” (St. 9, 13-15). Đám mây cũng là nơi Đức Giêsu ngự giá để chứng tỏ Người là Thiên Chúa như khi Người biến hình trên núi có “đám mây đến bao phủ các ông tông đồ và từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc. 9, 7). Đặc biệt trong ngày quang lâm: “Các ông sẽ thấy Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự trên mây trời mà đến” (Mc. 14, 62; Mt. 26,64).

Núi Ôliu: (Núi cây Dầu) ở phía đông thành Giêrusalem. Đi từ núi vào thành phải vượt qua thung lũng Kê-rôn (Cedron) mênh mông, nơi có những vườn cây xanh tươi, vườn Giêtsêmani cũng nằm ở đây. Betania cũng nằm ở phía đông sườn núi, nơi Đức Giêsu đã cho Lazarô chết bốn ngày sống lại (Mc. 11, 18), cũng ở phía đông núi Ôliu có ngọn núi Beth-pha-giê, nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem trong ngày lễ lá. Chính trên ngọn núi này, Người đã tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và ngày tận thế của loài người (Mc. 11,1 và 13,3). Trong những ngày tuần thánh, trước khi bị bắt, Đức Giêsu thường xuyên đến miền núi này để cầu nguyện trong những đêm thanh vắng. Thánh Luca kể Đức Giêsu lên trời ở núi Ôliu, vừa nhắc lại những biến cố lịch sử, vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa vì “tất cả cánh đồng thây ma, tro tàn, tất cả các nương rẫy cho đến khe suối Kê drôn … hết thảy đều là của thánh dâng kính Thiên Chúa” (Gr. 31, 40), trong thị kiến của ngôn sứ Êgiêkiel đã thấy: “Vinh quang Thiên Chúa từ giữa thành đi lên và dừng lại trên núi phía đông của thành”. Nơi đây đã thành nơi tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời ở đấy và “Các ông sụp lạy Người… Lòng đầy hoan hỷ mà chúc tụng Thiên Chúa”, bây giờ các ông hoàn toàn nhận ra Người là Thiên Chúa, sụp lạy và chúc tụng Người với tâm tình thờ lạy Thiên Chúa, và lòng các ông đầy hoan hỷ.

Lòng đầy hoan hỷ bởi vì Thầy mình thật là Thiên Chúa hằng sống, không còn phải chết nữa.

Các ông hoan hỷ vì Thầy đầy quyền năng Thánh Thần để dậy các ông hiểu lời Kinh thánh, và Thầy về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để ban sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các ông.

Các ông hoan hỷ vì Thầy đã tín nhiệm trao cho các ông tiếp tục công cuộc rao giảng công cuộc cứu độ của Thầy và làm chứng về Thầy đã chịu khổ hình, và ngày thứ ba Ngài đã sống lại từ cõi chết. Bây giờ Người ngự trên trời, nhưng vẫn ở lại với các ông mọi ngày cho đến tận thế. Với lòng đầy hoan hỷ ấy, các ông hăng hái trở lại Giêrusalem, vào đền thờ cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa, chờ đợi ngày Thánh Thần hiện xuống để cùng các ông làm chứng về Thầy tại Giêrusalem, khắp xứ Giuda, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.

Đầu đội trời, chân đạp đất: “Các ông đăm đăm nhìn trời hướng Người đi” (Cv, 1,10).

Nhìn theo hướng Thầy đi: Thầy đã từ trời xuống đất, Thầy đã dốc hết tâm sức ra phụng sự Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em. Thầy đã không ngại phục vụ cho đến cùng, hiến toàn thân chịu chết và chết trên thập giá, để xây dựng một vương quốc bao la hoà giải, hòa thuận, hòa bình, một vương quốc công bình, hiệp thông và bác ái.

Các ông đăm đăm nhìn theo hướng Người đi: Thầy từ trời xuống, rồi về trời. Các ông cũng phải nhận sức mạnh Thánh Thần từ trời xuống để các ông đi khắp mặt đất rao giảng Tin Mừng của Thầy từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất để xây dựng vương quốc của Thầy đã thiết lập, rồi các ông mới được về trời hưởng vinh quang của Thầy.

Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải đăm đăm nhìn trời “Cầu xin Chúa Cha vinh hiển, là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho chúng ta thần khí khôn ngoan, để mặc khải cho chúng ta nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho chúng ta thấy rõ: Đâu là niềm hy vọng chúng ta đã được” (Bài đọc II) đâu là con đường hy sinh phục vụ quên mình, hết mình và bỏ mình của Đức Giêsu Kitô, để chúng ta đi theo con đường đó mà xây dựng một thế giới mới. Lúc đó, chúng ta mới được đi theo Người về trời hưởng gia nghiệp vinh quang phong phú của Người. Amen.

 

6. Ấn tín - Lm. Vũ Đình Tường

Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ như ghi sản xuất tại Việtnam, hay Nhật Bản. Có những loại hàng sản xuất một nơi, đóng thùng một nẻo nên ghi thêm chi tiết hàng được công ti A nhập cảng và công ti B đóng thùng. Mục đích việc làm này mong giúp giới tiêu thụ không rơi vào trường hợp con buôn vì ham lợi đánh lận con đen, mua hàng giả dán nhãn thiệt thu lợi nhiều.

Kitô hữu cũng có nhãn hiệu không phải nhãn hiệu cầu chứng mà là ấn tín chứng thực. Mỗi người trong chúng ta là sản phẩm của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sáng tạo, đóng ấn tín cho từng người. Đây không phải là điều bịa đặt mà là một thực tại có từ thời sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng Thế Kí chương đầu 1, câu 27 trong phần lịch sử sáng tạo ghi rõ. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Người. Như thế chúng ta vào đời là thành quả yêu quí của Thiên Chúa yêu thương.

Trước khi cho ngươi thành hình người trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi. Jer 1,4

Hãy xem Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta Is 49,6

Dấu Ấn

Sản phẩm thường mang dấu hiệu cầu chứng thương mại, ghi rõ mã số cầu chứng. Kitô hữu không mang dấu hiệu cầu chứng thương mại mà là ấn tín đức tin. Ấn tín đức tin đó được ghi nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy với dấu thánh giá trên trán con người và được xức dầu thánh hiến để trở thành hàng thật, Kitô hữu thật trong Đức Kitô. Ấn tín thập giá là nhãn hiệu của mỗi Kitô hữu dưới danh hiệu chúng ta là con cái Thiên Chúa. Kitô hữu sống làm vinh danh thập giá là Kitô hữu chính hiệu. Đó là tiếp tục sứ mạng Đức Kitô đã bắt đầu như lời tiên báo của tiên tri Is 61,1-2

Thần Khí Chúa ngự trên tôi và đã xức dầu sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho kẻ giam cầm, phóng thích tù nhân và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma 8,17 còn cho biết là con cái Thiên Chúa nên được trở thành kẻ thừa tự, thừa hưởng tình yêu viên mãn và cuộc sống đời đời của Thiên Chúa.

Nhập cảng và đóng dấu

Chúng ta chính thức gia nhập Giáo Hội trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy nơi xứ tạo ta đang cư trú. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta được đóng gói, được đúc khuôn để trở thành người Kitô hữu tương lai. Xứ đạo địa phương dẫn dắt chúng ta trên con đường học đạo và hành đạo. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta cùng hội họp, cầu nguyện, lãnh nhận bí tích, cùng chia sẻ và nhận những đóng góp, hỗ trợ trong tinh thần Kitô hữu. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta kết hợp trong Chúa qua các buổi cùng cầu nguyện, cùng sinh hoạt. Vì thế có thể coi xứ đạo địa phương đóng góp rất lớn vào việc giúp thành hình và phát triển đức tin. Điều này ít nhiều gây hiểu lầm trong việc hành đạo. Kitô hữu quá cứng ngắc gắn bó với xứ đạo, nhà thờ, trung tâm gây nên chia rẽ trong cộng đoàn giáo xứ. Lí do chính là sống trong sợ hãi. Sợ hãi làm tâm hồn mất tự do. Có thể họ là người đạo đức, siêng năng, cần mẫn nhưng căn bản là đức tin chưa trưởng thành. Địa điểm thờ phượng là phương tiện cho chúng ta gặp gỡ, cầu nguyện. Viện ra đủ lí lẽ tranh đấu biến địa điểm thờ phượng thành nơi đấu lí có khác chi mượn chính đạo làm việc tà đạo. Tình trạng ngấm ngầm cạnh tranh về mọi phương diện giữa họ lẻ với giáo xứ không thể biện minh là làm việc đạo đức.

Đức Kitô về trời cho xác tín một điều quê hương chúng ta ở trên trời. Là công dân nước trời cần có tinh thần, coi trọng việc hướng về thiên quốc, luôn nhớ mọi sự trần gian đều qua đi. Vật thể cần cho cuộc sống, cần cho việc giữ đạo, Kitô hữu khôn ngoan dứt khoát từ bỏ bất cứ điều gì khi chúng trở thành vật cản bước tiến về thiên quốc, chắn tầm nhìn nước trời.

 

7. Khai mở một trang sử mới – Keith Witfield

(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

Khai mở trang sử mới của Giáo hội

“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).

3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

 

8. Hạnh phúc lớn lao

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Phi hành gia Yuri Gagarine của Liên Xô sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ tru,ï khi trở về trái đất đã tuyên bố: “Tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả!” Thế nhưng, nhà bác học Isaac Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng thì lại thốt lên: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi”.

Chúng ta là những người tin Chúa Giê-su Phục Sinh và lên Trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giê-su lên Trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giê-su lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?

Theo quan niệm của người Do-thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần. Phần dưới mặt đất là âm phủ dành cho người chết; phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh. Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su làm hai. Giai đoạn đầu, sống lại, Đức Giê-su đi từ âm phủ lên mặt đất. Giai đoạn kế đó, lên Trời, Đức Giê-su bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.

Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế. Hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng: khi lên trời như thế Chúa Giê-su sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất! Những chữ “lên Trời” bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên Trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì Trời hay Thiên Đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh Kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Ki-tô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.

Thực ra khi Chúa Giê-su sống lại, Người đã lên Trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì đã bước vào cõi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giê-su hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và củng cố Đức Tin của các Tông Đồ. Giáo Hội đã được thiết lập nay được củng cố để được sai đi.

Như vậy sự kiện lên Trời mà Phụng Vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của Lịch Sử Cứu Độ là Đức Ki-tô ban những giáo huấn cuối cùng, trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo Hội, chuẩn bị cho các Tông Đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng Phục Sinh trong thế giới. Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giê-su đã được Thần Khí Hóa và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giê-su chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: “Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi”. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giê-su một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).

Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: “Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học”.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên. Chúa về Trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.

Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc Phúc Âm Luca nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc Truyền Giáo toàn cầu. Hình thức của việc Truyền Giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành Môn Đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em” (Mt 28,19). Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông Đồ, qua các Tông Đồ rồi đến các Môn Đệ, Đức Giê-su trở thành người sống đương thời với chúng ta: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc Cứu Rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Chúa Giê-su tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi Ki-tô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Mỗi Ki-tô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Ki-tô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.

 

9. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng với chúng ta là những người Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống đời sau, tin có Thiên Đàng. Chúng ta tuyên xưng niềm tin đó qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”. Vậy, Thiên Đàng là gì? Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng? Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?

1. Thiên Đàng là gì?

Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, và đã hoàn toàn được thanh tẩy, sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “Đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “Mặt giáp mặt”, không qua trung gian của một tạo vật nào hết. Sự sống hoàn hảo như thế với Ba Ngôi cực thánh, sự hiệp thông về sự sống và tình yêu với Chúa Ba Ngôi, với Trinh Nữ Maria, các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “Thiên Đàng”. Như vậy, Thiên Đàng là cùng đích tối hậu và là sự thực hiện những khát vọng sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh viễn (x. GLHTCG số 1023-1024).

2. Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng?

“Kinh Thánh nói về Thiên Đàng qua những hình ảnh: sự sống, ánh sáng, bình an, bữa tiệc cưới, rượu của Nước Trời, nhà Cha, thành Giêrusalem trên trời, Thiên Đàng: Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài” (x. GLHTCG số 1027). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu bằng cách này hay cách khác đã nói với nhân loại về Thiên Đàng. Xin được đơn cử một số dẫn chứng sau đây: Ngài khẳng định: "Tôi tự trời mà xuống" (Ga 6,38); Ngài còn nói với người Do-Thái rằng: "Các ông bởi hạ giới; còn Tôi, Tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 8,23); Khi đưa các Tông đồ lên núi Taborê, Ngài đã hé mở vinh quang Thiên Đàng cho các Tông đồ thấy; Ngài kể dụ ngôn người phú hộ và ông Lazarô để nói lên số phận khác biệt giữa hai người là Thiên Đàng và Hoả Ngục (x. Lc 16, 19-31); Ngài còn nói: “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”(Ga 14,2); Đặc biệt, trên Thánh giá, Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43)…

Thánh Phaolô thì khẳng định: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng như sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Chính bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay, cũng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu rời các Tông đồ mà lên trời (x. Cv 1,11; Lc 24, 51). Như vậy, chính những lời của Chúa Giêsu và các Tông đồ làm chứng cho chúng ta có Thiên Đàng.

3. Làm thế nào để được lên Thiên Đàng ?

Có nhiều cách để lên Thiên Đàng, xin được gợi ý một số cách thế sau đây:

Thứ nhất, xa tránh tội lỗi. Có những vị thánh sống trên đời này không hề phạm bất cứ một tội trọng nào, chẳng hạn: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu; Thánh Louis Gonzaga, Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse…Đúng như thánh vịnh 15 diễn tả: Đó là những “Kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã. Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI, lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15, 2-5).

Thứ hai, thống hối ăn năn tội. Bản chất của con người là yếu đuối, hay nghiêng chiều về sự dữ, nên con người thường sa ngã phạm tội. Vì thế, tội lỗi như là rào cản lớn nhất làm cho con người không đến được với Thiên Chúa. Đó cũng là rào cản không cho phép con người lên Thiên Đàng. Chính vì vậy, để đến với Chúa, để được lên Thiên Đàng, con người cần phải cố gắng xa tránh tội lỗi. Thánh Gioan khuyên dạy chúng ta “Đừng phạm tội nữa"(x. 1Ga 2,1). Bởi vì: "Ai phạm tội thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá công việc của ma quỷ"(1 Ga 3,8). Nhưng Ngài vẫn biết, con người không dễ gì mà làm được điều đó, vì bản tính con người yếu đuối dễ sa ngã phạm tội, nên Ngài khuyên chúng ta hãy đến với Bí tích Giao hoà để được khỏi tội: "Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa"( 1 Ga 2,1).

Thực tế cho chúng thấy có rất nhiều tội nhân, nhờ thống hối ăn năn trở về với Thiên Chúa nên đã được lên Thiên Đàng, các Ngài trở thành thánh, nghĩa là trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo, ví dụ: Kẻ trộm lành, Thánh Maria Mađalêna, Thánh Augustinô, thánh Phêrô...

Thứ ba, yêu thương anh em. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương nhau là thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công sẽ dựa vào điều này như là tiêu chuẩn, là giấy thông hành để nhận hay không nhận chúng ta vào Thiên Đàng (x. Mt 25, 31- 46).

Bởi vì: Ai yêu thương thì đi trong ánh sáng (x. 1Ga 2,9), đi trong ánh sáng thì chắc chắn sẽ đến cùng Thiên Chúa là nguồn gốc của ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Thiên Đàng. Còn ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối (x. 1Ga 2,9-10), đi trong bóng tối là đi theo đường lối của ma quỷ và chắc chắn sẽ không thể tìm thấy ánh sáng vĩnh cửu trên Thiên Đàng.

Yêu thương là dấu chỉ của sự sống thiêng liêng. "Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau" (1 Ga 3,14).

Yêu thương là dấu chỉ của người môn đệ Chúa, chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, Ngài nói: "Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).

Như vậy, ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa, và ở đâu có Thiên Chúa thì ở đó có Thiên Đàng. Trên Thiên Đàng người ta sống bằng Tình Yêu.

Khi nói về sự khác nhau ở Thiên Đàng và Hoả Ngục, người ta tưởng tượng câu chuyện sau đây: Cả Thiên Đàng và Hỏa Ngục đều dùng bữa với thức ăn như nhau trong một khung cảnh giống hệt nhau, trong đó mỗi người phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Trên Thiên Đàng mọi người không tự gắp thức ăn cho mình, mà lại gắp thức ăn cho người khác. Vì thế, ai cũng ăn được no. Còn những người trong hỏa ngục thì chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn đút vào miệng mình, mà đũa thì dài nên chẳng ai có thể đút được thứ gì vào miệng mình. Thế nên ai cũng đói, đến khi hết giờ ăn mà họ vẫn cứ đói, vì thế nên họ chỉ biết gây gỗ và căm thù nhau.

Thứ tư, chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Chúa Giêsu đã lên trời sau khi chu toàn bổn phận Chúa Cha trao phó. Mỗi người kitô hữu chúng ta muốn được lên Thiên Đàng cũng phải chu toàn bổn phận Chúa Giêsu trao phó. Đó chính là bổn phận loan báo Tin mừng. Trước khi về trời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,17). Như vậy, loan báo Tin Mừng là lệnh truyền. Lệnh truyền thì bắt buộc người thừa lệnh phải tuân giữ. Công đồng Vatican II khẳng định: “Loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô” (x. Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16) và đó cũng là bản chất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy chu toàn bổn phận đó trong gia đình và nơi mọi môi trường chúng ta sống: Vợ chồng loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá đời sống gia đình bằng cách chu toàn bổn phận yêu thương, chung thuỷ, sinh sản và giáo dục con cái. Giáo viên, học sinh, sinh viên loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá trường học. Công nhân viên chức, bác sỹ, y tá loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá công sở, bệnh viện…Tóm lại, dù ở đâu, trong cương vị nào chúng ta hãy trở thành những cuốn Tin Mừng sống để qua chúng ta mọi người nhận biết Chúa và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bởi vì, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).

Chúa Giêsu đã từng nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12). Đó chính là sức mạnh của sự gìn giữ mình vô tội. Đó là sức mạnh của sự hy sinh từ bỏ tính mê nết xấu tội lỗi. Đó là sức mạnh của yêu thương tha thứ. Đó là sức mạnh của việc chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Xin cho mỗi người chúng ta biết cố gắng gìn giữ mình khỏi mắc tội, nhưng nếu sa ngã phạm tội thì hãy cố gắng thống hối ăn năn, đồng thời biết sống yêu thương tha thứ và chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng để ngày sau được lên Thiên Đàng. Amen.

 

10. Có những trang mạng mở lối vào đức tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.

Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.

Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.

Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.

Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.

Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: “Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa”. Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong “nền văn hoá mới này” do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.

Tiếp nối định hướng đó, Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 năm nay, ĐGH Bênêđictô viết sứ điệp truyền thông với chủ đề “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”. Lời mở đầu, ngài viết: “Tôi muốn xem xét việc phát triển các mạng xã hội kỹ thuật số đang góp phần rõ ràng tạo nên một “agora” (quảng trường) mới, một không gian công cộng mở, nơi đó con người chia sẻ các ý tưởng, thông tin, ý kiến, và cũng là nơi phát sinh những mối tương quan và hình thái cộng đồng mới”. Đức Thánh Cha nhận định tính tích cực của các trang mạng xã hội: “Các mạng xã hội, ngoài việc là một phương tiện loan báo Tin Mừng, còn có thể là một yếu tố phát triển con người. Chẳng hạn, trong một số bối cảnh địa lý và văn hóa mà các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng xã hội có thể giúp họ cảm thấy vẫn hiệp nhất thực sự với cộng đoàn Kitô hữu khắp thế giới. Những trang mạng tạo thuận lợi cho việc chia sẻ các nguồn tài liệu đạo đức và phụng vụ, giúp con người có thể cầu nguyện với cảm giác thấy mình gần gũi với những người cùng một niềm Tin”.

Có nhiều trang mạng dẫn lối vào Đức Tin: “Trong thế giới kỹ thuật số, có những trang mạng xã hội mang lại cho con người ngày nay những dịp để cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Những trang mạng này cũng có thể mở những cánh cửa dẫn vào những chiều kích khác của đức Tin. Quả thật, nhờ gặp gỡ trước trên mạng, nhiều người đã khám phá tầm quan trọng của việc gặp gỡ trực tiếp, những kinh nghiệm của cộng đoàn, và cả việc hành hương, là những yếu tố luôn luôn quan trọng trong hành trình đức Tin. Bằng cách cố gắng đưa Phúc âm hiện diện trong thế giới kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người cùng cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi chốn cụ thể như nhà thờ, nhà nguyện. Trong bất cứ hiện thực nào của cuộc sống mà chúng ta được mời gọi tham dự, dù đó là không gian vật lý hữu hình hay trong thế giới kỹ thuật số, không được thiếu đi sự gắn bó và hiệp nhất khi diễn tả đức Tin và làm chứng cho Tin Mừng. Khi gặp gỡ tha nhân, chúng ta đều được kêu gọi bằng mọi cách phải làm cho tình yêu Thiên Chúa được nhận biết đến tận cùng trái đất”.

Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: “Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á”. (x.Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).

Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: “Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn”. (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: “Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội,thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.

 

11. Bàn tay Chúa.

Người ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.

Một người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.

Trong Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.

Đó là những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung quanh.

Trong chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời gian.

Cũng chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.

 

12. Chúa lên trời

Chiều thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy xuống…

Rồi ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa lên trời dưới mắt các ông.

Từ đó, chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.

Tôi nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.

Đúng thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy rõ được điều ấy.

Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi. Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức Kitô.

Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc khéo các môn đệ:

- Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.

Hay nói cách khác:

- Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.

Đúng thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.

Nếu ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.

Vì thế, hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang với Ngài.

 

13. Sức mạnh từ trời cao

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.

Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người, nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng. Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề. Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra, và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.

Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha. Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.

Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng. Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế. Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.

Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.

Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.

Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.

Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.

Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.

Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy, chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.

Đức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất. Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.

Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ. Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn. Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng. Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.

Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt. Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn, để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.

Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời, nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời. Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời, thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.

Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất: ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề. Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra, bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực. Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng, và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).

“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1). Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.

Ước gì Chúa Giêsu, Đấng được đưa lên cao, kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.

Gợi Ý Chia Sẻ

Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?

Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

14. Lễ Chúa Thăng Thiên

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, đó là chúng ta sẽ được về trời với Chúa sau khi hoàn tất cuộc đời trần gian này. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trong giây phút hiện tại hôm nay.

Có một sự thật mà con người thường không muốn nhắc tới hay không muốn bàn luận nhiều về nó. Tuy nhiên, cho dù con người muốn trốn tránh nhưng nó vẫn xảy ra đó là cái chết. Rất nhiều người muốn biết chết rồi sẽ đi đâu, sau cái chết sẽ như thế nào? Và không ai có thể trả lời được câu hỏi này ngoài một mình Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Trước sự bất lực của cái chết, và để cứu con người khỏi hư mất vì tội lỗi, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, Ngài sống trọn kiếp người như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua mọi vui buồn, đau khổ như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua cái chết nhưng Ngài đã sống lại.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ, để dạy dỗ, an ủi, và chuẩn bị cho các ông tiếp tục công việc của Ngài là làm cho mọi người nhận biết rằng: ngoài cuộc sống ở trần gian này họ còn có một quê hương vĩnh cữu trên trời. Biến cố Chúa Giêsu lên trời, giúp cho chúng ta phần nào hiểu được chết không phải là hết nhưng là sẽ bước vào cuộc sống bất diệt với Chúa, vì Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời. Ngài đi để chuẩn bị chỗ cho chúng ta, và chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài sau khi cuộc đời trần thế chấm dứt.

Trong bài đọc 1, Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy, khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ cứ mãi mê ngắm nhìn vinh quang của Thầy, cho nên thiên thần đã nhắc nhở các ông "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?". Hãy xuống núi và trở về với cuộc sống hiện tại. Hãy ra đi làm chứng cho những gì các ông vừa nhìn thấy. Chúa về trời không có nghĩa là Ngài bỏ con người mồ côi nhưng Ngài sẽ hiện diện với con người bằng cách khác. Ngài hiện diện qua các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, Ngài hiện diện qua lời dạy bảo của Hội Thánh và Ngài hiện diện qua cuộc sống của mỗi người chúng ta. Giờ đây Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian cho nên Ngài có thể hiện diện với chúng ta mọi nơi mọi lúc.

Việc Chúa Giêsu lên trời chứng tỏ công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất. Từ nay Giáo Hội hay nói cách khác là mỗi người chúng ta phải tiếp tục công việc của Chúa đó là "hãy nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân". Có nhiều cách thế để chúng ta làm chứng cho Chúa, nhưng cách làm chứng hữu hiệu nhất là cách sống tốt đẹp của chúng ta. Làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống biết yêu thương, giúp đỡ, phục vụ người khác ngay trong chính gia đình, xóm làng của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta cũng phải lo làm ăn, sinh sống. Chúng ta cũng gặp đau khổ, thử thách như bao người. Tuy nhiên, điều đó không làm chúng ta mất đi niềm vui và hy vọng. Vì chúng ta biết được cùng đích của đời mình là hạnh phúc quê trời.

Người công giáo tuy sống dưới đất nhưng có bổn phận làm chứng cho những sự trên trời. Chúng ta cũng sống, cũng làm ăn, cũng vui chơi như bao người nhưng trong khi người khác họ sống, làm tất cả như chỉ có đời nay thôi thì chúng ta lại tận dụng đời này để hướng về đời sau. Cuộc sống đời này là quãng đường để đi vào đời sau. Chúng ta không thể về trời với Chúa khi vẫn mang trong mình những hận thù, đố kỵ, ghen ghét, chia rẽ. Hành trang bước vào đời sau không phải là tiền của, tài sản, mà đó là sự phục vụ, yêu thương, tha thứ mà chúng ta đã làm cho anh chị em mình.

Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta có một quê hương vĩnh cửu trên trời. Nơi đó sẽ không còn đau khổ và sự chết. Nơi đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Nhưng để đạt được điều đó ngay từ hôm nay, chúng ta phải ra sức làm cho cuộc sống hiện tại thấm đượm yêu thương. Cuộc sống cho dù có gặp khó khăn thử thách cũng không làm chúng ta thất vọng. Vì chúng ta tin rằng Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.

 

15. Đường lên Trời - Dã Quỳ

Xuyên suốt bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận một tình yêu chan chứa của Chúa Giêsu dành cho môn sinh. Những lời nhắn nhủ như càng tha thiết hơn! Chúa mong muốn môn đệ hiểu  và xác tín thâm sâu trong trái tim những  Lời Kinh Thánh nói về Thầy mình,về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người đã trải qua. Và giờ đây, sắp đến lúc Chúa rời các ông. Mong ước cuối cùng của Chúa trước khi về trời là các môn đệ trở thành chứng nhân cho Chúa. Con đường làm nhân chứng cũng là con đường dẫn về trời cao của môn đệ và của mỗi Kitô hữu.

- Chúa Giêsu lên trời, đánh dấu cuộc ra đi và vắng mặt của Chúa. Từ nay, môn đệ không còn thấy Chúa cách cụ thể, không đụng chạm, không nghe và cũng không đồng hành bên cạnh như trước đây Người đã sống cùng. Chúa ra đi và vắng mặt, nhưng Người sẽ hiện diện với môn đệ, với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta bằng cách thế mới. Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.

- Chúa Giêsu lên trời, kết thúc sứ mạng của Người nơi trần gian. Nhưng lại là lúc khởi đầu sứ mạng của môn đệ, sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa.

Chúa cho các môn đệ hiểu vinh quang của Chúa đòi phải hy sinh. Muốn có phục sinh, phải chết. Hy sinh là biểu hiện của tình yêu, như hạt lúa gieo vào lòng đất phải thối và chết đi mới sinh bông hạt (x. Ga 12,24). Với Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa, chết là một bước trong quá trình biến đổi để đi tới Phục sinh. Chính vì thế, Chúa muốn môn đệ xác tín vững vàng để rồi:  "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân."(Lc 24,47) , lời rao giảng Nhân Danh Người không ngoài lời rao giảng về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa. Các Tông đồ và môn đệ sau này đã nằm lòng mỗi khi rao giảng cho dân chúng vì các ông là chứng nhân những gì các ông giảng. (x.CVTĐ 2, 22-24)

Trọng tâm của sứ vụ rao giảng là tác động của Chúa Thánh Thần. Người ban quyền năng và cho môn đệ hiểu tất cả Lời của Chúa Giêsu, sẽ hướng dẫn môn đệ biết phải làm gì, nên "Hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."(Lc 24,49) Vì thế, để ra đi thi hành sứ mạng, người môn đệ cần phải lắng nghe Lời Chúa để có thể hợp nhất trọn vẹn trong từng lời nói, hành động của ta với Chúa Cha và Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Cha "Lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra..."(Ga 14,10). Vậy sứ mạng chứng nhân luôn được Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hành và trợ giúp, vì đó là công việc của Thiên Chúa sai chúng ta làm. Chúng ta là khí cụ trong bàn tay Chúa nên hãy can đảm và tin tưởng ra đi vì có Chúa luôn gìn giữ vững bước chân của ta.

- Đường lên trời của người Kitô hữu chúng ta đó là con đường làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng chính đời sống phục vụ, yêu thương, tha thứ, vui tươi.... Tiếp nối sứ mạng của các môn đệ, mỗi Kitô hữu cũng được Chúa sai vào trong thế gian. Dù sống giữa trần gian, nhưng chúng ta không thuộc về trần gian này. Chính Chúa Giêsu đã đến trần gian và sống trọn phận người, Chúa thấu hiểu những khổ đau, bi đát hay niềm vui, hạnh phúc của cuộc đời.

Có những khi chúng ta phải đối diện với bao nặng nề, gian khó của cuộc sống vì miếng cơm manh áo, đôi lúc làm chúng ta mệt mỏi, chán chường. Nhưng Lời Chúa và sức mạnh của Chúa đã giúp chúng ta tin tưởng nhận ra thánh ý Chúa và ơn gọi của mình giữa cuộc đời.

Sống sứ mạng chứng nhân của Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta gặp phải bao sự chống đối, thù nghịch, chê bai... cũng làm chúng ta ngại ngùng, sợ hãi. Thế nhưng bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa luôn che chở, phù giúp chúng ta vượt thắng vững vàng.

Giữa thế gian luôn đầy dẫy những cám dỗ về quyền lực, tiền của, danh vọng...Có nhiều lần chúng ta cũng đã xao xuyến, lo âu, xem nhẹ hạnh phúc Nước Trời. Như các môn đệ xưa, chỉ nghĩ theo kiểu con người, mong có một vương quốc chính trị và chức vụ cao sang (x. CVTĐ 1,6) Nhưng rồi quyền năng và lòng thương xót Chúa đã dẫn chúng ta về với Người, để ta nhớ lại và ghi tâm "Quê hương chúng ta ở trên trời" và ta biết ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu để được thêm sức mạnh nâng đỡ.

Dẫu cuộc sống có vất vả nhọc nhằn nhưng không làm chúng ta quên trời cao, và vinh hoa của thế gian quyễn rũ không làm chân ta lạc lối về Quê Trời. Nhưng ta luôn biết tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là bác ái, chia sẻ; là yêu thương, khiêm nhường; là công lý và hòa bình, ...là sống tinh thần Nước Trời ngay tại thế... tất cả là thực thi Lời Chúa và Giới răn của Người, đó mới là những gì tồn tại và vĩnh cửu đưa chúng ta vào hưởng vinh quang bên Chúa.

- Đường lên trời là hành trình xa xôi, vất vả. Theo Chúa và làm chứng cho Chúa là sứ mạng khó khăn không đơn giản. Chúng ta còn đang loay hoay giữa biển đời. Nhưng niềm tin tưởng của ta đặt nơi chính Chúa. Chúa đã lên trời, Chúa là đầu, chúng ta là thân thể của Người (x.1Cr 12,27). Chỉ một mình Chúa đã từ trời xuống thế vì lòng thương xót nhân loại, nay Chúa lên trời thì chắc chắn khi chúng ta sống hợp nhất với Chúa và hoàn thành sứ mạng Chúa trao, chúng ta cũng sẽ có ngày đoàn tụ bên Chúa bởi Người đã hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con." (x. Ga 14,2-3) vì trong nhà Cha có nhiều chỗ ở và đầu ở đâu thì thân thể cũng sẽ ở đó.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết đường lên trời và trung thành thực thi sứ mạng chứng nhân cho Chúa tại trần gian này. Nguyện Thánh Thần Chúa cùng đồng hành để chúng con có thể lên đường trong tin tưởng và an vui. Amen.

 

16. Rao giảng với Chúa Thánh Thần

Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho là chuyện phù phiếm hay hoang đường. Vậy làm sao người ta có thể chấp nhận khi nói đến hai chữ Thăng Thiên, Chúa về trời họ lại càng cho đó là chuyện phù phiếm giả tạo, khó tin. Nguyên do chính là con người thời nay có khuynh hướng tục hóa, quan niệm về thế giới tự nó có thể giải thích được, mà không cần tới Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã trở nên thừa thải và choán chỗ vô ích. Quan niệm đó đưa con người tới chỗ bỏ qua Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa thậm chí còn chối bỏ Thiên Chúa, để nhìn nhận khả năng của con người. Đối với nhiều người thời này không phải là sự lựa chọn giữa Thiên Chúa và Satan, mà là giữa Thiên Chúa và cái không, rồi người ta đã chọn lấy cái không đó. Điều đáng nói là cái không đối lại với Thiên Chúa không phải là cái không trống rỗng, mà nó chứa tất cả các nguồn lợi phong phú của Thế giới vật chất, tiến bộ, phát triển và hưởng thụ. Vì thế, hơn hai ngàn năn trước, khi về trời Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ công việc "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội, chính anh em là chứng nhân về những điều này". Thật ra sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết, vá đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố rồi biến cố ấy thành lịch sử, rồi lịch sử ấy không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng tường thuật lại những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh của một vi Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy chính là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về biến cố ấy. Đó là làm chứng về lời nói, bằng đời sống, và có khi phải bằng máu nữa. Chính điều đó đã chỉ cho họ thấy chính Đức Giêsu Phục Sinh đã từ Thiên chúa mà đến bây giờ lại về với Thiên Chúa. Chúng ta không còn mặt gặp mặt nữa. Biến cố thăng thiên cũng nhằm ý nghĩa chỉ rõ đích điểm của đời người là sinh ra trong Thiên Chúa, và chúng ta cũng sẽ được trở về với Người.

Hơn nữa, để việc loan báo nên sống động và có kết quả tốt đẹp, con người phải biết đón nhận sức mạnh của Thánh Thần chúa "Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa", chính Chúa Thánh Linh là chứng ta đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Trước khi loan báo Tin Mừng cho người khác chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn từ bên trong con người của mình, để mỗi ngày mình càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Vì chúng ta không thể rao giảng và làm chứng về Đức Kitô nếu bản thân mình không phản ánh trung thực hình ảnh của Đức Kitô, gương mặt của Đức Kitô chỉ có thể trở nên sống động trong ta nhờ ân sủng và hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng: "sẽ không bao giờ có phúc âm hóa được, nếu không có tác động của Thánh Thần"(LBTM số 75). Thật vậy chính Thánh Thần đã khiến Phêrô Phaolô và các tông đồ của Đức Giêsu mạnh dan rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, cũng chính Ngài biến đổi và soi sáng cho các Kitô hữu hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và hiểu được mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có chịu đón nhận và để cho Ngài hoạt động trong mình không? Cho dù ngày nay với những phương tiện hiện đại người ta cũng đã biết tận dụng và đưa vào việc truyền giáo những kỹ thuật rất hữu ích. Tuy nhiên những kỹ thuật dù hoàn hảo đến đâu, cũng không thể thay thế được tác động âm thầm nhưng vô cùng hữu hiệu của Thần Khí, vì không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.

Lạy Chúa, xưa cũng như nay, công việc truyền giáo luôn gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, nhiều phức tạp. Xin cho con biết chấp nhận những khó khăn đó cùng với Chúa Thánh Thần để công việc loan báo ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.

 

17. Niềm hy vọng Nước Trời.

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.

Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.

Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.

Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.

Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.

Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.

Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.

Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.

Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?

2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?

3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?

 

18. Chúa lên trời

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các môn đệ thân thương, Người muốn các môn đệ của mình xác tín một điều: muốn được thông phần vinh quang với Người, họ phải chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, của thập giá. Chính Người đã đi trên con đường ấy trước và mời gọi họ bước theo: "Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại"(Lc 24, 46). Thập giá là nơi duy nhất cho chúng ta thấy tình yêu vĩnh cữu của Thiên Chúa. Qua thập giá, Chúa Giêsu mở ra một con đường hạnh phúc thật, hạnh phúc bất diệt cho chúng ta. Và Người muốn những ai theo Người cũng được hưởng niềm hạnh phúc ấy.

"Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24, 49). Các tông đồ phải là chứng nhân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Là nhân chứng, các tông đồ không thể ngồi yên một chỗ mà phải ra đi, phải thắng vượt tính nhút nhát, phải hy sinh và can đảm hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, phải tuyên xưng niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Các ông thi hành sứ mạng chứng nhân cho Đấng phục sinh là xây dựng thế giới yêu thương, công bằng xứng với trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã cứu chuộc. Các ông làm chứng về Người bằng một đời sống yêu thương phục vụ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá như Người đã làm.

Như thế, Chúa Giêsu muốn các ông là cánh tay nối dài sứ mạng cứu độ của Người trong thế giới. Về trời không phải là Người không còn hiện diện nhưng Người vẫn hiện diện qua các tông đồ, qua Giáo Hội. Và sứ điệp ngày xưa Người trao cho các tông đồ thì ngày nay vẫn đang được thực hiện qua mỗi người chúng ta. Về trời nhưng chương trình cứu độ của Người vẫn phải được tiếp tục nơi thế gian này, qua Hội thánh, và qua mỗi người chúng ta. Sứ mạng cứu độ này cần phải được thực hiện bằng lời nói và bằng những hành động cụ thể bên ngoài.

Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động giữa chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho mọi người sống chung quanh chúng ta và thế giới này nhận ra được sự hiện diện đó. Do đó, đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Người bằng đời sống Kitô hữu của mình. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng "cái có" của bản thân mình. Chúng ta phải có Người trong cuộc sống của mình, có kinh nghiệm và cảm nghiệm thực tế về Người trong đời sống mình, có đi lễ có đọc kinh, có rước lễ và nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta phải có tình yêu Chúa trong cuộc sống được thể hiện qua những cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, kinh nghiệm về bí tích hoà giải, kinh nghiệm cần lòng thương xót của Chúa,...Khi có Chúa trong lòng, khi chúng ta đã cảm nghiệm về Chúa, chúng ta dễ dàng đem Chúa đến cho thế giới, chia sẻ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật và chân tình với Người cho thế giới, cho anh chị em chung quanh chúng ta. Đồng thời, chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho đời (Mt 5,13-16) nghĩa là cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một tấm gương phản chiếu được tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người xung quanh. Mỗi người chúng ta phải là một dấu chỉ cho người khác. Chúng ta dù bé nhỏ nhưng sức mạnh đức tin của chúng ta là Chúa Thánh Thần sẽ bù lại cho tình trạnh mong manh của chúng ta. Được như thế, chúng ta đang làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.

Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám bước theo Chúa, can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương để làm chứng cho Chúa giữa mọi người để mai sau chúng con cũng được vào Nước Trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.

 

19. Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:

Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?

Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?

***

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

 

20. Chứng nhân – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.

Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.

Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.

Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa."(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).

Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.

Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).

Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).

Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.

 

21. Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)

Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: "Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô". Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.

Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.

Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.

So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.

Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: "Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ". Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: "Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".

Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.

Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.

Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.

Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.

Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.

Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.

Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.

Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.

Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.

 

22. Quê hương chúng ta là quê trời

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Hôm nay, Chúa chúng ta lên Trời, chúng ta không làm trái đất rung động, nhưng hướng tâm hồn lên Đức Kitô và trông đợi Ngài đến như lời Ngài đã hứa trước khi về Trời, để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng lòng tự cao, tự đại, hà tiện, dâm ô là những thói hư tật xấu, tội lỗi lôi kéo, giam hãm chúng ta trong tội lỗi... Hãy hướng về Trời, hướng lòng lên thật cao, kết hợp với Chúa. Sự Phục sinh của Chúa là chính niềm hy vọng của chúng ta, sự kiện Chúa lên Trời là vinh quang của chúng ta. Vậy nếu chúng ta cử hành lễ Chúa về Trời với lòng trung thành và sùng kính, thánh thiện và đạo đức, chúng ta về Trời với Chúa và vươn tâm hồn lên tới Chúa.

* Phụng vụ Lời Chúa

- Tđcv 1, 1-11: Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta lên Trời

- Tv 47, 2: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng

- Êph 1, 17-23: Đức Kitô thống trị địa cầu

Hoặc - Êph 4, 1-13: (trừ Năm B)

Hoặc – Dt 9, 24-28 ou 10, 19-23: (trừ Năm C)

- NĂM A - Mt 28, 16-20: Hãy đi giảng dạy muôn dân

- NĂM B - Mc 16, 15-20: Chúa Giêsu ban những lời cuối cùng cho các Tông Đồ

- NĂM C - Lc 24, 46-53: Những lời sau hết và sự lên Trời của Đức Giêsu

"Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Allelui! Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời", Alleluia! Alleluia! Alleluia! "(Ca nhập Lễ trong ngày)

Hôm nay, Đức Kitô Phục sinh vinh quang và yêu dấu, Đấng sống lại từ trong cõi chết bởi quyền năng Thiên Chúa, sau khi đã được an táng trong mồ, tức là Đền thờ người Do thái phá hủy, kết thúc bốn mươi ngày thánh và trước sự kinh ngạc của các Tông Đồ, "đã được cất nhắc lên cao trước mắt các ông và một đám mây che khuất Ngài khỏi tầm nhìn các Tông Đồ" (Tđcv 1,9).

Hành động cuối cùng này của Chúa Giêsu có hai ý nghĩa. Trước hết, khi lên trời, Ngài mạc khải cách rõ ràng thần tính của Ngài: sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình trên trần gian, nay Chúa trở về nơi mà từ đó Ngài đã đến trong thế gian, nơi đó là cung lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, Đức Giêsu về Trời cùng với nhân tính mà Ngài đã lãnh nhận và đã làm cho sống lại từ cỏi chết. Nhân tính đó là nhân tính của chúng ta, được thanh luyện, thần thiêng hoá, và được trở nên đời đời. Chúa về Trời mạc khải "ơn gọi cao cả nhất" của mỗi người: con người được gọi đến hưởng sự sống đời đời trong Nước Chúa, nước của tình thương, của ánh sáng và hòa bình.

Đức Kitô Phục sinh, với thời gian, bằng sự hiện diện của mình và các chứng từ cần thiết đã gia tăng niềm tin nơi con người vào Đấng sống lại. Cái chết của Chúa Kitô, trong thực tế, đã làm cho lòng trí các môn đệ rối bời. Tâm trí các ông nặng trĩu với nỗi buồn da diết khi chứng kiến Thầy bị đóng đinh, thở ngắn thờ dài và sau cùng là trút hơi thở cuối cùng, thân xác bất tỉnh, chết và mai táng trong mồ. Một sự thẫn thờ sinh ra từ sự thiếu lòng tin đã gieo vào tâm trí các các môn đệ. Cái chết đau thương trên thập giá đã làm các thánh Tông Đồ, các môn đệ Chúa và nhiều người khác run sợ khi tin vào Chúa phục sinh. Đức Kitô Phục sinh lên trời cao là chân lý hiển nhiên đã củng cổ niềm tin của các ông do nỗi buồn sâu thẳm và làm cho tâm hồn các ông tràn ngập niềm vui.

Thật tuyệt vời và khôn tả được nguyên nhân niềm vui của họ! Đức Giêsu về Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang, báo trước quê hương chúng ta đích thực là quê Trời. Chúng ta là chi thể của Ngài, Đầu đã về Trời, đây là niềm hy vọng lớn lao cho cả thân xác. Khi lên trời, Đức Giêsu đã mở ra lại con đường dẫn về quê hương thật của chúng ta, là thiên đàng. Giờ đây, với sức mạnh Thánh Thần của Ngài, Ngài nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành hằng ngày trên trần gian.

Tất cả chúng ta cùng vui mừng với niềm vui thánh thiện và tạ ơn Ngài. Hôm nay, chúng ta không chỉ vững tin và nắm chắc thiêng đàng, mà còn cùng với Chúa Kitô tiến vào chốn Trời cao nhờ ơn khôn tả của Chúa Kitô, chúng ta có được hơn là chúng ta mất do sự thù ghét của ma quỷ.

Sau khi Chúa đã được cất nhắc lên Trời, các đồ đệ quy tụ lại với nhau trong lời cầu nguyện, ở phòng Tiệc Ly, cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. (x. Tđcv 1,14), vừa cùng nhau khẩn xin Chúa Thánh Thần, Đấng có thể ban cho họ quyền năng để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh (x. Lc 24,49; Tđcv 1,8). Ngày này, chúng ta hướng về Mẹ Maria là "Nữ Vương Thiên Đàng", xin Mẹ bảo vệ gìn giữ Hội Thánh, cách riêng mỗi người chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền ban, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Đức Giêsu và với Mẹ vui hưởng tôn nhan Chúa muôn đời. Amen.

 

23. Chúa lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên Trời

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau: "Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11).

Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải "có hai người mặt áo trắng đứng gần" (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?" (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.

"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ  được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành. 

Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu " đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa " (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật " (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô "cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.

Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc: "Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy" (Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.

Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ: "Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16, 19).

Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, "vinh quang của Đầu" đã trở thành "niềm hy vọng cho thân xác" (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, " Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc" (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.

Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.

Hướng về Mẹ Maria "Nữ Vương Thiên Ðàng", chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.

 

24. Ra khơi – R. Veritas

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

25. Không giải thích được - Achille Degeest

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đức Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào. Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho. Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc, trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của các môn đệ.

1) Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.

Các môn đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác, đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi. Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng cho Đức Kitô.

2) Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi trước mắt các ông.

Chúng ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước. Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.

 

26. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Chúa Thăng Thiên: Mầu Nhiệm và Sự Kiện

Hôm nay chúng ta đọc hai trình thuật của Thánh Luca diễn tả cùng một thực tại: Chúa Giêsu Thăng Thiên.

Tuy nhiên, hai trình thuật này lại có nhiều điểm xem ra không dễ dung hòa với nhau, nhất là về phương diện lịch sử. Trong Tin Mừng (Lc 24,50-51), tác giả Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay buổi chiều ngày Phục Sinh. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, ông lại xác định biến cố Thăng Thiên vào thời điểm kết thúc “40 ngày” (Cv 1,3). Tại sao lại có sự khác biệt đó?

Trong Tin Mừng Lc, biến cố Thăng Thiên là biến cố kết thúc sách Tin Mừng. Tác giả không cung cấp những yếu tố thời gian rõ ràng, nên nhiều người hiểu rằng ông kể lại biến cố đó như thể đã xảy ra ngay chiều ngày Phục Sinh và diễn ra trong một cách thức long trọng: Chúa Giêsu giơ tay chúc lành cho các đồ đệ, “và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24,51).

Trong Cv, điều Thánh Luca bận tâm và cố ý nhấn mạnh là công trình của Hội Thánh không được khởi sự chỉ với các đồ đệ của Chúa, mà là với chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính Người hiện ra với họ, đồng hành với họ, thăm viếng họ suốt 40 ngày. Do đó, công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh không phải là công trình của nhân loại, mà là công trình do chính Chúa Phục Sinh ấn định, khởi xướng, dẫn dắt. Vì thế, biến cố Thăng Thiên được đặt ở lúc kết thúc “40 ngày”.

Trình thuật trong sách Cv dài hơn và có nhiều chi tiết hơn trình thuật trong Lc: “Trong bốn mươi ngày, Đức Giêsu đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Người truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không? " Người đáp: "Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,3b-11).

Điểm đặc biệt đáng chú ý nhất trong trình thuật này là tác giả đã không sử dụng bất cứ một chi tiết ly kỳ nào để miêu tả chính biến cố Thăng Thiên, cũng không nói gì về tâm tình hay cảm xúc của những người chứng kiến. Trình thuật chỉ kể đơn giản rằng: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9). Đám mây quyên lấy Người, khiến cho không ai có thể kể lại là Người đã đi vào cõi Trời như thế nào. Rõ ràng tác giả cố tránh những chi tiết ly kỳ.

Điều này làm cho trình thuật khác hẳn tất cả những câu chuyện truyền kỳ và hoang đường đương thời. Tác giả không mô tả chính việc Đức Giêsu lên trời, cho bằng trách cứ thái độ của các đồ đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời, phía Đức Giêsu đã đi. Đó là thái độ đặc trưng của những người mong cuộc tận thế sẽ mau xảy đến. Thánh Luca là một người công bố Tin Mừng. Điều ông quan tâm là giúp các tín hữu thời đại ông sống sứ mạng của họ theo thánh ý Thiên Chúa. Ông không bận tâm đến thái độ và phản ứng của các đồ đệ chứng kiến cuộc Thăng Thiên, mà chú ý đến việc Hội Thánh phải lấy lập trường đức tin như thế nào đối với mầu nhiệm Thăng Thiên và mầu nhiệm Cánh Chung. Điều chính yếu là lập trường căn bản mà Hội Thánh phải có đối với mầu nhiệm Cánh Chung. Vì thế, ông nhấn mạnh rằng Hội Thánh phải từ bỏ những sự tính toán ngày tháng (Cv 1,7), và phải tin rằng chính Đức Chúa, trong hiện tại của Hội Thánh, đang điều khiển lịch sử của thế giới và công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

Liên quan đến mầu nhiệm Thăng Thiên mà chúng ta cử hành hôm nay, cứ theo những gì Kinh Thánh trình bày, chúng ta có thể nói: đây là một thực tại có hai khía cạnh. Một bên là mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh vào trong cõi của Thiên Chúa một cách vô hình, còn bên kia là biến cố Người từ giã thế gian này một cách hữu hình. Khía cạnh thứ nhất trình bày cuộc tôn vinh Chúa Phục Sinh trên cõi trời, mang đậm chiều kích thần học, vượt quá giác quan và chỉ có thể chấp nhận nhờ lòng tin và nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Khía cạnh thứ hai là một sự kiện xảy ra trong lịch sử, thuộc phạm vi của những thực tại có thể kinh nghiệm được.

Khía cạnh thứ nhất, khía cạnh mầu nhiệm, là điều chính yếu và thuộc về nội dung căn bản của lòng tin. Còn việc Đức Giêsu chia tay các đồ đệ sau 40 ngày là một biến cố xảy đến như một ân huệ Thiên Chúa thương ban cho chúng ta vì bản tính yếu đuối của con người có giác quan. Vậy sự kiện xảy ra vào lúc kết thúc “40 ngày” không thể diễn tả trọn vẹn, đầy đủ và tương xứng chính mầu nhiệm đức tin thâm sâu vượt quá giác quan con người.

Chính vì thế, khi mô tả biến cố Thăng Thiên, cả trong Tin Mừng lẫn trong Cv, ta thấy Thánh Luca luôn cố ý giữ gìn một tâm tình kính cẩn trước mầu nhiệm. Ngài tránh mọi chi tiết mang tính huyền thoại, chỉ giữ lại ở mức tối thiểu những hình ảnh văn chương không thể không dùng để diễn tả mầu nhiệm. Để trình bày ý tưởng Đức Chúa Phục Sinh đã siêu vượt thế giới hư nát này và đi vào vinh quang Thiên Chúa, Kinh Thánh buộc phải dùng lối nói “lên trời”. Đó là hình ảnh có giá trị tượng trưng mà chúng ta buộc phải chấp nhận để diễn tả mầu nhiệm.

Vậy khi chúng ta nói Đức Giêsu lên trời, điểm cốt yếu phải tin là Chúa Kitô đã sống lại và siêu vượt khỏi cái thế giới tù túng, tội lụy, hay thay đổi và đầy đau thương này. Với thân xác phục sinh, Người đã đi vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Thế giới đó là thế giới xác thực, thiêng liêng, mới mẻ và siêu việt. Chỉ trong thế giới đó mới có sự sống đích thực. Thế giới đó siêu việt (chứ không xa cách) thế giới chúng ta đang sống. Đó là một thế giới khác biệt hẳn về phương diện thực hữu, chứ không phải về phương diện không gian xa gần hay rộng hẹp. Chúng ta có thể “sờ đụng” vào thế giới đó trong lòng tin và nơi các bí tích cứu độ. Đó là một sự “tiếp cận” một thực tại mầu nhiệm nhưng đồng thời rất thật, rất gần, thật và gần hơn cả cái thế giới phàm tục mà ta đang sống đây.

Vì thế, nói theo một nghĩa nào đó, mầu nhiệm Thăng Thiên cũng chính là mầu nhiệm mà Hội Thánh đang mời gọi chúng ta sống hằng ngày, ngay trong cái hôm nay của cuộc đời chúng ta.

 

27. Hướng lòng về thượng giới – Lm Ignatio Trần Ngà

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)

Khi con người chỉ biết nhìn xuống...

Người đàn bà có biệt danh là "bà lom khom" đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là "bà-lom-khom" vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.

Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.

Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!

* * *

Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.

Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời... Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!

Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:

"Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì".

Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.

Viễn tượng mới

Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.

Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:

"Quê hương chúng ta ở trên trời" (Philip 3, 20)

Thế nên: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới" (Col 3, 1-4)

Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.

 

28. Chúa Nhật Thăng Thiên

Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi chịu khổ hình đau đớn theo ý Chúa Cha. Còn phần chúng ta, trước những khó khăn hiện tại trong bổn phận của mình, chúng ta phải làm gì để mai này về trời hưởng vinh quang với Chúa?

Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Lc kể lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Người từ cỏi chết sống lại. Lần này, Chúa Giêsu ăn uống trước mặt các môn đệ và giải thích Kinh Thánh cho các ông hiểu. Đoạn Kinh Thánh Chúa Giêsu đang giải thích nhắc lại mệnh lệnh loan truyền Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Trong mệnh lệnh này, chúng ta thấy có một điểm rất đặc biệt, đó là những đòi hỏi về phương cách rao giảng: không những chỉ bằng lời mà chính các tông đồ phải là chứng nhân về những điều rao giảng. Nghĩa là đời sống của các tông đồ phải giống như Chúa Giêsu: biết chấp nhận những khó khăn trong hành trình tông đồ trong sự gắn bó với Thiên Chúa. Những mong muốn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ xưa cũng là lời dạy dành cho chúng ta hôm nay: muốn được về trời hưởng phúc thiên đàng với Chúa thì trong đời sống đạo của mình, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn trong bổn phận hằng ngày với niềm tin tưởng gắn bó vào Thiên Chúa.

Có những khó khăn, đau khổ xảy đến người ta không chấp nhận nổi: Năm 2004, lúc đó, con còn đang ở thành phố học, ở trọ nhà chị bà con xa. Chị sinh được hai con. Con gái lớn tên là Trang. Cả gia đình chị lên thành phố gần được chục năm, lúc đó, Trang mới học lớp 5. Bây giờ, Trang đã hai mươi tuổi. Nó đẹp gái lắm, quen và lấy một anh tài xế đã có vợ rồi nhưng ly dị. Anh này tướng tá cũng lịch sự. Không hiểu vì lý do gì, vợ chồng lục đục, rồi chia tay. Hiện tại, Trang bắt đầu kiếm công việc làm, đi làm, quen nhiều bạn, anh kia ghen. Một đêm nọ, trên đường đi làm về, anh chồng cũ chờ sẵn, tạt một ca axít loãng lên người Trang. Người ta đưa em đi chợ rẫy. Kết quả thẩm định của bác sĩ, mù hai mắt, mặt mày trở nên dị dạng khác thường. Cha mẹ Trang ngày đêm túc trực trong bệnh viện, thay phiên nhau về nhà nghĩ ngơi. Lúc chị về với vẻ mặt buồn bẻ, bơ phờ, Con hỏi thăm, chị mới tâm sự: bây giờ, chị khổ quá em ơi, chị không còn biết cầu nguyện thế nào nữa, chị muốn buông xuôi tất cả.

Đau khổ như chị trong câu chuyện chắc ít người gặp qua nhưng khó khăn trong đời sống gia đình, thì chúng ta đã từng cảm nếm. Đối với mấy ông, khó khăn hệ tại ở việc tìm chén cơm cho gia đình, thời buổi này làm ăn đâu phải dễ, phải buôn ba vất vả, phải tính toán chi li, phải đổ mồ hôi, chịu nắng noi cả ngày. Lại thêm khó khăn đến từ phía gia đình, có ông than sau cái số mình hẩm hiu, đi làm quần quật cả ngày mệt thở không ra hơi, vậy mà về nhà cơm nước đâu hỏng thấy, nhà cửa thì dơ bẩn, con cái thì hôi hám, hỏng biết ở nhà bả làm cái gì? Mới quen, bả cũng ít nói, trông vẻ thuỳ mị lắm vậy mà bây giờ lúc đọc báo, bả cũng cằn nhằn, lúc coi ty vy, xem đá bóng, bả cũng nói, nói toàn những chuyện nhậu nhẹt, lương bổng của mình, nghe nhức đầu quá. Thêm vào đó, con cái không hiểu nổi khổ tâm lao nhọc của cha, chỉ có cái chuyện học mà cũng chẳng nên thân, tháng nào kết quả học tập cũng kém. Trong khi đó, các bà thì lại than các ông, lúc mới quen, ổng hiền lành, còn bây giờ, mới nói có mấy câu là nổi nóng, lớn tiếng. Vợ chồng mà la mắng như con ở làm sao chịu nổi. Hồi xưa mới yêu nhau, ho một tiếng là ảnh lấy dầu cho xức, mua thuốc cho uống còn bây giờ ho muốn bể phổi luôn mà ảnh cứ tỉnh bơ đọc báo. Nhà cửa, con cái, ăn uống, bao nhiêu việc phải chi tiêu, vậy mà đưa lương tuần nào cũng thiếu, làm sao xoay sở, như vậy mà sao không cằn nhằn được. Có chị khác thì bảo: ảnh cũng đi làm, tôi cũng đi làm, vậy thì việc cơm nước, con cái phải cưa đôi, để một mình tôi gánh, sức nào chịu nổi, vô tâm vô tình với tôi rồi có ngày sẽ phải hối hận đó nhe. Chưa kể những gánh nặng chất lên vai chị lúc con bệnh, con đau, khi gặp phải anh chồng không biết lo, tối ngày cứ rượu chè, cờ bạc, gặp phải bà mẹ chồng không biết cảm thông, suốt ngày cứ tìm những chuyện nhỏ để bắt lỗi, chì chiết làm khổ con dâu của mình.

Trong những khổ đau của cuộc khổ nạn, CG chấp nhận theo ý Chúa Cha, luôn gắn kết với Chúa Cha qua cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta trong những khó khăn của cuộc sống cơm áo gạo tiền, khó khăn trong bổn phận làm chồng, làm vợ, hãy biết chấp nhận và giữ vững đức tin, đừng bỏ Chúa giữa đường. Càng đau khổ, anh chị hãy càng đến với Chúa nhiều hơn. Chồng là chỗ dựa đức tin của gia đình, khi bản thân anh gặp khó gia đình gặp chuyện buồn phiền, thì chính anh phải là người đầu tiên chạy đến với Chúa. Chạy đến với Chúa để nâng đỡ đức tin của vợ và làm gương sáng dạy con sống đạo. Còn các bà, Chúa cho sở trường nói gì thì chồng nghe nấy: khi khó khăn, đêm về, ở bên chồng, chị hãy thủ thỉ vào tai chồng, dù gia đình mình gặp khó khăn thế nào cũng đừng bỏ Chúa nhe anh! Trực giác người phụ nữ rất nhạy, khi thấy chồng buồn phiền do công việc, hoặc đang buồn chị, chị hãy chạy đến với Chúa để cầu nguyện cho chồng. Người phụ nữ được ví là trái tim, là hơi ấm của gia đình. Chị chỉ có thể là trái tim, là hơi ấm cho gia đình nếu đời chị biết gắn kết mật thiết với trái tim tình yêu của Thiên Chúa trong cầu nguyện, với trái tim dịu dàng của người nữ nơi chuỗi mân côi. Khi lấy nhau, anh chị nên nhớ mình không chỉ có trách nhiệm dắt dìu nhau trong cuộc sống trần thế mà quan trọng hơn, vợ chồng phải có trách nhiệm dắt dìu nhau tiến về quê trời vĩnh cửu.

Thay cho lời kết, cầu chúc cho mỗi người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, biết giúp nhau vững tin vào Chúa, để dìu nhau về đến quê trời bình an. Amen.

 

29. Chúa tin tưởng chúng ta.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Có một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:

- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?

Chúa Giêsu trả lời:

- Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:

- Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?

- Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài vẫn quả quyết:

- Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.

Vâng, thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.

Thật vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Vì thế, các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần. Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.

Cha Mark Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức. Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.

Thực tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.

Anh chị em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng ta:

“Anh em là muối đất… anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.

Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.

 

30. Hãy mang Chúa đến cho nhân trần

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)

Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.

Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.

Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.

Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.

Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.

 

31. Lễ Thăng Thiên

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Đức Trung)

Con người ngày nay dù đã có thể dùng phi thuyền để bay vào không gian, có thể đi bộ ra ngoài vũ trụ bằng những trang thiết bị cao, nhưng bầu trời vẫn là huyền bí, giới hạn vẫn còn đó cho nên đã biết bao lần bay lên rồi lại phải vội vàng bay về, trời cao vẫn là sự xa xôi, khó hiểu, không như ở dưới đất.

Trong cuộc sống của quảng đại quần chúng, thì khái niệm về trời đất khá thân thiện, gần gũi và dễ thương, vưa coi Ông như người nhà vừa là Đấng phải tôn thờ, thể hiện qua các sinh hoạt. Ở các vùng quê nhà nào mà chẳng có bàn Thiên để cúng với Trời đất; đi xa đi gần, làm ăn ruộng rẫy ai mà chả cầu Trời; Trời rất gần vì Ông Trời biết đến con người và vạn vật: "Trời cao có mắt” “Lạy trời mưa xuống”. Bình thường con người cảm thấy Ông trời rất là dễ thương, chẳng hạn như trai gái yêu nhau họ nói duyên trời se định, may mắn điều gì đó thì nói trời cho, ý trời, và khi hoạn nạn gian truân thì chẳng biết đổ đâu thôi đổ vạ cho trời, khi mưa gió lụt lội gọi là thiên tai, lâu lâu buồn thì cũng trách trời chút ít. Nói chung khái niệm về ông trời nơi chúng ta rất bộc bạch, chân chất, mang tính yên ủi và pha lẫn sự sợ sệt.

Chúa Giêsu khi đến trong thế gian, luôn luôn chỉ vẽ cho con người con đường về Trời, đó là con đường nhận ra Thiên Chúa là Cha, và mọi người là anh em. Hôm nay khi hoàn tất sứ vụ ở trần gian Ngài giã biệt mọi người để về Trời là nơi Ngài đã từ đó mà đến với chúng ta. Giáo lý mà Dức Giêsu dạy dỗ không mông lung khó hiểu, cõi trời không xa xăm, nước Trời ở trong lòng các ngươi. Chúa cũng chả dạy chúng ta phải đi bằng phương tiện khoa học như: Phi thuyền, hay một lực đẩy mạnh nào đó để đưa chúng ta ra khỏi trái đất này, cũng không cỡi cá chép như ông táo để về trời, mà bằng sự nhận ra Chúa và thi hành mệnh lệnh Chúa. Hôm nay trước lúc chia tay Chúa lại xác định thêm một lần nữa với nhóm tông đồ: “Hãy nhân danh Thầy mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân…” Thì ra Đấng từ trời cao đến không muốn gì khác hơn là làm cho mọi người dưới thế này có cơ hội để về nơi mà chính họ đã được hứa ban, Ngài chết cho họ là nhằm xoá bỏ những trắc trở trên đường đi. Ngài đã đổ máu cứu chuộc duy nhất một lần và có giá trị vĩnh hằng. Tuy nhiên bước đường này sẽ được các tông đồ và chúng ta tiếp nối, kéo dài cho đến khi Ngài quang lâm, cho nên Chúa đi nơi xa xét theo phương diện con người cảm thấy nhưng Chúa luôn mãi ở gần “Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Cái quan trọng của chúng ta hôm nay là đừng sao nhãng lời nhắn nhủ của Chúa, bởi vì con đường đi lên trời của Chúa vẽ cho chúng ta không phải là một đường thẳng băng, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng đã phải cố gắng mới hoàn tất, huống chi chúng ta là con người đầy trì trệ, nhiều khi chúng ta cũng cố gắng chấp cánh bay nhưng tội lỗi lại lôi chúng ta xuống, có khi đã chạm đến trời cao nhưng vì kiêu căng lại té xuống.

Cuộc chia tay Thầy trò không phải đã chấm dứt bằng sự kiện người về trời cao, người ở lại dưới thế, mà này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Rõ ràng cõi trời mà Chúa trình bày chẳng xa xôi mà rất gần gũi, gần gũi đến độ thân tình tin tưởng nên Chúa mời gọi cộng tác qua việc làm cho nhiều người biết Chúa, hãy đi rao giảng cho muôn dân luôn là mệnh lệnh lên đường cho các môn đệ và cũng là mệnh lệnh cho chúng ta hôm nay. Và hơn thế nữa trong một xã hội tục hoá và kém tin, mệnh lệnh này vẫn mang tính thời sự. Ngày nay người ta ngại lên đường khi mà các phương tiện, tiện ích không đáp ứng nhu cầu, và người ta cũng ngại đối diện với sự thực, đó chẳng qua là sự ru ngủ và yên nghỉ với những cái đã đạt được và cũng là sự ươn lười, cái sức ỳ đó sẽ không là lực đẩy để chúng ta vươn lên cõi trời cao đâu.

Lúc còn nhỏ khi nhìn lên bầu trời quả là một cõi xa vời và thi vị và ước vọng đi lên cõi trời luôn là những khát khao rất trẻ con là để được thấy tất cả mọi người phía dưới. Ước vọng vươn đến trời cao cũng là ước mơ của nhân loại vì cõi trần quá phức tạp và đã bị xấu đi, người ta mơ tưởng đến một cõi khác có sự công bằng hơn. Nhưng cõi trời vẫn là cái gì đó xa xôi huyền bí, nhân loại chưa thể khám phá và chẳng biết gì hơn. Sự kiện Thăng Thiên của Chúa không phải là cú ngoạn mục để lòe các môn đệ, mà là chân lý của tình yêu: Thầy đi có lợi cho anh em. Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Thầy đi để Đấng an ủi sẽ đến. Chúa về trời là nhằm thiết lập vĩnh viễn cho chúng ta một đường đi lên.

 

32. Sống Mầu Nhiệm Lên Trời – Lm. Thiện Duy

Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta phải tin và những việc chúng ta phải làm để thể hiện đức tin của chúng ta. Trong niềm tin đó có việc Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, khỏi 40 ngày lên trời. Còn trong Kinh Tin Kính cũng có đoạn nói về sự việc này là Chúa Giêsu sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trong những tuần vừa qua, nếu có đi lễ ngày thường chúng ta sẽ được nghe diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu, có nghĩa là những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Ngài cho các môn đệ biết là Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Cụ thể trong những bài đọc hôm nay cũng có nhắc đến việc Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong Người được cất lên ngay trước mắt các ông”. Còn Tin Mừng Maccô trong Chúa Nhật năm B thì sẽ có tường thuật giống như sách Tông Đồ Công Vụ: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Vì thế việc Chúa Giêsu “lên trời” là một sự thật. Tuy nhiên Chúa Giêsu lên trời có phải là Ngài không còn ở với chúng ta nữa hay không? Chúng ta phải hiểu “lên trời” nghĩa là gì? Việc “lên trời” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Và cuối cùng là chúng ta phải làm gì khi nghe những lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời?

I/ BIẾN CỐ LÊN TRỜI CỦA CHÚA GIÊSU

1/ Lên trời nghĩa là gì?

Đức Kitô Phục Sinh đã vào trong vinh quang, đó là một tín điều. Nhưng đó còn là một mầu nhiệm vượt quá kinh nghiệm giác quan, và có lẽ không chỉ hạn hẹp nơi ngọn núi ở Galilê mà Chúa Giêsu hẹn gặp các môn đệ hôm nay. Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Tình trạng tốt đẹp, khá hơn thì gọi là “lên” (gặp một người làm ăn khá giả mình nói: “lúc này lên hương rồi hé!”). Tình trạng lùi lại, xấu hơn thì gọi là “xuống” (Lâu ngày gặp lại một người bạn ốm nhom, hốc hác, mình nói: “sao lúc này xuống dữ vậy!”). Ngày xưa khi Ngài nhập thế thì gọi là “xuống trần”. Hôm nay Ngài trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là “lên trời”. Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi, nhưng đó là tình trạng Ngài đã lấy lại vinh quang. Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, vì Ngài đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hiểu như vậy để chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu lên trời là Ngài rời bỏ chúng ta, không còn ở với chúng ta. Nhưng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời là chúng ta mừng vinh quang của Chúa, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên Ngài không còn hiện diện một cách hữu hình với con người nữa, hay nói cách khác: xác phàm của con người không thể thấy được vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.

2/ Biến cố “lên trời” trong đời sống kitô hữu

Khi lần chuỗi với mầu nhiệm năm sự mừng, chúng ta đọc: “Thứ hai ĐGS lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”. Thánh Phêrô thì khuyên các tín hữu của mình: “Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em cũng phải tìm kiếm những thực tại cao siêu ở trên trời”. Còn trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II thì xác quyết: “Giáo Hội trần thế là một cuộc lữ hành về quê hương trên trời”. Vì thế, tuy sống ở đời này, nhưng chúng ta phải lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau. Thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nói trước khi bị hành hình: “Thân xác tôi đây các ông muốn làm gì thì làm đi, nó sẽ chết nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Không cần ở đâu xa, ngay tại họ đạo Tắc Sậy của Giáo Phận Cần Thơ cũng có một con người biết qu#ý trọng thực tại cao siêu ở trên trời nên đã sẵn sàng từ bỏ những thứ chóng qua ở đời này để đổi lấy hạnh phúc đời sau. Người đó không ai khác hơn là cha Px. Trương Bửu Diệp.

3/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu

Điểm thứ 3 mà chúng ta cần lưu ý qua biến cố Chúa Giêsu lên trời là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đây là mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem vừa là thủ đô, vừa là cái nôi của Kitô giáo để gặp gỡ các môn đệ, nhưng Ngài chọn Galilê là vùng đất bị người Dothái loại trừ, là biểu tượng của dân ngoại. Ngài không chọn vùng đồng bằng để tâm sự với các ông, nhưng lại chọn ngọn núi cao vốn là nơi mặc khải của Thiên Chúa, để từ nơi cao đó các ông sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh phải tỏa rạng vinh quang của Thiên Chúa. Vì vậy những lời sau cùng của Chúa Giêsu, cách thức gặp gỡ của Ngài muốn nhắc nhở các môn đệ sứ mạng truyền giáo, bằng cuộc sống tỏa sáng cho mọi người noi theo.

II/ CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU

Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời với 3 sự thật về ý nghĩa của việc lên trời, về việc Chúa lên trời trong đời sống của người kitô hữu và mệnh lệnh truyền giáo của Chúa, chúng ta phải sống những điều đó như thế nào đây?

1/ Chúa lên trời nhưng vẫn ở với con người

Trước hết chúng ta đã biết lên trời là tình trạng vinh quang của Chúa Giêsu. Vì vậy nhờ vinh quang mà Ngài càng có thể ở cạnh con người, càng giúp đỡ con người một cách đắc lực hơn. Cho nên chúng ta hãy nhớ rằng Chúa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để chúng ta sống là sống cho Chúa, sống trong Chúa và sống với Chúa. Mọi sự bất toàn nơi con người chúng ta là do không y thức sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta biết và nhớ rằng Chúa luôn ở bên cạnh tôi thì làm sao chúng ta có thể làm những điều xấu được. Vì vậy làm sao để chúng ta ý thưc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta đây? Chúng ta hãy dựa vào những phương thế siêu nhiên mà Chúa và Giáo Hội đã dạy chúng ta. Đó là năng đọc và suy niệm lời Chúa; lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giải Tội; siêng năng lần chuỗi mân côi; đọc lời nguyện tắt, có nghĩa là chọn một câu nào đó mình thích để lặp đi lặp lại suốt ngày trong đời sống chúng ta. Ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con”, hay: “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa”. Chúng ta hãy nhớ rằng tự sức chúng ta và những phương thế tự nhiên không thể nào thắng được ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt đâu; chỉ có ơn Chúa và phương thế siêu nhiên mới có thể giúp sức cho chúng ta mà thôi.

2/ Hướng lòng lên trời

Từ việc Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.

3/ Thực hiện lệnh truyền giáo

Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện di chúc của Chúa Giêsu, đó là “anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó cũng là ước nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, muốn cho mọi người được vào Nước Trời với Chúa. Vì vậy bổn phận của chúng ta là phải đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa, hay còn gọi là truyền giáo. Truyền giáo là làm sao? Chúng ta khoan hãy nghĩ đến chuyện lôi kéo nhiều người vô đạo, làm sao cho càng có nhiều người được rửa tội càng tốt… đó là cách thức của việc truyền giáo. Nhưng trước hết chúng ta hãy nghĩ đến nội dung truyền giáo, có nghĩa là Tin Mừng mà chúng ta muốn truyền đạt là như thế nào; có hấp dẫn người ta mới theo, có đáng tin người ta mới vào. Điều đó đòi hỏi bản thân chúng ta trước hết phải cảm nhận được điều mình muốn truyền đạt. Mình phải cảm thấy niềm vui, hạnh phúc trong đời sống đạo thì mình nói người ta mới tin. Khi đã có nội dung của Tin Mừng rồi thì phần còn lại là cách chúng ta trình bày cho người khác bằng lời rao giảng, bằng cách sống đạo, bằng lời cầu nguyện… Lúc đó người ta tin chúng ta không phải vì lời rao giảng, không phải vì những việc chúng ta làm, nhưng vì hạnh phúc chúng ta đang cảm nhận, niềm vui chúng ta đang có, và hy vọng chúng ta đang mong chờ.

Tóm lại, Phụng Vụ Lời Chúa trong lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay cho chúng ta biết rằng việc lên trời của Ngài là trở lại tình trạng vinh quang thuở ban đầu, nên Ngài vẫn hiện diện và càng ở bên cạnh để ban ơn giúp sức cho chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu lên trời mà chúng ta tuy sống ở đời này nhưng vẫn hướng lòng về trời cao để sống giá trị của Nước Trời ngay tại thế này để hy vọng một ngày nào đó cũng được về trời với Chúa. Cuối cùng vì niềm tin vào việc chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa nên chúng ta có bổn phận làm cho người khác cũng được vào Nước Trời, bằng cách phải cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì tôi là người kitô hữu, từ đó lời rao giảng của chúng ta mới có sức mạnh lôi kéo người khác. Lạy Chúa, xin cho con lòng ái mộ những sự cao siêu ở trên trời.

Nguồn:http://gplongxuyen.org/News