Các thánh tử đạo Việt Nam: Chứng nhân anh hùng

Chúa Nhật 14/11/2021 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B. – CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. – Làm chứng cho Chúa Giêsu.

"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".

 

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lời Chúa: Mt 10, 17-22

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.

Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.

Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".

 

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm B

Lời Chúa: Mc 13, 24-32

"Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển.

Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến.

Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.

"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

Lễ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lời Chúa: Mt 10, 17-22

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN  B

Lời Chúa: Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32

 

* CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

1Không thuộc về thế gian. -- ‘Manna’

Suy Niệm

"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,

lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.

Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."

Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy

khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.

Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,

cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.

Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.

Ông không thấy có gì xung khắc

giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.

Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt,

bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.

Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.

Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,

hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm

trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.

Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy

soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.

Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.

"Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,

Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).

Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.

Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân...

Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.

Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu

vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,

và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.

"Họ không thuộc về thế gian,

cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).

Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,

nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.

Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,

nhưng họ có một thang giá trị riêng.

Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng.

Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình

và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.

Họ là nhúm men vùi trong đống bột.

Men không được tách khỏi bột,

và men cũng không được biến chất thành bột.

Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.

Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây.

Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.

Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,

thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.

Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.

Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác.

Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình

để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...

Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.

Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát,

khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?

Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

 

2Để làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22 -- ‘Manna’

Suy Niệm

Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm

sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:

bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,

bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.

Tất cả những gì các ngài phải chịu

đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).

Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.

"Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em"

để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)

Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa

được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.

Chết vì Đạo là một cách làm chứng.

Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:

Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ,

nên các ngài không bước qua thánh giá.

Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:

"Không có tình yêu nào lớn hơn

tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)

Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:

có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu,

cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.

Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.

Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.

Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi,

vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.

Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá.

Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.

Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt,

mất tất cả và mất chính mạng sống.

Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.

Đã có người bước qua, và cũng có người không.

Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên,

như thánh Antôn Nguyễn Đích.

Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận.

Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân:

Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt.

Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,

như thánh Micae Hồ Đình Hy,

nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.

Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.

Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?

Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.

Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.

Quyết định không bước qua thánh giá

là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,

của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,

của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm,

của những Vườn Dầu trong ngục thất...

Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,

dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.

Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,

bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.

Gợi Ý Chia Sẻ

Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?

Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?

Cầu Nguyện

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,

các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu

trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.

Sự hy sinh của các ngài cho thấy

tình yêu mạnh hơn sự chết

và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.

Dù mang phận người yếu đuối,

nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài

biết can trường sống đức tin của bậc cha anh

trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,

biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu

bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin

mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,

được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài

thấm vào mảnh đất quê hương

để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

 

3Anh em làm chứng cho Thầy. -- ‘Manna’

Suy Niệm

Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,

có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.

Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.

Trước khi là một anh hùng tử đạo,

bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.

"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.

Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,

sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ."

Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.

Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,

quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.

Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.

Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,

bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.

Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,

đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,

bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:

"Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,

mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"

Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,

người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam

là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.

Thiên Chúa đã làm điều phi thường

nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.

Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay

trước sự yếu đuối kiên vững của bà.

Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,

bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.

Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,

vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,

dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,

không đòi hy sinh mạng sống,

nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,

trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.

Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,

đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.

Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.

Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo

gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp

mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin

được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,

và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy

cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)

Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?

Cầu Nguyện

Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,

các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu

trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.

Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết

và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.

Dù mang phận người yếu đuối,

nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,

các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài

biết can trường sống đức tin của bậc cha anh

trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,

biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu

bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên

bằng cuộc sống và cái chết,

được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương

để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

 

4Sống vì đạo – TGM. Giuse Ngô quang Kiệt

Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.

Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.

Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.

Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.

Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.

Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.

Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.

Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?

2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?

3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?

 

5Con đường hạt lúa – TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ga 12, 20-32

Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.

Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.

Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.

Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?

2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.

3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?

 

6Chứng nhân tình yêu -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.

Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.

Tình yêu Thiên Chúa.

Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.

Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.

Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).

Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).

Tình yêu cuộc sống.

Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.

Tình yêu nhân loại.

Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.

Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).

Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.

Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen.

 

7Sống chứng nhân tin mừng -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:

- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.

- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.

- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.

Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.

Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.

Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.

Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.

Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.

Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.

Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.

Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.

Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.

Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.

Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

 

8Làm chứng -- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể Các Thánh Tử Đạo Việt nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm. lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tực năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ là tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.

Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19-6-1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin mừng giữa lòng dân tộc.

Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác dòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ "tử đạo" có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.

Người ta thường nói: "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hay "uống nước nhớ nguồn". Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những giòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quý báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của giòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quý để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?

Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quý vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.

Đàng khác, được hấp thụ tinh thần Nho giáo, các ngài đặt chữ "trung" lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.

Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao...Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỷ, và thắng chính mình.

Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Ki-tô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.

Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. là Ki-tô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.

 

9Chứng nhân anh dũng -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.

Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.

Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:

- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.

- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.

Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc!

Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.

Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.

Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.

Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:

- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.

- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.

- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.

- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.

Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).

Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....

Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt nam vào năm 1960.

II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.

Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.

Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.

Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.

(Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)

Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.

Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố: ”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.

Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán: ”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.

Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên: ”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.

Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).

Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì: ”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).

Truyện: Xin mua được một linh hồn.

Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.

- MỚI - quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.

- Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.

- Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.

- Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.

- Sao? quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy mày muốn bao nhiêu?

- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...

Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.

III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.

1. Theo công đồng Vatican II.

Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).

Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr:

”Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.

Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.

Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.

2. Tư tưởng chung thời nay.

Nếu như các nhà thần học nói: ”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.

Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không?

Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo.

Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:

* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.

* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.

* Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.

Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng: ”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).

Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa: ”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói: ”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).

Truyện: chết theo lệnh vua.

Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.

Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:

- Nhà ngươi muốn gì?

- Ta muốn nhà vua đầu hàng.

- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?

- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.

Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.

Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.

Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.

Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.

Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?

Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.

Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.

Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.

Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: ”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận: ”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.

Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.

Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat:

Cái nhà là nhà của ta,

Ông cố ông cha lập ra

Cháu con ta gìn giữ lấy

Muôn năm với nước non nhà.

Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là: ”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu: ”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)

Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.

Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: ”Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

 

10Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.

Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.

Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.

Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc

Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.

Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.

Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.

Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa

Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?

Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.

Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.

Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta

Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.

“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?

2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?

3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!

 

11Những Đấng Bậc Anh Hùng -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.

Họ là ai?

Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay. Họ là những người “dường như” không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.

Họ là ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?

Không! Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.

Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?

Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.

Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.

Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.

Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng

Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.

Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước khi chia sẻ)

1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn hiểu sao về câu này?

2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?

3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).

 

12Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Lc. 9, 23-26 -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ ,  (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.

I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu

Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.

Khi trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!

Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.

II. Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng

Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm mất được.

Đứng trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.

Giữa những đau đớn của thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.

III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người

Ngày nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích kỷ của mình.

Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.

Vượt qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người cũng trở thành chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam. Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).

2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?

 

13Dũng cảm làm chứng cho Chúa -- Lm. Đan Vinh

1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).

2. CÂU CHUYỆN: Cuộc tử đạo của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc

Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy AN-RÊ Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha AN-RÊ được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.

Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.

Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.

Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.

3. THẢO LUẬN:

1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?

2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay?

4. SUY NIỆM:

1) Số liệu các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).

2) Lý do các ngài bị vua quan bách hại:

Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).

Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.

Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.

3) Sống chứng nhân giữa đời thường:

Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.

Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:

- Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi phố chợ.

- Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông bà;

- Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

14Tử Đạo giữa đời thường - Lc 9, 23-26

(Suy niệm của Dã Quỳ)

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người đề cao chủ nghĩa cá nhân, một thời đại mà người ta cạnh tranh nhau quyền cao chức trọng ở mọi lãnh vực, một xã hội mà quyền lợi cá nhân, hưởng thụ và sở hữu được ưa chuộng. Hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta "Từ bỏ chính mình, liều mất mạng sống..." để theo Chúa, điều này nghe ra thật phi lý và ngược đời! Thế nhưng, sẽ thật có lý và hợp với đời của một Kitô hữu vì đó là điều kiện tiên quyết để bước theo Chúa. Lời Chúa và mẫu gương của chính Chúa đã hy sinh mạng sống cho nhân loại, và của các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ là một bảo đảm minh chứng cho chúng ta.

Đường Trần Gian - Đường Thập Giá.

Cuộc đời được ví như một hành trình. Hành trình này chẳng thẳng ngay và không hề nhẹ nhàng êm ái. Lớn hay nhỏ đang sống trong trần gian, chúng ta đều cảm nhận trần gian đầy đau khổ và nước mắt, chẳng thế mà nhạc sĩ nào đó đã viết "Đường nhân gian đày ải chông gai, ai chưa qua chưa phải là người!" Giàu cũng khổ mà nghèo thì khốn khổ hơn! Tiền bạc, chức vị cũng không làm cho người ta hạnh phúc và cũng không mua được bình an. Đau khổ như là một thập giá gắn liền với đời người dù người đó có là môn đệ Chúa Kitô hay không. Thập giá đến với mỗi người mỗi cách khác nhau. Thập giá ấy có thể là từ trong những bất toàn của bản thân, trong bệnh tật, trong khó khăn của cuộc sống. Thập giá cũng có thể là từ những nghịch cảnh thông thường của cuộc đời...

Với người Kitô hữu, chúng ta sẽ gặp thập giá trong cuộc đời khi sống trung thành với giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Thập giá đến khi ta sống ngay thẳng trong buôn bán, thật thà và công bằng trong kinh doanh hay trong giao tiếp. Người ta có thể cho là ta điên rồ, ngược đời hay ngu xuẩn thậm chí bị loại trừ. Thập giá đến với ta trong những chọn lựa từ bỏ mình để yêu thương đón nhận tha nhân ngay cả khi họ vu oan, ghen ghét, làm hại ta... Và thập giá cũng sẽ được ta đón nhận khi ta biết cố gắng sống theo Lời Chúa dạy, biết sửa mình, ăn năn sám hối về những tính hư, nết xấu và tội lỗi của ta để xứng đáng là con cái Chúa.

Đường Thập Giá - Đường Tử Đạo.

Khi thập giá đến, chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta sẵn sàng đón nhận hay dễ dàng để ôm lấy. Đã là thập giá, thường ta luôn cảm thấy nặng nề, khó vác. Đôi khi ta không dám nghĩ tới và muốn tránh bởi không ai thích đau khổ, thất bại, bị loại trừ, nghịch cảnh, thất vọng chán nản... Và hơn thế nữa, Satan cũng tìm đủ cách lôi chúng ta xa thập giá, vì nó không muốn ta đi vào con đường của Chúa.

Lời Chúa tha thiết mời gọi ta: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Từ bỏ chính mình, không đơn giản chút nào! Từ những cái rất nhỏ trong cuộc sống: người mắng ta một câu, ta muốn đáp lại hai, ba câu. Nhưng từ bỏ mình là bỏ qua, là chấp nhận lời nói không tốt đó và đáp lại bằng lời yêu thương, lời hòa giải. Khó lắm, nó đau ở trong lòng và như nuốt cục phèn vậy, nhưng nếu ta làm được, ta sẽ cảm nhận ngọt ngào trong tâm hồn. Từ bỏ mình trong những chọn lựa theo Tin Mừng, sống yêu thương, tha thứ sẽ như là những cuộc tử đạo âm ỉ từng ngày chứ không chỉ một lần. Trong cuộc sống với những bôn ba cho cơm áo gạo tiền, nhiều khi đặt ta trước những chọn lựa theo công bằng, bác ái đòi ta phải hy sinh mối lợi, mất miếng ăn để chu toàn luật Chúa. Ta sẽ đau lắm và dằn vặt nhưng với ơn Chúa, ta chọn lựa tử đạo khi mất lợi danh và có khi mất cả mạng sống. Tôi nghĩ đến một người đàn ông Công Giáo, đã làm việc thật tốt trong một công ty sản xuất. Thế rồi, vì sống ngay thật, không theo những mánh khóe gian dối với đồng nghiệp nên anh đã lãnh nhận hậu quả là bị hại chết ngay trong chuyến công tác xa, sau bữa ăn cùng nhóm đồng nghiệp ấy. Ta có thể đi vào đường tử đạo khi sống trung thành với Chúa Kitô để bảo vệ sự sống, như một chị y tá nọ sau nhiều năm học tập, chị được chọn vào làm trong một bệnh viện lớn. Thế nhưng, ngay ngày thứ hai đi làm, người ta yêu cầu chị tham gia vào ca phá thai. Chị từ chối, lập tức người ta sa thải chị. Chị mất việc mà chị đã tốn nhiều công sức tiền của để có được. Chị đã vác thập giá cùng với Chúa Kitô! Để chọn lựa vác thập giá hàng ngày, chọn lựa tử đạo suốt đời, ta không thể thực hiện với sức riêng nhưng phải cậy nhờ ơn Thánh và nếu ta tin tưởng cậy dựa vào Chúa, Ngài sẽ luôn giúp ta vì: "Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách" (1Cr 1,4).

Đường Tử Đạo - Đường Tới Vinh Quang.

Ngày nay, trên quê hương chúng ta ít có những cuộc cấm hay bách hại đạo như xưa cha ông ta đã trải qua. Nhưng lại xuất hiện nhiều hơn những dịp thử thách về đức tin tinh vi mà nếu không tỉnh thức, ý thức và có một tâm hồn bén nhạy thì ta sẽ dễ đi vào việc chối đạo, phản đạo và bỏ Chúa qua chính cách sống, lời nói và việc làm của ta. Các Thánh Tử đạo Cha ông chúng ta đã kiên trung thực thi Lời Chúa dạy: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24). Các ngài yêu Chúa hơn yêu mạng sống mình như lời nói và máu đổ ra của Thánh Phaolo Khoan "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa và Chúa Cả Trời đất, con xin dâng mạng sống cho Ngài". Có vị thánh đã từ bỏ chức quyền để giữ vững đức tin và linh hồn như thánh Hồ Đình Hy là quan lớn, thánh Phạm Trọng Tả là chánh tổng nhưng các Ngài chọn Chúa hơn là địa vị ở trần gian. Các ngài chọn gia nghiệp Nước Trời hơn là sản nghiệp trần thế nay còn mai mất "Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời" (Thánh Phêrô Truật). Các ngài không dẫm lên Thập giá Chúa Kitô nhưng anh dũng bước đi trên đường Thập giá vì các ngài xác tín chỉ qua Thập giá mới tới Vinh quang và cuối đường, chính Chúa Kitô đón các ngài vào hưởng vinh quang hạnh phúc với Người trong Nước Trời, như sách Khôn Ngoan nói: "Người đời nghĩ rằng họ bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chan chứa niềm hy vọng được trường sinh bất tử. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời" (Kn 3,4.8)

Trải qua suốt ba thế kỷ bách hại, đã có cả trăm ngàn anh em Kitô hữu chết vì đạo. Gương chứng nhân Đức Tin và lòng hy sinh mạng sống vì Chúa Kit-tô và vì Tin Mừng của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông ta, sẽ là mẫu gương và niềm hãnh diện lôi cuốn chúng ta can trường sống chứng nhân giữa đời thường và dám chọn sống, chết vì đạo. Từ dòng máu anh hùng của cha ông, từ những khổ đau, những đắng cay của các ngài, ta có được hạt giống đức tin hôm nay. Vậy thập giá là một phần quan trọng của đời Kitô hữu và chính Chúa Giê-su đã không khước từ thập giá vì đường thập giá-đường tử đạo mới là đường dẫn tới vinh phúc: "...Người vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người..." (Pl 2,6-11). Lao nhọc, đau khổ, nghịch cảnh, hy sinh, chiến đấu và tử đạo... cần thiết để trở thành một phần của đời người môn đệ Chúa Kitô. Ước gì khi sống giữa đời, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng tin tưởng thưa lên như thánh Phaolô "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy... Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8,35-37). Để rồi chúng ta dám sống vì Chúa, chọn lựa theo Chúa, trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và can trường chết vì Chúa trong những dịp tử đạo giữa đời thường. Vì "Ai liều mất mạng sống vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." (Mc 8,35).

Nguyện xin Thần Khí Chúa ban ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng con biết chọn lựa sống vì Chúa, vì Tin Mừng. Và xin dạy chúng con biết yêu thập giá là dấu chỉ của chiến thắng, của vâng phục, của tình yêu và của con đường dẫn đến ơn cứu độ. Amen.

 

15Sống đức tin kiên cường

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Hôm nay, toàn thể Hội Thánh Việt Nam cử hành thánh lễ kính trọng thể các thánh tử đạo Việt nam đồng thời đây cũng là dịp để tỏ lòng biết ơn các ngài, nhất là hun đúc đức tin và làm cho đức tin chúng ta càng kiên cường để vượt qua muôn ngàn gian khó của cuộc đời như các Thánh Tử Đạo xưa. Qủa thế, thánh Augustinô nói: “Việc tôn kính các Thánh tử đạo là để hun đúc tinh thần tử đạo nơi người tín hữu. Tử đạo là chứng tỏ cho lòng tin, tình yêu trung kiên đối với Thiên Chúa và cho đời sống vĩnh cửu”.

Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, tuy nhiên trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các vị tử đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, cho sự sống vĩnh cửu. Các ngài dám đem cái chết để minh chứng cho đức tin chân thật và duy nhất. Mỗi vị thánh tự đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn. Cho nên, thánh Tertulianô: “Nói máu các thánh tử đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.

Bài đọc một mô tả bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và noi gương về lòng can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn như thế để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.

Các vị tử đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống. Đức tin của các ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con thấy vậy phiền trách móc vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha còn ông trùm Quỳnh vị có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ và đớn đau, nhục nhã ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.

Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường các vị tử đạo sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần”.

Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo trước những thách đố của cuộc sống hôm nay. Thách đố trước hết đối với Đức Tin là kinh tế tiền bạc. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Cho nên, nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ…để có tiền. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Cho nên, chúng ta cũng phạm tội như một người chưa có đức tin. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cá nhân, cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Cho nên, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” ngày nay. Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả mọi người và mọi tạo vật.

Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm đức tin và làm đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng..

Ước gì mỗi người chúng ta qua thánh lễ này biết phát huy đời sống đức tin vững mạnh để tiếp tục ươm trồng và vun tưới cho Đạo Chúa tại Việt Nam ngày càng sáng tươi và rạng ngợi. Xin Chúa giúp đức tin của chúng con mạnh mẽ và can trường để sống làm chứng cho Tin Mừng của Chúa nơi xã hội chúng con đang sống. Amen.

 

16Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn

NOI GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO - SỐNG ĐỨC TIN HÔM NAY

Hôm nay, Giáo Hội Việt Nam kết thúc năm Thánh năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam kỷ niệm 30 năm Các Ngài được tuyên Thánh. Qủa thế, cách đây 30 năm, 19-06-1988, Giáo Hội Công giáo Việt Nam vui mừng hãnh diện với Các Thánh Tử đạo Việt Nam, hãnh diện vì đức tin sáng ngời của các Ngài trước biết bao cuộc bách hại bạo tàn. Gông cùm, đòn roi và án tử đã trở nên con đường để các Ngài cùng Chúa Giêsu tiến lên đồi Canvê. Dòng máu tình yêu của các Ngài đã tưới gội cho hạt mầm đức tin của lớp lớp con cháu được lớn mạnh trên quê hương Việt Nam con rồng cháu tiên. Các Ngài đã hát bài ca tán dương Thiên Chúa bằng chính sự sống của mình, nhờ đó, các Ngài được phúc hiển vinh trong hàng ngũ các Thánh trên Trời.

Nhìn lại lịch sử suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển Thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các Vị Tử Đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết, nhưng giờ phút hy sinh đến, các Ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, minh chứng cho đức tin về sự sống vĩnh cửu, một đức tin chân thật và duy nhất. Các thánh Tử Đạo Việt Nam chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý, yêu thương tha thứ cho kẻ bách hại và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hào hùng ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn như lời thánh Tertulianô xác tín: “Máu các thánh Tử Đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.

Bà mẹ trong bài đọc một đã can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường lắm, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn, để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, họ đã tin rằng: “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống cũng không kém. Đức tin của các Ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các Ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông Quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con trách móc ông vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha, còn ông trùm Quỳnh vì có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ, đớn đau và nhục nhã nhưng ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.

Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường như thế cho nên các Thánh Tử Đạo đã sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các Ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa hôm nay Giêsu nói: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.

Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo Việt Nam trước muôn vàn thử thách để sống đời làm chứng cho Chúa và Tin Mừng. Thách đố trước hết là kinh tế tiền bạc. Vì đồng tiền mà nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác nhưng vẫn làm để có tiền và nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất ĐứcTin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, chúng ta bị cám dỗ và sa ngã phạm tội vì đức tin yếu kém. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt, mua vui và vứt bỏ. Vì vậy, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” này, vì nó đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với mọi người và mọi tạo vật.

Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm Đức tin và làm cho đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các Ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại. Vì vậy, khi chúng ta bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng…

Ước gì qua Thánh lễ này, chúng ta là thế hệ con cháu của Các Thánh tử Đạo, cũng nguyện một lòng cùng với Chúa Giêsu gieo mình vào Đất Việt tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng của Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng đã làm cho trái tim chúng ta không bao giờ mục nát, cánh hoa cuộc đời chúng ta chưa một lần úa tàn, những ánh sao không bao giờ lịm tắt, những người con Chúa sống mãi không thôi. Đó là những tâm tình Á Thánh tiên khởi Anrê Phú Yên nhắn nhủ với hậu thế chúng ta. Vì vậy, dù kết thúc Năm Thánh Tôn Vinh Ngài, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống theo những lời hướng dẫn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Làm việc lành phúc đức; sống tinh thần Tử đạo: Các gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc. Các anh chị em sống đời thánh hiến hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần “thức tỉnh thế giới” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Các linh mục hãy trung thành với lời thề hứa khi chịu chức, tận tụy thi hành bổn phận đã được trao phó trong khiêm tốn và cậy trông, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, “hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15), và hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

17Thiên Hùng Ca Việt Nam

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: "Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa…

Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời." Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá." Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Bà còn khuyên: "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”…

Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày 12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà Anê Lê Thị Thành cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con". ( Lm. Đào Trung Hiệu, OP, Thánh Anê Lê Thị Thành (bà thánh Đê, 1781-1841 )

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19. 6. 1988 tại Rôma, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có thánh Anê Lê Thị Thành. Các vị gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Hôm nay Giáo Hội hoàn vũ chung niềm vui với Giáo Hội Việt Nam, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng phúc cho dân Việt.

Chết đi bản thân

Các Thánh Tử Đạo đã đổ máu đào làm chứng cho Tin Mừng, cũng như trung thành thực hành Lời Chúa đến hơi thở cuối cùng. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Trong gian truân bách hại, Đức Giêsu sẵn sàng đương đầu gánh chịu, các Thánh Tử Đạo cũng noi gương Người, đã không bỏ trốn, mà từ bỏ mình đi theo Chúa, hoàn toàn phó thác, tuân thủ Thánh Ý Chúa: “Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt." Bà Thánh Anê đã tuyên xưng đức tin sáng ngời, xứng đáng trở thành vị Thánh nữ tiên khởi của dân Việt.

Chết đi bản thân cũng có nghĩa là chẳng thiết tha những gì dính líu đến đời sống phàm tục, của cải, tiền bạc, danh phận, chức tước, bổng lộc. “Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết.” Khi mất đi của cải là lúc được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần, chính là Nước Trời. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”

Chết đi cái tôi có nghĩa là hy sinh thân xác, mặc bao đòn vọt, khổ nhục, để hiên ngang làm chứng nhân Tin Mừng. Một lòng chính chuyên phó thác và cậy trông ơn trên, cầu bầu Mẹ Maria cứu giúp. "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn." Bà Thánh Anê còn an ủi lại người chồng xót thương đến thăm.

Chết cho tha nhân

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, tuy không công khai tái diễn thảm họa bách hại đạo Chúa, nhưng khuynh hướng thực dụng và duy vật đang thách đố tín hữu Kitô sống đạo, sống trung thực Tin Mừng. Tiên quyết để theo Đức Giêsu là tuân theo lời dạy bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Vậy xả kỷ, vị tha cũng chính là chết cho tha nhân, dấn thân phục vụ, không quản khó khăn, trở ngại, chấp nhận những hiểm họa, nhục hình có thể xảy đến.

"Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”… Dù đang chịu xiềng xích, tù đầy, roi vọt, Thánh nữ Anê vẫn không hề nao núng hãi sợ, mà còn ân cần, lo lắng khuyên nhủ con cái sống đạo chu đáo, sốt sắng và sẵn sàng tuyên xưng đức tin. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”

Khiêm nhường, nhân ái, hy sinh, phục vụ, làm chứng nhân, chính là chết cho tha nhân được nảy chồi đâm lộc, sinh hoa kết trái. Như hạt lúa chịu mục nát, thối đi, chết đi mới có thể nảy mầm, đâm chồi, sinh hoa, kết hạt, bội thu gấp chục, gấp trăm. Những giọt máu đào của chư thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã trổ sinh cánh đồng Giáo Hội xanh tươi, bát ngát, được mùa như ngày hôm nay. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.”

Chết cho Chúa

“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Phúc thứ tám là phần thưởng cho những ai chịu chết vì danh Chúa, vì Tin Mừng. Người tín hữu Kitô nào dám can đảm lội ngược dòng đời để sống Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, cũng gian nan khốn khổ không kém phúc tử vì đạo. Không im lặng, đồng lõa, hùa theo, toa rập theo bầy đàn làm điều ôi ác, đê hèn, xấu xa, gian tham, háo danh, vụ lợi, không chấp nhận bất công, phân biệt, kỳ thị, không chiều theo khuynh hướng hưởng lạc, rượu chè, cờ bạc, dâm ô, khước từ văn minh sự chết, mà công khai sống theo Tin Mừng, thấm nhuần Bát Phúc, trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu, chính là chết cho Chúa.

Hôm nay, chứng nhân Tin Mừng không phải chịu đổ máu đào như xưa, nhưng vẫn quyết tâm tiếp tục chiến đấu mãnh liệt và liên tục giữa sự dữ của thế gian, ma quỷ và xác thịt, giữa một thế giới duy vật, hưởng thụ, thực dụng, sa đọa, vị kỷ, chối bỏ Thiên Chúa. Một cuộc tử vì đạo âm thầm, lặng lẽ, thách thức, dai dẳng trong suốt cuộc đời Kitô hữu, với niềm hy vọng sâu sắc, cháy bỏng, bền vững và bất tận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Còn lời hứa nào trọng đại và cao quý hơn?

“Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và Đại Diện của Ngài: Đức Thánh Cha, các giám mục, kế vị các thánh Tông Đồ. Sống và chết vì Hội Thánh như Chúa Kitô. Đứng nghĩ chết vì Hội Thánh mới hy sinh. Sống vì Hội Thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.” (Đường Hy Vọng, số 987)

Lạy Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những vị tiền nhân, đã anh dũng hy sinh cả cuộc đời, trở nên những chứng nhân Tin Mừng cho toàn thể dân Chúa. Các ngài đã nêu tấm gương thật sáng ngời, bỏ tất cả mọi sự, kể cả sinh mạng, để trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin Chúa ban ơn, giúp sức chúng con quyết tâm luôn noi gương các ngài làm chứng nhân Tin Mừng.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, an ủi, khích lệ chúng con luôn làm chứng nhân cho Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Amen.

 

18Tri ân và mừng kính Các Thánh Tổ Tiên -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng”.

Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.

Trước hết chúng ta cần xác nhận:

Hỏi: Các ngài là ai vậy?

Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.

Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?

Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.

Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?

Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ) … thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam mà chúng ta đang kính nhớ.

Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.

Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.

Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý. Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.

Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.

Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.

Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?

Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi: chết vì Đạo mà! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc…thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có.

Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?

Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:

- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.

- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.

- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.

- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.

Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.

Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.

Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.

 

19Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Ga 12,20-32

Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ở mọi nơi và trong mọi lúc, người môn đệ của Chúa vẫn phải chịu chung một số phận với Thầy mình, nghĩa là bị bắt bớ và bị cấm cách, bị ghét bỏ và bị giết chết. Thời nào cũng có những vị tử đạo.

Hôm nay là ngày giỗ tổ, ngày Giáo Hội Việt Nam chúng ta long trọng mừng kính các Thánh Tử Đạo, những vị anh hùng đã bỏ mình vì Chúa, đã đổ máu đào để làm chứng cho đức tin, cũng như để xây dựng Giáo Hội.

Lịch sử cho biết: Ngày 19.3.1615, hai vị thừa sai đầu tiên đã lén lút chèo một chiếc thuyền vào cửa Bạng ngoài Thanh Hóa, để bắt đầu công việc giảng đạo. Hai đấng thấy trên một mỏm đá ở giữa giòng sông hình cây thánh giá, được vẽ bằng vôi. Các đấng ấy hiểu ra rằng: Đây là dấu Chúa cho hay sẽ có bắt bớ và cấm cách. Mà thực vậy, ba trăm năm rao giảng Tin Mừng cũng là ba trăm năm máu chảy đầu rơi. Sau Giáo Hội Rôma, thì có lẽ Giáo Hội Việt Nam đã dâng cho Thiên Chúa nhiều vị thánh tử đạo hơn cả. Trên một trăm ngàn người đã chết vì đức tin, trong đó có 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Vậy các ngài là những ai?

Có khi các ngài là những người giáo dân không tên tuổi, mà lịch sử chỉ ghi lại bằng những cử chỉ anh hùng. Có vị bị bắt, rồi bị lính lấy dùi nung đỏ khắc lên hai gò má bốn chữ “Giatô tả đạo”, rồi tống vào ngục. Trong ngục, ông đã tự thẹn cho rằng mình thiếu can đảm, không dám tỏ thái độ. Giatô đâu phải là tả đạo, mà là chánh đạo. Vì thế, ngay đêm hôm đó, ông đã xin bạn tù lấy dao rạch và bỏ đi hai chữ tả đạo, chỉ để lại hai chữ Giatô, thánh danh Đức Kitô mà thôi. Các chị em phụ nữ cũ không kém phần anh hùng. Có một thiếu phụ bị bắt và bị kết án voi giày. Gần tới ngày ra pháp trường, bà xin người nhà gửi vào cho bà một bộ áo cưới hợp thời trang nhất vì bà nghĩ rằng ngày bà chết là ngày bà được gặp gỡ Đức Kitô.

Phải. Các ngài là những người thuộc đủ mọi thành phần, mọi tuổi tác, mọi nghề nghiệp. Thế nhưng, các ngài đã làm gì? Các ngài là cha ông của chúng ta, đã sống trên đất nước mình, đã yêu mến quê hương mình, đã chia sẻ số phận với đồng bào của mình. Và cách riêng, các ngài đã chia sẻ niềm tin với chúng ta. Các ngài đã hiên ngang sống và làm chứng cho niềm tin, thà chết chứ chẳng thà chối bỏ Chúa: Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự ở trên trời.

Một ngày kia, các ngài đã phải chọn lựa: giữa mất và còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sống và chết. Cuối cùng, các ngài đã chọn Đức Kitô và đã lấy máu đào làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Tử đạo chính là chọn Chúa và làm chứng cho Chúa. Tử đạo chính là sống đạo một cách tích cực và làm tông đồ một cách nhiệt thành. Tử đạo chính là trở nên men trong bột, muối trong đồ ăn và ánh sáng trong đêm tối.

Trong ngày giỗ tổ hôm nay, chúng ta hãy ôn cố tri tân, ôn lại chuyện cũ của các ngài, đề tìm lấy một cách sống mới, phụ hợp với tinh thần Phúc âm, để rồi chúng ta cũng sẽ trở nên là những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.

 

20Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?

Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.

Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.

Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.

 

21Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26 -- Lm. Ignatiô Trần Ngà

Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.

Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."

Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!

Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.

* * *

Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."

Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.

Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời"

Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.

Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!

Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."

* * *

Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như "hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."

 

22Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo -- Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi nào ta bỏ đạo?

Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.

Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.

Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.

Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo

Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.

Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35).

Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 24, 34. 41)

Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Nói cụ thể:

Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.

Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.

Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.

Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh... là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.

Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.

Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.

 

23Làm chứng cho Tình yêu -- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB

Một lãnh tụ vô thần đã tuyên bố: “Chúng ta hãy triệt phá Giáo hội, nhưng đừng tạo ra những vị tử đạo”. Khi tuyên bố như thế, một cách mặc nhiên ông ta công nhận điều mà Thánh giáo phụ Tertulianô đã nói là đúng: “Máu các Thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu”. Hôm nay, chúng ta mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Máu các Ngài đã đổ ra năm xưa, dệt nên những trang sử oai hùng giữa lòng dân tộc. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ cái chết của các bậc tiền bối cha ông và mở lòng đón nhận sứ điệp về ơn gọi tử đạo mà các Ngài chuyển giao cho con cháu là chúng ta ngày hôm nay.

Lược sử Giáo hội Việt Nam qua dòng thời gian

Hạt giống đức tin đã được gieo vào mảnh đất quê hương Việt Nam từ hơn 500 năm trước. Trong suốt chiều dài lịch sử, Giáo hội Việt Nam đã trải qua hơn 100 năm sống trong bách hại. Sắc dụ cấm đạo đầu tiên được ban hành năm 1625, kéo dài đến hết thời Văn Thân năm 1886. Hàng vạn con người đã ngã xuống do sự thù ghét. Thế gian ghét đạo, ghét Đức Giêsu và ghét luôn những môn đệ của Ngài. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu đã cảnh báo từ 2000 năm trước (Mt 5, 11; 10, 22). Trong số các anh hùng Tử đạo, đã có 118 vị được ghi tên trong sổ bộ các thánh, gồm 117 Hiển thánh và một Chân phước. Có 97 vị là người Việt Nam, 11 vị Tây Ban Nha, và 10 vị người Pháp. Họ thuộc đủ các giai tầng xã hội, gồm 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân. Trong số giáo dân, có cả những vị làm quan trong triều đình, có vị làm nghề thu thuế, làm binh lính, y sĩ hoặc chỉ là nông dân quèn. Dù là người Việt Nam hay ngoại quốc, các Thánh Tử đạo đều nói lên một chứng từ duy nhất, đó là các Ngài làm chứng về Đức Giêsu chịu hiến tế, như Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “ Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”. Cái chết của các Ngài là bài giảng sống động nhất và thâm thúy nhất. Họ rao giảng không phải trên lý thuyết, nhưng bằng chứng tá cụ thể, những chứng tá sống động và rất sâu xa. Có 6 loại án được thực hiện để hành quyết các vị tử đạo: Bá đao (cắt thân thể thành trăm mảnh) có 1 vị; Lăng trì (chặt chân tay, mổ bụng và vất xuống sông) có 4 vị ; Thiêu sinh (đốt sống) có 6 vị; Xử giảo (xiết cổ bằng dây) có 2 vị ; Xử trảm (chém đầu) có 75 vị và chết rũ tù có 9 vị. Vị Tử đạo lớn tuổi nhất là linh mục Vũ Bá Loan 84 tuổi và trẻ nhất là chủng sinh Tôma Thiện 18 tuổi. Trong thời Trịnh Nguyễn từ năm 1745 đến năm 1774 có 4 vị. Thời vua Cảnh Thịnh (1788 - 1801 ) có 2 vị. Dưới thời Minh mạng (1820 – 1840) có 58 vị tử đạo. Trong thời Thiệu Trị từ năm 1841 đến 1847 có 3 vị và thời Tự Đức từ năm 1847 đến 1883 có 50 vị. Đó là phác lược tổng quát các mốc điểm thời gian và bối cảnh dẫn đến cái chết của các Thánh Tử đạo. Nhìn lại một cách thoáng chung lịch sử của Giáo hội Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa vì gia sản đức tin mà cha ông đã để lại. Gia sản đó được đan dệt bằng máu và nước mắt, đúng như lời quả quyết của thánh Tertulianô: “ Máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu.”(Sanguis Martyrorum semens Christianorum est)

Ý nghĩa của việc tử đạo

Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng bỗng có tiếng khóc ai oán vang lên nghe thật não nuột. Đứa bé sợ, ôm chầm lấy mẹ và hỏi: “ Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời thằng bé thế nào. Bà ngồi bật dậy mở Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn sau: “ Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng. Đây là hai chiều kích đặc thù nơi cái chết của Đức Giêsu, vị tử đạo đầu tiên, và cũng được lập lại nơi cái chết của các Thánh tử đạo tại Việt nam. Các Ngài đã chết để trở về nhà Cha và hoàn tất cuộc hành trình yêu thương của mình nơi trần thế. Họ ý thức Lời Chúa dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Nếu được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, nào có ích gì?” (Mc 8, 35-36)”. Thánh Phaolô Đạm nói trước tòa án Nam Định: “ Nếu tôi có hai linh hồn, tôi sẽ bán một cái cho ma quỷ để cho các ông vui lòng, nhưng tiếc quá tôi chỉ có một linh hồn, nên tôi không thể bỏ mất”.

Nhưng trên hết, hành vi Tử đạo luôn hàm ngậm ý nghĩa của việc làm chứng. Hạn từ Marturion theo nguyên ngữ Hi Lạp cũng mang chở ý nghĩa này. Các Ngài chết để làm chứng, nhưng không phải làm chứng cho một chế độ, một chủ nghĩa, mà là làm chứng cho một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người đã can đảm đón nhận cái chết khủng khiếp giống một tên cướp, để khai mở cho chúng ta chân trời ơn cứu độ. Các Thánh Tử đạo đã dùng máu của mình để làm chứng cho Đấng mà các Ngài tin theo.

Sống ơn gọi tử đạo ngày hôm nay.

Trong đại hội tu sĩ trẻ thế giới tổ chức tại Rôma đầu tháng Chín năm 2015. Ban tổ chức đã dành một tiếng đồng hồ để các tu sĩ đặt câu hỏi và Đức Thánh Cha trực tiếp trả lời. Có một anh em tu sĩ dòng DonBosco đến từ Syria đứng lên phát biểu và hỏi Ngài vài điều. Đức Thánh Cha sau khi trả lời đã hỏi ngược lại: “Con từ đâu đến đây?”. Vị tu sĩ trẻ nói là Ngài đến từ Syria. Đức Thánh Cha mở to đôi mắt nhìn vị linh mục và nói với cử tọa: “Chúng con hãy cầu nguyện cho các vị tử đạo hiện nay tại Iraq và Syria”. Cả hội trường xúc động vì tình hình chiến sự đang xảy ra rất khốc liệt tại Trung Đông, khiến bao nhiêu Kitô hữu bị giết, nhiều gia đình ly tán, các nhà thờ bị đốt phá, cả trăm ngàn người dân vô tội phải trốn tránh hoặc đi tị nạn.

Như vậy, ngày hôm nay vẫn còn các vị tử đạo, những con người bị thù ghét vì lý tưởng và niềm tin của mình. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng hơn, sống mầu nhiệm tử đạo không phải là chuyện viễn tưởng xa vời. Đó chính là bản chất ơn gọi gắn liền với căn tính Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu đã nói “Ai muốn theo tôi phải bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo tôi” (Mc 8,34).

Hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay đã bãi bỏ án tử hình, và cũng tôn trọng tự do tôn giáo, ít nhất là trên lý thuyết. Việc đàn áp tôn giáo với những màn tra tấn, tống ngục hay giết chết đang dần bị con người ngày hôm nay đào thải, vì nó đi ngược với khái niệm về nhân quyền mà xã hội luôn đề cao. Tuy nhiên lời mời gọi của Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy để sống ơn gọi tử đạo vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại, vì nó là thuộc tính nơi cuộc sống của những học trò Đức Giêsu. Ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết. Cái chết trên Thập giá theo gương Đức Giêsu là đích điểm mà tất cả mọi người chúng ta phải vươn tới. Văn hào Goethe đã viết: “ Làm một việc hy sinh to lớn trong khoảnh khắc thì dễ, chỉ cần chút can đảm nhất thời, nhưng thể hiện những hy sinh nho nhỏ và liên tục trong suốt cuộc đời thì khó hơn nhiều”. Đó là cái chết tiệm tiến, từ từ trong cuộc sống đức tin để sao chép lại chính cái chết của Đức Giêsu. Mô thức ơn gọi tử đạo của tất cả chúng ta hôm nay là như thế. Chúng ta phải đi sâu vào cái chết không đổ máu, không xích xiềng hay tù ngục qua cuộc sống hằng ngày và một cuộc sống như vậy chính là để làm chứng cho tình yêu.

Kết luận

Để kết luận, xin trích mượn tư tưởng của thánh Charles de Faucauld. Ngài nói: “Ở đời này chúng ta chỉ có thể ôm lấy Chúa Giêsu bằng cách ôm trọn Thập giá của Ngài. Ta không thể yêu mến Thập giá mà lại không có Chúa Giêsu bị đóng đinh nằm ở trên. Đồng thời chúng ta cũng không thể ôm lấy Chúa Giêsu mà lại vắng bóng Thập giá”. Hoa hồng là biểu tượng của tình yêu. Cánh hoa hồng càng rực rỡ càng có nhiều gai nhọn ẩn sâu bên dưới. Cũng vậy tình yêu đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Con đường đau khổ dẫn đến Thập giá, chính là con đường của ơn gọi tử đạo, con đường của tình yêu. Cũng như thánh Têrêsa hài đồng Giêsu đã viết: “Sống bằng tình yêu không phải là định cư mãi với Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor giữa những vinh quang sáng chói, nhưng là còn phải trèo lên đỉnh Calvê để ôm nhận Thập giá như một kho tàng”. Sống ơn gọi tử đạo là như thế.

 

24Những Anh Hùng Đất Việt

Anh chị em thân mến.

Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.

Ngày hôm nay, giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.

Họ là ai mà họ can đảm thế?

Họ là ai mà họ anh hùng thế?

Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?

Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: "Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất", "ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta".

Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.

Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.

Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.

Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.

 

25Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình

Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”

Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.

Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)

Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.

Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)

Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của chúng ta.

Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).

Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.

Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)

Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.

Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.

Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.

Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.

Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.

Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy vọng.

Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương” (Tv 63,4)

Sống yêu thương có phải là chọn lựa của tôi?

 

26Sống chứng nhân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.

Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.

Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.

Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.

Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".

Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.

Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.

Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.

Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.

 

27Tử Đạo thời công nghệ 4.0 -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng nói: “Một Giáo hội không có các vị tử đạo là một Giáo hội không có Chúa Giêsu”. Đức Thánh Cha cũng mời gọi cầu nguyện “cho các vị tử đạo của chúng ta đang đau khổ rất nhiều,” “cho các Giáo hội không được tự do để diễn tả chính mình”: “họ chính là niềm hy vọng của chúng ta.” Ngài nhắc lại lời của giáo phụ Tertullien xưa đã viết: “Máu của các vị tử đạo, là hạt giống của các Kitô hữu.” Thế nên, Đức thánh Cha cám ơn Chúa đã hiện diện với sức mạnh của Chúa Thánh Thần nơi các anh chị em đang chịu bách hại bằng nhiều cách...

Quả thực, ngày nay vẫn còn đó những cuộc bách hại bằng khủng bố đánh bom nhà thờ, và sát hại các linh mục tu sĩ, vẫn còn đó những cuộc cấm đoán biểu lộ niềm tin như giáo hội hầm trú Trung Quốc, hay tại các nước đang phát triển mà Đức Thánh Cha đãnói: “Tôi không thể quên chứng tá của Linh mục và nữ tu ở nhà thờ chánh tòa Tirana: năm này qua năm khác ở trong tù, bị lao động khổ sai, hạ nhục,”, đối với họ nhân quyền không tồn tại.

Ngày hôm nay còn có một hình thức bách hại mới mà Giáo hội Việt Nam cũng đang phải đối diện. Đó chính là sự bách hại bởi truyền thông xã hội. Chúng ta cũng thấy nhiều linh mục, Giám mục đã trở thành “các vị tử đạo” bởi truyền thông xã hội khi các ngài mạnh dạn lên tiếng nói cho sự thật và bảo vệ công lý. Có những linh mục giúp cho dân mình khởi kiện sự tàn phá môi trường của Formosa liền bị quy chụp bởi nhiều tội danh chẳng liên quan đến việc đòi lại công lý. Có những giám mục chỉ nói lên tiếng nói của sự thật liền bị truyền thông cắt xén, bóp méo và tìm cách loại trừ. Có những Giám mục bảo vệ công lý thì bị quy chụp  là xem thường pháp luật, bị các thế lực thù địch xúi giục, bao che tội phạm… mà trong nhiều hệ thống báo chí, đài phát thanh và truyền hình đã từng đăng tải...

Cónhững linh mục còn bị những truyền thông giấu mặt mà người ta hay nói là đội quân DLV luôn chửi bẩn, nói bậy khi các linh mục này dám lên tiếng nói kêu gọi tôn trọng sự sống và phẩm giá con người. Đội quân DLV đa số là thành phần thất học, chỉ cần tiền nên không biết lý lẽ, phải trái... và sẵn sàng lao vào người ngay chính rủa xả và dừơng như họ luôn coi các lãnh đạo tôn giáo  như kẻ thù và là mục tiêu của thách thức chế diễu, lăng mạ...

Thời nào cũng có những cuộc bách hại, nhưng Giáo hội lại càng cần những chứng nhân trong những cuộc bách hại như thế. Vì càng bị bách hại người tín hữu càng được tôi luyện mình nên tốt hơn, và là dịp thuận lợi để làm chứng cho niềm tin của mình.

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà người ta sống ảo nhiều hơn sống thực. Thế giới ảo phải chăng chính  là môi trường cần thiết để chứng tá tin mừng được ghi dấu nơi ấy?  Thế giới ảo phải chăng là lời mời gọi cuộc cách mạng tin mừng hãy dùng chính thế giới ảo ấy lan truyền tin mừng của Chúa đến cho mọi người? Đây cũng là một thế giới công bằng và cộng đồng mạng là những người thực thi công lý. Bởi vì rất nhiều những án oan, nhưng bất công đã được cộng đồng mạng đồng tâm chia sẻ và đòi lại công bằng đã thành công.

Tại sao người Công giáo chúng ta còn ngần ngại tuyên xưng niềm tin bằng việc loan tải những sứ điệp đầy yêu thương của Chúa đến cho mọi người? Tại sao chúng ta không tận dụng truyền thông để đẩy lùi sự dữ ra khỏi xã hội loài người? Phải chăng còn rất ít người dám tuyên xưng niềm tin? Phải chăng chúng ta đã cố tình bịt mắt, bịt tai, bịt miệng để tìm an toàn cho bản thân?

Cha ông chúng ta dám đổ máu đào để bảo vệ đức tin và làm chứng cho tin mừng trong điều kiện đầy khó khăn và gian khổ. Máu của các ngài đã đổ ra để bảo vệ và truyền lại đức tin cho con cháu là chúng ta. Chắc chắn các thánh TĐVN cũng mong muốn con cháu mình phải tiếp tục bảo vệ đức tin trong thế giới hiện đại. Nhất là trong truyền thông giáo hội đang bị xuyên tạc và khủng bố, nên rất cần người tín hữu công khai bảo vệ niềm tin của mình. Như cuối năm 2017 người ta dựng nên một Đạo thánh Đức Chúa Trời với một phong trào rầm rộ cả nước Việt Nam, rõ ràng đây là một âm mưu nhằm xuyên tạc tín lý giáo hội Công giáo, và khủng bố niềm tin nơi giáo dân. Rồi người ta lăng mạ các linh mục tu sĩ trong hình dạng ma quái ghê sợ trong ngày halloween, người ta cho biểu diễn game show với hình nữ tu ăn mặc hở hang... Thế giới truyền thông cũng tiềm ẩn rất nhiều sự dữ nên cần người tín hữu phải mạnh dạn lên tiếng bênh vực công lý và đẩy lùi sự dữ cho dầu có chịu nhiều lăng nhục hay bách hại...

Chắc chắn khi chúng ta dám làm chứng cho sự thật, dầu ở môi trường nào cũng là đối kháng lại với thế gian nên sẽ gặp những chống đối, quy chụp, bách hại,... Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình vì “phần thưởng chúng ta rất lớn trên quê trời, vì Chúa Giê-su đã từng nói: phàm ai tuyên “xưng  Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)

Nguyện xin các thánh TĐVN giúp sức để chúng ta can đảm tiếp nối các tiền nhân dám làm chứng cho tin mừng, cho công lý và sự thật giữa thế giới văn mình nhưng thiếu tình yêu hôm nay. Amen.

nguon:http://gplongxuyen.org/tin-tuc/-chua-nhat-14112021-chua-nhat-33-thuong-nien-nam-b-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-bon-mang-giao-hoi-viet-nam-lam-chung-cho-chua-giesu.html